
1
SÁNG KIẾN KINH NGHỆM
Đề tài:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TIN HỌC Ở KHỐI 3
TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN VĂN TRỖI THÀNH PHỐ VỊ THANH
I. Đặt vấn đề:
Ngày nay, công nghệ thông tin đang ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong
đời sống kinh tế - xã hội, có thể nói không có một hoạt động nào trong xã hội hiện đại
tách rời công nghệ thông tin. Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Bộ Giáo
dục & Đào tạo đã đưa môn Tin học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh
được tiếp xúc với môn Tin học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ
sở ban đầu để học những phần nâng cao trong các cấp tiếp theo. Vì vậy bộ môn Tin học
đã và đang dần dần được đưa vào giảng dạy chính thức trong các nhà trường.
* Phạm vi áp dụng
Học sinh Tiểu học nói chung và học sinh Khối 3 nói riêng là giai đoạn chuyển
tiếp từ nhà trẻ sang tuổi thiếu niên. Ở lứa tuổi này tâm sinh lý chưa có sự thay đổi đáng
kể, những chú ý có chủ định chưa hình thành rõ nét, khả năng tập trung chú ý chưa sâu
mà trong một tiết học lý thuyết Tin học lại rất khô khan, sự cung cấp kiến thức thường
diễn ra một chiều, bởi vì: Đây là một môn học mới, khó học, có nhiều khái niệm trừu
tượng, nhiều thuật ngữ chuyên nghành, cần tính logic,…còn xa lạ với nhiều người mà
nhất là học sinh Tiểu học.
Phương pháp giảng dạy môn Tin học như thế nào thì hợp lí? Làm sao để các em
phát huy tính học tập của mình một cách hiệu quả nhất?...Những câu hỏi này và hướng
giải quyết như thế nào luôn hiện ra trong tôi để các em có khả năng học tốt ở các bậc
cao hơn. Nói thì dễ nhưng việc thực hiện là cả một quá trình. Theo tôi, mỗi giáo viên
đều có một cách giải quyết của riêng mình. Với tôi là một giáo viên dạy Tin học Tiểu
học và qua thời gian 6 năm trải nghiêm tôi đã rút ra được “Một số biện pháp giúp học
sinh học tốt môn Tin học ở Khối 3”.
II. Các biện pháp thực hiện:

2
1. Công tác tư tưởng cho học sinh:
Đây là công việc đầu tiên mà người giáo viên Tin học phải làm cho các em học
sinh thấy được ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng của việc học môn Tin học. Để từ đó các
em xác định được hướng phấn đấu và nỗ lực hết mình trong học tập. Bên cạnh đó còn
giúp cho các bậc phụ huynh nhìn nhận những vấn đề đó, từ đó họ mới tạo điều kiện
thuận lợi nhất về thời gian cũng như đầu tư về vật chất.
Bước tiếp theo giáo viên phải nêu được các ứng dụng Tin học như giúp các em có
thể tham gia các cuộc thi giải Toán qua mạng (Volympic), Anh văn qua mạng (IOE),
Tin Học Trẻ và các cuộc thi khác do Phòng Giáo Dục và Đạo tạo tổ chức có liên quan
đến Tin học. Để các em có thể hiểu rõ và từ đó các em có hướng phấn đấu để đạt được
mơ ước của mình và đó cũng là kết quả giáo dục cần phải đạt.
* Học sinh
Đây là môn học tự chọn nên một số học sinh chưa học nghiêm túc và phụ huynh
chưa quan tâm. Môn Tin học mới đưa vào giảng dạy ở trường Nguyễn Văn Trỗi từ năm
2015-2016 là năm thứ hai nên sự hiểu biết về Tin học của học sinh còn rất ít. Học sinh
mới tiếp cận môn tin học lần đầu, các em còn bỡ ngỡ và lạ lẫm, nên tiếp thu của các em
còn chậm.
Đa số học sinh của trường là học sinh nằm trong những hộ nghèo, gia đình khó
khăn nên không có máy tính ở nhà để luyện tập chỉ được tiếp xúc với máy tính ở trường
là chủ yếu. Nên các thao tác của học sinh chưa được thành thạo, sự tìm tòi và khám phá
máy tính với các em còn hạn chế, làm ảnh hưởng đến việc học tập của học sinh mang
tính chậm chạp.
Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát khả năng sử dụng máy tính của học
sinh lớp 3 thông qua giờ dạy lý thuyết, dạy thực hành và kiểm tra bài cũ.

3
Bảng khảo sát khả năng sử dụng máy tính
Mức độ thao tác Số HS Tỷ lệ
Thao tác nhanh, đúng 18/90 20.00%
Thao tác đúng 27/90 30.00%
Thao tác chậm 33/90 36.66%
Chưa biết thao tác 12/90 13.33%
Đa số các em thao tác còn chậm nên chất lượng học tập của các em thấp.
Bảng khảo sát chất lượng
Năm học
2016-2017
90 HS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
20 22.22
30 33.33
33 36.66
7 7.777
2. Đánh giá và kiểm tra kỹ năng:
a/ Kiểm tra bài cũ: Giáo viên không nên bỏ qua việc kiểm tra bài cũ vì đây chính
là quá trình nhằm đánh giá kết quả học tập ngắn của học sinh nhằm thu hút sự chú ý của
học sinh đối với bài học, tạo liên kết giữa bài học trước. Không nên chỉ yêu cầu học sinh
nhắc lại kiến thức đã học mà cần yêu cầu học sinh chỉ ra mối liên hệ giữa các kiến thức
và vận dụng nó vào các tình huống mới. Nếu hiểu được kiến thức thì nhận xét khen hay
chê đều mang tính động viên, khích lệ.
Ví dụ 1: Sau khi học bài “Chữ hoa”, giáo viên không nên hỏi suông mà nên hỏi
bằng phương pháp trắc nghiệm đưa ra nhiều đáp án để các em lựa chọn thì như vậy các
em sẽ khắc sâu được kiến thức hơn.
Ví dụ 2: Sau khi học bài : Dấu hỏi, dấu ngã”, giáo viên không nên hỏi để gõ được
dấu hỏi thì em gõ chữ r hay số 3…. Mà nên cho các em gõ từ nào có dấu hỏi từ đó các

4
em sẽ vận dụng các kiến thức đã được học để gõ lại từ đó ( dũng cảm, quả vải,…). Sau
đó các em sẽ lên trình bày trên bảng hay máy tính của giáo viên.
b/ Kiểm tra định kì: Bài kiểm tra được thiết kế tương ứng với đối tượng học sinh
Yếu - Trung bình - Khá - Giỏi theo mức độ tăng dần. Bài kiểm tra được chuẩn bị theo
các mức sau:
* Mức 1: Giáo viên đề nghị học sinh thực hành tại chỗ dưới sự giám sát trực tiếp
của giáo viên để kiểm tra kỹ năng và sự hiểu bài của học sinh.
* Mức 2: Học sinh làm các bài tập trong sách giáo khoa và giáo viên kiểm tra kết
quả ngay trên máy của học sinh.
* Mức 3: Giáo viên ra các đề bài để học sinh làm và thực hành ngay trên máy tính.
Có thể tiến hành theo từng cá nhân học sinh hoặc theo nhóm. Giáo viên tiến hành kiểm
tra tại chỗ trên máy tính.
* Mức 4: Giáo viên ra một đề bài khó hơn, học sinh được làm và thực hiện cá nhân
hoặc theo nhóm. Giáo viên không quan tâm đến quá trình và cách tiến hành, chỉ quan
tâm đến kết quả công việc của học sinh. Bài kiểm tra có thể làm tại lớp hoặc ở nhà, có
thể kéo dài một vài ngày hoặc tuần lễ.
3. Phương pháp giảng dạy lý thuyết:
Học sinh sẽ không làm những việc mà các em nghe không hiểu hay hiểu mập mờ.
Nên khi dạy đến nội dung nào thì phải thực hành ngay cho các em hiểu và hình dung
được việc giáo viên nói và làm, cần phải có nội dung cụ thể rõ ràng để học sinh nghiêm
túc hơn trong giờ học và khi áp dụng vào thực hành học sinh cũng biết mình nên sử
dụng nội dung lý thuyết nào cho phù hợp.
Ví dụ 1: “Học toán với phần mềm cùng học toán 3”. Phần mềm này sẽ giúp các em
học, làm bài tập và ôn luyện các phép toán lớp 3, ngoài ra còn giúp các em luyện các
thao tác sử dụng chuột và bàn phím.
Ví dụ 2: Khi đã học xong các kiểu gõ Vni và Telex thì các em hiểu được rằng nếu
không thuộc được quy tắc gõ thì các em sẽ không gõ bài có dấu được, nhờ vậy mà các
em thấy được tầm quan trọng của việc học lý thuyết.

5
4
. Cách tổ chức thực hành:
Trong quá trình dạy tiết thực hành trên máy tính rất quan trọng và quyết định việc
truyền đạt kiến thức của giáo viên và việc hiểu bài của học sinh đến mức độ nào và có
thực hành được hay không? Việc đó đòi hỏi cao ở khả năng trình bày lý thuyết xuông
mà đòi hỏi học sinh phải có kỷ năng thực hành giỏi, biết sử dụng máy tính thành thạo.
Trong giờ thực hành giáo viên nên tạo sự tranh đua giữa các nhóm có thể bằng hình
thức trò chơi càng tốt, sau đó các nhóm nhận xét của nhau, giáo viên nhận xét để tạo
được sự hứng thú sáng tạo trong tiết thực hành.
Ví dụ 1: Dạy bài “ Ôn tập vẽ”, khi cho học sinh thực hành soạn thảo một đoạn văn
bản, giáo viên có thể đưa ra hình thức trò chơi “Ai vẽ đẹp hơn”, khi hết thời gian quy
định các em sẽ đi quan sát bài làm của bạn và nêu nhận xét của mình cho giáo viên là bạn
nào gõ nhanh, gõ đúng (dưới sự gợi ý của giáo viên) lớp sẽ sôi nổi bạn này vẽ đẹp, vẽ
nhanh...Trong trường hợp như vậy các em có điều kiện thảo luận, trao đổi bạn vẽ như
vậy chưa đẹp, chưa phù hợp,... Giáo viên kết luận lại. Từ đó kiến thức cũng sẽ khắc sâu
hơn.
Ví dụ 2: Dạy bài “Luyện gõ”, khi cho học sinh thực hành soạn thảo một đoạn văn
bản, giáo viên có thể đưa ra hình thức trò chơi “Ai nhanh hơn”, khi hết thời gian quy định
các em sẽ đi quan sát bài làm của bạn và nêu nhận xét của mình cho giáo viên là bạn nào
gõ nhanh, gõ đúng (dưới sự gợi ý của giáo viên) lớp sẽ sôi nổi bạn này gõ nhanh, gõ
đúng,...Trong trường hợp như vậy các em có điều kiện thảo luận, trao đổi bạn gõ như vậy
chưa nhanh, chưa đúng,... Giáo viên kết luận lại. Từ đó kiến thức cũng sẽ khắc sâu hơn.
5. Dạy học lý thuyết phải gắn liền với thực hành:
Lý thuyết gắn liền với thực hành có thể nói là mới đối với các môn học khác,
nhưng với môn Tin học nói chung và Tin học Tiểu học nói riêng thì phương pháp này là
một phương pháp dạy học chủ đạo không thể thiếu khi dạy bất kì một nội dung nào.
Không bao giờ bắt học sinh học thuộc lòng các định nghĩa, khái niệm,...của SGK. Bởi
vì: Kiến thức Tin học có nhiều khái nệm rất trừu tượng, thuật ngữ chuyên ngành. Thực
hành sẽ giúp học sinh hiểu sâu bài hơn và tránh sự nhàm chán đồng thời thực hành là