PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỉ XXI, do tốc độ phát triển của xã hội hết sức nhanh chóng, với những biến đổi liên tục và khôn lường; để chuẩn bị cho thế hệ trẻ đối mặt và đứng vững trước những thách thức của đời sống, vai trò của giáo dục ngày càng được quan tâm và đầu tư hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh đó, từ những nước đang phát triển đến những nước phát triển đều nhận thức được vai trò và vị trí hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi mới giáo dục để có thể đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu quả hơn những nhu cầu của sự phát triển đất nước.
Ở Việt Nam, hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI ngày 4.11.2013 đã thông qua chủ trương “ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong giáo dục, quy trình đào tạo được xem như là một hệ thống bao gồm các yếu tố: mục tiêu, chương trình đào tạo, nội dung, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học... Trong đó việc đổi mới phương pháp dạy học được coi là vấn đề then chốt của đổi mới giáo dục.
Bộ môn Lịch sử là một trong những môn học có ưu thế trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử là một yêu cầu cấp thiết góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, mục tiêu môn học. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong những năm gần đây vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh đã và đang được nhiều giáo viên quan tâm song còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được mục tiêu và yêu cầu của xã hội. Nhiều giáo viên vẫn còn dạy theo lối truyền thống, sử dụng tư liệu lịch sử chỉ mang tính minh họa, không phát huy được tính tích cực của học sinh, do đó các em không hứng thú học tập môn Lịch sử và dẫn đến coi nhẹ bộ môn. Để khắc phục tình trạng trên một yêu cầu đặt ra đối với mỗi giáo viên Lịch sử là phải không ngừng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài “Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) ,lớp 10, Ban cơ bản”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích: Sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học phần Lịch sử phong kiến Việt Nam ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) và đề xuất một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thưc hiện mục đích trên, đề tài tập trung vào
1
giải quyết một số nhiệm vụ sau:
+ Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn việc sử dụng tư liệu lịch sử theo
hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
+ Tìm hiểu chương trình lịch sử phong kiến Việt Nam ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) từ đó xác định nội dung tư liệu lịch sử cần sử dụng và đề xuất một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy học phần lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) .
+ Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng các biện pháp từ đó rút ra kết luận khoa học về việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến
nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản.
- Phạm vi nghiên cứu: Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản.
4. Đóng góp của đề tài.
- Khẳng định được vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tư liệu lịch sử theo
hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
- Phản ánh được thực trạng sử dụng tư liệu lịch sử trong trường phổ thông
2
- Đề xuất một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1. Cơ sở lý luận
1.1. Quan niệm
1.1.1. Quan niệm về tư liệu lịch sử
Lịch sử là những gì đã xẩy ra trong quá trình phát triển của xã hội loài người, đồng thời nó cũng tồn tại khách quan với chúng ta. Do xẩy ra trong quá khứ cho nên con người không thể quan sát trực tiếp các sự kiện, quá trình lịch sử đó; do vậy việc nhận thức lịch sử phải dựa vào nhiều tư liệu lịch sử khác nhau.
Tư liệu lịch sử có tầm quan trọng đặc biệt với khoa học lịch sử nói chung cũng như việc học lịch sử nói riêng. Khoa học lich sử tồn tại được trên cơ sở các sự kiện lịch sử, mà các sự kiện lịch sử lại là những tế bào cấu thành lịch sử mà các tế bào đó là từ các tư liệu lịch sử. Tư liệu lịch sử tồn tại cho khoa học lịch sử và ngược lại khoa học lịch sử không thể thiếu nó. Tư liệu lịch sử như một cầu nối nhà nghiên cứu với quá khứ nói cách khác nó như một thứ nguyên vật liệu để chế tạo ra sản phẩm khác.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về tư liệu lịch sử:
Theo phương diện xã hội, tư liệu lịch sử là một phương diện xã hội để bảo tồn, lưu giữ, truyền bá. Theo phương diện triết học Lapađanhiepxki định nghĩa tư liệu lịch sử là khái niệm phản ánh đặc tính của hiện vật có thể được thu nhận tri thức của hiện vật khác. Nhà sử học người Nga Chi-khơ-mi-rốp cho rằng tư liệu lịch sử là tất cả những gì còn sót lại của cuộc sống đã qua. Rê-bans cho rằng tư liệu lich sử là tổng hợp thành quả từ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng phương diện xã hội. Trong Bách khoa toàn thư tư liệu lịch sử là những gì phản ánh trực tiếp quá khứ. Xét về mặt lý luận có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm tư liệu lịch sử. Song ta có thể hiểu tư liệu lịch sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như sản phẩm của quan hệ xã hội nhất định, mang trong mình nó những dấu vết của quan hệ ấy phản ánh trực tiếp và trừu tượng hóa một mặt hoạt động nào đó của con người.
3
Như vậy, chúng ta có thể hiểu tư liệu lịch sử là các sự kiện, tài liệu mà mỗi giáo viên cần phải sưu tầm để tìm hiểu quá trình lịch sử đang học. Tư liệu càng sinh đông, phong phú bao nhiêu thì sự kiện càng cụ thể, càng hay bấy nhiêu. Trong dạy học lịch sử, điều kiện cơ bản nhất để tái tạo hình ảnh quá khứ là tư liệu lịch sử. Nếu không có nguồn tư liệu phong phú, không cung cấp được nguồn tư liệu cụ thể chân thực thì dù có vận dụng phương pháp giảng dạy nào đi chăng nữa cũng không thể đạt hiệu quả mong muốn. Nói như vậy để hiểu rằng, các nguồn tư liệu lịch sử có vai trò cực kì quan trọng, như nhà sử học Ba Lan J.iopolski đã viết: Tư liệu luôn là tài sản quý giá nhất của nhà sử học, không có
nó ta không thể là nhà sử học. Và nếu xem một công trình nghiên cứu lịch sử là một món ăn thì các nguồn tư liệu chính là những sản phẩm, những gia vị để chế biến nên món ăn đó. Không có nguồn tư liệu lịch sử thì lịch sử không thể được viết ra “ không có cái gì có thể thay thế tư liệu, không có chúng thì không có lịch sử”
Khoa học lịch sử có nguồn sử liệu hết sức phong phú và đa dạng. Tùy theo nội dung phản ánh và tính chất của sử liệu người ta thường chia tư liệu thành nhiều nhóm khác nhau nhưng tựu chung lại có ba nhóm tư liệu lịch sử chính: Tư liệu thành văn, tư liệu hiện vật và tư liệu trực quan. Trong mỗi nhóm này lại bao gồm nhiều loại tư liệu mang những đặc điểm, nội dung phản ánh và xuất xứ khác nhau. Cách phân loại này chỉ mang tính tương đối.
Nhóm tư liệu thành văn: Tư liệu thành văn hay còn gọi là tư liệu chữ viết vì mọi nội dung lịch sử của nó đều được biểu thị bằng chữ viết. Nguồn tư liệu này chiếm khối lượng lớn và đặc biệt quan trọng, đôi khi chiếm địa vị chủ yếu trong các nguồn sử liệu, có thể sử dụng trong giảng dạy bất cứ bài học lịch sử nào. Hơn nữa tư liệu thành văn có nội dung phong phú, gọn nhẹ, dễ sưu tầm và sử dụng. Với khối lượng lớn và hết sức đa dạng như vậy nên người ta đã chia tư liệu thành văn thành những nhóm hoặc loại khác nhau: có loại mang tính chất văn học như sử biên niên, hồi ký..., có loại mang tính chất khế ước, chế định như các loại văn tự, luật pháp... Song mọi sự phân loại chỉ có tính chất tương đối vì nguồn sử liệu này được viết ra không hoàn toàn theo những khuôn khổ nhất định cho một giai đoạn lịch sử. Dù được phân loại theo nhiều cách khác nhau, nhìn một cách tổng thể tư liệu thành văn có ưu điểm nổi bật là phản ánh tương đối toàn diện và chi tiết các sự kiện, nhất là về đời sống chính trị, xã hội. Cũng do ưu điểm đó, tư liệu thành văn bao giờ cũng được sử dụng phổ biến và tập trung hơn.
Nhóm tư liệu hiện vật: là những sản phẩm trong quá trình hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người, tồn tại dưới dạng các hiện vật như các di tích lịch sử, di chỉ khảo cổ học. Tư liệu hiện vật cực kì phong phú và đa dạng. Đây chính là những tư liệu “biết nói” có giá trị rất lớn, không chỉ đối với các nhà nghiên cứu mà cả trong giảng dạy lịch sử, nó như một minh chứng nói lên sự thật lịch sử mà không ai chối bỏ được.
Hiện nay chúng ta còn giữ được một số lượng di tích lịch sử khá lớn ở hầu khắp các địa phương trong cả nước. Thông qua các di tích này chúng ta có thể tiến hành các hoạt động ngoại khóa, tham quan trải nghiệm cho học sinh.
4
Bên cạnh các di tích lịch sử, tư liệu hiện vật còn bao gồm các di vật khảo cổ học hiện đang được lưu giữ, trưng bày tại các bảo tàng lịch sử, bảo tàng dân tộc học. Đây là những bằng chứng xác thực, trực quan sinh động rất hấp dẫn đối với học sinh, giúp các em khắc sâu kiến thức.
Tư liệu trực quan: Bao gồm nhiều loại khác nhau như tranh ảnh, bản đồ, sa bàn, mô hình, phim ảnh, băng ghi âm...Tư liệu trực quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng “ hiện đại hóa” lịch sử của học sinh.
1.1.2. Quan niệm, đặc điểm, yêu cầu về năng lực và dạy học phát triển
năng lực môn Lịch sử ở trường phổ thông.
1.1.2.1. Quan niệm về năng lực và dạy học năng lực.
Theo từ điển Tiếng Việt, năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự
nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó.
Chương trình giáo dục phổ thông của New Zealand đã định nghĩa năng lực: “ Năng lực là một khả năng hành động hiệu quả hoặc là sự phản ứng thích đáng trong các tình huống phức tạp nào đó”
Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục cũng đã cố gắng định nghĩa khái niệm năng lực. F.E. Weinert cho rằng: “ Năng lực được thể hiện như một hệ thống khả năng, sự thành thạo hoặc những kĩ năng thiết yếu, có thể giúp con người đủ điều kiện vươn tới một mục đích cụ thể”; còn J. Coolahan thì viết rằng: năng lực được xem như là “những khả năng cơ bản dựa trên cơ sở tri thức, kinh nghiệm, các giá trị và thiên hướng của một con người được phát triển thông qua thực hành giáo dục”...
Có thể thấy dù cách phát biểu có khác nhau, nhưng các cách hiểu trên đều khẳng định: nói đến năng lực là phải nói đến khả năng thực hiện, là phải biết làm chứ không chỉ biết và hiểu. Tất nhiên, hành động (làm) hay thực hiện ở đây phải gắn với ý thức và thái độ; phải có kiến thức và kỹ năng, chứ không phải làm một cách máy móc, mù quáng, đúng như chương trình giáo dục phổ thông của Indonesia đã xác định: “ Năng lực là những kiến thức, kỹ năng và các giá trị được phản ánh trong thói quen suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân. Thói quen tư duy và hành động kiên trì, liên tục có thể giúp một người trở nên có năng lực, với ý nghĩa làm một việc gì đó trên cơ sở có kiến thức, kỹ năng và các giá trị cơ bản”
Phân loại năng lực là một vấn đề rất phức tạp. Kết quả phụ thuộc vào quan điểm và tiêu chí phân loại. Nhìn vào chương trình thiết kế theo năng lực của các nước có thể thấy hai loại chính. Đó là năng lực chung và năng lực cụ thể, chuyên biệt.
Năng lực chung là năng lực cơ bản thiết yếu của con người có thể sống và làm việc bình thường trong xã hội. Năng lực này được hình thành và phát triển do nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học.
Năng lực cụ thể, chuyên biệt là năng lực riêng được hình thành và phát
5
triển do một lĩnh vực hoặc môn học nào đó.
Tiếp thu quan niệm về năng lực của các nước phát triển, chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Việt Nam ( 7/2017) đã xác định: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. Có hai loại năng lực lớn: Năng lực cốt lõi và năng lực đặc biệt.
- Năng lực cốt lõi: là năng lực cơ bản, thiết yếu mà bất kỳ ai cũng cần
phải có để sống, học tập và làm việc hiệu quả.
- Năng lực đặc biệt: là những năng khiếu về trí tuệ, văn nghệ, thể thao, kỹ
năng sống...nhờ tố chất sẵn có ở mỗi người.
Cũng theo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, năng lực cốt lõi
gồm năng lực chung và năng lực chuyên môn.
- Năng lực chung là năng lực được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển như: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
- Năng lực chuyên môn là năng lực được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định như: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất.
Có thể nói, dạy học theo hướng nội dung lấy khối lượng kiến thức, kĩ năng làm mục tiêu hướng tới; do đó càng cung cấp nhiều nội dung, học sinh biết càng nhiều càng tốt. Cách dạy học này không quan tâm nhiều đến việc vận dụng kiến thức đã biết và hiểu vào thực hành, liên hệ và ứng dụng vào các tình huống của đời sống. Hệ quả học sinh có thể biết rất nhiều nhưng làm thì không được bao nhiêu; kiến thức rất uyên bác nhưng thực hành rất lúng túng, vụng về.
Dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên của dạy học theo nội dung. Vì thế, mục tiêu cuối cùng của dạy học phát triển năng lực không phải là hệ thống kiến thức, là khối lượng nội dung, là biết thật nhiều mà là năng lực cần có để sống tốt hơn, làm việc hiệu quả hơn, đáp ứng được những yêu cầu của xã hội đang thay đổi từng ngày. Như thế nội dung kiến thức ở đây là phương diện để đạt được mục đích cuối cùng là năng lực. Tư tưởng này chi phối cách lựa chọn nội dung dạy học và phương pháp dạy học. Mỗi khi dạy một vấn đề, một kiến thức nào đó, người giáo viên cần phải xác định rõ dạy cái gì, để làm gì, giúp ích gì cho người học.
6
Tuy nhiên, chú ý mục tiêu phát triển năng lực không có nghĩa là xem nhẹ kiến thức. Không có kiến thức thì không thể có năng lực. Kiến thức vẫn là cốt lõi để tạo ra năng lực. Năng lực giống như một khối bê tông trong đó tổng hợp
nhiều chất liệu: sắt thép, xi măng, cát, sỏi, đá, nước và các chất phụ gia khác. Trong cái khối bê tông ấy sắt thép làm rường cột. Sắt thép chính là kiến thức.
Tóm lại, dạy học phát triển năng lực vẫn coi trọng nội dung kiến thức tuy nhiên chỉ mình nội dung kiến thức chưa đủ; cần thay đổi cách dạy và cách học theo hướng học sinh chủ động tham gia kiến tạo nội dung kiến thức, vận dụng tri thức vào cuộc sống và hình thành phương pháp tự học để có thể học suốt đời.
1.1.2.2. Đặc điểm và yêu cầu dạy học phát triển năng lực môn Lịch sử
ở trường phổ thông.
Năng lực môn Lịch sử là một thành phần của năng lực tìm hiểu xã hội trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. Đối với học sinh cấp trung học phổ thông, yêu cầu tìm hiểu về năng lực xã hội bao gồm những nội dung sau đây:
- Một là, hiểu và vận dụng được những cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội: Vận dụng được các nguyên tắc, phương pháp, kỹ thuật cơ bản thu thập và xử lý thông tin; Biết trình bày và phân tích các nhân vật, sự kiện, quá trình xã hội từ những góc độ, chiều cạnh khác nhau; Nắm được cách trình bày các ý kiến, lập luận, tranh luận về các vấn đề xã hội.
- Hai là, nắm được các tri thức cơ bản về đối tượng của các khoa học xã hội: Hiểu được một số khái niệm cơ bản liên quan đến đối tượng của khoa học xã hội như: phân hóa xã hội, khác biệt xã hội và xung đột xã hội, chiến tranh, cách mạng, tiến bộ xã hội...; Hiểu được những tri thức cơ bản về một số đối tượng của khoa học xã hội như quá trình tiến hóa của lịch sử nhân loại, lịch sử các nền văn minh, giá trị đạo đức truyền thống, bản sắc văn hóa và giao lưu văn hóa, quá trình phát triển nhân cách, ...
- Ba là, nắm được những tri thức cơ bản về xã hội loài người, hiểu được những quy luật chung của quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam trong mối liên hệ với khu vực và thế giới; hiểu được các xu hướng vận động cơ bản của nhân loại trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật, quốc phòng và an ninh...
- Bốn là, vận dụng những tri thức về xã hội và văn hóa vào cuộc sống: Biết tự nghiên cứu về một vấn đề của xã hội; Biết tham gia tranh luận về một hoặc một số vấn đề đang đặt ra trong đời sống xã hội đương đại, nhất là các vấn đề có liên quan đến thế hệ thanh niên hiện nay; Có thái độ tích cực với những chính sách của Nhà nước và biết cách tuyên truyền, giải thích cho gia đình, bạn bè, cộng đồng hiểu và tham gia ủng hộ; Có niềm tin vào tính đúng đắn của các chuẩn mực đạo đức và những giá trị xã hội tốt đẹp, có trách nhiệm đối với bản thân và xã hội.
7
Trên cơ sở những yêu cầu về tìm hiểu xã hội, môn Lịch sử ở trường phổ thông giúp học sinh phát triển và hoàn thiện những năng lực chuyên môn Lịch
sử, bao gồm: Năng lực tìm tòi và khám phá Lịch sử; Năng lực nhận thức và tư duy Lịch sử; Năng lực vận dụng kiến thức Lịch sử vào thực tiễn giúp học sinh có khả năng tiếp cận và xử lý thông tin từ những nguồn khác nhau, có khả năng xâu chuỗi các sự kiện lịch sử có liên quan, đưa ra nhận xét cá nhân về các sự kiện lịch sử, xây dựng năng lực phản biện và sáng tạo, từ đó có khả năng vận dụng những kinh nghiệm lịch sử vào thực tiễn, dùng tri thức lịch sử để giải thích những vấn đề hiện tại. Trên nền tảng đó, học sinh được truyền cảm hứng để yêu thích môn Lịch sử, có định hướng để lựa chọn nghề nghiệp, đồng thời trân trọng truyền thống lịch sử, di sản lịch sử.
Năng lực tìm tòi khám phá lịch sử : Thể hiện qua việc nhận diện và sử dụng tư liệu lịch sử, phân biệt được các loại hình tư liệu lịch sử ( văn bản chữ viết, hiện vật lịch sử, tranh ảnh, biểu đồ, bản đồ...), hiểu được nội dung, khai thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình học tập. Tái hiện và trình bày lịch sử như mô tả, trình bày (nói hoặc viết) diễn trình của các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp, xác định được các sự kiện lịch sử trong không gian và thời gian cụ thể.
Năng lực nhận thức và tư duy lịch sử : Thể hiện qua việc giải thích được nguồn gốc, sự vận động của các sự kiện lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; chỉ ra được quá trình phát triển của lịch sử theo lịch đại và đồng đại; so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa các sự kiện lịch sử, lý giải được mối quan hệ nhân quả trong tiến trình lịch sử. Đưa ra những ý kiến nhận xét, đánh giá của cá nhân về các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử trên cơ sở nhận thức và tư duy lịch sử; hiểu được sự tiếp nối và thay đổi của lịch sử; biết suy nghĩ theo những chiều hướng khác nhau khi xem xét, đánh giá, hay đi tìm câu trả lời về một sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử.
Năng lực vận dụng kiến thức lịch sử vào thực tiễn: Thể hiện qua khả năng kết nối quá khứ với hiện tại, vận dụng kiến thức lịch sử để lý giải những vấn đề của thực tiễn cuộc sống. Trên nền tảng đó, học sinh có khả năng tự tìm hiểu những vấn đề lịch sử, phát triển năng lực sáng tạo, có khả năng tiếp cận và xử lý thông tin từ những nguồn khác nhau, có ý thức và năng lực tự học lịch sử suốt đời.
1.1.3. Quan niệm về sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển
năng lực học sinh
8
Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh không có nghĩa là để cho học sinh tự làm việc với các tư liệu lịch sử trong giờ học bộ môn, càng không phải giáo viên đặt nhiều câu hỏi đối với các tư liệu lịch sử mà mình đưa ra cho các em, cũng không phải càng sử dụng được nhiều tư liệu lịch sử trong một giờ học lịch sử là đã phát huy được tính tích cực của các em. Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh nghĩa là trong các hoạt động học tập, giáo viên luôn điều khiển, hướng dẫn các em chủ động làm
việc với các tư liệu lịch sử để tự mình tạo được các biểu tượng lịch sử cụ thể, trên cơ sở đó hình thành các khái niệm và rút ra các quy luật, bài học lịch sử.
Khi sử dụng các tư liệu lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, các em luôn tỏ ra thích thú, chú ý học tập, hăng hái tham gia phát biểu ý kiến, ghi chép bài. Chủ động tìm thêm các tư liệu khác ngoài tư liệu mà giáo viên cung cấp, luôn hứng thú học tập, hoàn thành tốt những nhiệm vụ mà thầy cô giao cho. Ham mê nghiên cứu và vận dụng những kiến thức đã học vào học tập và lao động.
Khi sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh, các em sẽ độc lập, chủ động làm việc với các tư liệu, giải quyết các vấn đề dưới sự hướng dẫn, điều khiển của giáo viên.
1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát
triển năng lực học sinh.
Tư liệu lịch sử là phương tiện cần thiết đối với việc dạy và học lịch sử ở trường phổ thông. Mỗi loại loại tư liệu có một vị trí cụ thể trong việc sử dụng và có vai trò nhất định đối với hiệu quả bài học.
Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh có ý nghĩa
to lớn về mặt kiến thức, kĩ năng và thái độ.
Về mặt kiến thức: Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, tư liệu lịch sử là nguồn cung cấp kiến thức quan trọng cho học sinh. Việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh có ý nghĩa to lớn về mặt bồi dưỡng kiến thức cho học sinh. Tư liệu lịch sử là một phương tiện quan trọng để cụ thể hóa kiến thức lịch sử đang học, nhằm tạo cho học sinh có biểu tượng rõ ràng, cụ thể, có hình ảnh, tăng thêm tính chất sinh động, gợi cảm của bài giảng và gây hứng thú cho việc học tập của các em.
Trong dạy học lịch sử, giáo viên hướng dẫn, tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh thông qua hệ thống các tư liệu lịch sử khiến các em tích cực hoạt động, phát huy trí sáng tạo, lựa chọn tốt các kiến thức từ các tư liệu lịch sử và tạo biểu tượng lịch sử. Khi đã tạo được những biểu tượng lịch sử quá khứ chân thực, cụ thể, giúp học sinh tránh được hiện tượng “hiện đại hóa” lịch sử.
9
Ví dụ, khi dạy về “Tình hình Nông nghiệp nước ta ở các thế kỷ XVI- XVIII”, giáo viên sử dụng các tư liệu thành văn sau: “Nhiều người nuớc ngoài có mặt thời đó đã rất ngợi ca sự trù phú của đất đai. Giáo sĩ Marini trong tập ký sự về Đường ngoài đã để hẳn một chương để mô tả "sự màu mỡ của Vương quốc" này ("Vương quốc xứ Đàng ngoài"). Marini viết: "Đất đai màu mỡ và không lúc nào nghỉ sản xuất. Nhân dân rất hiểu giá trị của ruộng đất nên không bỏ hoang và những người nội trợ giỏi, sau khi thu hoạch mùa màng xong, lập tức lại cày bừa ngay và gieo hạt. Và như vậy mỗi năm họ thường thu được 2, 3 vụ. Ở những nơi nào không trồng lúa được thì họ trồng cây ăn quả và thu hoạch
lớn. Cây cối tươi tốt đến nỗi lúc nào cũng chỉ thấy một màu xanh tựa như một khu rừng với một mùa xuân vĩnh viễn".
Về giống lúa, theo ghi chép của Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII: Vùng châu thổ sông Hồng có 8 giống lúa chiêm, 27 giống lúa mùa, 29 giống lúa nếp. Nông nghiệp Đàng Trong có 26 giống lúa nếp, 23 giống lúa tẻ. "Tháng tư hàng năm lúa chín đầy đồng, gặt hái không kịp, mỗi mẫu thu hoạch từ 90 đến 120 gánh lúa." Theo giáo sĩ Bo-ri: "Đất đai màu mỡ và sinh lợi....đến nỗi hàng năm họ gặt lúa 3 lần, thu hoạch được một lượng thóc phong phú đến mức không ai cần lao động thêm để kiếm sống....quanh năm họ có nhiều hoa quả, những thứ lạ như dưa bở, dưa chuột, dưa hấu, mít, sầu riêng, dừa, trầu cau, bắp cải, thuốc lá, mía....đồng ruộng của họ đầy những gà vịt nhà và gà rừng."
Trên cơ sở những tư liệu trên giúp học sinh hiểu được sự phát triển trù
phú của Nông nghiệp với nhiều loại giống cây trồng phong phú.
Việc sử dụng tư liệu lịch sử sẽ giúp học sinh ít tốn công sức mà thu nhận có hiệu quả kiến thức lịch sử; những đoạn trích ngắn gọn, súc tích giúp học sinh xích lại gần hơn với hiện thực quá khứ.
Bên cạnh đó việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh góp phần nâng cao trình độ nhận thức của học sinh. Lịch sử phản ánh những sự kiện, hiện tượng đã diễn ra trong quá khứ, khi học sinh được dựng lại bức tranh trong quá khứ cũng là lúc các em tự trau dồi cho mình những kiến thức của nhân loại. Ví dụ, khi học về “Những thành tựu văn hóa nước ta thời phong kiến”, giáo viên hướng dẫn học sinh sưu tầm và viết báo cáo về sự hiểu biết các công trình kiến trúc thời đó. Thông qua đó, giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét về nghệ thuật kiến trúc nước ta thời phong kiến. Khi các em tự sưu tầm và tìm hiểu về các công trình nghệ thuật kiến trúc dưới sự định hướng của giáo viên thì sự hiểu biết về văn hóa của các em được nâng lên đáng kể.
Về thái độ: Việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh không chỉ giúp học sinh có biểu tượng chính xác, sinh động về sự kiện, hiện tượng lịch sử mà còn khơi dậy cho các em những cảm xúc lịch sử, là cơ sở để giáo dục đạo đức cho học sinh. Ví dụ khi dạy về “Các cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên thời Trần ở thế kỉ XIII” giáo viên trích dẫn lời “Hịch tướng sỹ” của Trần Hưng Đạo và những câu trả lời của Trần Hưng Đạo đối với vua Trần trong kế sách đánh giặc. Từ đó, giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra được nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên và giải thích vì sao nhân dân lại đoàn kết với triều đình để chống giặc. Qua đó khơi dậy lòng yêu nước, khâm phục và biết ơn đối với các anh hùng dân tộc từ đó các em có ý thức bảo vệ nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc.
10
Sử dụng tư liệu theo hướng phát triển năng lực học sinh đòi hỏi học sinh phải tự làm việc nhiều với các nguồn tư liệu, điều này góp phần rèn luyện cho
các em tinh thần chuyên cần, hăng say và sáng tạo trong lao động và học tập, chủ động trong công việc.
Về phát triển: Sử dụng tư liệu theo hướng phát triển năng lực học sinh có tác dụng to lớn trong việc phát triển toàn diện học sinh đặc biệt là tư duy. Để hiểu các sự kiện hiện tượng lịch sử một cách cụ thể, sinh động, học sinh phải chủ động quan sát, tri giác, phát huy trí tưởng tượng, phán đoán, so sánh, đối chiếu những sự kiện, hiện tượng lịch sử nhằm hiểu bản chất của vấn đề. Khi học sinh tích cực độc lập hoạt động tư duy nhận thức, làm việc với các tư liệu lịch sử sẽ giúp các em phát triển ngôn ngữ, trí nhớ và tư duy của mình. Ví dụ, khi dạy chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX” giáo viên hướng dẫn học sinh tìm các tư liệu lịch sử nói tình hình tôn giáo nước ta giai đoạn này hoặc giáo viên cung cấp cho các em tư liệu lịch sử về tôn giáo nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX rồi hướng dẫn học sinh tự làm việc với các tư liệu thông qua các câu hỏi gợi mở của giáo viên.
- Vì sao Phật giáo trở thành “Quốc giáo” thời Lí, Trần?
- Nho giáo du nhập vào nước ta khi nào, vị trí của nó qua các thời kì ? Vì
sao từ thời Lê sơ Nho giáo giữ vị trí độc tôn và Phật giáo bị hạn chế?
- Nhà Nguyễn có chính sách gì trước sự du nhập Thiên chúa giáo ? Vì
sao?
Để trả lời các câu hỏi trên, học sinh phải đọc các tư liệu mà giáo viên cung cấp, phải nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và đánh giá, rút ra kết luận. Thông qua việc hoàn thành nhiệm vụ học tập đó sẽ giúp cho học sinh phát triển được khả năng tri giác.
Mặt khác việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh góp phần phát triển các thành phần nhân cách của các em. Khi sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sẽ tạo ra trong các em những cảm xúc lịch sử như sự yêu ghét, khâm phục hay căm thù, kích thích các hứng thú học tập, ý chí vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ. Bằng sự tích cực tư duy, chủ động hoạt động học tập, sáng tạo qua sử dụng tư liệu lịch sử và kiến thức trong sách giáo khoa, các em sẽ trở nên năng động hơn, tự tin, linh hoạt trước tập thể và ngày càng làm chủ được kiến thức của mình. Chẳng hạn khi dạy về “Sự thành lập và chính sách của nhà Mạc” giáo viên nêu rõ những ý kiến đánh giá khác nhau về Mạc Đăng Dung. Có ý kiến cho rằng: “Mạc Đăng Dung là kẻ “ nghịch thần”, cướp ngôi nhà Lê, đáng bị lên án. Tuy nhiên lại có nhận định cho rằng sự xuất hiện của Mạc Đăng Dung trên chính trường là một tất yếu, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của xã hội lúc bấy giờ. Ông là một danh nhân, có công lao lớn đối với lịch sử dân tộc”. Quan điểm của em trước những ý kiến trên.
11
Để trả lời được câu hỏi trên đòi hỏi học sinh phải căn cứ vào hoàn cảnh thành lập, chính sách của nhà Mạc kết hợp với tư liệu lịch sử để phân tích, rút ra nhận xét. Với các hoạt động như vậy sẽ giúp học sinh phát triển tư duy phản
biện, khả năng diễn giải, lập luận từ đó có thái độ nhận thức đúng đắn về nhà Mạc nói chung và Mạc Đăng Dung nói riêng đối với lịch sử dân tộc.
Như vậy, việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh có tác dụng thiết thực trong việc bồi dưỡng nhận thức, giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức đúng đắn và phát triển toàn diện học sinh.
2. Cơ sở thực tiễn
Hiện nay, các trường trung học phổ thông đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực cho học sinh. Nhiều phương pháp dạy học tích cực đã được giáo viên áp dụng vào dạy học, đặc biệt trong môn lịch sử. Tuy nhiên, tình trạng sử dụng tư liệu lịch sử vào dạy học bộ môn vẫn chưa phổ biến.
Trong quá trình dạy học ở trường THPT, tôi đã tiến hành điều tra thực trạng của việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học bộ môn tại các trường THPT trên địa bàn.
2.1. Về phía giáo viên
Thông qua phiếu điều tra, chúng tôi đã điều tra 6 giáo viên môn lịch sử và
thu được kết quả như sau: Tiêu chí
Đánh giá về hứng thú học tập của học sinh hiện nay
Mức độ Rất thích Thích Bình thường Không quan tâm % 10 30 50 10
Là nguồn kiến thức, giúp cụ thể hóa
70 những kiến thức có trong sách giáo khoa Vai trò của tư liệu tham
khảo trong dạy học lịch 10
sử 10
Có tính chất minh họa cho nội dung sự kiện có trong sách giáo khoa Sử dụng cũng được, không sử dụng cũng được Chỉ gây hứng thú nhất thời cho học sinh 10
Nắm vững kiến thức
Giáo dục tư tưởng tình cảm Phát triển khả năng phân tích, đánh giá 10 10 10
Tất cả các ý trên 70 Tác dụng của việc sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học
12
Phương pháp sử dụng tư liệu Gợi mở để học sinh tự tìm hiểu Tự nêu nội dung các tài liệu lịch sử Sử dụng có tính chất minh họa, hình 50 30 20
65
8
Sử dụng tư liệu cho những hoạt động
thức Nghiên cứu kiến thức mới Củng cố, ôn tập, kiểm tra kiến thức cho học sinh Tự học ở nhà của học sinh Tổ chức ngoại khóa 7 20
2.1.1. Nhận thức của giáo viên về việc sử dụng tư liệu lịch sử trong
dạy học bộ môn.
Có 70% giáo viên đều nhận thức được tầm quan trọng của tư liệu lịch sử đối với hoạt động học của học sinh. Họ hiểu rằng, tư liệu lịch sử thực sự là một nguồn cung cấp kiến thức và khai thác các nguồn tư liệu lịch sử là một yêu cầu không thể thiếu được đối với mỗi bài giảng nhằm đạt mục tiêu về kiến thức, kĩ năng, thái độ.
Tuy nhiên vẫn còn 30% giáo viên cho rằng, sử dụng tư liệu lịch sử trong bài học lịch sử chỉ có tính chất nhắc lại nội dung sự kiện hoặc chỉ gây hứng thú nhất thời cho học sinh do đó ít quan tâm đến việc sưu tầm, tìm kiếm tư liệu phục vụ cho bài giảng mà nặng về cung cấp kiến thức sách giáo khoa khiến cho giờ học nặng nề, hiệu quả bài học không cao.
2.1.2. Phương pháp sử dụng tư liệu lịch sử của giáo viên trong dạy
học bộ môn.
13
Để gây hứng thú học tập lịch sử cho học sinh cần sử dụng kết hợp đa dạng, phong phú các phương pháp dạy học trong đó sử dụng các tư liệu lịch sử có tác dụng lớn để gây hứng thú học tập cho học sinh. Hơn nữa tư liệu là một nguồn tri thức lịch sử làm phong phú thêm kiến thức cho học sinh, tăng cường khả năng làm việc của các em. Trong dạy học lịch sử nếu chỉ dựa trên những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa thì bài giảng nhiều khi trở nên nhàm chán, vì có những kiến thức học sinh đã nắm được thông qua các lớp dưới hay một số kênh thông tin khác. Cho nên giáo viên cần sử dụng có hệ thống nguồn tư liệu được chọn lọc và phù hợp, đảm bảo tính khoa học và vừa sức, không khiên cưỡng. Hiệu quả của việc sử dụng tư liệu tăng lên gấp bội nếu giáo viên biết dựa vào tư liệu lịch sử để nêu ra các tình huống có vấn đề bằng cách xây dựng một hệ thống câu hỏi có tính chất gợi mở và gợi ý cho học sinh trả lời. Tuy nhiên những câu hỏi của giáo viên đưa ra phải phù hợp với trình độ và phát huy được trí lực của học sinh, tránh lan man, xa trọng tâm bài giảng. Sử dụng tư liệu lịch sử thuần phục trong mỗi bài học thông qua cách nêu câu hỏi có tính chất hướng dẫn hoạt động nhận thức của học sinh và gợi ý, khích lệ học sinh chủ động trả lời, giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản và lôgic của bài học một cách chắc chắn. Đúng như Brune đã khẳng định: “Hứng thú chỉ có thể có được từ tài liệu học tập bằng cách hình thành việc học tập như một hành vi khám phá. Kiến thức
thu nhận bằng con đường tự khám phá là kiến thức vững chắc nhất, đáng tin cậy nhất”.
Do có những nhận thức không đồng nhất về vai trò, ý nghĩa của tư liệu lịch sử đối với việc học tập của học sinh nên phương pháp sử dụng tư liệu lịch sử của giáo viên trong các giờ học cũng khác nhau. Có 50% giáo viên sử dụng tư liệu gợi mở để học sinh tự tìm hiểu, 20% giáo viên sử dụng tư liệu có tính chất minh họa. Về phương pháp sử dụng tư liệu lịch sử, có 65% giáo viên sử dụng tư liệu để nghiên cứu kiến thức mới và 35% giáo viên sử dụng tư liệu cho các hoạt động khác.
Như vậy, qua phiếu điều tra cho thấy giáo viên chưa tận dụng dụng hết vai trò của tư liệu lịch sử khi giảng dạy và việc sử dụng các loại tư liệu như tư liệu thành văn, tư liệu hiện vật, tư liệu phim, tranh ảnh, bản đồ nhằm tăng tính trực quan cho bài dạy hay các hoạt động nhóm, dự án học tập nhằm tăng tính tích cực, chủ động của học sinh lại chưa được giáo viên lựa chọn triển khai thường xuyên và hiệu quả. Hơn nữa về mức độ giáo viên hỗ trợ, hướng dẫn học sinh trong quá trình học tập, hầu hết giáo viên đều quan tâm đến việc kiểm tra kiến thức, kĩ năng nền của học sinh khi bắt đầu môn học. Về vấn đề tìm hiểu mức độ hứng thú của học sinh đối với môn học Lịch sử, tìm hiểu những nội dung trong môn học mà học sinh quan tâm, xác định phong cách học và hướng dẫn học sinh phương pháp học phù hợp, tìm hiểu thuận lợi, khó khăn của học sinh trong học tập chưa được giáo viên quan tâm nhiều vì vậy việc sưu tầm và khai thác tư liệu lịch sử phục vụ cho dạy học chỉ diễn ra ở một bộ phận giáo viên còn đa số giáo viên dạy chay. Điều này dẫn đến việc học sinh chưa biết cách học lịch sử, phần lớn học sinh chỉ học thuộc những gì giáo viên cho ghi chép trên lớp, hoặc học trong sách giáo khoa mà không được tiếp cận với các tư liệu khác nên mức độ hứng thú học tập đối với môn lịch sử chưa cao.
2.2. Về phía học sinh
Thông qua phiếu điều tra, chúng tôi đã điều tra 90 học sinh và thu được
kết quả như sau:
Tiêu chí Mức độ %
Rất yêu thích 30
Môn học lịch sử ở trường phổ thông đối Bình thường 50 với em như thế nào?
Không quan tâm 20
14
Rất hấp dẫn và dễ hiểu 85 Trong giờ học lịch sử, nếu thầy (cô)
giáo sử dụng tư liệu lịch sử em sẽ cảm Bình thường 10
thấy thế nào?
Không quan tâm 5
Thầy (cô) giáo có thường xuyên hướng Thường xuyên 60
dẫn các em tìm hiểu nội dung tư liệu Thi thoảng 40 lịch sử trong và ngoài sách giáo khoa để
tìm hiểu kiến thức hay không? Không 0
Nghiên cứu kiến thức mới 65
Củng cố, ôn tập, kiểm tra, 10 Thầy (cô) giáo thường sử dụng tư liệu
đánh giá lịch sử cho những hoạt động học tập
nào? Hoạt động ngoại khóa 15
Tự học ở nhà 10
2.2.1. Mức độ yêu thích môn lịch sử của học sinh
15
Hình thức tổ chức dạy học trong môn Lịch sử đã chú trọng đến việc đa dạng hóa, trong đó ngoài giờ học trên lớp là chính, các trường còn tổ chức các hoạt động ngoại khóa về Lịch sử địa phương, về các di tích lịch sử, về các nhân vật, sự kiện lịch sử tiêu biểu... tại bảo tàng, di tích lịch sử. Các cuộc thi tìm hiểu về lịch sử Việt Nam do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức đã góp phần nâng cao nhận thức và bồi dưỡng tình cảm của học sinh với lịch sử dân tộc. Mặt khác, một số giáo viên có phương pháp giảng dạy tốt, bài giảng có thêm nhiều tư liệu, kênh hình sinh động tạo sự hứng thú học tập cho học sinh. Vì vậy đa số học sinh hiện nay ngày càng yêu thích môn Lịch sử hơn điều này được thể hiện rõ trong kết quả kì thi THPT Quốc gia. Nếu như kì thi THPT Quốc gia năm 2018 có tới 83,24% thí sinh có điểm dưới trung bình môn Lịch sử và 11 thí sinh đạt điểm 10 môn Lịch sử thì kì thi THPT Quốc gia năm 2019 có 70% thí sinh có điểm dưới trung bình và số bài thi đạt điểm 10 là 87 bài, phổ điểm thi từ 8 trở lên cao gấp 3 lần năm 2018. Qua phiếu điều tra khảo sát tại các trường THPT trên địa bàn cho thấy có 30% học sinh rất thích học lịch sử, 50% học sinh mức độ yêu thích bình thường. Điều này chứng tỏ chất lượng môn Sử ngày càng cải thiện hơn đồng nghĩa học sinh ngày càng yêu thích môn Lịch sử hơn.
Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận học sinh( 20%) chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của môn Lịch sử, coi môn Sử là môn phụ, coi đó là môn học của các sự kiện, của năm tháng và của trí nhớ, khô khan, nhàm chán nên có thái độ bàng quan khi học lịch sử.
2.2.2. Sự hứng thú và nhận thức của học sinh đối với tư liệu lịch sử
Theo từ điển Tiếng Việt: “hứng thú là sự thích thú, ham mê”, hứng thú làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức, làm nẩy sinh khát vọng hành động và hành động sáng tạo, làm tăng sức làm việc. Hứng thú có nhiều loại gồm hứng thú nghệ thuật, hứng thú thể thao, hứng thú nhận thức.., trong đó hứng thú nhận thức có vị trí quan trọng nhất.
Hứng thú nhận thức tạo ra động cơ quan trọng nhất của học tập, là cơ sở thái độ của học sinh đối với học tập, là nguồn gốc thúc đẩy học sinh học tập một cách say mê. Hứng thú nhận thức không chỉ là sự kích thích bên ngoài mà còn là sự kích thích bên trong của bản thân học sinh, chính kích thích bên trong mới duy trì lâu dài được hứng thú và hứng thú được một cách bền vững mới có thể trở thành động cơ hoạt động học tập của học sinh. Hứng thú học tập lịch sử là thái độ say mê, tự giác tích cực đặc biệt của cá nhân đối với nội dung lịch sử cụ thể. Muốn hình thành được hứng thú học tập ở học sinh, trước hết cần thu hút học sinh vào bài học.
Thực tế không phải học sinh nào cũng thờ ơ với môn Lịch sử. Thông qua kết quả phiếu điều tra thực tiễn ở trường phổ thông cho thấy: Khi được hỏi, trong các giờ học lịch sử nếu thầy( cô) sử dụng tư liệu lịch sử các em cảm thấy thế nào? Có tới 85% học sinh trả lời hấp dẫn và dễ hiểu, chỉ có 10% cho là bình thường đối với các tư liệu lịch . Như vậy, sử dụng tư liệu lịch sử trong giờ học và sử dụng phương pháp đúng sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh, tạo niềm đam mê yêu thích môn học. Tuy nhiên không phải giáo viên nào cũng nhận thức được điều đó, hầu hết giáo viên chỉ sử dụng các tư liệu lịch sử để nghiên cứu kiến thức mới ( 65%) và ít khi sử dụng tư liệu lịch sử vào các khâu học tập khác.
Như vậy qua tìm hiểu thực tế ở một số trường phổ thông, tôi có thể rút ra
kết luận sau:
16
Học sinh ngày cảng yêu thích môn lịch sử hơn trước và mong muốn có những giờ học lịch sử sinh động, được làm việc với nhiều tư liệu lịch sử khác nhau dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Có nhiều giáo viên hiểu được tâm lý của học sinh, nhận thức đúng về tầm quan trọng của tư liệu lịch sử. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận giáo viên chưa hiểu hết tầm quan trọng của tư liệu lịch sử trong giảng dạy vì vậy những giờ dạy của họ thường nhàm chán và khô khan. Ngược lại một số giáo viên lại quá lạm dụng tư liệu lịch sử làm cho bài học trở nên nặng nề, dàn trải kiến thức, biến giờ học lịch sử thành giờ kể chuyện lịch sử.
Nhiều giáo viên sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng gợi mở cho học sinh tự tìm hiểu. Đây là một phương pháp hay để phát triển năng lực học sinh song bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận giáo viên không chú ý đến việc sử dụng các tư liệu lịch sử trong giờ học. Phần lớn giáo viên chỉ sử dụng tư liệu lịch sử trong khâu nghiên cứu kiến thức mới còn các khâu khác thường ít hoặc không sử dụng.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng giáo viên không sử dụng hoặc sử dụng tư liệu lịch sử chưa hợp lý là do một bộ phận giáo viên chưa tâm huyết với nghề, họ lên lớp cho xong nhiệm vụ hoặc họ ngại sưu tầm tìm hiểu những tư liệu hoặc giáo viên chuẩn bị rất tốt nhưng học sinh thiếu sự hợp tác với thầy cô nên giáo viên sử dụng tư liệu lịch sử một cách qua loa, mang tính hình thức. Cũng có nhiều giáo viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của tư liệu lịch sử nên sử dụng tư liệu chủ yếu mang tính minh họa chứ chưa phải là nguồn khai thác kiến thức làm cho giờ học trở nên dàn trải, không cô đọng kiến thức, không phát huy được tính tích cực của học sinh.
Tóm lại tư liệu lịch sử là một phương tiện quan trọng để cụ thể hóa kiến thức lịch sử đang học, nhằm tạo cho học sinh có biểu tượng rõ ràng, cụ thể, tăng thêm tính sinh động, gợi cảm của bài giảng và gây hứng thú cho việc học tập của các em. Tư liệu lịch sử là nguồn cung cấp kiến thức quý báu, cho nên đòi hỏi mỗi giáo viên khi giảng dạy phải biết khai thác và sử dụng nó một cách hợp lý. Cùng với việc đổi mới phương pháp, đổi mới chương trình và sách giáo khoa thì việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh là một trong những biện pháp ưu việt góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục. Thực tiễn dạy học lịch sử ở trường phổ thông đã có những chuyển biến tích cực về vấn đề sử dụng tư liệu lịch sử song việc sử dụng chủ yếu mang tính hình thức. Vì vậy cần phải tìm ra các biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh nhằm góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
II. Một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản”
1. Vị trí, mục đích, nội dung cơ bản của phần Lịch sử phong kiến Việt
Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản”
1. 1. Vị trí
17
Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, ban cơ bản có một vị trí đặc biệt quan trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc; là cầu nối giữa kiến thức lịch sử dân tộc các giai đoạn trước với giai đoạn sau, tạo thành một hệ thống kiến thức hoàn chỉnh giúp học sinh có những tri thức cơ bản, sâu rộng về lịch sử dân tộc. Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) là thời kì đất nước độc lập, tự chủ sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Mặc dù giành lại được nền độc lập, tự chủ nhưng bọn phong kiến
phương Bắc vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm chiếm nước ta. Vì vậy từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua một quá trình lao động, chiến đấu hi sinh gian khổ song cũng rất anh dũng, kiên cường. Thông qua bài học về thời kì này góp phần giáo dục các em niềm tự hào dân tộc, ý thức giữ gìn, phát huy truyền thống đấu tranh, lòng biết ơn sâu sắc với những người có công với nước và có thái độ tích cực học tập, lao động để noi gương các thế hệ cha anh đi trước.
Tóm lại ngiên cứu lịch sử phong kiến Việt Nam( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) có vị trí rất quan trọng giúp học sinh có được những tri thức về lịch sử dân tộc, rèn luyện cho các em năng lực, phẩm chất cá nhân, góp phần bồi dưỡng phẩm chất đạo đức yêu nước, niềm tự hào dân tộc, có ý thức xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
1.2. Mục đích
Học xong Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ
XIX), học sinh cần đạt được:
Về kiến thức:
Giúp học sinh hiểu rõ tình hình đất nước ta sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc trải qua những thăng trầm lịch sử. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là thời kì buổi đầu của đất nước độc lập, tự chủ. Đây là thời kì hình thành, củng cố, phát triển và hoàn chỉnh của nhà nước phong kiến dân tộc. Từ thế kỉ XVI đến thế kỷ XVIII là thời kì chia cắt cát cứ, bước đầu khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam. Đến nửa đầu thế kỉ XIX dưới vương triều nhà Nguyễn nền quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền và nền thống nhất đất nước được củng cố. Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX là thời kì đất nước độc lập, tự chủ đồng thời cũng là thời kì dân tộc ta thường xuyên phải cầm vũ khí đứng lên đấu tranh chống quân xâm lược bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Biết và hiểu được trải qua các thế kỷ độc lập, mặc dù đôi lúc còn có nhiều biến động khó khăn, nhân dân ta vẫn xây dựng cho mình nền kinh tế đa dạng, tự chủ và hoàn chỉnh. Nền kinh tế Việt Nam thời phong kiến chủ yếu là nông nghiệp, tuy có nhiều mâu thuẫn trong vấn đề ruộng đất, nhưng những yếu tố cần thiết phát triển nông nghiệp vẫn được phát triển như: Thuỷ lợi, mở rộng ruộng đất, tăng các loại cây trồng phục vụ đời sống ngày càng cao. Thủ công nghiệp ngày càng phát triển, đa dạng, phong phú chất lượng được nâng cao không chỉ phục vụ trong nước mà còn góp phần trao đổi với nước ngoài. Thương nghiệp phát triển. Trong hoàn cảnh của chế độ phong kiến, ruộng đất ngày càng tập trung vào tay giai cấp địa chủ và làm cho xã hội ngày càng phân hóa sâu sắc.
18
Trình bày được những thành tựu điển hình của văn hóa Việt Nam thời phong kiến ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX). Phân tích được nét chính của bản sắc văn hóa Việt Nam, giải thích được sự giao thoa giữa văn hóa Việt Nam với các nền văn hóa khác.
Về kỹ năng:
Học phần lịch sử Việt Nam thời phong kiến( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) rèn luyện cho học sinh các năng lực như năng lực tri giác, tưởng tượng; năng lực khai thác và xử lý tư liệu lịch sử, năng lực tư duy lịch sử, xâu chuỗi các sự kiện, phân tích, so sánh và đánh giá lịch sử, liên hệ thực tế.
Về thái độ:
Bồi dưỡng lòng tự hào về truyền thống lịch sử của dân tộc Việt Nam và lòng biết ơn sâu sắc với những người có công với nước. Bồi dưỡng cho học sinh ý thức xây dựng và bảo vệ đất nước thống nhất. Giáo dục cho học sinh lòng yêu nước đấu tranh cho sự nghiệp bảo vệ toàn vẹn đất nước, biết trân trọng và có ý thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, biết kết hợp văn hóa truyền thống với hiện đại. Từ đó có trách nhiệm đối với quê hương đất nước, xác định động cơ học tập vì lý tưởng cao đẹp, phục vụ lợi ích của Tổ quốc. Đồng thời bồi dưỡng cho các em niềm say mê học tập và cống hiến cho đất nước.
1.3. Nội dung cơ bản của phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế
kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản”.
Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX, lịch sử phong kiến Việt Nam mặc dù trải qua những bước thăng trầm lịch sử song đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa.
19
Về chính trị: Với chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đã mở ra thời kì độc lập tự chủ lâu dài cho dân tộc. Song sau hơn 1000 năm Bắc thuộc nhiều yêu cầu lịch sử được đặt ra mà trước mắt là phải giữ vững an ninh và thống nhất đất nước; đánh lại các cuộc xâm lược của nước ngoài, bảo vệ nền độc lập tự chủ của Tổ quốc. Để đáp ứng yêu cầu đó, năm 939 Ngô Quyền xưng vương thành lập chính quyền mới, đóng đô ở Đông Anh – Hà Nội. Việc làm trên của Ngô Quyền đã khẳng định chủ quyền độc lập, tự chủ của một nhà nước thực sự, lâu dài và vững chắc. Ở thế kỉ X trải qua các triều đại Ngô – Đinh -Tiền Lê nhà nước độc lập tự chủ theo thiết chế quân chủ chuyên chế đã được xây dựng. Tuy còn sơ khai song đã là nhà nước độc lập tự chủ của dân tộc ta. Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV, trải qua các triều đại Lí -Trần -Hồ - Lê sơ, nền độc lập ngày càng được củng cố, nhà nước quân chủ ngày càng được phát triển, hoàn thiện và tổ chức chặt chẽ. Đến đầu thế kỷ XVI, nhà nước phong kiến lâm vào khủng hoảng sâu sắc: Vua ăn chơi sa đọa, quan lại hoành hành ức hiếp nhân dân làm cho đời sống nhân dân khổ cực , mâu thuẫn xã hội gay gắt và nông dân nổi dậy đấu tranh ở nhiều nơi. Lợi dụng tình hình, các tập đoàn phong kiến hợp quân đánh nhau tranh chấp địa vị, quyền lực. Từ đó gây nên tình trạng chia cắt, cát cứ trong các thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, đó là thời kỳ Nam - Bắc triều và thời kỳ Trịnh - Nguyễn dẫn đến đất nước bị chia cắt lâu dài thành Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đến đầu thế kỉ XIX, sau khi đánh bại các vương triều Tây Sơn, làm chủ cả Đàng
Trong và Đàng Ngoài, nhà Nguyễn khôi phục và tăng cường quyền lực của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền đồng thời củng cố nền thống nhất đất nước.
Tuy là thời kì đất nước độc lập, tự chủ song nước ta luôn phải cầm vũ khí chống lại các thế lực ngoại xâm như hai lần kháng chiến chống Tống ( thời Tiền Lê, thời Lý), ba lần kháng chiến chống Mông – Nguyên (thời Trần), kháng chiến chống Minh ( thời Hồ), kháng chiến chống Xiêm và chống Thanh (vương triều Tây Sơn). Trải qua các cuộc đấu tranh, lòng yêu nước được phát triển và tôi luyện trở thành truyền thống yêu nước. Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thắng lợi không chỉ làm tăng thêm niềm tự hào dân tộc với hàng loạt chiến công oanh liệt như Bạch Đằng, Chi Lăng – Xương Giang, Rạch Ngầm – Xoài Mút, Ngọc Hồi – Đống Đa... mà còn khắc sâu thêm tình yêu Tổ quốc trong lòng người dân Việt Nam.
Về kinh tế: Đây là thời kì xây dựng một nền kinh tế toàn diện và tự chủ với đặc điểm lớn là sự phối hợp đều đặn giữa nhân dân với nhà nước. Các triều đại phong kiến có nhiều biện pháp nhằm phát triển kinh tế như làm lễ cày tịch điền (thời Tiền Lê, Lý), ban hành chính sách quân điền (thời Lê sơ, thời Nguyễn), quan tâm đến công tác thủy lợi (thời Lý, Trần, Lê sơ, Nguyễn...). Nền kinh tế Việt Nam thời phong kiến chủ yếu là nông nghiệp; thủ công nghiệp ngày càng phát triển, đa dạng, phong phú chất lượng sản phẩm được nâng cao không chỉ phục vụ trong nước mà còn góp phần trao đổi với nước ngoài. Thương nghiệp phát triển và mở rộng, không những buôn bán với các nước châu Á mà còn mở rộng buôn bán với cả các nước phương Tây. Thuyền buôn nước ngoài đến nước ta ngày một nhiều. Tuy nhiên đến giữa thế kỉ XVIII do chế độ thuế khóa phức tạp, quan lại khám xét phiền phức nên hoạt động buôn bán với bên ngoài suy yếu dần đặc biệt dưới thời Nguyễn, nhà nước giữ độc quyền ngoại thương và hạn chế buôn bán với các nước phương Tây. Chính sách “trọng nông, ức thương” của nhà Nguyễn khiến nền kinh tế phát triển què quặt, công thương nghiệp không được tạo điều kiện để giải thoát khỏi sự bế tắc của nông nghiệp, chưa mở đường cho quan hệ sản xuất mới nảy sinh; chính sách “bế quan tỏa cảng” đã hạn chế quan hệ buôn bán với nước ngoài đặc biệt hạn chế buôn bán với các nước tư bản phương Tây, không tạo điều kiện cho sự giao lưu và mở rộng sản xuất, khiến cho Việt Nam bị tách biệt với các nước. Kết quả là công thương nghiệp đình đốn, hàng hóa khan hiếm, đời sống nhân dân bị bần cùng, tiềm lực đất nước ngày càng suy giảm.
20
Về văn hóa: Việt Nam là đất nước có bề dày lịch sử, nhiều thành tựu văn hóa của đất nước trở thành di sản văn hóa vật thể hay phi vật thể của nhân loại, với những danh nhân văn hóa thế giới như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Nền tảng cho các thành tựu văn hóa nổi bật đó chính là giai đoạn lịch sử dân tộc từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX. Đây là thời kì giao thoa giữa văn hóa Việt Nam với các nền văn hóa khác. Mặc dù có sự du nhập của các nền văn hóa khác nhau nhưng nhân
dân ta đã biết tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo, tạo nên một nền văn hóa vừa phong phú đa dạng vừa mang đậm tính dân tộc.
1.4. Nội dung tư liệu lịch sử cần sử dụng khi dạy phần Lịch sử phong
kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản”
Khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), giáo viên có thể sử dụng rất nhiều loại tư liệu khác nhau để làm rõ cho các nội dung cơ bản cụ thể trong sách giáo khoa. Tôi có thể thống kê một số tư liệu lịch sử điển hình để phục vụ cho dạy học nội dung lịch sử tương ứng.
Chủ đề Tư liệu lịch sử Phục vụ dạy học nội dung lịch sử
Buổi đầu xây dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X - Ngô Quyền xưng vương, xây dựng nhà nước mới ( Tư liệu lịch sử 10
Phát triển và hoàn chỉnh nhà nước phong kiến ở thế kỉ XI đến thế kỉ XV
- Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn ( Bản dịch của Viện khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử kí toàn thư, NXB Khoa học Xã hội, hà Nội, 1993)
Nhà nước phong kiến Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX
Thời kì đất nước bị chia cắt (thế kỉ XVI – XVIII)
- Đóng góp của vương triều Mạc (Nguyễn Doãn Tuân, Nguyễn Tuyết Anh (2015), Những đóng góp của vương triều Mạc với kinh thành Thăng Long, Báo nhân dân)
Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XIX
- Gia Long xây dựng kinh đô và đặt quốc hiệu mới (Nguyễn Văn Ánh, Trần Thái Hà, Trịnh Đình Tùng (2006), Tư liệu lịch sử 10, NXB Giáo dục)
Kinh tế Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV
- Men gốm thời Lý - Trần (Nguyễn Văn Ánh, Trần Thái Hà, Trịnh Đình Tùng (2006), Tư liệu lịch sử 10, NXB Giáo dục) Kinh tế Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX
21
- Phố Hiến – Thương cảng lớn nhất của Đàng Ngoài (Nguyễn Kinh tế Việt Nam ở các thế kỉ XVI đến thế kỉ
XVIII
Văn Ánh, Trần Thái Hà, Trịnh Đình Tùng (2006), Tư liệu lịch sử 10, NXB Giáo dục)
Tranh đấu vật ( Tranh Đông Hồ) Kinh tế Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX
Các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm
- Nhận định của Chủ Tịch Hồ Chí Minh ( Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 6, NXB Chính trị Quốc gia, 2002, tr171)
Các cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên
- Kế sách giữ nước của Trần Quốc Tuấn ( Sách Ngữ văn 10, tập 2, NXB Giáo dục, 2006,tr 42) Các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX
Khởi nghĩa Lam Sơn - Tư liệu bia Vĩnh Lăng (Lam Kinh – Thanh Hóa
- vua Quang Trung đánh tan quân xâm lược Thanh Kháng chiến chống Thanh
- Lý Thái Tổ lên ngôi chưa được hai năm...mà đã dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức. Tư tưởng, tôn giáo
- Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
-Tư liệu về Văn Miếu – Quốc Tử Giám, văn bia Tiến sỹ
Giáo dục
- Tư liệu về câu nói của Thân Nhân Trung
- Giáo dục thời vua Gia Long Văn hóa Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX
Văn học - Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX – Văn học lớp 10
- Hịch tướng sỹ
- Chùa Một Cột Nghệ thuật - Tượng Phật bà Quan Âm
22
- Súng thần cơ Khoa học kĩ thuật
2. Những yêu cầu khi lựa chọn các biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản”
2.1. Sử dụng tư liệu phải đáp ứng được mục tiêu dạy học
Mục tiêu bài học lịch sử chính là cái đích khi tiến hành dạy học mà thầy và trò phải đạt. Tư liệu lịch sử là phương tiện hữu hiệu giúp giáo viên thực hiện được những mục tiêu dạy học cụ thể đã đề ra đối với bài học lịch sử. Do vậy sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh phải đáp ứng được mục tiêu dạy học bộ môn. Giáo viên cần xác định biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử dù đa dạng, phong phú đến đâu cũng đều phải nhằm đạt mục tiêu bài học, môn học.
Để đáp ứng được mục tiêu dạy học bộ môn, giáo viên cần xác định mục đích khi sử dụng hệ thống tư liệu lịch sử, xem xét các biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử đó có ý nghĩa như thế nào đối với học sinh về mặt kiến thức, thái độ, kĩ năng để sử dụng có hiệu quả.
2.2. Sử dụng tư lịch sử phải làm nổi bật nội dung cơ bản của bài học.
Nội dung cơ bản là những kiến thức cần thiết cho việc hiểu biết của học sinh về lịch sử. Đó là những sự kiện cơ bản, niên đại, khái niệm lịch sử, phương pháp học tập và vận dụng những kiến thức học tập vào thực tiễn. Tư liệu lịch sử hiện nay cũng được coi là một nguồn kiến thức. Với số lượng, chủng loại phong phú, tư liệu lịch sử cùng các kênh chữ, kênh hình trong sách giáo khoa, chuyển tải kiến thức cơ bản tới học sinh. Khi giáo viên khai thác, sử dụng các nguồn tư liệu lịch sử đều phải nhằm mục đích góp phần làm nổi bật nội dung cơ bản của bài học.
Các biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử hợp lý sẽ giúp học sinh hiểu sâu sắc nội dung của các bài học. Nếu sử dụng tư liệu lịch sử không hợp lý sẽ làm nặng hoặc gây sốc cho học sinh bằng những tình tiết lịch sử không cần thiết hoặc biến giờ học lịch sử thành giờ nghiên cứu tư liệu thì sẽ không tạo sự hứng thú học tập cho học sinh.
2.3. Sử dụng tư lịch sử phải góp phần phát triển các phẩm chất nhận
thức của học sinh
23
Xuất phát từ đặc trưng của các tri thức lịch sử là mang tính quá khứ, chỉ xẩy ra một lần duy nhất và không lặp lại cho nên trong dạy học bộ môn, giáo viên sử dụng các loại tư liệu lịch sử để giúp các em dựng lại một cách chân thực nhất bức tranh quá khứ. Song khi sử dụng các tư liệu lịch sử phải theo hướng phát triển năng lực học sinh, để qua đó hình thành, phát triển ở các em phẩm chất tự giác, tích cực, độc lập...Khi nghiên cứu các tư liệu lịch sử nếu giáo viên dẫn dắt hợp lý, để học sinh tri giác, suy nghĩ độc lập, tự rút ra kết luận, đánh giá, học sinh sẽ hứng thú học tập. Quá trình chủ động lĩnh hội kiến thức như vậy góp
phần phát triển các thao tác tư duy tích cực ở học sinh, cũng như kĩ năng tập dượt nghiên cứu khoa học và thực hành bộ môn.
2.4. Sử dụng tư lịch sử phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh
Đối tượng và mục tiêu của hoạt động sư phạm là học sinh và quá trình lĩnh hội tri thức của họ. Mọi sự đổi mới về các mặt nội dung, phương pháp đều nhằm đạt mục đích cuối cùng là nâng cao tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh để nâng cao hiệu quả giờ học. Song xét cho cùng mọi cố gắng của giáo viên sẽ trở thành vô ích nếu ta yêu cầu quá cao đối với học sinh.
Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, tính vừa sức được thể hiện ở việc lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học và cách tổ chức quá trình nhận thức của học sinh. Tính vừa sức trong sử dụng tư liệu lịch sử được thể hiện như sau:
- Khối lượng tư liệu lịch sử phải vừa đủ, tức là giáo viên phải căn cứ vào mục tiêu cấp học, từng lớp, để xác định nội dung cơ bản phù hợp với từng đối tượng học sinh, tránh sự quá tải đối với học sinh.
- Khi đưa tư lệu lịch sử, tránh đưa những tư liệu bằng tiếng nước ngoài, những tư liệu khó hiểu phải mất nhiều thời gian để giải thích và làm cho việc lĩnh hội tri thức của học sinh gặp nhiều khó khăn.
- Trình bày nội dung tư liệu lịch sử ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu.
Đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh là yêu cầu quan trọng để nâng cao hiệu quả bài học, giúp học sinh hứng thú học tập và đạt kết quả cao. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, tư liệu lịch sử sẽ có rất nhiều nguồn khác nhau đề cập đến. Song giáo viên cần căn cứ vào học sinh mà khai thác nội dung và đề cập đến các phương pháp, biện pháp sử dụng các tư liệu lịch sử phù hợp với thời gian và khả năng nhận thức của các em, tránh tình trạng nhồi nhét quá nhiều vấn đề không cần thiết.
Như vậy, để giờ học đạt hiệu quả, giáo viên phải đảm bảo sử dụng tư liệu lịch sử vừa sức với học sinh, từ đó đưa ra các biện pháp khai thác tư liệu lịch sử phù hợp.
2.5. Sử dụng tư lịch sử phải kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp
dạy học khác
24
Trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, không có phương pháp nào là vạn năng. Bởi vậy, khi dạy học phải kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học. Tư liệu lịch sử là một nguồn kiến thức bên cạnh nguồn kiến thức trong sách giáo khoa. Khai thác tư liệu lịch sử cũng chỉ là một biện pháp trong quá trình dạy học của giáo viên, do đó cần kết hợp nhuần nhuyễn việc sử dụng tư liệu lịch sử với các phương pháp dạy học khác.
Khi khai thác các tư liệu lịch sử, giáo viên cần phải kết hợp nhuần nhuyễn với lời nói sinh động của giáo viên và học sinh, các đồ dùng trực quan, trao đổi thảo luận...Giáo viên hướng dẫn học sinh tri giác, tìm hiểu, nghiên cứu và trả lời các câu hỏi gợi mở qua đó tư liệu lịch sử phát huy được tối đa tác dụng của mình trong kiến thức, kĩ năng và thái độ.
3. Một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản”
3.1. Sử dụng tư liệu lịch sử để xây dựng bài tập nhận thức theo định
hướng phát triển năng lực học sinh
Bài tập nhận thức còn được gọi là bài tập nêu vấn đề, bài tập tư duy, bài tập lôgic. Theo N.G Đairi, tuy khác nhau nhưng các thuật ngữ này thông thường đều chỉ một hiện tượng sư phạm đồng nhất. Đối với loại bài tập này, “nhấn mạnh đến điều chủ yếu tức là việc học sinh chế biến các loại tài liệu cảm thụ một cách tự lập loogic và tự lập chuyển từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lôgic trong quá trình giải quyết vấn đề”
Bài tập nhận thức – bài tập nêu vấn đề thường được diễn đạt dưới dạng câu hỏi hoặc có ý kiến khác nhau mà giáo viên đưa ra cho học sinh đánh giá, nhưng không phải bất cứ câu hỏi nào cũng chứa bài tập nhận thức.
Bài tập nhận thức có thể là câu hỏi khi trả lời không chỉ đòi hỏi tái hiện, nhớ lại kiến thức một cách đơn thuần, mà nhằm hình thành kiến thức với chất lượng mới bằng các thao tác tư duy phức tạp thì trở thành bài tập nhận thức. Để trả lời các câu hỏi này, học sinh không thể chỉ sử dụng nguyên xi các kiến thức, kĩ năng sẵn có mà phải xử lý khéo léo và huy động nhiều bước trung gian trong trí tuệ của mình. Muốn hoàn thành tốt các bài tập nhận thức cần phải tìm tòi, sáng tạo tích cực và đầy hưng phấn.
Như vậy bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử là loại bài tập mà học sinh độc lập giải quyết, giúp các em có hiểu biết mới về lịch sử xã hội bằng những phương thức đã biết hoặc tạo ra những phương thức mới mà trước đó học sinh chưa biết. Chức năng quan trọng của bài tập nhận thức là rèn luyện năng lực tích cực, độc lập suy nghĩ khi giải quyết vấn đề nhằm phát triển tư duy cho học sinh trong quá trình học tập. Bài tập nhận thức có khả năng nâng cao trình độ tư duy, phát triển khả năng lập luận, lý giải cho học sinh. Do đó, không chỉ giúp học sinh khôi phục hình ảnh quá khứ mà còn đi sâu vào nhận thức bản chất của sự kiện lịch sử. Bài tập nhận thức có nội dung khó hơn, sâu hơn câu hỏi và các loại bài tập khác, đòi hỏi thời gian, công sức, trình độ của học sinh nhiều hơn và tác dụng kết quả đem lại cũng cao hơn.
Việc xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử phải nhằm vào các mục đích tăng cường các hoạt động nhận thức tích cực, độc lập, thông minh, sáng tạo của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức, giúp học sinh 25
nắm vững, hiểu sâu sắc đầy đủ hơn hệ thống kiến thức cơ bản của môn học chứ không phải chỉ để ghi nhớ,học thuộc, rèn luyện cho học sinh kỹ năng tư duy lôgic trong học tập lịch sử; bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm đạo đức nói chung, tinh thần chuyên cần trong học tập, lao động.
Để đạt mục đích trên, khi xây dựng bài tập và sử dụng bài tập nhận thức
phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, bài học phải tập trung vào nội dung cơ bản của bài, của chương hay của chủ đề, là những điều mới học sinh chưa biết, cần phải giải quyết trong giờ học đó hay trong quá trình học tập, đòi hỏi học sinh phải tích cực, độc lập làm việc. Bài tập thể hiện nội dung cơ bản của bài học nghĩa là xây dựng bài tập phải bám sát và bộc lộ các điểm mấu chốt, các vấn đề quan trọng, thiết thực do chương trình, sách giáo khoa và thực tế cuộc sống đặt ra qua các bài cụ thể. Hay nói khác đi đó là các vấn đề trọng tâm của mục, của bài được quy định trong chương trình, là vấn đề cốt lõi để tạo lập hệ thống tri thức.
Thứ hai, bài tập đưa ra phải thể hiện sự khó vừa đủ và tính vừa sức đối với từng học sinh. Xây dựng bài tập trong dạy học là một nghệ thuật. Nếu bài tập dễ quá sẽ làm cho học sinh thỏa mãn đi đến chủ quan về vốn hiểu biết của mình và không kích thích được tính tích cực, độc lập nhận thức của học sinh, nhưng nếu bài tập khó quá, mang tính chất đánh đố sẽ làm cho việc lĩnh hội kiến thức mới của học sinh kém hiệu quả. Chỉ có những bài tập khó vừa sức với học sinh mới đòi hỏi sự cố gắng phát triển tư duy của học sinh.
Thứ ba, bài tập đưa ra phải chứa đựng tình huống có vấn đề, yêu cầu học sinh phải độc lập suy nghĩ, tìm ra bản chất của sự vật hiện tượng. Nội dung bài tập phải tập trung vào những vấn đề mới, phải đặt ra được những khó khăn và trở ngại cho việc nhận thức nhưng phải vừa sức học sinh. Nội dung phải do tư liệu, chương trình học tập quy định, nằm trong khả năng giải quyết của học sinh.
Thứ tư, bài tập phải đa dạng nhằm tạo điều kiện cho học sinh xem xét các mặt của cuộc sống xã hội, phát triển quá trình nhận thức, hình thành nhân cách cho học sinh.
26
Thứ năm, bài tập đưa ra phải hấp dẫn, lôi cuốn hứng thú của học sinh giải quyết vấn đề. Quá trình tư duy của học sinh không phải chỉ là quá trình nhận thức mà còn là quá trình xúc cảm. Những gì liên quan đến nhu cầu và hứng thú mới kích thích quá trình nhận thức tích cực của học sinh, đồng thời hình thành hoạt động học tập như một động cơ khám phá. Nó là động lực bên trong tạo ra khát vọng học tập, sự kiên trì và nỗ lực tìm hiểu những điều chưa biết một cách tự giác của học sinh. Nhờ có động lực tích cực này mà kiến thức đem lại cho học sinh mới bền vững.Vì vậy để bài tập đóng vai trò quá trình thúc đẩy nhận thức, dẫn dắt học sinh tham gia trực tiếp vào việc tổ chức nhận thức thì bài tập phải hấp dẫn, tạo hứng thú, khơi gợi nhu cầu tìm câu trả lời, giải đáp các mâu thuẫn nhận thức. Muốn vậy, khi xây dựng, sử dụng bài tập giáo viên phải nắm vững
đối tượng học sinh (năng lực, trình độ), nguyên tắc vừa sức và có nghệ thuật động viên thu hút học sinh.
Thứ sáu, bài tập đưa ra phải đúng thời điểm và diễn đạt tốt. Bài tập có thể đưa ra trước, trong và sau khi giáo viên trình bày song theo cấu trúc bài học nêu vấn đề thì nên đưa ở đầu giờ học, đầu mục. Hơn nữa để khơi gợi tính tích cực tư duy của học sinh, một trong những yếu tố góp phần tác động vào quá trình này là cách diễn đạt bài tập của giáo viên. Bài tập mà giáo viên đưa ra phải rõ ràng, mạch lạc, giúp học sinh hiểu đúng yêu cầu; nếu không rõ ràng, mạch lạc có thể gây sự hiểu sai yêu cầu. Xây dựng bài tập nhận thức dựa trên các tư liệu lịch sử sẽ góp phần định hướng cho học sinh những kiến thức cơ bản của bài học. Từ đó các em sẽ tạo được biểu tượng lịch sử một cách chân thực. Trên cơ sở đó học sinh sẽ hình thành được các khái niệm, rút ra quy luật và bài học nếu có.
Như vậy kiến thức cơ bản là những kiến thức tối thiểu, cần thiết mà học sinh phải đạt. Kiến thức cơ bản là những kiến thức tối ưu trong học tập, là những kiến thức quan trọng nhất mà học sinh cần nắm để đạt được yêu cầu học tập, phù hợp với trình độ của chương trình. Kiến thức cơ bản bao gồm những sự kiện cơ bản, khái niệm lịch sử, phương pháp học tập và vận dụng kiến thức cho học tập và thực tiễn. Vì vậy khi sử dụng tư liệu lịch sử để xây dựng bài tập nhận thức cho học sinh trong dạy học lịch sử có tác dụng lớn trên cả ba mặt kiến thức, kĩ năng và thái độ.
Ví dụ: Khi dạy về chủ đề “Các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta thời phong kiến ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX)”, giáo viên dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề bằng cách cho học sinh theo dõi một đoạn tư liệu lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau đó, giáo viên xây dựng bài tập nhận thức nhằm định hướng những kiến thức cơ bản cho học sinh như sau:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”
Sau khi trình bày đoạn tư liệu trên, giáo viên đưa ra bài tập nhận thức để học sinh tìm hiểu: Căn cứ vào đâu Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định như vậy? Nguyên nhân nào tạo nên sự thắng lợi của các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm thời phong kiến? Từ các cuộc đấu tranh đó có thể rút ra bài học kinh nghiệm gì cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc hiện nay?
27
Như vậy sử dụng tư liệu lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh để xây dựng bài tập nhận thức như trên sẽ lôi cuốn và yêu cầu học sinh vào tình huống có vấn đề, nhưng các em chưa có đủ tri thức để giải đáp. Để giải đáp thắc mắc của mình các em cần làm việc, khám phá tri thức. Từ đó, hình thành và rèn luyện cho các em kĩ năng làm việc với tư liệu, có hứng thú tìm hiểu những kinh nghiệm và bài
học lịch sử đối với hiện tại. Thông qua đó góp phần giáo dục và bồi dưỡng lòng yêu nước và có ý thức trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
3.2. Sử dụng tư liệu lịch sử để cụ thể hóa kiến thức kết hợp với gợi mở
để học sinh rút ra nhận xét
Tư liệu lịch sử là một phương diện để cụ thể hóa các sự kiện, hiện tượng lịch sử đang học nhằm tạo cho học sinh có biểu tượng rõ ràng, cụ thể, có hình ảnh, tăng thêm tính chất sinh động, gợi cảm của bài giảng và gây hứng thú cho việc học tập của học sinh. Học sinh khó có thể nói lên nội dung mà cần phải có sự gợi mở, hướng dẫn của giáo viên. Câu hỏi gợi mở chính là một loại phương diện tổ chức hoạt động và kiểm tra, đánh giá kết quả nhận thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo bộ môn cho học sinh. Qua các câu hỏi gợi mở của giáo viên, những tri thức học sinh tìm được sẽ khắc sâu trong trí nhớ các em, từ đó hiệu quả bài học được nâng lên rõ rệt. Đồng thời nhờ tích cực suy nghĩ, trả lời các câu hỏi gợi mở, khả năng tri giác và khả năng tư duy của học sinh được phát triển và tôi luyện.
Trong dạy học lịch sử, hệ thống câu hỏi gợi mở của giáo viên sẽ giúp học sinh kích thích được trí tò mò, ham thích tìm hiểu lịch sử, sáng tạo trong suy nghĩ, giúp bài học lịch sử không còn khô khan, khó tiếp thu và làm sáng tỏ hơn những kiến thức về các sự kiện, hiện tượng lịch sử được thể hiện trong sách giáo khoa. Khi đặt câu hỏi gợi mở, giáo viên cần lưu ý: Hệ thống câu hỏi phải đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với từng đối tượng học sinh và trình độ nhận thức của các em, góp phần từng bước khai thác tư liệu lịch sử để cụ thể hóa các sự kiện, hiện tượng lịch sử đang học. Muốn vậy, giáo viên phải kết hợp các dạng câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
Ví dụ, khi dạy học chủ đề “Văn hóa Việt nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX”, mục 1: “Tư tưởng, tôn giáo” để làm rõ vị trí Phật giáo ở nước ta thời phong kiến, giáo viên đặt câu hỏi: “Tại sao dưới thời Lý – Trần, Phật giáo giữ một vị trí quan trọng và rất phổ biến nhưng đến thời Lê sơ, Phật giáo bị hạn chế?”. Để cụ thể hóa kiến thức, giáo viên cung cấp tư liệu về Phật giáo sau đó hướng dẫn học sinh nghiên cứu thông qua các câu hỏi gợi mở:
- Phật giáo có nguồn gốc từ đâu? Do ai sáng lập?
- Giáo lý của Phật giáo?
28
Qua những câu hỏi gợi mở đó học sinh cảm thấy rất tò mò, thích thú và tìm cách để trả lời. Thông qua việc nghiên cứu tư liệu lịch sử, suy nghĩ, trao đổi, kết hợp với các kiến thức trong sách giáo khoa để trả lời các câu hỏi. Với việc sử dụng tư liệu lịch sử như vậy, học sinh sẽ nắm được kiến thức cơ bản và hiểu được sâu sắc sự kiện lịch sử. Khi đã nắm được bản chất của sự kiện, học sinh sẽ nhớ kiến thức lâu hơn từ đó có hứng thú học tập bộ môn.
3.3. Sử dụng tư liệu lịch sử để xây dựng các đoạn miêu tả, tường thuật về một sự kiện, một nhân vật lịch sử kết hợp với trao đổi, đàm thoại rút ra nhận xét
Bản thân tư liệu lịch sử chứa đựng rất nhiều thông tin, góp phần cụ thể hóa kiến thức. Tuy nhiên chúng ta không thể chỉ đưa tư liệu lịch sử cho học sinh tri giác mà còn phải biết kết hợp với ngôn ngữ. Với ngôn ngữ trong sáng, giàu hình ảnh, giáo viên sẽ dẫn dắt học sinh trở về với quá khứ của lịch sử, tạo biểu tượng rõ ràng cụ thể về một sự kiện, một nhân vật lịch sử, giúp học sinh biết suy nghĩ, tìm tòi, rút ra kết luận. Lời nói có ý nghĩa giáo dục rất lớn, nó tác động đến tình cảm, hình thành tư tưởng cho học sinh. Do đó, khi sử dụng tư liệu lịch sử phải kết hợp hợp với ngôn ngữ để xây dựng các đoạn miêu tả, bài tường thuật.
Miêu tả là trình bày những đặc trưng của một sự vật, sự kiện lịch sử để nêu lên những nét bản chất chủ yếu, cấu tạo bên trong cũng như hình dáng bên ngoài của chúng. Miêu tả không có chủ đề mà chỉ có đối tượng cụ thể cần phải trình bày như miêu tả về điều kiện địa lý, nơi diễn ra sự kiện lịch sử; miêu tả về một công trình kiến trúc; miêu tả về công cụ sản xuất...Khi miêu tả, yêu cầu người giáo viên phải đảm bảo tính khách quan khoa học đồng thời phải trình bày rõ ràng, có thái độ đúng đắn với đối tượng được miêu tả.
Có thể chia miêu tả thành hai loại: miêu tả toàn bộ bức tranh quá khứ và miêu tả khái quát có phân tích. Miêu tả toàn bộ bức tranh quá khứ nhằm phác họa bức tranh trọn vẹn về đối tượng được trình bày. Khi miêu tả giáo viên chọn những nét tiêu biểu, bản chất nhất, đủ để dựng lại quá khứ một cách đúng đắn, khách quan. Còn miêu tả có phân tích tập trung vào một số điểm chủ yếu, qua đó đi sâu vào phân tích cơ cấu bên trong của sự vật.
Ví dụ, khi dạy về chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX ”, lĩnh vực nghệ thuật kiến trúc. Khi nói đến các công trình kiến trúc, để làm rõ sự độc đáo, sáng tạo và mang màu sắc tôn giáo trong nghệ thuật kiến trúc giáo viên sử dụng hình ảnh chùa Một Cột kết hợp với tư liệu lịch sử về chùa Một Cột, miêu tả khái quát, có phân tích kết hợp với đàm thoại về chùa Một Cột. Trước khi trình bày, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức tranh kết hợp hỏi: “Em biết gì về chùa Một Cột ở nước ta?”. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên bổ sung và chốt lại: “Chùa Một Cột được xây dựng năm 1049, tên chữ là chùa “Diên Hựu” nghĩa là “Phúc lành dài lâu”. Theo truyền tụng, sau khi vua Lý Thái Tông nằm mộng được Phật Bà dắt đi lên tòa sen ngự tọa, quần thần cho là điềm gở, xin vua cho xây dựng ngôi chùa như bông sen nở trên mặt nước để cầu phúc. Chùa được đặt trên một cột đá cao 20m giống như cái ngó sen, bên trên cột là ngôi chùa có hình một bông sen mọc trên mặt nước. Kết cấu kiến trúc gỗ của chùa là một hệ thống mộng giằng chồng chéo từ cột lớn đến sàn không chỉ tạo thế vững chắc, mà còn mang lại những nét đẹp như đường lượn của cánh sen, thiết lập sự hài hòa giữa mái và sàn bởi một đối xứng ảo. Cùng với ao hình vuông phía dưới, ngôi chùa vươn lên cái ý niệm cao cả: lòng nhân ái của Phật 29
soi tỏ thế gian”. Sau đó, giáo viên đặt một số câu hỏi cho học sinh thảo luận: Chùa Một Cột tiêu biểu cho nền văn hóa nào của dân tộc ta? Em có nhận xét gì về nghệ thuật kiến trúc của ông cha ta qua việc xây dựng chùa Một Cột?. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên khái quát như sau: Trong ảnh hưởng của Phật giáo, ông cha ta xây dựng chùa để thờ Phật, nhưng cấu trúc của chùa Một Cột thể hiện sự độc đáo về mặt kiến trúc của nhân dân Việt Nam. Khối kiến trúc như một bông sen nở trên mặt nước lại được phù trợ bởi cảnh quan, có ao, có cây cối đã tạo nên sự gần gũi, tinh khiết mà vẫn thanh tịch. Cảm giác thanh cao của kiến trúc như chia xẻ, hoà đồng với trời nước, vào màu xanh của cây lá khiến con người đến đây rũ sạch mọi ưu phiền, đạt tới sự trong sáng của tâm hồn.
Như vậy, đoạn miêu tả được xây dựng dựa vào tư liệu lịch sử kết hợp với trao đổi, đàm thoại như trên đã biến những tri thức lịch sử khô khan thành sự kiện sống động, hấp dẫn đối với học sinh. Ngoài việc tạo biểu tượng về sự độc đáo, thanh cao của chùa Một Cột, những hình ảnh trực quan sinh động giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, kiến thức lịch sử, giúp các em phát triển kỹ năng khai thác hình ảnh (quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ). Từ đó hình thành ở các em thái độ trân trọng những giá trị văn hóa nhân loại và ý thức bảo vệ; lòng tự hào về truyền thống đấu tranh của dân tộc, coi trọng vai trò quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử; bồi dưỡng tinh thần yêu hoà bình, chống chiến tranh.
Ngoài miêu tả, việc sử dụng tư liệu lịch sử còn để xây dựng bài tường thuật. Tường thuật là một cách trình bày miệng quan trọng, nhằm tái hiện ở học sinh những biến cố lịch sử quan trọng với đầy đủ tính cụ thể và gợi cảm của nó. Tuy nhiên trong thực tế, không ít giáo viên chưa nhận thức được đầy đủ nội dung và vị trí của nó trong việc giảng dạy và học tập lịch sử ở trường phổ thông. Vì vậy chúng ta cần phân biệt tường thuật và thông báo tài liệu.
Thông báo chỉ giới hạn trong việc nêu lên một cách chính xác những sự kiện, niên đại, số liệu, tên đất, tên người cần thiết cho việc ghi nhớ bài học, cho việc hình thành khái niệm rút ra kết luận. Việc thông báo không tạo cho học sinh hình ảnh cụ thể về quá khứ, không hấp dẫn, không gây hứng thú học tập cho học sinh.
Tường thuật là trình bày có chủ đề về một biến cố hay một quá trình lịch sử trong sự phát triển, về những hoạt động cụ thể của quần chúng nhân dân hay của một nhân vật lịch sử. Tường thuật bao giờ cũng có chủ đề, có tình tiết nhất định, nhằm kích thích trí tưởng tượng tái tạo của học sinh về những hình ảnh của quá khứ. Bài tường thuật được xây dựng dựa trên cơ sở tư liệu lịch sử và nội dung sách giáo khoa nhưng tạo cho học sinh những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về bức tranh quá khứ đang học, vì vậy các em hứng thú học tập lịch sử hơn. Tường thuật không chỉ dừng lại ở việc tái hiện lịch sử mà còn là một biện pháp để giải thích bản chất những sự kiện lịch sử phức tạp. Trên cơ sở những sự kiện lịch sử phức tạp, tường thuật dẫn dắt học sinh đến những kết luận, 30
khái quát quan trọng. Sự hấp dẫn của tường thuật trong dạy học lịch sử là cung cấp những sự kiện, dẫn dắt học sinh đến những hiểu biết mới sâu sắc, có ấn tượng mạnh mẽ.
Ví dụ, khi dạy phần chủ đề “Các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta thời phong kiến ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX)”, để giúp học sinh thấy được ý nghĩa to lớn của trận Ngọc Hồi – Đống Đa trong cuộc kháng chiến chống Thanh ( 1789), giáo viên có thể dựa vào tư liệu lịch sử “vua Quang Trung đánh tan quân xâm lược Thanh” trong sách “Tư liệu lịch sử 10” để tường thuật trận Ngọc Hồi – Đống Đa. Trước khi xây dựng đoạn tường thuật, giáo viên đưa ra một số câu hỏi để học sinh trao đổi, thảo luận:
- Để đại phá quân Thanh, Quang Trung đã chia quân ta thành mấy đạo?
Hướng tiến công của các đạo quân được bố trí như thế nào?
- Trên đường tiến vào Thăng Long, quân ta đã tiêu diệt địch ở những nơi
nào?
- Kết quả, ý nghĩa của trận Ngọc Hồi – Đống Đa.
Sau khi học sinh trao đổi thảo luận, giáo viên có thể tường thuật về trận
Ngọc Hồi- Đống Đa như sau:
“Nhận được tin quân Thanh sang xâm lược, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ quyết định làm lễ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, chỉ huy quân tiến quân ra Bắc; trên đường đi đã dừng lại ở Nghệ An, Thanh Hóa để tuyển thêm quân.
Trên cơ sở nghiên cứu kĩ tình hình bố trí lực lượng của địch, Quang Trung chia quân thành 5 đạo: Đạo thứ nhất, là đạo quân chủ lực, do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, đánh thẳng vào các đồn lũy phía nam Thăng Long. Đạo thứ hai do Đô đốc Long chỉ huy đánh vào đồn Khương Thượng ( Đống Đa ). Đạo thứ ba do Đại đô đốc Bảo chỉ huy, tiến vào Đại Áng ( Hà Nội ), chuẩn bị tiêu diệt giặc ở đồn Ngọc Hồi. Đạo thứ tư do Đô đốc Tuyết chỉ huy, vượt biển tiến vào đóng ở Hải Dương, uy hiếp địch từ phía Đông. Đạo thứ năm do Đô đốc Lộc chỉ huy, theo đường biển tiến vào sông lục đầu, sẵn sàng đón đầu quân giặc.
Sau khi hoàn thành kế hoạch tác chiến, vua Quang Trung quyết định cho toàn quân ăn Tết trước với lời hứa hẹn “đến ngày mồng 7 tháng giêng, vào Thăng Long sẽ làm lễ hạ nêu, mừng chiến thắng”. Đúng vào lúc giao thừa Tết Kỉ Dậu, lệnh xuất quân được ban ra trong không khí hồ hởi, quyết chiến, quyết thắng, vua Quang Trung đã đọc vang lời hiểu dụ:
Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
31
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ
Bằng cuộc hành quân bí mật và thần tốc, quân ta đã tiêu diệt gọn các đồn tiền tiêu của địch ở Gián Khẩu và Thanh Quyết, không một tên giặc nào chạy thoát. Trong thế bất ngờ của giặc, vào nửa đêm mông 3 Tết Kỉ Dậu, quân chủ lực của ta bao vây thành Hà Hồi ( Thường Tín – Hà Nội), cách trung tâm Thăng Long 20 km. Quang Trung cho bắc loa gọi hàng, đang say sưa trong giấc ngủ, nghe thấy tiếng loa của quân ta, quân Thanh hốt hoảng chỉ biết bó tay xin hàng. Đồn Hà Hồi bị diệt gọn.
Quang Trung cho đóng quân tại đây và chuẩn bị cho trận chiến ở Ngọc Hồi. Đồn Ngọc Hồi là căn cứ then chốt trong hệ thống phòng ngự của địch, nằm án ngữ con đường thiên lý ( Đường số 1), cách Thăng Long khoảng 12 km ( thuộc Thanh Trì – Hà Nội ngày nay), đồn có khoảng 3 vạn quân đóng giữ, do phó tướng Hứa Thế Hanh chỉ huy. Hệ thống phòng ngự của đồn rất kiên cố, xung quanh cắm nhiều chông sắt, chôn nhiều địa lôi, trên mặt thành đặt nhiều đại bác. Mờ sáng ngày mồng 5 Tết, Quang Trung ra lệnh xuất quân. Mở đầu hơn 100 voi chiến của ta xông lên phía trước, tiếp theo là đội quân mang 20 tấm lá chắn khổng lồ bằng gỗ, quấn rơm, tẩm nước, cứ 10 người khênh một tấm đi trước bảo vệ cho bộ binh tiến theo sau. Trước cuộc tấn công như vũ bão của nghĩa quân, quân Thanh hoảng loạn, tháo chạy, bị tiêu diệt rất nhiều. Số còn lại chạy về kinh thành, gặp quân Tây Sơn án binh ở Văn Điển nên vội vàng chạy về Đầm Mực. Tại đây chúng bị đạo quân của Đô đốc Bảo đón đánh và tiêu diệt gọn
Cùng thời gian này, đạo quân của Đô đốc Long chỉ huy, bất ngờ tập kích đồn Đống Đa, đốt lửa thiêu cháy doanh trại giặc. Giặc hoảng loạn, chống cự yếu ớt, chủ tướng Sầm Nghi Đống tuyệt vọng, đã chạy lên gò Đống Đa thắt cổ tự tử. Thừa thắng, quân Tây Sơn xông thẳng vào kinh thành Thăng Long, tướng chỉ huy là Tôn Sĩ Nghị khiếp sợ, không kịp mặc áo giáp, ngựa không kịp thắng yên cương, chạy qua sông Hồng trốn về nước. Quân giặc thấy chủ tướng bỏ chạy như rắn mất đầu, cũng hoảng loạn, chen chúc nhau qua cầu phao chạy trốn. Cầu phao bị gãy, giặc rơi xuống sông chết nhiều không kể xiết.
Trưa mồng 5 Tết, vua Quang Trung trong áo bào xạm khói súng, ngồi trên lưng voi, dẫn đầu đoàn quân chiến thắng tiến vào Thăng Long trong niềm hân hoan chào đón của nhân dân”
Sau khi tường thuật, giáo viên yêu cầu học sinh: Rút ra đặc điểm và
nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Thanh.
Học sinh trao đổi, đàm thoại và cuối cùng giáo viên chột lại vấn đề:
- Đặc điểm của cuộc kháng chiến chống Thanh: Bí mật, thần tốc, táo bạo,
bất ngờ và chắc thắng.
32
- Nguyên nhân thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Thanh: Nhờ nghệ thuật lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Quang Trung; tinh thần chiến đấu hăng
say, kiên cường của quân sĩ; truyền thống yêu nước và ý chí đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc.
Như vậy, bài tường thật này không chỉ có tác dụng về mặt kiến thức, mà còn tạo ấn tượng mạnh mẽ, gây hứng thú học tập cho học sinh. Mở đầu bài tường thuật, giáo viên thu hút học sinh ngay vào câu chuyện, để các em tập trung chú ý và hứng thú theo dõi câu chuyện. Trình bày tình tiết gợi cảm, gây xúc động, tạo biểu tượng rõ ràng chân thật về cuộc chiến kết hợp với phân tích giúp học sinh hiểu sâu hơn nội dung, bản chất sự kiện. Qua đó giúp học sinh thấy được ý nghĩa to lớn của chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa, góp phần giáo dục lòng căm thù giặc sâu sắc, đồng thời thấy được tài mưu lược quân sự của Hoàng đế Quang Trung.
3.4. Hướng dẫn học sinh sử dụng tư liệu lịch sử để phân tích, giải
thích, tìm ra bản chất của các sự kiện, hiện tượng lịch sử đang học
Từ việc tri giác tư liệu lịch sử, giáo viên hướng dẫn cho học sinh tạo biểu tượng, nắm được khái niệm lịch sử, từ đó rút ra quy luật, bài học kinh nghiệm của quá khứ để học sinh vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Muốn đạt được điều đó, trong dạy học lịch sử các thao tác phân tích, giải thích và tìm ra bản chất lịch sử không thể thiếu được.
Tư liệu lịch sử không chỉ là phương diện để cụ thể hóa kiến thức, tạo biểu tượng lịch sử cụ thể cho học sinh mà nó còn là một trong những cơ sở để giúp học sinh phân tích, giải thích, tìm ra bản chất của các sự kiện, hiện tượng lịch sử đang học.
Phân tích là giảng giải, nhận xét tỉ mỉ để làm sáng tỏ mặt bản chất nào đó của sự vật, sự việc hay sự kiện lịch sử. Còn giải thích là nêu lên những mối quan hệ nội tại, tính quy luật, ý nghĩa của các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Phân tích, giải thích được sử dụng trong việc tìm hiểu bản chất, ý nghĩa của những hiện tượng phức tạp, những khái niệm, các quy luật, nhằm làm cho học sinh có quan điểm khoa học về sự phát triển của xã hội loài người, về những mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng. Phân tích, giải thích phù hợp với trình độ và yêu cầu học tập lịch sử ở trường trung học phổ thông, góp phần vào phát triển tư duy lý luận của học sinh. Vì vậy, trong mỗi bài giảng, giáo viên cần xác định rõ những vấn đề nào cần giải thích như sự thay đổi của một chế độ xã hội này bằng một chế độ xã hội khác, vai trò của quần chúng nhân dân trong một sự kiện lịch sử cụ thể.
33
Giải thích là bước quan trọng dẫn đến nắm nội dung khái niệm, từ chỗ hiểu hiện tượng đến hiểu bản chất của sự kiện lịch sử. Do đó, giải thích giúp học sinh đạt đến trình độ suy lí, nghĩa là qua việc hiểu biết lịch sử cụ thể rút ra những kết luận có tính chất lí luận khái quát. Trên cơ sở tư liệu lịch sử, giáo viên phân tích, khái quát để giúp học sinh hiểu bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Ví dụ, khi dạy chủ đề “Nhà nước phong kiến Việt Nam ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX”, để giúp học sinh hiểu rõ vì sao năm 1010, Vua Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La sau đổi thành Thăng Long ( Hà Nội), giáo viên hướng dẫn học sinh nghiên cứu tư liệu lịch sử: “Chiếu dời đô” của vua Lý Thái Tổ.
" Xưa, nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô; nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô; đâu phải các vua thời Tam đại đều theo ý riêng của mình mà tự tiện dời đô xằng bậy. Làm như thế cốt là để mưu nghiệp lớn, chọn ở nơi chính giữa, dựng kế cho con cháu muôn đời; trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện lợi thì dời đổi, cho nên vận nước dài lâu, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ của Thương, Chu, cứ chịu đóng đô ở yên nơi đây, đến nỗi vận thế không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không tươi tốt. Trẫm rất đau lòng, không thể không dời đổi. Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực đất trời, được thế rồng chầu- hổ phục, chính giữa nam-bắc-đông- tây, tiện nghi núi sau, sông trước. Vùng này, mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa; dân cư không phải chịu khổ vì thấp trũng, tối tăm; muôn vật hết sức tốt tươi phồn thịnh. Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ sao?"
Từ tư liệu lịch sử trên, giáo viên đưa ra câu hỏi gợi mở để học sinh hiểu
được :
- Vì sao năm 1010, Vua Lý Thái Tổ chọn thành Đại La làm nơi xây dựng
kinh đô?
- Việc làm trên của vua Lý Thái Tổ có ý nghĩa gì?
Để trả lời các câu hỏi nêu trên đòi hỏi học sinh phải nghiên cứu tư liệu lịch sử, phân tích tư liệu, tích cực trao đổi thảo luận để thấy được địa thế của Thăng Long rất thuận lợi về giao thông và phát triển đất nước lâu dài. Việc dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La thể hiện quyết định sáng suốt của Lí Công Uẩn tạo đà cho sự phát triển của đất nước. Dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặt lớn, đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc Đai Việt không cần phải dựa vào địa thế hiểm trở của Hoa Lư để phòng thủ mà đã dám đương đầu với mọi mặt , mở ra bước phát triển mới của dân tộc Đại Việt thời kì phát triển và hoàn chỉnh của nhà nước phong kiến. Thông qua đó, giáo dục các em lòng biết ơn đối với những người có công với nước và có ý thức bảo vệ nền độc lạp dân tộc. Đồng thời rèn luyện cho các em năng lực nhận thức và tư duy như phân tích, giải thích và rút ra nhận xét.
3.5. Sử dụng tư liệu lịch sử để định hướng học sinh trong ôn tập hoặc
34
ra bài tập về nhà
Trong học tập lịch sử, quá trình nhận thức của học sinh cũng tuân theo quy luật chung của quá trình nhận thức của loài người, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Việc hình thành kiến thức lịch sử là quá trình vận động nhận thức của học sinh đi từ chưa biết đến biết, biết chưa đầy đủ đến biết đầy đủ, từ biết đến hiểu bản chất, nắm vững những quy luật phát triển của lịch sử và vận dụng tri thức trong cuộc sống. Quá trình này không diễn ra một cách tự nhiên mà phải có sự kích thích của giáo viên.
Ôn tập là quá trình người học khái quát, hệ thống lại những kiến thức đã lĩnh hội theo một trật tự mới để có thể ghi nhớ, nắm chắc được những kiến thức đã được truyền đạt trong quá trình dạy học. Qua đó, người học được rèn luyện các kĩ năng học tập bộ môn và giáo dục tư tưởng, thái độ, tình cảm. Do đặc điểm của bộ môn Lịch sử có tính quá khứ, tức là khi học lịch sử học sinh được học về những sự kiện, hiện tượng đã diễn ra trong quá khứ. Vì thế học sinh không trực tiếp quan sát được những sự kiện, hiện tượng đã xẩy ra mà chỉ nhận thức một cách gián tiếp thông qua các nguồn tư liệu được lưu lại. Đây là một trở ngại, khó khăn lớn đối với học sinh khi học lịch sử. Bởi vậy, để học sinh nắm vững kiến thức lịch sử thì việc ôn tập, củng cố kiến thức là việc làm thiết thực nhất, có ý nghĩa lớn lao. Việc hướng dẫn học sinh ôn tập và củng cố kiến thức không chỉ giúp học sinh ghi nhớ được các sự kiện, hiện tượng mà còn giúp các em nhận thức ra mối liên hệ biện chứng, lôgic giữa các sự kiện lịch sử. Thông qua việc ôn tập, củng cố kiến thức, giáo viên phát hiện kịp thời, uốn nắn, sửa chữa những thiếu sót và hoàn chỉnh kiến thức cho học sinh, giúp học sinh hiểu rõ hơn các sự kiện, hiện thượng lịch sử.
Việc ôn tập, củng cố kiến thức lịch sử hoặc ra bài tập về nhà góp phần rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh như kĩ năng phân tích, so sánh, đánh giá, nhận xét các sự kiện lịch sử; ôn tập củng cố kiến thức lịch sử thông qua bài tập còn giúp học sinh rèn luyện kĩ năng sống, vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Thông qua bài tập không chỉ giúp các em nắm chắc kiến thức mà còn góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức và hình thành thái độ học tập bộ môn đúng đắn, từ đó các em có thái độ trân trọng những thành tựu của dân tộc, lòng biết ơn và tự hào về truyền thống dân tộc, đồng thời có ý thức giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.
Khi xây dựng hệ thống bài tập cần chú ý mấy điểm sau: bài tập phải phù hợp với nội dung dạy học, phù hợp với năng lực nhận thức của học sinh và phải góp phần củng cố, nâng cao hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức; bài tập đưa ra phải buộc học sinh suy nghĩ, kích thích nhu cầu muốn hiểu biết của các em, đồng thời gây hứng thú học tập, phát triển năng lực tư duy của học sinh; bài tập phải chính xác, ngắn gọn về nội dung, chuẩn mực về hình thức và phong phú đa dạng.
35
Có thể đưa ra các dạng bài tập cho học sinh như sau:
Bài tập dưới dạng một câu hỏi tổng hợp: Yêu cầu đối với loại bài tập này không phải là học sinh lặp lại những kiến thức đã tiếp nhận trên lớp mà phải xem xét các sự kiện đã học trong mối quan hệ khác, đòi hỏi phát triển thêm một khía cạnh mới của vấn đề hoặc làm cho kiến thức đã biết thêm sâu sắc, nâng cao trình độ nhận thức ở mức khái quát. Bài tập này thường được đưa ra khi nghiên cứu xong một chủ đề, hay một chương, một giai đoạn.
Ví dụ, sau khi học xong chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX”, giáo viên dựa vào câu nói của Thân Nhân Trung để ra bài tập về nhà:“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết”. Trình bày suy nghĩ của em về câu nói trên?. Như vậy bài tập dưới dạng tổng hợp này không những giúp học sinh củng cố kiến thức đã học mà còn rèn luyện học sinh kĩ năng lập luận, diễn đạt vấn đề.
Bài tập rèn luyện kĩ năng thực hành: Nhằm làm cho học sinh có biểu tượng chính xác, giàu hình ảnh, biết vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Vì vậy nội dung thực hành giúp cho học sinh rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo thực hành bộ môn; đồng thời làm cho học sinh biết phân tích, giải thích, trình bày, nhận xét của mình về kết quả thực hành đó, qua đó bồi dưỡng cho các em những phẩm chất tốt đẹp, những hành động đúng. Bài tập thực hành gồm các dạng sau: bài tập lập niên biểu giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức, ghi nhớ, so sánh các sự kiện để rút ra bản chất, sự khác biệt; bài tập vẽ lược đồ nhằm khắc sâu kiến thức, xác định không gian, thời gian của sự kiện; bài tập vẽ sơ đồ, biểu đồ; bài tập thực hành vè sưu tầm tranh ảnh, tài liệu...nhất là tài liệu địa phương.
Ví dụ, sau khi học xong chủ đề “Tình hình kinh tế Việt Nam thời phong kiến( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX)”, giáo viên ra bài tập về nhà cho học sinh như sau: Hãy nêu những câu ca dao về nghề thủ công mà em biết. Hay sau khi học xong chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX”, giáo viên ra bài tập về nhà cho học sinh như sau: Tìm hiểu và sưu tầm tranh ảnh, video về di sản văn hóa Việt Nam thời phong kiến ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX).
36
Bài tập trắc nghiệm khách quan: Trắc nghiệm khách quan là hệ thống câu hỏi, bài tập đòi hỏi các câu lời ngắn để đo kĩ năng, kĩ xảo trí tuệ, năng lực của cá nhân hay của một nhóm học sinh. Do đó bài tập trắc nghiệm khách quan rất phù hợp với giáo viên trong việc hướng dẫn ôn tập, kiểm tra kiến thức cho học sinh, không những giúp học sinh nhớ lại khắc sâu kiến thức mà còn giúp các em hứng thú hơn khi ôn tập. Trong dạy học lịch sử, giáo viên có thể dựa vào tư liệu lịch sử để đưa ra bài tập trắc nghiệm khách quan cho học sinh.
Ví dụ, sau khi học xong chủ đề: “Các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta thời phong kiến ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX)”, giáo viên dựa vào câu nói của Trần Hưng Đạo để ra bài tập trắc nghiệm khách quan: "...giặc cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con một nhà mới có thể chiến thắng được. Và phải khoan thư sức dân để làm cái kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước không còn gì hơn”.
Dựa vào tư liệu trên em hãy khoanh tròn vào chữ cái đứng đầu câu trả lời
đúng trong các câu sau đây:
Câu 1. Ý nào không phản ánh đúng bài học thượng sách giữ nước của
Trần Hưng Đạo?
A. Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục
B. Đoàn kết toàn dân, cả nước góp sức, vạn người như một
C. Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc
D. Xây dựng nền kinh tế tự chủ
Câu 2. Bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc kháng chiến chống Mông –
Nguyên cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
A. Đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của toàn dân
B. Xây dựng nền kinh tế tự chủ
C. Xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc
D. Giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hòa bình
Hay đánh giá về các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định như sau: “Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”
Em hiểu lòng yêu nước ở đây là gì?
A. tình yêu quê hương, đất nước và tinh thần sẵn sàng đem hết khả năng
của mình phục vụ cho lợi ích của Tổ quốc.
B. là thước đo để đánh giá phẩm chất, đạo đức một con người
C. là những tình cảm cao đẹp, trong sáng
37
D. là sự đoàn kết để vượt qua khó khăn
Trên đây là một số bài tập trắc nghiệm khách quan dùng trong ôn tập, củng cố nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, giúp các em ôn tập, củng cố kiến thức hiệu quả nhất.
Như vậy, khi ôn tập kiến thức lịch sử cho học sinh, việc sử dụng tư liệu lịch sử để xây dựng bài tập lịch sử là một trong những biện pháp quan trọng để hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức cho học sinh, tránh lối học tủ, học vẹt, không nắm được trọng tâm kiến thức.
3.6. Sử dụng tư liệu lịch sử để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập bộ
môn của học sinh
Ngày nay, dạy học theo định hướng phát triển năng lực đang trở thành một xu hướng phổ biến. Theo định hướng này, giáo dục không chỉ trang bị cho học sinh kiến thức, kĩ năng môn học mà còn chú ý đến những năng lực cần thiết như năng lực tìm tòi, khám phá lịch sử; năng lực nhận thức và tư duy lịch sử; năng lực vận dụng kiến thức lịch sử vào thực tiễn. Cho nên, việc đánh giá kết quả học tập của học sinh không chỉ dừng lại ở khả năng tái hiện lại những kiến thức đã học mà quan trọng nhất là khả năng vận dụng một cách sáng tạo những tri thức đã học trong những tình huống cụ thể của cuộc sống. Do dó, để bắt kịp với xu hướng đổi mới của thời đại và để việc kiểm tra đánh giá đúng năng lực học tập của học sinh, việc sử dụng tư liệu lịch sử trong kiểm tra, đánh giá là việc làm cần thiết.
Sử dụng tư liệu lịch sử trong quá trình học tập nói chung và kiểm tra, đánh giá nói riêng sẽ giúp học sinh dễ dàng tiếp nhận và ghi nhớ sự kiện nhanh hơn, lâu hơn. Làm việc với tư liệu lịch sử, các em được đưa ra những quan điểm, nhận định của mình về sự kiện, hiện tượng lịch sử mà không bị rập khuôn, máy móc theo lối dạy học truyền thống. Với các đoạn trích ngắn gọn, giàu hình tượng sẽ góp phần phát triển năng lực tư duy của học sinh. Bên cạnh việc phát triển năng lực nhận thức, việc sử dụng tư liệu trong kiểm tra đánh giá sẽ phát triển năng lực thực hành cho học sinh. Khi làm việc với các tư liệu lịch sử các em sẽ được rèn luyện kĩ năng đọc tư liệu, phát triển khả năng phân tích tư liệu từ đó dần dần hình thành thói quen nghiên cứu khoa học, phát triển ngôn ngữ, khả năng trình bày.
Ví dụ, sau khi học xong chủ đề “Các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta thời phong kiến ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX)”, giáo viên có thể kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh câu hỏi sau:
38
Cho tư liệu lịch sử sau: "...giặc cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con một nhà mới có thể chiến thắng được. Và phải khoan thư sức dân để làm cái kế sâu rễ
bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy” (Sách Ngữ văn 10, tập 2, NXB Giáo dục, 2006,tr 42)
Từ tư liệu lịch sử trên, Anh/ chị hiểu “dùng đoản chế trường” là gì? Nghệ thuật chỉ đạo tác chiến đó đã được vận dụng như thế nào trong ba lần kháng chiến chống Mông – Nguyên.
Như vậy, với việc sử dụng tư liệu lịch sử để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập học sinh như trên không những giúp học sinh khắc sâu kiến thức, thấy được tài thao lược quân sự của tướng Trần Hưng Đạo, mà còn giúp học sinh hiểu được vì sao ở thế kỉ XIII vó ngựa quân Mông Cổ đi đến đâu cỏ chết đến đó, nhưng ba lần đặt chân đến Đại Việt đều bại trận. Đồng thời qua nghiên cứu tư liệu lịch sử cũng rèn luyện cho học kĩ năng đọc và phân tích tư liệu, kĩ năng trình bày, lập luận; giáo dục cho học sinh lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với các bậc anh hùng; từ đó giáo dục học sinh có ý thức bảo vệ và xây dựng đất nước.
3.7. Hướng dẫn học sinh đọc tư liệu lịch sử để chuẩn bị cho các hoạt
động ngoại khóa.
Để thực hiện mục tiêu môn học ở trường phổ thông, ngoài việc tiến hành bài học nội khóa, ngoại khóa là một hình tổ chức dạy học được học sinh rất thích thú. Thông qua các hoạt động ngoại khóa, học sinh được bồi dưỡng kiến thức, giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ và phát triển các năng lực của bản thân.
Về mặt kiến thức, hoạt động ngoại khóa làm sâu sắc và phong phú kiến thức của học sinh về các mặt khác nhau của cuộc sống xã hội, góp phần gây hứng thú học tập lịch sử. Khi có hứng thú, học sinh sẽ học tập tự giác, tích cực, chủ động do đó sẽ giúp học sinh nhớ lâu kiến thức.
Về kĩ năng, hoạt động ngoại khóa không bị bó buộc trong phạm vi lớp học nhỏ hẹp, hoàn toàn mang tính tự nguyện. Các em có thể tự chọn và tham gia một công tác hợp với sở thích và trình độ của mình nên học sinh được thoải mái thể hiện sự sáng tạo, làm nẩy sinh và phát triển hứng thú của học sinh. Hoạt động ngoại khóa còn giúp học sinh đem những kiến thức đã học, những kĩ năng đã được rèn luyện trong giờ nội khóa vận dụng vào công tác thực tế như sưu tầm tư liệu, công tác xã hội...qua đó rèn luyện cho học sinh năng lực hành động.
Về giáo dục, hoạt động ngoại khóa góp phần vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho học sinh, giúp các em được rèn luyện tính kỉ luật, biết yêu lao động, biết đoàn kết giúp đỡ nhau thực hiện nhiệm vụ chung.
39
Cùng giải quyết nhiệm vụ chung của quá trình dạy học, bài học nội khóa và hoạt động ngoại khóa luôn có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Mặc dù được thực hiện ngoài giờ lên lớp nhưng nội dung của hoạt động ngoại khóa bao giờ cũng xuất phát từ những kiến thức cơ bản của sách giáo khoa mà trong thời gian có hạn trên lớp, giáo viên không thể đi sâu phân tích tất cả các
nội dung học tập. Chính vì vậy, hoạt động ngoại khóa cho phép giáo viên có thể thiết kế các kế hoạch hoạt động phù hợp với bài nội khóa, phù hợp với nguyện vọng và sở trường của học sinh. Hoạt động ngoại khóa góp phần làm phong phú, sâu sắc, toàn diện các tri thức lịch sử mà học sinh đã lĩnh hội ở trên lớp, hoàn thành được các yêu cầu về bồi dưỡng kiến thức, phát triển và giáo dục học sinh.
Trong hoạt động ngoại khóa, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đọc tư
liệu lịch sử để chuẩn bị cho các hoạt động dưới đây:
*Hướng dẫn học sinh đọc tư liệu lịch sử để chuẩn bị tham gia kể chuyện
lịch sử.
Kể chuyện lịch sử là một hình thức hoạt dọng ngoại khóa hấp dẫn, dễ làm và có tác dụng giáo dục cao. Nội dung câu chuyện phải liên quan đến các sự kiện cơ bản trong bài học, chân xác, tránh những chi tiết li kì không có giá trị khoa học, không phù hợp với yêu cầu học tập.
Kể chuyện bao giờ cũng có chủ đề và có tình tiết, làm cho người nghe xúc động như được sống lại với sự kiện ấy. Nội dung bài kể chuyện không chỉ có khối lượng sự kiện, tri thức được cung cấp mà còn bao gồm cả việc phân tích, nêu lên bản chất của sự vật, hiện tượng. Nếu tính lôgic của câu chuyện kể được xây dựng trên cơ sở những sự kiện, tri thức chính xác thì nó có ý nghĩa giáo dục rất lớn. Thông thường một câu chuyện kể bao gồm những yếu tố như giới thiệu vấn đề, tình huống được đặt ra, diễn biến sự kiện, kết thúc và mang kịch tính cao. Một câu chuyện được bố cục như vậy mang kịch tính cao, dẫn dắt người nghe qua các sự kiện, làm cho họ ngày càng hứng thú. Sự hứng thú của người nghe không phải chỉ vì được cung cấp các sự kiện chi tiết hay hấp dẫn mà còn vì nội dung giáo dục của câu chuyện.
Ví dụ, sau khi học xong chủ đề “Các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta thời phong kiến ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) ”, giáo viên tổ chức ngoại khóa dưới hình thức kể chuyện lịch sử, yêu cầu học sinh sưu tầm tư liệu lịch sử viết về thân thế và công lao của Lê Lợi đối với sự nghiệp cứu nước sau đó kể lại cho cả lớp hoặc toàn khối nghe. Học sinh sẽ nghiên cứu tư liệu dưới sự định hướng của giáo viên để xây dựng lại câu chuyện và trình bày.
Với hoạt động ngoại khóa trên giúp cho học sinh củng cố và khắc sâu kiến thức về thân thế và công lao của Lê Lợi đối với sự nghiệp cứu nước. Qua đó rèn cho học sinh kĩ năng làm việc độc lập với các tư liệu lịch sử và kĩ năng diễn đạt, trình bày một vấn đề trước tập thể.
*Hướng dẫn học sinh đọc tư liệu lịch sử để chuẩn bị cho trao đổi, thảo
luận.
40
Trao đổi, thảo luận là hình thức ngoại khóa nhằm giúp học sinh bày tỏ ý kiến của mình để củng cố kiến thức khoa học, lòng tin sau khi đọc một quyển sách, nghe kể chuyện, nói chuyện lịch sử, hoặc suy nghĩ về một vấn đề nào đó.
Có nhiều cách tiến hành trao đổi, thảo luận. Có thể tiến hành trao đổi, thảo luận trong phạm vi lớp. Đối với học sinh trung học phổ thông, những cuộc trao đổi thảo luận không chỉ để ghi nhớ nội dung một vấn đề mà chủ yếu là khơi dậy những suy nghĩ độc lập của các em. Chủ đề nêu ra phải là những vấn đề lớn, tiêu biểu, điển hình, nhận được sự quan tâm của xã hội và mang tính thời sự sâu sắc. Trong quá trình trao đổi, giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc điều khiển, định hướng tư duy của các em vào các nội dung chính cần thảo luận, giáo viên cần động viên gợi ý để tất cả học sinh đều mạnh dạn đề xuất và mong muốn của mình được thể hiện ý kiến trước tập thể. Giáo viên đóng vai trò như một người trọng tài, phân định đúng sai để các em biết khiêm tốn, lắng nghe và phản biện khi cần thiết. Cuối cùng, giáo viên là người khái quát vấn đề, nhận xét và kết luận.
Ví dụ: Trao đổi, thảo luận về “ Vai trò vương triều Mạc trong lịch sử dân tộc”. Để trao đổi, thảo luận vấn đề này, giáo viên giới thiệu học sinh đọc các tư liệu lịch sử như:
- Bài “Nhìn lại một số việc làm của nhà Mạc” trong cuốn “ Nhà Mạc và dòng học Mạc trong lịch sử” của Giáo sư,Tiến sĩ Trương Hữu Quýnh – Trường Đại học sư phạm Hà Nội
- Bài “Những đóng góp của vương triều Mạc với kinh thành Thăng Long”
trong “Báo nhân dân” của Tiến sĩ Nguyễn Doãn Tuân, Nguyễn Tuyết Anh.
- Bài “Những đóng góp của vương triều Mạc trong sự nghiệp phát
triển,văn hóa giáo dục dân tộc” của Tiến sĩ Đặng Kim Ngọc.
Trên cơ sở nghiên cứu các tư liệu lịch sử, học sinh trao đổi, thảo luận rút ra được những đóng góp của vương triều Mạc trong lịch sử dân tộc. Việc làm này có tác dụng lớn không những giúp học sinh củng cố, bổ sung và hoàn thiện kiến thức về vương triều Mạc mà góp phần xóa bỏ đi những thành kiến, định kiến về nhà Mạc của các sử gia phong kiến trước đây coi nhà Mạc là “Ngụy triều” tức là đã phủ nhận những đóng góp chung của nhà Mạc trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục và nghệ thuật; giúp học sinh có cái nhìn khách quan về các sự kiện hiện tượng lịch sử diễn ra trong quá khứ. Qua đó rèn luyện cho học sinh sự tự tin, khả năng sử dụng ngôn ngữ, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo; giáo dục ý thức bảo tồn giá trị văn hóa lịch sử, bồi đắp thêm tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về truyền thống dân tộc, góp phần phát triển tư duy tích cực, độc lập của học sinh, tạo sự hứng thú trong học tập bộ môn.
* Hướng dẫn học sinh đọc tư liệu lịch sử để chuẩn bị tham gia dạ hội lịch
sử
Dạ hội lịch sử là một hoạt động ngoại khóa có tính chất tổng hợp, thu hút tất cả học sinh trong lớp, trường tham dự. Lực lượng tham gia dạ hội lịch sử thường có 2 nhóm, một số ít học sinh tham gia biểu diễn và đông đảo học sinh khác là khán giả. Đối với cả hai nhóm, dạ hội lịch sử có tác dụng củng cố, làm 41
sâu sắc, phong phú thêm nhiều tri thức khoa học và nghệ thuật, gợi dậy những xúc cảm làm cơ sở để giáo dục tình cảm bồi dưỡng óc thẩm mĩ, gây hứng thú học tập bộ môn. Việc sử dụng tư liệu lịch sử, phân tích tác phẩm văn học, nghiên cứu cách trình bày, thể hiện nội dung các tác phẩm văn học, những tiết mục văn nghệ...không chỉ làm phong phú kiến thức mà còn rèn luyện năng lực độc lập làm việc, bồi dưỡng năng khiếu biểu diễn và cảm thụ nghệ thuật cho học sinh.
Chủ đề của dạ hội lịch sử rất phong phú như chủ đề về lịch sử địa phương, về vấn đề cuộc sống hiện nay . Để tiến hành dạ hội có hiệu quả, phải thực hiện các yêu cầu sau:
Thứ nhất, dạ hội phải có mục đích giáo dưỡng, giáo dục và phát triển rõ rệt. Thông qua dạ hội lịch sử, học sinh phải được bồi dưỡng về lòng tin đối với cách mạng, với quần chúng nhân dân, thắt chặt hơn tình đoàn kết và củng cố thái độ học tập đúng đắn, rèn luyện năng lực tư duy và hành động.
Thứ hai, dạ hội phải thu hút được học sinh tham gia, phải phát huy năng lực độc lập, tính tích cực chủ động hoạt động và tinh thần tập thể của học sinh. Khi giao công việc cho học sinh, phải tùy theo nội dung, trình độ và năng khiếu của mỗi em. Việc lựa chọn học sinh ở các khối lớp tham gia luyện tập biểu diễn các tiết mục văn nghệ không làm ảnh hưởng tới việc học tập và các hoạt động khác của học sinh.
Thứ ba, linh hoạt và da dạng hóa các hình thức tổ chức. Phải kết hợp giữa thi tìm hiểu kiến thức với biểu diễn văn nghệ, giữa hoạt động tuyên truyền với thi đố vui lịch sử...
Ví dụ, trong phần Lịch sử Việt Nam thời phong kiến (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), giáo viên có thể tổ chức cho học sinh buổi dạ hội lịch sử kỉ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa (1789).
Mục tiêu của buổi dạ hội:
- Về mặt kiến thức: Giúp học sinh củng cố, hoàn thiện hệ thống kiến thức cơ bản đã được học trong giờ học nội khóa về cuộc kháng chiến chống Thanh của nghĩa quân Tây Sơn với trận đánh tiêu biểu Ngọc Hồi – Đống Đa; nâng cao nhận thức cho học sinh về ý nghĩa của chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa.
- Về tư tưởng, thái độ: Giáo dục cho học sinh truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc và biết ơn với các thế hệ tổ tiên, các anh hùng dân tộc đã chiến đấu quên mình vì Tổ quốc; bồi dưỡng học sinh lý tưởng sống, có ý thức trách nhiệm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay; tạo niềm yêu thích, say mê học tập và khám phá lịch sử.
42
- Về kĩ năng: Rèn luyện cho học sinh khả năng diễn xuất, hùng biện trước đám đông; phát triển tư duy lịch sử, tranh biện, phát triển các năng lực chuyên biệt (múa hát, diễn kịch, dẫn chương trình ...).
Kế hoạch tổ chức:
- Ngay từ đầu năm học, tổ chuyên môn phải xây dựng kế hoạch kỉ niệm. Nhóm chuyên môn lịch sử chịu trách nhiệm chính trong chuẩn bị nội dung câu hỏi, duyệt kịch bản, tiểu phẩm của các cá nhân và tập thể học sinh tham gia. Các nhóm chuyên môn còn lại chịu trách nhiệm các khâu tổ chức khác.
- Chủ đề dạ hội được công bố trước để học sinh có thời gian tham gia tìm
hiểu và tập luyện.
- Giáo viên và học sinh toàn trường tham gia
- Địa điểm tại sân khấu trường
- Gồm 3 đội chơi ở 3 khối lớp, mỗi đội chơi gồm có 3 em.
Chương trình của buổi dạ hội gồm 5 phần thi:
- Phần 1: Nói chuyện lịch sử “Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa -Trang
sử vẻ vang của dân tộc”.
Phần này do giáo viên phụ trách, chủ yếu trình bày khái quát những nét cơ bản về trận Ngọc Hồi – Đống Đa. Để minh họa cho phần này và thu hút sự chú ý của học sinh, giúp học sinh dễ dàng hình dung những sự kiện lịch sử đã qua, giáo viên sử dụng phim tư liệu “Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa lừng lẫy” trong kí ức Hà Nội trình chiếu kết hợp với trình bày.
- Phần 2: Khởi động
Các đội chơi bước vào phần thi đầu tiên với nội dung thi chủ yếu đánh giá khả năng ghi nhớ và phản xạ trả lời nhanh, do đó câu hỏi và đáp án phải thật ngắn gọn. Mỗi đội chơi có 30 giây để trả lời câu hỏi. Nội dung câu hỏi tập trung vào vương triều Tây Sơn. Các câu hỏi được thiết kế sẵn trên màn hình và sau 30 giây các đội phải đưa ra phương án trả lời.
- Phần 3: Văn nghệ
Giáo viên chọn khoảng 3 – 4 tiết mục văn nghệ do học sinh chuẩn bị, có thể loại phong phú và phù hợp với chủ đề dạ hội như bài hát “Lên đàng” của nhạc sĩ Lê Hữu Phước, tiết mục múa hát “Ngọc Hồi Đống Đa – Bản hùng ca bất tử ” của nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Lựu do một nhóm học sinh nam nữ trình bày. Những tiết mục văn nghệ này có tác dụng giúp cho khán giả được sống trong không khí hào hùng lịch sử và tạo thời gian để các đội chuẩn bị cho phần thi sau.
- Phần 4: Trò chơi “Hiểu ý đồng đội”
43
Mỗi đội chơi có 5 từ chìa khóa về khái niệm, địa danh, nhân vật, sự kiện lịch sử liên quan đến vương triều Tây Sơn. Mỗi đội chơi cử ra hai người hiểu ý nhau. Khi tham gia trò chơi này, cả hai người áp lưng lại với nhau; trong vòng 60 giây một bạn nhìn vào màn hình gợi ý, dùng lời nói hoặc hành động để diễn đạt mà không được phép lặp lại từ chìa khóa, cũng không được sử dụng tiếng
Anh hoặc tiếng địa phương để dịch từ đó; bạn còn lại quay lưng lại (không được nhìn lên bảng) sẽ đoán từ theo gợi ý của bạn mình để trả lời. Lưu ý, trong quá trình trả lời, nếu thấy câu hỏi khó, người chơi có quyền bỏ qua, mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm.
Như vậy với trò chơi này không những giúp học sinh hào hứng mà còn
rèn luyện khả năng phán đoán, ôn lại kiến thức lịch sử.
- Phần 5: Hùng biện
Ban tổ chức chuẩn bị sẵn các chủ đề hùng biện và đánh số thứ tự. Mỗi đội cử một đại diện có khả năng hùng biện tốt nhất, sau khi bốc thăm câu hỏi, người chơi có 1 phút suy nghĩ và 3 phút bình luận. Ban giám khảo sẽ đánh giá phần thi hùng biện dựa theo các tiêu chí sau: hình thức ( ngôn ngữ diễn đạt, văn phong) và nội dung ( đúng chủ đề). Ở phần này, giáo viên có thể đưa ra một số câu hỏi hùng biện như sau: Nếu có một bạn nước ngoài quan tâm đến lịch sử Việt Nam, rất muốn đến thăm Gò Đống Đa nhân kỉ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa, em sẽ viết thư khuyên bạn ấy như thế nào? Hay ca ngợi về vua Quang Trung, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bài “Lịch sử nước ta” như sau:
“Nguyễn Huệ là kẻ phi thường
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu.
Ông đã chí cả mưu cao,
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
Cho nên Tàu dẫu làm hung,
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.”
Em có suy nghĩ gì về lời đánh giá này?
Hay nêu trách nhiệm của thế hệ thanh niên và học sinh trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Với phần thi hùng biện này, học sinh có cơ hội được trình bày quan điểm, cách nhìn nhận và đánh giá của mình đối với một vấn đề cụ thể, rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ và tự tin thể hiện khả năng của mình trước đám đông.
Như vây, dạ hội lịch sử là một hoạt động ngoại khóa mang tính tổng hợp, công phu, có quy mô lớn, với ưu điểm là sinh động, hấp dẫn, tính thực tiễn cao, thu hút được học sinh toàn trường tham gia. Thông qua hoạt động này, học sinh tạo sự hứng thú, đam mê tìm hiểu học tập bộ môn. Đồng thời rèn luyện năng lực làm việc độc lập, phát triển năng khiếu nghệ thuật và ngôn ngữ.
4. Thực nghiệm sư phạm
44
4.1. Đối tượng thực nghiệm
Chọn ngẫu nhiên 2 lớp tại trường THPT nơi tôi công tác , học sinh có học
lực tương đương là lớp 10A11 và lớp 10A12.
4.2. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp điều tra, so sánh, đối chứng trong đó chọn lớp 10A11 làm lớp thực nghiệm và lớp 10A12 làm lớp đối chứng. Lớp thực nghiệm, giáo án chủ đề soạn chi tiết trong đó tập trung sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh. Còn lớp đối chứng, giáo án chủ đề ít chú ý đến sử dụng tư liệu và sử dụng tư liệu chủ yếu để minh họa cho bài dạy.
Phương pháp quan sát qua việc tổ chức, hướng dẫn học sinh học trên lớp.
Phương pháp thống kê, làm bài kiểm tra. Sau khi học xong chủ đề, để đánh giá hiệu quả bài học, chúng tôi tiến hành việc kiểm tra kiến thức của học sinh bằng bài kiểm tra 10 phút ở cuối tiết dạy chủ đề. Câu hỏi kiểm tra hoạt động nhận thức của học sinh ở hai lớp có nội dung giống nhau theo bài học.
Đề kiểm tra đánh giá như sau: Vì sao bia Tiến sĩ lại được đặt lên lưng
rùa? Việc dựng bia Tiến sĩ có tác dụng gì?
Tiêu chuẩn đánh giá: giải thích đầy đủ ý vì sao bia Tiến sĩ được đặt trên lưng rùa (5 điểm). Nêu được tác dụng của việc dựng bia Tiến sĩ ( 5 điểm) .Tổng điểm tối đa của bài 10 điểm.
4.3. Kết quả thực nghiệm
Sau khi chấm bài kiểm tra, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Xếp loại Lớp thực nghiệm 10A11 Sĩ số: 45 Lớp đối chứng 10A12 Sĩ số: 45
Giỏi ( 9 - 10 điểm) Khá (7 – 8 điểm) Trung bình ( 5 – 6 điểm) Yếu ( < 5 điểm) Số lượng 11 29 5 0 % 24,5 64,5 11 0 Số lượng 0 21 23 1 % 0 46,7 51,1 2,2
Từ kết quả thực nghiệm trên cho thấy sự chênh lệch cao giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Cụ thể lớp thực nghiệm điểm khá giỏi chiếm 89%, không có điểm yếu; lớp đối chứng điểm giỏi không có, chủ yếu là điểm trung bình khá. Điều này chứng tỏ các biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học bộ môn đã đem lại hiệu quả cao, giúp học sinh lĩnh hội kiến thức.
45
Như vậy việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học bộ môn ở trường phổ thông là rất cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả bài học.
PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu và thực nghiệm sư phạm tôi đi đến kết luận sau:
Lịch sử vô cùng phong phú, đa dạng và luôn chứa đựng những ẩn số của nó. Ngày nay khoa học nói chung, khoa học lịch sử nói riêng đang phát triển như vũ bão, chương trình và sách giáo khoa phổ thông dù có tiến bộ đến mấy cũng khó thể hiện hết tính sinh động của lịch sử. Do đó trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông vấn đề khai thác và sử dụng tư liệu lịch sử là rất cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, phát triển năng lực nhận thức, rèn luyện kĩ năng tư duy và kĩ năng thực hành bộ môn cho học sinh, đáp ứng được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học.
Muốn nâng cao được hiệu quả dạy học lịch sử, trước hết giáo viên phải nắm vững được hệ thống cơ sở lí luận phương pháp dạy học bộ môn, trong đó việc nâng cao nhận thức và sử dụng tư liệu lịch sử một cách hợp lí có hiệu quả. Từ kết quả điều tra thực tiễn việc sử dụng tư liệu, chúng tôi khẳng định sự cần thiết của việc sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học bộ môn.
Để có nguồn tư liệu lịch sử tốt phục vụ cho dạy học bộ môn, chúng tôi đã bám sát sách giáo khoa, xác định hệ thống kiến thức cơ bản mà học sinh cần phải nắm từ đó sưu tầm, sử dụng tư liệu lịch sử thích hợp.
Khi sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học phải đảm bảo tính vừa sức, tránh tình trạng nhồi nhét quá nhiều vấn đề không cần thiết, phải biết kết hợp nhuần nhuyễn việc sử dụng tư liệu lịch sử với các phương pháp dạy học khác.
Kết quả thực nghiệm sư phạm của đề tài đã khẳng định tính khả thi và tính hiệu quả của việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh.
2. Kiến nghị
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đã đạt được của đề tài, cùng với mục đích góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn trong trường phổ thông, tôi nêu một số kiến nghị sau:
Cùng với việc đổi mới phương pháp dạy học, việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh cũng phải được coi trọng hơn nữa và phải được tiến hành đồng bộ, có hiệu quả.
46
Cần đa dạng hóa các hình thức dạy học theo hướng tăng cường các tổ chức hoạt động trải nghiệm, gắn học tập với thực tiễn, gắn giáo dục trong nhà trường với giáo dục ngoài xã hội. Từ đó học sinh không những say mê lĩnh hội, tìm tòi, khám phá những tri thức lịch sử mà còn hình thành ở các em thái độ và động cơ học tập đúng đắn, góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn.
Việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực của học sinh
phải được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ để đảm bảo tính hiệu quả cao.
Giáo viên phải thường xuyên học tập, tìm tòi trau dồi chuyên môn nghiệp vụ. Để thuận lợi cho việc sử dung tư liệu lịch sử, giáo viên cần lập danh mục hồ sơ về tư liệu tham khảo hoặc có thể đưa tư liệu tham khảo về dạng trực quan để tiết kiệm thời gian cho tiết học trên lớp và cho sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh.
Trên đây là những nghiên cứu thực nghiệm bước đầu của đề tài “Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX)”, lớp 10. Do điều kiện về thời gian nên phần thực nghiệm sư phạm chỉ áp dụng được ở trường THPT nơi tôi công tác. Vì vậy, việc đánh giá hiệu quả của nó chưa mang tính khái quát cao.
Đề tài chắc chắn sẽ không tránh khỏi những hạn chế thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của Quý Thầy cô cùng bạn đọc và Hội đồng khoa học các cấp để Sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện và có tính thiết thực hơn góp phần nâng cao chất lượng bộ môn./.
47
Xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Ngọc Liên – Trần Quốc Trị (1999), Phương pháp dạy học lịch sử, NXB Gáo dục.
2. Phan Ngọc Liên chủ biên ( 1999), Phương pháp luận sử học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
3. Nghiêm Đình Vỳ ( Tổng chủ biên), Trần Thị Vinh ( Chủ biên), Nguyễn Ngọc Cơ, Đào Tuấn Thành, Nguyễn Mạnh Hưởng, Nguyễn Văn Ninh (2018), Dạy học phát triển năng lực môn Lịch sử trung học phổ thông, NXB Đại học sư phạm.
4. Nguyễn Thị Côi (1992), Hoạt động tư duy độc lập của học sinh trong học tập lịch sử và hiệu quả bài học lịch sử, Thông báo khoa học Trường ĐHSP Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Côi (2006), Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông, NXB Đại học sư phạm.
6. Nguyễn Thị Côi, Nguyễn Hữu Chí (1999), Bài học lịch sử và việc kiểm tra đánh giá học tập lịch sử ở trường THPT, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Đại Việt sử kí toàn thư, NXB Khoa học xã hội, tập 1
8. Phan Ngọc Liên chủ biên (2008), Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông, NXB Đại học sư phạm Hà Nội.
9. Trương Hữu Quýnh chủ biên, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (1998), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Giáo dục.
10. Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí (2019), Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc , NXB Hồng Đức.
11. Nguyễn Trãi toàn tập, Viện Sử học, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, VN, 1976
12. Nguyễn Thị Xuân Khang (2010), Sử dụng tài liệu lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
13. Nguyễn văn Ánh, Trần Thái Hà, Trịnh Đình Tùng (2006), Tư liệu lịch sử 10, NXB Giáo dục.
14. Lê Thị Thu Hương ( 2019), Tổ chức hoạt động ngoại khóa trong dạy học lịch sử ở trường THPT Thái Nguyên, Tạp chí giáo dục.
15. Nguyễn Hà Giang (2011), Sử dụng các tài liệu tham khảo tạo hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học lịch sử 10, Tạp chí giáo dục.
48
16. Võ Thị Cẩm Vân (2015), Quá trình du nhập và phát triển của Nho giáo Việt Nam, Văn hóa Nghệ An.
17. Nguyễn Doãn Tuân, Nguyễn Tuyết Anh (2015), Những đóng góp của vương triều Mạc với kinh thành Thăng Long, Báo nhân dân.
18. Phan Trọng Luận tổng chủ biên, (2006), Sách Ngữ văn 10, tập 1, NXB Giáo
dục.
19. Phan Trọng Luận tổng chủ biên, (2006), Sách Ngữ văn 10, tập 2, NXB Giáo
dục.
20. http://mactrieu.vn/Nhung dong gop cua vuong trieu mac trong su nghiep
phat trien van hoa giao duc.
49
21. http://vietbao.vn/Xa-hoi/Van Mieu Quoc Tu Giam – Nhung dieu can biet.
PHỤ LỤC I
PHIẾU ĐIỀU TRA THỰC TIỄN SỬ DỤNG TƯ LIỆU LỊCH SỬ TRONG
DẠY HỌC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
( Dành cho giáo viên dạy học lịch sử)
Họ và tên: ....................................................................................................
Nơi công tác.................................................................................................
Năm công tác.................................................................................................
Để nắm được những thông tin cụ thể về thực trạng việc sử dụng tư liệu
lịch sử trong dạy học tại các trường THPT hiện nay, làm cơ sở quan trọng cho
chúng tôi hoàn thành đề tài “Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng
lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa
đầu thế kỉ XIX) ,lớp 10, Ban cơ bản”. Chúng tôi mong muốn Anh( chị) hãy vui
lòng điền dấu (x) vào những lựa chọn mà mình thấy đúng hoặc đồng ý trong các
câu dưới đây:
1. Thầy (cô) đánh giá như thế nào về hứng thú học tập lịch sử của học
sinh hiện nay.
Rất yêu thích
Thích
Bình thường
Không quan tâm
2. Thầy (cô) nhận thức như thế nào về tư liệu tham khảo trong dạy học
lịch sử.
khoa
Là nguồn kiến thức, giúp cụ thể hóa những kiến thức có trong sách giáo
Có tính chất minh họa cho nội dung sự kiện có trong sách giáo khoa
50
Sử dụng cũng được, không sử dụng cũng được
Chỉ gây hứng thú nhất thời cho học sinh
3. Theo Thầy (cô), sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học sẽ giúp học sinh:
Nắm vững kiến thức
Giáo dục tư tưởng, tình cảm
Phát triển khả năng tri giác, phân tích, đánh giá
Tất cả các ý kiến trên
4. Thầy cô thường sử dụng tư liệu lịch sử cho những hoạt động học tập
nào của học sinh?
Nghiên cứu kiến thức mới
Củng cố, ôn tập, kiểm tra kiến thức cho học sinh
Tự học ở nhà của học sinh
Tổ chức ngoại khóa
5. Phương pháp sử dụng tư liệu lịch sử của thầy (cô) hiện nay như thế
nào?
Gợi mở để học sinh tự tìm hiểu
Tự nêu nội dung các tài liệu lịch sử
- Sử dụng có tính chất minh họa, hình thức
6. Thầy (cô) có kiến nghị gì để sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học bộ
môn đạt hiệu quả cao hơn không?
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
51
Xin chân thành cảm ơn!
PHIẾU ĐIỀU TRA
( Dành cho học sinh)
Họ và tên: .....................................................................................................
Học sinh lớp........................Trường..............................................................
Em hãy đánh dấu (x) vào ô vuông trước những lựa chọn mà em thấy đúng
với bản thân trong quá trình học tập môn Lịch sử ở trường THPT vào các câu
hỏi dưới đây:
1. Môn học lịch sử ở trường phổ thông đối với em như thế nào?
Rất yêu thích
Bình thường
Không quan tâm vì đó là môn phụ
2. Trong giờ học lịch sử, nếu thầy (cô) giáo sử dụng tư liệu lịch sử em sẽ
cảm thấy thế nào?
Rất hấp dẫn và dễ hiểu
Bình thường
Không quan tâm
3. Thầy (cô) giáo có thường xuyên hướng dẫn các em tìm hiểu nội dung
tư liệu lịch sử trong và ngoài sách giáo khoa để tìm hiểu kiến thức hay không?
Thường xuyên
Thi thoảng
Không
4. Thầy (cô) giáo thường sử dụng tư liệu lịch sử cho những hoạt động học
tập nào?
Nghiên cứu kiến thức mới
52
Củng cố, ôn tập kiến thức
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
Tiến hành các bài học ngoại khóa
Tự học ở nhà
5. Khi sử dụng tư liệu lịch sử, thầy (cô) giáo thường hướng dẫn các em sử
theo cách:
Đặt câu hỏi để hướng dẫn các em tìm hiểu nội dung của tư liệu lịch sử
Thầy (cô) tự trình bày nội dung của các tư liệu lịch sử đó
Không theo cách nào cả
53
Xin chân thành cảm ơn!
PHỤ LỤC II
GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
CHỦ ĐỀ: VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX (3 TIẾT)
I. MỤC TIÊU 1. Kiến thức
Sau khi học xong chủ đề này, học sinh cần:
- Trình bày được những thành tựu điển hình của văn hóa Việt Nam từ thế
kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX.
- Phân tích được nét chính của bản sắc văn hóa Việt Nam, giải thích được sự giao thoa giữa văn hóa Việt Nam với các nền văn hóa khác (tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo)
2. Kĩ năng
- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng khai thác và xử lý tư liệu lịch sử; năng
lực tư duy lịch sử, xâu chuỗi các sự kiện.
- Phát triển kĩ năng phân tích, so sánh các sự kiện lịch sử.
3. Thái độ
- Giáo dục cho học sinh truyền thống yêu nước; ý thức giữ gìn và phát
huy bản sắc dân tộc, biết kết hợp văn hóa truyền thống với hiện đại.
- Bồi dưỡng lòng tự hào về truyền thống lịch sử của dân tộc Việt Nam.
4. Định hướng các năng lực hình thành
Năng lực chung: Năng lực tự học, năng lực phát hiện và giải quyết vấn
đề, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng ngôn ngữ.
Năng lực chuyên biệt:
- Năng lực tìm hiểu lịch sử: Biết sưu tầm, sử dụng tư liệu lịch sử để tìm hiểu và tái hiện các sự kiện lịch sử dân tộc, các thành tựu văn hóa của dân tộc ta thời phong kiến (từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX).
54
- Năng lực nhận thức và tư duy lịch sử: Giúp học sinh lí giải được tích sự thay đổi vai trò thống trị về tư tưởng của Phật giáo và Nho giáo; sự hưng, suy giáo dục Nho học; sự phát triển của dòng văn học chữ Hán, Nôm, dân gian..
- Năng lực vận dụng những kiến thức lịch sử đã học để giải quyết những vấn đề thực tiễn như biết tìm hiểu thông tin lịch sử về các nhân vật lịch sử như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du..; biết vận dụng kiến thức liên môn các bộ môn Văn học, Địa lí..giải quyết vấn đề bài học, lĩnh hội kiến thức mới.
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Giáo viên
- Tranh ảnh lịch sử theo chuyên đề (chùa Một Cột, bia tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, chùa Thiên Mụ, Văn Miếu – Quốc tử giám tại kinh thành Huế, quần thể cố đô Huế, nhà truyền giáo Alexandra de Rhodes, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, lớp học thời phong kiến, Chiếu dời đô, Hịch tướng sỹ - Trần Quốc Tuấn, chân dung Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Truyện Kiều – Nguyễn Du, Tượng Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, Tượng La Hán chùa Tây Phương, súng thần cơ)
- Tư liệu lịch sử về Phật giáo, đạo Thiên chúa giáo, chùa Một Cột, giáo
dục, văn học, nghệ thuật và khoa học kĩ thuật.
- Phiếu học tập, phiếu giao nhiệm vụ.
2. Học sinh
- Nghiên cứu nội dung chuyên đề tìm hiểu về các thành tựu văn hóa dân
tộc từ thế kỉ X đến thế kỉ nửa đầu thế kỉ XIX.
- Bút dạ hoặc bút màu.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC CHUYÊN ĐỀ
HOẠT ĐỘNG 1: KHỞI ĐỘNG
a. Mục tiêu
Nhằm tạo ra mâu thuẫn giữa những kiến thức đã biết và chưa biết về văn
hóa Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ nửa đầu thế kỉ XIX , từ đó yêu cầu học sinh
phải xác định được nhiệm vụ học tập của bài học phải giải quyết, thông qua đó
giáo viên dẫn dắt học sinh vào bài mới lần lượt giải quyết được nhiệm vụ của
bài học ở các hoạt động sau.
b. Phương thức
55
Giáo viên cho học sinh quan sát các hình ảnh và kết hợp phát phiếu học tập.
(Vận dụng kĩ thuật dạy học “KWLH”). Học sinh trao đổi, thảo luận với
bạn và hoàn thiện vào phiếu học tập.
BẢNG HỎI THEO KĨ THUẬT DẠY HỌC “KWLH”
Họ và tên học sinh:................................................Lớp:..........................................
Câu hỏi:
1. Những hình ảnh trên gợi cho em liên tưởng đến nội dung gì của lịch sử dân tộc? Em biết gì về nội dung đó? (Học sinh điền vào cột K)
2. Em mong muốn được tìm hiểu những nội dung gì liên quan đến chủ đề này?
(Học sinh điền vào cột W)
3. Em đã học thêm những gì sau khi học xong chủ đề này? (Học sinh điền vào cột L)
4. Em có thể vận dụng vào thực tiễn những kiến thức nào và vận dụng như thế nào? (Học sinh điền vào cột H)
K W L H
........................... ........................... ........................... ...........................
........................... ........................... ........................... ...........................
........................... ........................... ........................... ...........................
Giáo viên hướng dẫn HS điền các thông tin vào phiếu.
Đề nghị HS động não nhanh và viết ra những điều có liên quan đến văn
hóa dân tộc từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX vào cột K và W.
GV thu phiếu và tổng hợp qua các ý kiến của HS, vận dụng phương pháp
dạy học giải quyết vấn đề, giải mã tư liệu để hướng dẫn học sinh nghiên cứu, tìm
hiểu nội dung của chủ đề.
TƯ LIỆU HỖ TRỢ
Hình 1: Chùa Một Cột Hình 2: Bia tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám
56
Hình 3: Súng thần cơ Hình 4: Quần thể Cố đô Huế
Mỗi học sinh có thể trình bày sản phẩm với các mức độ khác nhau. Giáo viên gợi mở nêu những nhiệm vụ của chủ đề mà các em phải tìm hiểu và dẫn dắt vào bài mới.
Những hình ảnh trên đề cập đến các thành tựu văn hóa của dân tộc Việt Nam. Việt Nam là đất nước có bề dạy lịch sử, với một nền văn hóa phong phú và đa dạng, nhiều thành tựu văn hóa của đất nước trở thành di sản văn hóa vật thể hay phi vật thể của nhân loại, với những danh nhân văn hóa thế giới như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Nền tảng cho các thành tựu văn hóa nổi bật đó chính là giai đoạn lịch sử dân tộc từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX.
HOẠT ĐỘNG 2: HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
1. TƯ TƯỞNG, TÔN GIÁO
a. Mục tiêu
Nêu được quá trình du nhập, phát triển và sự thay đổi vai trò thống trị về tư tưởng của Phật giáo và Nho giáo ở nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX; Nêu được vài nét về sự du nhập của Đạo giáo và Thiên chúa giáo; Lý giải quá trình tiếp nhận hòa bình của các tôn giáo vào nền văn hóa dân tộc, tạo nên sự phong phú đa dạng.
b. Phương thức
- Giáo viên nêu nhiệm vụ học tập cần giải quyết là tìm hiểu những thành
tựu về tư tưởng, tôn giáo nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX:
Hãy đọc thông tin trong sách giáo khoa trang 101 – 102, trang 121, trang 129 và các đoạn tư liệu, kết hợp quan sát, phân tích các hình ảnh để trao đổi, thảo luận và trả lời các câu hỏi sau:
57
Nhóm 1: Phật giáo có nguồn gốc từ đâu và được du nhập vào nước ta từ khi nào? Vị trí của Phật giáo qua các thời kì? Vì sao đạo Phật lại đi sâu vào trong đời sống nhân dân?
Nhóm 2: Nho giáo được du nhập vào nước ta như thế nào? Tại sao Nho giáo sớm trở thành hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị? Vị trí của Nho giáo qua các thời kì? Giải thích tại sao có sự thay đổi đó.
Nhóm 3: Đạo thiên chúa giáo có nguồn gốc từ đâu và được du nhập vào nước ta từ khi nào? Nhà nước phong kiến đã có chính sách như thế nào trước sự du nhập của Đạo thiên chúa? Vì sao?
Nhóm 4: Giới thiệu các tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc ta thời phong kiến ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX). Giải thích vì sao các tín ngưỡng cổ truyền và các tôn giáo du nhập vào nước ta không triệt tiêu lẫn nhau mà cùng tồn tại một cách hòa bình?
TƯ LIỆU HỖ TRỢ Tư liệu 1: “Lý Thái Tổ lên ngôi mới được hai năm, tôn miếu chưa dựng, xã tắc chưa lập mà đã dựng 8 chùa ở Thiên Đức, lại sửa chùa quán ở các lộ, cấp độ diệp cho hơn 1000 người ở kinh sư làm tăng ” ( Đại Việt Sử kí toàn thư, NXB Khoa học xã hội, Tập 1, tr.191) Tư liệu 2: “Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người, sao mà được người tin theo lâu bền như thế! Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật, bỏ đi rồi lại dựng lên, nát đi rồi lại sửa lại, lâu dài, chiêng trống chiếm đến nửa phần so với dân cư ” ( Đại Việt Sử kí toàn thư, NXB Khoa học xã hội, Tập 1, tr.161) Tư liệu 3: “...Từ thế kỉ XVII, đạo Thiên chúa trở thành một tôn giáo mới tồn tại ở Việt Nam. Cũng như các tôn giáo khác, đạo Thiên chúa đưa vào cuộc sống tâm linh của người Việt một quan niệm mới về sự tôn thờ, về quan hệ giữa con người và vũ trụ, về lòng từ thiện, về sự cứu khổ ...Nhưng lại có nhiều quan điểm trái ngược với đạo lý của người Việt đương thời, đặc biệt là Nho giáo ” (Đại cương Lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Tập 1, tr388)
58
Hình 5: Nho giáo Đạo giáo Phật giáo
Hình 6: Nhà truyền giáo Alexandra de Rhodes Hình 7: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
- Học sinh các nhóm đọc tư liệu, thảo luận, tìm ý trả lời và báo cáo kết quả
- Giáo viên cho học sinh thảo luận, trao đổi ý kiến và chốt ý:
59
- Phật giáo: + Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ và được du nhập vào nước ta thời Bắc thuộc. + Thời Lí- Trần, Phật giáo giữ vị trí quan trọng “quốc giáo”, từ vua đến quan và dân đều sùng đạo Phật, các nhà sư được triều đình coi trọng. + Từ cuối thế kỉ XIV, Phật giáo suy giảm. + Thế kỉ XVI, Phật giáo có điều kiện khôi phục vị trí nhưng không được như thời Lý, Trần. Nhiều chùa, quán được xây dựng thêm, một số chùa đựợc trùng tu lại. + Giáo lý đạo Phật khuyên con người sống lương thiện, làm việc tốt tránh việc ác... phù hợp với đạo đức, tín ngưỡng của người Việt, nên nhanh chóng ăn sâu, bám rễ trong nhân dân. - Nho giáo: + Nho giáo do Khổng Tử ( Trung Quốc) đề xướng, được du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc, bước sang thời kì phong kiến độc lập có điều kiện phát triển. + Tư tưởng của Nho giáo đề cao những nguyên tắc trong quan hệ xã hội theo đạo lý “Tam cương, ngũ thường”, quy định một trật tự, kỉ cương đạo đức rất quy củ và khắt khe, vì vậy giai cấp thống trị đã triệt để lợi dụng Nho giáo để làm công cụ thống trị, bảo vệ chế độ phong kiến vì vậy Nho giáo dần dần trở thành hệ tư tưởng chính của giai cấp thống trị, chi phối nội dung giáo dục, thi cử. . + Thế kỉ X-XIV, ảnh hưởng của Nho giáo trong dân còn ít. + Thời Lê sơ (thế kỉ XV) xây dựng thiết chế quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền đạt đến đỉnh cao, các giáo lý Nho giáo trở thành công cụ hữu hiệu để xây thiết chế và củng cố tôn ty trật tự xã hội, nhà nước nâng Nho giáo lên địa vị độc tôn. + Từ thế kỉ XVI, do sự suy thoái của chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, sự tranh chấp giữa các thế lực phong kiến và do ảnh hưởng ngày càng tăng của quan hệ hàng hóa – tiền tệ làm cho trật tự phong kiến bị đảo lộn, Nho giáo từng bước suy thoái. + Nhà Nguyễn, chủ trương độc tôn Nho giáo.
- Thiên chúa giáo: + Từ thế kỉ XVI, một số giáo sĩ đạo Thiên Chúa phương Tây theo các thuyền buôn nước ngoài vào Việt Nam truyền đạo Thiên Chúa, do có nhiều điểm khác biệt nên về sau hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ bị nhà nước phong kiến cấm đoán. + Thời nhà Nguyễn hạn chế hoạt động của Thiên Chúa giáo. + Do nhu cầu của việc truyền đạo, chữ Quốc ngữ theo mẫu tự Latinh cũng ra đời ở thế kỉ XVII. Tuy nhiên, bấy giờ chữ Quốc ngữ chưa được phổ biến trong xã hội, phải đến đầu thế kỉ XX, chữ Quốc ngữ mới được sử dụng phổ biến. - Các tín ngưỡng dân gian: vẫn được duy trì và phát huy như tục thờ cúng tổ tiên, thờ những người anh hùng có công với nước, với làng.
2. GIÁO DỤC
a. Mục tiêu
Nêu được những nét khái quát về tình giáo dục nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX. Hiểu được vị trí của giáo dục trong xã hội, biết trân trọng, học tập và phát huy truyền thống giáo dục của dân tộc.
b. Phương thức
- Giáo viên nêu nhiệm vụ học tập cần giải quyết là tìm hiểu những thành
tựu của giáo dục nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX:
Hãy đọc thông tin trong sách giáo khoa mục 1 trang 102 - 103, mục 1 trang 122, mục 3 trang 129 phần giáo dục và các đoạn tư liệu, kết hợp quan sát, phân tích các hình ảnh dưới đây để trao đổi, thảo luận và trả lời các câu hỏi sau:
1. Trình bày những nét khái quát về tình hình giáo dục Việt Nam từ thế kỉ
X đến nửa đầu thế kỉ XIX.
2. Nhận xét nền giáo dục Việt Nam thời phong kiến. Việc không chú ý nhiều đến môn khoa học tự nhiên có ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển kinh tế của nước ta thời đó?
3. Em có suy nghĩ gì về câu nói của Thân Nhân Trung? Liên hệ với ngày
nay.
TƯ LIỆU HỖ TRỢ Tư liệu 1: Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV, nền giáo dục Đại Việt từng bước được xây dựng và phát triển. Giáo dục thi cử dần dần trở thành nguồn đào tạo quan lại chủ yếu cho triều đình. Năm 1070,vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu. Năm 1075, khoa thi quốc gia đầu tiên được tổ chức ở kinh thành. Sang thời Trần, Hồ giáo dục thi cử tiếp tục phát triển và được quy định chặt chẽ hơn. Thời Lê sơ,
60
đặc biệt thời Lê Thánh Tông, nhà nước quy định cứ 3 năm tổ chức kì thi Hội một lần để tuyển chọn tiến sĩ. Trong dân gian số người đi học ngày càng đông và số người đỗ đạt cũng tăng lên. Năm 1484, nhà nước quyết định dựng bia tiến sĩ. Nhiều tri thức giỏi đãgóp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tư liệu 2: “Nhà Mạc rất chú trọng phát triển nhân tài trong nước và tổ chức đều đặn các kì thi 3 năm một lần, từ khi tồn tại đến năm tồn tại cuối cùng. Năm 1592, dù quân Nam triều tiến ra đánh chiếm, chiến sự đã áp sát kinh thành Thăng Long, Mạc Mậu Hợp vẫn tổ chức thi cử đúng định kì ở bên kia sông Hồng. Việc chọn sĩ tử tới ra đề, quan coi thi, tổ chức thi, lệ ban thưởng bia đá đều theo nếp cũ của nhà Lê sơ”
(Viện sử học,1996, tr199) Tư liệu 3:“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết”
(Thân Nhân Trung) Tư liệu 4: Nối tiếp truyền thống giáo dục khoa cử của thời Lê, Vua Gia Long rất đề cao Nho học, ông cho lập Văn Miếu ở các doanh, các trấn thờ đức Khổng Tử và lập Quốc Tử Giám năm 1803 ở kinh thành Huế để dạy cho các quan và các sĩ tử, mở khoa thi Hương lấy những người có học, có hạnh ra làm quan. Cũng trong năm này, Gia Long cho ban hành hai đạo dụ về việc mở các trường ở các tỉnh, ấn định nhân viên giáo giới và chương trình học chế đồng thời tái lập lại các khoa thi ở các trấn. Ở mỗi trấn có một quan Đốc Học, một phó Đốc Học hay Trợ Giáo. Cứ tháng 10 hàng năm triều đình mở một kỳ thi. Theo thông lệ cứ ba năm triều đình mở khoa thi Hương ở các địa phương. Những người trúng cao ở khoa thi Hương gọi là cử nhân, trúng thấp gọi là tú tài. Năm sau ở Kinh đô mở khoa thi Hội tại bộ Lễ, những cử nhân năm trước khi ứng thí, nếu trúng cách thì được tiếp tục thi Đình ở trong điện nhà vua để lấy các bậc Tiến sĩ. Tư liệu 5: Tư liệu hình ảnh
Hình 8: Bia tiến sĩ tại Hình 9: Lớp học thời Hình 10: Văn Miếu - Quốc Tử Giám Văn Miếu Quốc Tử Giám phong kiến tại kinh thành Huế
61
- HS làm việc cá nhân với các hình ảnh và tư liệu đã cho, sau đó thảo luận cặp đôi để trả lời câu hỏi. Giáo viên tổ chức điều khiển hoạt động nhận thức cho học sinh.
- Các nhóm học sinh thực hiện nhiệm vụ báo cáo sản phẩm lớp. Giáo viên cho học sinh thảo luận, trao đổi ý kiến và chốt ý:
* Tình hình giáo dục: - Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV, giáo dục Đại Việt từng bước được hoàn thiện và phát triển, trở thành nguồn đào tạo quan lại chủ yếu.
+ Năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu. Năm 1075, khoa thi
quốc gia đầu tiên được tổ chức ở kinh thành.
+ Sang thời Trần, giáo dục, thi cử được quy định chặt chẽ hơn. + Thời Lê sơ, nhà nước quy định : cứ 3 năm có một kì thi Hội để chọn tiến sĩ. Trong dân gian, số người đi học ngày càng đông và số người đỗ đạt cũng tăng thêm nhiều. Riêng thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã tổ chức được 12 khoa thi Hội, có 501 người đỗ tiến sĩ. Năm 1484, nhà nước quyết định dựng bia ghi tên tiến sĩ. Nhiều trí thức tài giỏi đã góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. - Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, giáo dục giáo dục Nho học tiếp tục duy trì và phát triển, song chất lượng giáo dục không còn như trước.
+ Nhà Mạc tiếp tục phát triển giáo dục, tổ chức đều đặn các kì thi để chọn lựa
nhân tài.
+ Khi đất nước bị chia cắt: Đàng Ngoài cố gắng tiếp tục mở rộng giáo dục Nho học theo chế độ thời Lê sơ; Đàng Trong, năm 1646, chúa Nguyễn mở khoa thi đầu tiên.
+ Ở triều đại Tây Sơn, với chính sách chăm lo giáo dục của Quang Trung, chữ
62
Nôm được dùng trong công việc hành chính, thi cử. - Thời nhà Nguyễn, giáo dục Nho học được củng cố. Nhà nước vẫn tổ chức đều đặn các kì thi Hương và thi Hội để tuyển người ra làm quan. Tuy nhiên số người đi thi và số người đỗ đạt không nhiều. * Nhận xét: - Ưu điểm: Giáo dục Nho học trở thành nguồn đào tạo quan chức và nhân tài cho đất nước, góp phần nâng cao dân trí. Thời kì này hàng loạt tri thức tài giỏi được đào tạo đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và bảo vệ đất nước. - Hạn chế: Giáo dục Nho học không tạo điều kiện cho phát triển kinh tế bởi vì nội dung học tập và thi cử chủ yếu là sách kinh điển Nho giáo ( Tứ thư ngũ kinh), chủ yếu phục vụ chính trị - xã hội, xem nhẹ kiến thức khoa học phục vụ sản xuất nên giáo dục Nho học không tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. * Câu nói của Thân Nhân Trung khẳng định vai trò của giáo dục và đào tạo nhân tài trong việc làm hưng thịnh quốc gia. Nhận thấy được tầm quan trọng của giáo dục, ngày nay Đảng và nhà nước ta rất quân tâm đến giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. 3. VĂN HỌC
a. Mục tiêu
Nêu được những thành tựu của văn học nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu
thế kỉ XIX.
b. Phương thức
Giáo viên phát phiếu học tập và tư liệu hỗ trợ cho học sinh; phân công nhiệm vụ qua phiếu học tập và hướng dẫn cách tiến hành nhiệm vụ trong nhóm:
- Giáo viên nêu nhiệm vụ học tập cần giải quyết là tìm hiểu những thành
tựu của giáo dục nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX:
Hãy đọc thông tin trong sách giáo khoa mục 2 trang 103, mục 2 trang 122 - 123, mục 3 trang 129 phần văn học và các đoạn tư liệu, kết hợp quan sát, phân tích các hình ảnh dưới đây để trao đổi, thảo luận làm việc nhóm theo hình thức cặp đôi, hoàn thành phiếu học tập theo mẫu và rút ra nhận xét về nền văn học nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX.
Giai đoạn Thể loại Nội dung cơ bản
Tác phẩm, tác giả tiêu biểu
Thế kỉ X đến thế kỉ XV Thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XIX
TƯ LIỆU HỖ TRỢ Tư liệu 1: “Nhìn chung, văn học Việt Nam thời trung đại gồm hai thành phần chủ yếu là văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm... Văn học chữ Hán bao gồm những sáng tác bằng chữ Hán của người Việt. Thành phần văn học này xuất hiện sớm, tồn tại trong suốt quá trình hình thành và phát triển của văn học trung đại, bao gồm cả thơ và văn xuôi. Về thể loại văn học chữ Hán chủ yếu tiếp thu các thể loại văn học từ Trung Quốc như chiếu, biểu, hịch, cáo, truyện truyền kì, kí sự, tiểu thuyết chương hồi, phú, thơ cổ phong, thơ đường luật ... Dù là thơ hay văn xuôi, trữ tình hay tự sự, chính luận, ở loại hình nào văn học chữ Hán cũng có những thành tựu nghệ thuật to lớn. Văn học chữ Nôm bao gồm những sáng tác bằng chữ Nôm,ra đời muộn hơn văn học chữ Hán ( khoảng thế cuối thế kỉ XIII mới xuất hiện), tồn tại, phát triển đến hết thời kì trung đại. Văn học chữ Nôm chủ yếu là thơ, rất ít tác phẩm văn xuôi. Trong Văn học chữ Nôm, chỉ Văn học chữ Nôm có một số thể loại tiếp thu từ Trung Quốc như phú, văn tế, thơ đường luật, còn phần lớn là thể loại văn học dân tộc như ngâm khúc viết theo thể song thất lục bát, truyện thơ viết theo thể lục bát, hát nói viết theo thể thơ khá tự do có kết hợp với âm nhạc, hoặc thể loại văn học Trung Quốc đã được dân tộc hóa phần nào như thơ đường luật thất 63
ngôn xen lẫn lục ngôn. Văn học chữ Nôm có những thành tựu lớn ở tất cả các thể loại kể trên.” ( Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, Sách Ngữ văn 10, tập 1, NXB Giáo dục,2006, tr 104 -105) Tư liệu 2: Tư liệu hình ảnh
Hình 11: Chiếu dời đô Hình 12: Hịch tướng sỹ - Trần Quốc Tuấn
Hình 13: Nguyễn Trãi Hình 14: Nguyễn Bỉnh Khiêm Hình 15: Truyện Kiều – Nguyễn Du
- Học sinh các nhóm đọc tư liệu, thảo luận, tìm ý trả lời và báo cáo kết
quả
- Giáo viên cho học sinh thảo luận, trao đổi ý kiến và chốt ý:
Giai đoạn Thể loại Nội dung cơ bản
Thế kỉ X đến thế kỉ XV
Tác phẩm, tác giả tiêu biểu - Nam quốc sơn hà - Lý Thường Kiệt. - Hịch tướng sĩ – Trần Quốc Tuấn. - Bình Ngô đại cáo - - Thơ Đường - Hịch - Cáo Thể hiện tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Ca ngợi những oai công chiến 64
- Phú
hùng, cảnh đẹp của đất hương quê nước.
lên tâm
- Đường luật - Lục bát
Thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XIX
- Lục bát khỏi
Nguyễn Trãi. - Bạch Đằng giang phú - Trường Hán Siêu. - Thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. -Thơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan. - Truyện Kiều – Nguyễn Du.
tư Nói nguyện vọng về tự do, cuộc sống ràng thoát buộc của lễ giáo phong kiến, ca ngợi quê hương.
Nhận xét: Văn học nước ta thời phong kiến phát triển phong phú, đa dạng với nhiều thể loại. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo là nội dung lớn, xuyên suốt quá trình văn học.
4. NGHỆ THUẬT VÀ KHOA HỌC KĨ THUẬT
a. Mục tiêu
Trình bày được những thành tựu về nghệ thuật và khoa học kĩ thuật nổi bật của nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX. Có thái độ trân trọng và có ý thức gìn giữ, bảo tồn các di sản văn hóa của nhân loại, duy trì và phát triển bản sắc văn hóa của dân tộc.
b. Phương thức
- Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm và nêu nhiệm vụ học tập cần giải quyết cho các nhóm. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc, quan sát tư liệu và thực hiện nhiệm vụ nhóm:
Nhóm 1: Kể tên những công trình kiến trúc tiêu biểu của nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX. Em có nhận xét gì về nghệ thuật kiến trúc nước ta thời kì này?
Nhóm 2: Kể tên các tác phẩm điêu khắc tiêu biểu của nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX. Em có nhận xét gì về nghệ thuật điêu khắc nước ta thời kì này?
Nhóm 3: Nêu những thành tựu về nghệ thuật sân khấu, ca múa nhạc. Em
65
có nhận xét gì về nghệ thuật sân khấu dân gian thời kì này?
Nhóm 4: Lập bảng thống kê các thành tựu khoa học – kĩ thuật nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX. Em có nhận xét gì về thành tựu khoa học – kĩ thuật nước ta thời kì này?
TƯ LIỆU HỖ TRỢ
Tư liệu 1: Thành tựu về nghệ thuật Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc phát triển. Nhiều chùa, tháp, kinh thành được xây dựng như chùa Một Cột, chùa Thiên Mụ, chùa Bút Tháp, tháp Phổ Minh, tháp Báo Thiên, thành nhà Hồ, quần thể cung điện nhà vua ở Huế và các lăng tẩm, cột cờ Hà Nội... Nhiều tác phẩm điêu khắc mang những họa tiết hoa văn độc đáo như rồng mình trơn cuộn trong lá đề, bệ chân cột hình hoa sen nở, các bức phù điêu vẽ các cô tiên nữ vừa múa vừa đánh đàn, tượng Phật Bà Quan Âm nghìa mắt nghìn tay, các tượng La Hán...Nghệ thuật sân khấu như chèo, tuồng ra đời từ rất sớm và ngày càng phát triển. Múa rối nước là nghệ thuật đặc sắc xuất hiện thời Lý và ngày càng phát triển. Âm nhạc phát triển với nhiều nhạc cụ như trống cơm, sáo, tiêu, đàn cầm,đàn tranh...Ca múa được tổ chức trong các ngày lễ hội cùng với các làn điệu dân ca mang tính địa phương đậm nét như quan họ, hò, vè, si, lượn...Từ thế kỉ XVI, cùng với văn học dan gian, một trào lưu văn học dân gian được hình thành. Trên các vì, kèo ở những ngôi đình làng, các nghệ nhân đã khắc lên những cảnh sinh hoạt thường ngày của nhân dân như đi cày, đi bừa, đấu vật.. Năm 1993 quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của nhân loại. Năm 2003 nhã nhạc cung đình Huế được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Tư liệu 2: Tư liệu hình ảnh
66
Hình 15: Chùa Một Cột Hình 16: Chùa Thiên Mụ(Huế) Hình 17: Quần thể Cố đô Huế
Hình 18: Tượng Phật bà Quan Âm Hình 19: Tượng La Hán chùa Tây Phương nghìn mắt nghìn tay ( Bắc Ninh) (Hà Tây) Tư liệu 3: Thành tựu về khoa học kĩ thuật Khoa học - kĩ thuật nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX đạt được nhiều thành tựu có giá trị, có nhiều công trình khoa học ra đời như: Lịch sử có Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu thời Trần; Lam Sơn thực lục, Đại Việt sử kí toàn thư thời Lê sơ; Ô châu cận lục thời Mạc; Đại Việt thông sử, Thiên Nam ngữ lục thời Hậu Lê; Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức... thời Nguyễn. Về Địa lý có Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Hồng Đức bản đồ của Lê Thánh Tông, tập bản đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá ...Về Quân sự có tác phẩm Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí huyền thư của Trần Quốc Tuấn; tập Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ. Về thiết chế chính trị có bộ Thiên Nam dư hạ của vua Lê Thánh Tông; về toán học có Đại thành toán pháp của Lương Thế Vinh, lập thành toán pháp của Vũ Hưu; về y học có bộ sách y dược của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác...Về kĩ thuật, Hồ Nguyên Trừng thời Hồ đã chế tạo súng thần cơ và đóng thuyền chiến có lầu; đúc súng theo kiểu phương Tây, đóng thuyền chiến, xây thành lũy của Đào Duy Từ; đặc biệt thời nhà Nguyễn đã đóng được tàu thủy chạy bằng máy hơi nước; thành nhà Hồ là một thành tựu kĩ thuật quan trọng và năm 2011 được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của thế giới.
- Học sinh các nhóm đọc tư liệu và nghiên cứu hình ảnh, thảo luận, tìm ý
trả lời và báo cáo kết quả
- Giáo viên cho học sinh thảo luận, trao đổi ý kiến và chốt ý. Để làm rõ sự độc đáo, sáng tạo và mang màu sắc tôn giáo trong nghệ thuật kiến trúc giáo viên sử dụng hình ảnh chùa Một Cột kết hợp với tư liệu lịch sử về chùa Một Cột miêu tả khái quát có phân tích.
67
* Nghệ thuật: - Kiến trúc: Nghệ thuật kiến trúc phát triển, nhiều chùa, tháp, kinh thành được xây dựng như chùa Một Cột, chùa Thiên Mụ, chùa Bút Tháp, tháp Phổ Minh, tháp Báo Thiên, thành nhà Hồ, quần thể cung điện nhà vua ở Huế và các lăng tẩm, cột cờ Hà Nội . Nghệ thuật kiến trúc độc đáo, sáng tạo và mang màu sắc tôn giáo - Nghệ thuật điêu khắc cũng có những nét đặc sắc như : rồng mình trơn cuộn
trong lá đề, bệ chân cột hình hoa sen nở, các bức phù điêu có các cô tiên, vũ nữ vừa múa, vừa đánh đàn, tượng Phật Bà Quan Âm nghìa mắt nghìn tay, các tượng La Hán... Những công trình điêu khắc trên chịu ảnh hưởng của tôn giáo ( Phật giáo và Nho giáo) nhưng vẫn mang những nét độc đáo riêng, gắn liền với đời sống người Việt. - Nghệ thuật sân khấu như tuồng, chèo ngày càng phát triển. Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật đặc sắc, phát triển từ thời Lý. - Âm nhạc phát triển với các nhạc cụ như trống cơm, sáo, tiêu, đàn cầm, đàn tranh. - Ca múa trong các ngày lễ hội dân gian khá phổ biến. Nghệ thuật sân khấu ca múa, nhạc rất phong phú, đa dạng mang đậm tính dân gian truyền thống. * Khoa học – kĩ thuật: Lĩnh vực
Lịch sử
Khoa học
Địa lý
Quân sự
Thành tựu Lịch sử có Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu thời Trần; Lam Sơn thực lục, Đại Việt sử kí toàn thư thời Lê sơ; Ô châu cận lục thời Mạc; Đại Việt thông sử, Thiên Nam ngữ lục thời Hậu Lê; Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức... thời Nguyễn Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Hồng Đức bản đồ của Lê Thánh Tông, tập bản đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá . Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí huyền thư của Trần Quốc Tuấn; tập Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ bộ Thiên Nam dư hạ của vua Lê Thánh Tông chế
Thiết chính trị Y học
Kĩ thuật Đúc súng
sách y dược của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác chế tạo súng thần cơ ( Hồ Nguyên Trừng), đúc súng theo kiểu phương Tây (Đào Duy Từ) Đóng thuyền chiến có lầu ( Hồ Nguyên Trừng), đóng tàu thủy chạy bằng máy hơi nước ( Thời Nguyễn)
Đóng thuyền Xây thành Thành nhà Hồ, Lũy thầy.
68
Nhận xét: + Ưu điểm: Khoa học - kĩ thuật nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX đạt được nhiều thành tựu có giá trị. Có nhiều công trình khoa học ra đời, kĩ thuật có nhiều bước tiến. + Hạn chế: Do những hạn chế về quan niệm và giáo dục đương thời đã làm cho khoa học tự nhiên không có điều kiện phát triển. Trong lĩnh vực kĩ thuật, tuy đã đạt dược nhiều thành tựu và đã tiếp cận được với văn minh phương Tây nhưng chỉ dừng lại ở việc chế tạo thử chứ chưa có điều kiện để phát triển.
HOẠT ĐỘNG 3: CỦNG CỐ, LUYỆN TẬP
1. Mục tiêu
Nhằm củng cố, hệ thống hóa, hoàn thiện kiến thức mới mà học sinh đã được lĩnh hội ở hoạt động hình thành kiến thức về văn hóa Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX.
2. Phương thức
Giáo viên yêu cầu học sinh trên cơ sở kiến thức đã học, hãy tóm tắt nội dung chủ đề văn hóa Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX bằng sơ đồ tư duy.
HOẠT ĐỘNG 4: VẬN DỤNG
1. Mục tiêu
Nhằm vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn.
2. Phương thức
Giáo viên sử dụng kĩ thuật “KWLH” ở phần khởi động yêu cầu học sinh
viết tiếp vào phiếu học tập ở cột L và H.
HOẠT ĐỘNG 5: TÌM TÕI, MỞ RỘNG
1. Mục tiêu
Học sinh mở rộng kiến thức của nội dung bài học bằng cách thu thập các
thông tin về văn hóa Việt Nam thời phong kiến, để hiểu biết thêm về nền văn
hóa này.
2. Phương thức
- Giáo viên cho học sinh chọn một trong hai nội dung sau:
+ Lựa chọn một công trình kiến trúc tiêu biểu của nước ta thời phong kiến
( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), giới thiệu về công trình đó.
+ Tìm hiểu và sưu tầm tranh ảnh, video, về di sản văn hóa Việt Nam thời
69
phong kiến ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX).
- Sau khi học sinh thu thập tư liệu, buổi sau giáo viên có thể cho học sinh
trình bày, trao đổi sản phẩm hoặc treo sản phẩm vào góc học tập để các bạn
cùng đọc và tham khảo.
- Tổ chức trò chơi hướng dẫn viên du lịch để trình bày sản phẩm của mình.
- Sản phẩm có thể là các bài viết, tư liệu, tranh ảnh hoặc video về các nội
70
dung đã tìm hiểu.
PHỤ LỤC III
MỘT SỐ TƯ LIỆU LỊCH SỬ SỬ DỤNG TRONG DẠY HỌC PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI PHONG KIẾN (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX)
1. Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ
" Xưa, nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô; nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô; đâu phải các vua thời Tam đại đều theo ý riêng của mình mà tự tiện dời đô xằng bậy. Làm như thế cốt là để mưu nghiệp lớn, chọn ở nơi chính giữa, dựng kế cho con cháu muôn đời; trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện lợi thì dời đổi, cho nên vận nước dài lâu, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ của Thương, Chu, cứ chịu đóng đô ở yên nơi đây, đến nỗi vận thế không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không tươi tốt. Trẫm rất đau lòng, không thể không dời đổi. Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực đất trời, được thế rồng chầu- hổ phục, chính giữa nam-bắc-đông- tây, tiện nghi núi sau, sông trước. Vùng này, mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa; dân cư không phải chịu khổ vì thấp trũng, tối tăm; muôn vật hết sức tốt tươi phồn thịnh. Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ sao?"
(Bản dịch của Viện Khoa học xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử kí
toàn thư, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)
2. Những đóng góp của vương triều Mạc trong sự nghiệp phát triển
văn hóa- giáo dục.
“Nhà Mạc rất chú trọng phát triển nhân tài trong nước và tổ chức đều đặn các kì thi 3 năm một lần, từ khi tồn tại đến năm tồn tại cuối cùng. Năm 1592, dù quân Nam triều tiến ra đánh chiếm, chiến sự đã áp sát kinh thành Thăng Long, Mạc Mậu Hợp vẫn tổ chức thi cử đúng định kì ở bên kia sông Hồng. Việc chọn sĩ tử tới ra đề, quan coi thi, tổ chức thi, lệ ban thưởng bia đá đều theo nếp cũ của nhà Lê sơ”
(Viện sử học,1996, tr199)
71
“Sau khi lên nắm quyền, trong việc xây dựng và củng cố thể chế nhà nước, Mạc Đăng Dung đã hoàn toàn theo “phép cũ” của nhà Lê. Đặc biệt, họp Mạc đã rất chú trọng tới việc đào tạo cho vương triều mình một đội ngũ quan lại thông qua giáo dục khoa cử. Đây là một rong những chính sách đối nội quan trọng của nhà Mạc. Do vậy, họ Mạc sẽ phải dùng Nho giáo, dựa vào Nho giáo.
Như đã biết, ngay từ khi nho giáo du nhập vào Việt nam chính chính giáo dục – khoa cử đã đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc truyền tải những nội dung của Nho giáo. Đến thời Lê sơ, khi Nho giáo trở thành quốc giáo thì các ông vua đầu thời Lê, đặc biệt Lê Thánh Tông đã xây dựng một hệ thống giáo dục – khoa của tương đối hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương .
Nhà Mạc thay thế nhà Lê trong hoàn cảnh một bộ phận không nhỏ các sĩ phu quan liêu nhà Lê không ủng hộ và đang tìm cách chống lại, nhằm khôi phục vương triều cũ. Họ Mạc cũng hiểu rằng cơ sở nền tảng của xã hội và do đó sẽ là cơ sở của bộ máy cai trị chính quyền vương triều Mạc vẫn sẽ là dùng Nho giáo, sử dụng Nho giáo để nắm sĩ phu. Bên cạnh đó, tập đoàn Lê – Trịnh đang nổi lên ở phía Nam khiến nhà Mạc phải tìm mọi cách để tranh giành sĩ phu với nam triều. Bởi vậy, hàng năm nhà Mạc đã tiến hành đều đặn các kỳ thi tuyển chọn nhân tài.
Trong suốt thời kỳ thống trị của nhà Mạc, không năm nào nhà Mạc không tổ chức thi cử. Ngay trong những năm có nhiều biến loạn, những năm nhà Mạc bị thất bại liên tiếp, triều đình nhà Mạc vẫn tổ chức các kỳ thi, năm 1592 quân Mạc bị thua lớn, quân Trịnh Tùng kéo vào tàn phá kinh thành, nhưng sau khi Trịnh Tùng rút quân thì mùa hạ năm ấy, Mạc Mậu Hợp lại mở khoa thi Hội.
Nhà Mạc thường xuyên mở nhiều khoa thi, trước hết là nhằm xây dựng, đào tạo một tầng lớp sĩ phu quan liêu mới để cung cấp cho bộ máy thống trị. Trên tinh thần ấy, nhà Mạc ngay sau khi lên ngôi vua đã cho tổ chức kỳ thi hội đầu tiên vào năm 1529... Những trí thức phong kiến lớn, nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Giáp Hải… đều đỗ trong các kỳ thi do nhà Mạc tổ chức”.
(Trích trong: https://mactrieu.vn/nhung-dong-gop-cua-vuong-trieu-mac-
trong-su-nghiep-phat-trien-van-hoa-giao-duc)
2. Phật giáo
“Lý Thái Tổ lên ngôi mới được hai năm, tôn miếu chưa dựng, xã tắc chưa lập mà đã dựng 8 chùa ở Thiên Đức, lại sửa chùa quán ở các lộ, cấp độ diệp cho hơn 1000 người ở kinh sư làm tăng ”
(Đại Việt Sử kí toàn thư, NXB Khoa học xã hội, Tập 1, tr.191)
“Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người, sao mà được người tin theo lâu bền như thế! Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật, bỏ đi rồi lại dựng lên, nát đi rồi lại sửa lại, lâu dài, chiêng trống chiếm đến nửa phần so với dân cư”.
(Đại Việt Sử kí toàn thư, NXB Khoa học xã hội, Tập 1, tr.161)
72
3. Sự du nhập của đạo Thiên chúa vào Việt Nam
“...Từ thế kỉ XVII, đạo Thiên chúa trở thành một tôn giáo mới tồn tại ở Việt Nam. Cũng như các tôn giáo khác, đạo Thiên chúa đưa vào cuộc sống tâm linh của người Việt một quan niệm mới về sự tôn thờ, về quan hệ giữa con người và vũ trụ, về lòng từ thiện, về sự cứu khổ ...Nhưng lại có nhiều quan điểm trái ngược với đạo lý của người Việt đương thời, đặc biệt là Nho giáo”.
(Đại cương Lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Tập 1, tr388)
4. Văn Miếu – Quốc Tử Giám
“Một trong những di tích nổi tiếng của Văn Miếu –Quốc Tử Giám là 82 tấm bia Tiến sĩ, ghi họ tên, quê quán của 1307 vị Tiến sĩ của 82 khoa thi từ 1442- 1779 gồm 81 khoa triều Lê và 1 khoa triều Mạc. Bia Tiến sĩ khắc trên loại đá màu xanh, kích thước không đều nhau được trạm khắc hoa văn tinh xảo. Bia được đặt trên lưng rùa. Rùa là một trong bốn linh vật: Long, Ly, Qui, Phượng. Rùa sống lâu, có sức khỏe nên việc đặt bia Tiến sĩ trên lưng rùa đá thể hiện sự tôn trọng hiền tài và trường tồn mãi mãi. Ngày 9/3/2010, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc UNESCO đã chính thức ghi danh 82 bia đá các khoa thi Tiến sĩ triều Lê và Mạc là di sản tư liệu thứ 2 của Việt Nam trở thành Di sản tư liệu thế giới trong chương trình “Ký ức thế giới , sau mộc bản triều Nguyễn.
(Trích trong: http://vietbao.vn/Xa-hoi/Van Mieu Quoc Tu Giam – Nhung dieu can biet)
5. Tình hình giáo dục Việt nam thời phong kiến
Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV, nền giáo dục Đại Việt từng bước được xây dựng và phát triển. Giáo dục thi cử dần dần trở thành nguồn đào tạo quan lại chủ yếu cho triều đình. Năm 1070,vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu. Năm 1075, khoa thi quốc gia đầu tiên được tổ chức ở kinh thành. Sang thời Trần, Hồ giáo dục thi cử tiếp tục phát triển và được quy định chặt chẽ hơn. Thời Lê sơ, đặc biệt thời Lê Thánh Tông, nhà nước quy định cứ 3 năm tổ chức kì thi Hội một lần để tuyển chọn tiến sĩ. Trong dân gian số người đi học ngày càng đông và số người đỗ đạt cũng tăng lên. Năm 1484, nhà nước quyết định dựng bia tiến sĩ. Nhiều tri thức giỏi đãgóp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
...Nối tiếp truyền thống giáo dục khoa cử của thời Lê, Vua Gia Long rất đề cao Nho học, ông cho lập Văn Miếu ở các doanh, các trấn thờ đức Khổng Tử và lập Quốc Tử Giám năm 1803 ở kinh thành Huế để dạy cho các quan và các sĩ tử, mở khoa thi Hương lấy những người có học, có hạnh ra làm quan. Cũng trong năm này, Gia Long cho ban hành hai đạo dụ về việc mở các trường ở các tỉnh, ấn định nhân viên giáo giới và chương trình học chế đồng thời tái lập lại các khoa thi ở các trấn. Ở mỗi trấn có một quan Đốc Học, một phó Đốc Học hay Trợ Giáo. Cứ tháng 10 hàng năm triều đình mở một kỳ thi. Theo thông lệ cứ ba năm triều đình mở khoa thi Hương ở các địa phương. Những người trúng cao ở 73
khoa thi Hương gọi là cử nhân, trúng thấp gọi là tú tài. Năm sau ở Kinh đô mở khoa thi Hội tại bộ Lễ, những cử nhân năm trước khi ứng thí, nếu trúng cách thì được tiếp tục thi Đình ở trong điện nhà vua để lấy các bậc Tiến sĩ.
6. Văn học Việt nam thời phong kiến.
Nhìn chung, văn học Việt Nam thời trung đại gồm hai thành phần chủ yếu
là văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm...
Văn học chữ Hán bao gồm những sáng tác bằng chữ Hán của người Việt. Thành phần văn học này xuất hiện sớm, tồn tại trong suốt quá trình hình thành và phát triển của văn học trung đại, bao gồm cả thơ và văn xuôi. Về thể loại văn học chữ Hán chủ yếu tiếp thu các thể loại văn học từ Trung Quốc như chiếu, biểu, hịch, cáo, truyện truyền kì, kí sự, tiểu thuyết chương hồi, phú, thơ cổ phong, thơ đường luật ... Dù là thơ hay văn xuôi, trữ tình hay tự sự, chính luận, ở loại hình nào văn học chữ Hán cũng có những thành tựu nghệ thuật to lớn.
Văn học chữ Nôm bao gồm những sáng tác bằng chữ Nôm,ra đời muộn hơn văn học chữ Hán ( khoảng thế cuối thế kỉ XIII mới xuất hiện), tồn tại, phát triển đến hết thời kì trung đại. Văn học chữ Nôm chủ yếu là thơ, rất ít tác phẩm văn xuôi. Trong Văn học chữ Nôm, chỉ Văn học chữ Nôm có một số thể loại tiếp thu từ Trung Quốc như phú, văn tế, thơ đường luật, còn phần lớn là thể loại văn học dân tộc như ngâm khúc viết theo thể song thất lục bát, truyện thơ viết theo thể lục bát, hát nói viết theo thể thơ khá tự do có kết hợp với âm nhạc, hoặc thể loại văn học Trung Quốc đã được dân tộc hóa phần nào như thơ đường luật thất ngôn xen lẫn lục ngôn. Văn học chữ Nôm có những thành tựu lớn ở tất cả các thể loại kể trên.
(Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, Sách Ngữ văn 10, tập 1, NXB Giáo dục, 2006, tr 104 -105)
7. Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?
74
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung
phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm.
Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai.
Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?
Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù. Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta”.
(Ngữ văn 8, tập 2, NXB Giáo dục, 2004)
8. Nghệ thuật
Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc phát triển. Nhiều chùa, tháp, kinh thành được xây dựng như chùa Một Cột, chùa Thiên Mụ, chùa Bút Tháp, tháp Phổ Minh, tháp Báo Thiên, thành nhà Hồ, quần thể cung điện nhà vua ở Huế và các lăng tẩm, cột cờ Hà Nội... Nhiều tác phẩm điêu khắc mang những họa tiết hoa văn độc đáo như rồng mình trơn cuộn trong 75
lá đề, bệ chân cột hình hoa sen nở, các bức phù điêu vẽ các cô tiên nữ vừa múa vừa đánh đàn, tượng Phật Bà Quan Âm nghìa mắt nghìn tay, các tượng La Hán...Nghệ thuật sân khấu như chèo, tuồng ra đời từ rất sớm và ngày càng phát triển. Múa rối nước là nghệ thuật đặc sắc xuất hiện thời Lý và ngày càng phát triển. Âm nhạc phát triển với nhiều nhạc cụ như trống cơm, sáo, tiêu, đàn cầm,đàn tranh...Ca múa được tổ chức trong các ngày lễ hội cùng với các làn điệu dân ca mang tính địa phương đậm nét như quan họ, hò, vè, si, lượn...Từ thế kỉ XVI, cùng với văn học dan gian, một trào lưu văn học dân gian được hình thành. Trên các vì, kèo ở những ngôi đình làng, các nghệ nhân đã khắc lên những cảnh sinh hoạt thường ngày của nhân dân như đi cày, đi bừa, đấu vật.. Năm 1993 quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của nhân loại. Năm 2003 nhã nhạc cung đình Huế được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
9. Chùa Một Cột
Chùa Một Cột được xây dựng năm 1049, tên chữ là chùa “Diên Hựu” nghĩa là “Phúc lành dài lâu”. Theo truyền tụng, sau khi vua Lý Thái Tông nằm mộng được Phật Bà dắt đi lên tòa sen ngự tọa, quần thần cho là điềm gở, xin vua cho xây dựng ngôi chùa như bông sen nở trên mặt nước để cầu phúc. Chùa được đặt trên một cột đá cao 20m giống như cái ngó sen, bên trên cột là ngôi chùa có hình một bông sen mọc trên mặt nước. Kết cấu kiến trúc gỗ của chùa là một hệ thống mộng giằng chồng chéo từ cột lớn đến sàn không chỉ tạo thế vững chắc, mà còn mang lại những nét đẹp như đường lượn của cánh sen, thiết lập sự hài hòa giữa mái và sàn bởi một đối xứng ảo. Cùng với ao hình vuông phía dưới, ngôi chùa vươn lên cái ý niệm cao cả: lòng nhân ái của Phật soi tỏ thế gian.
10. Khoa học kĩ thuật
76
Khoa học - kĩ thuật nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX đạt được nhiều thành tựu có giá trị, có nhiều công trình khoa học ra đời như: Lịch sử có Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu thời Trần; Lam Sơn thực lục, Đại Việt sử kí toàn thư thời Lê sơ; Ô châu cận lục thời Mạc; Đại Việt thông sử, Thiên Nam ngữ lục thời Hậu Lê; Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức... thời Nguyễn. Về Địa lý có Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Hồng Đức bản đồ của Lê Thánh Tông, tập bản đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá ...Về Quân sự có tác phẩm Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí huyền thư của Trần Quốc Tuấn; tập Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ. Về thiết chế chính trị có bộ Thiên Nam dư hạ của vua Lê Thánh Tông; về toán học có Đại thành toán pháp của Lương Thế Vinh, lập thành toán pháp của Vũ Hưu; về y học có bộ sách y dược của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác...Về kĩ thuật, Hồ Nguyên Trừng thời Hồ đã chế tạo súng thần cơ và đóng thuyền chiến có lầu; đúc súng theo kiểu phương Tây, đóng thuyền chiến, xây thành lũy của Đào Duy Từ; đặc biệt thời nhà Nguyễn đã đóng được tàu thủy chạy bằng máy
hơi nước; thành nhà Hồ là một thành tựu kĩ thuật quan trọng và năm 2011 được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của thế giới.
11. Bia Vĩnh Lăng ( Lam Kinh – Thanh Hóa)
“Năm Thuận Thiên thứ sáu, năm Quí Sửu tháng 8 nhuận ngày 22, Thái tổ Cao hoàng đế chầu trời. Cùng năm ấy, tháng 10 ngày 23, táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn.
Vua họ Lê, húy là Lợi, tằng tổ của vua Húy là Hối, người phủ Thanh Hóa. Một ngày kia đi chơi Lam Sơn thấy có đàn quạ bay lượn quanh ở dưới núi Lam như vẻ đông người tụ họp, cho rằng chỗ này là đất tốt, liền dời nhà đến ở đấy, được ba năm thì thành sản nghiệp. Con cháu ngày một đông, tôi tớ ngày một nhiều. Việc dựng nước mở đất thực gây nền từ đấy. Từ bấy giờ làm chủ một miền.
Tổ của vua húy là Ðinh, nối dõi nghiệp nhà, theo chí người trước, bộ hạ
có đến hàng nghìn người.
Tổ mẫu của vua họ Nguyễn, rất có đức hạnh, sinh được hai con trai, con trưởng là Tùng, con thứ là Khoáng, tức là thân phụ của vua. Người vui vẻ, dễ dãi, hiền lành, thích làm thiện, mến đãi khách, đối với dân cõi láng giềng cũng coi như người một nhà, cho nên người ta chẳng ai là không cảm ơn mà phục nghĩa. Thân mẫu của vua họ Trịnh, húy là Thương, chăm đạo đàn bà, cửa nhà hòa vui, gia đạo thêm thịnh, sinh ba con trai, trưởng là Học, thứ là Trừ, út là vua. Người con trưởng được cha truyền nghiệp, không may chết non.Vua vâng thừa nghiệp của ông cha, một lòng kính cẩn. Tuy thời gặp loạn lớn mà chí càng thêm bền, giấu mình ở Lam Sơn, làm nghề cày cấy. Vì giận giặc tàn bạo, càng chuyên tâm vào sách lược thao, dốc hết của nhà khoản đãi tân khách.
77
Năm Mậu Tuất (1418) dấy hưng nghĩa binh đóng trên sông Lạc Thủy, trước sau hơn hai mươi trận, đều đặt mai phục, dùng kỳ binh, tránh mũi nhọn, thừa chỗ hư, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạng. Năm Bính Ngọ (1426) đánh ở Ninh Ðộng (tức Ninh Kiều và Tốt Ðộng) đại thắng liền tiến vây Ðông Ðô. Năm Ðinh Mùi (1427) giặc gửi viện binh. An Viễn hầu Liễu Thăng đem mười vạn quân do Quảng Tây tiến, Kiềm Quốc công Mộc Thạnh đem năm vạn quân do Vân Nam tiến. Một trận Chi Lăng, Liễu Thăng nộp đầu, chém quân giặc hơn mấy vạn tên, bắt sống bọn Hoàng Phúc, Thôi Tụ hơn ba trăm người và hơn vạn binh sĩ. Sắc mệnh và binh phù bắt được của Liễu Thăng gửi đến quân Vân Nam, Mộc Thạnh trông thấy nhân đêm chạy trốn, giặc bị chém đầu và bị bắt sống không biết bao nhiêu mà kể. Bấy giờ trấn thủ thành Ðông Quan là bọn Thành Sơn hầu Vương Thông trước đã cùng quân ta giảng hòa mà chưa xong, đến đây, xin thề ở trên sông Nhị, những thành trì trấn thủ các xứ đều mở cửa ra hàng. Những quân giặc bị bắt và những quân đầu hàng có đến mười vạn người, đều tha cho về cả. Ðường thủy thì cấp cho hơn năm trăm thuyền, đường bộ thì cấp cho lương ăn và ngựa; răn cấm quân sĩ (của ta) không được xâm phạm mảy may
(đến quân giặc). Hai nước từ đấy giao hảo, Bắc Nam vô sự. Mường Lễ và Ai Lao dần vào bản đồ, Chiêm Thành và Chà-và vượt biển đến cống.
Vua thức khuya dậy sớm sáu năm mà trong nước thịnh trị, đến nay băng.
Thuận Thiên năm thứ sáu, Quí Sửu tháng 10 ngày tốt, Vĩnh Lộc đại phu
nhập nội hành khiển tri tam quán sự, thần Nguyễn Trãi vâng soạn”.
(Nguyễn Trãi toàn tập, Viện Sử học, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, VN, 1976)
12. Vua Quang Trung đánh tan quân xâm lược Thanh
Nhận được tin quân Thanh sang xâm lược, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ quyết định làm lễ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, chỉ huy quân tiến quân ra Bắc; trên đường đi đã dừng lại ở Nghệ An, Thanh Hóa để tuyển thêm quân.
Trên cơ sở nghiên cứu kĩ tình hình bố trí lực lượng của địch, Quang Trung chia quân thành 5 đạo: Đạo thứ nhất, là đạo quân chủ lực, do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, đánh thẳng vào các đồn lũy phía nam Thăng Long. Đạo thứ hai do Đô đốc Long chỉ huy đánh vào đồn Khương Thượng ( Đống Đa ). Đạo thứ ba do Đại đô đốc Bảo chỉ huy, tiến vào Đại Áng ( Hà Nội ), chuẩn bị tiêu diệt giặc ở đồn Ngọc Hồi. Đạo thứ tư do Đô đốc Tuyết chỉ huy, vượt biển tiến vào đóng ở Hải Dương, uy hiếp địch từ phía Đông. Đạo thứ năm do Đô đốc Lộc chỉ huy, theo đường biển tiến vào sông lục đầu, sẵn sàng đón đầu quân giặc.
Sau khi hoàn thành kế hoạch tác chiến, vua Quang Trung quyết định cho toàn quân ăn Tết trước với lời hứa hẹn “đến ngày mồng 7 tháng giêng, vào Thăng Long sẽ làm lễ hạ nêu, mừng chiến thắng”. Đúng vào lúc giao thừa Tết Kỉ Dậu, lệnh xuất quân được ban ra trong không khí hồ hởi, quyết chiến, quyết thắng, vua Quang Trung đã đọc vang lời hiểu dụ:
Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ
78
Bằng cuộc hành quân bí mật và thần tốc, quân ta đã tiêu diệt gọn các đồn tiền tiêu của địch ở Gián Khẩu và Thanh Quyết, không một tên giặc nào chạy thoát. Trong thế bất ngờ của giặc, vào nửa đêm mông 3 Tết Kỉ Dậu, quân chủ lực của ta bao vây thành Hà Hồi ( Thường Tín – Hà Nội), cách trung tâm Thăng Long 20 km. Quang Trung cho bắc loa gọi hàng, đang say sưa trong giấc ngủ, nghe thấy tiếng loa của quân ta, quân Thanh hốt hoảng chỉ biết bó tay xin hàng. Đồn Hà Hồi bị diệt gọn.
Quang Trung cho đóng quân tại đây và chuẩn bị cho trận chiến ở Ngọc Hồi. Đồn Ngọc Hồi là căn cứ then chốt trong hệ thống phòng ngự của địch, nằm án ngữ con đường thiên lý ( Đường số 1), cách Thăng Long khoảng 12 km ( thuộc Thanh Trì – Hà Nội ngày nay), đồn có khoảng 3 vạn quân đóng giữ, do phó tướng Hứa Thế Hanh chỉ huy. Hệ thống phòng ngự của đồn rất kiên cố, xung quanh cắm nhiều chông sắt, chôn nhiều địa lôi, trên mặt thành đặt nhiều đại bác. Mờ sáng ngày mồng 5 Tết, Quang Trung ra lệnh xuất quân. Mở đầu hơn 100 voi chiến của ta xông lên phía trước, tiếp theo là đội quân mang 20 tấm lá chắn khổng lồ bằng gỗ, quấn rơm, tẩm nước, cứ 10 người khênh một tấm đi trước bảo vệ cho bộ binh tiến theo sau.Trước cuộc tấn công như vũ bão của nghĩa quân, quân Thanh hoảng loạn, tháo chạy, bị tiêu diệt rất nhiều. Số còn lại chạy về kinh thành, gặp quân Tây Sơn án binh ở Văn Điển nên vội vàng chạy về Đầm Mực. Tại đây chúng bị đạo quân của Đô đốc Bảo đón đánh và tiêu diệt gọn
Cùng thời gian này, đạo quân của Đô đốc Long chỉ huy, bất ngờ tập kích đồn Đống Đa, đốt lửa thiêu cháy doanh trại giặc. Giặc hoảng loạn, chống cự yếu ớt, chủ tướng Sầm Nghi Đống tuyệt vọng, đã chạy lên gò Đống Đa thắt cổ tự tử. Thừa thắng, quân Tây Sơn xông thẳng vào kinh thành Thăng Long, tướng chỉ huy là Tôn Sĩ Nghị khiếp sợ, không kịp mặc áo giáp, ngựa không kịp thắng yên cương, chạy qua sông Hồng trốn về nước. Quân giặc thấy chủ tướng bỏ chạy như rắn mất đầu, cũng hoảng loạn, chen chúc nhau qua cầu phao chạy trốn. Cầu phao bị gãy, giặc rơi xuống sông chết nhiều không kể xiết.
Trưa mồng 5 Tết, vua Quang Trung trong áo bào xạm khói súng, ngồi trên lưng voi, dẫn đầu đoàn quân chiến thắng tiến vào Thăng Long trong niềm hân hoan chào đón của nhân dân. 13: Tư liệu hình ảnh
Hình 1: Nho giáo Đạo giáo Phật giáo
79
Hình 2: Nhà truyền giáo Alexandra de Rhodes Hình 3: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Hình 4: Bia tiến sĩ tại Hình 5: Lớp học thời Hình 6: Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Văn Miếu Quốc Tử Giám phong kiến tại kinh thành Huế
Hình 7: Chùa Một Cột Hình 8: Chùa Thiên Mụ (Huế) Hình 9: Quần thể Cố đô Huế
Hình 10: Tượng Phật bà Quan Âm Hình 11: Tượng La Hán chùa Tây Phương
nghìn mắt nghìn tay
80
Hình 12: Chiếu dời đô Hình 13: Hịch tướng sỹ - Trần Quốc Tuấn
Hình 1: Nguyễn Trãi Hình 14: Nguyễn Bỉnh Khiêm Hình 15: Truyện Kiều –
Nguyễn Du
81
PHỤ LỤC 4
HOẠT ĐỘNG HỌC CỦA HỌC SINH
1. Kĩ thuật dạy học “KWLH”
82
2. Hoạt động nhóm