YOMEDIA
Sinh lý học tim mạch (Chu kỳ hoạt động)
Chia sẻ: Nguyen Phuonganh
| Ngày:
| Loại File: PDF
| Số trang:11
183
lượt xem
17
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Tim đập nhịp nhàng, đều đặn, khoảng 3000 triệu lần cho một đời người. Có thể chia chuỗi hoạt động này thành từng chu kỳ lập đi lập lại riêng rẽ. Khoảng thời gian từ đầu
của một tiếng tim này đến đầu tiếng tim khác gọi là một chu kỳ tim. Trong mỗi chu kỳ tim, sự thay đổi áp lực trong trong tâm nhĩ, tâm thất, khiến chúng co và giãn, máu sẽ đi từ vùng áp lực cao đến vùng áp lực thấp....
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Sinh lý học tim mạch (Chu kỳ hoạt động)
- Sinh lý học tim mạch
(Chu kỳ hoạt động)
4. Chu kỳ hoạt động của tim
Tim đập nhịp nhàng, đều đặn,
khoảng 3000 triệu lần cho một đời
người. Có thể chia chuỗi hoạt động
này thành từng chu kỳ lập đi lập lại
riêng rẽ. Khoảng thời gian từ đầu
- của một tiếng tim này đến đầu tiếng
tim khác gọi là một chu kỳ tim.
Trong mỗi chu kỳ tim, sự thay đổi
áp lực trong trong tâm nhĩ, tâm
thất, khiến chúng co và giãn, máu
sẽ đi từ vùng áp lực cao đến vùng
áp lực thấp. Hình 8 cho thấy mối
quan hệ giữa điện tâm đồ, các hiện
tượng cơ học (co và giãn) và những
thay đổi về ì áp lực tâm nhĩ, tâm
thất, thể tích tâm thất,và áp lực
động mạch chủ trong suốt chu kỳ
tim. Ap lực ở hình vẽ này ở thất
trái, còn thất phải thì áp lực thấp
hơn nhiều vì thành thất phải mỏng
hơn tuy nhiên thể tích tống máu là
như nhau. Ở một chu kỳ tim bình
- thường, hai tâm nhĩ co trong khi
hai tâm thất giãn và ngược lại.
4.1. Các giai đoạn của chu kỳ tim
Chu kỳ tim bao gồm giai đoạn co
(tâm thu), và giai đoạn giãn (tâm
trương) của tâm nhĩ và của cả tâm
thất. Có thể chia một chu kỳ tim
thành 3 giai đoạn chính :
4.1.1. Đổ đầy thất
Xảy ra trong giai đoạn tâm trương.
Lúc này cơ thất hoàn toàn giãn, áp
lực trong thất giảm xuống, áp lực
tâm nhĩ vượt quá áp lực tâm thất do
máu từ tĩnh mạch liên tục đổ về ì
nhĩ. Sự chênh lệch áp suất này
khiến cho van nhĩ-thất mở ra và
máu từ nhĩ xuống thất, gọi là giai
- đoạn đầy thất nhanh (80% lượng
máu trong nhĩ đổ xuống thất). Cuối
thời kỳ này, tâm nhĩ co (khử cực
nhĩ : sóng P trên điện tâm đồ) và
tống nốt 20% lượng máu còn lại, để
khởi đầu cho sự co của thất. Sự co
của tâm nhĩ không tuyệt đối cần
thiết cho lưu lượng máu đầy đủ ở
một tần số tim bình thường.
Cuối kỳ tâm thất trương, có khoảng
130ml máu ở mỗi tâm thất, được
gọi là thể tích cuối tâm trương
( EDV : end-diastolic volume ), chỉ
số này quan trọng để đánh giá chức
năng tim. Trong giai đoạn đổ đầy
thất, có một sự chênh lệch áp lực
qua van bán nguyệt, áp lực động
mạch chủ lớn hơn áp lực thất trái,
- tác động lên van, khiến chúng vẫn
đóng trong suốt thời kỳ này. Điều
này ngăn máu chảy ngược trở lại từ
động mạch về tim.
4.1.2. Tâm thất co
Tiếp theo ngay sau khi tâm nhĩ co,
xung động từ nút xoang ngang qua
nút nhĩ-thất và đến khử cực tâm
thất, biểu hiện phức bộ QRS trên
điện tâm đồ. Tâm thất bắt đầu co,
kết quả làm tăng áp lực trong thất.
Khi áp lực tâm thất lớn hơn áp lực
tâm nhĩ, van nhĩ-thất đóng lại.
Trong khoảng 0.05s, buồng thất là
buồng đóng kín vì van nhĩ thất và
van tổ chim đều đóng, chiều dài cơ
tim không thay đổi, thể tích tâm
thất không tăng, nên còn được gọi
- là sự co đẳng tích (isovolumetric
contraction). Khi tâm thất tiếp tục
co, áp suất trong buồng tim tăng rất
nhanh, vượt quá áp suất trong động
mạch. Lúc này, van động mạch mở
ra, và máu được tống vào động
mạch, thể tích máu được tống mỗi
lần tim bóp khoảng 70ml, gọi là
giai đoạn tống máu tâm thất, kéo
dài 0.25s, cho đến khi tâm thất bắt
đầu giãn.
Thể tích máu còn lại trong thất trái
sau tâm thất thu 60ml, gọi là thể
tích cuối tâm thu ( ESV : end-
systolic volume ).
4.1.3. Tâm thất giãn
Khi tâm thất bắt đầu giãn, 4 buồng
tim đều ở thời kỳ tâm trương. Sự
- tái cực của cơ thất thể hiện sóng T
trên điện tâm đồ. Lúc này áp lực
tâm thất giảm xuống sau khi xuất
hiện sóng T, và dần thấp hơn áp lực
động mạch chủ, van động mạch
đóng lại, máu có xu hướng dồn lại
về van bán nguyệt. Sự va của máu
vào các lá van đã đóng lại, tạo nên
một sóng nhô lên trên đường cong
áp lực động mạch chủ. Sự đóng van
động mạch tạo một khoảng ngắn,
trong đó thể tích tâm thất không
thay đổi vì cả 4 van đều đóng. Giai
đoạn này gọi là giãn đẵng tích. Tâm
thất tiếp tục giãn, và áp suất bên
trong giảm, nhanh chóng, dẫn đến
thấp hơn áp lực tâm nhĩ, van nhĩ
- thất mở ra và giai đoạn đổ đầy thất
bắt đầu (Hình 8).
Hình 8 : Liên quan giữa tâm động
đồ, điện tâm đồ, thể tích thất trái và
tâm thanh đồ
- 4.2. Sự phối hợp giữa tâm thu và
tâm trương
Với nhịp tim 75l/ph, mỗi chu kỳ
tim kéo dài 0.8s :
- Trong 0.4s đầu tiên của chu kỳ
tim, là giai đoạn tim giãn, cả 4
buồng tim đều ở kỳ tâm trương.
Đầu tiên, tất cả các van đều đóng,
tiếp đó van nhĩ-thất mở và máu bắt
đầu rót xuống thất.
- Ở 0.1s tiếp, tâm nhĩ co và van
nhĩ-thất mở, nhưng tâm thất vẫn
giãn, van bán nguyệt đang đóng.
- Đến 0.3s còn lại, tâm nhĩ giãn và
tâm thất co. Đầu tiên, tất cả các van
đều đóng (co đẳng tích), tiếp đó
- van bán nguyệt mở, đó là giai đoạn
tống máu tâm thất.
Khi nhịp tim nhanh, thời kỳ tâm
trương ngắn lại rất nhiều so với tâm
thu.
*Lưu ý :
Tâm thất không bơm hết máu mỗi
khi tim bóp, lượng máu còn lại
khoảng 60ml, chính là ESV như đã
nêu trên. Khi tim co bóp mạnh,
ESV có thể chỉ còn 10-30ml, mặc
khác, khi một lượng máu lớn vào
tâm thất lúc tim giãn, EDV có thể
lên đến 200-250ml (bình thường
khoảng 130ml) ở tim bình thường.
Sự tăng thể tích cuối tâm trương
cùng với sự giảm thể tích cuối tâm
- thu, khiến cho thể tích tống máu lúc
này tăng gấp đôi bình thường. Như
vậy, ESV giảm khi sức co của tim
tăng hay sức cản bên ngoài giảm và
ngược lại ESV tăng khi tim co bóp
kém hoặc sức cản ngoại biên tăng,
điều này gây rối loạn chức năng
tim.
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
ERROR:connection to 10.20.1.98:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.98:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
Đang xử lý...