intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Khai thác tài liệu tiểu sử Nguyễn Ái Quốc trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1930, lớp 12 THPT- Ban cơ bản

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

77
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là Việc khai thác tiểu sử nhân vật nhằm cụ thể hoá một số sự kiện liên quan trọng dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919- 1930 là việc làm còn khá mới lạ với nhiều GV THPT. Vậy phương pháp này có thực sự cần thiết không? Có đem lại kết quả cao không? Để trả lời cho những câu hỏi trên, chúng tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm ở hai lớp 12 trường THPT Yên Lạc 2, với tiết 17 (theo phân phối chương trình), bài 12: “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925”- Tiết 2. Kết quả thực nghiệm sẽ làm bằng chứng đánh giá hiệu quả việc khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử và tính khả thi của nó trong thực tiễn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Khai thác tài liệu tiểu sử Nguyễn Ái Quốc trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1930, lớp 12 THPT- Ban cơ bản

  1. SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC trêng thpt Yªn LẠC 2 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên SKKN: Khai thác tài liệu tiểu sử Nguyễn Ái Quốc trong dạy học      Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1930, lớp 12 THPT­ Ban cơ bản                                                                                                                                           Tác giả sáng kiến: Hoàng Thuý Dịu                                            Môn: Lịch sử                                            Mã sáng kiến: 28.57.02                                                                  
  2. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2                                                    Vĩnh Phúc, năm 2020 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 2
  3. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2 MỤC LỤC 1. Lời giới thiệu......................................................................................... 5  2. Tên sáng kiến:                                                                                                       ..................................................................................................      6  6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: ngày5 /11/2019   .  7 .     7. Mô tả bản chất của sáng kiến:                                                                            ........................................................................      7 7.1.Cơ sở lý luận của đề tài...................................................................... 7 7.2. Cơ sở thực tiễn................................................................................. 9 7. 3. Thực trạng việc khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông....................................................... 11 7.3.1 Sơ lược về đặc điểm lĩnh vực nghiên cứu. ........................11 7.3.2 Một số tồn tại trong việc khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.............................................. 13 7.3.3 Một số vấn đề đặt ra trong việc khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông............................... 14 7.4. Một số phương pháp khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật lịch sử trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919- 1930, lớp 12 THPT. ....17 7.4.1 Các nguồn khai thác..................................................................... 17 7.5. Nội dung cần khai thác trong tài liệu tiểu sử nhân vật Nguyễn Ái Quốc để dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919-1930, lớp 12 ban Cơ bản.......................................................................................................... 18 7.6. Phương pháp sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12, THPT (1919- 1930)................................................21   8. Những thông tin cần được bảo mật                                                                 .............................................................       24  9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:                                                ............................................       24 Thực nghiệm sư phạm.......................................................................... 24 9.1. Mục đích......................................................................................... 24 9.2. Nội dung........................................................................................ 25 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 3
  4. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2 9.3. Phương pháp tiến hành thực nghiệm...........................................25 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng   kiến theo ý kiến của tác giả                                                                                 ..............................................................................         25 Kết quả................................................................................................... 25 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng   sáng kiến lần đầu (nếu có):                                                                                   ...............................................................................       26  Phụ lục                                                                                                                    ................................................................................................................       27                                       TÀI LIỆU THAM KHẢO                                                  ..............................................       30 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 4
  5. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2                                             1. Lời giới thiệu Bộ  môn lịch sử  có đặc trưng  riêng biệt so với các môn tự  nhiên cũng   như  so với các môn khoa học xã hội khác. Lịch sử  là những việc rất cụ  thể  diễn ra trong quá khứ, không lặp lại nguyên si, càng không thể “tái tạo” được   trong phòng thí nghiệm, bởi lịch sử gắn liền với không gian và thời gian xác  định, với những con người cụ thể. Nói đến lịch sử là nói đến tính cụ thể, tính  duy nhất. Do đó, trong dạy học lịch sử   ở  trường trung học phổ  thông việc   nhận thức lịch sử không bắt đầu từ trực quan sinh động mà từ  việc nắm bắt   các sự  kiện  và tạo biểu tượng lịch sử. Tạo biểu tượng là giai đoạn   nhận  thức cảm tính của quá trình học tập lịch sử; với những tư  liệu cụ thể, giàu  hình ảnh, tài liệu về tiểu sử và hoạt động của nhân vật sẽ dựng lại chân dung  nhân vật đó. Đồng thời giúp giáo viên cụ thể hoá kiến thức cơ bản trong sách  giáo khoa, làm sáng tỏ sự  kiện lịch sử, góp phần tạo nên một bức tranh chân  thực, sinh động  về một sự kiện lịch sử. “Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử”. Song khi khẳng   định vai trò của quần chúng  nhân dân, chủ nghĩa Mác­ Lênin không phủ nhận  vai trò của các lãnh tụ, các nhà lãnh đạo và nhân vật kiệt xuất  trong sự phát   triển của xã hội. Hoạt động của các nhân vật này hoặc trực tiếp, hoặc gián  tiếp có ý nghĩa thúc đẩy hay kìm hãm sự  vận động   của lịch sử  trong giai   đoạn nhất định. Do đó “mỗi bài học lịch sử  đều phải phác hoạ  cho học sinh   những nhân vật lịch sử  cụ  thể” (7, 57). Lịch sử là sản phẩm hoạt động của  con người. Trong lịch sử không thể vắng bóng con người. Hơn nữa cuộc đời   hoạt động của các nhân vật lịch sử luôn phản ánh một phương diện, một mức  độ  nhất định của lịch sử  dân tộc, của quần chúng nhân dân. Suy cho cùng,  nhân vật sinh ra từ  thời đại, từ  dân tộc, từ  một tầng lớp dân chúng cụ  thể.   Cho nên, việc khai thác tiểu sử nhân vật cũng cung cấp nguồn tài liệu, nguồn  kiến thức quan trọng trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn lịch sử. Nó  góp phần tạo biểu tượng chân thực, chính xác về  nhân vật lịch sử  để  giúp   học sinh hình thành khái niệm lịch sử. Đổi mới toàn diện phương pháp dạy học lịch sử  đòi hỏi phải kết hợp   đồng bộ, hiệu quả  nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó, một biện pháp  quan trọng là sử  dụng tài liệu về tiểu sử và hoạt động của nhân vật lịch sử.  Nhân vật lịch sử  là người thực, việc thực nên có sức thuyết phục học sinh.  Nó có tác dụng sâu sắc đến tâm tư, tình cảm, khơi dậy hứng thú, xúc cảm lịch   S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 5
  6. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2 sử, góp phần hình thành nhân cách các em. Thông qua tài liệu tiểu sử giúp các  em phát triển năng lực nhận thức độc lập của mình. Mặt khác, tài liệu tiểu sử nhân vật thường gần với câu chuyện lịch sử  nên dễ  được học sinh tiếp nhận, say mê tìm hiểu. Nhờ  đó mà hiệu quả  và  mục đích giáo dục đạt được ở mức độ cao. Khai thác tài liệu tiểu sử nhân vật   để dạy học lịch sử ở trường phổ thông là nguồn kiến thức hữu ích bổ trợ đắc  lực cho SGK. Nó làm cho quá trình nhận thức của học sinh diễn ra nhanh   chóng, giúp các em hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức. Lịch sử  Việt Nam giai đoạn 1919­ 1930 có vị  trí quan trọng trong tiến   trình lịch sử dân tộc, phản ánh giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất   đến khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Quá trình vận động cách mạng  ấy  gắn liền với hoạt động của nhiều nhân vật tiêu biểu trong đó chúng ta thấy   vai trò rất lớn của Nguyễn Ái Quốc là một con người yêu nước vĩ đại đã   cống hiến cả  cuộc đời mình cho sự  nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,  Người đã đến được với chủ  nghĩa Mác­Lênin tìm ra được con đường cứu  nước đúng đắn và tích cực chuẩn bị về  tư tưởng chính trị, tổ  chức cho sư  ra  đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khắc hoạ chân dung của nhân vật này là   phương pháp giúp học sinh cụ thể hoá sự kiện lịch sử, nhằm tái hiện quá khứ  một cách chân thực nhất. Với những lí do trên tôi thấy cần thiết phải chọn đề  tài này, xin được  góp  phần   nhỏ   vào  việc   đổi   mới  phương  pháp   dạy  học   lịch   sử   ở   trường   THPT. 2. Tên sáng kiến:  Khai thác tài liệu tiểu sử Nguyễn Ái Quốc trong dạy học  Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1930, lớp 12 THPT­ Ban cơ bản                    3. Tác giả sáng kiến: Người thực hiện: Hoàng Thuý Dịu. Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Yên lạc 2 – Huyện Yên lạc –  Tỉnh Vĩnh Phúc.  Điện thoại: 0986.903.808 Email: hiendiu2009@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến Hoàng Thuý Dịu Trường THPT Yên lạc 2 – Huyện Yên lạc – Tỉnh Vĩnh  Phúc.  5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:  S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 6
  7. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2   ­ Khai thác nội dung cơ  bản của lịch sử  Việt Nam giai  đoạn 1919­ 1930   (SGK lớp 12 THPT), sử  dụng tài liệu, hoạt động của nhân vật Nguyễn Ái  Quốc, xác định những chi tiết trong tiểu sử có liên quan đến sự  kiện lịch sử  để khai thác và sử dụng.  ­ Điều tra, quan sát thực tế ở trường phổ thông.   ­ Đề  xuất một số  phương pháp sử  dụng tài liệu, hoạt động của nhân vật   Nguyễn Ái Quốc trong dạy học lịch sử Vịêt Nam giai đoạn 1919­ 1930.  ­ Soạn bài và tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra kết quả thực hiện. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: ngày5 / 11/2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1.Cơ sở lý luận của đề tài. 7.1.1.Đặc trưng bộ môn.        Lịch sử được coi là “cô giáo của cuộc sống”, là bó đuốc soi đường hướng   tới tương lai. Từ việc tìm hiểu quá khứ, con người rút ra được những bài học  quí báu cho cuộc sống hiện tại và tương lai. Chính vì vậy, bộ môn lịch sử có  vai trò quan trọng trong giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ trở  thành những con  người toàn diện đủ Trí­ Đức­ Thể­ Mĩ đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ  Tổ   quốc. Bộ  môn lịch sử  không chỉ  cung cấp cho học sinh những hiểu biết  sâu sắc về nhân loại, về dân tộc mình từ buổi bình minh của lịch sử đến nay   mà còn góp phần hình thành phát triển nhân cách, giáo dục tình cảm, phẩm   chất đạo đức và năng lực yêu nước, truyền thống dân tộc, chủ nghĩa anh hùng  cách mạng cho những chủ nhân tương lai của đất nước.       Tuy nhiên, như  trên đã trình bày, trong trường phổ  thông, lịch sử  là môn  học có đặc trưng rất riêng biệt so với tất cả  các môn khác. Nếu các môn   KHTN như  Lý, Hoá, nhà nghiên cứu trong những thời gian khác nhau có thể  tạo ra các điều kiện giống nhau để  thực hiện những thí nghiệm giống hệt  nhau từ cách tiến hành đến kết quả thu được, thì với lịch sử không bao giờ có  sự  “diễn lại” nguyên si  ấy. Lịch sử  là cái đã qua; về  nhận thức, học sinh   không thể quan sát  sự kiện lịch sử một cách trực tiếp; đây là một cái khó của   dạy học lịch sử. Nó đòi hỏi người giáo viên phải“tạo ra  ở  học sinh những   hình ảnh chân thực, cụ thể và sống động về các sự kiện, hiện tượng lịch sử,   việc khôi phục lại chân dung các nhân vật lịch sử, những hoạt động của họ   trong những điều kiện lịch sử cụ thể” (7, 42).      Lịch sử  luôn  ở  trạng thái vận động, “là kết quả  của con người theo đuổi  những mục đích nhất định…”Do đó, cùng một sự  kiện lịch sử  có vô vàn ý   S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 7
  8. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2 kiến đánh giá khác nhau. Mỗi thời đại, mỗi thế  hệ, mỗi giai cấp, thậm chí  mỗi sử  gia lại có nhìn nhận khác nhau về lịch sử  khách quan. Việc lựa chọn   để  đưa vào sử  dụng tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử   ở  trường phổ  thông là rất quan trọng. Khai thác tiểu sử  nhân vật nhằm làm sáng tỏ  các sự  kiện  lịch sử  có liên quan mang ý nghĩa thiết thực đối với học sinh. Sự  hoạt   động của các nhân vật này phản ánh ở mức độ nhất định lịch sử của một dân  tộc, của quần chúng nhân dân. Dấu vết của thời đại, hoàn cảnh đất nước, quê  hương in đậm trong cuộc đời, sự  nghiệp của các nhân vật tiêu biểu. Có khi,  cuộc đời hoạt động  cách mạng của một nhân vật lịch sử lại gắn liền với quá  trình vận động cách mạng  của dân tộc. VD: cuộc đời hoạt động của Chủ tịch  Hồ Chí Minh gắn liền với lịch sử Việt Nam từ thể kỷ XX trở đi.      Chính nhờ nguồn tài liệu phong phú và giàu hình ảnh như trên đã kích thích  học sinh hứng thú, say mê học tập lịch sử, tái hiện được bức tranh sinh động  về  quá khứ, về  những “người thực, việc thực” đã tồn tại. Khai thác và sử  dụng tiểu sử nhân vật Nguyễn Ái Quốc trong dạy học lịch sử Việt Nam giai   đoạn 1919­1930, lớp 12 THPT giúp các em hình thành biểu tượng về Người:   một vị  lãnh tụ, một người cộng sản chân chính, một tâm hồn và trí tuệ  lớn  lao, một con người của những quyết định lịch sử, Người đã sáng lập ra Đảng   Cộng sản Việt Nam.  Bác đã chiến đấu và hy sinh cả cuộc đời, cả tuổi thanh   xuân, để  đặt nền móng vững chắc cho sự  nghiệp cách mạng của nhân dân  Việt Nam. Qua chân dung của nhân vật Nguyễn Ái Quốc, giáo viên góp phần  khắc sâu trong trí nhớ  học sinh những sự  kiện quan trọng nhất của lịch sử  Việt Nam từ 1919­1930, đồng thời giáo dục tư tưởng, tình cảm thúc đẩy hành  động yêu nước trong cuộc sống.  7.1.2. Đặc điểm nhận thức của học sinh.            Quá trình nhận thức của học sinh nói chung đều tuân theo quy luật từ  nhận thức đơn giản đến phức tạp, từ  cụ  thể  đến trừu tượng, từ  hiện tượng   đến bản chất. Quá trình này trải qua nhiều giai đoạn theo quy luật của nhận  thức: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng   đến thực tiễn. Đó là con đường biện chứng của nhận thức đối với sự  vật,   của nhận thức đối với hiện thực khách quan” (11, 189). Nói cách khác, quá  trình nhận thức đến biết và hiểu sâu sắc. Từ  đó học sinh mới có thể  phân  tích, so sánh, đánh giá rút ra kết luận về các sự kiện lịch sử. Sử dụng tài liệu  về  tiểu sử   nhân vật để  tạo biểu tượng về  nhân vật ­ về  thực chất là giúp  học sinh thực hiện tốt giai đoạn nhận thức cảm tính. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 8
  9. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2       Do đặc trưng của lịch sử  nên nhận thức lịch sử  bao giờ cũng phức tạp,   con người hiển nhiên là một bộ  phận không tách rời của đối tượng nghiên  cứu. Học sinh nhận thức quá khứ trong bối cảnh hiện tại, vì thế, rất dễ bị rơi  vào tình trạng “hiện đại hoá” lịch sử. Trong học tập lịch sử, quá trình nhận   thức cũng tuân thủ  quy luật chung đó là: đi từ  trực quan sinh động, song do  lịch sử  là những cái diễn ra và không lặp lại nên không thể  bắt đầu từ  cảm  giác và tri giác mà phải nắm các sự kiện (về kinh tế, văn hoá, chính trị…) để  tạo biểu tượng lịch sử. Trên cơ sở các nguồn kiến thức, hướng dẫn của giáo   viên,..học sinh có biểu tượng lịch  sử cụ thể, quá khứ. Rồi từ biểu tượng mà  hình thành khái niệm lịch sử. Như vậy, muốn nắm khái niệm lịch sử phải có  biểu tượng lịch sử chân thực, chính xác. Rõ ràng, việc sử  dụng tiểu sử  nhân  vật không chỉ góp phần tạo biểu tượng sinh động, chính xác mà còn giúp học   sinh có cơ  sở  để  hình thành khái niệm, cuối cùng các em biết rút ra  những   quy luật, bài học cần thiết, tức là nắm vững bản chất của sự kiện.   7.2. Cơ sở thực tiễn.  7.2.1. Tình hình chung.       Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung  và phương pháp dạy học lịch sử nói riêng đã trở  thành yêu cầu cấp thiết. Có  nhiều ý kiến khác nhau   về  việc nâng cao chất lượng   dạy và học lịch sử,   song việc thực hiện và kết quả  thực hiện các phương pháp đề  xuất này vẫn   chưa được xác nhận rõ trong thực tế. Thực trạng của việc dạy học  ở  các  trường phổ  thông được điều tra (thể hiện trong bài viết công bố  trên tạp chí  như: NCGD, Báo giáo dục và thời đại….) có nhiều điều đáng cho chúng ta  quan tâm. Kết hợp các tài liệu này với điều tra tại chỗ, tôi rút ra mấy kết luận   chủ yếu sau:     Về mặt tài liệu: SGK và SGV là nguồn tài liệu gần như duy nhất trong quá  trình lên lớp, ngoài ra giáo viên và học sinh không còn là một nguồn kiến thức  bổ  sung nào khác. Đành rằng, SGK là tài liệu cơ  bản đối với học sinh, đồng  thời là tài liệu đáng tin cậy của giáo viên trong soạn, giảng bài. Song, nó chỉ  nêu những kiến thức lịch sử cơ bản phù hợp với chương trình. Theo Đairi, bài  giảng không được thoát ly hoàn toàn SGK, cũng không nên lặp lại. Nhưng  ở  các nhà trường phổ thông, phần lớn giáo viên vẫn chỉ  dựa vào SGK mà chưa  chú trọng vào việc mở rộng nguồn nhận thức, mở rộng các hình thức dạy học  nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh.            Về  mặt phương pháp dạy học lịch sử: Vẫn chưa xoá bỏ  cách dạy cũ:  Thầy đọc, trò ghi. Nhiều GV chỉ  làm nhiệm vụ  của người “thông báo” nội  S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 9
  10. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2 dung SGK. Học sinh lên lớp chỉ để nghe thầy nói, ghi lại lời thầy vào vở, sau  đó học thuộc và trả  bài cho thầy. Rõ ràng phương pháp dạy học này không   phát huy được tính tích cực trong hoạt động nhận thức  của học sinh, không  gây được hứng thú cần thiết cho các em trong học tập. Vì vậy, chất lượng bộ  môn không cao, việc dạy học chưa đáp ứng được nhiệm vụ, yêu cầu và mục   tiêu môn học.        Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên. Trong đó, nguyên   nhân nổi bật là không ít giáo viên chưa nhận thức được tác dụng của tài liệu   tham khảo trong giảng dạy và học tập môn lịch sử, đặc biệt là tài liệu tiểu sử  nhân vật. Khai thác và sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử  ở  trường phổ  thông là việc làm khá mới mẻ  đối với nhiều giáo viên. Mặt   khác, việc sưu tầm nguồn tài liệu này còn khó khăn, đòi hỏi đầu tư nhiều thời   gian công sức.        Một số   giáo viên có tâm huyết với nghề  đã cố  gắng đưa tài liệu tham  khảo vào dạy học lịch sử, trong đó có sử  dụng tiểu sử  nhân vật. Nhưng, họ  lại thường tỏ  ra lúng túng khi chọn lọc khai thác chi tiết nào trong toàn bộ  tiểu sử cuộc đời  và hoạt động của nhân vật để phục vụ những nội dung kiến  thức cần truyền đạt cho học sinh. Tiểu sử  nhân vật gồm rất nhiều chi tiết,   nhưng không phải chi tiết nào có tác dụng  làm sáng tỏ các sự kiện lịch sử  mà   học sinh cần lĩnh hội. Điều này buộc giáo viên phải biết chọn lọc các chi tiết  nào trong tiểu sử  nhân vật vừa cụ  thể, chính xác, vừa phù hợp với nội dung   kiến thức giảng dạy. Mặt khác, tài liệu được lựa chọn đó phải hấp dẫn,   ngắn gọn, xúc tích, đảm bảo thời gian một tiết học, chỉ diễn ra trong vòng 45  phút.       7.2.2. Tình hình học tập môn lịch sử ở trường Yên Lạc 2.        Qua thực tiễn công tác tại trường THPT Yên Lạc 2, tôi nhận thấy tình  trạng học sinh không hiểu rõ về lịch sử dân tộc còn khá phổ  biến. Nhiều em   thuộc sử  Trung Quốc hơn Việt Nam, hiểu biết các nhân vật lịch sử  Trung  Quốc chính xác và sâu sắc hơn nhân vật lịch sử Việt Nam. Không ít học sinh   có thể  kể  chi  tiết  về  cuộc  đời, sự  nghiệp của Tào Tháo, Khổng Minh…  nhưng lại không biết người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ chính là Hoàng đế  Quang Trung. Thực tế “cười ra nước mắt”  ấy khiến tác giả của đề tài không   khỏi trăn trở, băn khoăn. Cũng có thể  thông cảm cho các em vì các phương  tiện thông tin đại chúng, phim ảnh, sách báo về nhân vật lịch sử Trung Quốc   nhiều và hấp dẫn, thu hút được sự  chú ý của học sinh. Trong khi đó, tài liệu  về nhân vật lịch sử Việt Nam chưa nhiều ,chưa phổ biến. Rất nhiều học sinh   S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 10
  11. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2 xếp Đào Duy Từ vào một trong 5 Đảng viên ĐCS Việt Nam bị thực dân Pháp   tử hình trong giai đoạn 1919­1945. Ở Xã Nguyệt Đức có trường THPT Phạm   Công Bình nhưng qua điều tra của chúng tôi thấy có trên 50% số  học sinh  không biết ông là ai...Điều này đòi hỏi giáo viên lịch sử  phải đổi mới nội  dung và phương pháp giảng dạy bộ môn lịch sử để nâng cao sự hiểu biết của  học sinh, dùng tài liệu tham khảo để  bổ  sung kiến thức cho các em, trong đó  đặc biệt quam tâm tới khai thác và sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật.             7. 3. Thực trạng việc khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật trong  dạy học lịch sử ở trường phổ thông.             7.3.1 Sơ lược về đặc điểm lĩnh vực nghiên cứu.              * Đặc điểm chung:                      Trong những năm gần đây, các tác giả trên thế giới (chủ  yếu là Liên   Xô trước đây và các nước XHCN) đã có nhiều công trình nghiên cứu đề  cập  đến việc sử dụng tài liệu tham khảo cho GV và học sinh trong quá trình dạy   học. Về  phương pháp dạy học bộ  môn đã có một số  hội nghị  bàn về  biện  pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử. Nhiều bài viết về chủ đề này được   đăng trên các tạp chí như “Nghiên cứu lịch sử”, “Nghiên cứư giáo dục”…Nhìn   chung, các công trình nghiên cứu đã nêu được các vấn đề lí luận và thực tiễn,   biện pháp sư phạm cụ thể nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả bài học.                Ở nước ngoài, vấn đề sử dụng tài liệu tham khảo trong đó có việc   sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật để cụ thể hoá sự kiện kịch sử được đề cập   đến trong nhiều tài liệu (bài viết, sách…).Tiến sĩ khoa học Đairi trong cuốn  “Chuẩn bị  giờ  học lịch sử  như thế  nào?” đã bàn về  tính đa dạng của nguồn  kiến thức và sự cần thiết phải trang bị cho giờ học các phương tiện dạy học,   sử  dụng tài liệu tham khảo khác như  một nguồn kiến thức để  cụ  thể  hoá   kiến thức trong SGK nhằm gây hứng thú cho học sinh trong giờ học.          Ở Việt Nam, cuốn “Giáo dục học” của Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt  cũng đề cập đến việc sử dụng tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử. Các   tác giả  nhấn mạnh tài liệu tham khảo  được sử  dụng hợp lí sẽ  trở  thành  nguồn kiến thức cần thiết để hỗ trợ làm rõ SGK.          Các giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” của Phan Ngọc Liên và  Trần Văn Trị, đề  cập đến việc sử  dụng tài liệu tiểu sử  và hoạt động của   nhân vật lịch sử với tư cách là tài liệu tham khảo, có tác dụng cụ thể hoá một  số sự kiện lịch sử. Đồng thời, các tác giả cũng cho rằng tài liệu tiểu sử, hoạt   động của nhân vật còn được dùng để tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử đó. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 11
  12. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2           Ngoài ra,việc sử dụng tài liệu tham khảo còn được nói tới trong nhiều  bài viết trên các tạp chí, báo: Nghiên cứu giáo dục, Nghiên cứu lịch sử, Thông   tin khoa học.            Sẽ  là một thiếu sót rất lớn nếu không kể  đến một số  sáng kiến kinh   nghiệm của các đồng chí GV trong cả nước ít nhiều đã đề cập đến vấn đề sử  dụng tài liệu tiểu sử  nhân vật trong dạy học lịch sử   ở  các cấp học. Đây là   những tài liệu rất đáng lưu ý vì các tác giả chính là người trực tiếp giảng dạy   bộ môn, là chủ thể của việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử.         Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu hay một   sáng kiến kinh nghiệm nào đi sâu vào việc khai thác tiểu sử và hoạt động của   Nguyễn Ái Quốc nhằm cụ thể hoá một số sự kiện trong dạy học lịch sử Việt   Nam giai đoạn 1919­ 1930, lớp 12 THPT. Đây là nội dung sáng kiến kinh   nghiệm của tôi kế thừa và góp phần phát triển đề tài quan trọng này.       * Thuận lợi:         Trong quá trình thực hiện đề  tài, tác giả nhận thấy có những thuận lợi   cơ bản như sau:        Một là, việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử  đang được Bộ  GD   & ĐT, Sở GD & ĐT Vĩnh Phúc, các trường phổ thông quan tâm khuyến khích  bằng nhiều hình thức. Điều này tạo động lực tốt cho giáo viên tìm tòi, sáng  tạo trong giảng dạy nhằm mục đích nâng cao chất lượng bộ môn.       Hai là, nhiều trường phổ thông được trang bị những phương tiện, thiết   bị dạy học hiện đại, có thể hỗ trợ tốt việc sử dụng tài liệu tiểu sử trong dạy   học. VD: máy chiếu giúp chiếu hình ảnh hoặc những thước phim đặc sắc về  nhân vật… Những trường cơ  sở  vật chất còn thiếu thốn thì sử  dụng tranh   ảnh treo tường kết hợp với lời kể hấp dẫn của GV hoặc học sinh (theo định   hướng của GV) cũng đem lại hiệu quả cao. Nói cách khác việc sử dụng tiểu   sử  nhân vật trong dạy học lịch sử  có thể  tiến hành  ở  mọi trường phổ  thông  mà không cần yêu cầu cao về cơ sở vật chất.       Ba là, trong thời đại bùng nổ  thông tin, giáo viên và học sinh có rất   nhiều lựa chọn về “nguồn” khai thác về tiểu sử  nhân vật: qua sách, báo, đài  truyền thanh, đài truyền hình, Internet..      Bốn là, tiểu sử  nhân vật gần gũi với chuyện kể  lịch sử, kể  về  những   con người, sự việc có thực nên rất thuyết phục, hấp dẫn và dễ gây hứng thú  đối với học sinh.        * Khó khăn: S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 12
  13. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2          Bên cạnh thuận lợi nêu trên, việc khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật   trong dạy học lịch sử còn có những khó khăn nổi bật sau:           Thứ  nhất, gần đây kết quả  thi và các điều tra kiến thức của học sinh   về  môn lịch sử  đã gióng lên một hồi chuông cảnh báo về  chất lượng dạy ­   học bộ  môn trong nhà trường phổ  thông. Do đó, dư  luận xã hội, các cấp  ngành, các nhà trường đã có thay đổi tích cực trong quan điểm về  tầm quan  trọng của môn lịch sử. Tuy nhiên, nhìn chung đa số các trường đều chưa giành  cho môn học này vị  trí xứng đáng. Sự  hỗ  trợ, khuyến khích, động viên với  giáo viên và học sinh vì thế mà kém thường xuyên.         Thứ  hai, trong các mùa tuyển sinh khối C ngày càng rơi vào tình trạng  “rớt giá” vì học sinh khó chọn trường, chọn nghành lại không có những công  việc hấp dẫn sau khi ra trường. Bởi vậy, tâm lí dạy­ học môn lịch sử  là dạy  môn phụ­ học môn phụ càng đè nặng lên tư tưởng giáo viên, học sinh, khiến  giáo viên không muốn tìm tòi phướng pháp giảng dạy mới.         Thứ  ba, trong thời hiện đại các thông tin đến với mọi người qua rất   nhiều “kênh” khác nhau, rất dễ  dàng, tuy nhiên có mặt trái là không phải  thông tin nào cũng chính xác, nhất là thông tin về nhân vật lịch sử. Nếu không  có lập trường vững vàng, kiến thức chắc chắn người tiếp nhận sẽ  không  phân biệt được đâu là tài liệu xuyên tạc sự thật lịch sử, bôi nhọ danh dự, phủ  nhận vai trò của nhân vật lịch sử vì mục đích chính trị. Do đó, nhiệm vụ quan  trọng của người giáo viên là phải định hướng học sinh, giúp các em biết “gạn  đục khơi trong” tìm ra nguồn tài liệu tin cậy phục vụ học tập.           Thứ  tư, khai thác và sử  dụng tài liệu tiểu sử  nhân vật trong  dạy học   lịch sử  là công việc khã phức tạp đòi hỏi nhiều thời gian và công sức, tâm  huyết và năng lực sư phạm của giáo viên.        7.3.2 Một số tồn tại trong việc khai thác và sử dụng tiểu sử nhân  vật trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.          Khai thác tiểu sử  nhân vật nhằm cụ  thể  hoá các sự  kiện lịch sử  trong  dạy học. Tuy nhiên nếu không có phương pháp đúng đắn sẽ  không đạt được  mục đích trên, nhiều giáo viên khi sử dụng loại tài liệu này thường mắc vào   hai lỗi phổ biến sau:       1. Chỉ trình bày tóm tắt về tiểu sử nhân vật như  năm sinh, năm mất, quê   quán, cha mẹ, gia đình… theo kiểu thông báo. VD: Khi dạy về  bài “Cách  mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII”  ở lớp 10, giáo viên nhắc đến nhân vật   “Rôbexpie(1758­1794) sinh ra ở tỉnh Arat, miền Bắc nước Pháp trong một gia  đình   luật   sư.   Ông   tốt   nghiệp   trường   Luật   Pari   và   người   đứng   đầu   phái  S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 13
  14. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2 Giacôbanh”. Đây là một thông báo khô khan, không có tác dụng giáo dục tư  tưởng đạo đức học sinh.Với cách giới thiệu này, giáo viên chưa thể  tạo cho   học sinh biểu tượng về nhân vật Rôbexpie. Sau tiết học, các em quên ngay và  việc nhầm lẫn Rôbexpie với nhà cách mạng Anh hay Mĩ là điều khó tránh  khỏi.      2. Giáo viên kể nhiều sự việc liên quan đến nhân vật lịch sử, kể những chi  tiết có thực và cả  những chi tiết hư  cấu chưa được xác minh. Cách sử  dụng  tài liệu tiểu sử như vậy thường không đạt được mục đích giáo dục mà chỉ để  “mua vui”, theo lối “kể chuyện rông dài”, khiến học sinh có những hiểu biết   sai lệch về nhân vật và sự kiện lịch sử.         7.3.3 Một số vấn đề đặt ra trong việc khai thác và sử dụng tiểu sử  nhân vật trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.       Khi khai thác tài liệu tiểu sử trong dạy học lịch sử nói chung, theo tôi cần   lưu ý những điểm sau:         7.3.3.1 Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác­Lênin về  vai trò   của nhân vật  kiệt xuất trong sự phát triển của lịch sử, xã hội.         7.3.3.2 Xác định được ý nghĩa của việc khai thác và sử dụng tài liệu   tiểu sử  các nhân vật nhằm cụ  thể  hoá sự  kiện trong dạy học lịch sử   ở   trường phổ thông về các mặt giáo dục, giáo dưỡng và phát triển.         7.3.3.3 Xác định vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của phần kiến thức   trong giảng dạy. Trong khuôn khổ  của đề  tài là lịch sử  Việt Nam giai   đoạn 1919­1930 chương trình lớp 12 THPT ..      * Về vị trí, mục tiêu:      Giai đoạn 1919­1930 có vị  trí rất quan trọng trong toàn bộ  tiến trình  phát triển của lịch sử  Việt Nam. Kiến thức giai đoạn lịch sử  này chỉ  được  dạy trong vòng 4 tiết và nằm trọn vẹn trong: phần hai­ Lịch sử Việt Nam từ  năm 1919­2000 với hai bài:     ­ Bài 12: Phong trào dân tộc và dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm   1925.      ­ Bài 13: Phong trào dân tộc dân chủ   ở  Việt Nam từ  năm 1925 đến năm   1930.       Giai đoạn này gồm nhiều sự kiện, diễn biến quan trọng: đó là quá trình  vận động sôi nổi, phức tạp với nhiều khuynh hướng khác nhau trong phong  trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra   đời. Ngày 3­2­1930 ĐCS Việt Nam được thành lập, đánh dấu một bước ngoặt   S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 14
  15. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2 vĩ đại trong lịch sử dân tộc; chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối và giai  cấp lãnh đạo kéo dài suốt mấy thập kỉ cuối thế kỉ XIX­ đầu thế kỉ XX. Đảng  Cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối khoa học, đúng đắn đã mở  ra tiền  đồ tươi sáng cho sự nghiệp cách mạng nước ta. Quá trình vận động thành lập   Đảng gắn liền với công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc và các nhà yêu nước   lúc đó.        Nắm vững kiến thức cơ  bản của giai đoạn 1919­1930 tạo cơ  sở    để  học sinh tiếp thu những kiến thức về lịch sử Việt Nam t ừ năm 1930 đến nay   tốt hơn.           Qua học tập lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919­1930 giáo dục tình cảm,  tư  tưởng, phẩm chất đạo đức, niềm tin đối với sự  thắng lợi của cách mạng   Việt Nam; đồng thời phát triển tư duy độc lập cho học sinh. Bởi vì thời kì này  có những sự kiện quan trọng thể hiện sự chuyển biến to lớn của xã hội Việt   Nam đưa tới những thay đổi quyết định trong phong trào giải phóng dân tộc  theo con đường đúng, hợp quy luật mà Nguyễn Ái Quốc đã xác định. Nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam từ năm 1919­1930.      Thể  hiện sự  phát triển của cách mạng Việt Nam sau chiến tranh thế  giới thứ  nhất, dẫn đến sự  ra đời của ĐCS Việt Nam 3­2­1930. Những nội   dung chủ yếu là: ­ Tiền đề khách quan của phong trào cách mạng Việt Nam từ khi chiến tranh  thế giới thứ nhất kết thúc. Đó là sự chuyển biến sâu sắc về kinh tế, chính trị,  xã hội nước ta trước tác động của chương trình khai thác thuộc địa lần hai  của Pháp. Tính chất của xã hội Việt Nam có sự thay đổi từ xã hội phong kiến  thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến, với sự xuất hiện của nhiều tầng lớp   xã hội mới. Những mâu thuẫn xã hội chồng chéo nhưng nổi lên hai mâu thuẫn  cơ  bản: Mâu thuẫn  giữa toàn thể  dân tộc Việt Nam với chủ  nghĩa đế  quốc  Pháp và mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân lao động(chủ yếu là nông dân)  với địa chủ phong kiến. ­ Các phong trào cách mạng dân tộc Việt Nam từ năm 1919­1930 thể hiện sự  đan xen và đấu tranh giữa hai xu hướng cách mạng: xu hướng cách mạng theo  con đường vô sản và xu hướng cách mạng theo con đường tư sản. Đây là nội   dung chủ  yếu của cuộc vận động cách mạng dân tộc Việt Nam trước khi   Đảng ra đời.    ­ Sự  phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam dẫn đến sự  ra đời của  ĐCS. Đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác­Lênin với phong trào công nhân và  S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 15
  16. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2 phong trào yêu nước trong những năm 1930, đánh dấu sự  trưởng thành vượt   bậc của cách mạng Việt Nam.     7.3.3.4 Nắm rõ tiêu chí lựa chọn  nhân vật tiêu biểu trong dạy học lịch   sử.     Giai đoạn 1919­1930 trong lịch sử Việt Nam có nhiều nhân vật nhưng trong   giới hạn của bài học chỉ có thể đi sâu hoặc hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu   nhân vật Nguyễn Ái Quốc dựa theo  các tiêu chí sau:       ­Thứ  nhất, lựa chọn nhân vật  Nguyễn Ái Quốc có cuộc đời, hoạt động   gắn liền với sự kiện hoặc giai đoạn lịch sử nhất định; trên cơ sở đó, khai thác   chi tiết trong tiểu sử nhân vật nhằm cụ  thể hoá nội dung lịch sử  dân tộc mà  SGK không có điều kiện làm rõ.      VD: Tiểu sử và hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911­ 1924 sẽ làm  sáng tỏ nội dung: “Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc” trong bài 12, mục II.3.    ­ Thứ hai, khai thác và sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật phải có ý nghĩa giáo   dục và tác dụng phát triển toàn diện học sinh.      Đất nước ta từ buổi đầu lập nước tới nay đã trải qua mấy nghìn năm lịch   sử. Trong suốt hành trình dựng nước và giữ  nước gian khổ  mà rất đỗi hào  hùng  ấy bao thế  hệ  người Việt Nam đã kiên cường chống ngoại xâm, bình  nổi loạn, khai sơn phá thạch, mở mang bờ cõi… làm cho đất nước ngày càng  rực rỡ thắm tươi. Giai đoạn 1919­1930 là một khoảng thời gian ngắn ngủi, có   thể xem như một “khoảnh khắc” nếu đem so với chiều dài dựng nước và giữ  nước của dân tộc ta. Tuy nhiên, thời gian này đã ghi bao chiến công anh hùng  của các nhà yêu nước, các nhà cách mạng Việt Nam trong phong trào giải   phóng dân tộc  đầu thế  kỉ  XX, tiêu biểu là người thanh niên Nguyễn Tất  Thành.      Khai thác tiểu sử  nhân vật trong lịch sử  VN giai đoạn 1919­1930 là một   cách để “ôn cố tri tân”, sùng niệm tiền nhân, làm gương cho hậu thế. Đây là  nội dung giáo dục chủ  nghĩa yêu nước, khí phách anh hùng…cho học sinh  trong nhà trường hiện nay.      Như vậy, tìm hiểu tiểu sử nhân vật Nguyễn Ái Quốc trong dạy học lịch sử  giai đoạn này giúp học sinh nắm vững, hiểu sâu kiến thức, khắc phục tình  trạng hiểu biết nông cạn, mơ hồ về nhân vật; khơi dậy trong các em niềm tự  hào dân tộc, sự kính phục và lòng biết ơn đối với những người đã cống hiến  cuộc đời cho đất nước. Từ  đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của các em đối   với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, việc tìm hiểu tiểu sử  và hoạt động của nhân vật này còn góp phần phát triển tư  duy độc lập cho  S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 16
  17. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2 học sinh, giúp các em có cái nhìn biện chứng, thế giới quan khoa học và thao  tác tư duy độc lập.     Đó là hai tiêu chí cơ bản nhất, ngoài ra còn có một số điểm khác cần chú ý  như nhấn mạnh thêm về các nhân vật ở địa phương có liên quan; các nhân vật  có hành động anh hùng…    7.4. Một số phương pháp khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật lịch sử  trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919­ 1930, lớp 12 THPT.  7.4.1 Các nguồn khai thác.     Các tài liệu viết về nhân vật lịch sử vô cùng phong phú gồm cả những tác   phẩm văn học, sân khấu, sử học…ở đây chủ yếu chỉ xét các tác phẩm sử học.  Gồm các tài liệu: ­  Sách báo viết về tiểu sử, cuộc đời, chiến công của các nhân vật lịch sử. VD + “Theo gương những người cộng sản”( Ban nghiên cứu lịch sử  Đảng trung   ương, Nxb Thanh niên, 1969) + “Góp phần tìm hiểu một số  nhân vật lịch sử  Việt Nam” ( Chương Thâu,  nxb Chính trị quốc gia, 2002)  ­ Hồi ức, hồi kí của chính các nhân vật lịch sử được bản thân họ  hay người  khác ghi lại, như cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Những chặng   đường lịch sử” ( Hữu Mai ghi, nxbChính trị quốc gia , 1994)  ­ Ngoài ra, cũng có thể khai thác tiểu sử nhân vật qua lời kể của chính nhân  vật đó thông qua các buổi tiếp xúc, tổ  chức nói chuyện lịch sử, hoặc qua lời   kể của người thân, bạn bè chiến đấu của nhân vật. Nguồn khai thác này đảm  bảo tính chân thực cao, song khó thực hiện được.       7.4.2 Phương pháp khai thác.       Nguồn khai thác tài liệu tiểu sử nhân vật phong phú vừa là thuận lợi, vừa  là khó khăn của giáo viên. Vì giữa rất nhiều tài liệu ấy, trong vô số chi tiết về  cuộc đời, hoạt động của nhân vật, cần lựa chon chi tiết nào phù hợp nhất với  mục đích, nội dung bài học. Điều đó yêu cầu giáo viên phải căn cứ vào SGK,   xác định sự  kiện nào cần cụ  thể  hoá, từ  đó tìm ra chi tiết phù hợp trong tiểu   sử nhân vật có liên quan mật thiết đến sự kiện đó.      Khai thác tài liệu tiểu sử nhân vật cần nêu bật lên những đóng góp và cống  hiến tiêu biểu của nhân vật trên phương diện nhất định của lịch sử  xã hội.  Để làm được điều này chúng ta có thể chia ra làm hai tuyến nhân vật sau:   ­ Nhân vật cách mạng: Là các nhân vật có  ảnh hưởng tích cực đến sự  phát  triển tiến bộ nói chung của cả một dân tộc, một nước, hay của cả nhân loại.   S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 17
  18. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2 Đó là những vị  lãnh tụ  phong trào nông dân, công nhân; những nhà khoa học   hay những chiến sĩ dũng cảm hi sinh vì Tổ  quốc…Với tuyến nhân vật này   cần tập trung khai thác những hành động cách mạng.   ­ Tuyến nhân vật phản cách mạng: là những nhân vật có ảnh hưởng tiêu cực  đến sự phát triển của lịch sử xã hội. hành động của nhân vật này thường làm  chậm lại thậm chí kéo lùi sự vận động của lịch sử của một nước hay của cả  nhân loại. Với tuyến nhân vật này cần tập trung khai thác vào những hành  động phản cách mạng. VD: nhân vật Hitle, Mutxolini…( thế giới); Kiều Công  Tiễn, Trần Ích Tắc..( Việt Nam)         Ngoài ra, giáo viên và học sinh có thể chia làm nhiều nhóm nhân vật lịch   sử  tiêu biểu cho các lĩnh vực hoạt động, đóng góp hay  ảnh hưởng của họ.  VD:   ­ Nhóm 1: Các nhân vật thuộc lĩnh vực chính trị, quân sự  gắn liền với một   thời đại lịch sử tiêu biểu, thuộc giai cấp thống trị.   ­ Nhóm 2: Các lãnh tụ của phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân lao   động chống áp bức,bóc lột, tiêu biểu như Hồ Chí Minh.    ­ Nhóm 3: Các nhà khoa học, phát minh, sáng chế, các danh nhân văn học  nghệ thuật, các nhà tư tưởng..        Việc chia các tuyến nhân vật thành các tuyến, nhóm giúp giáo viên lựa   chọn  được những chi tiết trong tiểu sử  nhân vật phù hợp với nội dung bài   giảng, đồng thời giáo viên cũng thuận lợi hơn trong việc xác định phương  pháp sử dụng tiểu sử nhân vật nhằm cụ thể hoá sự kiện.       7.5. Nội dung cần khai thác trong tài liệu tiểu sử nhân vật Nguyễn Ái  Quốc để dạy học lịch sử Việt  Nam giai đoạn 1919­1930, lớp 12 ban  Cơ bản.        7.5.1. Nguyễn Ái Quốc (1890­ 1969). Tiểu sử, quá trình tìm đường cứu   nước và sự chuyển biến trong nhận thức, hành động cách mạng.         Sử  dụng để  cụ  thể  hoá các sự  kiện lịch sử  trong dạy bài 12, mục II.3.   Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc. (SGK, Tr81­ 82).      Nguyễn Ái Quốc, tức Chủ tịch Hồ Chí Minh, sinh ngày 19­5­ 1890 ở làng  Trù quê mẹ, cách quê nội là làng Kim Liên 2km. Cả  hai làng đều thuộc xã  Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ  An. Người lớn lên trong một gia đình  trí thức nghèo yêu nước, nguồn gốc nông dân. Thửơ  nhỏ  tên là Nguyễn Sinh   Cung, sau đó đổi là Nguyễn Tất Thành.     Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự thất bại của  hàng loạt phong trào yêu nước ngay trên xứ Nghệ những năm cuối thế kỉ XIX   S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 18
  19. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2 đầu thế kỉ XX, Nguyễn Tất Thành đau đáu trong lòng suy nghĩ phải làm gì để  cứu nước. Người nhận thấy rõ ­ bằng tư duy sắc sảo của bản thân­ những sai  lầm về  đường lối đấu tranh của các nhà yêu nước đương thời, Nguời quyết   tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới. Ngày 5­ 6­ 1911, Nguyễn Tất Thành  rời bến cảng Nhà Rồng trên con tàu Latusơ Tơrevin, mở đầu cuộc hành trình   mấy chục năm đầy gian lao vất vả, hiểm nguy..để đem ánh sáng chân lí cách   mạng về giải phóng dân tộc mình.   Bôn ba qua nhiều châu lục, Nguyễn Tất Thành trở thành một người lao động  thực sự tiếp thu chủ nghĩa Mác­ Lênin, tuy phải vất vả kiếm sống nhưng vẫn   không quên mục đích chính của mình là tìm đường cứu nước.         Ngày 18­ 6­ 1919, Nguyễn Tất Thành lúc này đổi tên là Nguyễn Ái Quốc,  thay mặt người Việt Nam yêu nước sống tại Pháp gửi tới Hội nghị  Vecxai   bản “Yêu sách 8 điều” đòi chính phủ  Pháp thừa nhận các quyền tự  do, dân   chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Tuy bản yêu sách không được   chấp nhận, nhưng đòn tấn công trực diện đó của nhà cách mạng trẻ tuổi vào  bọn trùm đế quốc đã gây tiếng vang đối với nhân dân Việt Nam, Pháp và các  thuộc địa của Pháp.       Tháng 7­ 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản: “Sơ  thảo lần thứ  nhất những   luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Sự kiện này có ý   nghĩa bước ngoặt đối với tư  tưởng và hoạt động của Nguyễn Ái Quốc. Từ  đây, Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo con đường giải phóng của cách   mạng Tháng Mười Nga.          Tháng 12­ 1920, tại Đại hội Tua, Nguyễn Ái Quốc bỏ  phiếu tán thành  Quốc tế  III và việc lập ĐCS Pháp. Người trở  thành người cộng sản Việt   Nam đầu tiên.       Năm 1921, Người tham gia sáng lập: “Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa”  ở  Pari nhằm đoàn kết các dân tộc thuộc địa chống chủ  nghĩa đế  quốc, đồng  thời cũng để  truyền bá chủ  nghĩa Mác­ Lênin vào thuộc địa.Cũng tại Pháp,  Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo “Le paria”(Người cùng khổ),vạch  trần chính sách áp bức bóc lột của thực dân, đế quốc.Người còn tích cực tham   gia viết bài cho các báo tiến bộ: “Nhân đạo”; “Đời sống công nhân”; và cuốn  sách nổi tiếng “Bản án chế độ thực dân Pháp”     Các bài viết về chủ nghĩa Mác­ Lênin và sách báo tiến bộ khác của Nguyễn  Ái Quốc đã theo chân các thuỷ thủ yêu nước hoặc các trí thức, bí mật về Việt   Nam đang lúc phong trào dân tộc, dân chủ phát triển mạnh mẽ. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 19
  20. Hoµng Thuý DÞu Trêng THPT Yªn L¹c 2    Tháng 6 năm 1923 Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô tham dự hội nghị  quốc tế nông dân (10­1923) và Đại hội V Quốc tế cộng sản. Tại các hội nghị  quan trọng này Người đã trình bày những luận điểm quan trọng xung quanh  vấn đề dân tộc và thuộc địa.    7.5 .2 Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc nhằm chuẩn bị  về  tư  tưởng   chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.     Sau thời gian học tập nghiên cứu ở Liên Xô, Người về Quảng Châu( Trung  Quốc), lấy tên là Lý Thuỵ Tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam, từ đầu   năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về tưởng, chính trị  và tổ  chức   cho sự thành lập một chính đảng vô sản. Tháng 6­ 1925, Người chỉ đạo thành  lập: “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên”­ tổ chức tiền thân của Đảng Cộng  sản Việt Nam với cơ  quan ngôn luận là báo “Thanh niên”…ra số  đầu tiên  ngày 21­ 6­ 1925. Nguyễn Ái Quốc còn tổ  chức các lớp huấn luyện chính trị  cho thanh niên yêu nước Việt Nam.        Từ năm 1925 – 1927 Nguyễn Ái Quốc mở các lớp huấn luyện chính trị,   đào tạo cán bộ  cách mạng Việt Nam, trang bị  cho lí luận cách mạng giải   phóng dân tộc và tổ  chức nhân dân đấu tranh, hướng họ  đi theo con đường  cách mạng vô sản, con đường quốc tế cộng sản. Năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc được tập hợp thành cuốn “  Đường  Kách Mệnh” trở thành kim chỉ nam cho các nhà cách mạng Việt Nam   lúc đó. Những hoạt động tích cực của các nhà cách mạng Việt Nam  đã tạo ra  sự chín muồi của các điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm  1929 ở Việt Nam lần lượt xuất hiện 3 tổ chức cộng sản. Sự xuất hiện của ba   tổ  chức cộng sản đánh dấu bước phát triển vượt bậc của phong trào công  nhân Việt Nam, là bước chuẩn bị trực tiếp cho sự ra đời của Đảng Cộng sản   Việt Nam. Được sự  uỷ  nhiệm của Quốc tế  Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã  triệu tập hội nghị  hợp nhất các tổ  chức cộng sản tại Cửu Long – Hương   Cảng – Trung Quốc. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược  vắn tắt do Người soạn thảo, đây được coi là Cương lĩnh chính trị  đầu tiên   của Đảng.      Từ  1930­ 1969, với vai trò lãnh tụ  cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã cùng  Đảng Cộng sản Việt Nam đưa cách mạng Việt Nam vượt qua bao gian nan,   thác ghềnh để cập đến những bến bờ vinh quang. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2