intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SỞ HỮU TRÍ TUỆ - LUẬT QUỐC TẾ VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 4

Chia sẻ: Le Nhu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

139
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Điều 44 cho phép dành cho các cơ quan xét xử quyền “ra lệnh cho một bên chấm dứt hành vi xâm phạm nhằm, ngoài các mục đích khác, ngăn chặn hàng hoá nhập khẩu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vào lưu thông trong các kênh thương mại nằm trong lãnh thổ của mình” Điều 45.1 quy định rằng các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh “buộc người xâm phạm phải trả cho chủ thể quyền khoản đền bù thoả đáng để bồi thường cho những thiệt hại mà chủ thể quyền sở hữu trí...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SỞ HỮU TRÍ TUỆ - LUẬT QUỐC TẾ VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 4

  1. “nguyên đơn có thể được yêu cầu cung cấp thông tin khác cần thiết cho việc xác định hàng hoá có liên quan”. Điều 44 cho phép dành cho các cơ quan xét xử quyền “ra lệnh cho một bên chấm dứt hành vi xâm phạm nhằm, ngoài các mục đích khác, ngăn chặn hàng hoá nhập khẩu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vào lưu thông trong các kênh thương mại nằm trong lãnh thổ của mình” Điều 45.1 quy định rằng các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh “buộc người xâm phạm phải trả cho chủ thể quyền khoản đền bù thoả đáng để bồi thường cho những thiệt hại mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đã phải gánh chịu do hành vi xâm phạm của người thực hiện hành vi xâm phạm quyền khi đã biết hoặc có cơ sở để biết điều đó.” Nhằm ngăn chặn một cách hữu hiệu hành vi xâm phạm quyền, Điều 46 cho phép các thành viên quy định thẩm quyền cho các cơ quan xét xử “để ra lệnh, mà không có bồi thường dưới hình thức bất kỳ, buộc những hàng hoá xâm phạm quyền do các cơ quan đó phát hiện phải bị xử lý bên ngoài các kênh thương mại theo cách thức tránh gây thiệt hại bất kỳ cho chủ thể quyền”. Nếu hiến pháp hiện hành có quy định thì hàng hoá xâm phạm quyền có thể bị tiêu huỷ. Một thẩm quyền bổ sung được quy định cho các cơ quan xét xử là thẩm quyền “ra lệnh buộc xử lý các vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất hàng hoá xâm phạm quyền bên ngoài các các kênh thương mại theo cách thức nhằm giảm đến mức tối thiểu nguy cơ tiếp diễn hành vi xâm phạm quyền”. Khi xem xét các yêu cầu xử lý hoặc tiêu huỷ hàng hoá xâm phạm quyền và phương tiện được sử dụng để sản xuất hàng hoá xâm phạm quyền, các cơ quan xét xử phải chú ý đến “sự cần thiết phải có tính tương xứng giữa các biện pháp chế tài và mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm quyền cũng như phải chú ý đến lợi ích của các bên thứ ba.” Đối với hàng hoá giả mạo nhãn hiệu, Điều 46 quy định rằng “trừ những trường hợp ngoại lệ, việc đơn thuần loại bỏ nhãn hiệu gắn trên hàng hoá một cách bất hợp pháp không đủ để cho phép hàng hoá đó được đưa vào lưu thông trong các kênh thương mại”. Một sự phát triển đặc biệt hữu ích là thẩm quyền được quy định theo Điều 47 “để ra lệnh buộc người xâm phạm phải thông tin cho chủ thể quyền biết về những người tham gia vào việc sản xuất và phân phối hàng hoá hoặc dịch vụ xâm phạm quyền và về các kênh phân phối của những người đó”. Điều 47 khuyến nghị không thực hiện thẩm quyền này trong trường hợp điều đó là “không tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm quyền”. 40 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  2. Trong trường hợp “các biện pháp thực thi bị lạm dụng”, Điều 48.1 quy định rằng các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh buộc bên “đã đưa ra yêu cầu thực hiện các biện pháp chế tài” phải “bồi thường một cách thoả đáng cho những thiệt hại do sự lạm dụng đó gây ra” cho bên đã bị áp dụng các biện pháp đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái. Điều 48.1 cũng quy định rằng nguyên đơn phải trả cho bị đơn “các khoản chi phí đại diện thích hợp”. (b) Các chế tài hình sự Điều 61 quy định rằng các Thành viên phải quy định các thủ tục và hình phạt hình sự “để áp dụng ít nhất đối với các trường hợp cố ý giả mạo nhãn hiệu hoặc sao chép lậu với quy mô thương mại”. Các hình phạt hình sự được liệt kê tại Điều này là: “phạt tù và/hoặc phạt tiền đủ để ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền, tương ứng với mức phạt được áp dụng cho các tội phạm có mức độ nghiêm trọng tương đương”. Ngoài ra, trong những trường hợp thích hợp, Điều 61 quy định về việc “bắt giữ, tịch thu và tiêu huỷ hàng hoá xâm phạm quyền và vật liệu và các phương tiện bất kỳ chủ yếu được sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội”. Điều 61 cũng quy định các thủ tục và chế tài hình sự được áp dụng trong các trường hợp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ khác, “đặc biệt là trường hợp cố ý xâm phạm và xâm phạm với quy mô thương mại”. (c) Các biện pháp kiểm soát biên giới Một sự đổi mới quan trọng của Hiệp định TRIPS là việc các thành viên WTO phải quy định và thi hành các biện pháp kiểm soát biên giới để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Trên cơ sở mối quan ngại về hoạt động thương mại hàng giả mạo và hàng sao chép lậu đã thúc đẩy sự quan tâm của GATT đến vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ, có lẽ mọi người đều cho rằng các kiến trúc sư soạn thảo Hiệp định TRIPS sẽ trông cậy vào sự hỗ trợ của các cơ quan hải quan để ngăn chặn hoạt động thương mại này. Mục 4 Phần III thiết lập một cơ chế đình chỉ việc đưa vào lưu thông hàng hoá bị nghi ngờ là giả mạo nhãn hiệu hoặc hàng hoá sao chép lậu. Việc đình chỉ thông quan có thể được thực hiện trên cơ sở đơn yêu cầu của chủ thể quyền hoặc do các cơ quan kiểm soát biên giới chủ động thực hiện. Điều 51 yêu cầu các Thành viên phải ban hành và thực hiện các thủ tục cho phép chủ thể quyền, khi có những căn cứ hợp lý để nghi ngờ rằng việc nhập khẩu các hàng hoá mang nhãn hiệu giả mạo hoặc hàng hoá sao chép lậu có thể xảy ra, được đệ đơn cho các cơ quan hành chính 41 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  3. hoặc cơ quan xét xử có thẩm quyền yêu cầu các cơ quan hải quan đình chỉ thông quan để ngăn chặn hàng hoá đó vào lưu thông tự do. Theo như chú thích của quy định này, thuật ngữ “hàng hoá giả mạo nhãn hiệu” được định nghĩa là “hàng hoá bất kỳ, kể cả bao bì, mang nhãn hiệu trùng với nhãn hiệu đã được đăng ký hợp pháp cho hàng hoá đó hoặc không thể phân biệt với nhãn hiệu đó về những khía cạnh cơ bản, mà không được phép và do vậy xâm phạm quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu đó theo luật của nước nhập khẩu”. Thuật ngữ “hàng hóa sao chép lậu” được định nghĩa là “hàng hoá bất kỳ là bản sao được làm ra mà không có sự đồng ý của người nắm giữ quyền hoặc người được phép của người nắm giữ quyền ở nước sản xuất, và hàng hoá đó được làm ra trực tiếp hoặc gián tiếp từ một sản phẩm mà việc làm ra bản sao sản phẩm đó cấu thành hành vi xâm phạm quyền tác giả hoặc quyền liên quan theo luật của nước nhập khẩu.” Ngoài việc đình chỉ thông quan hàng hoá bị nghi ngờ giả mạo nhãn hiệu hoặc hàng hoá sao chép lậu, Điều 51 còn quy định rằng biện pháp đình chỉ thông quan cũng có thể được áp dụng đối với hành vi xâm phạm các quyền sở hữu trí tuệ khác. Một sự đổi mới đặc biệt hữu ích trong quy định về kiểm soát biên giới là thẩm quyền được trao theo Điều 57 cho phép các Thành viên quy định cho các cơ quan có thẩm quyền, đối với vụ việc được phán quyết thuận theo yêu cầu của chủ thể quyền, quyền thông báo cho chủ thể quyền biết về “tên và địa chỉ của người gửi hàng, người nhập khẩu và người nhập khẩu theo uỷ thác và về số lượng của hàng hoá đó”. Điều này sẽ hỗ trợ một cách rõ ràng cho chủ thể quyền trong việc tiếp tục điều tra để phát hiện ra những người khác có liên quan đến hàng giả mạo và hàng sao chép lậu. Điều 58 dự tính rằng các Thành viên có thể cho phép các cơ quan có thẩm quyền chủ động hành động trong việc đình chỉ thông quan hàng hoá nếu họ có được những chứng cứ hiển nhiên về sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong những tình huống như vậy, Điều này cho phép các cơ quan có thẩm quyền được “yêu cầu chủ thể quyền cung cấp những thông tin có thể giúp họ thực hiện quyền lực đó” Thi hành các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS Hiệp định TRIPS buộc các Nước thành viên phải ban hành pháp luật về sở hữu trí tuệ tuân thủ các tiêu chuẩn tối thiểu được quy định trong Hiệp định. Vì Hiệp định liên quan đến một số tiêu chuẩn được đề cập trong các điều ước về sở hữu trí tuệ đã tồn tại từ trước, ví dụ Công ước Pari, Công ước Berne và Công ước Rome, do vậy vấn đề thi hành 42 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  4. các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS không phải là vấn đề quá khó khăn đối với hầu hết các nước. Sau đây là những lĩnh vực mà có thể yêu cầu phải có quy định pháp luật mới để điều chỉnh. Nhãn hiệu Các yêu cầu của Hiệp định TRIPS thường sẽ đòi hỏi các nước thành viên phải mở rộng việc kiểm tra khả năng được đăng ký của nhãn hiệu, chấp nhận chế độ kiểm tra của Hiệp định TRIPS về “có khả năng phân biệt” bổ sung cho khả năng tự phân biệt. Với một số nước, định nghĩa về dấu hiệu có khả năng đăng ký của Hiệp định TRIPS là một lĩnh vực then chốt của việc sửa đổi pháp luật trong nước vì đã có sự thừa nhận rộng rãi rằng thị trường đã mở rộng đến mức định nghĩa trước đây về “nhãn hiệu” không thể hiện đầy đủ phạm vi các dấu hiệu phân biệt được sử dụng trong thương mại. Hiệp định TRIPS đã đưa ra một điểm phân biệt rất hữu ích giữa bản thân một nhãn hiệu với các dấu hiệu hoặc sự kết hợp của các dấu hiệu có thể tạo thành một nhãn hiệu. Hiệp định TRIPS cũng chứa đựng một tiêu chí hữu ích về khả năng nhìn thấy được bằng mắt thường đối với các dấu hiệu có khả năng đăng ký mà có thể bao gồm các khía cạnh của bao bì, hình dạng sản phẩm, màu sắc, âm thanh hoặc mùi vị. Hiệp định TRIPS tiếp tục áp dụng các tiêu chuẩn cụ thể cho việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được quy định tại Công ước Pari và làm rõ cũng như bổ sung các quy định này, cụ thể là o bằng việc mở rộng việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng cho các dịch vụ, o bằng việc quy định rằng bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng áp dụng cho các hành vi sử dụng liên quan đến các hàng hoá hoặc dịch vụ không liên quan đến hàng hoá hoặc dịch vụ đã đăng ký, với điều kiện việc sử dụng nhãn hiệu như vậy có thể biểu thị một mối quan hệ với chủ sở hữu nhãn hiệu và lợi ích của chủ sở hữu có thể bị thiệt hại. o bằng việc yêu cầu rằng trong quá trình xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không, phải tính đến sự biết đến nhãn hiệu của bộ phận công chúng có liên quan, trong đó có việc biết đến nhãn hiệu do kết quả của hoạt động quảng cáo nhãn hiệu. Sáng chế Đối với hầu hết các nước phát triển, các nghĩa vụ liên quan đến sáng chế của Hiệp định TRIPS chủ yếu đòi hỏi: 43 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  5. o kéo dài thời hạn bảo hộ sáng chế chuẩn lên 20 năm o chuyển nghĩa vụ chứng minh trong các vụ xâm phạm độc quyền đối với sáng chế về quy trình, với điều kiện toà án phải tính đến các lợi ích hợp pháp của bị đơn trong việc bảo vệ bí mật kinh doanh và bí mật sản xuất o áp dụng các quy định của Điều 31 về li-xăng cưỡng bức, đặc biệt yêu cầu đối với toà án trong việc xác định người nộp đơn yêu cầu cấp li-xăng cưỡng bức đã nỗ lực trong một thời hạn hợp lý để được chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế cho phép khai thác sáng chế với những điều khoản và điều kiện hợp lý. Đối với một số nước đang phát triển, việc mở rộng phạm vi bảo hộ tới các quy trình cũng như các sản phẩm đòi hỏi những thay đổi đáng kể về luật pháp. Bằng độc quyền sáng chế, Quyền đối với giống cây trồng và sáng chế về công nghệ sinh học Điều 27.3(b) Hiệp định TRIPS yêu cầu rằng “các Thành viên phải bảo hộ giống cây trồng hoặc theo bằng độc quyền sáng chế hoặc theo một hệ thống riêng hữu hiệu hoặc theo hệ thống kết hợp cả hai”. Điều này cũng quy định rằng “các quy định của khoản này phải được rà soát lại sau 4 năm kể từ ngày Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực”. Theo sự rà soát được bắt đầu vào năm 1999, đã có một sự tranh cãi sôi nổi về nội dung của các hệ thống riêng có thể tuân thủ Điều 27.3(b). Vì không có quy định nào của Hiệp định TRIPS dẫn chiếu đến Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới (Công ước UPOV), cần cân nhắc đến sự chậm trễ trong việc thiết lập một hệ thống riêng. Hơn nữa, các yếu tố then chốt cho việc phát triển hệ thống riêng là không rõ ràng hoặc không được xác định. Trước hết, có thể có nhiều cách thức xác định thuật ngữ giống cây trồng. Để được bảo hộ theo hệ thống quyền của nhà tạo giống cây trồng truyền thống (PBR), giống cây trồng phải đáp ứng tiêu chuẩn về tính khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định (DUS). Có ý kiến đề xuất rằng “tính đồng nhất” và “tính ổn định” có thể được thay thế bằng tiêu chuẩn về khả năng nhận dạng, cho phép gộp các quần thể cây trồng mà không đồng nhất hơn, nhờ vậy quan tâm được đến lợi ích của các cộng đồng bản địa. Phạm vi bảo hộ có thể chỉ giới hạn ở các bộ phận nhân giống của cây hoặc có thể được mở rộng để bao gồm cả các vật liệu thu hoạch. 44 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  6. Thứ hai, Hiệp định TRIPS không cấm phát triển các hệ thống bảo hộ bổ sung, cũng không cấm bảo hộ đối tượng bổ sung để bảo vệ các hệ thống tri thức bản địa và các đổi mới không chính thống, cũng như để ngăn ngừa sự chiếm đoạt bất hợp pháp. Việc soạn thảo và thông qua Hiệp định TRIPS ban đầu về cơ bản không có sự tham gia tích cực của các nước đang phát triển. Quan điểm đàm phán chính của các nước đang phát triển trong suốt Vòng Uruguay là vấn đề về sự phù hợp của sở hữu trí tuệ với GATT, đặc biệt là vì WIPO đã được thành lập với tư cách là một cơ quan chuyên môn về sở hữu trí tuệ của Liên hợp quốc. Sự không tham gia của các nước đang phát triển trong việc giải quyết các nội dung của Hiệp định TRIPS trong Vòng đàm phán Uruguay đã được khắc phục bằng việc tham gia tích cực của họ trong tiến trình rà soát. Hàng loạt các nhóm nước đang phát triển theo khu vực đã tổ chức các cuộc họp để thoả thuận với nhau về quan điểm đàm phán chung đối với việc rà soát Hiệp định TRIPS cũng như Công ước về đa dạng sinh học. Một Thông báo do Kenya gửi WTO thay mặt cho Nhóm châu Phi hỗ trợ các nội dung chuẩn bị cho Hội nghị Bộ trưởng năm 1999 đã chỉ ra rằng vì hạn chót để các nước đang phát triển thực hiện các nghĩa vụ của Hiệp định TRIPS là tháng 1 năm 2000 nên việc rà soát sẽ được thực hiện trước khi các nước đang phát triển thực thi nghĩa vụ của mình. Vì các nước đang phát triển có thể không có đủ kinh nghiệm về sự vận hành của Hiệp định nên họ có thể không có cơ hội từ trước để tiến hành các nghiên cứu đánh giá tác động của việc thực hiện Hiệp định này. Hơn nữa, Thông báo này cũng chỉ ra rằng việc rà soát cần lường trước tác động của các tranh cãi tại những diễn đàn có liên quan khác như CBD, UPOV, FAO, Thoả thuận quốc tế về các nguồn gen thực vật (International Undertaking on Plant Genetic Resources) và sự phát triển luật mẫu của OAU về quyền của cộng đồng và kiểm soát việc tiếp cận nguồn sinh học. Các nước đang phát triển cũng đề xuất cho phép kéo dài thêm 5 năm trước khi rà soát Điều 27.3(b). Nhóm các nước châu Phi đã đề xuất rằng “sau câu về bảo hộ giống cây trồng nêu trong Điều 27.3(b), cần chèn vào một chú thích tuyên bố rằng luật riêng bất kỳ về bảo hộ giống cây trồng đều có thể quy định: (i) việc bảo hộ các kết quả đổi mới của các cộng đồng nông dân bản địa và địa phương, phù hợp với Công ước về đa dạng sinh học và Thoả thuận quốc tế về nguồn gen thực vật; 45 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  7. (ii) sự tiếp tục của các thực tiễn nông nghiệp truyền thống, trong đó có quyền giữ lại, trao đổi và giữ hạt giống và bán sản phẩm thu hoạch; (iii) ngăn cản quyền hoặc thực tiễn phản cạnh tranh, những hoạt động sẽ đe doạ quyền được tiếp cận lương thực của người dân ở các nước đang phát triển, như được phép theo Điều 31 của Hiệp định TRIPS.” Vào ngày 4 tháng 10 năm 1999, Bolivia, Columbia, Ecuador, Nicaragua và Pêru đã có đề xuất cụ thể rằng Hội nghị Bộ trưởng Seattle giao nhiệm vụ trong khuôn khổ Vòng đàm phán (a) phối hợp với các tổ chức quốc tế có liên quan khác, tiến hành nghiên cứu để đưa ra các khuyến nghị về các cách thức phù hợp nhất để công nhận và bảo vệ tri thức truyền thống dưới danh nghĩa là một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. (b) Trên cơ sở các khuyến nghị nêu trên, khởi xướng các cuộc đàm phán nhằm thiết lập một khuôn khổ pháp lý đa phương cho phép bảo hộ có hiệu quả đối với các hình thức diễn đạt và biểu hiện của tri thức truyền thống. (c) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý được dự kiến nêu tại điểm (b) trên đây để cuối cùng sẽ đưa vào thành một phần kết quả của vòng đàm phán thương mại này. Thông báo ngày 6 tháng 8 năm 1999 của Venezuela đề xuất rằng Hội nghị Bộ trưởng Seattle nên xem xét việc thiết lập “một hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ - trên cơ sở bắt buộc trong khuôn khổ Hiệp định TRIPS - với một nội dung mang tính đạo đức và kinh tế áp dụng cho tri thức truyền thống của các cộng đồng bản địa và địa phương, cùng với việc thừa nhận nhu cầu xác định rõ các quyền của các chủ thể quyền tập thể". Như được giải thích tại các tài liệu khác, Hội đồng TRIPS hiện đang xem xét một số đề xuất về việc xác định các phương án lựa chọn về hệ thống riêng theo Điều 27.3(b). Nhiệm vụ nghiên cứu để đưa tri thức truyền thống vào chế định sở hữu trí tuệ được chuyển giao cho WIPO. Quyền tác giả và quyền liên quan Các nghĩa vụ về quyền tác giả của Hiệp định TRIPS không đưa ra các nghĩa vụ thi hành đặc biệt khó khăn đối với các Nước thành viên vì hầu như chỉ yêu cầu việc thực hiện 46 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  8. các nghĩa vụ mà các Nước thành viên đã chấp nhận theo Công ước Berne. Các nghĩa vụ mới cơ bản đối với các Nước thành viên là: o Bảo hộ chương trình máy tính như các tác phẩm văn học; o Dành quyền cho những người biểu diễn có “khả năng ngăn cản” việc ghi âm trái phép các chương trình biểu diễn của họ và làm bản sao các bản ghi âm hoặc phát sóng trái phép âm thanh các buổi biểu diễn trực tiếp của họ. Thiết kế bố trí (Topographies) mạch tích hợp Đối với hầu hết các nước đang phát triển, các nghĩa vụ nêu trong các Điều từ 35 đến 37 về bảo hộ thiết kế bố trí mạch tích hợp đòi hỏi phải ban hành các quy định pháp luật mới. Chưa có nhiều mối quan tâm từ các quốc gia sản xuất mạch tích hợp về việc ban hành các quy định pháp luật mới này. Bảo hộ thông tin bí mật Ở hầu hết các nước theo hệ thống luật án lệ, pháp luật và các nguyên tắc luật chung đủ để thi hành các nghĩa vụ theo Điều 39 Hiệp định TRIPS về bảo hộ dữ liệu bí mật. Tuy nhiên, cần phải xây dựng một số quy định pháp luật để bảo hộ dữ liệu thử nghiệm liên quan đến dược phẩm và các hoá chất nông nghiệp và thú y. Kiểm soát các hoạt động phản cạnh tranh trong các li-xăng theo hợp đồng (Điều 40) Điều 40.2 Hiệp định TRIPS cho phép các nước thành viên ngăn cấm hoặc kiểm soát các hoạt động li-xăng gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ có tác động bất lợi đến hoạt động cạnh tranh trên thị trường có liên quan. Điều này tạo cơ hội cho các nước áp dụng các biện pháp loại bỏ các hoạt động phản cạnh tranh bằng các biện pháp theo luật cạnh tranh hoặc trong các quy định pháp luật về chuyển giao công nghệ. 5. Nguyên tắc song phương trong vấn đề sở hữu trí tuệ Giới thiệu Một điều rõ ràng là trong mọi giai đoạn đàm phán Hiệp định TRIPS, những người tham gia đàm phán chính (Hoa Kỳ, EC và Nhật Bản) cho rằng Hiệp định TRIPS chỉ quy định những nghĩa vụ tối thiểu. Hiệp định TRIPS dành cho các Thành viên quyền tự quyết trong việc thực hiện “sự bảo hộ có phạm vi rộng hơn” so với các tiêu chuẩn bảo hộ theo quy định Hiệp định TRIPS (xem Điều 1.1.). Hiệp định TRIPS cũng cho phép các thành 47 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  9. viên quy định một cách cụ thể một số tiêu chuẩn được lựa chọn trong số các tiêu chuẩn hoặc lựa chọn khi chấp nhận các tiêu chuẩn (các tiêu chuẩn được tạo ra theo sự lựa chọn). Vì vậy, Điều 27.3 cho phép các thành viên quy định một cách cụ thể các tiêu chuẩn về khả năng cấp bằng độc quyền sáng chế bằng việc loại trừ một số đối tượng không được cấp bằng độc quyền sáng chế và Điều 27.3(b) cho phép các thành viên quyền lựa chọn cách thức bảo hộ giống cây trồng. Các quy định chuyển tiếp nêu tại Điều 65 và 66 dành quyền cho các nước đang phát triển, các nước vốn có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và các nước kém phát triển quyết định thời điểm thông qua và thi hành các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS. Một thoả thuận song phương mà (a) đòi hỏi một Thành viên phải thi hành một tiêu chuẩn có phạm vi rộng hơn; hoặc (b) loại bỏ quyền lựa chọn của một Thành viên theo tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS, được coi là có tiêu chuẩn cao hơn TRIPS. Các hiệp ước song phương cũng quy định những tiêu chuẩn về những vấn đề mà Hiệp định TRIPS không giải quyết (ví dụ, việc nhân bản trong luật bản quyền có bao gồm việc sao tạm thời hay không) và do đó hoàn toàn không phải là cao hơn TRIPS. Để giảm chi phí cho việc thực hiện nguyên tắc song phương, Hoa Kỳ đã phát triển một số mô hình hoặc nguyên mẫu của các hiệp ước song phương mà nước này mong muốn ký kết với các nước khác. Hiệp định Thương mại tự do Hoa Kỳ - Jordan Hiệp định Thương mại tự do Hoa Kỳ - Jordan là một ví dụ khác về hiệp định mẫu theo dạng này. Đây là một hiệp định có phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm các quy định liên quan đến thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, môi trường và lao động, thương mại điện tử và mua sắm chính phủ. Trái với các quy định tương đối mềm dẻo về môi trường và lao động (ví dụ mỗi Bên “phải cố gắng bảo đảm” rằng các tiêu chuẩn về lao động của mình phù hợp với các chuẩn mực quốc tế (Điều 6.3), các quy định về sở hữu trí tuệ dài và chi tiết hơn. Những nội dung cao hơn tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS trong Hiệp định thương mại tự do Hoa Kỳ - Jordan bao gồm: • Yêu cầu mỗi Bên phải thi hành Công ước UPOV và Jordan phải gia nhập Công ước UPOV trong vòng 12 tháng; 48 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  10. • Dành cho tác giả, người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm độc quyền nhập khẩu; • Quy định việc sử dụng phần mềm máy tính của chính phủ; • Thu hẹp các căn cứ loại trừ khả năng cấp bằng độc quyền sáng chế (về cơ bản loại bỏ các căn cứ loại trừ theo Điều 27.3(b)); • Quy định li-xăng cưỡng bức được soạn lại, giới hạn việc sử dụng li-xăng cưỡng bức trong những trường hợp cụ thể hơn so với quy định của Hiệp định TRIPS, đặt ra các điều kiện cho việc sử dụng li-xăng cưỡng bức. (Các trường hợp cụ thể này là nhằm xử lý các hành động phản cạnh tranh, sử dụng vì mục đích công cộng phi thương mại, các tình huống khẩn cấp quốc gia và các trường hợp khẩn cấp khác, và vì lý do không đáp ứng yêu cầu về việc sử dụng); và • Nghĩa vụ quy định kéo dài thời hạn bảo hộ sáng chế để đền bù cho chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế vì những chậm trễ do pháp luật gây ra đối với khả năng khai thác độc quyền đối với sáng chế. Có một số khía cạnh quan trọng khác khiến hiệp định này trở thành có tiêu chuẩn cao hơn Hiệp định TRIPS hoặc tạo ra bước phát triển về quyền sở hữu trí tuệ vượt ra khỏi phạm vi của Hiệp định TRIPS. Nhìn chung, rõ ràng là Hoa Kỳ đã thiết lập một hiệp định mẫu giải quyết được các vấn đề đã nhìn thấy trước từ Hiệp định TRIPS hoặc giải quyết được một số vấn đề không rõ ràng của Hiệp định TRIPS. Theo đó, ví dụ Điều 39.3 Hiệp định TRIPS yêu cầu các Thành viên phải bảo hộ dữ liệu được nộp trong đơn xin phép tiếp thị dược phẩm hoặc sản phẩm hoá nông chứa “các hoá chất mới”, đã để ngỏ vấn đề thế nào là một hoá chất mới, trong khi đó Hiệp định thương mại tự do Hoa Kỳ - Jordan quy định rằng độc quyền đối với hoá chất mới bao gồm cả “độc quyền đối với các dạng sử dụng mới của một hoá chất đã biết trong thời hạn 3 năm”. Tác động của nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) đối với nguyên tắc song phương Nguyên tắc MFN từng là một nguyên tắc then chốt điều chỉnh các quan hệ thương mại giữa các quốc gia, đặc biệt là trong khuôn khổ của GATT. Hiệp định TRIPS quy định về nguyên tắc này tại Điều 4. Theo nội dung của điều này, trường hợp một Thành viên của TRIPS dành “một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc sự miễn trừ bất kỳ” cho công dân của nước bất kỳ khác (tức là nước này không nhất thiết phải là thành viên của Hiệp định TRIPS) thì cũng phải dành sự ưu đãi tương tự cho công dân của các thành viên khác 49 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  11. của Hiệp định TRIPS. Việc áp dụng nguyên tắc này được hạn chế (ví dụ, không được áp dụng cho các thoả thuận quốc tế (như thoả thuận song phương về sở hữu trí tuệ) có hiệu lực trước khi Hiệp định WTO có hiệu lực (trừ các thoả thuận tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hoặc bất hợp lý đối với công dân của các Thành viên khác)). Tác động lớn của nguyên tắc MFN là cân bằng việc dành các đặc quyền và ưu đãi giữa các thành viên của một nhóm các quốc gia có quan hệ thương mại được điều chỉnh theo nguyên tắc này. Trong trường hợp Hiệp định TRIPS, nguyên tắc MFN đã được soạn thảo theo cách khiến cho nguyên tắc này được áp dụng theo một cách thức tương đối không hạn chế. Ví dụ, điều khoản này không tương đương với Điều XXIV. Mỗi khi các nước đang phát triển là thành viên WTO ký kết một thoả thuận quốc tế, bất kể là song phương hay đa phương, theo đó dành sự ưu đãi nhiều hơn so với Hiệp định TRIPS cho một quốc gia khác thì sẽ dẫn đến việc nguyên tắc MFN sẽ buộc các nước đang phát triển này phải dành những sự ưu đãi đó cho tất cả các thành viên WTO (tuỳ thuộc vào việc đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 4). Điều này có nghĩa là nguyên tắc MFN trong Hiệp định TRIPS khi được kết hợp với các thoả thuận song phương sẽ làm lợi cho hai nhà xuất khẩu sở hữu trí tuệ hàng đầu thế giới, đó là Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu. Một khi Hoa Kỳ đàm phán một hiệp định với một thành viên WTO là nước đang phát triển, nguyên tắc MFN đảm bảo rằng EU sẽ được hưởng lợi từ các tiêu chuẩn mà Hoa Kỳ đạt được. Cũng như vậy trong trường hợp EU đạt được các lợi ích từ một thoả thuận song phương liên quan tới sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, điều này cũng đúng trong trường hợp Hoa Kỳ và EU đàm phán với nhau các thoả thuận song phương chứa đựng các tiêu chuẩn cao hơn TRIPS, những tiêu chuẩn này sẽ trở thành những mục tiêu thực tiễn của các tiêu chuẩn tối thiểu mới mà vòng đàm phán thương mại bất kỳ của WTO trong tương lai sẽ phải đạt được. Điểm then chốt là nguyên tắc MFN khi được kết hợp với nguyên tắc song phương về sở hữu trí tuệ sẽ có tác dụng mở rộng và thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu mới về sở hữu trí tuệ nhanh hơn. Tài liệu tham khảo Abbott, Frederick M., Thomas Cottier, Francis Gurry, The International Intellectual Property System, Commentary and Materials, Kluwer Law International, 1999. Antons, C. M. Blakeney và C. Heath, Intellectual Property Harmonisation Within ASEAN and APEC, The Hague: Kluwer Law International, 2004. 50 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  12. Battiste, Marie, Protecting Indigenous Knowledge And Heritage: A Global Challenge, Saskatoon: Purich Pub., 2000. Black, Trevor, Intellectual Property In The Digital Era, London: Sweet & Maxwell, 2002. Blakeney, M Trade Related Aspects of Intellectual Property Rights: A Concise Guide to the TRIPS Agreement, Sweet & Maxwell, London, 1996 Cooper Dreyfuss, Rochelle & Zimmerman, Diane Leenheer & First, Harry, Expanding The Boundaries Of Intellectual Property : Innovation Policy For The Knowledge Society, Oxford ; New York : Oxford University Press, 2001. Correa, Carlos M. Abdulqawi A. Yusuf eds, Intellectual Property and International Trade: The TRIPS Agreement, Kluwer Law International, London, Boston, 1998 D’Amato, Anthony and Doris E. Long eds, International Intellectual Property Law, Kluwer Law International, London; Boston, 2001 Doern, G. Bruce, Global Change And Intellectual Property Agencies: An Institutional Perspective, London: Pinter, 1999. Drahos, Peter and Mayne, Ruth, Global Intellectual Property Rights: Knowledge, Access & Development, Macmillan 2001. Endeshaw Assafa, Intellectual property policy for non-industrial countries Aldershot: Dartmouth 1996. Ficsor, Mihály, The Law Of Copyright And The Internet: The 1996 WIPO Treaties, Their Interpretation And Implementation, Oxford University Press, 2002. Gervais Daniel, The TRIPS Agreement: Drafting History and Analysis, Sweet & Maxwell, London, 1998. Goldstein, Paul, International Intellectual Property Law: Cases and Materials, New York: Foundation Press, 2001 Heath, Christopher, Intellectual Property In The Digital Age: Challenges For Asia, The Hague; Boston: Kluwer Law International, 2001. Ilardi, A and M. Blakeney, International Encyclopaedia of Intellectual Property Treaties Oxford: Oxford University Press 2004. Letterman, G. Gregory, Basics Of International Intellectual Property Law, Ardsley, N.Y.: Transnational Publishers, 2001. 51 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  13. Maskus Keith E., Intellectual Property Rights in the Global Economy, Washington, D.C. Institute for International Economics, 2000. May, Christopher and Sell, Susan, A Critical International History of Intellectual Property Rights, Lynne Rienner Publishers 2005. Nolff, Markus, Trips, PCT, And Global Patent Procurement, London: Kluwer Law International, 2001. Petersmann, Ernst-Ulrich and Harrison, James eds., Reforming the World Trading System: Legitimacy, Efficiency and Democratic Governance, Oxford University Press, 2005. Primo Braga, Carlos A, Intellectual Property Rights And Economic Development. Washington, D.C.: World Bank, 2000. Reinbothe, Jorg, The WIPO Treaties 1996: The WIPO Copyright Treaty And The WIPO Performances And Phonograms Treaty, London: Butterworths, 2002. Sell Susan, Private Power, Public Law: The Globalization of Intellectual Property Rights, Cambridge University Press, May 2003 WIPO, Guide To Intellectual Property Worldwide, Geneva: WIPO, 2000. 52 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2