intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

So sánh các chỉ số glycat hóa trong vấn đề đánh giá biến chứng thận trên bệnh nhân đái tháo đường

Chia sẻ: Hạnh Hoa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

47
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết với mục tiêu xác định so sánh các chỉ số glycat hóa bao gồm: đường huyết đói, fructosamine, HbA1c, khoảng trống glycat hóa (GG) trong vấn đề đánh giá biến chứng thận trên bệnh nhân đái tháo đường. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: So sánh các chỉ số glycat hóa trong vấn đề đánh giá biến chứng thận trên bệnh nhân đái tháo đường

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> SO SÁNH CÁC CHỈ SỐ GLYCAT HÓA TRONG VẤN ĐỀ ĐÁNH GIÁ<br /> BIẾN CHỨNG THẬN TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG<br /> Lê Quốc Tuấn*, Nguyễn Thị Lệ*, Nguyễn Thị Hiệp**<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: So sánh các chỉ số glycat hóa bao gồm: đường huyết đói, fructosamine, HbA1c, khoảng trống<br /> glycat hóa (GG) trong vấn đề đánh giá biến chứng thận trên bệnh nhân đái tháo đường.<br /> Phương pháp:Nghiên cứu cắt ngang phân tích.<br /> Kết quả: Qua khảo sát trên nhóm bệnh nhân đái tháo đường điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y<br /> Dược Tp.HCM, chúng tôi ghi nhận giá trị trung bình của các chỉ số glycat hóa như sau: đường huyết đói là<br /> 145,9 ± 56,8 mg/dl, HbA1c là 7,5 ± 0,9%, fructosamine là 275,8 ± 66,3 μmol/L, khoảng trống glycat hóa (GG) là<br /> 0,004 ± 0,714%, không có sự khác biệt có ý nghia giữa hai nhóm bệnh nhân nam và nữ. Khoảng trống glycat hóa<br /> có mối tương quan độc lập ở mức trung bình với đạm niệu (R = 0,561, P < 0,0001) và độ lọc cầu thận theo CKDEPI (r = -0,491, P < 0,001).<br /> Kết luận: Khoảng trống glycat hóa có vai trò ưu thế hơn các chỉ số glycat hóa khác như đường huyết,<br /> HbA1c, fructosamine trong việc đánh giá các biến chứng thận ĐTĐ.<br /> Từ khóa:Đái tháo đường (ĐTĐ), fructosamine, HbA1c, khoảng trống glycat hóa (GG).<br /> <br /> ABSTRACT<br /> COMPARING THE GLYCATION MEASUREMENTS IN ASSESSMENT OF DIABETIC<br /> NEPHROPATHY<br /> Le Quoc Tuan, Nguyen Thi Le, Nguyen Thi Hiep<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 179 - 185<br /> Objective: To compare the glycation measurements, including: fasting glucose plasma, serum fructosamine,<br /> HbA1c, glycation gap (GG) for assessment of diabetic nephropathy.<br /> Method:Analysis cross-sectional study<br /> Results: The study recorded the average value of the different glycation measurements: fasting plasma<br /> glucose 145.9 ± 56.8 mg / dl, HbA1c 7.5 ± 0.9%, fructosamine 275.8 ± 66.3 μmol/L, glycation gap (GG) 0.004 ±<br /> 0.714%. There are not the significant differences between male and female patients. Glycation gap independently<br /> correlated with the level of proteinuria (r = 0.561, P < 0.0001) and glomerular filtration rate according to the<br /> CKD-EPI formula (r = -0.491, P < 0.001).<br /> Conclusion: Glycation gap is more useful than different glycation measurements such as fasting plasma<br /> glucose, HbA1c, fructosamine in the evaluation of diabetic nephropathy.<br /> Key words: diabetes mellitus, fructosamine, HbA1c, glycation gap (GG).<br /> tình hình bệnh ĐTĐ và yếu tố nguy cơ vào năm<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> 2003 được tiến hành trên cả nước, kết quả ghi<br /> Tỷ lệ đái tháo đường (ĐTĐ) đang ngày càng<br /> nhận tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ là 2,7%, trong đó<br /> tăng nhanh trong dân số, ước đoán có thể lên<br /> vùng đô thị và khu công nghiệp có tỷ lệ mắc<br /> đến 380 triệu người trên toàn thế giới vào năm<br /> bệnh đến 4,4%(14). Theo đó, tỷ lệ các biến chứng<br /> 2025(1). Tại Việt Nam, theo điều tra quốc gia về<br /> * Bộ môn Sinh lý học ĐHYD TP.HCM<br /> Bộ môn Kỹ Thuật Y Sinh, ĐH Quốc Tế, ĐH Quốc Gia Tp. HCM<br /> Tác giả liên lạc: BS Lê Quốc Tuấn ĐT: 01696929792<br /> Email: tuan_lqc@yahoo.com<br /> <br /> **<br /> <br /> Nội Tổng quát<br /> <br /> 179<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br /> <br /> mạn tính gây nên bởi ĐTĐ cũng tăng lên đáng<br /> kể, trong đó bệnh thận ĐTĐ là biến chứng<br /> thường gặp và gây nhiều hậu quả nghiêm trọng<br /> cho bệnh nhân. Bệnh thận ĐTĐ ở bệnh nhân<br /> ĐTĐ típ 1 diễn ra theo 5 giai đoạn với biểu hiện<br /> tiểu đạm tăng dần, và độ lọc cầu thận giảm dần<br /> theo thời gian(13,3). Trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2,<br /> quá trình bệnh có thể diễn ra nhanh hơn, đưa<br /> đến suy thận xuất hiện sớm hơn, khó dự đoán<br /> hơn bệnh nhân ĐTĐ típ 1(13,3). Khi suy thận mạn<br /> tiến triển đến giai đoạn cuối, bệnh nhân phải lựa<br /> chọn các phương pháp điều trị thay thế thận,<br /> đưa đến gánh nặng cả về kinh tế lẫn tinh thần<br /> trong vấn đề chăm sóc sức khỏe. Vì vậy, việc lựa<br /> chọn các phương pháp thăm dò chức năng giúp<br /> phát hiện sớm biến chứng thận sẽ hổ trợ tích cực<br /> cho quá trình điều trị, ngăn ngừa diễn tiến đến<br /> suy thận giai đoạn cuối.<br /> Chìa khóa trong sự tiến triển của các biến<br /> chứng thận ĐTĐ chính là tình trạng tăng đường<br /> huyết mạn tính, tác động thông qua nhiều con<br /> đường trung gian khác nhau tại các tế bào(3). Khi<br /> đường huyết tăng cao, quá trình biến đổi của các<br /> protein bởi glucose trong các tế bào biểu mô có<br /> chân và tế bào nội mô ở cầu thận diễn ra mạnh<br /> mẽ, sinh ra một lượng lớn các sản phẩm glycat<br /> hóa cuối cùng (AGEs)(5). Khi các AGEs gắn lên<br /> thụ thể của nó, quá trình kích hoạt tổng hợp các<br /> protein gây viêm, các cytokines, các yếu tố tăng<br /> trưởng bắt đầu xảy ra, làm biến đổi các lớp của<br /> màng lọc cầu thận, gây dãn rộng các lỗ lọc, đưa<br /> đến tình trạng tiểu đạm ngày càng tăng dần(5).<br /> Mỗi chỉ số glycat hóa đều có những ưu điểm<br /> và yếu điểm riêng trong việc đánh giá biến<br /> chứng thận ĐTĐ. Đường huyết đói cho biết sự<br /> thay đổi ngắn hạn, giúp đánh giá các biến chứng<br /> cấp tính của ĐTĐ như nhiễm toan ceton hay<br /> tăng áp lực thẩm thấu rất hiệu quả, nhưng lại<br /> kém chính xác khi sử dụng để đánh giá các biến<br /> chứng mạn tính như bệnh thận ĐTĐ(13,3). HbA1c<br /> là phân tử hemoglobin trong hồng cầu kết hợp<br /> một cách bền vững với glucose.HbA1c phụ<br /> thuộc vào mức đường huyết, đường huyết trong<br /> máu càng cao thì lượng HbA1c trong hồng cầu<br /> <br /> 180<br /> <br /> càng tăng. HbA1c tồn tại song song với đời sống<br /> của hồng cầu, do đó ưu điểm của HbA1c là giúp<br /> đánh giá mức đường huyết trung bình trong<br /> khoảng thời gian từ 2-3 tháng liên tục(6). Tương<br /> tự như HbA1c, fructosamine được tạo thành từ<br /> các phân tử protein trong huyết tương bị gắn kết<br /> bởi glucose, trong đó thành phần chủ yếu là<br /> albumin. Fructosamine giúp đánh giá đường<br /> huyết trung bình trong thời gian ngắn hơn<br /> HbA1c, khoảng 2-3 tuần(4). Như vậy,<br /> fructosamine thể hiện cho sự tạo thành các sản<br /> phẩm glycat hóa cuối cùng (AGEs) từ các<br /> protein trong huyết tương, trong khi đó HbA1c<br /> thể hiện sự tạo thành các sản phẩm glycat hóa<br /> cuối cùng từ các protein trong tế bào(16). Giữa hai<br /> thành phần glycat hóa nội bào và ngoại bào này<br /> luôn có sự chênh lệch(7). Các bằng chứng thực<br /> nghiệm cho thấy biến chứng mạch máu nhỏ phụ<br /> thuộc nhiều hơn vào sự tạo thành các sản phẩm<br /> glycat hóa nội bào. Vì vậy, các nghiên cứu gần<br /> đây như khảo sát của các tác giả Emmanuel<br /> cosson(4) và Ananth U. Nayak(13, 14) đều tập trung<br /> vào đánh giá khoảng trống glycat hóa (GG).<br /> Khoảng trống GG được định nghĩa là hiệu số<br /> giữa HbA1c thực tế và HbA1c lý thuyết. HbA1c<br /> lý thuyết được tính dựa trên phương trình hồi<br /> quy tương quan giữa nồng độ fructosamine và<br /> HbA1c trong nhóm nghiên cứu(4,13,14):<br /> HbA1c dự đoán = a x Fructosamine + b<br /> GG = HbA1c thực tế - HbA1c dự đoán<br /> Khoảng trống GG càng lớn chứng tỏ lượng<br /> protein nội bào bị glycat hóa càng nhiều so với<br /> lượng protein ngoại bào, khi đó các biến chứng<br /> mạch máu nhỏ càng diễn ra sớm hơn(7,11). Chính<br /> vì vậy, trên lý thuyết, tính toán được sự chênh<br /> lệch giữa hai thành phần glycat hóa nội bào và<br /> ngoại bào, hay khoảng trống glycat hóa, sẽ hứa<br /> hẹn mang đến nhiều lợi ích trong vấn đề tiên<br /> lượng các bệnh nhân ĐTĐ.<br /> Qua đó, chúng ta thấy nếu chỉ đơn thuần<br /> dựa vào một chỉ số glycat hóa để đánh giá biến<br /> chứng thận ĐTĐ có thể dẫn đến bỏ sót chẩn<br /> đoán ở giai đoạn sớm và nhìn nhận vấn đề một<br /> cách không toàn diện. Do vậy, chúng tôi tiến<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Khoa<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br /> hành nghiên cứu với mục tiêu khảo sát và so<br /> sánh vai trò của các chỉ số glycat hóa bao gồm:<br /> đường huyết đói, fructosamine, HbA1c, khoảng<br /> trống glycat hóa (GG) trong việc đánh giá bệnh<br /> thận ĐTĐ.<br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU<br /> Đối tượng nghiên cứu<br /> Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo<br /> đường tại phòng khám Thận – BV Đại học Y<br /> Dược TP.HCM từ tháng 05/2014 đến 09/2014.<br /> Tiêu chuẩn chọn vào<br /> Bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ theo tiêu<br /> chí của Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ (ADA) 2013:<br /> HbA1C ≥ 6,5 %<br /> Đường huyết đói ≥ 126 mg/dL (7,8mmol/L).<br /> Đường huyết 2 giờ sau nghiệm pháp dung<br /> nạp glucose ≥ 200 mg/dL (11,1mmol/L).<br /> Đường huyết bất kỳ ≥ 200 mg/dL<br /> (11,1mmol/L) kết hợp với triệu chứng điển hình<br /> của tăng đường huyết (tiểu nhiều, khát nhiều,<br /> gầy nhiều).<br /> Trong trường hợp bệnh cảnh không cấp tính<br /> hoặc không có mất bù chuyển hóa, cần lặp lại<br /> các tiêu chí (1),(2), (3) vào một ngày khác để xác<br /> định chẩn đoán.<br /> Tiêu chuẩn loại trừ<br /> (1) Đang có bệnh hemoglobin đã được chẩn<br /> đoán, thiếu máu (Hb < 11,8 g/dL).<br /> (2) Đang có tình trạng giảm protid máu (< 6,6<br /> g/dL) hoặc giảm albumin máu (< 3,4 g/dL)<br /> (3) BN không đồng ý tham gia nghiên cứu.<br /> Thiết kế nghiên cứu<br /> Cắt ngang phân tích.<br /> Kỹ thuật chọn mẫu<br /> Liên tục không xác suất.<br /> Phương pháp thu thập số liệu<br /> Bệnh nhân được lấy máu tĩnh mạch để đo<br /> đường huyết đói (sau nhịn ăn 8 giờ),<br /> fructosamine, HbA1c, và creatinine huyết thanh.<br /> Đường huyết được định lượng theo phương<br /> pháp hexokinase bằng máy Cobas 6000 của hãng<br /> <br /> Nội Tổng quát<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Roche Diagnostic. Fructosamine được định<br /> lượng theo phương pháp đo quang bằng máy<br /> Cobas 8000 của hãng Roche Diagnostic. HbA1c<br /> được định lượng theo phương pháp sắc ký lỏng<br /> cao áp HPLC bằng máy D10 của hãng BioRad.<br /> Sử dụng phép toán thống kê trên dân số nghiên<br /> cứu để tính phương trình hồi quy tuyến tinh<br /> giữa fructosmine và HbA1c, từ đó xác định<br /> khoảng trống glycat hóa cho từng bệnh nhân<br /> bằng hiệu số giữa trị số HbA1c thực đo được và<br /> HbA1c ước tính theo fructosamine.<br /> Nồng độ creatinine huyết thanh được đo<br /> bằng phương pháp động học hai điểm bằng máy<br /> Cobas 6000 của hãng Roche Diagnostic. Độ lọc<br /> cầu thận ước đoán (eGFR), đơn vị là<br /> ml/phút/1,73m2 da, được tính theo 2 công thức<br /> MDRD (Modification of Diet in Renal Disease<br /> Study) và CKD-EPI Chronic Kidney Disease<br /> Epidemiology Collaboration Study) từ creatinine<br /> huyết thanh theo hướng dẫn của NKDEP<br /> (National Kidney Disease Education Program)(1).<br /> <br /> - Công thức MDRD<br /> eGFR (mL/ph/1,73m2 da) = 186 × (creatinine<br /> huyết thanh)-1.154 × (tuổi)-0.203<br /> (Nhân với 0,742 nếu là nữ, nhân với 1,21 nếu<br /> là người da đen.)<br /> - Công thức CKD-EPI<br /> eGFR = 141 x min(Cr/κ, 1)α x max (Cr/κ, 1)1.209 x 0,993Tuổi<br /> (Trong đó, κ là 0,7 cho nữ và 0,9 cho nam, α<br /> là -0,329 cho nữ và -0,411cho nam, min là giá trị<br /> nhỏ hơn giữa Cr/κ và 1, and max là giá trị lớn<br /> hơn giữa Cr/κ or 1. Nhân với 1,018 nếu là nữ,<br /> nhân với 1,159 nếu là người da đen.)<br /> Bệnh nhân được lấy mẫu nước tiểu bất kỳ<br /> định lượng albumin và creatinine bằng máy<br /> Acon Mission U500, nhằm xác định mức vi<br /> đạm niệu bằng tỉ số ACR (albuimin-tocreatinine ratio), đơn vị là mg/g, phân thành 3<br /> nhóm: không tiểu đạm (ACR < 300 mg/g), tiểu<br /> đạm vi thể (ACR 30-300 mg/g), và tiểu đạm đại<br /> thể (ACR > 300 mg/g) theo hướng dẫn của<br /> <br /> 181<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Standards of Medical Care in Diabetes,<br /> ADA(13).<br /> Xử lý số liệu<br /> Phần mềm STATA 10.0<br /> <br /> KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN<br /> Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện tại<br /> phòng khám Thận – BV Đại học Y Dược<br /> TP.HCM từ tháng 05/2014 đến tháng 09/2014,<br /> số liệu ghi nhận trên 50 bệnh nhân được chẩn<br /> đoán và điều trị ĐTĐ.<br /> Tuổi và giới<br /> Về phân bố giới tính của nhóm nghiên cứu,<br /> chúng tôi nhận thấy tỉ lệ nam/nữ là 1:1. Thực<br /> hiện phép kiểm so sánh, chúng tôi không ghi<br /> nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ<br /> mắc ĐTĐ ở 2 giới (P > 0,05). Tuổi trung bình<br /> trong nghiên cứu của chúng tôi là 60,2 ±<br /> 11,1tuổi, đa số bệnh nhân trong độ tuổi > 40<br /> (98,0%).<br /> Thời gian phát hiện ĐTĐ<br /> Trong nhóm nghiên cứu có 4 bệnh nhận<br /> lần đầu được chẩn đoán xác định ĐTĐ theo<br /> tiêu chí của ADA 2010, 46 bệnh nhân còn lại đã<br /> biết ĐTĐ từ trước. Chúng tôi tính được thời<br /> gian mắc ĐTĐ trung bình của nhóm nghiên<br /> cứu là 7,0 ± 6,2 năm, trong đó bệnh nhân có<br /> thời gian mắc bệnh lâu nhất là 22 năm (Bảng<br /> 1). Kết quả này có sự khác biệt với tác giả Dyck<br /> (8,1 ± 5,7)(6), C.Huang (9,85 ± 7,19)(8,15) và<br /> Bảng 2 – Mức độ tiểu đạm ở nhóm nghiên cứu<br /> Đạm niệu<br /> Bình thường<br /> Vi thể<br /> Đại thể<br /> Tổng cộng<br /> <br /> < 5 năm<br /> 11<br /> 7<br /> 4<br /> 22<br /> <br /> Thời gian bị ĐTĐ<br /> 5-10 năm<br /> 4<br /> 3<br /> 2<br /> 9<br /> <br /> Ngoài ra, chúng tôi còn ghi nhận sự tương<br /> quan thuận có ý nghĩa ở mức trung bình với R<br /> = 0,336 (P < 0,05) giữa thời gian mắc bệnh ĐTĐ<br /> và mức tiểu đạm. Kết quả này khá phù hợp<br /> với nghiên cứu của tác giả Diệp Thị Thanh<br /> Bình(5) về tần suất tiểu đạm vi thể trên bệnh<br /> nhân ĐTĐ (33,7%); và sự liên quan giữa thời<br /> <br /> 182<br /> <br /> Nguyễn Thy Khuê (4,05 ± 5,33)(15). Sự khác biệt<br /> này có thể là do nghiên cứu của chúng tôi lấy<br /> mẫu trên nhóm đối tượng bệnh nhân ĐTĐ tại<br /> phòng khám thận, thường là những người đã<br /> xuất hiện biến chứng, bệnh lý ĐTĐ đã diễn<br /> tiến nhiều năm trước; trong khi đó nghiên cứu<br /> của tác giả Nguyễn Thy Khuê chỉ lấy mẫu trên<br /> nhóm đối tượng khám ngoại trú tại phòng<br /> khám nội tiết nên thời gian diễn tiến của bệnh<br /> ĐTĐ chưa kéo dài.<br /> Bảng 1: Thời gian phát hiện ĐTĐ ở nhóm nghiên<br /> cứu<br /> Phát hiện ĐTĐ<br /> < 5 năm<br /> 5 – 10 năm<br /> ≥ 10 năm<br /> Tổng cộng<br /> <br /> Số BN (n)<br /> 22<br /> 9<br /> 19<br /> 50<br /> <br /> Tỷ lệ (%)<br /> 44,0%<br /> 18,0%<br /> 38,0%<br /> 100%<br /> <br /> Mức độ tiểu đạm<br /> Tỷ số Albumin/Creatinine niệu (ACR)<br /> trung bình của nhóm nghiên cứu là 711,9 ±<br /> 1241,0 mg/g, dao động từ 2,81 đến 4757,02<br /> mg/g. Nghiên cứu của chúng tôi gồm 18 bệnh<br /> nhân có tiểu đạm vi thể (chiếm 36,0%) và tiểu<br /> đạm đại thể là 15 bệnh nhân (chiếm 30,0%). Số<br /> bệnh nhân có đạm niệu dương tính tập trung<br /> chủ yếu ở nhóm có thời gian bệnh trên 5 năm<br /> với 22/33 người (chiếm 66,7%), khác biệt có ý<br /> nghĩa so với nhóm có thời gian bệnh dưới 5<br /> năm với 6/17 người (35,3% ), P < 0,05.<br /> <br /> > 10 năm<br /> 2<br /> 8<br /> 9<br /> 19<br /> <br /> Thời gian bị ĐTĐ trung<br /> bình<br /> 4,1 ± 4,1<br /> 8,1 ± 7,4<br /> 9,0 ± 5,6<br /> 7,5 ± 5,8<br /> <br /> P<br /> <br /> < 0,05<br /> <br /> gian mắc bệnh với mức tiểu đạm (R = 0,53 đối<br /> với ĐTĐ típ 1 và R = 0,04 đối với ĐTĐ típ 2).<br /> Khác biệt về hệ số R ở đây có thể giải thích là<br /> do trong dân số nghiên cứu của mình, chúng<br /> tôi không có sự phân biệt ĐTĐ típ 1 và típ 2<br /> như tác giả Diệp Thị Thanh Bình(5).<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Khoa<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br /> Nồng độ Creatinine huyết thanh<br /> Nồng độ Creatinine huyết thanh trung bình<br /> của nhóm nghiên cứu: 1,73 ± 1,92 mg/dL, dao<br /> động từ 0,48 đến 13,20 mg/dL. Theo nghiên cứu<br /> của tác giả Jorien Willems và cộng sự, công thức<br /> CKD-EPI có ít sai lệch hơn công thức MDRD<br /> trong việc ước đoán độ lọc cầu thận trên các<br /> bệnh nhân có mức eGFR cao (> 60<br /> ml/phút/1,73m2 da)(1). Đa số các bệnh nhân trong<br /> nghiên cứu của chúng tôi đều đang ở giai đoạn<br /> tăng lọc của bệnh thận ĐTĐ. Do đó, chúng tôi sử<br /> dụng công thức CKD-EPI để ước đoán độ lọc<br /> cầu thận cho các phép toán thống kê. Kết quả<br /> nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận độ lọc cầu<br /> thận ước đoán trung bình (eGFR) theo CKD-EPI<br /> ở nhóm nghiên cứu là 57,7 ± 29,3 mL/phút/1,73<br /> m2 da, trong đó phần lớn bệnh nhân đã bắt đầu<br /> có biểu hiện suy giảm chức năng thận, với số<br /> bệnh nhân có eGFR dưới 60 mL/phút/1,73m2 da<br /> chiếm 52,0%.<br /> Bảng 3 – Độ lọc cầu thần ước đoán theo công thức<br /> CKD-EPI<br /> GFR (mL/phút)<br /> < 15<br /> 15 – 30<br /> 30 – 60<br /> 60 – 90<br /> > 90<br /> Tổng cộng<br /> <br /> Số BN (n)<br /> 3<br /> 5<br /> 18<br /> 15<br /> 9<br /> 50<br /> <br /> Tỷ lệ (%)<br /> 6,0%<br /> 10,0%<br /> 36,0%<br /> 30,0%<br /> 18,0%<br /> 100%<br /> <br /> Khi thực hiện phép kiểm Spearman, chúng<br /> tôi nhận thấy có mối liên quan nghịch có ý nghĩa<br /> ở mức trung bình giữa thời gian mắc bệnh ĐTĐ<br /> và GFR, với R = -0,395(P < 0,01). Khi so sánh GFR<br /> ở hai nhóm có và không có tiểu đạm, chúng tôi<br /> ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P <<br /> 0,001) với GFR ở nhóm không có tiểu đạm là 76,8<br /> ± 22,4 cao hơn hẳn so với nhóm có tiểu đạm là<br /> 47,9 ± 27,8 ml/phút/1,73 m2 da. Những kết quả<br /> trên hoàn toàn phù hợp với y văn về diễn tiến tự<br /> nhiên của tổn thương thận trên bệnh nhân ĐTĐ.<br /> Sự hiện diện của giai đoạn tiểu đạm vi thể, kéo<br /> dài khoảng 5 năm, là một điểm đánh dấu đã kết<br /> thúc giai đoạn tăng lọc ban đầu thường, tiếp đó<br /> là giai đoạn tiểu đạm đại thể; và luôn song hành<br /> <br /> Nội Tổng quát<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> với đó là sự giảm dần chức năng thận đến bệnh<br /> thận mạn giai đoạn cuối(1,3,5,4).<br /> Đường huyết tĩnh mạch<br /> Đường huyết tĩnh mạch lúc đói (8 giờ sau<br /> ăn) trung bình của nhóm nghiên cứu là 145,9 ±<br /> 56,8mg/dL; trong đó có 38,0% bệnh nhân có<br /> đường huyết ở mức kiểm soát tốt (dưới 120<br /> mg/dL), 20,0% ở mức chấp nhận được (120-140<br /> mg/dL), 42,0% có đường huyết ở mức kiểm soát<br /> kém (trên 140 mg/dL). Mức HbA1c trung bình là<br /> 7,5 ± 0,9%, đa số bệnh nhân có giá trị HbA1c trên<br /> 7,5% (52,0%). Khoảng trống glycat hóa trung<br /> bình trong nhóm nghiên cứu là 0,004 ± 0,714%,<br /> với phương trình hồi quy tuyến tính giữa HbA1c<br /> và fructosamin ở nhóm nghiên cứu là: HbA1c<br /> (%) = 0,0083 x fructosamine (μmol/L) + 5,17 (r =<br /> 0,612; P < 0,0001).<br /> Bảng 4 – Giá trị trung bình của các chỉ số glycat hóa<br /> ở nhóm nghiên cứu<br /> Đặc điểm<br /> Đường huyết đói (mg/dL)<br /> HbA1c thực (%)<br /> Fructosamin (µmol/L)<br /> HbA1c theo Fructosamin (%)<br /> GG (%)<br /> GG/HbA1c<br /> <br /> Trung bình<br /> 145,9 ± 56,8<br /> 7,5 ± 0,9<br /> 275,8 ± 66,3<br /> 7,5 ± 0,6<br /> 0,004 ± 0,714<br /> -0,009 ± 0,099<br /> <br /> Chúng tôi ghi nhận khoảng trống GG và tỷ<br /> lệ GG/HbA1c khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm<br /> có và không có tiểu đạm đại thể (P < 0,0001),<br /> trong khi đường huyết đói và HbA1c lại không<br /> có sự khác biệt giữa 2 nhóm này (P > 0,05).<br /> Nghiên cứu của tác giả Emmanuel Cosson(4)<br /> cũng cho thấy kết quả tương tự về sự khác biệt<br /> của khoảng trống GG giữa 2 nhóm bệnh nhân có<br /> và không có tiểu đạm đại thể. Trong nghiên cứu<br /> của chúng tôi, nhóm bệnh nhân ĐTĐ không có<br /> tiểu đạm đại thể có khoảng trống GG trung bình<br /> là giá trị âm (-0,262 ± 0,577), còn nhóm bệnh<br /> nhân ĐTĐ có tiểu đạm đại thể lại có khoảng<br /> trống GG trung bình là giá trị dương (0,627 ±<br /> 0,617).Điều này chứng tỏ các protein nội bào bị<br /> glycat hóa rất rõ trên các bệnh nhân ĐTĐ có mức<br /> đạm niệu cao, và ủng hộ cho lý thuyết màng lọc<br /> cầu thận bị phá hủy bởi các sản phẩm glycat hóa<br /> <br /> 183<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2