intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SSKN: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ học Lịch sử lớp 11

Chia sẻ: Lê Thị Diễm Hương | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:19

794
lượt xem
69
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến nhằm tạo ra môi trường tương tác đa dạng hấp dẫn giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau; đồng thời gây hứng thú, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và say mê học tập bộ môn lịch sử. Giúp giáo viên dạy học đạt hiệu quả tốt hơn, học sinh tích cực chủ động tiếp thu lĩnh hội, khắc sâu kiến thức của bài học Lịch sử. Mời quý thầy cô tham khảo sáng kiến trên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SSKN: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ học Lịch sử lớp 11

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG GIỜ HỌC LỊCH SỬ LỚP 11
  2. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM - Họ và tên giáo viên: Nguyễn Thị Yên - Đơn vị công tác: Trường THCS & THPT Khánh An – U Minh – Cà Mau. Tên đề tài: PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG GIỜ HỌC LỊCH SỬ LỚP 11 I - PHẦN MỞ ĐẦU 1/ Đặt vấn đề: Hiện nay, vấn đề cập nhật thông tin và đổi mới luôn đặt lên hàng đầu. Trước tình hình đó việc đổi mới dạy học nói chung và đổi mới dạy học Lịch sử nói riêng là một quá trình thực hiện thường xuyên và kiên trì, trong đó có nhiều mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Muốn đổi mới phương pháp, biện pháp dạy học người giáo viên phải tổ chức một cách linh hoạt các hoạt động của học sinh từ cách ổn định lớp, kiểm tra bài cũ; đến cách học bài mới, củng cố, dặn dò. Những hoạt động này giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách tự giác, chủ động, tích cực, sáng tạo và ngày càng say mê, yêu thích môn học. Vậy làm thế nào để phát huy sự say mê, yêu thích của học sinh trong dạy học lịch sử? Có rất nhiều biện pháp như: Hướng dẫn học sinh ghi nhớ sự kiện lịch sử, sử dụng sách giáo khoa và hệ thống câu hỏi, vở bài tập,...Nhưng việc sử dụng đồ dung trực quan trong dạy học lịch sử cũng là một trong những biện pháp quan trọng. Bởi nó giúp học sinh nắm vững hơn nữa những tri thức, sự kiện lịch sử, trong khi học sinh không thể trực tiếp nhận thức các sự kiện lịch sử, vì lịch sử là cái đã qua không lặp lại nguyên vẹn, không thể dựng lại hoàn toàn hay thí nghiệm như khoa học tự nhiên cho nên dạy học lịch sử trước hết là một quá trình truyền đạt thông tin, thu nhận, xử lý thông tin giữa giáo viên và học sinh qua các phương tiện dạy học. Thông tin về sự kiện lịch sử càng chính xác, chân thật, phong phú, sinh động nhưng vừa sức thì sự tiếp thu và nhận thức về bộ môn lịch sử của học sinh càng sâu sắc từ lời nói, hình ảnh cũng như các loại đồ dùng trực quan (hiện vật, tranh ảnh, bản đồ, băng đĩa, máy chiếu…). Chính vì những vấn đề trên cho nên trong quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, bản thân tôi là một giáo viên dạy học lâu năm, có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy. Nay tôi xin mạnh dạn trình bày một số vấn đề “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử lớp 11”. Nhằm tạo ra môi trường tương tác đa dạng hấp dẫn giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau; đồng thời gây hứng thú, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và say mê học tập bộ môn lịch sử. Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên dạy học đạt hiệu quả tốt hơn, học sinh tích cực chủ động tiếp thu lĩnh hội, khắc sâu kiến thức của bài học lịch sử. Đây chính là lí do tôi thích chọn đề tài này.
  3. 2/ Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện tốt các đề tài nghiên cứu thì bản thân đã thực hiện các nhiệm vụ sau: Nghiên cứu các tài liệu về “Phương pháp dạy học lịch sử”: Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp có trao đổi, rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy. Nghiên cứu tài liệu, vẽ lược đồ, bản đồ, sưu tầm tranh ảnh, hiện vật, lập niên biểu,... gây hứng thú cho tiết dạy học lịch sử. Nghiên cứu sách giáo khoa, sách giáo viên, sách bài tập lịch sử; Khai thác kênh hình, sách chuẩn kiến thức kĩ năng, sách kiểm tra thường xuyên và định kì, các tư liệu lịch sử trên mạng Internet. Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh để từ đó có điều chỉnh và bổ sung hợp lí. 3/ Phạm vi nghiên cứu: Đề tài soay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập được kết hợp giữa phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Với phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở bậc THPT, các tư liệu lịch sử trên mạng ở phạm vi lớp 11. Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là: “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử lớp 11” ở Trường THCS & THPT Khánh An. 4/ Tài liệu tham khảo: - Sách giáo khoa lịch sử 11 – Phan Ngọc Liên – Chủ biên – Nhà xuất bản giáo dục Viết Nam – 2011. - Sách giáo viên lịch sử 11 – Phan Ngọc Liên – Chủ biên – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam – 2010. - Thiết kế bài giảng lịch sử 11 - Nhà xuất bản Hà Nội – 2007. - Đề kiểm tra theo chuẩn kiến thức lịch sử 11 – Nguyễn Xuân Trường và Ngô Thị Hiền Thúy – chủ biên - Nhà xuất bản giáo dục Viết Nam – 2011. - Tài liệu hội nghị - Bộ giáo dục và đào tạo trung học phổ thông - Tài liệu hướng dẫn sử dụng kênh hình trong SGK lịch sử 11 – Nhà xuất bản Hà Nội – 2007. - Tài liệu lịch sử trên mạng và các tài liệu tham khảo khác…
  4. II – PHẦN NỘI DUNG Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử có nhiều loại và mỗi loại có một phương pháp sử dụng khác nhau, tùy theo tiết học mà giáo viên sử dụng cho phù hợp. Sau đây tôi xin giới thiệu một số phương pháp sử dụng cơ bản đồ dùng trực quan trong chương trình dạy học lịch sử lớp 11. 1 - Cơ sở lý luận: Nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học, tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa sự vật. Trong dạy học lịch sử, phương pháp sử dụng đồ dung trực quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh cụ thể hóa các sự kiện, khắc sâu kiến thức, khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử của học sinh. Trong dạy học lịch sử, đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu về bản chất của các sự kiện lịch sử, là phương tiện rất có hiệu lực để hình thành các khái niệm lịch sử, giúp cho học sinh nắm vững các quy luật phát triển của xã hội. Đồ dùng trực quan có vai trò rất quan trọng trong việc giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Những hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan. Cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Mỗi khi quan sát vào loại đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán, hình dung xem quá khứ lịch sử được phản ánh, minh họa như thế nào? Từ đó các em mới suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua. Việc giáo dục tư tưởng, cảm xúc thẩm mỹ thông qua dạy học có sử dụng đồ dùng trực quan cũng có ý nghĩa rất lớn như: Ngắm nhìn một bức tranh diễn tả các nước đế quốc xâu xé “cái bánh ngọt” ở Trung Quốc học sinh biểu lộ được sự cảm thông, lòng khâm phục đối với nhân dân Trung Quốc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Khi xem một cuốn phim tài liệu, quan sát bản đồ Nhật Bản, Ấn Độ ở SGK lịch sử lớp 11 được vẽ phóng to, quan sát một di vật lịch sử, … học sinh nhận thức được vai trò, ý nghĩa của cuộc Duy tân Minh Trị được tiến hành trên các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa – xã hội nhằm phát triển đất nước ở Nhật Bản. Các em thể hiện thái độ lên án sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, khâm phục cuộc đấu tranh của ND Ấn Độ, Trung Quốc, các nước Đông Nam Á,… chống CNĐQ. Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, đồ dùng trực quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập cho
  5. học sinh, giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những sự kiện, kiến thức lịch sử. Nó là chiếc “cầu nối” giữa hiện thực với quá khứ, khách quan với đời sống hiện tại. 2 - Cơ sở thực tiễn: Đã nhiều lần chúng ta bàn đến việc sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy học lịch sử; coi đó là phương pháp trong dạy học, một phương pháp không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy lịch sử ở Trường THCS & THPT Khánh An. Tuy nhiên sử dụng như thế nào để có hiệu quả dạy học, phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh trong dạy học lịch sử thì không đơn giản chút nào. Bởi việc sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy học lịch sử chưa có sự thống nhất, mỗi người sử dụng một phương pháp khác nhau. Tình trạng sử dụng các đồ dùng dạy học còn mang tính hình thức chưa phát huy hết tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Trong bài viết này tôi không trình bày lại phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử nói chung mà chủ yếu đề xuất một số biện pháp sử dụng nhằm phát huy tính tích cực hoạt động độc lập có tính sáng tạo của học sinh. Trước tiên, hiệu quả của việc sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học lịch sử là do nhiều yếu tố quyết định như: Chất lượng đồ dùng trực quan, hiện vật, bản đồ, tranh ảnh lịch sử,.… Phương pháp sử dụng, kỹ năng và năng lực sư phạm của người giáo viên, đặc biệt là trình độ nhận thức của học sinh. Vì đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp được hai hệ thống tín hiệu trong quá trình nhận thức: “Tai nghe – Mắt thấy” tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được mối quan hệ thần kinh tạm thời khá phong phú; phát huy ở học sinh năng lực chú ý, quan sát, niềm say mê, hứng thú đặc biệt là tính tích cực hoạt động độc lập. Ngược lại, nếu không sử dụng đồ dùng trực quan đúng mức mà bị lạm dụng thì dễ làm cho học sinh phân tán tư tưởng, không tập trung vào các dấu hiệu, nội dung chính, thậm chí hạn chế sự phát triển năng lực tư duy trừu tượng của học sinh. Thực tế giảng dạy ở Trường THCS & THPT Khánh An cho thấy: Không ít giáo viên đã coi nhẹ việc sử dụng đồ dùng trực quan hoặc khi phải sử dụng thì chủ yếu là minh hoạ một cách tẻ nhạt, cho học sinh xem qua loa mang tính hình thức, chứ không dùng trong khi giảng dạy. Lý luận dạy học chỉ ra cho chúng ta thấy cần phải tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy và học tập. Để đáp ứng yêu cầu dạy và học lịch sử cũng như khắc phục tình trạng trước đây thì chúng ta cần phải biết kết hợp hài hoà giữa nội dung bài học và hình ảnh cụ thể qua đồ dùng trực quan. Tuy nhiên mỗi loại đồ dùng trực quan đều có những phương pháp sử dụng riêng, sao cho phù hợp với nội dung của bài học ở mỗi tiết dạy, gây được niềm say mê, hứng thú học tập, đặc biệt là tính tích cực hoạt động, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu.
  6. 3 – Thực trạng dạy học môn lịch sử ở Trường THCS & THPT Khánh An: a/ Ưu điểm: * Về phía giáo viên: Đại đa số giáo viên đều cố gắng tìm hiểu đưa ra những phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học: Nêu vấn đề, giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, trực quan, lập niên biểu, vấn đáp,… Thông qua trình bày sinh động giàu hình ảnh của giáo viên trong tường thuật, miêu tả, kể chuyện hoặc nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử; giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh trao đổi, thảo luận nhóm, so sánh, giải thích một cách tích cực. Giúp học sinh dễ dàng nắm bắt kiến thức, hiểu sâu hơn về bản chất, vai trò và ý nghĩa của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Trong quá trình giảng dạy giáo viên đã kết hợp các đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như: tranh ảnh, bản đồ, lược đồ SGK, hiện vật, phim đèn chiếu,…từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử. * Về phía học sinh: Đa số học sinh chú ý nghe giảng, tập trung tìm hiểu, suy nghĩ trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra theo sự chuẩn bị bài mới ở nhà, trả lời câu hỏi ở cuối mục trong bài, quan sát tranh ảnh, tập vẽ và trình bày diễn biến trên lược đồ cho nên khi học các em luôn chú ý để hiểu nội dung bài dạy, tích cực thảo luận nhóm, đưa ra các tình huống có vấn đề và tìm cách giải quyết. Trong quá trình lĩnh hội kiến thức học sinh đang cố gắng học hỏi lẫn nhau để nắm bắt kiến thức cơ bản thông qua hoạt động thảo luận, vấn đáp, đọc SGK, quan sát lược đồ, tranh ảnh,…các em đã mạnh dạn trình bày diễn biến trên lược đồ, lập niên biểu lên bảng, trả lời các câu hỏi hay ghi nhớ các sự kiện, nhân vật một quá trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình. b/ Hạn chế: * Về phía giáo viên: Vẫn còn một số ít giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn toàn phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức như: vẫn còn sử dụng phương pháp “thầy nói – trò nghe”, “thầy đọc – trò chép”. Do đó nhiều học sinh không nắm vững kiến thức, khi trả lời câu hỏi thì nhìn vào SGK đọc nguyên bản nên học thuộc một cách máy móc nhanh quên. Do Trường THCS & THPT Khánh An mới thành lập, thiết bị môn lịch sử (bản đồ, hiện vật,…) thư viện chưa có, các tranh ảnh, lược đồ SGK thì một số ít giáo viên chỉ cho học sinh khai thác sơ sài hoặc quan sát qua loa. Cũng có khi giáo viên yêu cầu học sinh vẽ lược đồ mà không hướng dẫn kĩ càng, học sinh không biết cách vẽ nên tiết dạy không có lược đồ,… dẫn đến tiết học nhàm chán, học sinh nắm bắt kiến thức mơ hồ, mau quên nên kết quả học tập của học sinh chưa cao. Một số tiết học giáo viên chỉ nêu vài ba câu hỏi và huy động học sinh khá, giỏi trả lời; chưa có câu hỏi giành cho học sinh yếu kém nên các đối tượng học sinh yếu kém ít được tham gia hoạt động, dễ chán nản môn học của mình. Một số ít giáo viên
  7. lại đặt ra những câu hỏi hơi khó mà không có hệ thống câu hỏi gợi mở nên học sinh không trả lời được, nhiều khi giáo viên trả lời thay cho học sinh. Vấn đề này được thể hiện rõ trong hoạt động quan sát tranh ảnh, thảo luận nhóm, giáo viên chỉ biết nêu ra câu hỏi mà không gợi ý, không hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi như thế nào. Vì không có câu hỏi gợi mở để giải quyết vấn đề nên học sinh không trả lời được,... * Về phía học sinh: Học sinh thường trả lời câu hỏi do giáo viên đặt ra thông qua việc nhìn SGK và nhắc lại, chưa có sự độc lập tư duy. Một số học sinh cón đọc nguyên xi SGK để trả lời câu hỏi, học sinh cá biệt còn lười học thậm chí không ghi bài, không chuẩn bị bài mới ở nhà, trên lớp không tập trung suy nghĩ cho nên việc ghi nhận các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu. Bởi vậy học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi dễ, còn một số câu hỏi tổng hợp, phân tích, so sánh, giải thích,…thì học sinh trả lời còn lúng túng hoặc mang tính chất chung chung, không rõ ràng. * Qua điều tra cụ thể: Bản thân tôi được Ban lãnh đạo phân công dạy học môn lịch sử 11. Trong quá trình giảng dạy với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy.Việc điều tra hiện thực thông qua sử dụng đồ dung trực quan, thảo luận, hỏi đáp để phát triển tư duy học sinh ở trên lớp; kiểm tra miệng, 15 phút, kiểm tra 45 phút…Kết quả kiểm tra tôi nhận thấy đa số học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi mang tính chất trình bày; còn những câu hỏi so sánh, giải thích, phân tích, đánh giá nhận thức thì các em còn rất lúng túng. Do vậy kết quả điều tra cũng không cao cụ thể là: Đầu năm học 2011 – 2012 tôi dạy 2 lớp sử 11: 11C + 11C1 kết quả khảo sát như sau: Lớp - SS Giỏi - TL Khá - TL TB – TL Yếu - TL Kém - TL 11C - 33 2 – 6,1% 14 – 42,4% 13 – 39,4% 4 – 12,1% 0 11C1 - 41 0–0 10 – 24,4% 21 – 51,2% 10 –24,4% 0 4 – Một số phương pháp thực tế trong việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử lớp 11: a/ Phương pháp sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong SGK: Tranh ảnh trong sách giáo khoa là một phương tiện trực quan tạo hình có tác dụng rất lớn trong dạy học lịch sử, nó cung cấp cho học sinh hình ảnh về quá khứ một cách cụ thể, sinh động và khá xác thực Ví dụ: Bức ảnh của Tôn Trung Sơn và cách mạng Tân Hợi 1911(hình 7) SGK lớp 11 trang 15, Áp phích năm 1920 – “Bạn đã ghi tên tình nguyện chưa?” – kêu gọi thanh niên nhập ngũ bảo vệ đất nước năm 1917 – 1921 ở Liên Xô (hình 25) SGK lịch sử lớp 11, ảnh “Hồng quân Liên Xô cắm cờ chiến thắng trên nóc tòa nhà Quốc hội Đức” ngày 30/4/1945 (hình 48) SGK lịch sử 11 trang 100, hay bức ảnh về “Trương Định nhận phong soái” sau hiệp ước 1862 (hình 51) SGK lịch sử 11 trang 112, hình
  8. ảnh “Một số tướng lĩnh của nghĩa quân Yên Thế” đầu thế kỉ XX (hình 74) SGK lịch sử 11 trang 145. Những tranh ảnh lịch sử này có giá trị như một tư liệu lịch sử quý giá, giúp học sinh hiểu sâu sắc tính chất sự kiện lịch sử thế giới nói chung và lịch sử Việt Nam nói riêng, tạo cho học sinh những ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc về quá khứ. Ví như: Khi các em ngắm nhìn bức tranh cảnh làng quê đang vào mùa gặt hái với những chiếc máy cày đang thay thế sức trâu (bò) hay những hình ảnh như: Trận tuyến bao vây quân địch ở Cầu Giấy, tháng 5/ 1883 (hình 58) SGK lịch sử 11, ảnh “Ga Hà Nội năm 1960” (hình 69) SGK lịch sử 11, ảnh “Trụ sở Đông Kinh nghĩa thục – phố Hàng Đào, Hà Nội” (hình 73) SGK lịch sử 11. Qua các hình ảnh học sinh khắc sâu các sự kiện lịch sử: sự phát triển của cách mạng trong thời kì chiến tranh bảo vệ chính quyền cách mạng, chống chủ nghĩa đế quốc. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp hướng dẫn các em quan sát các tranh ảnh in trong sách giáo khoa. Do học sinh thích xem tranh lịch sử nhưng ít biết khai thác nội dung của tranh phục vụ cho bài học. Để sử dụng có hiệu quả, giáo viên cần hướng dẫn gợi mở giúp học sinh tự tìm ra nội dung bức tranh, sau đó giáo viên bổ sung, sửa chữa để các em hiểu bức tranh đầy đủ, toàn diện, sâu sắc hơn. Ví như: Khi sử dụng bức tranh “Hồng quân Liên Xô cắm cờ chiến thắng trên nóc tòa nhà Quốc hội Đức” ngày 30/4/1945(hình 48) SGK lịch sử 11 trang 100, hay bức ảnh về “Trương Định nhận phong soái” sau hiệp ước 1862 (hình 51) SGK lịch sử 11 trang 112. Giáo viên phải gợi mở để học sinh quan sát: Lá cờ biểu hiện điều gì? hay Trương Định là người như thế nào? Qua cảnh tượng Trương Định không nhận sắc phong của triều đình mà nhận chức do nhân dân phong, em có suy nghĩ gì về Trương Định? Yêu cầu lớp trao đổi, thông qua sự gợi ý của giáo viên và một, hai học sinh trả lời, giáo viên mới giải thích và nhận xét. Tất cả những ý trên đều giúp học sinh nắm được cuộc chiến tranh chính nghĩa luôn được nhân dân ủng hộ nhất định sẽ thắng lợi. Tuy lực lượng quân sự còn ít, vũ khí trang bị còn thô sơ nhưng đã tích cực hoạt động góp phần rất quan trọng vào thắng lợi của cách mạng Hiện nay kênh hình trong sách giáo khoa tương đối đầy đủ, do vậy việc sử dụng hình vẽ tranh ảnh để giới thiệu và khắc sâu bài học lịch sử, phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh là hiệu quả nhất. Hình ảnh, tranh vẽ trong SGK có ý nghĩa hết sức to lớn, không chỉ là nguồn kiến thức có tác dụng giáo dục tư tưởng, tình cảm mà còn phát triển tư duy học tập bộ môn lịch sử của học sinh. Sử dụng tốt loại phương tiện trực quan này sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động, tạo ra sự hứng thú trong quá trình nhận thức. Từ việc quan sát học sinh sẽ đi tới công việc tư duy trừu tượng, nhưng quan sát tranh ảnh không thể gây ra sự chú ý, tích cực trong việc nhận thức vấn đề của học sinh nếu không có sự hướng dẫn của giáo viên. Mặt khác thông qua quan sát, miêu tả tranh ảnh, rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ của các em ngày càng phong phú, trong sáng. Vì vậy trong dạy học lịch sử chúng ta cần phải
  9. khai thác triệt để nội dung lịch sử được biểu hiện qua tranh ảnh, hình vẽ trong SGK, đồng thời khi sử dụng cần kết hợp sử dụng câu hỏi, miêu tả hoặc tường thuật, phân tích để nắm được kiến thức lịch sử biểu hiện trong đồ dùng trực quan. Sau khi quan sát học sinh cần nêu lên suy nghĩ của mình để các bạn trong lớp nhận xét, bổ sung cho hoàn thiện. Mỗi ý kiến, phát biểu của các em dù đúng, sai, nông cạn hay sâu sắc đều là cơ sở để giáo viên đánh giá trình độ của học sinh và uốn nắn, hướng dẫn nhận thức của các em. Trong những điều kiện có thể cần gợi ý, tạo ra các cuộc thảo luận của các em khi quan sát một bức tranh hay một hình vẽ. Ví dụ: Khi dạy bài 23 “Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914)” SGK lịch sử 11 trang 140-145 giáo viên cho học sinh xem hình 74 “Một số tướng lĩnh của nghĩa quân Yên Thế” – Giáo viên giới thiệu và phát vấn học sinh “Các em hãy quan sát bức tranh hình 74 và rút ra nhận xét?” Sau khi lớp trao đổi, giáo viên gợi ý và học sinh trả lời, giáo viên mới giải thích rõ hơn về bức tranh cho học sinh hiểu. b/ Phương pháp sử dụng các tranh ảnh chân dung của các nhân vật lịch sử: Chân dung các nhân vật lịch sử có tác dụng tạo biểu tượng về đặc điểm các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, của các nhà cách mạng v.v…giáo viên sử dụng để giảng dạy nhằm tăng cường, cụ thể hóa về hình ảnh cũng như đặc điểm, tính cách, tài đức của các nhân vật lịch sử. Khi sử dụng giáo viên không nên miêu tả quá nhiều về hình dáng bên ngoài của nhân vật mà chủ yếu là làm nổi bật những nét tính cách, tài đức, lập trường, quan điểm và nội tâm của nhân vật để cho học sinh hiểu nhân vật một cách trọn vẹn, sâu sắc. Chẳng hạn như khi dạy về “Cách mạng tháng Mười Nga 1917” học sinh không thể không biết đến hình ảnh Lê-nin đã khởi thảo ra “Bản luận cương tháng 4” với khẩu hiệu “Tất cả chính quyền về tay Xô Viết” và hình ảnh Lênin trực tiếp lãnh đạo Hồng quân Liên Xô đánh chiếm “Cung điện mùa Đông” giành thắng lợi, giáo viên cần nêu thêm những nét tiêu biểu nhằm giúp HS có ấn tượng sâu sắc về nhà cách mạng nổi tiếng này.
  10. Hồng quân tiến chiếm Cung điện Mùa Đông . Cách mạng tháng Mười Nga thành công ngày 7 tháng 11 năm 1917 (theo lịch Gregory) hay ngày 25 tháng 10 năm 1917 (theo lịch Julius). Ví dụ: Khi nói về Lê-nin "Lênin là người kế tục, phát huy những quan điểm, lý luận về cách mạng vô sản do Mác-Engghen đưa ra và phát triển nó thành một hệ thống hoàn chỉnh về cách mạng vô sản hay còn gọi là chủ nghĩa Mác-Lênin"
  11. Tóm lại, việc sử dụng kênh hình đã in trong sách giáo khoa hoặc tranh ảnh trên máy trình chiếu có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao kiến thức của học sinh trong học tập bộ môn lịch sử. Bởi các hình ảnh rỏ ràng, cụ thể của kênh hình không chỉ giúp học sinh hiểu sâu sắc kiến thức mà còn nảy sinh những cảm xúc lịch sử trong tâm hồn các em. Đặc biệt là các ảnh chân dung còn tạo điều kiện giáo dục thẩm mĩ cho các em và điều chủ yếu nhất là với hình ảnh cụ thể đó sẽ nâng cao sự hấp dẫn của học sinh đối với bộ môn lịch sử, làm cho kiến thức của các em thêm phong phú, sinh động và sâu sắc. c/ Phương pháp sử dụng bản đồ, niên biểu, lược đồ Bản đồ, niên biểu, lược đồ là những đồ dung trực quan quy ước không thể thiếu được trong dạy học lịch sử nói chung và dạy học lịch sử lớp 11 nói riêng. Nhờ có những đồ dùng trực quan này mà học sinh có biểu tượng đúng đắn về hình ảnh địa lý, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử. Chúng ta cũng biết mỗi một sự kiện lịch sử bao giờ cũng gắn liền với mốc thời gian và không gian nhất định, nếu ta tách sự kiện lịch sử khỏi không gian và thời gian ta sẽ không hiểu được nội dung ý nghĩa của sự kiện đó. Nắm được địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử sẽ không chỉ là biết tên địa điểm xảy ra sự kiện mà quan trọng hơn gắn liền với mỗi địa điểm đó là các yếu tố, địa hình phạm vi không gian, thời gian cũng như đặc điểm điều kiện tự nhiên của địa điểm đó. Trong khi sử dụng bản đồ, lược đồ, giáo viên cần chú ý giúp học sinh phân tích nêu kết luận khái quát về sự kiện được phản ánh trên bản đồ chứ không nên cho học sinh tiếp thu một cách thụ động. Ví như: Khi giảng về “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX” bài 21 SGK lịch sử lớp 11. Giáo viên sử dụng bản đồ hay Lược đồ khởi nghĩa Yên Thế mà giáo viên tự vẽ, in kê phóng to hoặc hướng dẫn cho học sinh về nhà vẽ phóng to vào giấy A0 treo lên bảng và yêu cầu học sinh trình bày diễn biến của phong trào qua lược đồ. Sau khi đã chuẩn bị bản đồ, lược đồ trong tiến trình giảng dạy giáo viên thực hiện các bước sau: Phân tích rõ nguyên nhân, mục đích của “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX” Giáo viên treo bản đồ lên tường (Nơi mà học sinh có thể nhìn rõ) Để lần lượt trình bày quá trình hoạt động của phong trào, hậu quả v.v… Kết hợp với lời giảng giáo viên chỉ rõ cho các em những vị trí, địa điểm của nghĩa quân hoạt động qua 4 giai đoạn,... sau đó yêu cầu các em nhận xét và rút ra kết luận khái quát.
  12. Lược đồ khởi nghĩa Yên Thế Việc giảng dạy kết hợp với việc sử dụng bản đồ, lược đồ, niên biểu thực tế đã đạt được những kết quả cao, hầu hết các em đã chăm chú tìm hiểu số liệu, thời gian các sự kiện, lắng nghe, dể hiểu và nắm được bài ngay trên lớp. Không những thế còn làm nảy sinh những xúc cảm lịch sử, khắc sâu kiến thức lịch sử, có thái độ căm phẫn trước những hành động vơ vét tàn bạo của thực dân Pháp. Việc sử dụng bản đồ, lược đồ giúp các em cụ thể hóa kiến thức, thấy rõ địa bàn hoạt động của nghĩa quân và sự lãnh đạo tài tình của Hoàng Hoa Thám góp phần tạo nên những thắng lợi vẻ vang Ví dụ: Khi dạy bài 17 “Chiến tranh thế giới thứ hai” SGK lịch sử 11 giáo viên kết hợp sử dụng bản đồ: Chiến tranh thế giới thứ II, Lược đồ Đức - Italia gây chiến và bành trướng (từ tháng 10/1935 đến tháng 8/1939), Lược đồ Đức đánh chiếm Châu Âu (1939 - 1941), Lược đồ chiến trường châu Á - Thái Bình Dương (1941 - 1945). Yêu cầu học sinh trình bày diễn biến chiến tranh, giáo viên sẽ cùng học sinh lập niên biểu về quá trình xâm chiếm Châu Âu của phát xít Đức (từ 9/1939 đến 6/1941), sau đó đưa ra mẫu niên biểu. Tiếp đó giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, yêu cầu các nhóm quan sát lược đồ "Quân Đức đánh chiếm Châu Âu" (1939 - 1941), HS theo dõi SGK để hoàn thành câu hỏi được giao và thảo luận nhóm, tự điền vào bảng thống kê nội dung được phân công, cử một đại diện trình bày trước lớp. Giáo viên đưa ra thông tin phản hồi bằng cách treo lên bảng, một bảng thống kê đã chuẩn bị sẳn theo mẫu trên để HS so sánh.
  13. Bảng thống kê quá trình xâm chiếm châu Âu của phát xít Đức (Từ tháng 9/1939 đến tháng 6/1941) Thời gian Chiến sự Kết quả 1/9/1939--> 29/9/1939 Đức tấn công Ba Lan. Ba Lan bị Đức thôn tính. Đức tấn công các nước Từ tháng 4/1940 đến - Đan Mạch, Nauy, Bỉ, Hà Lan,... bị Bắc Âu và đánh thẳng tháng 9/1940 Đức thôn tính, Pháp đầu hàng Đức. vào Pháp. Từ tháng 10/1940 đến Đức tấn công các nước - Rumani, Hunggari, Bungari, Nam tháng 6/1941 Đông và Nam Âu. Tư, Hi Lạp bị Đức thôn tính. Ví dụ: Khi dạy bài 18: Ôn tập lịch sử thế giới hiện đại (từ năm 1917 đến năm 1945) GV kẻ bảng thống kê theo mẫu như SGK lên bảng, chia lớp thành 4 nhóm để học sinh trao đổi “Thống kê những sự kiện lịch sử cơ bản về nước Nga và công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô 1917-1945”. Giáo viên gọi đại diện các nhóm trình bày, nhóm khác đóng góp ý kiến. GV nhận xét phần trả lời của mỗi nhóm và đưa ra ý kiến phản hồi bằng cách treo bảng thống kê những sự kiện lịch sử cơ bản về nước Nga trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1917 – 1945) lên bảng, học sinh quan sát. Niên đại Sự kiện Diễn biến chính Kết quả, ý nghĩa 2-1917 Cách mạng - Tổng bãi công chính trị ở Pê- - Lật đổ chế độ Nga Hoàng dân chủ tư tơ-rô-grát. - Hai chính quyền song song sản - Khởi nghĩa vũ trang tồn tại - Nga Hoàng bị lật đổ - CM dân chủ tư sản kiểu mới 11-1917 Cách mạng - Chiếm các vị trí then chốt ở - Thành lập chính quyền Xô XHCN thủ đô. Viết do Lê-nin đứng đầu. - Chiếm cung điện Mùa Đông - Đưa GCCN và nhân dân lao - Toàn bộ chính phủ lâm thời động Nga lên làm chủ. tư sản bị bắt (trừ thủ tướng - Cổ vũ phong trào CMTG theo Kerenxki) con đường CMVS. 1918- Chống thù - Quân đội 14 nước ĐQ cấu - Đẩy lùi cuộc tấn công của kẻ 1920 trong giặc kết với bọn phản động trong thù. ngoài nước mở cuộc tấn công vũ trang vào nước Nga Xô Viết. - Nhà nước Xô viết được bảo - Thực hiện chính sách cộng vệ và giữ vững. sản thời chiến. 1921- Chính sách - Trong nông nghiệp thay thế - Hoàn thành công cuộc khôi 1925 kinh tế mới chế độ trưng thu lương thực phục kinh tế.
  14. và công thừa bằng thu thuế lương thực. - Phục vụ cho công cuộc xây cuộc khôi - Trong công nghiệp, tập trung dựng CNXH ở một số nước phục kinh tế khôi phục CN nặng. hiện nay. - Trong thương nghiệp: Tự do buôn bán, phát hành đồng Rúp 12-1922 Liên bang - Gồm 4 nước Cộng hoà Xô - Tăng cường sức mạnh về mọi CHXHCN viết đầu tiên là Nga, Ucraina, mặt để xây dựng thành công Xô Viết TL Blorutxia và ngoại Cápcadơ. CNXH. 1925- Liên Xô xây - Thực hiện kế hoạch 5 năm - Đưa Liên Xô từ một nước 1941 dựng lần I (1928-1932). Kế hoạch 5 nông nghiệp lạc hậu thành một CNXH năm lần thứ hai (1933-1937) nước công nghiệp XHCN, có - Kế hoạch 5 năm lần 3 (1937) nền văn hoá, khoa học kỹ thuật bị gián đoạn do phát xít Đức tiên tiến và vị thế quan trọng tấn công 6-1941. trên trường quốc tế. 1941- Chiến tranh - Giải phóng Liên Xô và các - Là lực lượng trụ cột góp phần 1945 vệ quốc vĩ nước trung và Đông âu. quyết định việc tiêu diệt CNPX đại - Tiêu diệt Đức ở Beclin, tấn - Bảo vệ vững chắc tổ quốc công quân Nhật ở Mãn châu. XHCN, tiếp tục XDCNXH. Khi tiến hành bài tổng kết: Giáo viên dựa vào niên biểu để dạy, yêu cầu học sinh cùng xây dựng bảng niên biểu, trên cơ sở đó mà bổ sung, sửa chữa những điều chưa chính xác trong niên biểu của các em. Như vậy với việc sử dụng bản đồ, lược đồ, niên biểu, trong quá trình giảng dạy làm cho tiết học trở nên sôi nổi gây được sự chú ý tập trung của học sinh, phát huy khả năng độc lập tư duy cũng như việc khái quát, tổng kết kiến thức lịch sử của học sinh. Chính vì thế trong các giờ dạy lịch sử nếu có điều kiện cho phép giáo viên nên tích cực sử dụng có hiệu quả các loại đồ dùng trực quan này nhé! d/ Đồ dùng trực quan do giáo viên và học sinh tự làm, hoặc tự sưu tầm: Hiện nay kênh hình trong SGK đã phong phú hơn trước. Song do hạn chế về số trang nên các bản đồ, lược đồ, niên biểu, tranh ảnh minh họa thì lại thiếu hẳn đôi lúc không có. Chính vì lẽ đó để khắc phục tồn tại này trong quá trình giảng dạy giáo viên và học sinh cần phải sưu tầm, bổ sung nhằm tăng tính hình ảnh, tính cụ thể cho các sự kiện trong SGK. Giúp cho việc tiếp thu kiến thức của các em có hiệu quả. Đối với những bài học nào cần có bản đồ mà sách giáo khoa không có, giáo viên tự sưu tầm trên mạng, trong nhà sách, ken phóng to hoăc tự vẽ trên cơ sở nội dung của bài nhằm bổ sung cho sách giáo khoa. Đối với những bài cần tranh ảnh chân dung lịch sử minh họa, giáo viên và học sinh nên sưu tầm: trên mạng, tài liệu tham khảo và đưa vào nội dung của bài học nhằm tăng tính hình ảnh gây hứng thú, khắc sâu bài học. Những bức ảnh này có giá
  15. trị lịch sử to lớn giúp HS hiểu sự kiện một cách cụ thể, sinh động, gợi cảm xúc lịch sử của các em Ví dụ: khi dạy bài 2 “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX” ở phần II SGK lịch sử 11, giáo viên lập bảng mẫu “Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy” lên bảng cho học sinh thảo luận và trình bày. Sau khi HS trình bày giáo viên nhận xét xong mới treo bảng thống kê lên bảng: Cuộc Lãnh Địa bàn Hoạt động chủ yếu Kết quả, ý nghĩa KN đạo Bãi Sậy Nguyễn Hưng Yên, Từ 1885 - 1887 xây dựng - Nhiều ngày chiến 1885 - Thiện Hải Dương, căn cứ, khống chế các tuyến đấu nghĩa quân đã bị 1892 Thuật Bắc Ninh, giao thông Hà Nội - Hải giảm sút nhiều. Thái Bình, Phòng, Hà Nội - Nam Định, - Căn cứ Bãi Sậy bị Nam Định, Hà Nội - Bắc Ninh, đường Pháp bao vây Thiện Quảng Yên. S.Thái Bình, S. Hồng,... Thuật phải sang TQ - Nghĩa quân phiên chế phong trào tạm lắng. thành nhiều phân đội nhỏ - 1892 những người 10 - 15 người trà trộn vào còn lại ra nhập nghĩa dân để hoạt động. quân Yên Thế. + Từ 1888 cuộc chiến trở - Để lại những kinh nên quyết liệt, thắng nhiều nghiệm tác chiến ở trận ở các tỉnh Đồng Bằng. Đồng Bằng. Tóm lại: Sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa, cũng như sử dụng các đồ dùng trực quan do giáo viên và học sinh tự sưu tầm, tự làm, bổ sung cho SGK là một điều hết sức cần thiết có tác dụng lớn lao trong dạy học lịch sử. Song khi sử dụng giáo viên cần chú ý đến các yêu cầu của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học bộ môn lịch sử. đ/ Phương pháp sử dụng phim tư liệu lịch sử: Ngày nay công nghệ thông tin đã đạt được những bước tiến vượt bậc và có tác động lớn đến giáo dục đặc biệt là môn lịch sử, các nhà làm phim tái hiện lại hình ảnh lịch sử một thời trong quá khứ. Những nhân vật, những hiện vật, những sự kiện lịch sử đã qua nhằm giúp học sinh nắm bắt lịch sử một cách chính xác dễ nhận biết, dễ nhớ làm tăng hiệu quả học tập, lôi cuốn học sinh tham gia tích cực vào bài giảng. Cần coi trọng việc sử dụng phim tài liệu vào quá trình dạy học nhằm tận dụng mọi cơ hội lịch sử một cách cụ thể giàu cảm xúc, học sinh được trực tiếp quan sát các sự vật hiện tượng, được tiếp xúc các nhân vật lịch sử. Điều này giúp cho các em dường như đang “Trực quan sinh động” quá khứ có thật mà hiện tại không có. Với việc sử dụng phim tài liệu vào dạy học lịch sử, học sinh dễ nhận biết, dễ nhớ các sự vật hiện tượng và các sự kiện làm tăng thêm hiệu quả học tập (Trăm nghe không
  16. bằng một thấy); tập trung được sự chú ý của học sinh vào đối tượng, lôi cuốn các em tham gia tích cực vào bài học làm cho lớp học năng động, không buồn tẻ tăng hiệu quả dạy học. Giúp học sinh dễ dàng hiểu được vấn đề một cách chính xác về các sự vật hiện tượng người thật, việc thật; định hướng tốt nội dung bài học, dễ tiếp nhận thông tin, rút ngắn được thời gian trình bày của giáo viên. Trong giai đoạn lịch sử thế giới hiện đại (1939 – 1945): Sau khi hoàn thành xong chương trình giai đoạn lịch sử này giáo viên có thể cho học sinh xem phim tư liệu: “Đầu tháng 8/1945, hai quả bom nguyên tử ném xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki đã cướp đi sinh mạng của 250.000 người và trở thành cuộc thảm sát khốc liệt nhất trong giai đoạn lịch sử cận đại” . Hoặc bức tranh minh chứng thảm họa để lại ở thành phố Hỉroshima sau khi bị bom nguyên tử hủy hoại
  17. Qua các thước phim này học sinh có thể hình dung một giai đoạn lịch sử với những thảm họa khốc liệt chưa từng có trong lịch sử mà Mĩ đã gây ra cho Nhật Bản. Những người sống sót họ bị sa thải khỏi các nhà máy. Phụ nữ hibakusha không bao giờ lấy được chồng, do nỗi sợ hãi sẽ đẻ ra những đứa con quái thai. Đàn ông hibakusha cũng chung số phận, vì “chẳng ai muốn chung sống với một người mà tính mạng chỉ tính bằng vài năm nữa”. Thông qua các thước phim tư liệu trên giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về nội dung bài học Từ đó các em có ý thức lên án chiến tranh hạt nhân, bảo bệ nền hòa bình. Sống trong thời kỳ hòa bình phải biết sống như thế nào cho xứng đáng với cha ông, với các anh hùng đã hy sinh trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và bảo vệ Tổ Quốc, đồng thời các em có ý thức hơn trong học tập và rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức về vị trí và vai trò của bộ môn lịch sử. III- KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào các tiết dạy ở Trường THCS & THPT Khánh An đạt được kết quả khá cao. Trước hết bản thân đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa mới vá các tiết dạy có sử dụng đồ dùng trực quan, gây được hứng thú học tập hơn, học sinh tích cực chủ động, sáng tạo để mở rộng hiểu biết, đồng thời nhanh chóng lĩnh hội kiến thức sâu sắc, không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi hy vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao hơn trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học này hơn. So sánh kết quả thi khảo sát đầu năm và kết quả HS đạt được cuối năm 2012 cụ thể là: * Kết quả thi khảo sát đầu năm học 2011 – 2012 của 2 lớp sử 11: 11C + 11C1 là: Lớp - SS Giỏi - TL Khá - TL TB – TL Yếu - TL Kém - TL 11C - 33 2 – 6,1% 14 – 42,4% 13 – 39,4% 4 – 12,1% 0 11C1 - 41 0–0 10 – 24,4% 21 – 51,2% 10 –24,4% 0 * Cuối năm học 2011 – 2012 tôi dạy 2 lớp sử 11: 11C + 11C1 kết quả đạt được: Lớp - SS Giỏi - TL Khá - TL TB – TL Yếu - TL Kém - TL 11C - 33 8 – 24,24% 22 – 66,66% 3 – 9,1% 0 0 11C1 - 41 3 – 7,3% 19 – 46,3% 17 – 41,5% 2 – 4,9% 0
  18. Qua kết quả đạt được ở trên cho thấy tính khả thi của việc áp dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử là rất phù hợp, rất cần thiết. Bởi thông qua đồ dùng trực quan giúp học sinh lĩnh hội tri thức, phát huy tính tích cực, chủ động hoạt động độc lập gây hứng thú trong học tập, chất lượng học sinh đạt khá giỏi trong hai lớp tương đối cao, số lượng trung bình trở lên chiếm 98% và số lượng học sinh yếu giảm mạnh, không có học sinh kém.  Rút kinh nghiệm: Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong dạy học lịch sử lớp 11 ở Trường THCS & THPT Khánh An, bản thân tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau: Ngoài những nội dung kiến thức trong SGK, đồ dùng trực quan sẽ minh họa thêm cho học sinh thấy rõ được ý nghĩa, mục đích một cách sâu sắc của một bài học lịch sử, quá trình giảng dạy, tôi vận dụng khai thác các đồ dùng trực quan có liên quan đến bài dạy, kết quả chất lượng bộ môn được nâng cao. Với đề tài này chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và hạn chế, rất mong sự đóng góp ý kiến của lãnh đạo, của quý thầy cô giáo, các đồng nghiệp cũng như sự chỉ đạo về chuyên môn của trường để bản thân được học hỏi thêm, mỗi ngày phát huy tốt hơn giờ dạy lịch sử ở Trường trung học cơ sở và trung học phổ thông Khánh An.  Kiến nghị: - Đối với tổ chuyên môn: Cần tăng cường tổ chức các giờ ngoại khóa, các chuyên đề lịch sử để học sinh và giáo viên có thể thông qua đó thảo luận, đóng góp ý kiến để có phương pháp dạy học tốt hơn ở bộ môn lịch sử. Đồng thời mỗi một thành viên trong tổ có thể có những sáng kiến hoặc sáng tạo trong việc tự làm các đồ dùng trực quan dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của mình. - Đối với trường: Tăng cường mua sắm trang thiết bị, đồ dùng dạy học lịch sử để giáo viên tham khảo và thực hiện trong các tiết dạy học lịch sử. Cung cấp đủ đồ dùng dạy học: tranh ảnh, bản đồ, hiện vật lịch sử tư liệu lịch sử có liên quan trong chương trình dạy học để giáo viên và học sinh tham khảo nhằm bồi dưỡng thêm tri thức, tăng tính hiệu quả của bộ môn. Nên sắp xếp đồ dùng dạy học ở một nơi riêng, ngăn nắp khoa học, giáo viên dễ tìm thấy. - Đối với Sở giáo dục: Cần cung cấp thêm các đồ dùng trực quan như: bản đồ, tranh ảnh, các băng đĩa, phim tài liệu, nhằm phục vụ nhu cầu dạy - học của giáo viên, học sinh ở trường phổ thông. - Mở lớp tập huấn đại trà hướng dẫn sử dụng đồ dùng trực quan, kênh hình, trong sách giáo khoa hoặc sưu tầm. - Tổ chức các đợt sinh hoạt cụm, sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề nhằm tìm các giải pháp để nâng cao hiệu quả chất lượng bộ môn
  19. DUYỆT CỦA HỘI ĐỒNG SKKN Khánh An, ngày 08/ 01/ 2012 TRƯỜNG THCS & THPT KHÁNH AN Người viết Nguyễn Thị Yên
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0