1

CHƢƠNG MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tài nguyên của mỗi quốc gia vốn là “của trời cho”. Có những quốc gia may mắn

hơn những quốc gia khác khi đƣợc sinh sống trên những vùng đất giàu có tài

nguyên. Nhƣng không phải quốc gia nào có nhiều tài nguyên cũng trở nên giàu có.

Theo báo cáo của Quỹ quốc tế bảo vệ động vật hoang dã (WWF), con ngƣời đang

sử dụng nguồn Tài nguyên thiên nhiên ở tốc độ nhanh hơn nhiều lần so với khả

năng sản xuất ra nguồn tài nguyên của hành tinh. Theo báo cáo này, hiện nay con

ngƣời tiêu thụ nhiều hơn 20% so với khả năng tạo ra nguồn tài nguyên mới của trái

đất. Sự tiêu thụ nhiên liệu nhƣ than, khí và dầu lửa cũng tăng khoảng 700% từ năm

1961-2000. Bên cạnh đó là những hậu quả tiềm tàng của biến đổi khí hậu, cùng với

những mâu thuẫn bắt nguồn từ những nhu cầu đối nghịch của những nhóm lợi ích

xung quanh nguồn Tài nguyên thiên nhiên (các nhóm sử dụng nguồn Tài nguyên

giá trị cao nhƣ khoáng sản, kim loại, đá, các chất có nguồn gốc Hydrocacbon (dầu

mở, khí đốt) và gỗ; các nguồn tại nguyên quý hiếm nhƣ đất đai, rừng và động vật

hoang dã; các nền kinh tế phụ thuộc hàng hoá thô cộng với quản lý ko minh bạch

dẫn đến tham nhũng).

Việt nam là một quốc gia đang phát triển, nguồn lực tri thức còn hạn chế, chƣa

sở hữu những bản quyền công nghệ tiên tiến, nội lực tài chính còn hạn hẹp, tài

nguyên thiên nhiên trở thành một trong những nguồn lực quan trọng trong cuộc đua

tăng trƣởng kinh tế. Dựa vào khai thác tài nguyên để tạo động lực phát triển chỉ là

một bƣớc đi ngắn hạn. Để có thể đạt mục tiêu “phát triển bền vững” về dài hạn thì

sự phụ thuộc vào tài nguyên có phải là một lựa chọn? Có những lựa chọn nào cho

phát triển nếu đảm bảo nguyên tắc “bảo vệ tài nguyên” trong hành trình phát triển

bền vững? Hay mục tiêu “phát triển bền vững” là quá xa đối với quốc gia giàu tài

nguyên nhƣng nền kinh tế còn nghèo nàn?

Đứng trƣớc những thách thức phát triển có liên quan đến việc sử dụng và phân

phối nguồn lực tự nhiên, chính phủ cần nhấn mạnh đến nhu cầu đầu tƣ hiệu quả hơn

vào quản lý nhà nƣớc về tài nguyên thiên nhiên và những nhà hoạch định chính

2

sách cần có những công cụ trong giải quyết mâu thuẫn do tài nguyên thiên nhiên.

Bởi vì, tài nguyên thiên nhiên là dạng hàng hoá đặc biệt do không phải đi qua quá

trình sản xuất. Nếu đƣợc quản lý tốt, tài nguyên sẽ sản sinh lợi tức, đóng góp vào

nguồn tài chính phục vụ phát triển đất nƣớc. Kiểm soát nguồn Tài nguyên thiên

nhiên cũng là nền tảng trong vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia.

2. Mục đích của đề tài

Mục đích đề tài thảo luận vấn đề chính phát sinh trong lĩnh vực Tài nguyên thiên

nhiên. Nội dung tập trung vào “đánh thuế Tài nguyên thiên nhiên” theo tiêu chuẩn

hiệu quả, công bằng, nhằm làm nổi bật tính chất hiệu quả của việc đánh thuế tài

nguyên thiên nhiên và những nguyên nhân công bằng xã hội trong việc đánh thuế

tài nguyên.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Nhƣ chúng ta đã biết tài nguyên thiên nhiên dần đƣợc sở hữu hoặc kiểm soát bởi

chính phủ, và chịu nhiều loại thuế thông thƣờng; phạm vi của luận văn mở rộng ra

ngoài các hình thức thuế thông thƣờng, bao gồm cả loại tiền khác nhau nhƣ tiền bản

quyền, tiền cho thuê, tiền lợi tức, tiền thƣởng, và các quy định thƣờng đƣợc sử dụng

kết hợp với các loại thuế thông thƣờng. Một số tài nguyên có thể phải nộp thuế cho

những khu vực pháp lý chồng chéo, nhƣ tài nguyên thiên nhiên thƣờng bị đánh thuế

nhiều hơn một chính phủ, hoặc quốc gia khác nhau, kể cả các sản phẩm tài nguyên

thiên nhiên thƣờng đƣợc giao dịch nhƣ hàng hóa. Sau khi liệt kê một phạm vi khá

rộng về các vấn đề thuế và các công cụ, đề tài sẽ hạn chế phân tích chi tiết lý thuyết

và thực nghiệm vào một nguồn tài nguyên cụ thể để đại diện cho các vấn đề

chính. Để phân tích các vấn đề quản lý tối ƣu và đánh thuế tài nguyên tái tạo trong

cạnh tranh sử dụng, nhƣng không phải tài sản chung, đề tài sẽ sử dụng tài nguyên

nƣớc trong nông nghiệp Các vấn đề liên quan đến nguồn tài nguyên chung nhƣ thủy

sản; tài nguyên khai thác (mỏ kim loại) biểu thị một số vấn đề cơ bản trong việc

chọn thời điểm tối ƣu hay việc cân bằng giữa doanh thu có đƣợc và hiệu quả kinh tế

sẽ đƣợc xem xét ở những đề tài tiếp theo. Tại tất cả các phần, đề tài sẽ cố gắng kết

3

hợp phân tích lý thuyết kèm theo kết quả thực nghiệm và tập trung trình bày và định

lƣợng các vấn đề quan trọng nhất trong lĩnh vực thuế tài nguyên.

4. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu

Trƣớc tiên và tiếp cận một số khái niệm chung và nguyên nhân, mục đích đánh

thuế tài nguyên. Tiếp đến là những phân tích khái nhiệm tô kinh tế trong sử dụng tài

nguyên thiên nhiên và trên cơ sở đó phân tích lợi thế của đánh thuế tài nguyên thiên

nhiên để đáp ứng những mục đích nói trên, cũng nhƣ phân tích hoạt động của hệ

thống thuế hiện nay chƣa đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn hợp lý riêng cho các ngành

công nghiệp sử dụng tài nguyên thiên nhiên.

Trên cơ sở đó, nội dung đề tài sẽ khảo sát hệ thống các phƣơng pháp đánh thuế

khác nhau đang sử dụng tại Việt Nam, thế giới và đề xuất những hàm ý cần thiết

nhằm thiết kế và cải thiện hệ thống thuế trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên

nhằm bảo đảm hiệu quả phân bổ tài nguyên thiên nhiên và cải thiện các mục tiêu

công bằng xã hội.

Một ứng dụng nhỏ về đánh thuế tài nguyên tại hệ thống hồ Núi Cốc để minh họa

cho tầm quan trọng của đánh thuế tài nguyên trong quản lý và khai thác Tài nguyên

nƣớc trong nông nghiệp.

4

CHƢƠNG I: TỔNG QUAN

Thuế là số tiền thu của các công dân, hoạt động và đồ vật (nhƣ giao dịch, tài sản)

nhằm huy động tài chính cho chính quyền, nhằm tái phân phối thu nhập, hay nhằm

điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội. thuế đều c

thuế không đƣợc bóp méo các hoạt động

sản xuất, dẫn tới phúc lợi xã hội (tổng hiệu dụng) của nền kinh tế bị giảm đi; việc

thuế và tiến hành trƣng thu thuế phải không

phải đánh cùng một tỷ lệ vào các công dân có điều kiện nhƣ nhau. Giữa các công

dân có điều kiện khác nhau, thì thuế suất cũng cần khác nhau (vì thông thƣờng

ngƣời có điều kiện tốt hơn có xu hƣớng tiêu dùng hàng hóa công cộng nhiều hơn).

Thuế tài nguyên là một bộ phận của hệ thống thuế toàn cục, là cái tác động đến

thu nhập của các doanh nghiệp. Hệ thống này thông thƣờng bao gồm thuế thu nhập

trực tiếp của một tài nguyên nói chung, các kiểu thuế gián tiếp khác nhau bao gồm

các loại thuế bán hàng và thuế tiêu thụ, cũng nhƣ thuế xuất, nhập khẩu, và các loại

thuế đƣợc thiết kế riêng cho các ngành công nghiệp tài nguyên.

Các chính phủ đánh vô số các loại thuế vào các ngành công nghiệp tài nguyên

của họ. Các loại thuế chung và các loại thuế bán hàng chung, cũng áp dụng cho các

ngành tài nguyên. Tuy nhiên, chúng thƣờng có những điều khoản đặc biệt áp dụng

cho ngành này. Ví dụ, các tỷ suất thuế bán hàng cao hơn có thể đƣợc đánh vào tiêu

dùng các sản phẩm dầu khí.

Đối với trƣờng hợp các

công bằng.

tƣ nhân. Điều này có thể đƣợc nhìn nhận nhƣ một lý luận về công bằng.

Các loại thuế đặc biệt cho các ngành công nghiệp tài nguyên hay đƣợc áp dụng

nhất là một loại thuế sản lƣợng hoặc thuế sản xuất đặc biệt đƣợc đánh vào sản lƣợng

hoặc doanh thu của một ngành tài nguyên. Các loại thuế sản xuất có thể cho phép

5

một số chi phí đƣợc khấu trừ. Trong trƣờng hợp đơn giản nhất, chi phí thƣờng

xuyên và vận hành có thể đƣợc khấu trừ.

Việc xác định giá tính thuế cũng rất phức tạp và chƣa bao quát hết những trƣờng

hợp sẽ xảy ra trong thực tế và còn quá sơ sài. Trƣờng hợp số lƣợng tài nguyên đƣợc

khai thác nhƣng đƣợc sử dụng với nhiều mục đích khác nhau (làm nguyên liệu cho

quá trình sản xuất tiếp; tiêu thụ trên thị trƣờng nội địa, xuất khẩu, nhập kho dự

trữ…) hoặc bán ở nhiều địa điểm khác nhau chƣa đƣợc quy định và cũng rất khó có

thể quy định một cách rõ ràng, minh bạch. Vì vậy, việc quy định giá tính thuế là

“giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên” nhƣ quy định của dự thảo là không rõ ràng,

dẫn đến khó hiểu, khó áp dụng vào thực tiễn.

Việc áp dụng cách thu thuế Tài nguyên hiện nay tại Việt Nam đã là biện pháp

hiệu quả? Những cách thức thu thuế tài nguyên có thể đƣợc áp dụng? Đề tài sẽ lần

lƣợt vạch ra những bƣớc đi để tạo điều kiện cho việc quản lý Tài nguyên đƣợc hiệu

quả hơn trong tƣơng lai.

6

CHƢƠNG II: MÔ HÌNH

Kinh tế tài nguyên thiên nhiên xuất phát từ những năm cuối thập niên 70 của thế

kỷ trƣớc, sở dĩ lúc đó tình hình về tài nguyên đã cho thấy không mấy khả quan khi

trữ lƣợng tài nguyên ngày càng cạn kiệt một cách nhanh chóng và sự cạn kiệt là để

phục vụ dòng sản xuất theo thời gian. Điều này cho thấy kinh tế tài nguyên xuất

phát chủ yếu vì nguyên nhân cạn kiệt của tài nguyên.

Các nhà nghiên cứu từ trƣớc đến nay cũng đã có rất nhiều những sự nghiên cứu

về tài nguyên, thành phần của tài nguyên và đặc điểm của nó nhƣ: Tài nguyên thiên

nhiên là các thành phần của tự nhiên mà ở trình độ nhất định của sự phát triển lực

lƣợng sản xuất chúng có thể đƣợc sử dụng làm phƣơng tiện sản xuất và làm đối

tƣợng tiêu dùng. Theo thuộc tính tự nhiên tài nguyên thiên nhiên có thể đƣợc chia ra

là: Tài nguyên đất, nƣớc, khí hậu, sinh vật, khoáng sản. Theo công dụng kinh tế: Tài

nguyên nông nghiệp, công nghiệp, du lịch… Theo khả năng có thể bị cạn kiệt trong

quá trình sử dụng của con ngƣời: Tài nguyên cạn kiệt, tài nguyên tái tạo, tài nguyên

vô hạn. Các nghiên cứu cũng chỉ ra đƣợc tầm quan trọng của tài nguyên thiên nhiên,

đồng thời cũng nhƣ môi trƣờng xung quanh, mối tƣơng quan giữa tài nguyên và

môi trƣờng để nhìn nhận đƣợc cách nhìn tổng quan về tài nguyên và con ngƣời phụ

thuộc, tác động vào nhau nhƣ thế nào.

Một mục tiêu quan trọng nhất của đánh thuế tài nguyên là có

.

2.1.1. Kinh tế tài nguyên cạn kiệt

Môi trƣờng và tài nguyên thiên nhiên thực sự rất quan trọng đối với cuộc sống

của con ngƣời. Trong toàn bộ thời gian qua con ngƣời đã tác động, sử dụng, khai

thác một cách triệt để mà không quan tâm tới tình trạng của nó ra sao. Chính vì vậy,

môi trƣờng sống ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng, ô nhiễm, dịch bệnh, tai họa cứ

bùng phát một cách nhanh chóng. Tài nguyên ngày càng cạn kiệt, sử dụng không

hợp lý, con ngƣời đã từng nhầm tƣởng rằng tất cả các loại tài nguyên đều là vô hạn.

7

Thực tế đã cho thấy tài nguyên ngày càng cạn kiệt nhanh chóng bởi sự tiêu thụ

quá mức của con ngƣời. Vì vậy, cả thế giới ngày càng lo lắng cho nguồn tài nguyên

của mình và quan tâm trƣớc tiên, cũng chính là xuất phát chủ yếu của kinh tế tài

nguyên là sự cạn kiệt của tài nguyên cạn kiệt.

Tài nguyên cạn kiệt hay là những loại tài nguyên đƣợc

hình thành bởi các quá trình địa chất trong suốt hàng triệu năm, tồn tại những kho

tài nguyên cố định, nếu đã đƣợc con ngƣời phát hiện và khai thác thì khó có thể tái

tạo hay nói cách khác muốn tái tạo đƣợc lại phải mất bằng đó khoảng thời gian hình

thành khối lƣợng tài nguyên mà con ngƣời đã khai thác hết. Các loại tài nguyên cạn

kiệt điển hình nhƣ dầu mỏ, than, khoáng sản. Có một ƣu điểm đó là các tài nguyên

này về khía cạnh nào đó có chung một vai trò, một công dụng và có thể thay thế cho

nhau trong quá trình sử dụng của con ngƣời nhƣ: Chất đốt có thể dùng khí gas, dùng

dầu, dùng than đá. Một câu hỏi đặt ra là tại sao có thể thay thế cho nhau, cái này hết

có thể dùng đến cái khác để thay thế. Bởi vì, con ngƣời đã không chấp nhận việc sử

dụng một cách lần lƣợt, chờ thời gian để phục hồi loại này thì vẫn có loại khác để

dùng. Con ngƣời chọn cách tiêu thụ hết, theo ý muốn của mình, tiêu dùng một cách

thỏa mãn sự phong phú, đa dạng, không cần quan tâm nó cạn kiệt ra sao, tiết kiệm

ra sao, hậu quả ra sao. Để rồi kho dự trữ tài nguyên cũng đã sắp hết, thậm chí nhiều

nơi đã cạn kiệt hoàn toàn.

Tiêu thụ quá mức tài nguyên cạn kiệt đã gây ra hậu vô cũng nghiêm trọng đến

môi trƣờng sống, đến bầu khí quyển, đến nguồn nƣớc… Điển hình là tình hình biến

đổi khí hậu diễn biến nghiêm trọng, mà hậu quả chủ yếu chính là sự phát thải khí

CO2 của con ngƣời ra ngoài môi trƣờng thông qua tiêu thụ tài nguyên.

Với lƣợng tài nguyên còn lại, xã hội phải tính toán làm sao cho khoảng thời gian

là tối ƣu nhất, tìm kiếm các nguồn năng lƣợng thay thế, xử lý, cải thiện những hậu

quả đã gây ra cho môi trƣờng. Kéo dài sự tồn tại của tài nguyên, nghiên cứu ra

những quá trình mà con ngƣời chƣa phát kiến ra đƣợc. Còn với những năng lƣợng

thay thế lại phải tính toán một cách hiệu quả, tối ƣu về chi phí sản xuất và hình thức

quản lý. Với những năng lƣợng sạch sẽ tính toán chi phí tối ƣu, còn với năng lƣợng

8

nhƣ hạt nhân thì lại phải lo quản lý ô nhiễm bên trong nhà máy tránh phát thải, nguy

cơ rủi ro cũng là rất lớn.

Trƣớc tình hình tìm kiếm nguồn năng lƣợng mới luôn gặp phải những khó khăn

về công nghệ, về vốn đầu tƣ, và nguy cơ rủi ro gặp phải. Xã hội vẫn phải tính toán

thời gian tiêu thụ lƣợng tài nguyên còn lại hợp lý. Khoảng thời gian này có thể áp

dụng theo quy tắc Hotelling (Roger Perman, 2003). nhƣ một điều kiện hiệu quả.

Nhƣng quy tắc yêu cầu tỷ lệ tăng trƣởng của giá tài nguyên phải bằng với tỷ lệ chiết

khấu xã hội không tạo ra đƣờng giá duy nhất. Có rất nhiều đƣờng giá thỏa mãn quy

tắc Hotelling, và do vậy chúng đều là những đƣờng hiệu quả. Nhƣng chỉ có một

đƣờng là tối ƣu, nên chỉ sử dụng quy tắc Hotelling nhƣ một điều kiện cần. Quy tắc

Hotelling cho khoan hút tài nguyên không tái tạo thƣờng đƣợc biểu diễn dƣới dạng:

Lấy tích phân ta đƣợc: (Pt

Pt

: P* t

Quy tắc Hotteling phát biểu giá trị chiết khấu của tài nguyên cần phải nhƣ nhau

tại tất cả các thời điểm. Đây chỉ là một trƣờng hợp đặc biệt. Trong hình 2.1 với 2

đƣờng giá khác nhau, hai giá khởi đầu khác nhau, tăng theo thời gian với cùng một

tỉ lệ chiết khấu. Nếu giả sử  bằng 5% mỗi một trong những đƣờng này và có vô số

những đƣờng giá nhƣ vậy đều thỏa mãn quy tắc Hotelling.

Đƣờng giá thỏa mãn quy tắc Hotelling đều là những đƣờng giá thỏa mãn điều

kiện cần. Còn điều kiện đủ là các điều kiện khởi đầu và cuối cùng cho tài nguyên

thiên nhiên cần phải đƣợc thỏa mãn. Sẽ có một kho tài nguyên ở mức khởi đầu nào

đó, theo thời gian sử dụng và nền kinh tế tiếp cận tới cuối kỳ kế hoạch. Nếu giá

khởi đầu là “quá thấp”, thì khối lƣợng sử dụng tài nguyên là “quá nhiều” trong mỗi

giai đoạn, và toàn bộ kho tài nguyên sẽ trở nên cạn kiệt trong khoảng thời gian

9

ngắn, không thể thỏa mãn khoảng thời gian dự định của con ngƣời, để khám phá ra

năng lƣợng thay thế và sử dụng một cách hiệu quả, tối ƣu.

Pt

0

t

Nguồn (Roger Perman, 2003).

Hình 2.1: Hai đường giá mỗi đường đều thỏa mãn quy tắc Hotelling

Ngƣợc lại, nếu giá khởi đầu là “quá cao”, khối lƣợng sử dụng tài nguyên “quá

nhỏ” trong mỗi giai đoạn, và kho tài nguyên sẽ chƣa bị cạn kiệt, nó sẽ còn rất nhiều,

thời gian rất dài. Điều này cho thấy con ngƣời đang lãng phí tài nguyên mà thiên

nhiên ban tặng, khó có thể phát triển xã hội khi mà con ngƣời không nhận ra đƣợc

điều đó. Vì vậy, nhận thấy rằng sẽ có một mức giá khởi đầu tối ƣu, với một khối

lƣợng khai thác tối ƣu, dẫn tới một đƣờng giá tối ƣu nhất trong tất cả những đƣờng

giá thỏa mãn quy tắc Hotelling. Tóm lại, để có lời giải cho bài toán tối ƣu tạo ra

đƣờng giá tối ƣu là nhiệm vụ của toàn xã hội trong những nghiên cứu về giá khởi

đầu, khối lƣợng khoan hút tối ƣu.

Để làm rõ hơn chúng ta có thể xem xét bài toán điển hình cho tài nguyên cạn

kiệt. Bài toán đƣợc xây dựng lên là bài toán tối ƣu hóa có ràng buộc. Mục tiêu là tối

đa hàm phúc lợi xã hội của nền kinh tế tùy thuộc vào ràng buộc kho – luồng tài

nguyên cạn kiệt hay tài nguyên không tái tạo và đồng nhất thức thu nhập quốc dân.

Viết điều này bằng toán học, do vậy bài toán đƣợc trình bày ra sau đây:

10

phiếm hàm lợi ích.

: Ut=U(Ct)

:

ràng buộc:

: St

:

.

Lời giải đầy đủ cho bài toán tối ƣu hóa có ràng buộc này sử dụng nguyên tắc cực

đại của bài toán điều khiển tối ƣu. Khi so sánh bài toán này với mô tả của bài toán

tối ƣu cho mô hình đơn giản, một khác biệt đã phát sinh. Phƣơng trình vi phân cho

).

Hamilton giá trị-hi :

4 phƣơng trình

sau:

11

.

.

Pt t

. C t t=0,1,…,∞

.

. Do đó, p

:

(Giá ròng = Giá thô – Chi phí cận biên)

n thiên nhiên (

.

12

-lợi

(2).

, nhƣng b

:

, ta đƣợc:

). ,

:

13

,

.

ác động kho lên chi phí.

) sẽ lớn hơn.

Nhƣ vậy, c

14

. Xử lý

thuế đối với các hoạt động thăm dò sẽ

, vì chúng

tạo ra các chi phí khác nhau để nền kinh tế có đƣợc tài nguyên. Một đặc tính có liên

quan của các tài nguyên không hồi sinh là chún

nguyên. Điều này cũng có các hàm ý thuế.

Theo thời gian nhìn thấy những nguy cơ của tài nguyên cạn kiệt, tài nguyên tái

tạo cũng có nguy cơ cạn kiệt. Sau đó, cuối thế kỷ 20 thì kinh tế tài nguyên thiên

nhiên đƣợc mở rộng nghiên cứu cho các tài nguyên tái tạo. Do sự bùng nổ dân số và

tăng trƣởng kinh tế là nhân tố chính góp phần gia tăng cạn kiệt của tài nguyên.

Tài nguyên tái tạo là tài nguyên có khả năng tái sản xuất và tăng trƣởng bởi các quá

trình vật lý, hóa học và sinh học. Các tài nguyên tái tạo rất phong phú. Nó có thể

bao gồm: Sự tăng trƣởng của đàn cá hay nói chung là tài nguyên thủy sản, khu rừng

có khả năng tăng trƣởng tự nhiên, các hệ thống nƣớc và bầu khí quyển, những hệ

thống đƣợc tái sản xuất bởi các quá trình vật lý, hóa học. Và cũng có thể là độ phì

nhiêu có thể tái tạo một cách tự nhiên…

Có một sự tƣơng tự giữa tài nguyên tái tạo và tài nguyên cạn kiệt là cả hai đều

có khả năng bị cạn kiệt hoàn toàn nếu khối lƣợng khai thác quá nhiều vƣợt quá mức

và kéo dài. Đối với tài nguyên cạn kiệt khả năng cạn kiệt là hậu quả của tính hữu

hạn của kho. Còn tài nguyên tái tạo, tuy kho của nó có thể tăng trƣởng, tái sản xuất,

nó vẫn có thể tiến dần tới giá trị cuối cùng là bằng không. Lý do, là bởi vì với các

điều kiện hiện hoành dân số ngày càng gia tăng, bùng nổ một cách chóng mặt, cùng

với sự tăng trƣởng của nền kinh tế đòi hỏi khối lƣợng tài nguyên khổng lồ, tất cả

đều ảnh hƣởng tới năng lực tái sản xuất của tài nguyên tái tạo, tỷ lệ khai thác tiếp

tục vƣợt quá tăng trƣởng tự nhiên ròng.

Không chỉ có sử dụng tài nguyên cạn kiệt là gây ra ô nhiễm, mà việc sử dụng tài

nguyên tái tạo ngày nay cũng gây ra ô nhiễm rất nghiêm trọng. Trong nông nghiệp,

15

nhu cầu xã hội ngày càng phát triển cao đòi hỏi con ngƣời ngày càng phải sử dụng

nhiều biện pháp khác nhau để tăng năng suất sản lƣợng sản phẩm. Những hoạt động

nhằm mục đích kinh tế của con ngƣời là nguyên nhân cơ bản làm ô nhiễm môi

trƣờng. Việc sử dụng hóa chất trong nông nghiệp nhiều và không hợp lý đã làm cho

môi trƣờng đất ngày càng xấu đi. Sự tích tụ cao các chất độc hại, các kim loại nặng

trong đất sẽ làm tăng khả năng hấp thụ các nguyên tố có hại cho cây trồng, vật nuôi

và gián tiếp gây ảnh hƣởng xấu tới sức khỏe con ngƣời. Trong sản xuất, sử dụng tài

nguyên nếu con ngƣời có tinh thần trách nhiệm, không vì lợi ích trƣớc mắt mà

không làm cho thiên nhiên nghèo đi, môi trƣờng sống của cả cộng đồng đã không bị

ô nhiễm.

Trong tài nguyên cạn kiệt đƣờng giá thỏa mãn quy tắc Hotelling, đƣờng giá tối

ƣu đƣợc quan tâm nhiều. Còn với tài nguyên tái tạo sẽ chú ý, dành quan tâm nhiều

đến thu hoạch trạng thái ổn định. Trạng thái ổn định là một trạng thái lý tƣởng,

trong một giai đoạn khối lƣợng kho tài nguyên đƣợc thu hoạch bằng với khối lƣợng

tăng trƣởng tự nhiên ròng của tài nguyên. Lý tƣởng khi mà trạng thái này vẫn cố

định trong các giai đoạn kế tiếp sau đó. Thu hoạch trong trạng thái này là trạng thái

ổn định, khối lƣợng đƣợc thu hoạch là năng suất ổn định có nghĩa là hàm tăng

trƣởng của nó đạt cực đại.

Nguồn (Roger Perman, 2003).

16

Hình 2.2: Hình vẽ mô tả trạng thái ổn định

Đa số các tài liệu nghiên cứu kinh tế học tài nguyên tái tạo nói về hai điều: Thu

hoạch các giống loài động vật và kinh tế học lâm nghiệp. Nông nghiệp có thể cũng

đƣợc nghĩ nhƣ một ngành của thu hoạch tài nguyên tái tạo. Bài toán sử dụng tài

nguyên nƣớc cho nông nghiệp và thủy điện của hồ thủy lợi là bài toán đƣợc kết hợp

chủ yếu từ hai nhánh nghiên cứu trên.

Mặc dù chƣa đƣợc quan tâm và nghiên cứu sâu sắc nhƣng song song với việc cải

thiện cho quản lý cung cấp nƣớc, thì cũng đã có những để ý trên tầm nhìn lớn trong

các nghiên cứu.

Nhƣ vậy, tài nguyên hồi sinh là những tài nguyên có thể tạo ra luồng sản lƣợng

liên tục cho một khoảng thời gian dài vô hạn. Chúng bao gồm những thứ nhƣ đàn

cá, rừng, thủy điện, cung cấp nƣớc, không khí sạch và đất nông nghiệp. Trong mỗi

trƣờng hợp, nhƣ một nguồn lực nào đó đƣợc lấy cho sử dụng kinh tế, tài nguyên có

thể tự bổ sung bởi các cách tự nhiên hoặc nhân tạo. Một đặc điểm đặc trƣng của các

tài nguyên hồi sinh là mức của luồng tài nguyên, một khối lƣợng có thể đƣợc duy trì

liên tục, là biến nội sinh. Mức này có thể phụ thuộc vào kho tài nguyên đƣợc dự trữ,

vào tỷ lệ phục hồi tự nhiên của tài nguyên (ví dụ tỷ lệ tăng trƣởng sinh học), vào

thực hành bảo tồn và quản lý của những ngƣời khai thác tài nguyên (ví dụ, trồng

rừng, điều chỉnh lƣợng đánh bắt cá, th

thiết cần phải xem xét quá trình phục hồi tài nguyên.

Khuôn khổ phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứu về tài nguyên hồi sinh, cụ

thể là tài nguyên nƣớc.

2.1.3

Tài nguyên thiên nhiên là một nhân tố sản xuất cơ bản bên cạnh các nhân tố sản

xuất cơ bản khác nhƣ vốn, lao động, và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Một trong những

đặc tính then chốt của tài nguyên thiên nhiên là việc chúng tạo ra tô kinh tế. Tô kinh

17

tế của dự trữ tài nguyên đơn giản là giá trị kinh tế cuối cùng của nó, lợi nhuận kinh

tế từ việc khai thác nó. Hay, luồng tô kinh tế từ một khối lƣợng tài nguyên đã cho là

hiệu số giữa doanh thu tích lũy thực mà nó tạo ra và tất cả chi phí tích lũy thực của

việc có đƣợc những doanh thu đó.

Nhƣ chúng ta đã biết đặc tính của nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên là khối

lƣợng cung cấp hầu nhƣ là cố định. Do vậy, khi cầu của thị trƣờng tăng lên, cân

bằng thị trƣờng sẽ tạo ra một thặng dƣ kinh tế ròng mà các nhà kinh tế thƣờng gọi là

tô kinh tế (economic rent) nhƣ đƣợc mô tả bởi hình vẽ sau đây:

Hình 2.3: Cân bằng của thị trường tài nguyên thiên nhiên

2.1.4

Các nguyên tắc tƣơng tự đƣợc áp dụng cho tài nguyên hồi sinh, mặc dù có đôi

chút khác biệt. Một lần nữa, tô kinh tế từ tài nguyên hồi sinh (rừng, cá…) sẽ là là

một luồng doanh thu tính dồn trừ đi luồng của tất cả chi phí tính dồn trên thực tế.

Việc tính tới doanh thu nhận đƣợc và các đầu vào hiện tại đƣợc sử dụng để tạo

doanh thu là tƣơng tự với trƣờng hợp tài nguyên không hồi sinh. Các chi phí vốn là

khác đôi chút về bản chất. Bất kỳ trọng số có thể khấu hao nào đƣợc sử dụng trong

việc khai thác tài nguyên hồi sinh đƣợc xử lý nhƣ trên. Tuy nhiên, tài sản gắn liền

18

với bản thân tài nguyên hồi sinh là khá khác với một dự trữ tài nguyên không hồi

sinh. Không giống nhƣ tài nguyên không hồi sinh, một điều đặc biệt là sẽ không có

chi phí thăm dò gắn liền với việc khám phá ra nó. Và, vì nó là hồi sinh, tự bản thân

nó đƣợc tái tạo theo thời gian.

Xét ví dụ trong đánh bắt cá. Sự gia tăng dự trữ cá qua thời gian phụ thuộc vào tỷ

lệ tăng trƣởng sinh học của đàn cá và tỷ lệ mà tại đó cá đƣợc đánh bắt từ khu đánh

bắt cá. Thông thƣờng không có chi phí tài nguyên liên quan tới quá trình sinh thái

này (mặc dù các trang trại thủy sản chăn nuôi cá có thể sử dụng các kỹ thuật mua

thêm hay tái tạo). Chi phí cơ hội của việc đánh bắt thêm cá từ khu đánh bắt cá tại

một thời điểm là giá trị hiện tại của luồng cá bị bỏ đi đƣợc tạo ra trong tƣơng lai.

Điều này rõ ràng là một điều khó khăn để có thể tính tới. Một khó khăn trong đo

lƣờng tƣơng tự xảy ra đối với rừng, ngoại trừ ở đây có một chi phí thêm vào là chi

phí của việc tái sinh rừng phải đƣợc tính đến. Tƣơng tự nhƣ đánh bắt cá, có một tỷ

lệ tăng trƣởng tự nhiên của cây cối, do vậy dự trữ cây cối phụ thuộc chung vào tần

suất chặt cây và các mẫu tăng trƣởng của các giống cây. Do vậy, chi phí cơ hội của

việc chặt thêm cây có thể đƣợc xử lý nhƣ chi phí của việc tái trồng rừng cộng với

giá trị hiện tại của thay đổi trong giá trị của các cây cối đƣợc thu hoạch vào tƣơng

lai. Và điều này là khó đo lƣờng.

2.1.5. Tóm tắt

Nhƣ vậy khối lƣợng tô kinh tế mà một tài nguyên đã cho sẽ tạo ra phụ thuộc vào

hành vi của tác nhân chịu trách nhiệm khai thác tài nguyên. Hành vi của tác nhân,

đến lƣợt mình, phụ thuộc vào sắp đặt thể chế. Về cơ bản, những ngƣời vận hành

khu vực tƣ nhân sẽ tối đa giá trị hiện tại của lợi nhuận kinh tế sau thuế (tô kinh tế)

qua từng quãng thời gian. Nếu quyền sở hữu tƣ nhân là tuyệt đối, quãng thời gian sẽ

là vô hạn. Nếu coi giá trị của tô kinh tế đƣợc tạo ra bởi hành vi tối ƣu tƣ nhân là tô

kinh tế tƣ nhân, tức là nó khác với tô kinh tế xã hội, là cái là tô kinh tế có đƣợc từ

tài nguyên theo quan điểm xã hội. Tô kinh tế tƣ nhân có thể khác với tô kinh tế xã

hội vì nhiều lý do. Nếu thuế đƣợc áp dụng lên công ty, chúng là bộ phận của giao

hoàn xã hội, nhƣng không phải là của giao hoàn tƣ nhân. Nếu các hoạt động của

19

công ty tạo ra các chi phí ngoại lai, nhƣ hủy hoại môi trƣờng, những chi phí này sẽ

hình thành nên một phần của chi phí xã hội nhƣng không phải chi phí tƣ nhân. Nếu

chuỗi thời gian của khu vực tƣ nhân là giới hạn bởi ràng buộc thể chế, đo lƣờng tô

kinh tế từ một quan điểm tƣ nhân sẽ khác với đo lƣờng cho xã hội. Thêm nữa, tô

kinh tế xã hội tiềm năng có thể khác thực sự với tô kinh tế xã hội thực tế đƣợc tạo ra

bởi khai thác tài nguyên. Tất cả các bóp méo nói trên có thể làm phát sinh một mẫu

hình khai thác không tối ƣu từ quan điểm xã hội. Một trong những mục đích của đề

tài ở phần sau trong nghiên cứu này là xem xét các loại thuế này tác động nhƣ thế

nào lên hành vi của các nhà quản lý tài nguyên.

Một cách tự nhiên, khối lƣợng tô kinh tế có thể đƣợc tạo ra từ tài nguyên hồi

sinh hoặc không hồi sinh phụ thuộc vào các đặc điểm của tài nguyên đang xét. Khai

mỏ với quặng chất lƣợng cao hơn sẽ tạo ra tô kinh tế cao hơn. Các tài nguyên đƣợc

phát hiện tại những vị trí biệt lập sẽ tốn kém hơn trong khai thác và sẽ tạo ra ít tô

kinh tế hơn. Tô kinh tế cũng sẽ thay đổi theo dự trữ tài nguyên. Đối với bất kỳ một

tài nguyên đã cho nào, chúng ta có thể nghĩ là sẽ có một dãy các dự trữ từ tô kinh tế

thấp tới tô kinh tế cao sắp xếp từ âm tới dƣơng. Chỉ có các dự trữ tài nguyên với tô

kinh tế không âm mới nên khai thác. Những dự trữ tài nguyên có tô kinh tế bằng

không sẽ đƣợc coi là các dự trữ tài nguyên cận biên. Những dự trữ với tô kinh tế

dƣơng sẽ đƣợc gọi là dƣới cận biên. Vị trí của các dự trữ tài nguyên cận biên dọc

theo dãy này cũng sẽ phụ thuộc vào sắp đặt thể chế. Ví dụ, nếu hệ thống thuế tác

động vào tài nguyên cận biên, nó sẽ làm cho tô kinh tế sau thuế âm và dự trữ tài

nguyên khác sẽ trở thành dự trữ cận biên.

Chúng ta đã lƣu ý một vài điểm rằng đo lƣờng tô kinh tế là một điều khó khăn,

cả về mặt khái niệm lẫn về mặt thực hành. Đó là vì toàn bộ hạch toán là dựa trên cơ

sở tính dồn và theo các thành phần thực, và nhiều chi phí phải đƣợc ƣớc tính lại

không thể quan sát đƣợc và do vậy khó đo lƣờng đƣợc. Khái niệm tô kinh tế nhƣ

đƣợc định nghĩa ở trên là một khái nhiệm tích cực về mặt kinh tế vì nó đo lƣờng

luồng đóng góp mà nguồn tài nguyên làm cho trở thành đầu ra kinh tế thực tại bất

cứ thời điểm nào nhƣ một nhà kinh tế sẽ thấy nó.

20

Tuy nhiên, có một thƣớc đo thay thế, là cái đƣa ra cùng một giá trị hiện tại của tô

kinh tế nhƣng một mẫu thời gian khác. Đó là luồng tiền. Nó bao gồm cách biệt giữa

tất cả hóa đơn tiền từ khối lƣợng sản lƣợng bán đƣợc trừ đi các chi tiêu bằng tiền

cho cả đầu vào hiện tại lẫn đầu vào vốn. Vì chi phí vốn không đƣợc vốn hóa, các

chi phí xảy ra sớm hơn nhiều theo thời gian so với dƣới hệ thống hạch toán tính

dồn. Do vậy, luồng tiền sẽ thấp hơn lúc trƣớc và cao hơn lúc sau so với lợi nhuận

kinh tế. Tuy nhiên, theo các thành phần giá trị hiện tại, luồng tiền là giống hệt nhƣ

lợi nhuận kinh tế. Nó cũng có lợi thế là dễ tính hơn so với lợi nhuận kinh tế vì tất cả

các khoản mục về nguyên tắc là quan sát đƣợc. Không cần thiết đo lƣờng một phần

quan trọng, mà cũng không cần đánh chỉ số gì. Khái niệm luồng tiền sẽ đóng một

vai trò quan trọng trong phân tích về các tùy chọn chính sách thuế và đề tài sẽ đề

cập chi tiết hơn ở phần sau.

Một thuộc tính quan trọng cuối cùng của khái niệm tô kinh tế, đó là “tô kinh tế

tƣơng lai đƣợc vốn hóa vào giá trị của tài nguyên” . Bởi vì, tô kinh tế phản ánh giá

trị hiện tại của lợi nhuận kinh tế mà một nguồn tài nguyên đƣợc dự kiến để tạo ra

vào tƣơng lai, giá trị của dự trữ tài nguyên đang xét phải là giá trị hiện tại của tô

kinh tế tƣơng lai của nó. Cho nên, bất kỳ sự thay đổi thuế nào tác động giá trị của

tô kinh tế vào tƣơng lai sẽ lập tức đƣợc vốn hóa vào giá trị hiện tại của tài nguyên.

Tức là, các chủ sở hữu tài nguyên hiện tại gánh chịu các loại thuế tài nguyên dự

kiến tƣơng lai.

2.2. Nguyên nhân và mục đích của

này, đề tài c

trình bày một số nguyên nhân để đánh thuế tài nguyên nói chung và cho các loại

thuế đặc biệt đôi khi đƣợc sử dụng.

2.2

21

thiết k

.

Việc tối đa các tô kinh tế trƣớc-thuế sẽ dẫn tới cùng một hành vi là tối ƣu một phần

đã cho của tô kinh tế trƣớc thuế.

2.2

Một mong muốn để đánh thuế các ngành công nghiệp tài nguyên nhƣ một phần

của đánh thuế thu nhập vốn trong một nền kinh tế. Trong trƣờng hợp này, thu nhập

vốn có thể bao gồm cả giao hoàn bình thƣ

tính thuế.

2.2

của chính sách ngành công nghiệp nhƣ khuyến khích chế biến tiếp theo nguồn tài

nguyên hoặc duy trì một mức hoạt động tối thiểu nào đó vì các nguyên nhân chiến

lƣợc. Nguyên nhân để khuyến khích hoạt động thƣờng là thông qua tài trợ hơn là

đánh thuế để tăng doanh thu.

2.2.4. Ch

tác trong công ty. Khả năng khấu trừ chi phí kết hợp với đánh thuế doanh thu giống

nhƣ có đƣợc vốn cổ phần mới cho công ty. Điều này c

, hệ thống đánh thuế có thể giúp đỡ các công ty có vấ

. Tính hiệu quả của hệ thống thuế cho

22

những mục đích này phụ thuộc vào công ty có khả năng nhận đƣợc lợi thế thuế đầy

đủ của các chi phí có thể khấu trừ.

2.2.5

các nhân tố ngoại lai trong các quyết định quản lý tài nguyên. Các loại thuế sản xuất

có thể đƣợc s

hệ tƣơng lại.

, trong số tất cả các nguyên nhân đánh thuế tài nguyên, mục đích chính

của đánh thuế tài nguyên là thu hồi một phần tô kinh tế cho khu vực công cộng.

2.3.

Khái niệm lý thuyết về tô kinh tế và việc đo lƣờng tô kinh tế là cơ sở nguyên

thủy của hầu hết các loại thuế tài nguyên. Nhƣng thiết kế và thực hiện các cơ chế

cho việc đánh thuế và một vấn đề khó khăn. Đề tài sẽ xem xét một số cơ chế đánh

thuế đã đƣợc áp dụng trên thế giới.

2.3

Một cơ chế rất hay để chính phủ có thể chia sẻ tô kinh tế là yêu cầu các công ty

đấu thầu để dành quyền khai thác tài nguyên. Trong trƣờng hợp các tài nguyên

không hồi sinh, đấu thầu sẽ đƣợc tiến hành trƣớc giai đoạn khai thác. Đối với các tài

nguyên có thể hồi sinh, đấu thầu sẽ đƣợc tiến hành cho một dự trữ tài nguyên đã

biết. Khi mà hệ thống thầu là cạnh tranh và tất cả các nhà thầu có đƣợc thông tin

nhƣ nhau, giá trị của giá bỏ thầu sẽ bằng với tô kinh tế ròng tƣơng lai dự kiến đƣợc

hiệu chỉnh theo một hệ số rủi ro. Để cho một hệ thống nhƣ vậy hoạt động, các

quyền sở hữu có đƣợc phải là vĩnh cửu. Nếu không, sẽ có một động cơ để ngƣời vận

hành bòn rút tài nguyên một cách không hiệu quả.

Thậm chí với đấu thầu hoạt động tốt, các hậu quả có thể sẽ khác biệt với các hậu

quả của thuế tô kinh tế. Một mặt, đấu thầu sẽ tạo ra 100% giá trị tô kinh tế dự kiến

cho ngƣời bỏ thầu, trong khi tỷ suất thuế có thể nhỏ hơn giá trị đó. Trong đấu thầu,

các hậu quả luồng tiền tệ cũng khác biệt nhiều. Các khoản tô kinh tế ròng phải hoàn

toàn đƣợc thanh toán trƣớc, trong khi đối với thuế, chúng đƣợc thanh toán dàn trải

23

trong tƣơng lai. Nếu có bất kỳ ràng buộc thị trƣờng vốn nào, điều này sẽ đƣợc phản

ánh trong độ lớn của giá thầu. Cũng vậy, các tác động rủi ro có thể cũng là khác

nhau. Trong hệ thống đấu thầu, công ty bị bắt buộc gánh chịu rủi ro kèm theo khai

thác tài nguyên, trong khi với thuế luồng tiền tệ, khu vực công cộng sẽ chia sẻ một

phần rủi ro. Một nguyên nhân quan trọng tại sao khu vực công cộng có thể là tốt

hơn khi xử lý rủi ro là vì một số rủi ro mà ngƣời vận hành phải đối mặt là rủi ro của

các mức thuế cao hơn trong tƣơng lai. Tính không phù hợp về thời gian, là cái làm

phát sinh rủi ro này sẽ là nghiêm trọng hơn trong bất kỳ hệ thống nào. Bởi vậy,

trong khi rủi ro làm cho sử dụng hệ thống đấu thầu trở nên thích hợp hơn, rủi ro

cũng làm giảm mức giá mà những ngƣời bỏ thầu sẽ muốn trả cho thuê mƣớn dài

hạn.

2.3

Một cách khác để khu vực công cộng có thể thu hồi đƣợc một phần tô kinh tế

bằng cách đảm nhiệm một phần vốn cổ đông của công ty. Một biện pháp là chính

phủ đóng góp một phần chi phí và đòi hỏi một phần tƣơng đƣơng của vốn cổ phần.

Điều này về mặt tài chính sẽ tƣơng đƣơng với thuế luồng tiền tệ, mặc dù có thể khó

áp dụng hơn. Khu vực công cộng sẽ phải nhận biết cả các chi phí bằng tiền lẫn

doanh thu trong vận hành thích hợp của công ty. Mặt khác, không giống với thuế

luồng tiền tệ, điều này mang lại cho khu vực công cộng một tiếng nói trong các

trách nhiệm làm quyết định đi kèm với quyền sở hữu vốn cổ phần. Cũng vậy, chính

phủ sẽ có thông tin riêng mà nếu không, chính phủ sẽ không thể có đƣợc. Với cách

đánh thuế luồng tiền tệ, ngƣợc lại, chính phủ chỉ là một đối tác không có tiếng nói.

2.3.3. Thuế đánh theo đầu ra

Tổng số tiền thuê hay các loại thuế dựa trên tổng khối lƣợng hoặc giá trị đầu ra.

Các loại thuế trong việc đánh thuế khu vực ngƣ nghiệp, lâm nghiệp và khoáng sản

là có thể sử dụng chung của loại hình này đối với sở hữu tƣ nhân, một tỷ lệ phần

trăm tiền bản quyền hay chia sẻ tổng giá trị đầu ra là một hình thức chi trả cho

ngƣời chủ sở hữu, đặc biệt là trong trƣờng hợp dầu thô và khí ga thiên nhiên.

24

2.3.4. Thuế dựa trên chi phí giả tưởng

Hình thức đánh thuế này là nỗ lực kết hợp mức độ cao trong thu gom tô kinh tế

với những khích lệ cao nhất cho việc sử dụng và quản lý các nhân tố đƣợc hiệu quả.

Một khi tỷ lệ này đƣợc thiết lập cho mỗi đơn vị sản xuất (thƣờng trong trƣờng hợp

chi phí phải trả theo độ tuổi của cây, chi phí cho mỗi khối lƣợng gỗ đã đƣợc phân

loại chất lƣợng và chi phí), doanh nghiệp giữ 100% các chi phí dự trữ. Các khoản

thanh toán phải phù hợp với sản lƣợng và doanh thu. Vấn đề lớn nhất trong quản lý

hành chính đối với loại thuế này nằm trong định nghĩa và sự ứng dụng trong phân

loại chất lƣợng và chi phí.

2.3.5. Điều tiết giá

Những hình thức này thƣờng đƣợc sử dụng để chuyển tô kinh tế từ những công

ty sản xuất hoặc chính phủ tới ngƣời tiêu dùng. Đối với nền kinh tế mở, các quy

định về giá trong nƣớc cần đƣợc bổ sung thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu hoặc các

khoản trợ cấp. Đối với giá tài nguyên nằm trong khu vực pháp lý cần đƣợc quy định

bởi một cơ quan thuộc chính phủ nhƣ là một ngƣời mua duy nhất.

2.3.6. Kiểm soát định lượng

Ở những nƣớc nƣớc mới sản xuất dầu mỏ nhƣ Na Uy, liên hiệp vƣơng quốc

Anh, chính phủ của quốc gia có một quyết định lớn về tỷ lệ mong muốn và quy mô

phát triển và làm giảm bớt những phát triển phù hợp đƣợc cho phép. Liên hiệp

vƣơng quốc Anh đã chọn một tốc độ phát triển khá nhanh, trong khi Na Uy với dân

số nhỏ hơn nhiều, đã chọn một trình độ sản xuất mà họ dự kiến có thể duy trì nhiều

hơn một thế kỷ.

2.3.7. Giám sát và ứng dụng

Tất cả các hệ thống thuế tùy thuộc vào các vấn đề cƣỡng chế, đặc biệt là những

vấn đề đƣợc quản lý hành chính. Nhiều vấn đề phát sinh nhƣ trốn thuế toàn bộ hoặc

lẩn tránh thuế. Trốn thuế là một hành động bất hợp pháp liên quan tới báo cáo thiếu

một cách có chủ tâm các khoản nợ thuế. Khi công ty không thể đƣợc giám sát một

cách hoàn hảo, sẽ xảy ra việc trốn thuế. Khả năng này có thể đƣợc làm giảm bằng

cách tăng các nguồn lực giành cho kiểm toán và bằng cách gia tăng hình phạt cho

25

những vi phạm. Tất nhiên, nếu tham nhũng quản lý hành chính tồn tại, trốn thuế trở

nên khó kiểm soát hơn.

Tránh thuế đƣợc coi là làm giảm các khoản nợ thuế bằng cách tiến hành những

biện pháp làm lệch doanh thu và chi phí giữa các hoạt động. Không giống với trốn

thuế, báo cáo thấp không có liên quan. Tuy nhiên, các biện pháp báo cáo các khoản

mục xác định nào đó có thể bị tác động. Có nhiều cách để làm điều này. Một cách là

sử dụng định giá chuyển khoản. Định giá chuyển khoản là một hiện tƣợng xảy ra

trƣớc tiên trong các công ty kết hợp theo chiều dọc trong đó bán hàng từ công ty

này sang công ty khác không đƣợc thực hiện ngay. Lợi nhuận đƣợc dịch chuyển từ

các công ty hoặc các hoạt động bị đánh thuế nặng xuống các công ty hoặc các hoạt

động bị đánh thuế nhẹ bằng cách thay đổi giá đƣợc đặt ra trong các giao dịch nội

ngành. Bởi vậy, nếu một công ty tài nguyên cũng đƣợc liên quan tới chế biến xuôi

dòng, nó có thể có khả năng tránh một phần của bất kỳ loại thuế tài nguyên đặc biệt

nào đƣợc đánh vào nó bằng cách sắp đặt để bán đầu ra tài nguyên của nó cho công

ty chế biến ở các mức giá đƣợc làm giảm một cách nhân tạo, nhƣ thế sẽ giúp lấy

đƣợc nhiều lợi nhuận của nó hơn trong công ty ngƣợc dòng. Cũng nhƣ việc dịch

chuyển lợi nhuận thông qua định giá chuyển khoản, các giao dịch tài chính cũng có

thể đƣợc sử dụng. Ví dụ, nếu lãi suất là có thể đƣợc khấu trừ, các công ty có thể sắp

đặt để làm cho việc vay mƣợn của chúng thông qua công ty có tỷ suất thuế cao nhất

bởi vậy làm giàm gánh nặng thuế toàn cục của họ. Cuối cùng, các công ty có thể sắp

đặt lại các chi phí gián tiếp và chi phí quản lý hành chính bằng những thay đổi trong

tiếp thị, các trụ sở chính, nghiên cứu và phát triển…

Một kỹ thuật cuối cùng để tránh thuế là làm lợi nhuận giả mạo nhƣ chi phí. Đây

là một vấn đề đặc biệt với các kiểu luồng tiền của thuế. Các công ty có thể sắp đặt

để làm cho một số lợi nhuận của chúng nhƣ là các thanh toán lƣơng và bằng cách đó

làm cho các luồng tiền của họ nhỏ hơn và làm giảm thuế dựa vào các luồng tiền

mặt. Điều này có thể là một vấn đề trong thiết kế thuế dựa trên luồng tiền.

26

2.3.8

Thuế tô kinh tế này là loại thuế đánh vào các luồng tiền thực của các công ty tài

nguyên. Đối với các công ty tài nguyên không hồi sinh, cơ sở tính thuế sẽ bao gồm

tất cả các doanh thu trên cơ sở tiền mặt trừ đi tất cả chi phí hiện thời và chi phí vốn

bao gồm chi phí chiếm hữu các thuộc tính tài nguyên, chi tiêu khai thác, chi tiêu

phát triển và bất kỳ chi tiêu chế biến nào mà công ty tài nguyên phải gánh chịu. Đối

với các công ty tài nguyên có thể hồi sinh, các chi phí tƣơng tự sẽ đƣợc khấu trừ

bao gồm chi phí quyền sở hữu, chi phí thu hoạch, bất kỳ chi phí hồi sinh nào, nhƣ

tái quy hoạch hoặc mua thêm, cũng nhƣ bất kỳ chi phí chế biến nào mà công ty phải

gánh chịu. Sẽ không có khấu trừ nào cho các loại thuế phải trả khác. Tất nhiên, hạch

toán các luồng tiền tệ cần phải đƣợc thực hiện từ một quan điểm xã hội do vậy bất

kỳ chi phí ngoại lai nào cần phải đƣợc đƣa vào nhƣ là chi phí trên cơ sở tiền tệ, khi

đó cơ sở tính thuế xấp xỉ tô kinh tế thực.

2.4. Kết luận

Trong chƣơng này, đề tài đã tổng hợp, giới thiệu những hiểu biết chung về tài

nguyên cạn kiệt (tài nguyên không hồi sinh, tài nguyên không tái tạo) và tài nguyên

hồi sinh (tài nguyên tái tạo) cũng nhƣ tiếp cận khái niệm tô kinh tế. Việc đo lƣờng

tô kinh tế là khá khó khăn và khó thực hiện, nhƣng cũng có một phƣơng án thay thế

đƣợc đƣa ra là phƣơng pháp luồn tiền và tƣơng đƣơng luồng tiền để đo lƣờng tô

kinh tế. Dựa vào những cơ sở lý thuyết này, rất nhiều cơ chế đánh thuế tài nguyên

đã đƣợc đƣa ra nhƣ đấu thầu, chia sẻ sản lƣợng theo đầu ra và tham gia vốn cổ phần

khu vực công cộng,… nhằm thu hồi một phần tô kinh tế cho khu vực công cộng. Do

đề tài đƣợc thực hiện ở Việt Nam, nơi mà việc lƣu trữ dữ liệu chƣa thành hệ thống

và chƣa thực sự cởi mở trong việc chia sẻ số liệu nên phạm vi của đề tài hƣớng tới

áp dụng một phần phƣơng pháp luồng tiền và đánh thuế luồng tiền tƣơng đƣơng để

thực hành ứng dụng.

27

CHƢƠNG III: ĐÁNH THUẾ TÀI NGUYÊN TẠI VIỆT NAM

3.1. Hệ thống thuế tại Việt Nam và những cải cách

Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng khích lệ

trong tăng trƣởng kinh tế, an ninh quốc gia và trật tự xã hội, giảm đói nghèo, phát

triển thành thị và nông thôn, quy hoạch, đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển

công nghiệp, loại bỏ các nhà máy công nghiệp từ các khu vực đô thị và có mật độ

dân cƣ đông, để tạo thuận lợi hơn nữa cho phát triển kinh tế và, cùng đồng thời, giải

quyết vấn đề bức xúc trong sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Các biện pháp

này đã và đang đƣợc thực hiện rộng rãi trên toàn quốc.

Việt Nam đã trải qua ba giai đoạn quan trọng cải cách thuế và đã từng bƣớc

thành công, góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội. Các mục tiêu chính của

cải cách phụ thuộc các giai đoạn phát triển kinh tế của từng thời kỳ, nhƣng nói

chung, hệ thống thuế vẫn là công cụ quan trọng của Nhà nƣớc trong điều chỉnh kinh

tế vĩ mô, góp phần phát triển sản xuất, khuyến khích đầu tƣ và xuất khẩu, thúc đẩy

những thay đổi trong cơ cấu kinh tế và doanh thu từ thuế trở thành doanh thu chủ

yếu của ngân sách nhà nƣớc.

3.1.1. Giai đoạn đầu tiên của cải cách thuế (1990-1995)

Kết quả của giai đoạn này nhằm tạo ra một hệ thống thuế đồng nhất, trong đó có

9 loại thuế quan trọng áp dụng cho khu vực nhà nƣớc, tƣ nhân thuộc ngành công

nghiệp và thƣơng mại. Khi đó nông nghiệp với hơn 70% GDP cả nƣớc. Thuế doanh

thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu khi đó đóng vai trò quan trọng trong cải cách

sau này

3.1.2. Giai đoạn thứ hai của cải cách thuế (1997-2005)

Giai đoạn này đƣợc bắt đầu thực hiện trong cuối những năm 1990 trong bối cảnh

Việt Nam đã ký kết Hiệp định Thƣơng mại Tự do ASEAN (AFTA) và chuẩn bị để

thƣơng lƣợng để gia nhập vào Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO). Với việc xuất

hiện các thuế mới, trong đó có thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp.

Giai đoạn cải cách này thể hiện nỗ lực rất lớn của chính phủ Việt Nam trong thực

hiện chỉ đạo cải cách, phản ánh nền kinh tế chuyển sang định hƣớng thị trƣờng.

28

Một hệ thống thuế, đƣợc coi là liên quan chặt chẽ với hoạt động của một nền

kinh tế định hƣớng thị trƣờng, đã đƣợc từng bƣớc đƣợc thiết lập và áp dụng thống

nhất cho tất cả các thành phần kinh tế bao gồm các loại thuế:

Thuế xuất nhập khẩu;

Thuế giá trị gia tăng (VAT);

Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB);

Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN);

Thuế sử dụng đất nông nghiệp;

Thuế chuyển nhƣợng sử dụng đất đai;

Thuế thu nhập cá nhân đối với ngƣời có thu nhập cao;

Thuế nhà ở;

Thuế tài nguyên;

Phí và lệ phí;

* Nhìn chung kết quả đạt đƣợc của 2 giai đoạn cải cách

Tổng doanh thu từ thuế, phí và lệ phí đã tăng đáng kể:

+Thuế doanh thu năm 1996-2000 tăng 2,3 lần so với doanh thu thu đƣợc trong

1991-1995;

+Thuế doanh thu năm 2001-2005 tăng 2,0 lần trong so với doanh thu thu trong

1996-2000;

Tuy nhiên, hệ thống thuế trở nên phức tạp hơn (về thuế suất, ƣu đãi về thuế),

không phải là toàn diện, không đồng bộ, không bao gồm tất cả các mục tiêu chịu

thuế và các nguồn thu bằng kinh tế thị trƣờng, không thực sự minh bạch, bất bình

đẳng, do đó không phù hợp với thông lệ quốc tế.

3.1.3. Giai đoạn thứ ba của cải cách thuế (2006-2010)

* Các mục tiêu đặt ra trong giai đoạn này:

Thuế phải đóng một vai trò quan trọng đối với quản lý kinh tế vĩ mô;

Khuyến khích sản xuất trong nƣớc, đầu tƣ và xuất khẩu;

Đảm bảo mức độ hợp lý của thu ngân sách cho Nhà nƣớc ngân sách;

Thuế đi cùng với quá trình kinh tế quốc tế hội nhập;

29

Đảm bảo sự công bằng và vốn chủ sở hữu;

Đóng góp vào quá trình cải cách hành chính thuế;

*Các kết quả đạt đƣợc:

Sửa đổi pháp luật về thuế giá trị gia tăng (2008):

+Mở rộng cơ sở thuế qua việc cắt giảm số lƣợng hàng hóa và dịch vụ đƣợc miễn

thuế giá trị gia tăng;

+Cải cách cơ cấu thuế suất (Mở rộng phạm vi 10%, thu hẹp phạm vi 5%), và

phƣơng pháp tính (Thiết lập các yêu cầu đầu vào đƣợc khấu trừ thuế GTGT nhằm

thực hiện thanh toán thông qua hệ thống ngân hàng);

Sửa đổi thuế TTĐB (2005, 2008);

+Cải cách thuế suất: Giảm thuế đối với bia và rƣợu để mở thị trƣờng do các cam

kết gia nhập WTO, đảm bảo không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu và trong

nƣớc.

+Mở rộng việc áp dụng thuế TTĐB đối với máy bay, du thuyền sử dụng cá

nhân.

Cải cách thuế thu nhập doanh nghiệp (2008): Giảm thuế suất từ 28% đến 25%

và Đơn giản hóa ƣu đãi về thuế: Thu hẹp phạm vi miễn, giảm thuế.

Cải cách thuế thu nhập cá nhân (2007): Giới thiệu Luật thuế thu nhập cá nhân

Giới thiệu Luật thuế tài nguyên (2009): Thay đổi quy định về tỷ giá tính thuế và

thuế để tăng doanh thu và giúp bảo vệ thiên nhiên nguồn tài nguyên.

Giới thiệu Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (2010): Thiết lập thuế

Phƣơng pháp tính theo tỷ lệ phần trăm của giá đất, tăng thuế đối với đất đƣợc

sử dụng để cƣ trú ở khu vực thành thị, giảm thuế nông thôn khu đất ở.

Giới thiệu thuế bảo vệ môi trƣờng (2010): thuế mới mà mục tiêu sản phẩm có

sử dụng là có hại cho môi trƣờng. Cả hai điều này sẽ tạo ra doanh thu và giúp thay

đổi hành vi của ngƣời sản xuất và ngƣời tiêu dùng.

Cải cách quản lý thuế:

+Hiện đại hóa hệ thống quản lý thuế

+Cơ cấu lại tổ chức

30

+Đào tạo cán bộ

+Ứng dụng công nghệ

Áp dụng cơ chế tự đánh giá

Thuế giáo dục.

3.1.4. Bài học về cải cách thuế ở Việt Nam

Việt Nam đã thành công trong cải cách thuế trong thời gian 2006 - 2010. Bổ

sung những thuế mới hoặc có thể giảm thuế theo cam kết WTO. Cải cách thuế cải

cách đã góp phần đáng kể vào quá trình cải cách kinh tế tại Việt Nam. Doanh thu từ

các khoản thuế và lệ phí là một nguồn quan trọng cho Nhà nƣớc ngân sách nhằm

tăng đầu tƣ từ ngân sách Nhà nƣớc; thanh toán nợ nƣớc ngoài; Chi tiêu cho xã hội

(y tế, giáo dục, văn hóa ...)

Cải cách thuế luôn luôn gặp rất nhiều trở ngại trong thực hiện, nhƣng điều cần

rút ra là:

Có rất nhiều mục tiêu ban đầu, nhƣng những mục tiêu chính cần thiết để đƣợc

ƣu tiên trong từng giai đoạn phát triển để xây dựng và thực hiện chiến lƣợc cải cách

thuế.

Chính trị, xã hội ổn định và quyết tâm của Chính phủ yếu tố quan trọng nhất

để đảm bảo sự thành công của cải cách thuế. Cải cách thuế cần thiết để thực hiện

phù hợp với cải cách trong các lĩnh vực khác của nền kinh tế nhƣ pháp luật, tổ chức

quản lý.

Sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế, và các nhà tài trợ cũng rất

quan trọng trong việc xây dựng một hệ thống thuế công bằng trong phổ biến và

triển vọng dài hạn.

3.2. Thuế tài nguyên và một số loại thuế khác ở Việt Nam

3.2.1. Tổng quan doanh thu từ thuế

Doanh thu từ thuế của Việt Nam đạt mức cao nhất là 29% của GDP vào năm

2008 và giảm nhẹ vào năm 2011 (27%) do giảm giá dầu khí. Nếu không tính thuế

đánh vào dầu khí thì doanh thu từ thuế tiếp tục tăng từ 18,4% GDP năm 2008 đến

20,6% GDP trong năm 2010. Các chiến lƣợc cải cách trong thu doanh thu từ thuế cố

31

gắng đạt 23%-24% bất chấp sự suy giảm trong doanh thu dầu mỏ, cũng nhƣ các

giao dịch thƣơng mại và viện trợ nƣớc ngoài. Nhìn vào sơ đồ sau để có cái nhìn rõ

hơn về nội dung này (theo số liệu của FAD).

Hình 3.1: Cân đối ngân sách, từ năm 1998-2017

Việt Nam là một trong những nƣớc đạt tỷ lệ cao nhất trong khu vực về doanh thu

từ thuế trên GDP. Chỉ có Malaysia và Bhutan là cao hơn và doanh thu từ thuế tính

theo đầu ngƣời của Việt Nam là cao nhất. Số liệu thể hiện nhƣ hình sau:

32

Hình 3.2:Tỷ lệ doanh thu từ thuế theo GDP của các nước mới nổi năm 2010

So với các nƣớc mới nổi khác, GDP của Việt Nam dựa nhiều vào thuế Thu nhập

doanh nghiệp (CIT), thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế giao dịch thƣơng mại bao

gồm cả thuế tiêu thụ đặc biệt trong nhập khẩu. Và ít dựa vào thuế thu nhập cá nhân

(PIT), thuế sử dụng đất và thuế TTĐB. Điều này tuy không đƣợc nêu ra, nhƣng có

thể thấy những khu vực có thể phát triển doanh thu từ thuế. Chi tiết thể hiện nhƣ

hình sau:

33

Hình 3.3: So sánh doanh thu từ thuế của Việt Nam và các nước mới nổi

Dựa vào tỷ lệ cách thành phần thuế từ năm 2004 - 2010 (chi tiết xem tại hình

dƣới đây), dự báo trong tƣơng lai, những đóng góp của doanh thu từ thuế có thể

thay đổi do:

+Giảm nguồn thu từ dầu;

+Doanh thu từ những giao dịch thƣơng mại dự kiến cũng giảm do cắt giảm thuế

quan khi tham gia vào WTO;

+Tăng đóng góp của thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt;

+Thuế sử dụng đất tuy là doanh thu thƣờng xuyên nhƣng rất nhỏ;

+Quan trọng nhất là thuế VAT sẽ tăng;

+Thuế Thu nhập cá nhân cũng tăng nhƣng tăng ở mức thấp.

34

Hình 3.4: Những thành phần của Doanh thu từ thuế ở Việt Nam năm 2004-2010

Những thách thức của cải cách thuế của Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2020:

trƣớc hết tạo ra một hệ thống thuế công bằng, hiệu quả toàn diện và phù hợp với

một nền kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa. Sau đó là cố gắng đơn giản và minh

bạch trong việc thu thuế nhằm tăng khả năng cạnh tranh và xuất khẩu, cũng nhƣ

khuyến khích đầu tƣ, đặc biệt là trong khu vực công nghệ cao. Tiếp nữa là nhằm tạo

việc làm và tạo ra tăng trƣởng bền vững.

3.2.2.Thuế giá trị gia tăng (VAT)

Đặc điểm thuế VAT tại Việt Nam hiện nay:

+Hầu hết thuế GTGT hiện nay đƣợc tính toán dựa vào hóa đơn;

+Thuế suất tiêu chuẩn là 10% cộng với khoảng nhỏ hơn 5% phụ thuộc vào danh

sách hàng hóa trong danh sách của (nƣớc sạch, phân bón, thực phẩm tƣơi sống,

đƣờng .......);

35

+Có khoảng 25 mặt hàng hóa và dịch vụ đƣợc miễn thuế;

+Không có ngƣỡng cho phép tiêu chuẩn

+Chỉ hoàn lại dòng tiền trên mức cho phép

+Một phần doanh thu từ thuế đƣợc thu bởi chính quyền địa phƣơng.

Xem các biểu đồ sau để hiểu thêm về đặc điểm của thuế VAT.

Hình 3.5: Sự gia tăng trong doanh thu từ thuế VAT năm 2010 (% GDP)

Hình 3.6: Tiêu chuẩn thu thuế VAT của Việt Nam và quốc tế năm 2010

36

Hình 3.7: Hiệu quả thu thuế VAT giữa Việt Nam và quốc tế năm 2010

Mục tiêu thu thuế VAT từ năm 2011-2015

+Giảm số lƣợng hàng hóa, dịch vụ đƣợc miễn thuế;

+Giảm số lƣợng hàng hóa, dịch vụ chịu thuế suất 5%;

+Nghiên cứu tính khả thi của một hệ thống thuế thống nhất vào năm 2020;

+Chuyển hƣớng theo hóa đơn cho tất cả các đối tƣợng nộp thuế (trừ những đối

tƣợng dƣới ngƣỡng cho phép);

+Giới thiệu ngƣỡng thuế GTGT áp dụng cho phù hợp với thông lệ quốc tế

Kiến nghị

+Kiến nghị cụ thể một cách hợp lý cho danh sách những hàng hóa và dịch vụ

miễn thuế;

+Loại bỏ các hàng hóa chịu thuế suất 5% và phân loại những mặt hàng chịu thuế

thấp hơn, hoặc áp dụng thuế tiêu chuẩn;

+Loại bỏ việc hoàn trả thuế cho khu vực xuất khẩu;

+Tập trung vào việc chi trả thuế (chuyển cho khu vực địa phƣơng quản lý);

37

3.2.3. Thuế tiêu thụ đặc biệt

Các hàng hóa thuộc diện chịu thuế: Thuốc lá, đồ uống có cồn, các sản phẩm dầu,

ô tô, máy bay, du thuyền… và nhiều mặt hàng khác.

Theo báo cáo của tổ chức IMF năm 2009 đặc điểm của thuế TTĐB là

+Việc thu một số loại thuế này không đạt hiệu quả;

+Tỷ lệ thuế đánh vào xăng dầu thấp (10%);

+Tỷ lệ buôn lậu cao;

Giải pháp

+Xem xét tiêu chí hiệu quả của thuế tiêu thụ đặc biệt trên những mặt hàng tiêu

dùng, loại bỏ những đối tƣợng thu đƣợc ít thuế và tốn chi phí bỏ ra cho việc thu

thuế;

+Xem xét khả năng tăng thuế xăng dầu;

+Xem xét lại tính hợp lý của thuế suất (ví dụ về thuế trong xổ số và cờ bạc);

+Phối hợp ngăng chặn tình trạng buôn lậu

3.2.4. Thuế thu nhập doanh nghiệp

Đặc điểm:

+ Thuế suất TNDN cạnh tranh theo quốc tế là 25%;

+Phạm vi của thuế TNDN: một số tỷ lệ hóa trong những năm gần đây, nhƣng

vẫn tiếp tục mở rộng và phức tạp hóa không cần thiết;

+Thuế TNDN và các khoản giảm trừ doanh thu: ngày càng mở rộng với thông lệ

quốc tế nhƣng một số phạm vi lại loại bỏ giới hạn khấu trừ và đơn giản hóa một số

khoản trợ cấp;

Xu hƣớng thuế TNDN quốc tế: Tỷ lệ thu có giảm nhƣng doanh thu từ thuế có xu

hƣớng tăng lên ở những nƣớc phát triển. Xem biểu đồ sau để hiểu rõ hơn nội dung

này (tham khảo số liệu của FAD):

38

Hình 3.8 : Xu hướng thuế TNDN ở những nước có thu nhập thấp

Hình 3.9: Xu hướng thuế TNDN ở những nước có thu nhập cao

39

Điều này có thể phản ánh việc mở rộng căn cứ tính thuế bao gồm cả việc giảm

ƣu đãi thuế TNDN.

Những thách thức

+Về ƣu đãi thuế

o Doanh thu bị ảnh hƣởng xấu, bao gồm cả nguyên nhân do lợi nhuận;

o Chỉ thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài nếu chính phủ quản trị tốt;

o Ảnh hƣởng xấu đến quản trị, đặc biệt là nếu ƣu đãi tùy tiện;

+Lợi nhuận thay đổi: Có nhiều lý do đƣợc trong đợi để kiểm soát thay đổi này;

+Đối với những khu vực liên danh hoặc mở rộng hợp tác bao gồm cả về chính

trị, có thể trở nên mạnh hơn;

Giải pháp đề xuất

+Mở rộng hợp lý hóa trong ƣu đãi thuế (ví dụ: cho phép giảm tỷ lệ thuế TNDN

trong trung và dài hạn, Thuế suất trong khu vực Châu Á trong năm 2011 là

22,78%);

+Khấu trừ thuế TNDN phù hợp với thông lệ quốc tế

o Loại bỏ giới hạn khấu trừ, nhƣng có thể giới hạn cho những doanh nghiệp

giải trí và tài trợ cho các sự kiện thể thao, nghệ thuật;

o Đơn giản hóa cho các khoản khấu trừ sử dụng chung cho 3 hoặc 4 loại vốn

khấu hao;

+Đảm bảo thực hiện hiệu quả các qui tắc kế hoạch thuế cần thiết

3.2.5. Thuế thu nhập cá nhân (PIT)

Những thách thức

+Ƣu điểm là loại thuế này đã có tiến trình thực hiện, nhƣng tỷ lệ chiếm rất thấp

(0,8% GDP) do

o Trợ cấp thuế mức ban đầu vẫn cao;

o Trợ cấp cho loại thuế này cũng cao;

o Thu nhập do lợi nhuận cá nhân thu đƣợc đều miễn thuế;

o Do tỷ lệ thu thuế Thu nhập doanh nghiệp thấp hơn nên hạch toán vào chi

phí này bị ẩn đi;

40

o Thuế lƣơng hƣu

+Cấu trúc của loại thuế này cũng phức tạp

o Lợi tức từ chứng khoán: 20% lợi tức danh nghĩa hoặc 0,1% trên giá bán;

o Lợi tức từ bất động sản: 25% lợi tức danh nghĩa hoặc 2% trên giá bán;

o Thu nhập/lãi cổ tức: 5%;

o Thu nhập bất thƣờng khác nhƣ thừa kế, trúng thƣởng :10%

Giải pháp đề xuất của IMF

+Giảm mức trợ cấp đánh thuế cho mức ban đầu và giảm sự phụ thuộc của loại

thuế này vào trợ cấp;

+Chú ý đến thuế lƣơng hƣu;

+Giảm thuế thu nhập cá nhân trên biên so với tỷ lệ thuế TNDN;

+Thống nhất tỷ lệ thuế lợi tức, xem xét đến một hệ thống thuế kép;

+Mở rộng cơ sở tính thuế lợi tức;

3.3. Thuế tài nguyên ở Việt Nam

Tại Việt Nam, Theo tinh thần của Nghị Quyết Đại hội 6 (1986), những cải cách

về chính sách, cũng nhƣ nhận thức xã hội liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và

giá trị môi trƣờng đã thay đổi hoàn toàn. Bên cạnh giá trị kinh tế, liên quan đến

quyền tài sản, tài nguyên thiên nhiên cũng là mục tiêu tập trung của Nhà nƣớc. Vì

vậy, trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật

về bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, chẳng hạn nhƣ Luật về bảo vệ

và phát triển rừng (1991), luật về đất đai (1993, sửa đổi năm 2003), luật về khoáng

sản, luật về dầu và khí (1993, sửa đổi năm 2000), pháp lệnh về tài nguyên nƣớc

(1998), Pháp lệnh về bảo vệ và phát triển thuỷ sản (1989), ... Về tài nguyên môi

trƣờng, văn bản quy phạm pháp luật cũng tồn tại trong các lĩnh vực khác, chẳng hạn

nhƣ luật dân sự, luật hình sự, pháp luật về doanh nghiệp, một số thuế luật, pháp lệnh

về phí và lệ phí.

Pháp lệnh thuế tài nguyên đƣợc ban hành vào năm 1990 và sửa đổi năm 1998

của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội. Đến năm 2009, Luật thuế Tài nguyên đã đƣợc

Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 6 thông

41

qua tháng 10 năm 2009 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010. Bãi bỏ Pháp

lệnh số 05/1998/PL-UBTVQH10 ngày 16/4/1998 của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội

về thuế tài nguyên (sửa đổi) và Pháp lệnh số 07/2008/PL-UBTVQH12 ngày

22/11/2008 của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp lệnh thuế

tài nguyên.

Những qui định về thuế tài nguyên này áp đặt thuế sử dụng hoặc khai thác tài

nguyên thiên nhiên, nhƣ khoáng sản, dầu và khí, rừng tự nhiên tài nguyên, hải sản

tự nhiên, nƣớc thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên khác.

Thuế suất là nhà nƣớc quy định cho từng loại tài nguyên thiên nhiên, dựa trên

những điều sau đây quy tắc: tài nguyên thiên nhiên không tái tạo đƣợc hoặc có giá

trị sẽ bị đánh thuế cao hơn tái tạo những ngƣời thân. Ví dụ, mức thuế suất 40%

đƣợc áp dụng đối với tài nguyên rừng tự nhiên; thuế tỷ lệ 1% đƣợc áp dụng với đất

đƣợc sử dụng làm nguyên liệu. Bảng thuế tài nguyên thiên nhiên tỷ lệ là tại Phụ lục

1.

Căn cứ tính thuế là sản lƣợng tài nguyên thực tế khai thác, giá tính thuế và thuế

suất. Riêng đối với dầu thô, khí thiên nhiên và khí than, căn cứ tính thuế tài nguyên

đƣợc xác định trên cơ sở lũy tiến từng phần của tổng sản lƣợng dầu, khí thực khai

thác trong mỗi kỳ nộp thuế tính theo sản lƣợng dầu, khí bình quân mỗi ngày khai

thác đƣợc của toàn bộ diện tích hợp đồng dầu, khí và số ngày khai thác trong kỳ

tính thuế; thuế suất và giá tính thuế tài nguyên.

3.3.1. Thuế tài nguyên Việt Nam và quốc tế

Đặc điểm hiện tại của thuế tài nguyên thiên nhiên

+Thuế TNDN chiếm 50%, trong đó thuế thu đƣợc từ những dự án là 32%-40%;

+Thuế tài nguyên: Dầu khí chiếm 7-29%, Kim loại chiếm 10-15%, Phí khai thác

mỏ chiếm 2,5-3%, Thu xuất khẩu: quặng sắt chiếm 40%, vàng 10%, dầu 10% ;

+Xuất khẩu khí ga bị cấm;

+Không hoàn trả lại tiền thuế GTGT cho những mặt hàng thô chƣa qua chế biến;

Xem những so sánh thuế về thuế dầu mỏ, vàng, đồng của Việt Nam với quốc tế

để thấy rõ hơn điều này:

42

Hình 3.10: So sánh tài nguyên dầu của Việt Nam và quốc tế

Hình 3.11: So sánh tài nguyên vàng của Việt Nam và quốc tế

43

Hình 3.12: So sánh tài nguyên đồng của Việt Nam và quốc tế

Ghi chú: AETR là thuế suất trung bình hiệu quả, là tỷ lệ của giá trị hiện tại ròng

(NPV) của dòng tiền dự án trƣớc thuế.

Các vấn đề cần giải quyết

+Việc kết hợp tỷ lệ tiền thuê mỏ cao, thuế TNDN cao, tỷ lệ thuế xuất nhập khẩu

cao có thể khiến đầu tƣ vào Việt Nam trong lĩnh vực năng lƣợng và các lĩnh vực

khai thác mỏ kém hấp dẫn hơn so với nƣớc khác.

+Thuế xuất khẩu là một phƣơng thức không hiệu quả trong tinh chế dầu thô

trong nƣớc;

+Cần tăng cƣờng minh bạch tài chính;

Một số kiến nghị

+Cẩn thận xem xét tổng thế thuế năng lƣợng và thuế vào khoáng sản để đảm bảo

cạnh tranh quốc tế: Xem xét thay đổi cán cân giữa thuế sản xuất, thuế tiền thuê mỏ,

đặc biệt đối với những dự án sắp hoàn thành.

44

+Phân loại tách biệt thuế GTGT và thuế xuất khẩu cho các đối tƣợng xuất khẩu;

+Thực hiện các chuẩn mực kế toán EITI để đảm bảo tính minh bạch;

Để hiểu rõ hơn về sự đa dạng của thuế tài nguyên, đề tài đƣa ra thêm một số khía

cạnh khác thuế tài nguyên.

3.3.2. Thuế Sử dụng đất

Việt Nam áp đặt thuế sử dụng đất thông qua Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp

Đất đai và Pháp lệnh về thuế nhà ở. Điều này có nghĩa là các tổ chức, cá nhân sau

khi nhận đƣợc đất của Nhà nƣớc cho hoạt động sản xuất nông nghiệp (trồng trọt,

chăn nuôi, thủy sản) chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp. Mặt khác, những ngƣời sử

dụng nhà ở của các dự án xây dựng công trình hay những nhà ở riêng lẻ đều phải

chịu thuế nhà đất. Nội dung và kết quả thực hiện thuế đánh thuế sử dụng đất đƣợc

đề cập trong các tài liệu liên quan thuế sử dụng đất và tài sản.

Đất đai là một trong các thành phần của tài nguyên, do đó thuế sử dụng đất hiện

tại không phải phân loại bởi vì đất đai đƣợc dễ dàng đo lƣờng và xác định mức đánh

thuế. Xem xét quan điểm chính sách thuế sử dụng đất, thứ nhất là nhằm mục đích

khuyến khích sử dụng đất đạt hiệu quả kinh tế, và đồng thời, đảm bảo công bằng

trong đóng góp của các tổ chức, cá nhân sử dụng đất vào ngân sách Nhà nƣớc. Thứ

hai là mức thuế đƣợc áp dụng dựa trên lợi nhuận của việc sử dụng đất (ví dụ trồng

lúa trong sử dụng đất nông nghiệp) và tiện lợi trong sử dụng đất, chẳng hạn nhƣ các

trang web đất đai và cơ sở hạ tầng (đối với cùng một loại đất, mức độ thuế đất sử

dụng để kinh doanh nhà ở có thể cao hơn rất nhiều so với mức thuế sử dụng đất

nông nghiệp). Thứ ba là những quy định về miễn, giảm thuế sử dụng đất đƣợc áp

dụng trong trƣờng hợp thiên tai, khó khăn ảnh hƣởng đến đời sống, và chính sách

đảm bảo những mục tiêu xã hội. Gần đây, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về

miễn, giảm thuế sử dụng đất đối với diện tích đất nông nghiệp của ngƣời nông dân,

cũng miễn thuế sử dụng đất cho các dân tộc thiểu số ở các xã khó khăn trên vùng

cao. Với những tiếp cận này ta thầy, rõ ràng là thuế sử dụng đất ở Việt Nam gần

giống với thuế thu nhập hoặc thuế tài sản hơn thuế tài nguyên thiên nhiên và môi

trƣờng.

45

Đất đai liên quan đến chính sách này đƣợc ban hành nhằm khuyến khích giảm

trong môi trƣờng ô nhiễm tại các khu vực đô thị, khu dân cƣ. Trong đó, tiền thu

đƣợc từ chuyển quyền sử dụng đất liên quan đến việc bán tài sản nằm trong đất của

nhà nƣớc doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc đƣa ra trong tổng thể cho các doanh nghiệp

nếu các hoạt động liên quan đến di chuyển các đơn vị sản xuất từ các khu vực đô thị

hoặc khu dân cƣ theo kế hoạch đã đƣợc phê duyệt, thay vì đƣợc vào ngân sách nhà

nƣớc.

3.3.3. Thuế và lệ phí từ dầu mỏ

Thuế và lệ phí từ dầu mỏ và các loại dầu máy phát điện doanh thu tƣơng đối lớn,

để phát triển, cũng nhƣ các nƣớc phát triển. Tuy nhiên, dựa trên những đánh giá của

Các chuyên gia IMF (6/2004), các khoản thu này vẫn còn khiêm tốn ở Việt Nam,

và, đây là đƣợc coi là một hiện tƣợng bất thƣờng. Hiện nay, thuế và phí từ dầu mỏ

và Các loại dầu này ở Việt Nam bao gồm Biểu thuế nhập khẩu (20%), thuế tiêu thụ

đặc biệt (10%), thuế GTGT (10%), và xăng dầu và phí dầu 1 (Dầu khí: 500 đồng /

lít, dầu diesel: 300 đồng / lít, những ngƣời khác: không áp dụng). Tổng số thuế và lệ

phí từ các nguồn trên vào ngân sách giai đoạn, trong đó doanh thu từ dầu mỏ và các

loại dầu đƣợc sử dụng nhƣ một trong những yếu tố cho phân bổ vốn ngân sách chi

tiêu vào cơ sở hạ tầng giao thông vận tải.

Nhƣ đã đề cập trong phần trên, các khoản thuế và lệ phí về dầu mỏ và các loại

dầu này ở Việt Nam đƣợc coi là thuế môi trƣờng gián tiếp (IETs) bởi vì họ đƣợc

bao gồm vào giá bán xăng dầu và khí. Vì vậy, tác động đối với môi trƣờng không rõ

ràng, mặc dù họ có tác dụng về mối quan hệ cung-cầu và giảm tiêu thụ tại thời điểm

tăng giá. Vấn đề môi trƣờng ô nhiễm gây ra bởi việc sử dụng dầu mỏ và các loại

dầu (tùy thuộc vào các yếu tố nhƣ: tổng số tiêu thụ số lƣợng, chất lƣợng phƣơng

tiện giao thông vận tải, nhiên liệu bằng cách sử dụng thành thạo, cơ sở hạ tầng ...)

đã không đƣợc điều chỉnh thông qua xăng dầu và dầu thuế và lệ phí.

Đây là một trong những vấn đề cần quan tâm hơn nữa khi thiết kế chính sách

thuế tƣơng lai.

46

3.3.4. Phí và lệ phí trong lĩnh vực Môi trường

Các tài liệu pháp lý cơ bản để ban hành và thực hiện các quy định về phí và lệ

phí liên quan đến môi trƣờng và bảo vệ môi trƣờng là pháp luật bảo vệ môi trƣờng

(2003). Luật này quy định rằng các tổ chức và cá nhân sử dụng các yếu tố môi

trƣờng, nếu tham gia vào các hoạt động gây ô nhiễm môi trƣờng hoặc sự cố, phải

chịu trách nhiệm đóng góp tiền để giải quyết tình trạng ô nhiễm và cải thiện môi

trƣờng.

Căn cứ vào Điều 34, Nghị định 175/CP ngày 18/11/1994, quy định chi tiết và

hƣớng dẫn việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trƣờng, tất cả các tổ chức và cá nhân

có trách nhiệm đóng góp tiền để hoạt động bảo vệ môi trƣờng khi tham gia vào các

hoạt động sau đây: (i) Thăm dò dầu, khí đốt và các nguồn tài nguyên thiên nhiên

khác, (ii) Sân bay, bến cảng, xe ô tô, và đƣờng sắt trạm; (iii) Xe máy và phƣơng tiện

vận tải khác; và (iv), Tham gia vào các hoạt động kinh doanh gây ô nhiễm. Tài

chính đóng góp của tổ chức, cá nhân đƣợc thực hiện theo hình thức lệ phí, phí, tiền

nộp phạt do hành vi vi phạm hành chính, phụ thuộc vào bản chất của hành vi của họ

liên quan đến việc môi trƣờng.

Điểm ban đầu của xăng dầu và phí dầu là chi phí vận chuyển. Trƣớc đây, Việt

Nam đã áp đặt phí đƣờng cho mỗi phƣơng tiện vận chuyển, mức phí phụ thuộc vào

các loại hình giao thông vận tải, công suất, tải trọng, và hàng năm, điều này đã đƣợc

thay đổi một hệ thống tiền tính lệ phí dựa trên dầu mỏ và giá dầu. Tuy nhiên, sau

nhiều dự án xây dựng, rà soát, cầu nâng cấp và tuyến đƣờng bằng cách sử dụng vốn

vay đƣợc thực hiện, lệ phí đã đƣợc tính để đảm bảo đủ tiền để hoàn trả vốn vay và

tài trợ cho các chi phí vận hành và bảo dƣỡng (O & M) cho các dự án. Chính phủ

cho phép đầu tƣ dự án thu phí trên các phƣơng tiện giao thông vận tải trong mỗi lần

sử dụng. Vào thời điểm đó, áp đặt lệ phí giao thông vận tải thông qua xăng dầu và

giá dầu đƣợc cho là không hợp lý, nhƣ nó đã đƣợc gấp đôi áp đặt và bất bình đẳng,

bởi vì những nhiên liệu không chỉ đƣợc sử dụng trong giao thông vận tải mà còn

cho các mục đích khác, chẳng hạn nhƣ máy phát điện, và động cơ máy bơm để tƣới

tiêu. Vì vậy, trong năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị định 78/2000 quy định

47

xăng dầu và phí dầu, và bãi bỏ lệ phí giao thông vận tải trên cơ sở dầu mỏ và giá

dầu. Nhiều ngƣời tin rằng dầu mỏ và dầu phí nên đi theo một loại thuế môi trƣờng

đối với các hoạt động gây ô nhiễm môi trƣờng bằng cách sử dụng dầu mỏ và dầu,

nhƣng phải đƣợc gián tiếp thu thập thông qua xăng dầu và giá dầu.

Theo chƣơng trình sửa đổi hệ thống pháp luật, Quốc hội sẽ phê chuẩn Luật sửa

đổi, bổ sung Luật Môi trƣờng. Theo đó, xuất hiện những công cụ kinh tế để hạn chế

ô nhiễm và bảo vệ môi trƣờng là đầu tƣ cho việc cải thiện môi trƣờng sẽ đƣợc tập

trung hơn.

Pháp lệnh phí và lệ phí, do Quốc hội ban hành Ủy ban Thƣờng vụ vào ngày 28

tháng tám năm 2001, quy định trách nhiệm bồi phí và lệ phí môi trƣờng bao gồm:

(a) Phí và lệ phí cấp giấy phép, giấy chứng nhận để đáp ứng đủ điều kiện tiêu chuẩn

môi trƣờng cho các doanh nghiệp liên quan đến điều kiện môi trƣờng, lệ phí lập báo

cáo đánh giá môi trƣờng hiệu ứng; và (b) phí bảo vệ môi trƣờng đối với từng lĩnh

vực của các doanh nghiệp, trong đó mục theo thể loại (a) rõ ràng doanh thu bao

gồm các chi phí của công chúng dịch vụ cung cấp các mục tiêu cần thiết để đánh

giá. Thu theo nhóm (b) quy định chi tiết Nghị định 57/2002/NĐ-CP ngày ngày 03

tháng 6 năm 2002, hƣớng dẫn thi hành Pháp lệnh. Sau đó, có thu phí, lệ phí bảo vệ

môi trƣờng sau đây

- Phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải;

- Phí bảo vệ môi trƣờng dầu khí, dầu, khí thải từ việc sử dụng than và khác nhiên

liệu;

- Phí bảo vệ môi trƣờng đối với chất thải rắn;

- Phí bảo vệ môi trƣờng về ô nhiễm tiếng ồn;

- Phí bảo vệ môi trƣờng cho các sân bay, bến, cảng;

- Phí bảo vệ môi trƣờng để khám phá cho dầu, khí đốt và khoáng sản khác.

Tuy nhiên, cho đến nay, chính phủ đã chỉ thành lập quy định về đánh thuế hai

mục thu phí bảo vệ môi trƣờng đối với dầu mỏ và các loại dầu (dầu mỏ và các loại

dầu ' lệ phí) và một khoản phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải tƣơng ứng.

48

Số còn lại lệ phí vẫn đang đƣợc nghiên cứu và các điều kiện cần thiết đang đƣợc

chuẩn bị để ban hành và thực hiện, theo các chƣơng trình liên quan đến xây dựng

các văn bản pháp lý nhà nƣớc. Nhƣ đã trình bày trong phần trên, doanh thu từ môi

trƣờng Phí bảo vệ cho dầu mỏ và các loại dầu có thể đƣợc coi là IETs thuế, mặc dù

nó không phải là chỉ đƣợc sử dụng cho các mục đích môi trƣờng. Với một số tiền

doanh thu trung bình trong giai đoạn 2000-2003 của 2.750 tỷ đồng, phí xăng dầu và

các loại dầu tạo ra một đáng kể tỷ lệ tổng nguồn thu từ thuế và phí (khoảng 2,5%).

Đối với phí môi trƣờng đối với nƣớc thải, các tỉnh có hiện nay đƣợc quy định chi

tiết mức sống nƣớc thải và thực hiện các đánh giá của báo cáo và kết quả tính toán

vào nồng độ và số lƣợng chất thải từ các doanh nghiệp để xác định số tiền hàng

tháng phải nộp lệ phí. Mặc dù vẫn không có kết quả chi tiết liên quan đến doanh thu

này, một số nhận xét có thể đƣợc thực hiện về lệ phí này nhƣ sau:

- Đầu tiên, mục tiêu phải chịu phí và yếu tố đƣợc sử dụng để xác định số tiền lệ

phí là những chất độc quy định / chất độc trong nƣớc thải (hiện nay, chỉ có 7 loại

chính chất độc / độc, nhƣ đã nêu trong Phụ lục 3). Điều này cho thấy rằng lệ phí

môi trƣờng nƣớc thải ở Việt Nam là tƣơng tự nhƣ một loại thuế Pigouvian; ý nghĩa

sẽ có nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện, mặc dù mức thu lệ phí đƣợc xác

định trong giai đoạn này vẫn còn khá thấp.

- Mức lệ phí đƣợc tách biệt giữa sinh hoạt và nƣớc thải công nghiệp, do xem xét

các chi phí phát sinh do tổ chức thu thập và tính khả thi của quá trình thực hiện, bởi

vì nó là không thể đo lƣờng và xác định chất độc / độc trong nƣớc thải sinh hoạt của

từng hộ gia đình. Do đó, vốn chủ sở hữu không cần phải

Lệ phí xăng dầu và các loại dầu đƣợc quy định tại Nghị định số 78/2000/NĐ-CP,

ngày 26/12/2000, trong khi phí môi trƣờng đối với nƣớc thải đƣợc quy định tại Nghị

định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13 tháng sáu năm 2003, và có hiệu lực từ năm 2004.

Trong 4 th quý năm 2005, chính phủ có kế hoạch để giới thiệu các Nghị định về phí

bảo vệ môi trƣờng đối với khai thác khoáng sản nhất thiết phải đƣợc xem xét, ít

nhất là trong vài năm đầu tiên của thực hiện, với mục đích chính để tạo ra một tuỳ

chỉnh lệ phí thanh toán cho các doanh nghiệp và con ngƣời.

49

- Tiền thu đƣợc, sau khi trừ chi phí tổ chức thu lệ phí, sẽ đƣợc thu thập trong quỹ

bảo vệ môi trƣờng (ở cả trung ƣơng và địa phƣơng các cấp, 50% cho mỗi bên) đƣợc

sử dụng riêng cho các hoạt động bảo vệ môi trƣờng: xử lý và khắc phục ô nhiễm,

cải thiện môi trƣờng, đầu tƣ dự án bảo vệ môi trƣờng bằng cách cải thiện hệ thống

thoát nƣớc, nƣớc thải hệ thống xử lý, ... Đối với lệ phí bảo vệ môi trƣờng khác, quy

tắc này cũng đƣợc áp dụng.

Có thể nói rằng việc xây dựng các quy định về thu thập môi trƣờng phí bảo vệ

đại diện cho một giai đoạn chuyển tiếp để thực hiện một nền tảng cho việc áp dụng

thuế môi trƣờng trong tƣơng lai, bởi vì họ có hiệu ứng khác nhau về doanh nghiệp

sản xuất và các doanh nghiệp, trong đó đƣợc sử dụng để hoạt động trong cơ chế kế

hoạch hóa tập trung không quen với việc thanh toán chi phí môi trƣờng. Hiện nay,

nó sẽ đƣợc khuyến khích kiểm tra theo hình thức từng lệ phí bảo vệ môi trƣờng để

đảm bảo nó là quen thuộc cho các doanh nghiệp, và cũng có thể, theo cách đó, cơ

quan quản lý cũng có thể có tốt kinh nghiệm trong quá trình thực hiện để thiết kế

các thuế môi trƣờng trong tƣơng lai.

3.3.5. Các Thuế môi trường khác

Ngoài các loại thuế môi trƣờng ở trên và lệ phí, chính phủ Việt Nam đã ghép các

mục đích môi trƣờng vào các loại thuế khác trong hệ thống, thời gian ngắn nhƣ sau:

- Thuế nhập khẩu: mặc dù không đƣợc quy định trong pháp luật về xuất khẩu,

thuế nhập khẩu, hàng hoá gánh nặng môi trƣờng cũng đƣợc xem xét trong bảng

thuế nhập khẩu. Bên cạnh đó, những biện pháp hành chính hoặc các biện pháp hạn

chế thƣơng mại khác cũng đƣợc đặt ra để thực hiện các mục đích ngăn ngừa ô

nhiễm và bảo vệ môi trƣờng, ví dụ: cấm nhập khẩu máy móc thiết bị đƣợc sử dụng

nhất định, hạn chế về tiêu chuẩn kỹ thuật và quy tắc xuất xứ đối với hàng hoá nhập

khẩu.

Thuế thu nhập doanh nghiệp: Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp tập

trung vào các mục đích, môi trƣờng đƣợc quy định theo pháp luật về thuế thu nhập

doanh nghiệp trong hai khía cạnh. Thứ nhất, các doanh nghiệp đƣợc phép khấu trừ

tất cả chi phí liên quan đến đầu tƣ thực hiện để ngăn chặn và khắc phục tình trạng ô

50

nhiễm môi trƣờng, máy móc thiết bị đƣợc sử dụng trong quá trình chế biến nƣớc

thải đƣợc phân loại thành các nhóm cố định tài sản đƣợc đƣợc phân loại nhƣ có cơ

chế trích khấu hao nhanh. Thứ hai, ƣu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đƣợc đề

xuất để khuyến khích các doanh nghiệp tăng cƣờng đầu tƣ nâng cấp máy móc thiết

bị để giảm ô nhiễm môi trƣờng và khuyến khích các doanh nghiệp để di chuyển đến

các khu công nghiệp từ các khu vực sống.

3.4. Kết luận

Việc áp dụng Luật Thuế tài nguyên tại Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Đối

tƣợng nộp thuế chƣa đầy đủ, chƣa đƣa các loại tài nguyên nhƣ không khí, vùng

biển, vùng trời, kho số, tần số, các nguồn năng lƣợng (gió, ánh sáng mặt trời)… vào

đối tƣợng chịu thuế tài nguyên. Cách thu thuế Tài nguyên của Việt Nam chủ yếu

dựa vào thu thuế theo “Sản lƣợng tài nguyên thực tế khai thác”, nhƣng, quy định

tính thuế theo “sản phẩm sản xuất trong kỳ” và “định mức sử dụng tài nguyên trên

một đơn vị sản phẩm” đối với loại tài nguyên chƣa bán ngay mà còn phải qua gia

công để tiếp tục sản xuất ra sản phẩm là không khả thi vì tài nguyên đó sản xuất ra

rất nhiều sản phẩm, theo nhiều công đoạn sản xuất không đƣợc chỉ rõ để tính theo

sản phẩm nào.

Những nghiên cứu tại chƣơng này đã lần lƣợt đƣa ra những hiểu biết trong đánh

thuế tài nguyên ở Việt Nam và quốc tế, đồng thời lồng ghép những giải pháp thích

hợp trong từng trƣờng hợp cụ thể để giúp cho những nhà quản lý có thêm những

phƣơng hƣớng mới trong quản lý tài nguyên. Thuế tài nguyên cần đƣợc nghiên cứu

nhiều hơn nữa nhằm: (i) để đảm bảo thu ngân sách, góp phần bảo vệ, khai thác và

sử dụng tài nguyên thiên nhiên kinh tế, hợp lý, và hiệu quả, và, (iii) để góp phần

giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ môi trƣờng.

51

CHƢƠNG IV: SỬ DỤNG THUẾ TÀI NGUYÊN ĐỂ QUẢN LÝ HỆ

THỐNG NÚI CỐC ĐẠT HIỆU QUẢ CAO

4.1. Tổng quan việc sử dụng tài nguyên nƣớc ở hồ Núi Cốc

Hệ thống công trình thủy nông Núi Cốc là một trong những công trình trọng

điểm của tỉnh Thái Nguyên. Nó có nhiệm vụ cung cấp nƣớc cho nông nghiệp (theo thiết kế cung cấp nƣớc tƣới cho 12.000 ha lúa 2 vụ), công nghiệp (7,2 m3/s), nuôi

trồng thủy sản, sinh hoạt (cung cấp nƣớc sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên là 0,1 m3/s), phòng lũ cho hạ du sông cầu, tạo môi trƣờng sinh thái, khí hậu trong lành

để phát triển ngành du lịch (hàng ngày có từ 6.000 đến 6.500 khách đến du lịch,

thăm quan, nghỉ mát tại khu vực hồ) và phục vụ cho các ngành khác.

Từ khi đƣa công trình vào quản lý vận hành khai thác cho thấy việc đánh giá

hiệu quả của công trình từ những giai đoạn ban đầu nhƣ thiết kế rồi tiếp đến là khai

thác trên thực tế cho thấy xây dựng hồ chứa đã mang lại nhiều lợi ích cho sự phát

triển kinh tế trong toàn vùng dự án đảm bảo nhiệm vụ cung cấp nƣớc và các nhiệm

vụ khác. Trên thực tế công trình hồ Núi Cốc hoạt động vƣợt chỉ tiêu và đạt hiệu quả

cao. Với nhiệm vụ quan trọng là tƣới, công trình đã đảm bảo cung cấp nƣớc tƣới

cho khoảng 12.000 ha diện tích đất nông nghiệp, 4.500 ha hoa màu, 2.000 ha chè.

Mặt khác, công trình còn tăng thêm 2.500 ha mặt nƣớc nuôi trồng thủy sản kết hợp phát triển du lịch, tiếp nƣớc cho hệ thống sông cầu là 50 triệu m3/năm, cấp nƣớc cho sinh hoạt và công nghiệp là 13,14 triệu m3/năm, cấp nƣớc tạo nguồn cho Bắc Giang 10 triệu m3/năm, cấp nƣớc sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên và thị xã Sông Công là 28.000 m3/ngày đêm (Tất cả những số liệu đều được lấy từ nguồn số liệu

Công ty TNHH một thành viên khai thác Thủy lợi Thái Nguyên). Ngoài ra còn

những lợi ích nhận từ thủy điện, thu nhập từ phòng lũ, thu nhập từ nuôi trồng thủy

sản và phát triển thăm quan du lịch không kể đến một số thu nhập phụ khác.

Xây dựng hồ chứa với mục đích chính là khai thác tài nguyên nƣớc theo yêu cầu

sử dụng của con ngƣời. Về khía cạnh năng lực thiết kế hồ Núi Cốc đã phát huy hết

năng lực thiết kế và đạt đƣợc một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, trên thực tế kể

đến tất cả các nhiệm vụ, hoạt động mà hồ Núi Cốc mang lại thì hiệu quả đã thực sự

52

là tối ƣu. Đó cũng là vấn đề mà các nhà đầu tƣ, quản lý vận hành phải quan tâm

hàng đầu sao cho lợi nhuận thu đƣợc là tối đa.

Sử dụng tài nguyên nƣớc sao cho hiệu quả và phù hợp với lƣu lƣợng của hồ

chứa là cần phải quan tâm. Mực nƣớc của hồ dao động liên tục theo các tháng trong

năm nên khi muốn tối ƣu hóa giá trị của tài nguyên nƣớc thì cần phải xem xét tình

hình mực nƣớc, các thông số kỹ thuật của hồ.

Bảng 4.1: Các thông số kỹ thuật hồ Núi Cốc

Diện tích mặt Hồ MNC 3,5 km2 MNDBT 25,0 km2 MNL (P=0,5%) 32,0km2

Cao độ

34,0 m 7,4 x 106m3 46,2 m 175,5 x 106m3 48,25 m 405,5 x 106m3

Dung tích (Dung tích hữu ích 168 x 106m3. Dung tích phòng lũ: 230 x 106m3)

Nguồn: Công ty TNHH một thành viên khai thác Thủy lợi Thái Nguyên.

4.2. Tối ƣu hóa việc sử dụng tài nguyên nƣớc tại khu vực hồ Núi Cốc

4.2.1. Bài toán qui hoạch động tối ưu sử dụng tài nguyên nước

Phân bổ quỹ nƣớc cho 4 khu tƣới A, B, Cvà D để tối đa doanh thu dự kiến. Mỗi

dự án có các cấu hình thay thế khác nhau yêu cầu các mức quỹ khác nhau và cho ra

các mức doanh thu khác nhau. Do giới hạn ngân sách, tổng lƣợng nƣớc ban đầu có

thể là cố định. Bài toán phân bổ đƣợc mô hình hóa về mặt toán học nhƣ sau:

tùy thuộc vào

53

trong đó rịj là doanh thu có thể đƣợc tạo ra từ cấu hình j của dự án i, cij là yêu cầu

cấp quỹ cho cấu hình j của dự án I, xij là biến quyết định có thể nhận giá trị 0 hoặc 1

với 0 chỉ ra cấu hình j của dự án i không đƣợc chọn và 1 nếu khác đi, F là tổng khối

lƣợng quỹ hiện có cho phát triển, N là tổng số dự án đƣợc xem xét, và i là số các

cấu hình của dự án i. Tập ràng buộc thứ hai thể hiện không phải tất cả các dự án

đang đƣợc xem xét đều phải đƣợc cấp quỹ. Hơn nữa, các cấu hình bên trong mỗi dự

án là loại trừ lẫn nhau, tức là chỉ có một cấu hình cho mỗi dự án có thể đƣợc chọn.

Phù hợp với thảo luận tổng quát về tiếp cận giải quy hoạch động, mô hình quy

hoạch toán nó trên có thể đƣợc mô tả trên Hình 4.1 dƣới đây.

Trên Hình 4.1, các phần tử cơ bản và các thuật ngữ trong việc xây dựng mô hình

quy hoạch động đƣợc giới thiệu dƣới đây.

Hình 4.1: Mô hình qui hoạch phân bổ

Giai đoạn (n) là những điểm của bài toán mà tại đó quyết định đƣợc đƣa ra.

Trong ví dụ phân bổ quỹ, mỗi dự án thể hiện một giai đoạn trong mô hình quy

hoạch động. Nếu một bài toán làm quyết định có thể đƣợc phân rã thành N bài toán

con, sẽ có N giai đoạn trong xây dựng mô hình quy hoạch động.

Biến quyết định ( ) là các chƣơng trình hành động cần đƣợc lấy tại mỗi giai

đoạn. Quyết định trong ví dụ cấp quỹ cho dự án là cấu hình bên trong dự án cần

đƣợc chọn. Số biến quyết định, , trong mỗi giai đoạn không nhất thiết bằng 1.

Biến trạng thái ( ) là biến mô tả trạng thái của một hệ thống tại bất kỳ giai đoạn

n nào. Một biến trạng thái có thể là rời rạc hoặc liên tục, hữu hạn hoặc vô hạn. Trên

Hình 1.1, tại mỗi giai đoạn n, có các trạng thái đầu vào, , và các trạng thái đầu ra,

54

. Các biến trạng thái của hệ thống trong một mô hình quy hoạch động có hàm số

liên kết các giai đoạn kế tiếp nhau sao cho, khi mỗi giai đoạn đƣợc tối ƣu hóa một

cách tách biệt, quyết định tạo thành tự động là chấp nhận đƣợc cho toàn bộ bài toán.

Hơn nữa, nó cho phép một ai đó thực hiện các quyết định tối ƣu cho các giai đoạn

còn lại mà không phải kiểm tra tác động của các qđ tƣơng lai cho các quyết định đã

đƣợc đƣa ra trƣớc đó.

Giao hoàn tại giai đoạn ( ) là một thƣớc đo vô hƣớng của tính hiệu quả của việc

làm quyết định trong mỗi giai đoạn. Đó là một hàm của trạng thái đầu vào, trạng

thái đầu ra, và các biến quyết định của một giai đoạn cụ thể. Tức là,

.

Chuyển giai đoạn hoặc chuyển trạng thái ( ) là một biến đổi thể hiện các mối

quan hệ giữa trạng thái đầu vào, trạng thái đầu ra, và quyết định. Nói chung, thông

qua biến đổi trạng thái, trạng thái đầu ra tại bất kỳ giai đoạn n nào có thể đƣợc biểu

diễn nhƣ một hàm của trạng thái đầu vào và quyết định nhƣ sau

(1.2)

*Các đặc điểm cơ bản đặc trƣng của bài toán quy hoạch động là:

Bài toán phân chia thành các giai đoạn, với các biến quyết định tại mỗi giai

đoạn.

Mỗi giai đoạn có một số trạng thái gắn với nó.

Tác động của quyết định tại mỗi giai đoạn là tạo ra giao hoàn, dựa vào hàm giao

hoàn giai đoạn, và biến đổi biến trạng thái hiện tại thành biến trạng thái cho giai

đoạn tiếp theo, thông qua hàm chuyển trạng thái.

Khi đã cho trạng thái hiện tại, một chính sách tối ƣu cho các giai đoạn còn lại là

độc lập với chính sách đƣợc chấp nhận trong các giai đoạn trƣớc đó. Điều này đƣợc

gọi là nguyên tắc tối ƣu Bellman, là nguyên tắc đóng vai trò xƣơng sống của quy

hoạch động.

Lời giải bắt đầu bằng cách tìm ra quyết định tối ƣu cho mỗi trạng thái có thể

trong giai đoạn cuối cùng (đƣợc gọi là truy hồi giật lùi) hoặc trong giai đoạn đầu

55

(đƣợc gọi là truy hồi tiến lên). Thuật toán tiến lên đƣợc thực hiện từ giai đoạn đầu

tiên tới giai đoạn cuối cùng, trong khi thuật toán giật lùi đƣợc thực hiện từ giai đoạn

cuối cùng về giai đoạn đầu tiên.

Mối quan hệ truy hồi chỉ ra chính sách tối ƣu cho mỗi trạng thái tại bất kỳ giai

đoạn n nào có thể đƣợc phát triển, khi đã cho chính sách tối ƣu cho mỗi giai đoạn

tại giai đoạn tiếp theo n + 1. Phƣơng trình truy hồi giật lùi, đƣợc thể hiện trên Hình

4.1, có thể đƣợc viết là

trong đó  thể hiện là một toán tử đại số, có thể là +, -, , hoặc bất cứ phép tính

nào thích hợp cho bài toán. Phƣơng trình truy hồi cho thuật toán tiến lên là

hoặc

4.2.2. Tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên nước tại khu vực hồ Núi Cốc

4.2.2.1. Mô hình hóa đƣờng cầu tƣới trong nông nghiệp

Cầu tƣới có thể đƣợc xây dựng theo nhiều quy mô khác nhau, từ đó định ra

nhiều mô hình tính toán khác nhau. Việc xác định sử dụng mô hình nào trong thực

hành chỉ phụ thuộc vào khối lƣợng công việc tính toán, chứ không thay đổi gì về

mặt nguyên tắc.

Đề tài tập trung xây dựng mô hình cầu cho hệ thống Núi cốc,phản ánh những

quyết định khác nhau của ngƣời nông dân trƣớc những mức cung cấp nƣớc khác

nhau có thể xảy ra. Theo kiến thức hồi quy Kinh tế lƣợng thì mối quan hệ này sẽ

đƣợc thể hiện qua hàm cầu mà vẫn giữ nguyên đƣợc đặc tính của tổng thể.

Biểu diễn toán học chính là hàm sản xuất: D = f (K,L,R,W,…).

56

Trong đó: (K: vốn, L:lao động, R: đất đai,W: nƣớc,…). Nhƣng mối quan hệ

không đơn giản, vì thế cần phải tổng hợp kiến thức từ phƣơng pháp luận và thực

tiễn. Nhằm tập trung vào mục đích chính của đề tài và để thuận lợi cho phân tích,

đơn giản mối quan hệ này bởi hàm cầu tuyến tính thể hiện mối quan hệ giữa nhu

cầu nƣớc của ngƣời nông dân ứng với những mức lợi ích khác nhau sẽ đƣợc biểu

hiện bằng giá nƣớc.

:

Pt = a – b Q

)

4.2 dƣới đây:

Hình 4.2: Biểu diễn cầu trong nông nghiệp

.

4

:

B (Qt) = = a Qt -

57

. Trong đó, các chi phí

đƣợc đƣa vào qua số liệu khảo sát thực tế.

4.2.2.2. Số liệu đầu vào nông nghiệp

+ Sơ đồ hệ thống Núi Cốc

Hình 4.3: Sơ đồ hệ thống Núi Cốc – Thái Nguyên

Hồ Núi Cốc Kênh Chính

Kênh Đông

Kênh Tây

Kênh Giữa

+ Số liệu đầu vào nông nghiệp đƣợc dựa theo:

Số liệu về năng suất lúa và ngô của cục thống kê; và

Số liệu về lƣợng nƣớc tƣới, lƣợng nƣớc mƣa đã đƣợc tính toán tại đồ án tốt

nghiệp “Tính toán giá trị kinh tế của tƣới và phân tích thể chế đối với hệ thống tƣới

Núi cốc” mà tôi đã bảo vệ năm 2008;

Cụ thể tại bảng sau:

58

Bảng 4.2: Số liệu đầu vào nông nghiệp

Lƣợng nƣớc Lƣợng nƣớc Năng suất Giá thóc Các vụ/ Qui đổi năm 2012 (đồng/ năm (tấn/ha) tƣới trên 1ha (triệu m3) mƣa trên 1ha (triệu m3) (tạ/sào) kg thóc)

Vụ chiêm 0,0051 0,0026 1,80 5,00 6.000

Vụ mùa 0,0026 0,0087 1,75 4,86 6.000

Vụ Đông 0,0028 0,0002 2,20 6,11 7.500

(Ghi chú: Lƣợng nƣớc tƣới nhƣ trên đƣợc tính toán theo lƣợng nƣớc mƣa hiệu

quả, nƣớc lƣợng bốc hơi, lƣợng nƣớc thấm và chế độ tƣới cho cây trồng trong từng

thời kỳ).

Số liệu tìm hiểu tại hệ thống Núi Cốc, hệ thống nƣớc từ hồ tới kênh chính tổn

thất 20%. Kênh Giữa và Kênh Đông tổn thất 24,31% (tổn thất kênh là 13%, tổn thất

mặt ruộng là 13%). Do Kênh Tây là kênh đất cát nên tỷ lệ tổn thất lớn hơn là

32,76% (tổn thất kênh là 18%, tổn thất mặt ruộng là 18%).

Số liệu về diện tích gieo trồng từng kênh của các vụ nhƣ bảng sau

Bảng 4.3: Số liệu diện tích gieo trồng từng kênh của các vụ

Các vụ/năm Diện tích (ha) của từng kênh

Kênh chính Kênh Đông Kênh Giữa Kênh Tây

Vụ chiêm 2.924 1.325 1.174 1.577

Vụ mùa 2.275 1.031 913 1.227

Vụ Đông 1.880 852 755 1.014

Qua khảo sát số liệu thực tế, ngoài thuế đất là 50kg thóc/sào thì chi phí ngƣời

nông dân phải bỏ ra chiếm khoảng 52% doanh thu. Do đó ta tính đƣợc Lợi nhuận ròng của lƣơng thực theo lƣợng nƣớc cung cấp và giá 1m3 nƣớc đầu tiên nhƣng

bảng sau:

59

Bảng 4.4: Bảng tính giá 1m3 nước đầu tiên

Các vụ/năm Lƣợng nƣớc tƣới trên 1ha (triệu m3) Lƣợng nƣớc mƣa trên 1ha (triệu m3) Tổng lƣợng nƣớc tƣới và mƣa nƣớc cung cấp trên 1ha (triệu m3) Lợi nhuận ròng của lƣơng thực (triệu đồng/ha) 1m3 Giá đầu nƣớc tiên (bao gồm cả nƣớc mƣa) (đồng/m3)

Vụ chiêm Vụ mùa Vụ Đông 0,0051 0,0026 0,0028 0,0026 0,0087 0,0002 0,0077 0,0112 0,0030 6 6 12 1.582 1.011 7.698

Dựa vào mục 4.1.2.2 tại phần trên ta đƣợc phƣơng trình đƣờng đƣờng cầu có

mƣa và đồ thị nhƣ sau:

+Vụ Chiêm : y= -0,206 x + 1.582

P (đ/m3)

1582

1 800 1 600 1 400 1 200 1 000 800 600 400 200

7700

0

2000

4000

6000

8000

10000

Q (m3/ha)

+ Vụ Mùa : y= -0,090 x + 1.011

P (đ/m3)

1 200

1011

1 000

800

600

400

200

11 200

0

2000

4000

6000

8000

10000

12000

Q (m3/ha)

60

+ Vụ Đông : y= -2,558 x + 7.698

P (đ/m3)

9 000 8 000 7698 7 000 6 000 5 000 4 000 3 000 2 000 1 000

3100

0

1000

2000

3000

4000

Q (m3/ha)

Loại trừ lƣợng nƣớc mƣa hiệu quả và dựa vào những dữ liệu đầu vào nhƣ trên để

tính toán ta đƣợc phƣơng trình đƣờng cầu tƣới của các kênh trong từng vụ (xem chi

tiết tại phụ lục 2-Bảng tính chi tiết phương trình đường cầu cho các kênh trong

từng vụ)(viết lại khi sắp xếp lại. Chi tiết nhƣ sau

+ Vụ chiêm

Kênh chính : y= 73,67 x + 1.318

Kênh Đông : y= 151,49 x + 1.273

Kênh Giữa : y= 170,98 x + 1.273

Kênh Tây : y= 111,60 x + 1.192

+ Vụ mùa

Kênh chính : y= 120,97 x + 842

Kênh Đông : y= 248,73 x + 813

Kênh Giữa : y= 280,88 x + 813

Kênh Tây : y= 183,24 x + 761

+ Vụ đông

Kênh chính : y= 1015,52 x + 6.415

Kênh Đông : y= 2088,13 x + 6.192

Kênh Giữa : y= 2356,40 x + 6.192

Kênh Tây : y= 1538,28 x + 5.798

61

4.2.2.3. Ứng dụng phần mềm Lingo trong việc tối ƣu sử dụng nƣớc

* Giới thiệu phần mềm Lingo

Lingo là một công cụ toàn diện đƣợc thiết kế cho việc xây dựng và giải quyết

các phƣơng trình tuyến tính, mô hình tối ƣu hóa phi tuyến và số nguyên nhanh hơn,

dễ dàng hơn và hiệu quả hơn. Lingo là phần mềm hoàn toàn tích hợp bao gồm một

ngôn ngữ mạnh mẽ thể hiện cho các mô hình tối ƣu hóa, một môi trƣờng đầy đủ

tính năng để xây dựng và chỉnh sửa vấn đề, và bộ xây dựng và giải quyết nhanh.

* Kết quả chạy phần mềm từ dữ liệu tại phần 3.2.2.2 trên.

Xét điều kiện nƣớc đƣợc cung cấp đủ là 77 triệu m3 (theo số liệu tính toán tại

Local optimal solution found.

Objective value: 83819.41

Infeasibilities: 0.9094947E-12

Total solver iterations: 34

Variable Value Reduced Cost

CHIEM 28299.79 0.000000

MUA 7015.162 0.000000

DONG 48504.46 0.000000

S1 44.23550 0.000000

S2 17.10567 0.000000

S3 15.65882 0.000000

XA_THUA 0.000000 8.018637

XA_THUA1 0.000000 0.000000

XA_THUA2 0.000000 0.000000

XA_THUA3 0.000000 0.000000

A11 73.67000 0.000000

B11 1318.000 0.000000

A12 151.4900 0.000000

B12 1273.000 0.000000

A13 170.9800 0.000000

B13 1273.000 0.000000

A14 110.6000 0.000000

B14 1192.000 0.000000

X11 17.78175 0.000000

X12 8.350263 0.000000

X13 7.398417 0.000000

X14 10.70508 0.000000

phụ lục 1). Kết quả chạy phần mềm nhƣ sau:

62

S12 26.45376 0.000000

S13 18.10349 0.000000

S14 10.70508 0.000000

X_CHIEM 44.23550 0.000000

A21 120.9700 0.000000

B21 842.0000 0.000000

A22 248.7300 0.000000

B22 813.0000 0.000000

A23 280.8800 0.000000

B23 813.0000 0.000000

A24 183.2400 0.000000

B24 761.0000 0.000000

X21 6.894117 0.000000

X22 3.236366 0.000000

X23 2.865926 0.000000

X24 4.109263 0.000000

S22 10.21156 0.000000

S23 6.975189 0.000000

S24 4.109263 0.000000

X_MUA 17.10567 0.000000

A31 1015.520 0.000000

B31 6415.000 0.000000

A32 2088.130 0.000000

B32 6192.000 0.000000

A33 2356.400 0.000000

B33 6192.000 0.000000

A34 1538.280 0.000000

B34 5798.000 0.000000

X31 6.309065 0.000000

X32 2.961493 0.000000

X33 2.624334 0.000000

X34 3.763932 0.000000

S32 9.349759 0.000000

S33 6.388266 0.000000

S34 3.763932 0.000000

X_DONG 15.65882 0.000000

Row Slack or Surplus Dual Price

1 83819.41 1.000000

2 0.000000 8.018637

3 0.000000 8.018637

63

4 0.000000 -158.0953

5 0.000000 17.78175

6 0.000000 -34.86345

7 0.000000 8.350263

8 0.000000 -27.36829

9 0.000000 7.398417

10 0.000000 -57.29932

11 0.000000 10.70508

12 0.000000 1.000000

13 0.000000 -8.018637

14 0.000000 -8.018637

15 0.000000 -8.018637

16 0.000000 -8.018637

17 0.1088454 0.000000

18 0.5293179E-01 0.000000

19 0.4689810E-01 0.000000

20 0.7250124E-01 0.000000

21 0.000000 0.000000

22 0.000000 -23.76443

23 0.000000 6.894117

24 0.000000 -5.237033

25 0.000000 3.236366

26 0.000000 -4.106767

27 0.000000 2.865926

28 0.000000 -8.443021

29 0.000000 4.109263

30 0.000000 1.000000

31 0.000000 -8.018637

32 0.000000 -8.018637

33 0.000000 -8.018637

34 0.000000 -8.018637

35 0.6628616E-01 0.000000

36 0.3223832E-01 0.000000

37 0.2854827E-01 0.000000

38 0.4376030E-01 0.000000

39 0.000000 0.000000

40 0.000000 -19.90215

41 0.000000 6.309065

42 0.000000 -4.385219

43 0.000000 2.961492

44 0.000000 -3.443565

64

45 0.000000 2.624334

46 0.000000 -7.083592

47 0.000000 3.763932

48 0.000000 1.000000

49 0.000000 -8.018637

50 0.000000 -8.018637

51 0.000000 -8.018637

52 0.000000 -8.018637

53 0.7896090E-02 0.000000

54 0.3840104E-02 0.000000

55 0.3402918E-02 0.000000

56 0.5212729E-02 0.000000

57 0.000000 0.000000

Nếu đƣợc tƣới đủ doanh thu tối đa thu đƣợc là khoảng 83 tỷ đồng (giá trị tƣơng

đối khớp với giá trị mà Công ty TNHH một thành viên khai thác Thủy lợi Thái

Nguyên đã tính toán). Trong đó:

tr đồng

tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ mùa (S2):

+ Lƣợng nƣớc cấp Vụ chiêm (S1): 44,23 m3, đạt doanh thu là 28.299 17,1 m3, đạt doanh thu là 7.015 15,6 m3, đạt doanh thu là 48.504 tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ đông (S3):

Nƣớc là nguồn tài nguyên hồi sinh. Qua những nghiên cứu tại chƣơng II, chúng

ta đã biết, tài nguyên hồi sinh cũng có khả năng bị cạn kiệt hoàn toàn nếu khối

lƣợng khai thác quá nhiều vƣợt quá mức và kéo dài.

Xét bài toán ở dạng không đƣợc cung cấp đủ nƣớc, giả thiết lƣợng nƣớc ban đầu

tr đồng

tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ mùa (S2):

là 50 m3 , 40 m3, 28 m3, 12 m3, chạy mô hình ta đƣợc kết quả nhƣ sau. + S0= 50 m3 đạt tổng doanh thu là 77.414 triệu đồng trong đó + Lƣợng nƣớc cấp Vụ chiêm (S1): 28,1 m3, đạt doanh thu là 24.487 m3, đạt doanh thu là 4.699 7,4 14,5 m3, đạt doanh thu là 48.228 tr đồng

+ Lƣợng nƣớc cấp Vụ đông (S3): + S0= 40 m3 đạt tổng doanh thu là 71.902 triệu đồng trong đó + Lƣợng nƣớc cấp Vụ chiêm (S1): 22,2 m3, đạt doanh thu là 21.206 tr đồng

m3, đạt doanh thu là + Lƣợng nƣớc cấp Vụ mùa (S2):

3,7 2.705 tr đồng 14,1 m3, đạt doanh thu là 47.991 tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ đông (S3):

65

+ S0= 28 m3 đạt tổng doanh thu là 63.022 triệu đồng trong đó

tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ chiêm (S1):

tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ mùa (S2):

14,5 m3, đạt doanh thu là 15.448 m3, đạt doanh thu là 0 0 13,5 m3, đạt doanh thu là 47.574 tr đồng

+ Lƣợng nƣớc cấp Vụ đông (S3): + S0= 12 m3 đạt tổng doanh thu là 45.837 triệu đồng trong đó

tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ chiêm (S1): 0

0 tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ mùa (S2):

12 m3, đạt doanh thu là 0 m3, đạt doanh thu là 0 m3, đạt doanh thu là 45.837 tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ đông (S3):

*Nhận xét:

Từ các kết quả trên ta thấy, lợi ích của nƣớc tƣới cho Vụ Đông Xuân và vụ

Chiêm Xuân cao hơn hẳn so với lợi ích của nƣớc tƣới cho vụ Mùa, và lợi ích của

tƣới cho vụ Đông Xuân là cao nhất. Điều này rất đúng trong thực tế vì Vụ Đông

trồng ngô cho năng suất cao hơn trồng lúa và giá ngô cũng cao hơn giá lúa nên giá

trị của nƣớc tƣới cao hơn. Và, vụ mùa lƣợng mƣa hiệu quả lớn nhất nên giá trị của

nƣớc tƣới thấp hơn. Biểu thị kết quả trên thành đồ thị ta có:

90

80

Hình 4.4: Bảng quan hệ lượng nước ban đầu và doang thu do nước mang lại

) 3 m

77.0

70

60

50

50.0

40

40.0

30

28.0

20

r t ( u ầ đ n a b c ớ ư n g n ợ ư L

12.0

10

0

0

10

20

30

40

50

60

70

80

90

0

Doanh thu (tỷ đồng)

Nhìn vào đồ thị thể hiện mối quan hệ trên ta thấy ở những khối lƣợng nƣớc đầu

tiên lợi ích do nƣớc mang lại rất lớn,và mỗi khối lƣợng nƣớc tăng thêm đem lại lợi

ích cận biên ngày càng thấp đi.

66

Kết luận: Những tính toán và mô hình sử dụng hoàn toàn đúng đắn với những kiến

thức trong kinh tế nói chung và tài nguyên nƣớc nói riêng.

4.3. Thuế tài nguyên trong quản lý tài nguyên nƣớc

Vì khuôn khổ đề tài là có hạn nêng chỉ đƣợc đƣa ra một số ý kiến tóm tắt nhất để

biện hộ cho những ƣu điểm của biện pháp đánh thuế tài nguyên so với các biện

pháp thu hồi tô kinh tế thông thƣờng khác của chính phủ. Các chính sách huy động

doanh thu hay đƣợc sử dụng trong thực tế nói chung là khác với các chính sách

đƣợc phác thảo ở trên. Tức là chúng không phải là các công cụ thu thập tô kinh tế

thuần túy, và do vậy chúng có tác động xấu là bóp méo các quyết định phân bổ tài

nguyên. Trong trƣờng hợp thuế, thuế tô kinh tế đƣợc sử dụng trong các ngành công

nghiệp tài nguyên chỉ là ngoại lệ chứ không phải là quy tắc. Nhƣ đã trao đổi tại

Chƣơng II, đề tài sẽ xem xét cách đánh thuế hay đƣợc sử dụng nhất.

Dựa vào mục 4.2.2 ở trên, ta có hàm cầu sau khi có thuế T có dạng

B (Qt) = = a Qt - - T (a Qt - )

Mục đích của nhƣng ứng dụng sau nhằm chỉ ra cách quản lý sử dụng nƣớc qua

đánh thuế tài nguyên, tức là cùng một lƣợng nƣớc cố định, đánh thuế nhƣ thế nào để

quản lý đƣợc hiệu quả lớn nhất.

Ta vẫn xét lƣợng nƣớc cố định ban đầu So= 77 m3, và thuế giả thiết đƣa vào ban

Local optimal solution found. Objective value: 75437.47 Infeasibilities: 0.1818989E-11 Total solver iterations: 34 Variable Value Reduced Cost CHIEM 25469.81 0.000000 MUA 6313.646 0.000000 DONG 43654.02 0.000000 S1 44.23550 0.000000 S2 17.10567 0.000000 S3 15.65882 0.000000 T1 0.1000000 0.000000 T2 0.1000000 0.000000 T3 0.1000000 0.000000 XA_THUA 0.000000 7.216773 XA_THUA1 0.000000 0.000000 XA_THUA2 0.000000 0.000000

đầu là 10% cho tất cả các vụ, các kết quả có đƣợc nhƣ sau:

67

XA_THUA3 0.000000 0.000000 A11 73.67000 0.000000 B11 1318.000 0.000000 A12 151.4900 0.000000 B12 1273.000 0.000000 A13 170.9800 0.000000 B13 1273.000 0.000000 A14 110.6000 0.000000 B14 1192.000 0.000000 X11 17.78175 0.000000 X12 8.350263 0.000000 X13 7.398417 0.000000 X14 10.70508 0.000000 S12 26.45376 0.000000 S13 18.10349 0.000000 S14 10.70508 0.000000 X_CHIEM 44.23550 0.000000 A21 120.9700 0.000000 B21 842.0000 0.000000 A22 248.7300 0.000000 B22 813.0000 0.000000 A23 280.8800 0.000000 B23 813.0000 0.000000 A24 183.2400 0.000000 B24 761.0000 0.000000 X21 6.894117 0.000000 X22 3.236366 0.000000 X23 2.865926 0.000000 X24 4.109263 0.000000 S22 10.21156 0.000000 S23 6.975189 0.000000 S24 4.109263 0.000000 X_MUA 17.10567 0.000000 A31 1015.520 0.000000 B31 6415.000 0.000000 A32 2088.130 0.000000 B32 6192.000 0.000000 A33 2356.400 0.000000 B33 6192.000 0.000000 A34 1538.280 0.000000 B34 5798.000 0.000000 X31 6.309065 0.000000 X32 2.961493 0.000000 X33 2.624334 0.000000 X34 3.763932 0.000000 S32 9.349759 0.000000 S33 6.388266 0.000000 S34 3.763932 0.000000 X_DONG 15.65882 0.000000

Tổng doanh thu là 75.437 triệu đồng trong đó

tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ chiêm (S1): 44,23 m3, đạt doanh thu là 25.469

68

tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ mùa (S2):

17,1 m3, đạt doanh thu là 6.313 15,6 m3, đạt doanh thu là 43.654 tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ đông (S3):

Kết quả trên cho thấy, với mức thuế tài nguyên áp dụng, tổng thuế thu đƣợc

khoảng 8,3 tỷ đồng, trong đó thuế do vụ Chiêm, vụ Mùa, vụ Đồng mang lại lần lƣợt

xấp xỉ là 2,76 tỷ; 0,7 tỷ; 4,85 tỷ đồng.

Nhƣ vậy, với lƣợng nƣớc cố định, Vụ Đông đem lại giá trị nƣớc cao nhất nên

với cùng một tỷ lệ thuế đánh vào tài nguyên nƣớc nhƣ nhau trong tất cả các vụ, ta

thu đƣợc giá trị lớn nhất tại vụ Đông, thấp nhất là vụ Mùa. Vụ Đông là vụ có rất ít

mƣa và đây là vụ cũng xảy ra tình trạng thiếu điện trầm trọng. Hàm ý thuế này giúp

các nhà quản lý tài nguyên có chiến lƣợc đánh thuế để quản lý hiệu quả hơn trong

việc sử dụng nƣớc.

4.4. Nhận xét và Kết luận

Do đề tài chỉ giới hạn ứng dụng trong việc cung cấp nƣớc cho khu vực nông

nghiệp nên chỉ xét trƣờng hợp đánh thuế tài nguyên nhƣ trên. Với bài toán sử dụng

đa mục đích khi có sử dụng khác nhƣ thủy điện, du lịch, sinh hoạt...thì việc đánh

thuế có thể chỉ ra sự khác biệt rõ nét hơn trong các trƣờng hợp đánh thuế đánh thuế

theo lợi nhuận vì khi đó chi phí có sự khác biệt.

*Tóm lại: Dạng thu thuế tài nguyên chung nhất là một loại thuế dựa vào khối

khối lƣợng đƣợc sử dụng. Phƣơng pháp thu tiền này khá hấp dẫn bởi ngoài tính đơn

giản của nó, thì những loại thuế này ít đƣợc nhìn nhận nhƣ một dạng của thuế mà

chỉ là nhƣ một loại phí đƣợc đánh bởi khu vực công cộng vì đã dịch chuyển các

nguồn tài nguyên khỏi khu vực công cộng. Tuy nhiên, từ quan điểm kinh tế, chúng

là tƣơng đƣơng với thuế sản xuất. Trong dạng đơn giản, chúng đánh vào doanh thu

mà không hạch toán tới chi phí. Theo nghĩa hẹp, những loại thuế này hoạt động nhƣ

một kiểu không khuyến khích đầu tƣ và khai thác tài nguyên và tạo ra ít doanh thu

cho khu vực công cộng hơn so với có thể đạt đƣợc bằng thuế tô kinh tế. Hơn nữa, vì

không hạch toán tới chi phí, chúng có xu hƣớng đối nghịch với các nguồn doanh thu

có chi phí cao và có lợi cho các doanh thu có chi phí thấp.

69

Tác động của các loại thuế sản xuất có thể khác nhau tuỳ thuộc vào việc liệu tỷ

suất thuế đƣợc dựa trên khối lƣợng đƣợc sản xuất ra (thuế cho một đơn vị) hay dựa

vào giá bán. Còn với bài toán tài nguyên tái tạo, cụ thể là bài toán sử dụng nƣớc

trong hồ nhiệm vụ chính là cấp nƣớc tƣới, tiêu cho nông nghiệp. Những nhà quản lý

cần xem xét sự thay đổi đến điểm tối ƣu, cụ thể là ảnh hƣởng của thuế tài nguyên

nƣớc.

70

CHƢƠNG V: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Tăng trƣởng bền vững là mục tiêu cơ bản quan trọng và dài hạn cho mọi quốc

gia, và sử dụng tài nguyên sao cho hiệu quả đang trở thành một vấn đề lớn, quan

trọng nhƣ tăng trƣởng kinh tế. Đối với các nƣớc đang phát triển, đặc biệt là các nền

kinh tế chuyển đổi nhƣ Việt Nam, chính sách về tài nguyên thiên nhiên cần đƣợc

thiết lập và triển khai thực hiện cùng với các chính sách khác có liên quan (nhƣ các

chính sách bảo vệ môi trƣờng, chính sách tái cơ cấu nền kinh tế, tăng cƣờng tăng

trƣởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm).

Ngày nay, trên thế giới có nhiều công cụ đƣợc áp dụng rộng rãi trong quản lý tài

nguyên. Tuy nhiên, việc kiểm soát thu thuế tài nguyên trong thực hành gần đây đã

không đáp ứng đƣợc mong đợi. Ngoài việc tuyên truyền, giáo dục để nâng cao kiến

thức cộng đồng cộng đồng về sử dụng tiết kiệm tài nguyên, và ứng dụng những

công nghệ cao hơn trong hoạt động sản xuất,…Việt Nam đã và đang nghiên cứu

việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên thiên nhiên. Trong số

những công cụ này, thuế tài nguyên ngày càng thu hút sự chú ý của các nhà hoạch

định chính sách và kinh tế, cũng nhƣ các tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp.

Càng ngày, các sơ đồ tiền thuế tài nguyên càng đƣợc thiết kế một cách phức tạp

hơn so với thuế sản xuất đơn giản. Các thuộc tính tài nguyên cũng thƣờng là đối

tƣợng của các loại thuế thu nhập chung. Tuy nhiên, trong một số ví dụ, các loại thuế

đặc biệt cho các ngành công nghiệp tài nguyên cũng đƣợc dựa trên một thƣớc đo

nào đó của thu nhập. Trong những trƣờng hợp nhƣ thế, thuế thƣờng đƣợc thiết kế

theo các cách tƣơng tự với thuế thu nhập chung và tạo nên cùng một số độ trệch

giống hệt nhƣ vậy. Tức là, nó cho phép nhanh chóng xóa bỏ chi phí chiếm hữu, khai

thác và phát triển, và thƣờng đƣa ra những miễn giảm cạn kiệt. Mặc dù điều này tạo

ra một số doanh thu, nó cũng cung cấp trợ cấp cho các dự án kém hiệu quả.

Một số chế độ thuế đặt ra loại phí hoặc tiền thuê hàng năm cho việc sử dụng các

thuộc tính tài nguyên. Nếu các tỷ suất này phản ánh đƣợc giá trị vốn thực của các

thuộc tính đƣợc sử dụng, chúng sẽ giống nhƣ thuế tô kinh tế. Nếu một loại thuế tiền

71

thuê hàng năm cần phải đƣợc đƣa ra, thì sử dụng một loại thuế tô kinh tế đúng đắn

sẽ đáng đƣợc ƣa thích hơn.

Các hệ thống đấu thầu có xu hƣớng không đƣợc sử dụng nhiều, đặc biệt trong

các quốc gia đang phát triển. Một nguyên nhân có thể là các điều kiện tự bản thân

không dẫn tới các thủ tục đấu thầu cạnh tranh. Nhiều dự án tài nguyên là lớn và

không thể bao gồm nhiều hơn một nhà đầu tƣ tại cùng một thời điểm. Vì lý do gì đi

chăng nữa, các nhà buôn cá nhân chú ý gây ấn tƣợng với các nhà sản xuất tài

nguyên liên quan tới các kiểu tham gia công cộng khác nhau.

Dạng đơn giản nhất của chia sẻ sản lƣợng là dạng trong đó chính phủ lấy một

phần sản phẩm. Nó tƣơng tự nhƣ cấy rẽ trong nông nghiệp. Vì các sơ đồ chia sẻ sản

lƣợng là đối tƣợng của thƣơng lƣợng, tỷ phần của phần chia có thể thay đổi từ dự án

này tới dự án khác. Theo cách này, một tài khoản nào đó cần phải đƣợc lấy từ các tô

kinh tế tiềm năng khác nhau. Tuy nhiên, khi mà chi phí không đƣợc khấu trừ một

cách tƣờng minh, những sơ đồ nhƣ vậy sẽ không phản ánh tô kinh tế thuần túy.

Một số sơ đồ một phần tính tới chi phí bằng cách làm cho chia sẻ sản lƣợng chỉ

đƣợc thực hiện chỉ sau một mức bảo đảm doanh thu tối thiểu nào đó. Cũng giống

nhƣ cho phép công ty đƣợc thu hồi một phần chi phí ban đầu nào đó trƣớc khi chia

sẻ sản lƣợng, điều này cung cấp một biện pháp bổ sung để chia sẻ rủi ro. Thậm chí

nếu mức tối thiểu đƣợc đặt sao cho thu hồi đƣợc tổng chi phí, vẫn còn một cản trở

khuyến khích cận biên, một khi chia sẻ sản lƣợng bắt đầu đƣợc áp dụng.

Các chính phủ cũng có thể thƣơng lƣợng để nắm giữ vốn cổ phần trong các công

ty tài nguyên. Tại một cực đoan, chính phủ có thể mua các cổ phần của một công ty

tài nguyên trên thị trƣờng mở. Tuy nhiên, vì giá trị thị trƣờng của công ty cần phải

vốn hóa tất cả tô kinh tế ròng tƣơng lai dự kiến của công ty, điều này sẽ không đƣợc

dự kiến để tạo ra bất kỳ doanh thu ròng nào cho chính phủ. Ở một cực đoan khác,

chính phủ đơn giản có thể lấy “vốn cổ phần tự do” trong công ty, và bằng cách đó

cho phép bản thân mình chia sẻ lãi cổ phần tƣơng lai của công ty. Điều này sẽ khác

với chế độ thuế tô kinh tế bởi sự kiện không có khấu trừ ẩn đối với vốn cổ phần ban

đầu đƣợc đặt ra bởi công ty. Điều này có thể xấp xỉ chi phí vốn ban đầu đƣợc công

72

ty gánh chịu. Khi đó nó sẽ tƣơng tự với hệ thống tiền thuê tài nguyên với chi phí

hiện thời đƣợc khấu trừ.

Ở một cực đoan khác, chính phủ đơn giản có thể lấy “vốn cổ phần tự do” trong

công ty, và bằng cách đó cho phép bản thân mình chia sẻ lãi cổ phần tƣơng lai của

công ty. Điều này sẽ khác với chế độ thuế tô kinh tế bởi sự kiện không có khấu trừ

ẩn đối với vốn cổ phần ban đầu đƣợc đặt ra bởi công ty. Điều này có thể xấp xỉ chi

phí vốn ban đầu đƣợc công ty gánh chịu. Sau đó nó sẽ tƣơng tự với hệ thống tiền

thuê tài nguyên với chi phí thƣờng xuyên đƣợc khấu trừ.

Thay vì lấy vốn cổ phần tự do, chính phủ có thể trả một giá nào đó cho nó. Để có

đƣợc một phần tô kinh tế nào đó, giá cần phải nhỏ hơn giá thị trƣờng của cổ phần

đƣợc lấy. Các sơ đồ chia sẻ vốn cổ phần dạng này sẽ là tƣơng đƣơng với các loại

thuế tô kinh tế nếu thanh toán đƣợc thực hiện bởi chính phủ bằng với giá trị hiện

thời cho phần tƣơng đƣơng của chi phí tiền mặt của dự án. Nếu thanh toán này đƣợc

thực hiện trƣớc, nó sẽ có tác động tài chính giống hệt nhƣ thuế luồng tiền. Chỉ có

khác biệt thực là chính phủ có đƣợc quyền bỏ phiếu. Nếu thanh toán đƣợc trải rộng

vào tƣơng lai (ví dụ, đƣợc lấy từ tiền lãi cổ phần), nó cần đƣợc đƣa vào tƣơng lai

với lãi suất. Trong một trƣờng hợp, chính phủ sẽ chỉ có đƣợc phần chia của tô kinh

tế chứ không phải toàn bộ lƣợng tiền.

Nhiều quản lý vận hành tài nguyên không hồi sinh đối mặt với các chi phí đóng

cửa nhƣ chi phí làm sạch để phòng tránh các thiệt hại môi trƣờng. Đơn giản yêu cầu

các công ty đáp ứng những chi phí nhƣ vậy có thể là không bắt buộc vì các công ty

có khả năng tránh những điều đó chỉ bằng cách rời bỏ địa điểm. Làm sạch có thể

đƣợc cƣỡng chế bằng cách yêu cầu công ty phát hành trái phiếu cho chi phí làm

sạch, hoặc, một cách tƣơng đƣơng, bằng cách đặt ra một loại thế lợi tức về quản lý

tài nguyên, là khối lƣợng sẽ đƣợc hoàn trả một khi đã đƣợc làm sạch.

Trong nhiều quốc gia quyền hạn đối với các tài nguyên đƣợc phi tập trung hóa ít

nhất một phần xuống cấp thấp hơn của chính phủ. Điều này có thể làm phát sinh

những vấn đề phối hợp thuế giữa các cấp khác nhau của chính phủ cũng nhƣ cho

các năng lực tài chính khác nhau giữa các cấp thấp hơn của chính phủ.

73

Các chính phủ của các quốc gia đang phát triển ngày càng có ý thức về mong

muốn đánh các loại thuế vào tô kinh tế phát sinh từ các tài nguyên thiên nhiên bên

trong biên giới của họ. Đồng thời, các quốc gia này cũng cho thấy sự phức tạp ngày

càng gia tăng trong việc biển đổi các công cụ tài chính thô đƣợc sử dụng một cách

truyền thống cho mục đích này để làm giảm các chi phí hiệu quả phát sinh từ việc

sử dụng các loại thuế tô kinh tế không hoàn hảo lẫn làm tăng tỷ phần của tô kinh tế

mà họ có khả năng gán với các mục đích xã hội. Bây giờ đã đến lúc cần phải làm

tinh tế những loại thuế vẫn còn rất thô nhƣ tiền thuê tài nguyên, và các loại thuế

xuất khẩu bằng cách thay thế chúng với các dạng đơn giản hơn của các loại thuế

đánh vào tô kinh tế thuần túy.

*MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VIỆC THU THUẾ TÀI NGUYÊN

Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thuế và phí đã khi ban hành cần

kết hợp các quy định về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong sử dụng

tài nguyên từ hai tiếp cận. Thứ nhất, các quy định đƣợc hƣớng dẫn để khuyến khích

và trợ cấp ƣu đãi đối với sử dụng những tài nguyên tái tạo. Thứ hai, quy định rõ

ràng về nghĩa vụ tài chính của các đối tƣợng có liên quan đến hành động của khai

thác và sử dụng tài nguyên cạn kiệt để bù đắp phần nào những mất mát ảnh hƣởng

đến phúc lợi xã hội trong dài hạn. Cụ thể là:

Xây dựng hoàn thiện luật quản lý thuế theo hƣớng qui định rõ chế độ tự chịu

trách nhiệm khai báo và nộp thuế của từng đối tƣợng nộp thuế; đối tƣợng đƣợc ủy

quyền, bảo lãnh nộp thay thuế.

Chính sách miễn thuế phải đƣợc quy định một cách cụ thể, chi tiết và cần xét

đến tính công bằng cho các Doanh nghiệp.

Chế độ ấn hạn thuế rõ ràng theo tiêu chí và thời gian cụ thể, trách chung chung

rất khó trong công tác xử lý nhƣ hiện nay.

Đối với công tác giá, tính thuế: Cơ quan quản lý cần phải phân công cán bộ giá

chuyên trách, không kiêm nhiệm. Cán bộ làm công tác giá, thuế phải đƣợc phân

công dựa trên kiến thức chuyên môn đƣợc đào tạo (tốt nghiệp các trƣờng kinh tế, tài

74

chính, kế toán, thƣơng mại, ngoại thƣơng). Ƣu tiên bố trí những cán bộ đã làm công

tác thuế, giá lâu năm, dày dặn kinh nghiệm thực tế.

Công tác đào tạo: Song song với việc hoàn thiện mô hình tổ chức, tiếp tục thực

hiện công tác đào tạo nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ làm công tác thuế, giá

tại các Chi cục trực thuộc đặc biệt là cán bộ làm công tác kiểm tra.

Xây dựng quy chế kiểm soát nội bộ: xây dựng và công khai các qui trình nghiệp

vụ cụ thể trong từng khâu nghiệp vụ, có chế độ trách nhiệm cho từng đối tƣợng,

chế độ báo cáo cấp trên và chế độ kiểm tra định kỳ.

Xây dựng chế độ khen thƣởng: khen thƣởng định kỳ, đột xuất đối với những

trƣờng hợp có thành tích trong công tác phát hiện gian lận, truy thu thuế cho Nhà

nƣớc và các Chi Thuế Tài Nguyên cần đƣợc hoàn thiện theo hƣớng đơn giản hóa cơ

cấu thuế suất để nâng cao khả năng kiểm soát, chống gian lận thƣơng mại, theo đó

cần giảm bớt số lƣợng các mức thuế suất, loại bỏ việc áp dụng nhiều mức thuế suất

đánh vào các sản phẩm cùng loại. Đồng thời cần xác lập rõ hệ thống phân loại các

mức thuế suất.

Kiến nghị hoàn chỉnh các qui trình, qui chế thực hiện các biện pháp chế tài để

đảm bảo thực thi nghiêm túc Luật thuế Tài Nguyên…cục không để nợ thuế quá hạn

hàng quí, năm.Để phát triển công nghiệp khai khoáng và sử dụng hiệu quả nguồn tài

nguyên khoáng sản trên địa bàn các tỉnh phải bắt đầu từ các dự án khai thác mỏ, cần

theo đúng Luật Khoáng sản và theo cam kết của các doanh nghiệp, nếu dự án không

triển khai theo đúng tiến độ thì sẽ bị thu hồi. Các dự án hết hạn đều không cho gia

hạn.

Việc cấp phép mỏ mới cho các doanh nghiệp nên dừng lại và phải tập hợp các

điểm mỏ, lập danh sách theo nhóm nguyên liệu và tổ chức đấu thầu theo nhóm.

Tiếp đến là lựa chọn nhà đầu tƣ có năng lực tài chính, có kinh nghiệm trong ngành

khai khoáng, có dự án đầu tƣ chế biến và có khả năng tiêu thụ sản phẩm. Yêu cầu

nhà đầu tƣ lập đề án và triển khai đánh giá thăm dò địa chất, quy hoạch các điểm

mỏ làm nguồn nguyên liệu, báo cáo kết quả đánh giá thăm dò địa chất.

Cần thống nhất phƣơng thức thu thuế.

75

Nhƣ vậy để đạt đƣợc hiệu quả trong công tác quản lý thu thuế Tài Nguyên cần

có những hiểu biết sâu sắc về mô hình đánh thuế tài nguyên để đƣa ra những biện

pháp khắc phục, hoàn thiện công tác thu thuế tài nguyên. Thu đúng, thu đủ thuế

không chỉ góp phần ổn định nguồn thu Ngân sách Nhà nƣớc mà còn tạo môi trƣờng

kinh doanh bình đẳng, tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tƣ, thúc đẩy kinh tế phát triển

phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc và tiết kiệm

tài nguyên cho thế hệ tƣơng lai.

76

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt:

1. Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 6,

Luật Thuế tài nguyên, Tháng 10/2009.

2. Chính phủ, Nghị định số 175/NĐ-CP về việc hướng dẫn việc thực hiện pháp

luật bảo vệ môi trường, ngày 18/11/1994;

3. Công ty TNHH một thành viên khai thác Thủy lợi Thái Nguyên, Báo cáo tổng

hợp sử dụng nước tại Hồ Núi Cốc, 2011;

Tiếng Anh:

1. Fiscal Affairs Department (FAD), Tax reform in Vietnam issues for 2011-2015,

2010.

2. www.pwc.com/vn, VietNam pocket tax book 2011.

3. Taukuji and Nguyen Van Phung - Tax Policy Department - MOF of Vietnam,

Environment Related Taxes in Vietnam 2010.

4. Nguyen Van Phung - Tax Policy Department - MOF of Vietnam, Tax Reform in

Vietnam Main accomplishments and lessons 2010.

5. David C.L.Nellor, Sovereignty and Natural Resource Taxation in Developing

Countries 1987, Economic Development and Cultural Change.

6. Robin Boadway and Frank Flatters, The taxation of Natural Resources

10/1993, Policy Research Dessemination Center.

7. John F. Helliwell - University of Bristish Columbia, Vancouver, BC and Simon

Fraser University, Burnaby, BC , The taxation of Natural Resources 1985, B.V.

(North-Holland).

77

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Bảng tham khảo thuế suất của một số tài nguyên

(Trích luật thuế tài nguyên năm 2009)

Thuế suất (%) TT Nhóm, loại tài nguyên

Khoáng sản kim loại I

Sắt, măng-gan (mangan) 7-20 1

Ti-tan (titan) 7-20 2

Vàng 9-25 3

Đất hiếm 12-25 4

Bạch kim, bạc, thiếc 7-25 5

Vôn-phờ-ram (wolfram), ăng-ti-moan (antimoan) 7-25 6

Chì, kẽm, nhôm, bô-xit (bouxite), đồng, ni-ken (niken) 7-25 7

7-25 8 Cô-ban (coban), mô-lip-đen (molipden), thuỷ ngân, ma- nhê (magie), va-na-đi (vanadi)

9 Khoáng sản kim loại khác 5-25

II Khoáng sản không kim loại

Đất khai thác để san lấp, xây dựng công trình 3-10 1

5-15 2 Đá, trừ đá nung vôi và sản xuất xi măng; sỏi; cát, trừ cát làm thủy tinh

Đất làm gạch 5-15 3

Gờ-ra-nít (granite), sét chịu lửa 7-20 4

Đô-lô-mít (dolomite), quắc-zít (quartzite) 7-20 5

7-15 6 Cao lanh, mi-ca (mica), thạch anh kỹ thuật, cát làm thủy tinh

5-15 7 Pi-rít (pirite), phốt-pho-rít (phosphorite), đá nung vôi và sản xuất xi măng

A-pa-tít (apatit), séc-păng-tin (secpentin) 3-10 8

Than an-tra-xít (antraxit) hầm lò 4-20 9

Than an-tra-xít (antraxit) lộ thiên 6-20 10

Than nâu, than mỡ 6-20 11

Than khác 4-20 12

78

TT Nhóm, loại tài nguyên Thuế suất (%)

Kim cƣơng, ru-bi (rubi), sa-phia (sapphire) 16-30 13

16-30 14 E-mô-rốt (emerald), a-lếch-xan-đờ-rít (alexandrite), màu đen

12-25 15 Adít, rô-đô-lít (rodolite), py-rốp (pyrope), bê-rin (berin), sờ-pi-nen (spinen), tô-paz (topaz)

12-25 16

Thạch anh tinh thể màu tím xanh, vàng lục, da cam; cờ-ri- ô-lít (cryolite); ô-pan (pan) quý màu trắng, đỏ lửa; phen- sờ-phát (fenspat); birusa; nê-phờ-rít (nefrite)

17 Khoáng sản không kim loại khác 4-25

III Dầu thô 6-40

IV Khí thiên nhiên, khí than 1-30

V Sản phẩm của rừng tự nhiên

Gỗ nhóm I 25-35 1

Gỗ nhóm II 20-30 2

Gỗ nhóm III, IV 15-20 3

Gỗ nhóm V, VI, VII, VIII và các loại gỗ khác 10-15 4

Cành, ngọn, gốc, rễ 10-20 5

Củi 1-5 6

Tre, trúc, nứa, mai, giang, tranh, vầu, lồ ô 10-15 7

Trầm hƣơng, kỳ nam 25-30 8

Hồi, quế, sa nhân, thảo quả 10-15 9

10 Sản phẩm khác của rừng tự nhiên 5-15

VI Hải sản tự nhiên

Ngọc trai, bào ngƣ, hải sâm 6-10 1

Hải sản tự nhiên khác 1-5 2

VII Nƣớc thiên nhiên

8-10 1 Nƣớc khoáng thiên nhiên, nƣớc nóng thiên nhiên, nƣớc thiên nhiên tinh lọc đóng chai, đóng hộp

Nƣớc thiên nhiên dùng cho sản xuất thủy điện 2-5 2

Nƣớc thiên nhiên dùng cho sản xuất, kinh doanh, trừ nƣớc 3

79

TT Nhóm, loại tài nguyên Thuế suất (%)

quy định tại điểm 1 và điểm 2 Nhóm này

1-3 3.1 Nƣớc mặt

3-8 3.2 Nƣớc dƣới đất

10-20 VIII Yến sào thiên nhiên

1-20 IX Tài nguyên khác

80

Phụ lục 2: Bảng tính phƣơng trình đƣờng cầu cho các kênh trong từng vụ

Lƣợng nƣớc tƣới có Giá 1m3 nƣớc (không Các Lƣợng nƣớc tƣới Các kênh Diện tích (ha) Tổn thất tính đến tổn thất bao gồm nƣớc mƣa)-có vụ/năm (triệu m3) (triệu m3) tổn thất (đồng/m3)

20,00% 2.924 Kênh chính 14,91 17,89 1.318 Vụ chiêm

24,31% 1.325 Kênh Đông 6,76 8,40 1.273

24,31% 1.174 Kênh Giữa 5,99 7,44 1.273

32,76% 1.577 Kênh Tây 8,04 10,68 1.192

20,00% 2.275 Kênh chính 5,80 6,96 842 Vụ mùa

24,31% 1.031 Kênh Đông 2,63 3,27 813

24,31% 913 Kênh Giữa 2,33 2,89 813

32,76% 1.227 Kênh Tây 3,13 4,15 761

20,00% 1.880 Kênh chính 5,26 6,32 6.415 Vụ Đông

24,31% 852 Kênh Đông 2,39 2,97 6.192

24,31% 755 Kênh Giữa 2,11 2,63 6.192

32,76% 1.014 Kênh Tây 2,84 3,77 5.798

Tổng 77