Sự hình thành màu sắc của phức chất
Khi đề cập đến các chất màu vô cơ mà không kể đến phức chất là chưa
đầy đủ, bởi đây là loại hợp chất có màu sắc đặc trưng, được tạo thành
giữa các nguyên tố d với các nguyên thay nhóm nguyên tử khác. Thêm
vào đó phức chất màu còn là nguyên liệu quan trọng để chế các loại sơn,
sản xuất ,mực trong ngành in,…cho ra sản phẩm quen thuộc với mỗi
chúng ta.
Trong phân t của phức chất, nguyên t d được gọi là nguyên t tạo
phc hay ion trung tâm, còn nguyên thay nhóm nguyên tliên kết với
nó thì gọi là phi t .
Thí dụ: Thuốc thử Svâyde dùng đhòa tan xenlulozơ phức chất được
tạo thành khi cho muối đồng phản ứng với amoniac. Đó là chất màu
xanh có công thức [Cu(NH3)4](OH)2. Ở đây, ion Cu2+ là ion trung tâm,
còn NH3 phối tử, chúng liên kết với nhau tạo thành ion phức
[Cu(NH3)4]2+ màu xanh. Bốn liên kết giữa Cu2+ với 4 phân tNH3 là
các liên kết phối trí, trong đó các cặp electron dùng chung đều do N bỏ
ra.
Các ion kim loại chuyển tiếp dtạo thành các phức chất, vì trong phân
lớp electron d của chúng còn các obitan trống ddàng thực hiện liên kết
cho nhận với các nguyên telectron như N trong phức chất nêu
trên, hay O, F, Cl,… tạo ra các ion phức.
Người ta thấy rằng, khi trong ion tạo phức có electron độc tn thì phức
chất tạo thành có màu đặc trưng. Nếu không tính đến ảnh hưởng đặc biệt
cphối tử, thì bản thân màu sắc của ion kim loại cũng mối quan h
nhất định với số electron d trong ion.
Như chúng ta đã biết, ở phân lớp d có 5 obitan và nhiều nhất chỉ chứa 10
electron, khi s electron trong phân lớp nhỏ hơn 5 thì hoàn toàn độc
thân, còn ln hơn 5 thì bắt đầu sự ghép đôi cặp electron. Từ đó, nhìn
vào bảng trên ta thsuy ra số electron độc thân trong mỗi cation kim
loại bao nhiêu. Điều dễ nhận ra là : Chnhững ion electron độc
thân mới màu sắc, không electron độc thân hay các obitan d đã b
lấp đầy hoàn toàn bằng 10 electron (Ag+ , Cu+ ,…) thì không có màu.
Sự có mặt của những phối tử khác nhau liên kết với ion trung tâm sẽ ảnh
hưởng đến sự di chuyển electron trong ion trung tâm, nên ảnh hưởng
đến cường độ và sắc thái màu của phức chất, đôi khi có thể chuyển t
phc màu sang không màu. Chẳng hạn, với ion tạo phức là Cu2+, khi
phối tử là H2O stạo thành phức [Cu(H2O)4]2+ màu xanh lam; phối t
NH3 tạo phức [Cu(NH3)4]2+ xanh sẫm; phối t Cl- tạo phức
[CuCl4]2- màu nâu,…
Ngoài ra, nếu ion phc liên kết với các ion đơn mức oxi hóa khác
nhau, thì phức sẽ màu khác nhau, khi đó sự di chuyển electron
dưới tác dụng của ánh sáng sẽ diến ra khác nhau. Thí dụ, các phức chất
Fe3[Fe(CN)6]2 Fe4[Fe(CN)6]3 có màu xanh đậm, vì smặt của
ion Fe2+ Fe3+ bên cạnh ion phức [Fe(CN)6]3- Fe(CN)6]4- . S
nhạy cảm với ánh sáng của elecrtron d trong Fe2+ Fe3+ đã tạo phức
màu đậm hơn so với sự mặt của ion khác, chẳng hạn K+, bên cạnh
ion phức.
Phức chất có màu không chđược sử dụng trong phân tích hóa học, mà
còn được sử dụng vào nhiều mục đích khác, trong đó có mục đích dùng
làm chất màu. Chẳng hạn, chất xanh Beclin(xanh phổ) là phức chất
Fe4[Fe(CN)6]3 , một chất bột màu xanh đậm, được sử dụng trong ngành
in hay trong công nghsơn để chế ra các loại sơn xanh, lam tươi lam
đậm, xanh da trời và lục,… Trong hóa phân tích, nó là thuốc thử để nhận
biết ion sắt (III)…
Các phức chất đóng vai trò quan trọng trong đời sống động, thực vật vì
nhng chất quan trọng nhất về mặt sinh học đều là phức chất. Chẳng
hạn chất clorophin(diệp lục) tạo ra màu xanh thực vật, là hợp chất nội
phc của Mg, còn hemoglobin tạo nên màu đcủa máu, là một phức
chất có ion trung tâm là Fe,…
Như chúng ta thấy, dù kim loại, các hợp chất hay hữu cơ, thì s
xuất hiện màu ở chúng đều là kết quả của sự tương tác giữa các lượng t
ánh sáng với electron trong nguyên tkim loại hay phi kim, trong chất
hay hữu cơ không giống nhau, nên chế xuất hiện màu
chúng cũng những điểm khác nhau. Khi thành phần hóa học hay cấu
tạo phân tư chất bị thay đổi, kéo theo sẽ ảnh hưởng đến trạng thái của
electron trong phân tử, khiến khả năng hấp thụ photon thay đổi và hiển
nhiên màu sắc của chất bị thay đổi