Sự phát triển lý luận của Đảng về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
lượt xem 3
download
Bài viết "Sự phát triển lý luận của Đảng về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" trình bày sự phát triển lý luận trong quá trình nhận thức và hiện thực hóa quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sự phát triển lý luận của Đảng về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Nguyễn Quốc Khánh Trường Chính trị Tây Ninh Tác giả liên hệ: Nguyễn Quốc Khánh, email: nguyenquockhanhsp@gmail.com Tóm tắt: Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, nhưng nếu biết cách làm và làm đúng quy luật, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thành công. Những thành tựu lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam qua 35 năm đổi mới đã chứng minh con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là tất yếu khách quan và hoàn toàn có khả năng thực hiện. Một trong những thành tựu quan trọng trong công tác lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và sâu sắc hơn. Bài viết trình bày sự phát triển lý luận trong quá trình nhận thức và hiện thực hóa quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam; quá độ; chủ nghĩa xã hội; tư bản chủ nghĩa; đổi mới. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011a, 24). Ngay từ khi ra đời và xuyên suốt đường lối cách mạng, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và khẳng định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và Nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Việt Nam lựa chọn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp, phải đi qua nhiều bước quá độ. Đối với những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin chỉ rõ tất yếu phải “bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc” xuyên 263
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG qua chủ nghĩa tư bản nhà nước: “Trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội” (Lênin, 1976, 89). Vì thế, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn thường xuyên điều chỉnh cả về lý luận lẫn thực tiễn. Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Nghiên cứu sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. 2. SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN TRONG QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng được Đảng ta nhận thức rõ và sâu sắc hơn, góp phần vào sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ khó khăn, phức tạp giống như “cơn đau đẻ kéo dài”. Đối với những nước có điểm xuất phát thấp, không trải qua chủ nghĩa tư bản, thì sự khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ càng tăng lên gấp nhiều lần. Trong quá trình nhận thức và vận dụng lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các giai đoạn lịch sử có những lúc mắc phải sai lầm và chưa thành công là tất yếu, bởi vì đó là quá trình Đảng ta tiếp tục hoàn thiện, bổ sung và phát triển tư duy lý luận. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng 264
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản,... Trước đổi mới (năm 1986), nhận thức của Đảng ta về “quá độ lên chủ nghĩa xã hội” cũng giản đơn, thiếu thống nhất, xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự quá độ “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Từ nhận định này dẫn đến việc phủ định siêu hình chủ nghĩa tư bản, tách biệt hoàn toàn mối quan hệ giữa các hình thái kinh tế - xã hội; phủ nhận “sạch trơn” thành tựu mà nhân loại đã đạt được qua các hình thái kinh tế - xã hội trước đó. Thay vì chỉ bỏ qua chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, chúng ta lại mắc bệnh chủ quan duy ý khi bỏ qua tất cả những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra trước đó. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá giai cấp tư sản: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại” (C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn Tập, 1995, 603). Do đó, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội phải tiếp tục kế thừa và phát triển lực lượng sản xuất đã tạo ra trong chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là những thành tựu về khoa học và công nghệ. Theo Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, đó là sự thay thế, tiếp nối các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp tới cao mà nguyên nhân sâu xa quy định tiến trình phát triển ấy là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất phát triển theo quy luật “tiếp sức”, tức là có sự kế thừa qua các hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Việt Nam phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp, tất yếu chúng ta phải thực hiện nhiều nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội to lớn, toàn diện. Như vậy, việc phát triển của chúng ta theo con đường xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không có nghĩa là phủ định toàn bộ những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản. Với tư duy đó, khi tiến hành đổi đổi mới (cụ thể là từ Đại hội lần thứ VII của Đảng năm 1991), Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đúng nội hàm của việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Đảng đã nhận thức lại, chuyển từ “bỏ qua giai đoạn phát 265
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG triển tư bản chủ nghĩa” thành “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của nước ta có những đổi mới sâu sắc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (Thông qua tại Đại hội lần thứ VII của Đảng) xác định đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”(Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 8). Như vậy, Đảng ta đã nhận thức rõ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. “Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” có thể hiểu là con đường phát triển “rút ngắn” đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) chỉ ra cụ thể hơn: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 84). Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được giải thích rõ về hai phương diện. Về chính trị, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản, của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhưng phải biết tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đó chính là phương thức “rút ngắn” thời gian thực hiện quá trình xã hội hóa sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là rút ngắn đáng kể quá trình phát triển lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có nghĩa là trong lịch sử nước ta không có một giai đoạn mà trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải trải qua một trạng thái xã hội mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa hình thái kinh tế - xã hội cũ và hình thái kinh tế - xã hội mới, trong đó nền kinh tế là nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và 266
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng cho phép chúng ta tận dụng nền đại công nghiệp của thế giới để có thể rút ngắn quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam có thể đi nhanh đến phát triển nhưng bắt buộc phải đổi mới, hội nhập quốc tế để có thể tiếp thu thành tựu văn minh nhân loại nhằm lấp đầy khoảng trống mà nước ta đã bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. V.I.Lênin đã từng chỉ rõ, những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội cần thiết phải học hỏi kinh nghiệm từ các nước phát triển. Đúng như vậy, tư duy đổi mới về quá độ “bỏ qua” khẳng định muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải học kinh nghiệm của chủ nghĩa tư bản, nhất là về khoa học và công nghệ hiện đại, đồng thời phải vượt qua những hạn chế của nó đó là chế độ chính trị áp bức, bóc lột. Vì vậy, Đảng khẳng định bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa, những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng chỉ ra rằng phải kế thừa có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản như: kinh tế thị trường, nền dân chủ, nhà nước pháp quyền, khoa học và công nghệ, trình độ tổ chức - quản lý,… Nhận thức rõ hơn về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xác định rõ mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể bước đầu của thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ quá độ sẽ “tồn tại nhiều hình thức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ”. Bước vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực sự, “Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới” (Nguyễn, 2022, 25). Đại hội lần thứ XI của Đảng (năm 2011) đã xác định rõ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa “là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về 267
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011a, 70). Để quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. 3. SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN TRONG QUÁ TRÌNH HIỆN THỰC HÓA QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM Trên cơ sở nhận thức ngày càng đúng đắn lý luận về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam từng bước hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội. Nhận thức tổng quát của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Nguyễn, 2022, 24). Một trong những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, tức là phải xây dựng một nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kĩ thuật tiên tiến. Muốn vậy, trong thời kỳ quá độ chúng ta cần phải thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cơ bản là phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thời kỳ trước đổi mới, do chưa có kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã vi phạm quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong giai đoạn này, chúng ta đã tuyệt đối hoá việc cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa theo mô hình Liên Xô cho kinh tế miền Bắc trong khi trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém. Với việc xác lập hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể theo mô hình Liên Xô, xoá bỏ thị trường tự do và sở hữu phi xã hội chủ nghĩa, đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, thiết lập mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Việc xác lập một quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa vượt trước quá xa và không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm 268
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” trọng. Trước đổi mới, “lương thực, hàng hóa nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ” (Nguyễn, 2022, 30-31). Trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế là một loại hình quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất nên đã thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, “nền kinh tế bắt đầu phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài” (Nguyễn, 2022, 31). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã đề ra định hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chuyển từ đặc trưng “có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 thành “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Hội đồng Lý luận Trung ương, 2020, 45). Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) nhấn mạnh trong nhận thức và giải quyết các quan hệ lớn, “cần chú trọng hơn đến: bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a), tức là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Đảng xác định phương thức phát triển của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phát triển “rút ngắn”. Con đường quá độ này không bỏ qua sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất trong tiến trình lịch sử và văn minh nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là những thành tựu khoa học và công nghệ. Thực chất bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa giữ vai trò thống trị. 269
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Cùng với việc lựa chọn phương thức phát triển “bỏ qua”, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành đổi mới căn bản mô hình phát triển kinh tế trong suốt quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, đó là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, coi đó là mô hình tổng quát, là đường lối chiến lược nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đề ra định hướng xây dựng quan hệ sản xuất với cách diễn đạt và nội dung mới so với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011a, 73). Với diễn đạt định hướng tổng quát mới như vậy, cho phép khắc phục được hoàn toàn “tâm lý kỳ thị về mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh (thời kỳ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX chúng ta chỉ nói đến “cơ chế thị trường”)” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011b, 79). Đến nay, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định ngày càng sâu sắc. Trong bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới” (Nguyễn, 2022, 25). Thực tiễn 35 năm đổi mới đất nước đã khẳng định một thành quả lý luận quan trọng rằng: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, là sự vận dụng sáng tạo của Ðảng ta và là con đường, phương thức để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cho nên nền kinh tế là nền kinh tế quá độ, do đó không thể có ngay kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để có thể vừa tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường của thế giới vừa vận dụng, phát triển sáng tạo cho phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Đại hội lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) đã chỉ 270
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” ra nội hàm cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 128-129). Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành một đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhận định: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 59-60). “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập” (Đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 31). Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy nền kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước: “kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Ðảng được củng cố” (Nguyễn, 2022, 33). Ðó là những thành tựu không thể phủ nhận, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 271
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Cùng với “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” thì “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” cũng là một “phát minh chính trị” thể hiện sự vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Vì vậy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng khác về chất so với nhà nước pháp quyền tư sản ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011a, 85-86). Nhà nước pháp quyền tư sản dựa trên nguyên tắc “tam quyền phân lập”, còn Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không phải hoàn toàn là “tam quyền phân lập” mà theo nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, 272
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Sau 35 năm đổi mới, “việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có bước phát triển mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; nội dung, phương thức quản lý nhà nước đã từng bước được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu phát triển đất nước và thông lệ quốc tế” (Hội đồng Lý luận Trung ương, 2021, 225). Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 174-175). Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 71). Tóm lại, từ lý luận và thực tiễn cho thấy “Nhà nước pháp quyền” cũng như “kinh tế thị trường” là sản phẩm chung của nhân loại, có nhiều ưu điểm, không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản; chúng ta cần phải tiếp thu, kế thừa và phát huy. Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn, mức sống và chất lượng sống của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao so với những năm trước đổi mới. “Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình 273
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới” (Nguyễn, 2022, 31). Thực tiễn đổi mới cùng với những thành tựu to lớn đó đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, chứng minh sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại. Thật vậy, sự phát triển của Việt Nam ngày nay đã chứng minh rằng con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid- 19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta so với chế độ tư bản chủ nghĩa. Có thể nói rằng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 104). 4. KẾT LUẬN Sự lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của Việt Nam là một quá trình lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp với nhiều bước phát triển. Trong quá trình đó, thực chất của “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, đồng thời cần tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những thành tựu tiến bộ, giá trị văn minh, khoa học và công nghệ mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản trên quan điểm khoa học, phát triển. Với nhận thức đó, Đảng ta đã từng bước vận dụng đúng đắn và phù hợp trong việc xác định và lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đây là bước phát triển quan trọng trong sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Có thể khẳng định rằng, sự phát triển lý luận về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một thành tựu to lớn về tư duy lý luận của Đảng ta qua hơn 35 năm lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và chắc chắn sẽ được Đảng ta tiếp tục bổ 274
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” sung và hoàn thiện. Qua đó, việc nghiên cứu vấn đề này có thể góp phần vận dụng vào việc giảng dạy lý luận chính trị nhằm nâng cao năng lực nhận diện, đấu tranh chống lại các quan điểm xuyên tạc, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 4). (1995). Chính trị quốc gia. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính trị quốc gia. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Chính trị quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011b). Về những điểm mới của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Chính trị quốc gia. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật. [8]. Hội đồng Lý luận Trung ương. (2020). 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính trị quốc gia. [9]. Hội đồng Lý luận Trung ương. (2021). Những điểm mới trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Chính trị quốc gia. [10]. Lênin, V. I. (1976). Toàn tập (Vol. 44). Tiến bộ. [11]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật. 275
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Nguyên lý về sự phát triển
8 p | 5270 | 1054
-
Nguyên lý về sự phát triển - Hoàng Thanh Xuân
15 p | 407 | 69
-
CỐNG HIẾN CỦA PH.ĂNG-GHEN TRONG SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN "RÚT NGẮN" Ở CÁC NƯỚC LẠC HẬU
6 p | 390 | 65
-
Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc với sự phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam - TS. Phạm Duy Dương
5 p | 230 | 25
-
Bài giảng Triết học Mác - Lênin: Chương 4 - Vai trò của khoa học công nghệ trong sự phát triển xã hội (Dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh các ngành Khoa học Tự nhiên và Công nghệ)
21 p | 15 | 9
-
Sự nghiệp cách mạng và cương lĩnh chính trị ngọn cờ lý tưởng lý luận chỉ đạo của chúng ta
94 p | 94 | 9
-
Sự phát triển của khoa học và logic học biện chứng (Sách chuyên khảo): Phần 1
193 p | 28 | 8
-
Sự phát triển của khoa học và logic học biện chứng (Sách chuyên khảo): Phần 2
81 p | 26 | 8
-
Quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về bài học kinh nghiệm “lấy dân làm gốc” trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta
10 p | 31 | 8
-
Sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
8 p | 129 | 6
-
Tư tưởng của Các Mác về vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay
11 p | 39 | 5
-
Nghiên cứu lý luận xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị
3 p | 91 | 4
-
Các lý thuyết về phát triển
0 p | 67 | 4
-
Thực trạng và giải pháp nâng cao vai trò của trường Đại học Cần Thơ đối với sự phát triển kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
7 p | 40 | 3
-
Sự phát triển lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
10 p | 5 | 3
-
Sự ra đời của xẫ hội so sánh: Lý luận của E.Durkheim và M.Weber
0 p | 81 | 1
-
Các mối quan hệ cần giải quyết trong phát triển văn hóa nhìn từ đề cương văn hóa năm 1943
6 p | 0 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn