SỰ THỎA ĐÁNG CỦA CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ TRANH CHẤP CỦA WTO
lượt xem 12
download
Người ta thường cho rằng việc các nước đang phát triển sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO với các nước công nghiệp sẽ là sự lãng phí về thời gian và tiền bạc. Người ta lập luận rằng ngay cả khi tranh cãi xảy ra, một nước đang phát triển có một phán quyết pháp lý rõ ràng rằng một nước công nghiệp đã vi phạm những nghĩa vụ pháp lý của mình thì nước đang phát triển này cũng không có một biện pháp hữu hiệu nào để cưỡng chế thi hành phán quyết đó....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SỰ THỎA ĐÁNG CỦA CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ TRANH CHẤP CỦA WTO
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Nin khĩa 2005 – 2006 Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đáng của các giải pháp xử lý tranh chấp của WTO SỰ THỎA ĐÁNG CỦA CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ TRANH CHẤP CỦA WTO Robert Hudec PHÂN TÍCH DƯỚI GIÁC ĐỘ CỦA MỘT NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Người ta thường cho rằng việc các nước đang phát triển sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO với các nước công nghiệp sẽ là sự lãng phí về thời gian và tiền bạc. Người ta lập luận rằng ngay cả khi tranh cãi xảy ra, một nước đang phát triển có một phán quyết pháp lý rõ ràng rằng một nước công nghiệp đã vi phạm những nghĩa vụ pháp lý của mình thì nước đang phát triển này cũng không có một biện pháp hữu hiệu nào để cưỡng chế thi hành phán quyết đó. Quy trình giải quyết tranh chấp của WTO chỉ có thể đưa ra sự trừng phạt mang tính cưỡng chế duy nhất là trả đủa thương mại – tức là nước khiếu kiện áp đặt những sự trừng phạt thương mại mang tính phân biệt đối xử với các quốc gia bị khiếu nại. Tuy nhiên biện pháp trả đủa thương mại do các nước đang phát triển tương đối nhỏ bé thực hiện không gây ra tổn thất nghiêm trọng nào đối với các nước công nghiệp lớn hơn. Cuối cùng người ta đi đến kết luận rằng việc trả đủa sẽ gây thiệt hại cho nước đang phát triển sử dụng nó nhiều hơn rất nhiều so với nước công nghiệp bị áp đặt sự trừng phạt thương mại. Kinh nghiệm này xem ra cũng có nhiều phần rất đúng. Thực ra, “luật” của WTO không cung cấp cho những nước nhỏ sự bảo vệ giống như là sự bảo vệ của những hệ thống pháp lý trong nước hoàn chỉnh dành cho các công dân của mình. Những giải pháp của hệ thống WTO cho phép các nước lớn áp đặt những cưỡng chế thi hành lên các nước nhỏ mạnh hơn là các nước nhỏ áp đặt lên các nước lớn trong tình huống ngược lại. Những thiếu sót của hệ thống luật pháp của WTO trong tình huống này đã gây ra một tranh cãi hợp pháp cho chính phủ các nước đang phát triển khi họ phải quyết định có nên vận dụng hệ thống giải quyết tranh chấp này để chống lại các nước lớn hay không. Hơn nữa, những thiếu sót này lại đặt ra câu hỏi liệu rằng có đáng để cho các nước đang phát triển tiêu tốn nguồn lực thương thảo của mình nhằm nổ lực để sửa chữa cho những thiếu sót này và nếu như vây thì cần phải cải tổ cụ thể như thế nào. Trong chương này, tôi sẽ khảo sát những dữ kiện đằng sau kinh nghiệm phổ biến này một cách cẩn thận hơn. Mục đích của tôi không phải là để chứng minh rằng kinh nghiệm phổ biến này là hoàn toàn sai. Đúng hơn là, tôi hy vọng sẽ chỉ ra rằng vấn đề ở đây, cũng như nhiều vấn đề khác, không phải là một vấn đề đã rõ rành rành và thông thường là được định trước. Tôi nghĩ, điều quan trọng là các viên chức chịu trách nhiệm quyết định những vấn đề này có một sự hiểu biết chính xác cái gì đúng và cái gì sai của các giải pháp trong hệ thống hiện tại của WTO, và hệ thống được vận hành tốt hay kém như thế nào trong thực tiễn. Mục đích của tôi là phát thảo ra ít nhất một vài thông tin cần thiết để có được sự thông hiểu đó. Cưỡng chế thi hành trong hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT Sự yếu kém của hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT, hoạt động từ năm 1984 đến năm 1994, đã được mô tả thường xuyên đến nỗi không cần phải đi sâu thêm vài chi tiết. Toàn bộ hệ thống dựa trên một cơ chế quyết định nhất trí, điều này có nghĩa là cần phải có sự đồng ý Bernard Hoekman et al. 1 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO của nước bị khiếu kiện trước khi các thủ tục như: lên danh sách hội đồng xét xử, xác định các điều khoản tham chiếu, ban hành phán quyết, phê chuẩn việc trả đũa… có thể được tiến hành. Sửa đổi chính mà Bản Hướng dẫn Giải Quyết Tranh Chấp Của WTO đưa ra là làm cho thủ tục này tự động được tiến hành khi có yêu cầu của bên khiếu kiện dù có hay không sự đồng ý của bên bị khiếu kiện. Ngoài khuyết điểm chính nêu trên, các giải pháp tu chỉnh chính thức của hệ thống pháp lý GATT khi phát hiện có sự vi phạm pháp lý cũng còn khá hạn chế. Một phán quyết về vi phạm cũng chỉ cho phép chính phủ nước khiếu kiện ra một “kiến nghị chung chung” yêu cầu chính phủ nước bị khiếu kiện tuân thủ các nghĩa vụ của mình. Kiến nghị này lại chỉ nhằm vào hành vi trong tương lai chứ không có sự bồi thường cho những thiệt hại do sự vi phạm đó đã gây ra. Cũng không có giới hạn thời gian để buộc phải tuân thủ và quá trình đạt được sự tuân thủ đó có thể kéo dài nhiều năm. Chính phủ nước khiếu kiện đôi lúc có thể yêu cầu cho phép trả đũa bằng cách áp đặt những rào cản thương mại tương ứng, nhưng yêu cầu này có thể bị chính phủ nước bị khiếu kiện phủ quyết. Trong giai đoạn hoạt động gần nhất của GATT, chỉ có hai yêu cầu cho phép trả đũa được đưa ra, cả hai đều nhằm chống lại Hoa Kỳ và cả hai đều bị phủ quyết1. Mặc dù bên bị khiếu kiện có khả năng cản trở thủ tục xét xử, thủ tục xét xử tranh chấp của GATT gặt hái một số lượng đáng kể những khiếu nại về thủ tục giải quyết tranh chấp trong 50 năm lịch sử của nó. Theo nghiên cứu của cá nhân tôi về những vụ khiếu kiện của GATT từ năm 1948 đến cuối năm 1989, đã có 207 vụ khiếu kiện. Trong đó, 88 vụ đã có phán quyết. Trong số 88 vụ có phán quyết thì 68 vụ là phán quyết về vi phạm. Trong thập kỷ 1980, khi hệ thống GATT phát triển, đã có 115 vụ khiếu kiện và từ đó có 47 phán quyết mà trong đó 40 vụ là phán quyết về vi phạm (Hudec 1993: 277-78). Số liệu sơ bộ của nghiên cứu tiếp theo đó đã liệt kê thêm 71 vụ khiếu kiện trong năm năm hoạt động cuối cùng của GATT (1990 đến 1994), với 22 phán quyết, trong đó có 20 phán quyết về vi phạm2. Mặc dù bên bị khiếu kiện có khả năng ngăn chặn việc thông qua những phán quyết bất lợi, đại đa số các phán quyết về vi phạm đã được thông qua. Hơn nữa, hàng loạt những phán quyết về vi phạm đó, kể cả những phán quyết không được thông qua, đưa đến việc chỉnh đốn đáng hài lòng về lề thói (thông lệ) đang gây ra vấn đề. Trong ba thập kỷ đầu tiên, hệ thống GATT đã đạt được một tỷ lệ thành công gần như 100 phần trăm trong việc làm cho các bên tranh chấp thoả mãn với với các phán quyết pháp lý. Trong những năm 1980, khi các chính phủ bắt đầu sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp này để xử lý các vấn đề tranh cãi mang tính chất chính trị nhiều hơn thì tỷ lệ thành công giảm xuống còn khoảng chừng 81 phần trăm – thấp hơn tiêu chuẩn của hầu hết hệ thống luật của các quốc gia – nhưng vẫn là một thành công đáng kể của một thể chế luật quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực nhạy cảm về chính trị của chính sách thương mại (Hudec 1993: 285-94). Cho dù những khiếu kiện của các nước đang phát triển không đạt được mức độ thành công cao như các vụ khiếu kiện của các nước phát triển, các kết quả với tỷ lệ cao trên số vụ khiếu kiện là vẫn rất đáng khích lệ. Trong suốt lịch sử của GATT, các nước đang phát triển khởi kiện 28 vụ . Trong đó, 17 vụ được phán quyết và 11 vụ trong số này là phán quyết về vi phạm, và 10 trong số 11 vụ này (chiếm tỷ lệ 91 phần trăm) có kết quả thành công. Trong số 22 vụ được biết là có cơ sở khiếu kiện pháp lý hợp lệ, 18 vụ (chiếm 82 phần trăm) đạt được kết quả mỹ mãn. Ngay cả trong các vụ tranh chấp căng thẳng hơn trong những năm 1980, các Bernard Hoekman et al. 2 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO khởi kiện hợp pháp của các nước đang phát triển cũng đạt một tỷ lệ thành công là 73 phần trăm (Hudec 1993: 315-26). Sự tương phản nghịch lý giữa một bên là những thủ tục mang tính tự nguyện và những giải pháp yếu ớt của hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT và một bên là tỷ lệ thành công cao hàm chứa một bài học. Bài học đó là sự cưỡng chế thi hành của các nghĩa vụ pháp lý quốc tế không thể lý giải được bằng sự phân tích nông cạn về các thủ tục giải quyết tranh chấp và các giải pháp khắc phục. Việc cưỡng chế thi hành đòi hỏi phải thuyết phục các chính phủ phải hủy bỏ những quyết định vi phạm thỏa thuận mà họ đã đề ra. Các chính phủ không phải là những cá nhân. Họ là những định chế phức tạp và ra quyết định theo những cách thức riêng biệt, thường là phi lý - cái mà chúng ta gọi là “chính trị”. Ngay cả những chính phủ nhỏ cũng đủ mạnh để có thể chịu đựng được những áp lực mà những cá nhân không chịu đựng được. Tuy nhiên, các chính phủ, thường có lợi ích lâu dài trong hiệu quả của mối quan hệ pháp lý với các chính phủ khác, và vì vậy, họ có xu hướng hành động giữ gìn các mối quan hệ đó. Suy cho cùng, các quyết định tuân thủ của các chính phủ được dựa trên những tính toán về lợi ích hơn là sự ép buộc. Theo quan điểm tôi, thông thường sự tuân thủ của một chính phủ đối với các phán quyết là sản phẩm của ít nhất ba yếu tố liên quan nhau ảnh hưởng đến các quyết định về chính sách thương mại của các chính phủ đó. Thứ nhất, có vài viên chức trong bộ máy ra quyết định của chính phủ bị khiếu kiện muốn theo đuổi cách hành xử do những nghĩa vụ pháp lý của GATT yêu cầu vì chính lợi ích của mình. Những viên chức này cùng với những nhóm có lợi ích riêng cùng chia sẽ quan điểm này đã tạo thành một động lực chính trị ngay trong chính phủ nước bị khiếu kiện, và hiệu lực của các phán quyết của GATT sẽ làm cho họ có ảnh hưởng lớn hơn trong quá trình ra quyết định của đất nước. Thứ hai, rất nhiều các viên chức nhà nước và những nhóm có lợi ích riêng trong quá trình ra quyết định của đất nước thấy được giá trị của chính hệ thống luật pháp này và tin rằng cả họ và đất nước của họ về lâu dài sẽ có lợi từ một hệ thống pháp luật hiệu quả hơn là từ một trường hợp bất tuân thủ này hay khác. Mặc dù những người này có thể không muốn ràng buộc đất nước mình vào một cam kết chắc chắn với một hệ thống pháp luật cụ thể nào hoặc có thể không có đủ hậu thuẫn về chính trị để làm như vậy. Tuy nhiên họ sẽ phản đối mạnh mẽ một vài trường hợp vi phạm cụ thể mà sẽ làm thiệt hại đến uy tín của hệ thống này. Cuối cùng, không nên đánh giá thấp áp lực tác động từ các chính phủ khác. Nếu đa số các chính phủ thành viên tin vào giá trị của hệ thống pháp luật hiện tại thì những chính phủ này sẽ có những động cơ tương tự để ngăn cản việc không tuân thủ các phán quyết pháp lý và sẽ bày tỏ quan điểm cùng lên án hành động không tuân thủ. Nhưng ngay cả nếu cả ba yếu tố này đều tồn tại trong những trường hợp mà không có được phán quyết pháp lý, các phán quyết pháp lý cũng chỉ tựu trung vào vấn đề tuân thủ và hiệu lực qui ước của các phán quyết đó sẽ làm tăng thêm sức mạnh của những bên tham gia và ủng hộ sự tuân thủ. Việc này xảy ra là do phán quyết có được cưỡng chế thi hành bằng những chế tài bắt buộc hay không. Như đã nói ở trên, thủ tục giải quyết tranh chấp của GATT gần như không bao giờ sử dụng việc trả đũa như một công cụ cưỡng chế thi hành. Việc GATT đã mang lại rất nhiều những phán quyết pháp lý thành công cho thấy rằng những động lực bên trong chính phủ như miêu tả ở trên đóng vai trò quan trọng mang lại những kết quả thắng lợi. Dĩ nhiên, điều này không Bernard Hoekman et al. 3 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO có nghĩa là cưỡng chế thi hành sẽ không có được hiệu quả mạnh nếu như việc trả đũa đã được sử dụng nhiều hơn trước đó. Trong cùng một hoàn cảnh, thì người ta cho rằng sự tuân thủ sẽ cao nếu có sự trả đũa hơn là không có trả đũa. Điểm chính là, một phán quyết pháp lý mà không cho phép trả đũa vẫn có thể là một công cụ chính sách hiệu quả cho một nước đang phát triển tìm cách làm cho các nước lớn hơn chấm dứt việc vi phạm pháp lý. Mặc dù không phải luôn luôn lúc nào cũng có hiệu quả, nhưng trong nhiều trường hợp nó lại có hiệu quả hơn cả những phương thức thực tiễn khác. Những quyết sách mà chỉ tập trung vào khả năng cho một sự trả đũa thì sẽ có rủi ro bỏ qua các giải pháp khác hoặc quan trọng hơn nữa là những lợi ích có thể có chỉ từ một phán quyết pháp lý đơn thuần. Các Cải Cách của WTO Ở Vòng Đàm Phán Uruguay, các chính phủ thành viên của WTO đã nhất trí thiết lập một hệ thống giải quyết tranh chấp nghiêm khắc hơn. Như đã trình bày ở trên, họ đã bắt đầu bằng cách để cho trình tự tranh chấp diễn ra một cách tự nhiên. Diễn tiến tự nhiên của trình tự làm cho các nước lớn khó mà ép các nước nhỏ hơn từ bỏ những khiếu kiện pháp lý của mình. Bây giờ thì sẽ có ít đối đầu ngoại giao hơn, nếu những nước đang phát triển muốn có một phán quyết pháp lý. Các giải pháp được công nhận để cưỡng chế thi hành một phán quyết có hiệu lực ràng buộc cũng được tăng cường. Cùng với việc làm cho việc thực hiện trả đũa trở nên dễ dàng, các cải cách của Vòng Đàm Phán Uruguay cũng đã thực hiện một số thay đổi nhằm để tăng cường hiệu lực của chính các phán quyết. Giải pháp cơ bản được nêu ra trong DSU vẫn là “kiến nghị” có tính ràng buộc pháp lý yêu cầu bên bị khiếu kiện phải điều chỉnh hành vi của mình để tuân thủ. Mặc dù kiến nghị này cũng chỉ điều chỉnh cho tương lai (nó không đưa ra giải pháp cho những thiệt hại do sự vi phạm đã gây ra), nhưng đã có những bước hành động nhằm làm cho nó có hiệu lực hơn3. Các hội đồng xét xử sẽ có quyền hạn rõ ràng hơn để đưa ra các gợi ý không ràng buộc về cách thức tuân thủ. Đây là một quyền hạn mà nếu được sử dụng sẽ làm tăng thêm trọng tâm của các áp lực tuân thủ. Cũng đã có nhiều bổ sung cho thủ tục theo dõi một kiến nghị sau khi nó được ban hành. Bây giờ thì đã có một thủ tục để thiết lập một giới hạn thời gian, khoảng từ 6 đến 15 tháng, cho việc tuân thủ. Trong thời hạn đó, mức độ vi phạm sẽ được xem xét định kỳ, và nó sẽ được tiếp tục xem xét theo định kỳ, mà không có một hành động nào của bên khiếu kiện, cho đến khi nào sự vi phạm chấm dứt. Đối với chính phủ nào mà không hay không thể thực hiện trả đũa được, thì những thay đổi này sẽ giúp bên khiếu kiện dễ dàng tập trung và duy trì những áp lực của cộng đồng cho việc tuân thủ. Trả đũa là một biện pháp cuối cùng cho việc vi phạm. Khác với thủ tục tranh chấp của GATT trong đó trả đũa là một giải pháp mơ hồ và ít được sử dụng. Thủ tục mới của WTO trình bày biện pháp trả đũa như là một mục tiêu chính của cơ cấu giải pháp. Bên bị khiếu kiện không còn có quyền phủ quyết những yêu cầu trả đũa nữa. Điều này rõ ràng cho thấy biện pháp trả đũa sẽ được phép thực hiện bất cứ khi nào có sự vi phạm. Việc sử dụng biện pháp trả đũa phải căn cứ theo các thủ tục về giới hạn thời gian để giải quyết các tranh cãi xem người bị khiếu kiện thực ra có vi phạm phán quyết không, mức độ và tính chất của biện pháp trả đũa. Nhưng những thủ tục này chỉ làm trì hoãn giải pháp đi chút ít mà thôi. Bernard Hoekman et al. 4 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO Xét theo kinh nghiệm trong quá khứ, việc WTO nhấn mạnh rằng biện pháp trả đũa như là một công cụ cưỡng chế thi hành lại trở nên lệch hướng. Việc nhấn mạnh vào biện pháp trả đũa dường như là kết quả của một nổ lực thỏa mãn những áp lực về một sự cưỡng chế mạnh mẽ hơn. Các nhà thương lượng của Hoa Kỳ đã phải thuyết phục Quốc Hội nước này là thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO có những hiệu lực cưỡng chế mạnh mẽ. Làm được điều này, những nhà thương lượng này đã thỏa mãn được quan niệm rất đơn giản của các nhà làm luật rằng sự cưỡng chế thi hành chỉ có thể có được bằng biện pháp trả đũa. Cũng như thông thường các nhà thương lượng cố gắng thuyết phục các cơ quan lập pháp trong nước ủng hộ một thỏa thuận thương mại mới, các nhà thương lượng ở Vòng Đàm Phán Uruguay có lẽ đã hứa hẹn một hiệu lực cưỡng chế của việc trả đũa mạnh hơn nó thực sự có. Những đe dọa của biện pháp trả đũa có thể là hữu ích, nhưng nó cũng sẽ trở nên phản tác dụng nếu được sử dụng quá thường xuyên hay quá mạnh. Các chính phủ cần phải nhớ rằng cưỡng chế, bao gồm cả việc tạo ra các áp lực chính trị cần thiết để mang lại một sự tuân thủ như mong muốn, là một quy trình phức tạp hơn nhiều so với một biện pháp trả đũa đơn thuần. Việc nhấn mạnh vào biện pháp trả đũa có lẽ làm cho hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO trở nên thiên vị hơn bao giờ hết. Sự trả đũa của các nước lớn sẽ có hiệu quả cao nhất khi nhằm vào các nước nhỏ hơn. Như vậy, theo những cải cách mới này, việc dễ dàng thực hiện các biện pháp trả đũa vẫn sẽ tạo cho các nước lớn hơn nhiều ưu thế hơn các nước nhỏ khi các nước này không thể thực hiện việc trả đũa một cách hiệu quả được. (Không cần phải nói, sự thiên vị ở đây là dưới khía cạnh ưu thế cho chính phủ các nước công nghiệp). Tuy nhiên, một lần nữa, cần phải nhấn mạnh rằng, sự thiên vị của thủ tục này không có nghĩa là các khiếu kiện hợp pháp của các nước đang phát triển – là các khiếu kiện hợp pháp mà không có biện pháp trả đũa - không là một công cụ chính sách hữu dụng và hiệu quả. Ngược lại, những cải cách nhỏ hơn ở Vòng Đàm Phán Uruguay đã làm cho các khiếu kiện không kèm theo có biện pháp trả đũa trở nên có hiệu lực hơn trước đây. Thiên vị là một vấn đề, tuy nhiên vấn đề này là riêng biệt và chẳng liên quan gì đến ích lợi của hệ thống giải quyết tranh chấp mang lại cho các nước đang phát triển. Các Đề Xuất Cải Cách Bổ Sung Để Khắc Phục Tình Trạng Thiếu Công Bằng Phần này gồm những thông tin cơ bản về những cải cách đã được đề xuất trong quá khứ nhằm khắc phục tình trạng thiếu công bằng trong các thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO và GATT. Bồi Thường Cho Các Thiệt Hại Đã Gây Ra Trong gần suốt quá trình lịch sử của GATT, quan điểm phổ biến cho là chỉ có một giải pháp cho sự vi phạm các nghĩa vụ là một lệnh yêu cầu nước bị khiếu kiện phải tuân thủ trong tương lai. Ngoại trừ hàng loạt các vụ chống phá giá và bù đắp thuế quan (AC/CVD) trong những năm 1980 và đầu những năm 1990, các chính phủ bị khiếu kiện không được yêu cầu phải bồi thường cho các khoản thiệt hại gây ra trước khi những vụ vi phạm được điều chỉnh lại cho phù hợp. Thách thức lớn nhất cho quan điểm hướng tới tương lai của các giải pháp của GATT là một nổ lực vào năm 1965 của các nước đang phát triển ghi thêm việc bồi thường bằng tiền Bernard Hoekman et al. 5 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO vào danh sách các giải pháp giải quyết tranh chấp. Việc này xảy ra khi các thành viên là các nước đang phát triển của GATT đã de dọa sẽ loại bỏ GATT ra khỏi UNCTAD nhằm đạt được một thỏa thuận tốt hơn với GATT. Nhóm các nước đang phát triển đã đưa ra vài đề xuất nhằm cải thiện hoạt động của thủ tục giải quyết tranh chấp. Một đề nghị đã đạt được chấp thuận và vẫn còn hiệu lực cho đến nay là cho phép thực hiện một thủ tục nhanh dành riêng cho khiếu kiện của các nước đang phát triển4. Hai đề xuất khác cũng liên quan đến việc cải thiện các giải pháp là: đề xuất về bồi thường các thiệt hại bằng tiền cho các nước đang phát triển mà đã bị tổn hại do các hạn chế thương mại bất hợp lý của GATT và đề xuất về trả đũa tập thể5. Cơ sở lý luận của đề xuất bồi thường bằng tiền của các nước đang phát triển là việc các hạn chế thương mại bất hợp lý của GATT đã gây thiệt hại đáng kể cho các nền kinh tế vốn mong manh của các nước đang phát triển và thiệt hại này còn được nhân lên với tác động kiềm hãm quá trình phát triển. Trong các trường hợp này, các nước đang phát triển cho rằng các giải pháp định hướng tương lai không đủ để bù đắp các thiệt hại đã được gây ra. Họ đề nghị, thay vào đó, các nước đang phát triển phải được quyền thu hồi bằng tiền các khoản thiệt hại trong quá khứ. Khoản tiền này không phải cho các lợi ích cá nhân mà sẽ bù đắp cho các chương trình phát triển kinh tế của chính phủ giải quyết các hậu quả thiệt hại. Nghĩa vụ bồi thường bằng tiền được hiểu là sẽ có hiệu lực cho đến khi nào sự vi phạm được sữa chữa. Các nước đang phát triển đã rất tích cực ủng hộ cho các đề xuất bồi thường bằng tiền trong một loạt các cuộc họp của ủy ban trong năm 1965. Các nước công nghiệp thì cũng phản đối đề xuất đó với một sự quyết liệt tương tự và cho rằng các thiệt hại bằng tiền hoàn toàn nằm ngoài khả năng thực hiện. Họ cho rằng trong thực tế GATT không bao giờ có ý định thực hiện việc đó một cách kiên quyết. Và đề xuất đã không được chấp thuận. Việc GATT từ chối áp dụng các hình thức bồi thường cho những vi phạm trong quá khứ đã phản ánh rõ quan điểm là xem luật lệ của GATT thấp hơn luật của quốc gia. Theo luật quốc gia của hầu hết các thành viên của GATT, thuế hay các khoản phí được thu không đúng luật sẽ được coi là bất hợp pháp và chính phủ phải hoàn trả các khoản tiền đã thu đó. Các luật thương mại của các nước đó cũng qui định tương tự cho các khoản thu không đúng luật. Tuy nhiên, theo tôi biết, chỉ một vài nước cho phép hoàn trả các khoản thuế hay phí đã thu không đúng theo qui định của GATT 6. Bằng cách giới hạn các luật lệ của GATT trong một hình thức như vậy, chính phủ các nước cho rằng họ không muốn các nghĩa vụ pháp lý đối với GATT có những hiệu lực pháp lý trực tiếp đó. Cuối cùng, đó là một sự tuyên bố rằng các chính phủ không muốn (hay không có đủ hậu thuẫn chính trị) để làm cho các thỏa thuận thương mại có một sự ràng buộc cao như vậy. Chỉ có một ngoại lệ trong việc thực hành nhất quán các giải pháp định hướng tương lại của GATT là một loạt các quyết định của GATT từ năm 1985 đến năm 1995 liên quan đến việc chống phá giá và bù đắp thuế quan mà trong đó các hội đồng xét xử đã phán quyết yêu cầu hoàn trả các khoản thuế đã thu không đúng quy định của GATT. Không rõ tại sao các hội đồng xét xử này tách riêng trường hợp chống phá giá và bù đắp thuế quan và có những giải pháp khắt khe hơn là những giải pháp cho các trường hợp vi phạm qui định của GATT về thuế nhập khẩu. Một hội đồng xét xử của GATT đã từng tham chiếu theo các quy định trong Luật Chống Phá Giá năm 1979 quy định chính phủ phải hoàn tiền các khoản thu vượt. Nghĩa vụ này chỉ áp dụng cho trường hợp thu vượt theo như quy định của các luật chống phá giá của quốc gia và chính phủ các nước dường như sẽ tuân thủ điều này khi họ thấy rằng đã có Bernard Hoekman et al. 6 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO sự lạm thu căn cứ theo luật quốc gia7. Hơn nữa, chống phá giá và bù đắp thuế quan chỉ dựa hoàn toàn trên những vụ kiện nhất định chống lại một số công ty nhất định. Vì vậy, hiệu lực của nó dường như chỉ tùy thuộc vào hiệu lực của những vụ kiện đó.Cuối cùng, cần phải nhận thấy rằng tai tiếng của các hành vi chống phá giá và bù đắp thuế quan làm cho chúng trở thành mục tiêu cho những quy định nghiêm khắc. Thoạt tiên, các chính phủ thành viên cả GATT dường như đã đồng ý với nhau rằng giải pháp hoàn tiền cần phải được sử dụng trong các trường hợp như vậy. Vào năm 1985, trong một vụ Phần Lan khiếu kiện New Zealand, phán quyết đầu tiên theo tinh thần đó đã được Hội Đồng GATT chấp thuận và New Zealand đã thực hiện hoàn tiền8. Sau đó, đã có sáu phán quyết của các hội đồng xét xử yêu cầu hoàn tiền nhưng trong mỗi vụ đều không có kết quả cuối cùng. Hai trong số phán quyết này đã được thực hiện nhưng chỉ sau khi các vấn đề trở thành tranh cãi gay gắt và bên khiếu kiện bảo lưu phán quyết hoàn tiền của hội đồng xét xử 9. Bốn phán quyết khác đều bị chính phủ nước bị khiếu kiện cản trở với ít nhất là một phản đối thực hiện giải pháp hoàn tiền10. Phản đối chủ yếu các phán quyết hoàn tiền này là Hoa Kỳ, nối tiếp theo là Cộng Đồng Châu Âu (EC)11. Mặc dù các chính phủ tái thương lượng các điều khoản của Luật Chống Phá Giá của GATT và Luật Trợ Cấp của GATT ở Vòng Đàm Phán Uruguay, các cuộc thương lượng đã không mang lại kết quả cho sự bế tắc của các phán quyết hoàn tiền. Hoa Kỳ thể hiện quan điểm của mình trong mặt hàng xi măng khi Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua điều luật, trong hiến pháp năm 1994 thực thi các thỏa thuận Vòng Đàm Phán Uruguay, qui định các khoản thuế AD/CVD hay thuế phòng vệ đã được thanh toán trong các lô hàng nhập “đã được giải tỏa (đóng thuế và thông quan) sẽ không được hoàn trả, mặc dù các khoản thuế trái với qui định của GATT có thể được thu hồi đối với các lô hàng nhập “chưa được giải tỏa”12. Vấn đề về các phán quyết hoàn tiền của AD/CVD chỉ được nêu lên trong thủ tục giải quyết tranh chấp mới của WTO, trong vụ Xi Măng của Guatemala13. Tuy nhiên, hội đồng xét xử trong vụ đó, đã không phán quyết về vấn đề này và toàn bộ kết luận của họ đã bị Tòa phúc thẩm hủy bỏ dựa trên các bằng chứng khác. Cuối cùng, cần phải lặp lại rằng yêu cầu hoàn tiền cho các khoản thuế chống phá giá và bù đắp thuế quan trái qui định của GATT vẫn còn là một ngoại lệ của các thực hành nhất quán của GATT từ chối hoàn tiền cho các khoản thuế và tất các khoản thu khác sai qui định của GATT. Một lý do minh chứng cho việc không thực hiện các giải pháp hoàn tiền là nhiều chính phủ không có cơ chế luật pháp để hoàn tiền cho các khoản thuế và phí trong các trường hợp như vậy. Trong một sự kiểm soát thường xuyên các khoản chi tiêu của chính phủ, ta có thể thấy rằng chỉ một vài nước muốn có cơ chế đó, đặc biệt là nếu chỉ để hoàn tiền cho các khoản thu thuế sai qui định của GATT.Các các nước đang phát triển sẽ suy nghĩ rất kỹ về việc có nên gánh vác lấy trách nhiệm hoàn tiền đó không. Trong khi đó, áp lực phản đối của liên minh Hoa Kỳ- EU về việc hoàn tiền cho các vụ AD/CVD hứa hẹn trở nên rất dữ dội, đặc biệt là khi sự phản đối của Hoa Kỳ bây giờ là qui định của pháp luật của họ. Các Hình Thức Trả Đũa Thương Mại Khác Khiếu nại tiêu chuẩn của các nước đang phát triển về giải pháp cho việc trả đũa thương mại là nó có hiệu quả quá kém khi chống lại các nước lớn. Giá trị của một sự trả đũa chỉ được giới hạn bằng mức tổn thất thương mại do các hành động vi phạm đang xét đến gây ra. Vì Bernard Hoekman et al. 7 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO mỗi nước đang phát triển chỉ chiếm một thị phần nhỏ trong thị trường của nước bị khiếu kiện nên các biện pháp trả đũa của họ chỉ ảnh hưởng một phần nhỏ của thương mại của nước này và thường là không đủ để gây ra bất cứ khó khăn nào cho cho nước công nghiệp đó hay các nhà sản xuất ở nước đó. Các thảo luận hàn lâm về các giải pháp của GATT/WTO thường dẫn đến một câu hỏi liệu trả đũa thương mại trong GATT/WTO có nên được đo lường theo một mức độ đảm bảo rằng giá trị của sự trả đũa là đủ lớn để gây ảnh hưởng cho những nước lớn hơn. Các đề xuất như vậy thường được cân nhắc trên cơ sở là luật pháp phải có những chế tài đủ mạnh để thực thi được nhiệm vụ của nó. Có hai lập luận phản đối được đưa ra chống lại những đề xuất cho việc trả đũa theo tỷ lệ. Điều quan trọng là phải khẳng định rằng mục đích của trả đũa không bao giờ là một chế tài trừng phạt. Ngược lại, quyền được trả đũa được xem xét như một quyền duy trì sự cân bằng của tương quan đối ứng trong các nghĩa vụ của GATT. Giả định ban đầu là các nghĩa vụ do mỗi nước thực hiện bao gồm một sự cân bằng về lợi ích – lợi ích cho các nước khác dưới hình thức của chính các nghĩa vụ của một nước, cân bằng với các lợi ích mà một nước có được từ các nghĩa vụ của các nước khác thực hiện. Nguyên lý là việc vi phạm các nghĩa vụ pháp lý làm giảm lợi ích mà nước khiếu kiện nhận được và nếu sự vi phạm không được sữa chữa thì nước khiếu kiện phải được phép tái xác lập sự cân bằng cách không thực hiện chính các nghĩa vụ của họ. Tuy nhiên, một sự cân bằng như thế chỉ yêu cầu sự trả đũa tương ứng với thiệt hại của các lợi ích. Lý thuyết bồi thường này của trả đũa thương mại nằm xuyên suốt trong luật pháp của GATT từ những ngày của các cuộc đàm phán của Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (ITO) trong những năm 1947-194814. Lý thuyết đó dĩ nhiên chỉ là một sự lựa chọn chính trị. Các chính phủ thành viên của GATT luôn có thể tiếp nhận một tiêu chuẩn khác nếu họ muốn làm như thế. Tầm vóc lịch sử của lý thuyết bồi thường này đơn giản là nó cho thấy một số thành viên của GATT kiên quyết không muốn một bộ luật với những chế tài mạnh mẽ hơn. Lập luận phản đối thứ hai về việc trả đũa theo tỷ lệ là một lập luận thực tế. Cá nhân một nước đang phát triển thường không có một thị trường đủ lớn để tích tụ một sự trả đũa đủ mạnh để gây tổn thất đáng kể cho một nước công nghiệp lớn – ít nhất là cũng không phải đóng cửa phần lớn nền kinh tế của mình. Cách duy nhất để đạt được một một sự trả đũa đáng kể là tiến hành những hình thức trả đũa tập thể với nhiều nước tham gia cùng một lúc. Vì vậy, đề xuất này thường chuyển hóa thành trả đũa tập thể và yêu cầu GATT rút lại cả hạn mức bồi thường cho sự trả đũa lẫn quan điểm là chỉ có bên khiếu kiện mới có quyền trả đũa. Năm 1965, các đề xuất của các nước đang phát triển về việc cải cách các biện pháp giải quyết tranh chấp của GATT cũng đã bao gồm một yêu cầu về trả đũa tập thể15. Lý lẽ của đề xuất này cũng giống như đã được nói ở trên: một nước đang phát triển không thể thực hiện một sự trả đũa đủ mạnh để gây tổn thất đáng kể cho các nước công nghiệp lớn hơn. Trong những trường hợp như vậy, có ý kiến cho rằng , một số nước sẽ được phép từ chối tiếp cận thị trường của một nước lớn đang bị khiếu kiện. Có nghĩa là, sự trả đũa này sẽ có giá trị đủ trừng phạt mặc dù cũng có đã có những ý kiến cho rằng mức độ trả đũa cao hơn có thể làm nền móng cho sự “phát triển theo cấp số nhân” làm tăng thêm mức độ thiệt hại mà các nước đang phát triển phải gánh chịu từ những chế tài các hoạt động thương mại vi phạm quy định của GATT. Bernard Hoekman et al. 8 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO Các nước phát triển thì cực lực phản đối đề xuất này. Đằng sau sự phản đối dựa trên sự không sẵn lòng thay đổi hạn mức “bồi thường” cho sự trả đũa, cũng có những phản đối dựa trên lý luận là sự trả đũa tập thể như vậy sẽ tạo nên nhiều chế tài mới sẽ bóp nghẹt các kênh thương mại. Trong các trao đổi không chính thức, đại diện các nước công nghiệp đã cố gắng chỉ ra rằng sự đoàn kết sẽ làm các nước không liên quan đến các tranh chấp sẽ sớm thấy mệt mỏi vì luôn được yêu cầu làm thiệt hại chính công dân của mình vì mục đích này. Nằm sâu bên trong những lý lẽ này là việc các nước phát triển biết rằng các chế tài hiện tại đã rất phù hợp với mình mà cũng chính vì thế mà các nước đang phát triển không thích chúng. Nhìn các vấn đề từ khía cạnh của họ là các nước có khả năng bị khiếu kiện, các nước phát triển hoàn toàn hài lòng với vị trí hội viên một hệ thống luật pháp mà theo đó họ có thể gây hại cho người khác nhưng những người không thể thực sự gây hại cho họ. Trả Đũa Chéo Trong Thỏa Thuận TRIPS Trong năm 1999, đã có hàng loại các lý lẽ mà cho rằng trả đũa thương mại không phải là một công cụ chính sách thực tế cho các nước đang phát triển đã được tập trung lại trong một hình thức trả đũa mới do Ecuador khởi xướng trong Vụ Tranh Chấp Về chuối (Bananas case Box 10.1)16. Ecuador đã cố gắng nắm bắt lợi thế của các qui định về “trả đũa chéo” ở Điều 22.3 của TÌNH HUỐNG 10.1 – VỤ TRANH CHẤP VỀ CHUỐI Chính sách nhập khẩu của Liên Minh Châu Âu (EU) đã từ lâu là tâm điểm của sự tranh cãi. Trong thực tế, EU duy trì một hệ thống ưu tiên cho các loại chuối do các nước Châu Phi, Caribbean và Thái Bình Dương sản xuất xâm nhập thi trường. Kết quả là các nhà sản xuất ở vùng Caribbean luôn có một thị phần rất lớn trong thị trường EU, gây thiệt hại cho các nước Trung và Nam Mỹ. Sự ưu đãi này đã làm trì hoãn quá trình thành lập Cộng Đồng Kinh tế Châu Âu (EEC) và trong thực tế đã gây ra tranh cãi giữa Pháp và Đức trong quá trình thương lượng thành lập EEC năm 1957. Đức đã có một chính sách tự do thương mại cho các loại chuối kể cả các loại chuối nhập khẩu từ các nước Mỹ La Tinh. Trong khi đó, Pháp lại duy trì một hàng rào bảo hộ cao cho các nhà sản xuất ở các nước thuộc địa của mình (Messerlin 2001). Những khác biệt này đã dẫn đến một việc thiết lập hàng rào quốc gia cho hoạt động thương mại bên trong EU dành cho thị trường Anh, Pháp và Tây Ban Nha để phục vụ cho các nước thuộc địa cũ. Các chính sách này là một cách hỗ trợ kém hiệu quả cho các thuộc địa cũ. Mỗi đô la được chuyển vào sẽ có giá là 5 đô la cho người tiêu dùng EU mà trong đó 3 đô chui vào túi các nhà phân phối và 1 đô bị tiêu phí (Borrell 1997). Trong năm 1993, trong một nổ lực để tạo một thị trường thống nhất, EU đã thực hiện một hệ thống cấp phép nhập khẩu và phân phối phức tạp cho toàn liên minh. Tổ chức thị trường chung này dựa trên các quan hệ thương mại trong lịch sử và được thiết kế để tiếp tục tạo một sự ưu tiên tiếp cận cho các nước ACP (các bên ký kết Hiệp Ước Lome). Nó bao gồm hai hệ thống thuế - một cho các nhà cung cấp truyền thống từ các nước ACP và một cho các nhà cung cấp không truyền thống từ các nước ACP và Mỹ La Tinh – và bốn phân loại nhà cung Bernard Hoekman et al. 9 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO cấp. Các lô hàng nhập khẩu không có hạn ngạch sẽ bị đánh thuế cao. Các nhà xuất khẩu chuối từ các nước thuộc địa cũ của Anh và Pháp ở Caribbean được cấp 30 phần trăm của tất cả các loại giấy phép cho các hạn ngạch không có quốc gia cụ thể. Những giấp phép này có thể được sử dụng để nhập chuối từ các nước ACP hay có thể bán cho những công ty muốn nhập chuối từ các nước Mỹ La Tinh. Thường xảy ra là trường hợp thứ hai, khi mà hệ thống phân bổ hạn ngạch tạo thành một sự chuyển nhượng tiền từ các công ty (phần lớn là của Hoa Kỳ) mua các giấy phép cho các công ty mà đã được cấp các giấy phép đó. Borrel (1997) đã ước lượng rằng hệ thống mới này còn tệ hơn hệ thống quốc gia cũ mà nó thay thế. Tổng chi phí cho người tiêu dùng của EU là khoảng 2 tỉ đô la, trong khi đó các nhà cung cấp ở các nước ACP chỉ thu được 150 triệu đô la – chi phí cho mỗi người tiêu dùng của EU là hơn 13 đô la cho mỗi đô la được chuyển vào. Các nhà sản xuất ở Mỹ La Tinh đã đưa ra hai trường hợp ra GATT để tranh cãi về các hệ thống quốc gia (năm 1992) và chính sách chung EU mới (1993). Họ đã thắng cả hai. Năm 1994, EU ký kết một Thỏa Thuận Khung Về Chuối với bốn nước (Costa Rica, Columbia, Nicaragua và Venezuela) mà theo đó các nước này được phân bổ những hạn ngạch riêng biệt miễn rằng họ sẽ không đưa vụ này ra WTO trước năm 2002. Năm 1996, bốn nước Mỹ La Tinh bị đặt ra ngoài thõa thuận trên (Ecuador, Guatemala, Honduras va Mehico) liên kết với Hoa Kỳ và đại diện cho các công ty đa quốc gia sản xuất trái cây của Hoa Kỳ đã khiếu kiện chính sách nhập khẩu của EU lên WTO và cho rằng nó đã phân biệt đối xử các nhà sản xuất và tiếp thị chuối của mình. Mục tiêu của việc công kích không phải hoàn toàn là các ưu đãi thuế quan dành cho các nước ACP - mà EU trước đó đã có một sự khước từ - mà là sự phân bổ các hạn ngạch. Báo cáo của hội đồng xét xử của WTO công bố năm 1997 thừa nhận chính sách nhập khẩu chuối của EU đã vi phạm các quy định về xâm nhập thị trường và chống phân biệt đối xử. Hệ thống hạn ngạch với biểu thuế suất kép đã cho thấy là không thống nhất với Điều XIII của GATT (yêu cầu không phân biệt đối xử) và việc phân bổ 30 phần trăm các giấy phép nhập khẩu cho các nhà cung cấp truyền thống ở các nước ACP là trái với các quy định về chống phân biệt đối xử của GATT. Khi xử kháng án, Hội Đồng Phúc Thẩm cũng tán thành phần lớn các kết luận của hội đồng xét xử ban đầu. Năm 1998, EU đã điều chỉnh chính sách của mình. Tuy vẫn tiếp tục sử dụng hệ thống hạn ngạch với biểu thuế suất kép, nhưng họ phân bổ hạn ngạch nhập khẩu cho các nước ngoài ACP trên cơ sở các thị phần trong quá khứ và bãi bỏ các phân loại các nhà cung cấp để phân bổ hạn ngạch. Các cuộc tham khảo ý kiến xem các biện pháp mới này có phù hợp với WTO cũng không có kết luận cuối cùng. Ngay trước khi hạn chót triển khai thực hiện tháng là Giêng 1999, Hoa Kỳ đã được phép trả đũa. Về việc này, EU phản ứng rằng trước tiên Hoa Kỳ cần phải có một sự thừa nhận của hội đồng xét xử rằng chính sách mới này không phù hợp với các luật lệ của WTO. Ecuado đã yêu cầu hội đồng xét xử ban đầu xem xét liệu các chính sách của EU có phù hợp không. Cơ Quan Giải Quyết Tranh Chấp (DSB) triệu tập lại hội đồng xét xử ban đầu để xem xét cả hai yêu cầu. Đồng thời, Hoa Kỳ yêu cầu DSB cho phép trả đũa EU với một giá trị là 520 triệu USD. EU đã phản ứng lại bằng một yêu cầu đưa ra trọng tài xét xử. Hội đồng xét xử đã bác bỏ lý lẽ của EU vì trước đó Ecuado đã không công nhận nó lý lẽ này. Trong trả lời cho Ecuado, hội đồng xét xử cũng thừa nhận rằng các biện pháp của EU không hoàn toàn tuân thủ theo WTO. Hội động xét xử này cũng quyết định rằng mức độ thiệt Bernard Hoekman et al. 10 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO hại của Hoa Kỳ chỉ tương đương 191.4 triệu USD. Theo đó, Hoa Kỳ được phép nâng mức thuế của mình đối với EU lên tương đương số tiền đó. Sự trả đũa của Hoa Kỳ bao gồm một điều khoản cho phép một “phương pháp xoay vòng” mà theo đó cứ mỗi lô hàng xuất khẩu khác nhau từ EU sẽ bị một mức thuế suất trả đũa tối đa là 100 phần trăm cho mỗi thời hạn sáu tháng. Quy trình này được lập ra nhằm để tối đa hóa sự “đau đớn” về chính trị của biện pháp trả đũa. Về mặt này thì nó thành công, minh chứng bằng việc ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm len của Anh phải vận động chính phủ chống lại nguy cơ áp đặt thuế suất cao cho các sản phẩm của họ.(Financial Times, 26 tháng Tám, 2000, trang 5). Cho đến cuối năm 1999, Ecuado cũng đã được phép trả đũa. Yêu cầu của họ có hai cái “đầu tiên” trong lịch sử của hệ hống thương mại này. Là một yêu cầu trả đũa đầu tiên từ một nước đang phát triển và lần đầu tiên có sự chấp thuận trả đũa chéo. Ecuado lý luận rằng nhập khẩu hàng hóa của mình từ EU quá ít để thực hiện toàn bộ việc trả đũa (giá trị do các trọng tài đưa ra là 200 triệu USD) nhằm vào hàng nhập khẩu từ EU. Họ cũng được phép ngưng thực hiện các nhượng bộ ở các thỏa thuận khác, bao gồm cả TRIPS, sau khi huy động hết tất cả các khả năng để trả đũa nhằm vào việc nhập khẩu các hàng hóa tiêu dùng của EU. (Hội đồng xét xử kết luận rằng việc trả đũa nhằm vào các sản phẩm trung gian hay máy móc sẽ “không hiệu quả “ – có nghĩa là rất tốn kém cho nền kinh tế). Các nhà thương lượng ở Vòng Đàm Phán Uruguay đã không tiên liệu được việc sử dụng hình thức trả đũa chéo. Mặc dù họ đã trù tính hình thức trả đũa chéo như một công cụ cưỡng chế thi hành thỏa thuận TRIPS (vì các nước đang phát triển không phải là các nước xuất khẩu các sản phẩm mang tính trí tuệ cao), hơn là một công cụ cho sự trả đũa từ các nước đang phát triển. Vào thời điểm soạn thảo quyển sách này, Ecuado đã chưa thực hiện các hành động trả đũa và các cuộc đàm phán vẫn đang tiếp tục. Vào tháng 10 năm 2000, EU đã đưa ra hệ thống hạn ngạch với ba biểu thuế suất được phân bổ theo tinh thần đến trước giải quyết trước và hướng đến chính sách một thuế suất trước năm 2006. Các nước Mỹ Latinh phản đối việc bãi bỏ cách tính dựa theo thị phần trong lịch sử còn Hoa Kỳ thì phản đối hạn ngạch thuế suất cho các sản phẩm chuối từ các nước ACP. Vụ Tranh Chấp Về Chuối chứng minh rằng bất đồng ý kiến giữa các bên về sự thỏa đáng của các giải pháp thực hiện có khả năng làm tăng các vụ việc mà hội đồng xét xử chỉ nhất thiết xem xét có một vấn đề tương tự. Nó cũng cho thấy sự yếu kém của các biện pháp cưỡng chế sau cùng, mặc dù sáng kiến sử dụng biện pháp trả đũa chéo của Ecuado cũng gợi ý rằng các nước nhỏ cũng có những cơ chế để gây áp lực cho các nước lớn. Nguồn: do các nhà hiệu đính soạn thảo dựa trên nguồn thông tin của WTO ; Porge (2000); Hoekman và Kostecki (2001); Messerlin (2001). Ghi Nhớ Về Giải Quyết Tranh Chấp của WTO (DSU). Những quy định này cho phép một nước trả đũa đối với sự vi phạm các nghĩa vụ trong một thoả thuận của WTO (ví dụ như là vi phạm thỏa thuận TRIPS) bằng cách ngưng thực hiện các nghĩa vụ trong một thỏa thuận khác (ví dụ như là nghĩa vụ trong GATT) nếu như sự ngừng trệ các nghĩa vụ chỉ trong chính thỏa thuận bị vi phạm (trong ví dụ này là TRIPS) “không đủ hiệu quả hay không khả thi”. Quy định trả đũa chéo thoạt đầu là do chính các nước công nghiệp yêu cầu nhằm cho phép họ áp dụng trả đũa thương mại theo thỏa thuận GATT để chế tài các vi phạm của các thỏa thuận Bernard Hoekman et al. 11 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO TRIPS hay GATS và đã được thông qua trong sự phản đối mạnh mẽ của các nước đang phát triển. Trong Vụ Tranh Chấp Về Chuối, EC đã vi phạm các nghĩa vụ của GATT và GATS. EC đã không tuân thủ các giới hạn thời gian cho phép và vì vậy, sau khi Hoa Kỳ trả đũa bằng cách tăng thuế đối với các hàng hóa của EC, Ecuador cũng đã quyết định tìm kiếm sự cho phép trả đũa. Lúc này, Ecuado đã giành lại ưu thế cho các đề xuất trả đũa chéo bằng lý luận rằng trả đũa chống các hàng hóa hay dịch vụ xuất khẩu của EC là “không hiệu quả hay không khả thi” theo Điều 22.3 của DSU. Kết quả là, nước này đã xin phép được trả đũa chéo bằng cách ngưng thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thỏa thuận TRIPS. Lý lẽ của Ecuador trong việc ủng hộ quan điểm cho rằng trả đũa thương mại là “không hiệu quả hay không khả thi” cũng tương tự như lý lẽ do các nước đang phát triển đưa ra hàng thập kỷ: trả đũa thương mại gây thiệt hại cho nước đang phát triển nhiều hơn là nước công nghiệp bị khiếu kiện và hơn nữa, sự trả đũa quá nhỏ sẽ không gây ra những thiệt hại đáng kể nào cho nước công nghiệp này17. Trong quá trình trọng tài xem xét khiếu kiện của Ecuado về trả đũa chéo, hội đồng trọng tài đã được yêu cầu phải đưa ra một phán xử về lý lẽ của Ecuado – thực ra là phải đưa ra một phán quyết pháp lý cho một khiếu nại đã tồn tại từ lâu cho rằng trả đũa thương mại là một biện pháp giải quyết không thỏa đáng cho các nước đang phát triển. Quyết định của hội đồng xét xử không rõ ràng như vậy, nhưng xét tổng thể thì nó cũng đưa ra một mức độ chấp thuận chính thức cho lý lẽ đó. Hội đồng xét xử đã bắt đầu bằng việc diễn giải từ “khả thi”. Từ này được diễn giải bao gồm việc xem xét trả đũa thương mại có gây thiệt hại cho chính nước đang phát triển đó hay không (WT/DS27/ARB/ECU paras. 70,73). Hội đồng xét xử phán quyết rằng trả đũa thương mại mà làm tăng các chi phí đầu vào công nghiệp thì sẽ không là “khả thi”. Nó đã cố bỏ qua khả năng thay thế các nhà cung cấp đầu vào từ các nước khác với ghi nhận rằng thực ra nếu có các đầu vào từ các nhà cung cấp khác thì nó cũng sẽ có trên thị trường. Tuy nhiên, sau cùng, hội đồng xét xử cũng chùng bước trước khả năng bác đơn theo căn cứ hình thức xung quanh vấn đề thay thế nhà cung cấp. Hội đồng xét xử dựa vào kết luận rằng EC đã không phản bác hiệu quả lý lẽ của Ecuador cho rằng việc thay thế sẽ tạo ra “các chi phí chuyển đổi” rất đáng kể cho một nước đang phát triển (paras. 93-94). Nói tóm lại, sự phân tích nông cạn của hội đồng xét xử đã không bổ sung thêm một sức mạnh hiệu lực đáng kể nào cho lý lẽ truyền thống của các nước đang phát triển, có lẽ ngoại trừ việc nó gợi ý rằng chính các thành viên hội đồng xét xử tự qui ước chấp nhận nó mà không cần phân tích nhiều. Hội đồng xét xử đã sử dụng một phân tích nông cạn không kém để “chẻ nhỏ một vấn đề cỏn con” bằng cách quyết định rằng sự trả đũa của nước đang phát triển lên các hàng tiêu dùng không phải là “không khả thi”. Họ nhận ra rằng việc trả đũa đánh lên các hàng tiêu dùng nhập khẩu sẽ gây ra sự mất mát về phúc lợi của những người tiêu dùng ở nước đang phát triển và như vậy là bác bỏ khó khăn của Ecuador bằng việc cho rằng Ecuador đã không trưng đủ bằng chứng của sự khó khăn để biện minh cho một kết luận là không khả thi (para. 100). Kết quả là, đối với những vi phạm các quy định của GATT liên quan đến thương mại hàng hóa, Ecuador phải trả đũa trên các hàng tiêu dùng trước khi được phép trả đũa trên các lĩnh vực khác. Hội đồng xét xử cũng đã diễn giải từ “hiệu quả” và cho rằng các tiêu chuẩn “hiệu quả” bao gồm việc có trả đũa có gây ra một ảnh hưởng chính trị đáng kể vào cho nước bị khiếu kiện không (para. 72). Sự diễn giải này, tình cờ lại có thể xem như một sự thừa nhận chính thức Bernard Hoekman et al. 12 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO của xu hướng hậu -WTO đối với việc trả đũa như một chế tài nhằm mang lại sự tuân thủ bằng các trừng phạt kinh tế, hơn là quan điểm nguyên thủy về việc trả đũa như là sự bồi thường tạm thời cho sự mất cân bằng các lợi ích. Các dữ kiện của Vụ Tranh Chấp Về Chuối không tạo thành một lý lẽ tranh cãi cho sự hiệu quả không thỏa đáng. Bởi vì giá trị thiệt hại của xuất khẩu chuối của Ecuador vào EC lớn bất thường. Giá trị của thiệt hại của Ecuador (201.6 triệu USD) lớn hơn số tiền mà Hoa Kỳ được phép trả đũa trong Vụ Tranh Chấp Về Chuối và cũng lớn hơn giá trị trả đũa của Mỹ hay Canada trong Vụ Tranh Chấp Hoóc Môn Thịt Bò. Tuy nhiên, hội đồng xét xử đã xác minh được sự thiếu hiệu quả, mặc dù là không rõ ràng lắm. Việc này cho ra hai câu trả lời rõ ràng là khác nhau và không thống nhất nhau. Xét đến hoạt động xuất khẩu đầu các vào công nghiệp của EC, hội đồng xét xử quyết định rằng sự trả đũa của Ecuador áp đặt lên các đầu vào công nghiệp sẽ là không hiệu quả, “trong điều kiện là Ecuador, một nước nhỏ đang phát triển, chỉ chiếm một phần không đáng kể trong tổng xuất khẩu các sản phẩm này của EC” (para. 95). Xem xét về các hàng tiêu dùng, hội đồng xét xử quyết định rằng Ecuador đã không chứng minh được rằng sự trả đũa áp đặt lên các hàng hóa đó sẽ không hiệu quả mà không giải thích tại sao việc Ecuador chiếm một phần không đáng kể trong tổng thị trường hàng tiêu dùng của EC lại không có tác dụng làm bằng chứng trong trường hợp này (đoạn 100). Các câu trả lời không thống nhất và không sâu sắc về vấn đề này gợi ra rằng hội đồng xét xử không có đủ thời gian để thực hiện một phân tích mạch lạc các khiếu nại tồn tại từ lâu của các nước đang phát triển về tình trạng không thỏa đáng của sự trả đũa thương mại. Nhưng các câu trả lời này đã cho thấy xu hướng của hội đồng xét xử ủng hộ các khiếu nại về tình trạng không thỏa đáng này và cho thấy rằng sự ủng hộ cũng chỉ hạn chế đối với các trường hợp rõ ràng cho một sự trả đũa áp đặt cho các đầu vào công nghiêp. Cũng không phải là điều khôn ngoan để tìm hiểu sâu hơn nữa về quyết định này, đặc biệt là khi không có phúc thẩm thì hội đồng xét xử kế tiếp sẽ không bị ràng buộc bởi những gì đã viết trong báo cáo này. Phản ứng không rõ ràng của hội đồng xét xử cũng đủ khích lệ các viên chức của các nước đang phát triển xem xét khả năng một sự trả đũa chéo trong các trường hợp giải quyết tranh chấp có những vi phạm không được sữa chữa. Khía cạnh quan trọng nhất của đề nghị trả đũa của Ecuador là khả năng mà sự trả đũa theo thỏa thuận TRIPS có “khả thi” hơn và “hiệu quả” hơn trả đũa thương mại. Trên lý thuyết, ít nhất thì việc phủ nhận các quyền sở hữu trí tuệ của người nước ngoài cũng làm cho các tài sản sẽ rẻ hơn đối với các nước đang phát triển và điều này có ích cho phát triển kinh tế hơn là gánh nặng kinh tế. Tương tự như vậy, mặc dù số tiền của sự trả đũa trong phần lớn các vụ tranh chấp vẫn là “không đáng kể”, trong lịch sử của WTO cho đến nay, các tác động nhỏ và liên tục của việc từ chối bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong phạm vi nhỏ có thể gây ra nhiều phiền toái chính trị hơn những cuộc trả đũa thương mại phạm vi lớn. Tuy nhiên, theo như hội đồng trọng tài đã làm rõ, trả đũa theo TRIPS sẽ kéo theo một số vấn đề pháp lý và kinh tế riêng biệt cho nước thực hiện trả đũa18. Yêu cầu trả đũa của Ecuador trong Vụ Tranh Chấp Về Chuối là một bước định hướng đầu tiên trong một hành trình dài. Cần phân tích nhiều hơn, tích lũy nhiều kinh nghiệm hơn trước khi làm rõ liệu biện pháp trả đũa TRIPS có là chìa khóa cho vấn đề lắm rắc rối này không. Tôi sẽ kết thúc với một lời cảnh báo cho trả đũa theo TRIPS. Như đã được đề cập trước đây trong chương này, có những bằng chứng rõ ràng cho thấy sức mạnh của sự trả đũa, mặc Bernard Hoekman et al. 13 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO dù có ích, cũng không phải là yếu tố chính của quá trình cưỡng chế thi hành các phán quyết pháp lý của GATT/WTO. Xin lặp lại điểm này, cưỡng chế thi hành các phán quyết pháp lý là một quy trình chính trị bao gồm việc nuôi dưỡng một quyết định của chính phủ để thay đổi cho một quyết định trước đó. Quốc Hội Hoa Kỳ đã sai lầm khi khăng khăng cho rằng trả đũa là biện pháp chính trong các yêu cầu cưỡng chế. Các nhà thương lượng Hoa Kỳ cũng đã sai lầm khi thổi phòng quan niệm sai lầm đó bằng cách thuyết phục Quốc Hội rằng việc dễ dàng thực hiện trả đũa sẽ làm cho sự cưỡng chế thi hành của WTO sẽ có hiệu quả như Quốc hội mong muốn. Các nước đang phát triển cũng có thể sai lầm khi nghĩ rằng biện pháp trả đũa theo TRIPS sẽ mang lại một sự thay đổi mang tính quyết định cho nền tảng chính trị của sự cưỡng chế thi hành của WTO. Sự trả đũa hiệu quả hơn sẽ làm cho hệ thống vận hành tốt hơn cho các nước đang phát triển nhưng cũng không phải là khôn khoan khi đặt cược tất cả vào một giải pháp. 1 Cả hai yêu cầu đều trong tình huống Superfund, Hoa Kỳ: Thuế Đánh Vào Dầu Khí và Một Số Chất Nhất Định, GATT, BISD. 34th Supp. 136-66 (1988). Trình tự tố tụng tiếp theo được đề cập trong Hudec (1993):210-11, 535-37. 2 Nghiên cứu tiếp theo đó chưa được phát hành 3 Phần kế tiếp sẽ thảo luận về một ngoại lệ duy nhất cho quan điểm cho rằng đề xuất này không mang lại giải pháp cho những thiệt hại trong quá khứ; nổ lực trong nhiều trường hợp để chính phủ bị khiếu kiện hoàn tiền các khoản thuế chống phá giá và bù đắp thuế quan sai qui định của GATT. Xem chú thích số 7 - 14 dưới đây. Bernard Hoekman et al. 14 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO 4 Xem GATT, BISD, 14th Supp. 18 (1996). Các thủ tục này yêu cầu sự hòa giải và thu thập dữ kiện của ban thư ký, việc tự động thành lập một hội đồng xét xử (một tiến bộ đáng kể vào thời điểm đó) và một lịch trình nhanh đáng kể. 5 Để có sự mô tả ngắn gọn về các cuộc thương lượng hãy xem Hudec (1990): 242-43. Các văn bản của GATT ghi lại các cuộc thương lượng này là COM.TD/F. Các đề xuất chính là COM.TD/F/W.1 (27 tháng Tư, 1965) và COM.TD/F/W.4 (11 tháng Mười, 1965). Tôi đã từng tham gia vào các cuộc thương lượng đó như một đại diện của phía Hoa Kỳ và một vài thông tin được trình bày ở đây là từ những thu thập của cá nhân tôi. 6 Thông thường, cách duy nhất để bảo đảm việc hoàn tiền là cố thuyết phục các nhà chức trách các nước điều chỉnh sự diễn giải của họ về luật quốc gia xét theo quan điểm phán quyết của GATT/WTO như vậy việc hoàn tiền là có hiệu lực như là chủ thể của luật quốc gia. Việc hoàn tiền, được thực hiện sau khi các phán quyết bất lợi của hội đồng xét xử đã được ban hành theo Chương 19 của Thỏa Thuận Mậu Dịch Tự Do Bắc Mỹ liên quan đến AD/CVD, xảy ra bởi vì luật quốc gia làm cho việc giải quyết tranh chấp theo Chương 19 trở thành một phần của thủ tục tố tụng AD/CVD và như vậy sẽ ràng buộc cấp thẩm quyền của quốc gia như một chủ thể của luật quốc gia. 7 Xem giải thích ở chú thích số 6 8 New Zealand: Các Lô Hàng Nhập Khẩu Biến Thế Điện Từ Phần Lan, GATT, BISD, 32nd Supp. 55-70 (1986). 9 Hai trường hợp như sau: (1) Hoa Kỳ: Bồi Hoàn Thuế Quan Cho Thịt Heo Tươi và Đông Lạnh Từ Canada, GATT, BISD, 38th Supp. 30-47 (1992). Sau khi bồi hoàn thuế quan của Hoa Kỳ được rút lại, Hoa Kỳ đã đồng ý không cản trở sự thực thi phán quyết của hội đồng xét xử, nhưng nó vẫn bảo lưu sự chính đáng của mình. (2) Hoa Kỳ: Các Biện Pháp Ảnh Hưởng Nhập Khẩu Cây Gỗ Mềm Tư Canada, GATT, BISD, 40th Supp. 358-517 (1995). Hoa Kỳ thông báo sẽ hoàn trả các khoản ký quỹ và bảo lãnh vì những lý do khác, nhưng nó cũng công khai bảo lưu lập trường của mình về tính hiệu lực của án lệnh của hội đồng xét xử về việc hoàn tiền khoản ký quỹ và bảo lãnh; GATT, SCM/M/67 (cuộc họp ngày 27-28 tháng Mười 1993). 10 Bốn trư ờng hợp đó như sau: (1) Canada: Bồi Hoàn Thuế Quan Cho Thịt Bò Chế Biến Không Xương, GATT, SCM/85 (tháng Mười, 1987); báo cáo của hội đồng xét xử không được tiếp nhận. Trường hợp này được thảo luận trong Hudec (1993); 221-22, 533-34, (2) Hoa Kỳ: Thuế Quan Chống Phá Giá Cho Ống Dẫn Và Ống Tuýp Đúc Không Gỉ, GATT, ADP/47 (20 tháng Tám, 1990), báo cáo của hội đồng xét xử không được tiếp nhận. Sự bế tắc của các giải pháp trong trường hợp này được thảo luận trong Hudec (1993): 253-54, 572-73. (3) Hoa Kỳ: Thuế Quan Chống Phá Giá Cho Xi Măng Xám Và Xi Măng Clienker Từ Mexico, GATT, ADP/82 (7 tháng Bảy, 1992): báo cáo của hội đồng xét xử không được tiếp nhận. (4) Cộng Đồng Châu Âu: Thuế Quan Chống Phá Giá Cho Băng Ghi Âm Cassete Xuất Xứ Từ Nhật Bản, GATT, ADP/136 (28 tháng Tư, 1995): báo cáo của hội đồng xét xử không được tiếp nhận. 11 Cộng Đồng Châu Âu dường như chuyển theo hướng của Hoa Kỳ trong một khiếu kiện năm 1993 chống lại bồi hoàn thuế quan của Braxin; ban đầu, trong khiếu kiện của mình, nó yêu cầu một lệnh hoàn tiền nhưng sau đó rút lại yêu cầu trong quá trình khiếu kiện. Xem Braxin: Áp Dụng Thuế Nhập Khẩu Tạm Thời và Xác Định Đối Với Bột Sữa và Từ Công Đồng Kinh Tế Châu Âu; GATT/SCM/179 (27 tháng 12 năm 1993) đoạn 200. EC đã phản đối yêu vầu hoàn tiền trong Vụ Audiocassette (xem chú thích số 10). 12 Phần 129 của Luật về Thỏa Thuận Vòng Đàm Phán Uruguay, 108 Stat. 4813, 4836, 19U.S.C. 3501, 3538 (1994), cung cấp một phần quyền hạn để thu hồi các hành động AD/CVD và phòng vệ nhằm để phù hợp với các phán quyết của hội dồng xét xử của WTO. Mặc dù đầy là một tiến bộ so với luật cũ, tiểu mục (c)(1) giới hạn hiệu lực của sự thu hồi đó đối với các lô hàng nhập khẩu “chưa được giải tỏa” mà đã được nhập hay rút ra từ các ngay vào ngày hay trước ngày ra lệnh thu hồi các hành động trên. Bernard Hoekman et al. 15 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO 13 Guatemala: Điều Tra Chống Phá Giá Liên Quan Đến Xi Măng Portland Từ Mehico, WTO,WT/DS60/R (19 tháng Sáu 1998) (báo cáo của hội đồng xét xử), bảo lưu khi phúc thẩm WT/DS60/AB/R (2 tháng Mười Một 1998). (báo cáo của Tòa Phúc Thẩm). 14 Nội dung của Điều XXIII.2 của GATT, dựa theo bản thảo tháng Tám 1947 của Điều lệ ITO, qui định rằng các bên ký hợp đồng có thể cho phép những sự trã đũa như vậy “ vì nó cho thấy là phù hợp trong tình huống đó”. Nội dung của điều lệ cuối cùng của ITO thông qua tháng Ba 1948 đổi đoạn này thành “thích hợp và bồi thường, xem xét đến lợi ích của đã bị vô hiệu hay bị thiệt hại” để làm rõ rằng trả đũa không được phép vượt khoản tiền cần thiết để để bồi hoàn cho thiệt hại đã gây ra (Điều lệ ITO, Điều 95.3). Xem Hội Nghị Havana, Báo Cáo Của Các Ủy Ban và Các Tiểu Ban Chính, UN, ICITO 1/8 (tháng Chín 1948), trang 155. Trong lịch sử của GATT, một hội đồng xét xử GATT duy nhất mà thảo luận vấn đề này là một hội đồng xét xử năm 1952 mà đã phân xử mức độ trả đũa của Hà Lan chống lại những hạn chế của Hoa Kỳ về sữa. Hội đồng xét xử này đã cho rằng từ “th ích hợp” trong nội dung của Điều XXIII.2 (1947) đã cho hội đồng xét xử một sự linh động nhất định để xem xét các yếu tố khác có thể làm cho thiệt hại bị trầm trọng thêm. Nhưng hội đồng xét xử thấy “thích hợp” để giảm 20 phần trăm giá trị tiền của mức độ trả đũa do Hà Lan đưa ra, cho thấy sự linh động cắt giảm ở cả hai phía. Xem Hà Lan: Hành Động Theo Điều XXIII.2, GATT, BISD, 1st Supp. 32, 62-64 (1953), được thảo luận chi tiết trong Hudec (1990) chương 16. Một diễn giải tương tự của từ “thích hợp” cũng được cố vấn pháp lý của ban thư ký GATT đưa ra trong quá trình thảo luận Vụ Superfund. Xem, GATT, C/M/220 (cuộc họp Hội Đồng GATT ngày 8 tháng Tư 1988), trang 35. Trong Bản Ghi Nhớ Giải Quyết Tranh Chấp của WTO, đoạn 22.4 ghi rõ rằng sự trả đũa sẽ tương đương với khoản tiền bị thiệt hại do các hành động đang tranh cãi gây ra. Vì vậy, nó quay lạinghĩa gốc của Điều lệ ITO. Các hội đồng trọng tài của mà đã từng phán quyết về số tiền trả đũa đều dưa theo hướng dẫn này. Xem Cộng Đồng Châu Âu: Chính Sách Nhập Khẩu, Bán Và Phân Phối Chuối - Viện Dẫn Phân Xử Trọng Tài Của Các Cộng Đồng Châu Âu Theo Điều 22.6 Của DSU, WT/DS27/ARB/ECU (24 tháng Ba, 2000) (trả đũa của Ecuador); Xem Cộng Đồng Châu Âu: Các Biện Pháp Liên Quan Đến Thịt Và Các Sản Phẩm Thịt (Các Hoócmôn - Viện Dẫn Phân Xử Trọng Tài Của Các Cộng Đồng Châu Âu Theo Điều 22.6 của DSU, WT/DS27/ARB (12 tháng Bảy, 1999) (trả đũa của Hoa Kỳ); id., WT/DS48/ARB (12 tháng Bảy, 1999) (trả đũa của Canada) 15 Xem những nguồn đã ghi ở chú thích số 5 16 Các Cộng Đồng Châu Au: Chính Sách Nhập Khẩu, Bán Và Phân Phối Chuối - Viện Dẫn Phân Xử Trọng Tài Của Các Cộng Đồng Châu Âu Theo Điều 22.6 Của DSU, WT/DS27/ARB/ECU (24 tháng Ba, 2000) (quyết định của hội đồng trọng tài) 17 Sự phản đối của Ecuador đối với khả năng trả đũa GATS trong các lĩnh vực dịch vụ khác là dựa trên luận cứ cần thiết khác nhau, chủ yếu là dựa vào bản chất các nghĩa vụ GTAS của Ecuador (WT/DS27/ARB/ECU, các đoạn.103-20). Các vấn đề do sự biện hộ này nêu ra, phản ứng của hội đồng xét xử không được đề cập trong chương này. 18 Hội đồng đã có một bài thuyết trình rất dài về các hiểm họa tiềm tàng của trả đũa thương mại (WT/DS27/ARB/ECU, các đoạn 130 - 65) Bernard Hoekman et al. 16 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Niên khóa 2005 – 2006 Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đáng của các giải pháp xử lý tranh chấp của WTO NHỮNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI ẢNH HƯỞNG ĐẾN THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA Các rào cản thương mại thiết lập tại biên giới vẫn còn khá phổ biến ở một số vùng trên thế giới. Thuế suất trung bình (không tính trọng số) ở Nam Á là trong khoảng 25 phần trăm hay cao hơn, cao hơn nhiều so với mức trung bình là 10 phần trăm ở Đông Á, Mỹ La Tinh, Đông Âu hay Trung Á. Các rào cản phi thuế quan cũng vẫn còn là một trở ngại lớn ở nhiều nước. Đồng thời, các nước công nghiệp cũng duy trì mức thuế cao đối với những hàng hóa “nhạy cảm” – phần lớn là các sản phẩm hàm lượng sức lao động cao hay các sản phẩm nông nghiệp. Trong Chương 11, Sam Laird cung cấp một cái nhìn khái quát về các rào cản thuế quan và phi thuế quan còn tồn tại và những tác động của nó. Các phụ lục của ấn phẩm này, do Francis Ng, Marcelo Olarreaga và Alessandro Nicita viết, cũng cho những bạn đọc quan tâm một dữ liệu chi tiết về các mô hình thương mại và bảo hộ phổ biến vào cuối những năm 1990. Bảo hộ ở các nước công nghiệp gây ra chi phí cho các nước đang phát triển ước nhiều hơn khoản tiền 45 tỉ USD trợ giúp phát triển mà các nước này nhận được hàng năm. Bảo hộ ở các nước đang phát triển ước gây một khoản chi phí khoảng 250 tỉ USD cho nền kinh tế toàn cầu. Con số này là chưa tính đến tác động các bảo hộ dự phòng (chống phá giá và phòng vệ) và tệ nạn quan liêu trong quá trình thông quan. Lợi ích của việc giảm các rào cản thương mại rõ ràng là rất lớn. Việc cho các nước kém phát triển (LDCs) cơ chế tiếp cận không hạn ngạch và không thuế quan vào thị trường các nước công nghiệp đã thu hút nhiều sự chú ý. Điều này rất quan trọng cho các nước này vì những hình thức bảo hộ hiện tại đã phân biệt đối xử họ, như đã được Olarreaga và Ng. minh họa trong Chương 12. Sự ưu đãi tiếp cận các thị trường sẽ rất có ích cho các nước kém phát triển (LDCs) nhưng lại là chi phí cho các nước đang phát triển. Chi phí này, tuy nhiên, rất hạn chế vì nền kinh tế các LDC rất nhỏ. Minh chứng của tác động lớn hơn là những ưu đãi chỉ có giá trị hạn chế. Một lý do mà chúng thường có điều kiện về các quy định về xuất xứ. Chương 13 của Luis Jorge Garay và Rafael Cornejo; Chương 14 của Stefano Inama Tình huống 13.1 của Gomi Senadhira (về Hoa Kỳ–Châu Phi Luật về Cơ Hội và Tăng Trưởng) cho thấy rằng các quy định về xuất xứ có tính giới hạn và có thể làm tăng các chi phí tuân thủ (quan liêu). Quan liêu cũng là một yếu tố quan trọng trong thủ tục thông quan nói chung. Vì vậy, các nước đang phát triển đang đối diện với một chương trình lớn và quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại. Chương trình này một phần phải được thực hiện cùng với sự tiếp cận thị trường nhưng chủ yếu là nội địa – ví dụ việc đơn giản hóa các quy định về xuất xứ có thể thực hiện theo WTO (xem Chương 14). Phần nội địa của chương trình là rất quan trọng và yêu cầu cả việc củng cố thể chế cũng như thay đổi chính sách. Cá biệt liên quan đến các thảo luận ở Phần III là những cải cách bộ máy hành chính hải quan và tạo thuận lợi cho thương mại. Có nhiều lĩnh vực mà những tố chức quốc tế rất năng động và khu vực tư nhân có thể là một phần của giải pháp –ví dụ, việc cung cấp các dịch vụ chứng nhận hay kiểm định. Kinh nghiệm ở các quốc gia cho thấy rằng củng cố chính sách và tổ chức hải quan để giảm chi phí giao dịch, định kiến chống xuất khẩu và tham nhũng là rất quan trọng trong việc cải cách thương mại để phát triển. Chi phí giao dịch liên quan đến quá trình thông quan có thể là một trở ngại lớn cho đầu tư vào các lĩnh vực thương mại, đặc biệt trong các lĩnh vực nhạy cảm về thời gian hay những lĩnh vực yêu cầu một sự hòa nhập vào hệ Biên dòch: Leâ Minh Taâm Bernard Hoekman et al. 17 Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Niên khóa 2005 – 2006 Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đáng của các giải pháp xử lý tranh chấp của WTO thống sản xuất toàn cầu trên nền tảng của một sự quản lý dây chuyền cung cấp đúng lúc (just-in-time supply chain management). Hợp lý hóa các thủ tục hải quan loại bỏ tình trạng quan liêu yêu cầu một nổ lực toàn diện bao gồm cả việc khai thác những quan hệ đối tác và hỗ trợ của các tổ chức có kinh nghiệm về việc này kể cả lĩnh vực tư nhân (ví dụ: vận chuyển tốc hành). Vinod, trong Chương 15, xem xét lại những nổ lực quốc tế nhằm tiêu chuẩn hóa việc đánh giá hải quan và nghiên cứu làm thế nào để những nổ lực này đáp ứng được những nhu cầu của các nước đang phát triển. Trong Chương 16, Brian Rankin Staples khảo sát các tổ chức và công cụ liên quan đến những sáng kiến tạo thuận lợi cho thương mại và tổng kết những bài học từ kinh nghiệm trong lĩnh vục này của các nước. Nhiều nước tìm cách sử dụng các chính sách khuyến khích xuất khẩu như là một động cơ để bù lại những định kiến chống xuất khẩu hình thành từ các chính sách khác (tỷ giá hối đoái được định cao, chi phí giao dịch, vân vân) hay như là một cách thực hiện các nổ lực cải cách thương mại. Một số nước duy trì nhiều dạng chính sách công nghiệp: ví dụ trợ cấp, khuyến khích xuất khẩu và thành lập các khu chế xuất (EPZs). Có hai vấn đề đặt ra: Theo quan điểm phát triển thì cái nào có lý hơn? Và trong chừng mục nào thì WTO hạn chế việc sử dụng các chính sách hiệu quả khuyến khích công nghiệp hóa và phát triển xuất khẩu ? Thực ra, việc theo đuổi xúc tiến xuất khẩu và khu chế xuất có thể là một trường hợp tốt. Các cơ chế này có thể là những cách thức hiệu quả bù đắp cho các chi phí giao dịch cao phổ biến ở các nước đang phát triển và đang kiềm hãm đầu tư. Tuy nhiên điều quan trọng là phải thiết kế các cơ chế này sao cho nó hạn chế được mức độ kiếm tiền và tình trạnh đầu tư vào các lĩnh vực mà nước này không có lợi thế so sánh. Như Mari Pangestu giải thích trong Chương 17 trong phần nói về Đông Á, các quy định của WTO không hạn chế nhiều được khả năng của các nước đang phát triển theo đuổi các chính sách nâng cao phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, các thỏa thuận cũng có những gợi ý cho các chính sách công nghiệp, đặc biệt là trợ cấp xuất khẩu và các yêu cầu về nội địa hóa. Trong Chương 18, Philip English và Luc De Wulf đã khảo sát các kinh nghiệm về các tổ chức xúc tiến thương mại, EPZs, trợ cấp, khấu trừ thuế và các chính sách và cơ chế khuyến khích xuất khẩu khác và khảo sát các lựa chọn của các nước đang phát triển. Ở những nước vẫn cần thu nhập từ thuế, điều quan trọng là các nhà xuất khẩu phải thâm nhập được vào các nguồn nguyên liệu đầu vào trung gian được nhập khẩu với mức giá của thế giới để bảo đảm khả năng cạnh tranh. Điều này đòi hỏi một cơ chế hải quan hoạt động rất hiệu quả để hoàn tiền cho các khoản thuế nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào hay, ưu đãi hơn, cho phép các xuất khẩu được phép nhập miễn thuế các nguyên liệu đầu vào mà không vị phạm các quy định về trợ cấp của WTO. Thực hiện những hệ thống như vậy đòi hỏi đào tạo và cũng cố định chế. Ví dụ như nhiều nước Châu Phi không có một cơ chế khấu trừ thuế hiệu quả và điều này làm tăng định kiến chống xuất khẩu. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIM) thỉnh thoảng được sử dụng để thúc đẩy phát triển công nghiệp. Trong các biện pháp đó là các yêu cầu về nội địa hóa mà, như Bijit Bora nói trong Chương 19, gần đây gây ra tranh cãi theo sau việc thông qua các qui tắc của WTO áp dụng cho các nước đang phát triển. (Những qui tắc này đã được ghi trong GATT nhưng không được thi hành cho nhóm các nước này). Mặc dù vậy, về nguyên tắc, các chính sách này vẫn có thể thực hiện được. Các chính sách này có thể thích hợp cho việc bù đắp các lệch lạc riêng biệt. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy rằng phải rất cẩn thận khi sử dụng các chính sách này. Tình huống nghiên cứu về nước Biên dòch: Leâ Minh Taâm Bernard Hoekman et al. 18 Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Niên khóa 2005 – 2006 Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đáng của các giải pháp xử lý tranh chấp của WTO Úc trong Chương 20 của Garry Pursell, minh chứng rằng việc sử dụng TRIM có thể bao hàm một chi phí tích lũy rất cao cho xã hội. Các chương cuối cùng trong phần này xem xét việc bãi bỏ các hạn ngạch duy trì cho việc nhập khẩu quần áo và dệt may và việc sử dụng các hành động bảo vệ. Các chủ đề này có liên quan chặt chẽ với nhau: nhiều nhà quan sát mong đợi sự tác động của các biện pháp phòng vệ sẽ tăng lên một khi các hạn ngạch theo Thỏa Thuận Đa Phương Về Sợi (MFA) được hoàn toàn bãi bỏ theo như yêu cầu của Thỏa Thuận WTO về Dệt May và Quần Áo (ATC). Trong Chương 21, Hanna Kheir-El-Din thảo luận ý nghĩa tác động của ATC đối với các nước đang phát triển. Những cái mà được gọi là công cụ cho việc bảo hộ dự phòng – chống phá giá và các biện pháp khẩn cấp – và được phép của WTO trong trường hợp việc nhập khẩu sẽ làm tổn hại đến nền công nghiệp trong nước là một nguồn gốc quan trọng của tình trạng không chắc chắn của các điều kiện tiếp cận thị trường. Chống bán phá giá, đã từng được các nước công nghiệp sử dụng, đang được các nước đang phát triển sử dụng ngày càng nhiều hơn. Như J. Michael Finger giải thích trong Chương 22, một vài trong số các công cụ này, đặc biệt là chống bán phá giá, không có ý nghĩa kinh tế nào và đang được các nước đang phát triển tránh né nhất. Những công cụ hiệu quả hơn đang có và được ưa chuộng hơn trên bình diện phát triển. Yếu tố chính của cơ chế đó là nó có xem xét đến lợi ích của tất cả thành phần trong xã hội không chỉ là một nhóm các ngành công nghiệp địa phương đang đối mặt với sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu. Điều này, thuộc lĩnh vực chính sách, việc đa phương hóa hơn nữa cơ chế làm luật có thể rất quan trọng cho các nước đang phát triển. Tuy nhiên, như Finger lưu ý, các hành động trong nước nhằm cải thiện nội dung kinh tế và sự hợp lý của các giải pháp này sẽ có ích hơn. Đồng thời, các nhà xuất khẩu phải sống chung với mối đe dọa phải đối mặt với một sự bảo hộ dự phòng. Trong Chương 23, Gary N. Horlick và Eleanor Shea, hai luật sư thực hành thương mại, thảo thuận các qui định liên quan của luật thương mại Hoa Kỳ và phác thảo ra bằng cách nào nào các công ty đối phó với các giai đoạn khác nhau của quá trình tranh chấp thương mại. Mặc dầu quyển sách hướng dẫn này không phải là một tham khảo chính thức của WTO, nhiều chương trong phần này tham chiếu theo các qui định của GATT. Nhằm giúp cho những người chưa quen với WTO để tham chiếu, Phần Từ Điển Thuật Ngữ sẽ cung cấp một bảng tóm tắt các quy định và điều khoản chính của GATT. Đọc thêm UNCTAD, Tiếp Cận Thị Trường Không Hạn Ngạch và Thuế Quan Cho Các Nước Kém Phát Triển: Một Phân Tích Của Các Sáng Kiến QUAD (Geneva, 2000), là một thảo luận chi tiết và toàn diện của các sáng kiến dành cho các LDCs một tiếp cận ưu đãi vào các thị trường các nước công nghiệp lớn. Rolf Langhammer và André Sapir, Tác Động Kinh Tế của Hệ Thống Thuế Quan Phổ Cập (London: Trung Tâm Nghiên Cứu Chính Sách Thương Mại, 1988), mặc dù hơi cũ nhưng là một sự phân tích rất hữu ích những tác động kinh tế của Hệ Thống Thuế Quan Phổ Cập (GSP). Các tác giả cho rằng những hệ thống này có ích rất nhiều cho những nước theo đuổi chính sách hướng về xuất khẩu và điểm chính là không cần phải có các ưu đãi để cạnh tranh. EdwinVermulst, Jacques Bourgeois và PaulWaer, Các Qui Định Về Xuất Xứ Trong Thương Mại Quốc Tế: Một Nghiên Cứu So Sánh (Ann ArBor: Nhà Xuất Bản Đại Học Michigan, 1994), cung cấp một một sự thảo Biên dòch: Leâ Minh Taâm Bernard Hoekman et al. 19 Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
- Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Niên khóa 2005 – 2006 Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đáng của các giải pháp xử lý tranh chấp của WTO luận toàn diện về các quy định xuất xứ. John Raven, Thuận Lợi Cho Thương Mại và Vận Chuyển: Một Phương Pháp Luận Kiểm Toán (Ngân Hàng Thế Giới, Washington D.C. 2000) là một nhóm các công cụ hữu ích cho những ai đang tìm cách xác định điểm tắc nghẽn của thuận lợi thương mại và các ưu tiên. Gerald K. Helleineer (hiệu đính), Xuất Khẩu Không Truyền Thống và Sự Phát Triển Ở Tiểu Sahara Châu Phi: Kinh Nghiệm và Các Vấn Đề (Helsinki: Học Viện Quốc Tế về Nghiện Cứu Kinh Tế Phát Triển, 2001) cung cấp các khảo sát và đánh giá về các công cụ sử dụng để khuyến khích xuất khẩu ở các nước thu nhập thấp và xem xét kinh nghiệm của các nước này. Theodore Moran, Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài và Phát Triển (Washinton D.C.: Viện Kinh Tế Quốc Tế, 1998) đưa ra một thảo luận về kinh nghiệm với TRIM và các công cụ chính sách có liên quan. J. Michael Finger (hiệu đính), Chống Bán Phá Giá: Vận Hành Như Thế Nào và Ai sẽ Bị Thiệt Hại (Ann Arbor: Nhà Xuất Bản Đại Học Michigan, 1993) tập hợp các tình huống minh họa việc chống bán phá giá được áp dụng như thế nào trong thực tiễn và đánh giá ý nghĩa của nó cho những người sử dụng và các mục đích. Neil Vousden, Kinh Tế Học của Bảo Hộ Thương Mại (Cambridge, Anh: Nhà Xuất Bản Đại Học Cambridge, 1990), là một quyển sách hay về các công cụ của chính sách thương mại. Biên dòch: Leâ Minh Taâm Bernard Hoekman et al. 20 Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Kinh tế học vi mô: Chi phí cơ hội
17 p | 596 | 92
-
Lập dự án miễn phí - Mở rộng đầu tư khu du lịch Sandhills
73 p | 235 | 67
-
CÂU HỎI THƯỜNG GẶP VỀ PHIÊN ĐIỀU TRẦN THEO ĐÚNG THỦ TỤC VÀ PHIÊN HÒA GIẢI
18 p | 238 | 28
-
Sự thoả đáng của các giải pháp xử lý tranh chấp của WTO part 1
10 p | 154 | 23
-
Sự thoả đáng của các giải pháp xử lý tranh chấp của WTO part 2
10 p | 155 | 15
-
Luật pháp, luật quốc tê và các thỏa thuận đa phương về môi trường
11 p | 125 | 12
-
Pháp luật về thu hồi đất nhìn từ thực tiễn áp dụng tại huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
13 p | 49 | 7
-
Một số vướng mắc về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự và một số giải pháp hoàn thiện
8 p | 40 | 4
-
Phát huy tiềm năng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: Mấy giải pháp từ thực tiễn
7 p | 60 | 3
-
Xây dựng hiến pháp và những hướng dẫn thiết thực: Phần 1
148 p | 55 | 2
-
Phân loại tranh chấp thương mại và ý nghĩa của việc phân loại đó (classification of trade disputes and the meaning of that) – Phần 1
4 p | 28 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn