LUẬN VĂN:

Sự tác động của con người Việt Nam

vào nền kinh tế tri thức

Lời nói đầu

Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử phát triển của nền văn minh, văn

hoá gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển con người . vấn đề con người

trước hết là vấn đề thực tiễn, giữ vị trí trung tâm của mọi toạ độ, của sự tồn tại

khách quan trên hành tinh của chúng ta. Vấn đề con người cũng là vấn đề lý luận

cốt lõi của các vấn đề lý luận xã hội nhân văn, kinh tế, quản lý. Và trong một

chừng mực nhất định cả với kỹ thuật và công nghệ

Con người là giá trị sản sinh ra mọi giá trị. Con người là thước đo của mọi

bậc thang giá trị. Những biến đổi trong bậc thang giá trị đang làm cho con người

nói chung tích cực hơn , trên cơ sở đó phát huy các tiềm năng của mình và từ đó sẽ

sáng tạo hơn. đó là những tiền đề quan trọng để bồi dưỡng và phát huy tốt nguồn

lực con người. Yêu cầu của thời đại công nghiệp hoá , hiện đại hoá trong đó có

kinh tế tri thức đang đòi hỏi phải có thước đo giá trị thích hợp với thời cuộc mới,

phát huy hơn nữa các mặt tích cực của con người và hạn chế tối đa các ảnh hưởng

tiêu cực của cơ chế thị trường không để sự phát triển đi vào xu hướng không lành

mạnh .

Thời kỳ đổi mới đất nước một lần nữa đặt ra bao nhiêu vấn đề mới trong

việc nghiên cứu con người để động viên mạnh mẽ hơn hiệu quả hơn các tiềm năng

con người vào tiến trình đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển cũng như mở

ra những khả năng mới để con người được hưởng tự do , hạnh phúc trong một xã

hội văn minh.

Để góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ngày càng giàu

đẹp chúng ta không ngừng nâng cao hiểu biết , tìm tòi và sáng tạo. chính vì vậy

em đã chọn đề tài "sự tác động của con người Việt Nam vào nền kinh tế tri thức"

làm đề tài nghiên cứu của minh. Nội dung gồm có bốn phần:

Phần i: Con người Việt Nam và nguồn lực trí tuệ.

Phần II: Tri thức và nền kinh tế tri thức.

Phần III: Mối quan hệ giữa con người Việt Nam và nền kinh tế tri thức.

Phần IV: Giải pháp thúc đẩy mối quan hệ giữa con người Việt Nam và nền

kinh tế tri thức.

Phần I: Con người Việt Nam và nguồn lực trí tuệ

I)Con người Việt Nam và nguồn lực trí tuệ.

1. Con người Việt Nam.

a. Sự khác biệt của con người Việt Nam và con người nói chung.

Xuất phát từ luận điểm của Mác: "Bản chất con người không phải là một

cái gì cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con

người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội".

Qua quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển, những mặt , những yếu tố

cấu thành nên bản chất xã hội của con người trong xã hội mới dần được hình thành

và dần được hoàn thiện. Con người Việt Nam mang những đặc trưng cơ bản sau:

Con người Việt Nam có ý thức và trình độ, năng lực làm chủ, đồng thời có

đầy đủ điều kiện để thực hiện năng lực làm chủ của mình. Điều này có được vì:

Con người Việt Nam mang bản chất của con người xã hội chủ nghĩa- con người đã

được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công, các quan hệ công bằng xã hội

ngày càng được bảo đảm. Đồng thời chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ được thiết

lập trên cơ sở bảo đảm sự thống nhất hài hoà lợi ích cá nhân - tập thể - xã hội.

Con người Việt Nam là con người lao động mới, có tri thức sâu sắc về công

việc của mình, có sức khoẻ và lao động giỏi, biết cống hiến cho xã hội bằng khả

năng cao nhất của mình và biết tự đánh giá chất lượng lao động của mình. Do đó,

biết hưởng thụ thành quả lao động của mình tuỳ theo năng suất, chất lượng, hiệu

quả lao động do mình tiến hành.

Con người Việt Nam là con người sống có văn hoá và tình nghĩa. Đời sống

cá nhân của họ phong phú, có điều kiện và khả năng phất triển tự do, toàn diện cả

về thể chất và tinh thần. Có tri thức ngày càng đầy đủ về địa vị, cá nhân của mình

trong xã hội, về tự do, kỷ luật và trách nhiệm công dân.

Con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, yêu sự nghiệp cách mạng do

chính mình tham gia, có tình thương yêu giai cấp và đồng loại , có tình thần quốc

tế chân chính.

Khái quát những tư tưởng cơ bản nói trên, Đảng cộng sản Việt Nam cho

rằng con người xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là con người biết: gắn bó lý tưởng,

độc lập dân tôc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường

xây dựng và bảo vệ tổ quốc; CNH-HDH đất nươc; giữ gìn và phát huy các giá trị

văn hoá truyền thống của dân tộc, có năng lực tiếp thu các tinh hoa văn hoá của

nhân loại; cách phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức

cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và

công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong

công nghiệp , có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khoẻ,là những người thừa kế xây

dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ".

b. Vai trò của con người Việt Nam trong phát triển kinh tế .

Từ xưa đến nay, khi đề cập tới vị trí của con người trong lịch sử phát triển

kinh tế xã hội không một ai có thể phủ nhận đó là yếu tố quan trọng nhất, quyết

định nhất. Thực tế đã chứng minh trong quá khứ cũng như trong hiện tại nhiều

quốc gia trên thế đã cất cánh từ một nước nghèo nàn, chỉ sau một thời gian dài đã

trở thành một cường quốc văn minh mặc dù họ bị hạn chế rất nhiều về nguồn tiềm

năng thiên nhiên, vốn, công nghệ hơn nữa lại nằm trong vị trí địa kinh tế lý bất lợi

và khí hậu khắc nghiệt của trái đất, có phải chăng do không còn cách nào khác! Và

vì sự tồn tại của chính mình mà họ đã phải chiến đâú với ngoại xâm, với thiên

nhiên mà vươn tới đỉnh cao để rồi có đủ sức mạnh chế ngự thiên nhiên bắt thiên

nhiên phải phục vụ cho cuộc sống của chính con người. Bài học đã thấy rõ, ai cũng

có thể nhận thấy là quốc gia nào quan tâm và đặt đúng vị trí con người, có một

chiến lực quản lý nguồn nhân lực đúng đắn trong chiến lược phát triển kinh tế xã

hội thì nước đó sẽ thành công. Một trong những nước đi tiên phong trong công

việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là Nhật Bản. Người Nhật đã thấy được

tầm quan trọng của con người và không ngừng phát huy nhân tố con người phục

vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.

Với nước ta, vai trò của con người còn quan trọng hơn rất nhiều. Từ

một nước thuộc địa, nghèo nàn và lạc hậu bằng bàn tay trí óc của con người, con

người Việt Nam đã đưa đất nước mình ra khỏi nghèo đói, đưa đất nước vươn lên

trở thành một cường quốc độc lập về kinh tế, chính trị xã hội.

Ngày nay trên con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có nền kinh

tế vững mạnh với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại. Đại hội VIII của

Đảng đã xác định:"Phải đẩy mạnh CNH-HDH đất nước theo định hướng xã hội

chủ nghĩa trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020". Có thực hiện được mục

tiêu đó hay không là do con người. Việc xây dựng thành công CNH-HDH làm tiền

đề cho kinh tế tri thức ra đời và phát triển, là thước đo cho quá trình tiến lên chủ

nghĩa xã hội mà nền kinh tế tri thức đòi hỏi chất xám, trí tuệ con người.

Như vậy, con người là giá trị sản sinh ra mọi giá trị, là thước đo của mọi

bậc thang giá trị . Nếu không có con người xã hội sẽ không tồn tại. Nếu con người

không nâng cao học vấn, không ngừng phát huy tính sáng tạo thì đất nước đó sẽ

trì trệ, thụt lùi, nhanh chóng xa rời với sự phát triển của toàn nhân loại. Nhận thấy

được tầm quan trọng của nguồn lực con người Đảng ta đã nhận định: Trong số các

nguồn lực ổn định và phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn cách mạng hiện nay

lấy việc "phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh

và bền vững".

c. Nhận thức, thái độ của con người Việt Nam trong đổi mới và mở cửa.

*Những mặt tích cực trong nhận thức, thái độ.

- Người Việt Nam có phản ứng tích cực, nhận thức nhanh nhạy đối với thời

kỳ mở cửa.

Những năm 1986-1990 khi công cuộc đổi mới, mở cửa bắt đầu gây xáo

động tâm lý xã hội mạnh mẽ, sâu sắc. Nhưng tình hình đã nhanh chóng ổn định và

ngày càng tiến triển theo chiều hướng tích cực. Họ thấy rằng mở cửa là xu thế tất

yếu của thời đại; vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với dân tộc cũng như đối với

mỗi cá nhân, có mở cửa , cọ xát với nền văn hoá thế giới tinh thần văn hoá Việt

Nam mới được thử thách, tự khẳng định và phát triển. Điều này cho thấy sự nhất

trí cao đối với chủ trương, chính sách đổi mới mở cửa của Đảng và nhà nước.

- Người Việt Nam có nhận thức tỉnh táo, đúng đắn về mặt trái của mở cửa

và có ý thức đề phòng cảnh giác.

Họ nhận thấy rằng: mở cửa sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo gìữa các khu

vực, giữa các nhóm xã hội, mở cửa sẽ dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội, dễ mắc vào âm

mưu "diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch";mở cửa sẽ du nhập văn hoá, lối

sống phương Tây làm hại truyền thống dân tộc, dễ bị hoà mất độc lập, tự chủ.Đây

là nhận thức nhạy bén, tỉnh táo và đúng mức.

- Con người Việt Nam có ý chí vượt qua xáo động tâm lý, vượt qua những

trở ngại tích cực chủ động thích nghi với đổi mới, mở cửa để vươn lên trong cuộc

sống.

Đổi mới mở cửa cũng là cơ hội và cũng là đòi hỏi, thử thách mỗi cá nhân

phải tự vươn lên, tự khẳng định mình để tồn tại để phát triển. Quá trình đó giúp

con người có ý thức về cá nhân, nhân cách của mình rõ hơn. Biểu hiện tự nhận

thấy rằng mình phải đào tạolại để thích nghi với đổi mới mở cửa. Nhận thấy phải

thay đổi về cách nghĩ, nếp sống của mình; phải tăng cường củng cố ngoại ngữ;

phải bảo vệ tinh hoa truyền thống.

- Con người Việt Nam có khả năng tiếp thu những nhân tố thuận lợi của đổi

mới mở cửa nói chung, trở thành nhân tố thuận lợi của đổi mới. Mở cửa nói chung

trở thành chủ thể hoạt động cải thiện cuộc sống của chính mình và tạo nên những

chuyển biến cho đất nước.

Trong nhiều cuộc trao đổi, các ý kiến cho thấy trong khi đổi mới và phát

triển thị trường hội nhập với thế giới càng phải khẳng định, giữ gìn phát huy

những giá trị tinh hoa truyền thống yêu nước, thương người, cần cù, chịu học gắn

liền với lợi ích và trách nhiệm của cá nhân với gia đình, với làng, với nước.

* Những hạn chế:

Bên cạnh những mặt tích cực còn bộc lộ những hạn chế khá rõ nét:

- Nhanh thích nghi nhưng còn ở trình độ thấp.

Từ trình độ khoa học công nghệ dẫn đến quản trị kinh doanh, trình độ học

ngoại ngữ, tin học, tay nghề kỹ thuật... đều mới ở mức độ cố gắng thích nghi đối

phó với tình hình thực tế "cái gì cũng biêt" nhưng chưa sâu, chưa thạo.

- Làm ăn còn chưa coi trọng chữ tín, chưa lo làm ăn lâu bền để tiến tới làm

ăn lớn.

Có nhiều hiện tượng làm ăn từng vụ việc, "đánh quả", ăn xổi, quảng cáo

liều chào hàng tốt bán hàng xấu, ít coi trọng lời hứa, có biểu hiện của tính thực

dụng.

Ngay những người có nghề nghiệp, chức vụ đàng hoàng cũng ít yên tâm

gắn bó với nghề, công việc chính yếu. Họ thường chạy theo hoặc bị lôi cuốn vào

những hoạt động tản mạn trước mắt... và do đó nhìn về lâu dài không có lợi cho sự

phát triển của cá nhân và xã hội.

-Thiếu ý thức và thói quen chấp hành nội quy kỷ luật, pháp luật

ý thức và hành vi chấp hành quy định, thể chế pháp luật của từng cá nhân

còn thấp. Từng người ít khi có tính tự giác, tự động chấp hành các quy định và

thường "đua theo nhóm" làm theo số đông. Do đó vi phạm một số hành vi trái

pháp luật: chặt cây, xây nhà trái phép, lấy của công, lấn chiếm đất công, đổ rác

bừa bãi, họp chợ trên đường. Thậm chí chỉ do"đói ăn vụng,túng làm liều" mà có

những người có chức có quyền, giàu có cũng rất"liều".

- Sùng ngoại, dễ bắt chước nước ngoài, pha trộn lai tạp.

Hạn chế này dễ đi đến xa rời tinh hoa bản sắc dân tộc. Về khoa học công

nghệ, sản xuất kinh doanh... ta phải học theo cách làm ăn tiên tiến là đúng nhưng

những giá trị văn hoá, đạo đức, lối sống ta có nhiều cái tốt phải giữ gìn và nâng

cao.

- Nhiều người sùng bái lối sống tiêu dùng xa hoa lãng phí.

Nước ta còn rất nghèo, dân ta còn nhiều người túng thiếu, gần 50% trẻ em

suy dinh dưỡng nhưng bộ phận đua đòi , tiêu xài quá lãng phí coi đó là sự biểu

hiện giá trị nhân cách. Điều đặc biệt là có những người nghèo túng nhưng có dịp là

cố chạy đua nhau tổ chức cưới xin, ma chay, giỗ tết... linh đình tốn kém. Mức sống

thấp, lối sống không phù hợp làm sao phát triển nhanh được!

-Dễ mắc vào các tệ nạn xã hội do sống thiếu bản lĩnh cá nhân.

Hạn chế này dễ đua đòi theo nhóm, lại sống trong môi trường khêu gợi dục

vọng, kích thích nhu cầu đồng tiền có sức mạnh ghê gớm... Mấy năm đổi mới, mở

cửa, nạn buôn lậu, hối lộ mại dâm, ma tuý AIDS, mê tín... có chiều hướng gia

tăng.

2) Nguồn lực trí tuệ

a) Vai trò của nguồn lực trí tuệ

Nguồn lực trí tuệ được hiểu là nguồn tài nguyên quý giá của con người,

được phát triển dựa trên trí tuệ, chất xám của con người trong quá trình hoạt động

tạo ra công nghệ mới và cao.

Xã hội loài người tồn tại và phát triển dựa vào hai nguồn: tài nguyên thiên

nhiên và con người. Cái quý nhất trong tài nguyên con người là trí tuệ. Theo quan

niệm cổ điển, mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên đều có hạn và đều có thể bị khai

thác đến cạn kiệt. Song sự hiểu biết của con người đã và đang, sẽ không bao giờ

chịu dừng lại, nghĩa là nguồn tài nguyên trí tuệ không có giới hạn. Tính vô tận của

nguồn tiềm năng trí tuệ là nền tảng để con người nhận thức tính vô tận của thế giới

vật chất, tiếp tục nghiên cứu những nguồn tài nguyên thiên còn vô tận nhưng chưa

được khai thác và sử dụng, phát hiện ra những tính năng mới của những dạng tài

nguyên mới đang sử dụng hoặc sáng tạo ra những nguồn tài nguyên mới vốn có

sẵn trong tự nhiên, nhằm phục vụ cho sự phát triển của xã hội trong điều kiện mới.

Ngày nay thuật ngữ"trí tuệ" đã thâm nhập mạnh mẽ vào cuộc sống của

chúng ta, đặc biệt là giới nghiên cứu. Con người đã làm nên lịch sử của mình bằng

trí tuệ và lao động được định hướng bởi trí tuệ đó. Cơ sở vật chất của trí tuệ là bộ

óc con người - một dạng vât chất phát triển cao nhất, đó là dạng "vật chất được tổ

chức theo một cách thức đặc biệt. Trí tuệ chính là bộ óc biết tư duy và đang tư

duy cuả con người" (V.I. Lênin) . ý thức và tư duy là sản phẩm riêng của bộ óc

con người. í thức và những giai đoạn phát triển cao của nó là tư duy, đó là sự phản

ánh thế giới khách quan không chỉ bằng tri thức - khách quan của quá trình tác

động của thế giới bên ngoài lên bộ óc con người, mà còn bằng xúc cảm- sự phản

ứng của thế giới nội tâm của con người trước sự tác động ấy. Tuy tri thức là

phương thức tồn tại của ý thức nhưng nếu không có xúc cảm thì con người không

thể tiếp cận với chân lý và do vậy không thể nhận thức và cấu tạo thế giới. Mặt

khác có tri thức, có xúc cảm nghĩa là có con người hoàn thiện nhưng không có

môi trường xã hội thích hợp thì con người cũng không thể phát huy được sức

mạnh trí tuệ của mình.

Trí tuệ con người có sức mạnh áp đảo so với "trí tuệ nhân tạo". Chính vì

trí tuệ đó được đặt trong cơ thể con người - một tổ chức vật chất sinh học cao

nhất, hơn nữa lại được tồn tại và phát triển trong môi trường xã hội loài người. Tư

duy máy móc, "trí tuệ nhân tạo" dù rộng lớn đến đâu, dù dưới hình thức hoàn hảo

nhất cũng chỉ là một mảng cực nhỏ, một sự phản ánh rất tinh tế thế giới nội tâm

của con người, chỉ là kết quả của quá trình phát triển khoa học kỹ thuật, của hoạt

động trí tuệ của con người, khả năng trí tuệ của con người bao giờ cũng là nguồn

"trí tuệ " cho máy móc; mọi máy móc dù hoàn thiện dù thông minh đến đâu cũng

chỉ làm kẻ trung gian cho hoạt động của con người. Con người đang cố gắng sáng

tạo ra những máy móc "bắt chước" hoặc "phỏng" theo những đặc tính trí tuệ của

mình để tiếp cận với nền kinh tế .

Sự phát triển và hoàn thiện không ngừng của trí tuệ con người đã được thể

hiện bằng việc truyền đạt, tàng trữ những tri thức lý luận và kinh nghiệm từ thế hệ

này sang thế hệ khác và đã được ghi nhận một cách rất cụ thể, trước hết ở sự biến

đổi của công cụ sản xuất. Hay nói cách khác sức mạnh trí tuệ của con người

không ngừng được vật thể hoá trong công cụa sản xuất, trong lực lượng sản xuất

nói chung. Tính vô tận của trí tuệ con người được biểu hiện ở sự biến đổi không

ngừng ở tính đa dạng, phong phú vô cùng tận của công cụ sản xuất trong qúa trình

phát triển của xã hội.

Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ -

những sản phẩm đã được vật thể hoá của trí tuệ con người, thành lực lượng sản

xuất trực tiếp đã chuyển đối tượng khai thác vào chính bản thân con người. Tiềm

năng sức lao động - con người với trí tuệ và lao động được định hướng bởi trí tuệ

đó và trở thành nguồn lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển xã hội. Nếu như xưa kia

nguồn tài nguyên thiên nhiên quyết định các chính sách phát triển của đất nước thì

ngược lại ngày nay, các chính sách (thể hiện tập trung trí tuệ của con người ) lại

sản sinh ra các nguồn tài nguyên theo các nghĩa: nếu biết khai thác và quan trọng

hơn cả là nguồn tiềm năng trí tuệ thì đất nước dù nghèo tài nguyên thiên nhiên

cũng hoàn toàn có thể trở nên giàu mạnh.

Nước ta có nguồn tài nguyên sức lao động rất dồi dào trong đó nguồn tài

nguyên"chất xám" không thua kém gì nhiều so với nhiều nước đang phát triển.

Tuy nhiên nước ta chưa biết tận dụng nguồn tài nguyên quý giá đó.

Vấn đề đặt ra hơn lúc nào hết những người lao động có tri thức là tài sản

quý hiếm của mỗi quốc gia. Ngày nay trong cuộc cạnh tranh, thách đố, thi tài đọ

sức giữa các dân tộc, quốc gia ngày càng gay gắt thì việc khai thác và sử dụng

đúng đắn,kịp thời, có hiệu quả đội ngũ lao động trí tuệ là điều kiện tiên quyết bảo

đảm sự chiến thắng. Bởi vì kinh tế tri thức ngày càng không chỉ là sức mạnh, là

quyền lực hay sự thay đổi như những thập kỷ trước đây mà tri thức còn là sự giàu

có, thịnh vượng của mỗi quốc gia, dân tộc.

b) Đặc điểm cơ bản của nguồn lực trí tuệ.

Nguồn lực trí tuệ Việt Nam được hình thành và phát triển trước hết dựa

trên cơ sở các điều kiện địa lý môi trường sinh thái, chính trị, xã hội, lịch sử của

dân tộc Việt Nam nên nó mang đậm những sắc thái riêng biệt bao gồm cả những

yếu tố tích cực lẫn những mặt hạn chế lịch sử. Do sự vận động và phát triển trong

bối cảnh hợp tác kinh tế không ngừng mở rộng, cộng với những tác động mạnh

mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ thế giới, nguồn lực trí tuệ nước ta

đã được bổ sung thêm nhiều giá trị trí tuệ mới và được nâng lên một bước cả về

số lượng và chất lượng. Song, so với yêu cầu của công cuộc đổi mới, so với mặt

bằng trí tuệ chung của thế giới thì nguồn lực trí tuệ nước ta còn nhiều điểm hạn

chế.

- Xét về mặt sinh học, trí tuệ nước ta là một quá trình hoạt động sinh lý -

thần kinh diễn ra trong bộ não con người. Bộ não càng phát triển, hoàn thiện thì

càng tạo ra những điều kiện sinh học thuận lợi cho sự phát triển của trí tuệ . khi

tiến hành sự phát triển của cơ thể con người, các nhà khoa học rút ra kết luận:

người Việt Nam có chiều cao và trọng lượng cơ thể thuộc loại trung bình thấp trên

thế giới. ở tuổi trưởng thành trọng lượng cơ thể của con người Việt Nam chỉ bằng

70% trọng lượng cơ thể người châu Âu. Nhưng nếu tính trọng lượng tương đối của

não thì não người Việt Nam chiếm 2.5 đến 2.6 trọng lượng toàn thân, còn não

người châu Âu chỉ chiếm 2.0 đến 2.1%. Như vậy, xét về mặt sinh học sự phát triển

của bộ não người Việt Nam không có những khác biệt lớn so với não của người

châu Âu. Do vậy, như các dân tộc khác trên thế giới, người Việt Nam tuy cơ thể

nhỏ bé nhưng cũng có các tố chất thông minh, sáng tạo, có khả năng trí tuệ phong

phú đa dạng, đủ sức vươn tới đỉnh cao của khoa học, của trí tuệ nhân loại. Trí tuệ

của con người Việt Nam biểu hiện qua lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước,

qua những thành tích mà học sinh Việt Nam đạt được trong các kỳ thi học sinh

giỏi quốc tế... là những minh chứng cho nhận định này, đồng thời là căn cứ khoa

học để bác bỏ mọi quan điểm phân biệt chủng tộc, màu da, coi thường dân tộc Việt

Nam của những kẻ xâm lược cũng như những biểu hiện tự ti dân tộc.

- Nguồn lực trí tuệ Việt Nam sớm được hình thành và phát triển phong

phú, đa dạng .

nằm trong khu vực Đông Nam á, là khu vực phát sinh của loài người, đồng

thời là nơi sản sinh và tồn tại một trong những nền văn hoá cổ nhất của nhân loại

nên nền vaưn hoá Việt Nam được hình thành và phát triển rất sớm so với nhiều

nền văn hoá trên thế giới. Ngay từ thời Hùng Vương, tổ tiên chúng ta đã phát triển

rực rỡ độc đáo và đã có những cống hiến quý báu vào nền văn hoá của nhân loại.

Cùng với sự phát triển của văn hoá, người Việt Nam sớm nhận thức được

tầm quan trọng của việc khai mở dân trí để phát triển đất nước, do đó nền giáo dục

Việt Nam cũng sớm được hình thành và phát triển.

Sự hình thành và phát triển của văn hóa và giáo dục là cơ sở để khẳng định

nguồn lực trí tuệ Việt Nam sớm hình thành và phát triển trong tiến trình phát triển

của văn minh nhân loại.

Nguồn lực trí tuệ Việt Nam được hình thành trước hết từ chính cuộc sống

của người Việt Nam cổ đại và phát triển theo tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam

(kể từ khi hình thành nhà nước đầu tiên đến nay đã 4000 năm). Lịch sử lâu dài đó

cùng với vị trí địa lý, điều kiện môi trường sinh thái phong phú, cơ cấu dân tộc đa

dạng và cơ sở kinh tế , kết cấu xã hội đã tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam. Bản

thân Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với những đặc trưng kinh tế , văn hoá

khác nhau. Sự giao lưu kinh tế - văn hoá giữa các dân tộc diễn ra từ rất sớm và tạo

nên một sự đa dạng, phong phú trong tư duy của người Việt.

Xét về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, hiện nay Việt Nam là nước đang

phát triển. Nguồn lực trí tuệ hội đủ các yếu tố trí tuệ của cả văn minh nông

nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh trí tuệ. Tuy nhiên, mức độ và liều lượng

giữa chúng không đồng đều và phân bố ở các lĩnh vực có khác nhau. Tính hỗn hợp

và đan xen của các yếu tố trí tuệ của nền văn minh khác nhau vừa tạo nên sự đa

dậng, phong phú của nguồn lực trí tuệ Việt Nam, vừa đặt ra những thách thức mới

trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc cũng như trong việc định hướng cho sự

phát triển lành mạnh về trí tuệ của mỗi cá nhân cũng như nguồn lực trí tuệ của cả

dân tộc.

- Nguồn lực trí tuệ Việt Nam mang đậm triết lý nhân sinh và dân tộc phát

huy đầy đủ nhất trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Xét về cấu trúc, nguồn lực trí tuệ Việt Nam bao gồm tập hợp các giá trị

biểu hiện những khả năng, những năng lực sáng tạo về tinh thần của con người

nhằm thoả mãn những nhu cầu phản ánh cuộc sống đa dạng, phong phú của mình.

Đó là những giá trị mới sáng tạo gắn liền với tư tưởng tư duy , tư tưởng, lý luận;

trong đó, lý luận là sự kết tinh cao nhất, tinh tuý nhất của mọi sự sáng tạo về trí tuệ

của con người.

Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống coi trọng đạo lý, lấy nhân nghĩa

trung hiếu làm chuẩn mực cho các hành vi ứng xử của mình. Điều đó được thể

hiện trong những câu chuyện cổ, ca dao, tục ngữ được lưu truyền từ đời này qua

đời khác. Đó là triết lý về cội nguồn, về tình làng nghĩa xóm, là tinh thần nhân ái,

cố hết, chung lưng đấu cật để bảo vệ và xây dựng cộng đồng, là triết lý đối nhân

xử thế, sống hoà bình và hữu nghị với các nước láng giềng. Hạt nhân của triết lý

ấy là con người yêu nước- sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của lịch sử và

trở thành thuyết lý về những vấn đề nhân sinh và xã hội của con người Việt Nam.

Triết lý nhân sinh với hạt nhân là con người yêu nước kết hợp với trí tuệ

sáng tạo của con người Việt đã được nêu cao và phát huy mạnh mẽ trong suốt

chiều dài lịch sử của dân tộc. Song, nó được phát huy cao độ và đầy đủ nhất ở tư

duy quân sự tài giỏi trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Cuộc đấu

tranh chênh lệch rất lớn về lực lượng quân đội và trang bị vũ khí cũng như tiềm

lực kinh tế tưởng chừng không thể nào thắng nổi. Trong hoàn cảnh đó muốn chiến

thắng được kẻ thù thì ngoài lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần chiến đấu gan dạ,

anh dũng không sợ hy sinh, gian khổ... còn rất cần có trí thông minh sáng suốt. Và

lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc đã chứng minh rằng: thắng lợi vĩ đại của

cách mạng Việt Nam chính là thắng lợi của trí tuệ và tinh thần Việt Nam.

Là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại, tuy chưa để lại cho

nhân loại những phát minh lớn song dân tộc Việt Nam đã có nhiều cống hiến cho

loài người những giá trị trí tuệ cao: trong lĩnh vực quân sự là lý luận và kinh

nghiệm thực tiễn về chiến lược chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích...;trong

lĩnh vực văn hoá, đó là những giá trị văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc và ngày

nay, đó là di sản tư tưởng văn hoá sáng tạo của Hồ Chí Minh-người anh hùng dân

tộc, nhà văn hoá lớn của thế giới, là những kinh nghiệm và lý luận về con đường

đổi mới của cách mạng Việt Nam.

- Nguồn lực trí tuệ Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở một

phương thức sản xuất nông nghiệp còn lạc hâụ, lại bị chiến tranh liên miên nên

còn thiếu hụt nhiều giá trị cao nhất của trí tuệ loài người.

Xét về phương diện lịch sử, Việt Nam chưa có truyền thống khoa học, nhất

là tư duy khoa học và tư duy lý luận. Nền kinh tế tiểu nông có đặc trưng làlàm cho

con người phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Để có thể sống hoà hợp với thiên

nhiên con người đã phải đúc rút kinh nghiệm. Chính lối sống đó đã tạo ra con

người Việt Nam cách tư duy tổng hợp, biện chứng. Do vậy, nó cho phép con

người rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu trong đời sống và phát triển lao động

sản xuất. Song hạn chế của nó là thiếu sự phân tích, mổ xẻ một cách khoa học các

bộ phận cấu thành các sự vật hiện tượng. Vì vậy, thiếu những điều kiện cần thiết

cho việc hình thành những ngành khoa học chuyên sâu, đặc biệt là khoa học kỹ

thuật. Mặt khác, thói quen giải quyết công việc bằng kinh nghiệm chủ quan lâu

ngày trở thành "chủ nghĩa kinh nghiệm"đè nặng lên tư duy con người Việt Nam.

Đó là lực cản lớn cho tính năng động sáng tạo của trí tuệ; nó không kích thích

được tính độc lập, sáng tạo của cá nhân dẫn đến tam lý ngại khó, ngại khổ trong

học tập, trong nghiên cứu khoa học, trong quá trình trau dồi trí tuệ ... gây ảnh

hưởng lớn đến việc hình thành và phát triển trí tuệ khoa học của từng cá nhân và

của cả cộng đồng.

Hơn nữa trong 27 thế kỷ tồn tại và phát triển của mình, dân tộc Việt Nam

đã phải mất 12 thế kỷ đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Hoàn cảnh đất nước có

chiến tranh đã làm gián đoạn và gây cản trở lớn đến việc tiếp cận với những thành

tựu khoa học mới của nhân loại. Đồng thời nó không cho phép tập trung sức

người, sức của vào việc bồi dưỡng chăm lo phát triển nhân tài và phát triển nguồn

lực trí tuệ của đất nước nhất là trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ.

Tất cả những điều đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự lạc hậu về trí tuệ

của nhiều cá nhân và là nguy cơ dẫn đến sự thấp kém về trình độ trí tuệ của dân

tộc so với mặt bằng và đỉnh cao trí tuệ của nhân loại. Vì vậy, trong nhiều trường

hợp chúng ta không đủ năng lực trí tuệ để xử lý các tình huống phù hợp với quy

luật khách quan dẫn đến những sai lầm, trì trệ, kém phát triển.

Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nhưng nền kinh tế vẫn còn phổ biến là sản xuất nhỏ, thủ công lạc

hậu. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta gần 15 năm qua đã bổ sung thêm nhiều giá trị

trí tuệ mới của nhân loại vào nguồn lực trí tuệ Việt Nam, khoa học công nghệ

cũng có những bước phát triển quan trọng. Song, đổi mới là một quá trình cải biến

xã hội sâu sắc và triệt để. Do đó, nó đòi hỏi một mặt phải tiếp tục phát huy truyền

thống tốt đẹp của dân tộc, phát huy cao độ nguồn lực trí tuệ của toàn dân; mặt

khác phải bổ sung những giá trị trí tuệ của nhân loại làm phong phú thêm nguồn

lực trí tuệ Việt Nam, không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ của thời đại. Đó là

một trong những động lực để đất nước tránh được nguy cơ tụt hậu, lạc hậu ngày

càng xa so với nhiều nước trên thế giới.

ii.Nền kinh tế tri thức

1. Khái niệm nền kinh tế tri thức.

Thật kỳ diệu biết bao cho chúng ta- những người được sống những ngày

mở đầu thiên niên kỷ mới, thế kỷ mới. Nửa sau thế kỷ XX là thời kỳ phát triển rực

rỡ nhất trong lịch sử loài người với thành tựu nổi bật nhất là cách mạng thông tin

đã mở ra một thời đại mới- thời đại thông tin, bắt đầu từ máy từ máy tính điện tử

(cuối những năm 40 của thế kỷ này), rồi vi điện tử (những năm 70 của thế kỷ này)

và cuối cùng là kỹ thuật số và mạng (thậpkỷ cuối cùng của thế kỷ XX).Đến

đâyloài người tạo một sản phẩm quan trọng là nền kinh t ế tri thức, có khi còn gọi

là nền kinh tế mạng.Theo nhiều nhà khoa học dự báo, đó là cơ sở hạ tầng mới của

xã hội thông tin, xã hội học tập. Và như vậy vấn đề con người và nguồn lực người

sẽ có nhiều điều mới mẻ, cần nghiên cứu và xử lý.

Kinh tế tri thức được xây dựng trên cơ sở sản xuất, phân phối, sử dụng tri

thức và thông tin. Tóm lại, đó là kinh tế dựa vào tri thức và bây giờ đã quen gọi

là kinh tế tri thức. Nói đến tri thức là nói đến học, nên có người gọi là "Kinh tế

tri thức ", có người còn gọi"Kinh tế thông tin", "Kinh tế số hoá",v..v.. Cho dù ý

kiến còn khác nhau nhưng chắc chắn đây là một nền kinh tế mới xuất hiện từ 5-10

năm nay, trước đây chưa hề có, đó là nền kinh tế dựa vào công nghệ cao: "Các

ngành sản xuất và dịch vụ khoa học mới do công nghệ cao tạo ra như các dịch vụ

khoa học - công nghệ, các dịch tin học, các ngành công nghiệp công nghệ cao...

được gọi là ngành kinh tế tri thức. Các ngành trruyền thống như công nghiệp,

nông nghiệp, nếu được cải tạo bằng công nghệ cao mà giá trị do tri thức mới,

công nghệ đem lại chiếm trên 2/3 tổng giá trị thì những ngành ấy cũng là ngành

kinh tế tri thức. Nền kinh tế gồm chủ yếu các ngành kinh tế tri thức gọi nền kinh

tế tri thức". Một số người đề nghị cứ gọi là "nền kinh tế mới" cho chắc chắn. Nền

kinh tế này dựa trên bốn trụ: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ

vật liệu mới và công nghệ năng lượng, trong đó công nghệ thông tin giữ vai trò đi

đầu và nền tảng.

Như vậy, bên cạnh các nền kinh tế mà lâu nay chúng ta thường gọi, như

kinh tế hoang sơ (tự nhiên), kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp, đã xuất

hiện nền kinh tế mới mà trước đây dự báo gọi là kinh tế hậu công nghiệp thì nay

đã có tên gọi chính thức ngày càng được nhiều người hưởng ứng là kinh tế tri

thức. Người ta đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu so sánh kinh tế sức người (kinh tế

nông nghiệp), kinh tế tài nguyên (kinh tế công nghiệp) và kinh tế tri thức. ở đây

chúng ta có thể tham khảo ý kiến của một nhà kinh tế học Trung Quốc qua Bảng 4

để hiểu hơn nội hàm của khái niệm mới của nền kinh tế mới, nhất là kinh tế tri

thức gắn liền với thời kỳ phát triển cao cuả kinh tế công nghiệp, kinh tế thị trường

và một đặc điểm của thời đại ngày nay là nền kinh tế toàn cầu (toàn cầu hoá, hội

nhập và mở cửa). Vì vậy có người còn gọi kinh tế tri thức là kinh tế mạng thông

tin toàn câu.

2. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức.

Thứ nhất đặc điểm lớn nhất làm khác biệt kinh tế tri thức với kinh tế công

nghiệp, kinh tế nông nghiệp chính là tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất của

sản xuất, hơn cả lao động và tài nguyên. Vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là

tri thức. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng kinh tế. Không phải

như các nguồn lực khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin có thể được

chia sẻ và trên thực tế lại tăng lên khi sử dụng. Do vậy, nền kinh tế tri thức là một

nền kinh tế dư dật chứ không phải khan hiếm.

Quyền sở hữu đối với tri thức trở thành quan trọng nhất, hơn cả vốn, tài

nguyên, đất đai. Ai chiếm hữu được nhieuè tài sản trí tuệ hơn, người ấy thắng

trong cạnh tranh. Pháp luật về sở hữu trí tuệ trở thành nộidung chủ yếu trong quan

hệ dân sự cũng như trong thương mại quốc tế.

Sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đầy sự

phát triển. Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn: quá trình từ

lúc ra đời, phát triển rồi tiêu vong của một lĩnh vực sản xuất, hay một công nghệ

chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển

phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới.

Trước đây người ta hay chọn những công nghệ đã chín muồi, còn bây giờ thì phải

tìm chọn các công nghệ mới nảy sinh; cái chín muồi là cái sắp sửa tiêu vong.

Trong nền kinh tế tri thức, của cải làm ra chủ yếu dựa vào cái chưa biết; cái

đã biết không còn giá trị nữa, tìm ra cái chưa biết tức là tạo ra giá trị mới. Khi phát

hiện ra cái chưa biết thì cũng tức là loại trừ cái đã biết. Cái cũ mất đi thay thế cái

mới, nền kinh tế, xã hội luôn đổi mới. Đó là đặc trưng của sự phát triển, sự tiến

hoá của xã hội sắp tới; phát triển từ cái mới, chứ không phải từ số lượng lớn dần

lên.

Thứ hai, sự chuyển đổi cơ cấu. Các công nghệ mới, các ý tưởng mới là chìa

khoá cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống. Do đó, nền

kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, dịch chuyển nhanh cơ cấu. Nhưng, đây cũng là

nền kinh tế mang tính rủi ro, vì nó luôn biến động, luôn có nhiều thách thức mới.

Trong khi nền kinh tế công nghiệp dựa vào sự tổ chức sản xuất hàng loạt,

quy chuẩn hoá, thì nền kinh tế tri thức được tổ chức trên cơ sở sự sản xuất linh

hoạt hàng hoá và dịch vụ dựa vào công nghệ cao. Đây cũng là kinh tế văn phòng,

tức là người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm trong các nhà máy ít đi, người làm việc

ở văn phòng nhiều lên. Nói như thế không có nghĩa là sự chế tạo hàng loạt là

không quan trọng, cũng không phải là sản phẩn hàng hoá ít đi, mà đó là do nhịp độ

tăng năng suất trong sản xuất công nghiệp và nông nghiệp rất cao. Hiện nay, ở các

nước phát triển nhất có 70-80% lực lượng lao động không phải trực tiếp làm ra các

vât phẩm, mà họ chuyển sang làm các công việc liên quan đến di chuyển vật

phẩm, xử lý thông tin, cung cấp các dịch vụ cho khách hàng. Việc làm trong sản

xuất hàng hoá giảm đi rất nhiều và được thay thế bằng việc làm trong văn phòng.

Các doanh nghiệp không ngừng đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm.

Công nghệ mới trở thành nhân tố hàng đầu trong việc tạo ra năng suất, sự tăng

trưởng và việc làm. Cho nên, sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan

trọng nhất, tiêu biểu cho nền sản xuất tương lai. Phát triển nhanh các doanh nghiệp

sản xuất công nghệ (cũng có thể gọi là doanh nghiệp tri thức ), trong đó khoa học

và sản xuất được nhất thể hoá, không phân biệt phòng thí nghiệm với công xưởng,

những người làm việc trong đó là công nhân tri thức (công nhân khoa học), họ

vừa nghiên cứu vừa sản xuất.

Trong nền kinh tế tri thức, các công ty mới mọc lên nhanh như nấm, sự ra

đời của một công ty gắn với sự ra đời của một công nghệ mới, một sáng chế mới.

Các công ty đang hoạt động muốn trụ được phải thường xuyên đổi mới, kịp thời

chuyển hướng theo sự phát triển của công nghệ. Để tăng sức mạnh, các công ty

phải hợp tác với nhau, phải "mua" nhau để thành công ty lớn. Gần đây ta thấy rất

nhiều các công ty khổng lồ hàng chục, hàng trăm tỷ USD "mua" nhau, trở thành

những tập đoàn lớn chi phối cả thế giới. Người ta lo ngại sự tập trung này dẫn tới

độc quyền và thủ tiêu cạnh tranh. Nhưng, mặt khác, các công ty khổng lồ chia ra

các công ty con rải trên khắp thế giới, các công ty còn được quyền chủ động nhiều

hơn, linh hoạt hơn, dễ thích nghi với sự đổi mới. Cho nền, hợp nhất thành, những

công ty khổng lồ, nhưng thực tế lại là sự chia nhỏ/

Các khu vực công nghệ (technology park) hình thành và phát triển rất

nhanh. Đó là những nơi sản xuất công nghệ, thường được gọi là vườn ươm công

nghê, là cái nôi của các ngành công nghiệp tri thức. ở đây hội đủ các điều kiện

thuận lợi để nhất thể hoá quá trình nghiên cứu, thực nghiệm khoa học, triển khai

công nghệ và sản xuất, nhờ đó các ý tưởng khoa học nhanh chóng trở thành công

nghệ và tạo ra sản phẩm. Khu vực công nghệ tiêu biểu nhất là Thung lũng Silicon.

Nó là cái nôi của công nghệ cao của thế giới (khoảng 40% công nghệ cao đang sử

dụng trên thế giới bắt nguồn từ đây) là cái nôi của Internet, ngày nay. Nó bắt đầu

hình thành từ những năm 50, nay đã có hàng nghìn công ty với doanh số hơn 400

tỷ đô la.

Vì nền sản xuất dựa vào công nghệ cao, tiêu hao ít nguyên liệu, năng lượng,

thải ra ít phế thải, cho nên trong nền kinh tế tri thức có thể thực hiện được sản

xuất sạch, không gây ô nhiễm môi trường. Kinh tế tri thức là nền kinh tế phát

triển bền vững.

Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết

lập mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ chức, các

gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế. Mọi

người đều có nhu cầu thông tin và dễ dàng truy nhập vào các kho thông tin cần

thiết cho mình. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội đều có tác động của công

nghệ thông tin để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Cũng chính vì vậy,

nhiều người gọi nền kinh tế tri thức là nền kinh tế số, nền kinh tế mạng, nền kinh

tế internet, nền kinh tế điện tử.

Thương mại điện tử, tri thức ảo, tổ chức ảo, xí nghiệp ảo, làm việc từ xa....

được sử dụng rộng rãi, làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trở nên rất

nhanh nhạy, linh hoạt; khoảng cách bị xoá dần, ý nghĩa của vị trí địa lý giảm đi.

Xã hội thông tin phát triển.

Thứ tư, nền kinh tế tri thức thúc đầy sự dân chủ hoá. Thông tin đến với mọi

người. Mọi người đều dễ dàng truy cập đến các thông tin cần thiết. Dân chủ hoá

các hoạt động và tổ chức điều hành trong xã hội được mở rộng. Người dân nào

cũng có thể được thông tin kịp thời về các quyết định của cơ quan nhà nước hoặc

tổ chức có liên quan đến họ và họ có thể có ý kiến, nguyện vọng của nhân dân

cũng rất dễ dàng thuận tiện. Nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân kiểm tra", có điều

kiện thuận lợi để thực hiện.

Cách tổ chức quản lý cũng sẽ thay đổi. Trong thời đại thông tin, mô hình

chỉ huy tập trung, có đẳng cấp tỏ ra không còn phù hợp. Người ta sử dụng nhiều

hơn mô hình phi đẳng cấp, phi tập trung, mô hình mạng, trong đó tận dụng các

quan hệ ngang thông tin đến được tất cả mọi người, mọi nơi một cách thuận lợi,

nhanh chóng, không canà đi qua các nút xử lý trung gian. Đó là mô hình tổ chức

dân chủ, rất linh hoạt trong điều hành, dễ thích nghi với đổi mới, khơi dậy sự nặng

động sáng tạo của mọi người.

Thứ năm, hình thành xã hội học tập. Giáo dục rất phát triển. Mọi người đều

học tập, học thường xuyên,học ở trường và học trên mạng để không ngừng trau

dồi kỹ năng, phát triển trí sáng tạo. Mọi người thường xuyên được bổ túc, cập nhật

kiến thức, chủ động theo kịp sự đổi mới và có khả năng thúc đầy sự đổi mới kiến

thức, mô hình giáo dục truyền thống; đào tạo xong rồi ra làm việc là không còn

phù hợp, mà phải theo mô hình học tập suốt đời; đào tạo vừa làm việc. Các hình

thức giáo dục thường xuyên, nhất là giáo dục thông qua mạng rất phát triển. Con

người học tập suốt đời, vừa học vừa làm việc. Hệ thống giáo dục phải đảm bảo

cho mọi người bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu cũng có thể học tập được. Mạng thông

tin có ý nghĩa rất quan trọng cho việc học tập suốt đời.

Trong nền kinh tế tri thức, khoản đầu tư cho giáo dục và khoa học chiếm tỷ

lệ rất cao. Nói chung, đầu tư vô hình (cho con người, cho giáo dục, khoa học, văn

hoá - xã hội ...) cao hơn đầu tư hữu hình (xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật). Phát

triển con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội. Vốn con người thực sự là

vốn quý nhất.

3. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức

Nền kinh tế tri thức theo báo cáo của Uỷ ban kinh tế APEC được định hình

bởi bốn yếu tố chủ yếu: Mức độ hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, môi trường

khích lệ ý tưởng sáng tạo và doanh nghiệp mới, giáo dục và học tập suốt đời đứng

vị trí quan trọng hàng đầu, vai trò thúc đẩy mạnh mẽ của hạ tầng thông tin liên lạc.

Sự chuyển dịch ngày càng sâu sắc và nhanh chóng của các nền kinh tế trên

qui mô toàn cầu sang nền kinh tế tri thức, với sự khởi đầu mạnh mẽ ở những nước

công nghiệp tiên tiến từ cuối thập kỷ 80 đang hình thành nên một số xu thế phát

triển có đặc trưng sau:

Thứ nhất: các ngành công nghiệp có độ thâm dụng cao về tri thức và ý

tưởng sáng tạo, có tốc độ phát triển rất mau chóng, vượt xa các ngành công nghiệp

truyền thống.

Một ví dụ điển hình là công ty phần mềm infosys của ấn Độ, do một nhóm

nhỏ các trí thức trẻ trong lĩnh vực máy tính thành lập năm 1981. Sự bùng nổ của

thị trường công nghệ thông tin trong thập kỷ 90 đã giúp infosys phát triển rất

nhanh, trở thành một trong những công ty phần mềm lớn của ấn Độ với trên 10000

nhân viên. Trị giá của năm 2001 lên tới gần 15 tỷ USD, lớn hơn giá trị thị trường

của TATA STEEL là tập đoàn thép tư nhân lớn nhất của ấn Độ.

Thứ hai: điện tử hóa trên mọi lĩnh vực của cuộc sống và kinh doanh.

Sự phổ biến của các dịch vụ dựa trên internet như thương mại điện tử, điện

tử học và tham vấn từ xa nên những khả năng to lớn nâng tăng suất lao động,

giảm giá thành, nâng cao hiệu lực và chất lượng quản lý.

Thứ ba:sự hội tụ phần mềm trong các ngành công nghiệp

Công nghệ internet cho phép khách hàng hiểu biết tường tận các nguồn

cung cấp sản phẩm trên qui mô toàn cầu và các nhà sản xuất cũng nhanh chóng có

được nhu cầu và phán xét của khách hàng về sản phẩm của mình. Tình thế này

buộc các công ty vừa phải củng cố và nâng cấp thế mạnh cạnh tranh cốt lõi của

mình vừa phải tìm cách liên kết sáp nhập để có được sản phẩm tốt hơn và đồng bộ

hơn cho những thị phần chiến lược. Các tập đoàn đa ngành theo cấu trúc cứng

trước đây, do vậy, đang phải trải qua những cải tổ căn bản để đứng vững được trên

thị trường.

Thứ tư: Nguồn lực trí tuệ mang lại ưu thế đặc biệt và cạnh tranh thu hút,

đào tạo nhân tài đang trở nên đấu tranh quyết liệt nhất

Dù ở cấp độ nào, quốc gia, địa phương, công ty hay gia đình, nguồn lực trí

tuệ này mang lại một ưu thế đặc biệt trong cuộc phấn đấu cho phồn vinh và phát

triển. Cũng chính vì vậy, cuộc đua tranh nhằm thu hút và đào tạo nhân tài ở mọi

cấp độ đang trở nên hết sức quyết liệt và chỉ ai chiến thắng trong cuộc đấu này mới

có thể vượt lên hàng đầu trong những thập kỷ tới.

Đặc thù của nền kinh tế tri thức với những xu thế phát triển đặc trưng nêu

trên đang mở ra những thời cơ và thách thức to lớn cho một số nước, trong đó có

nước ta. Tuy hiện thời nước ta còn nghèo, nhưng nước ta có tiềm năng dồi dào về

trí lực và phẩm chất, vượt lên mạnh mẽ trong 2-3 thập kỷ tới với sức bật kỳ diệu

của nền kinh tế tri thức.

4. Yêu cầu của nền kinh tế tri thức đối với con người

Kinh tế tri thức ra đời chứng minh tính đúng đắn trong kết luận của C.Mác

rằng khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và cũng chứng

minh tính khoa học và tính cách mạng của lý luận macxit về các hình thái kinh tế -

xã hội; hình thái kinh tế -xã hội tư bản chủ nghĩa sẽ hoàn thành vai trò lịch sử của

nó và lịch sử tiến hoá nhân loại sẽ chuyển sang hình thái kinh tế -xã hội mới.

Trong giai đoạn quá độ này, sứ mệnh cao cả thuộc về giai cấp công nhân, tất nhiên

ở trình độ cao, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, là công nhân được trí thức hoá,

liên minh với tri thức, thu hẹp dần lại khoảng cách giữa lao động trí óc và lao

động chân tay, lao động sản xuất và lao động quản lý đều là lao động trực tiếp làm

ra sản phẩm của hoạt động lao động. Giai cấp công nhân đều đứng trong giai cấp

những người lao động tri thức. Đội ngũ những người lao động tri thức có cả các

cán bộ kỹ thuật, các nhà quản lý. Kinh tế thị trường đã và đang mang lại biết bao

thay đổi sâu sắc và to lớn trong xã hội, nhất là trong giáo dục- đào tạo. Trước hết

phải kể đến một quan niệm mới về tri thức. Người ta phân biệt rất rõ ba khái

niệm: dữ liệu, thông tin và tri thức. Ba khái niệm này là khái niệm công cụ của

giáo dục- đào tạo và của kinh tế tri thức ngày nay được xác định như sau:

- Dữ liệu là những khối cơ bản trong kinh tế thông tin.

- Thông tin là dữ liệu được xếp thành mẫu hình có ý nghĩa.

- Tri thức là áp dụng và sử dụng một cách có ích các thông tin.

Như vậy vấn đề đặt ra là tri thức phải thành kỹ năng, tri thức phải thành

trí lực, và suy rộng ra dân trí phải trở thành nhân lực và cả nhân tài nữa, nhân tài

phải là một bộ phận chất lượng cao của nhân lực và được coi như là đầu tầu của

đoàn tầu nhân lực. Đó là hướng tổng quát nhất của nền giáo dục đi vào phục vụ

kinh tế thị trường. Thời đại ngày nay là thời đại của những con người nhân ái, tài

trí, hành động, sáng tạo và hiệu quả. Đó là mục tiêu của giáo dục đầu thế kỷ 21. ở

đây, chúng tôi xin nhấn mạnh một ý về vai trò cực kỳ quan trọng của giáo dục đối

với nền kinh tế thị trường nói riêng và đối với thời đại thông tin nói chung. Các

nước phát triển đều chủ trương phải nâng cao vị trí của giáo dục, giáo dục quyết

định sức mạnh, sự thịnh vượng và tương lai tươi sáng của đất nước. Bản tổng kết

của uỷ ban giáo dục đi vào thế kỷ 21, mà ông Giắc Đờlo làm chủ tịch, do

UNESCO tổ chức, hoàn thành năm 1995 đã lấy tên là "Giáo dục là của cải nội

sinh" tức là kết quả giáo dục đối với mỗi người phải thành nội lực của người ấy và

hơn nữa nội lực này phải có khả năng tạo ra của cải, phúc lợi cho mỗi người và cả

xã hội. Báo cáo này nêu ra nguyên lý "học để biết" phải cùng với "học để làm",

nói theo ngôn ngữ của lý luận về kinh tế tri thức là giáo dục phải tạo nên vốn giữ

liệu và phải chuyển tải thành thông tin, thành tri thức, tức là thành công nghệ vào

sản xuất.

Liên hệ vào tình hình giáo dục nước ta, trước hết phải khẳng định rằng cần

tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện giáo dục và đào tạo, phục vụ đắc lực công

cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa, dần dần tiếp cận với kinh tế tri thức. Trong sự

nghiệp này, chúng ta phải kiên trì đấu tranh khắc phục tâm lý nặng nề của nền giáo

dục khoa cử, quan trường; phổ biến rộng rãi đến từng người dân, đến các thầy cô

giáo, đến tất cả các em học sinh. Thái độ, động cơ đúng đắn thấm nhuần mục tiêu

giáo dục nhằm xây dựng nhân cách, trên cơ sở đó nâng cao dân trí, đào tạo nhân

lực, bồi dưỡng nhân tài, trong đó nhân cách là cơ sở, nhân lực là mục tiêu, nhân tài

là đầu tầu của nhân lực, chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu, tiến lên giầu có, văn

minh.

Kinh tế tri thức là biểu hiện tập trung nổi bật của xã hội tri tuệ, xã hội học

tập. Cho nên phải quán triệt quan điểm học suốt đời. Ngày nay cách chia lứa tuổi

ra tuổi chơi, tuổi học, tuổi lao động, tuổi về hưu đã thay đổi, tuổi nào cũng phải

học, tất nhiên trong "tuổi học" hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo. Và ở nhà

trường ngày nay, bên cạnh truyền đạt và tiếp thu tri thức, vận dụng tri thức, rất

chú ý hình thành nên ở mỗi người phương pháp học tập của bản thân mình. Nhất

là trong trường cao đẳng, đại học và đặc biệt chú ý đến công việc này. Đồng chí

Phạm Văn Đồng đã từng nói: Học đại học là học phương pháp. Tri thức ngày nay

biến đổi nhanh lắm: cứ 7 năm lượng thông tin của loài người tăng gấp đôi; ở bậc

đại học của Mỹ một số nhà khoa học cho biết có nội dung được dậy ở năm thứ

nhất đến cuối khoá đã trở nên lạc hậu. Vào đời lao động ai cũng phải cập nhật vốn

hiểu biết của mình, ai cũng phải tự học suốt đời theo gương của Bác Hồ chúng ta.

Bác đã đưa ra tư tưởng diệt dốt, đặc biệt coi trọng dân trí như là một điều kiện tối

cần thiết bảo đảm thành công cuộc kháng chiến và cách mạng. Ngày nay chúng ta

coi tri thức đồng nghĩa với phát triển, tri thức là chìa khoá của mỗi người giải

quyết các vấn đề đặt ra cho bản thân, là chìa khoá đi vào tương lai. Kinh tế tri

thức đòi hỏi mọi người phải học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, phổ cập

công nghệ, tăng cường nhân văn.

Kinh tế dựa trên tri thức, công nghệ cao mà trước hết là công nghệ thông

tin, nên tay nghề công nghệ cao của đội ngũ chuyên gia công nghệ cao là đòi hỏi

đầu tiên, là yếu tố then chốt để tiếp cận dần với kinh tế tri thức. Và cũng chính vì

vậy các nhà chuẩn bị giáo dục đi vào thế kỷ 21, nhất là ở một số nước (Mỹ,

Singapore ..v..v..) đã đi vào kinh tế tri thức, đặc biệt chú trọng giáo dục nhân văn,

nhân bản, rất quan tâm đến giáo dục giá trị văn hoá dân tộc cùng với giá trị chung

của nhân loại. Trong đó, đặc biệt coi trọng giáo dục giao tiếp, ứng sử văn hoá,

quan hệ giữa người với người như là giá trị tinh tuý nhất, quý báu nhất của loài

người và từng con người, nhóm người và cộng đồng, giáo dục văn hoá bao dung,

văn hoá hoà bình. Đó là phương hướng tổng quát của công cuộc đổi mới, cải cách

nội dung, chương trình, sách giáo khoa tổ chức hoạt động dạy - học, giờ trên lớp

và giờ ngoài lớp để đi vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tiếp cận dần với kinh tế

tri thức. Uỷ ban giáo dục đi vào thế kỷ 21 của UNESCO đã đưa ra 4 nguyên lý của

giáo dục trong thời đại mơí là: học để biết, học để làm, học để chung sống và học

để tự khẳng định mình. Cuối cùng phải coi nhân cách và nhân lực như là yếu tố

đột phá thực hiện chiến lược 2001-2010 của nước ta như Văn kiện Đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ IX đã nêu.

Phần III: Mối quan hệ giữa con người Việt Nam và nền kinh tế tri thức.

Con người có tác động tích cực đến nền kinh tế tri thức.

Trong bất kỳ nền kinh tế nào thì con người đều đóng vai trò quan trọng

nhất. Trong nền kinh tế tri thức sự phát triển của khoa học công nghệ đòi hỏi con

người phải phát triển toàn diện hơn , hài hoà trên cơ sở chất lượng trí tuệ cao và

mới thoả mãn với yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế, vì sự phát triển của

con người.

Đặc điểm của con người là thích tìm tòi, nghiên cứu. Do đó con người

không ngừng tìm kiếm những hình thức, biện pháp để cải thiện xã hội sao cho đáp

ứng được với sự phát triển của nền kinh tế. Trí tuệ của con người với tư cách là

một nguồn lực, đã tham gia một cách tích cực và sáng tạo vào quá trình xây dựng

và từng bước hoàn thiện tổ chức xã hội, xây dựng một thể chế chính trị xã hội sao

cho giải quyết ngày càng tốt hơn các mối quan hệ giữa cá nhân với nhau với cộng

đồng và nhà nước.

Con người Việt Nam có nhận thức nhanh nhạy,đúng đắn về sự phát triển

của nền kinh tế do đó nhanh chóng áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ

trên thế giới. Đó là điều kiện tốt để mở rộng, nâng cao kiến thức, nắm bắt thông tin

trên thị trường tạo điều kiện cho nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển hơn.

Người Việt Nam có ý chí vượt qua xáo động tâm lý, vượt qua trở ngại khó

khăn, biết vươn lên trong học tập. Mặc dù nền kinh tế của ta còn nghèo, thu nhập

của cá nhân còn thấp nhưng người Việt Nam biết tiết kiệm và học hỏi lẫn nhau.

Điều đó khiến cho mọi vấn đề trở dễ dàng hơn, giúp cho họ học tốt hơn, thuận tiện

hơn. Sự học thuận tiện hơn đã tạo điều kiện cho tri thức ngày một phát triển hơn.

Con người tác động tiêu cực tới nền kinh tế tri thức.

+ Cũng do nhận thức càng cao của con người nên số người muốn ở lại thủ

đô và một số thành phố lớn rất cao. Thực tế cho thấy đa số sinh viên ra trường

không muốn về tỉnh nữa. Vì vậy mà sự phân hoá thành thị nông thôn vẫn còn

khoảng cách lớn chưa tạo được sự phát triển tri thức một cách toàn diện.

+ Khái niệm nền kinh tế tri thức còn rất mơ hồ đối với những người dân

vùng nông thôn nên họ chưa nhiệt tình tham gia phát triển kinh tế tri thức. Cũng

không thể phê phán ai vì đều kiện kinh tế còn hạn hẹp (Thu nhập ở nông thôn chỉ

đủ ăn còn dư dật thì không nhiều). Đây là một lý do kìm hãm bước đi của nền kinh

tế tri thức.

+ Do bị ảnh hưởng của chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo của hệ

thống giáo dục ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ nên con người đào tạo ra ít năng

động, trình độ ngoại ngữ kém, kỹ năng thực hành yếu nên không đáp ứng được

yêu cầu phát triển kinh tế tri thức.

Nói tóm lại chính nhận thức của con người không tốt sẽ tạo ra những yếu tố

không tốt kìm hãm sự phát triển kinh tế nói chung và sự phát triển nền kinh tế tri

thức nói riêng

 Nền kinh tế tri thức tác động tới con người.

Chúng ta đang sống trong một thời đại mà sự biến đổi của xã hội diễn ra

sâu sắc, mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử. Trong hai thập niên qua các công

nghệ cao phát triển như vũ bão và đã đạt được những thành tựu kỳ diệu mà trước

đây vài thập niên con ngừời chưa dự báo được và cũng ít dám mơ ước tới. Đặc

biệt là trong thập niên 90 các thành tựu về công nghệ thông tin như công nghệ

web, internet, thực tế ảo, thương mại điện tử... cùng với những thành tựu về công

nghệ sinh học như công nghệ gen, nhân bản vô tính... đang tác động mạnh mẽ, sâu

sắc, làm đảo lộn nền kinh tế thế giới và toàn bộ xã hội loài người, đưa con người

đi vào thời đại kinh tế tri thức.

Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai ở các nước phát triển nông dân chiếm

đa số. Ngày nay ở đó nông dân chỉ còn dưới 1/5 (về dân số), tức giảm xuống còn

1/10 so với trước đây 80 năm. Nông dân sản xuất chỉ chiếm 2% lực lượng lao

động và cũng không còn là người nông dân đúng nghĩa nữa mà thực ra họ là

những nhà kinh doanh nông nghiệp. Công nhân nói chung thì tăng lên nhưng công

nhân áo xanh giảm đi, công nhân áo trắng tăng lên và đặc biệt là đã xuất hiện công

nhân tri thức. ở Mỹ trong ngành chế tạo máy công nhân áo xanh năm 1950 chiếm

35%, năm 1980 là 20% và hiện nay còn khoảng 15%. Tính chung ở các nước phát

triển công nhân áo xanh trong công nghiệp chỉ còn 20%. Bây giờ trong nhiều

ngành không còn phân biệt giữa người công nhân với nhà khoa học. Người chụp X

quang là công nhân hay là cán bộ khoa học? Họ là công nhân nhưng đó là công

nhân tri thức. trong các ngành sản xuất phần mềm cũng thế, những người viết

chương trình máy tính là công nhân tri thức. Trong các ngành công nghiệp dịch vụ

dựa vào công nghệ cao, phần lớn những người lao động là công nhân tri thức.

Trong nền kinh tế tri thưc vai trò của người công nhân áo trắng, nhất là công nhân

tri thức là hết sức quan trọng. Họ là lực lượng chủ yếu tạo ra của cải xã hội, tiêu

biểu cho lực lượng sản xuất mới.

Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế đa số dựavào tri thức do đó đòi hỏi ở

nguồn nhân lực tương ứng phải được đào tạo đặc biệt về nội dung và phương pháp

mới.

Lao động chân tay chuyển sang lao động trí tuệ. Nghĩa là sự phát triển kinh

tế quan hệ trực tiếp tới sở hữu trí tuệ, sáng tạo và sử dụng thông tin và điều đó cần

đầu tư mạnh mẽ vào vốn con người và nhân lực phải được tri thức hoá. Từ đòi hỏi

đó không những Nhà nước cần quan tâm đến vấn đề giáo dục mà ngay bản thân

mỗi người dân họ cũng thấy được cần nâng cao nhận thức của mình để có vị trí

trong xã hội.

Nguồn nhân lực trong tương lai sẽ phải được coi trọng giáo dục về tư duy

sáng tạo, về năng lực tự chủ, tự học hỏi và cần được đào tạo kỹ năng thành thạo,

linh hoạt về công nghệ mới, về quản lý mạng và đặc biệt là năng lực kinh doanh.

Về tính nhạy cảm với cái mới và sự bền vững trong phát huy bản sắc dân tộc với

nền văn hoá vững chắc. Để đạt được điều đó họ phải có khả năng sử dụng thành

thạo máy vi tính, sử dụng tốc ngoại ngữ và có năng lực giao tiếp tốt. Đó là những

phương tiện giúp cho người lao động kỹ thuật nói riêng và người lao động nói

chung phát huy với hiệu quả cao không chỉ ở thị trường trong nước mà cả ở thị

trường lao động quốc tế.

Công nghệ thông tin cho phép cất giữ, lưu chuyển, và truy nhập thông tin

trên quy mô lớn, tốc độ gần như tức thời và chi phí thấp. Thông qua mạng chúng

ta có thể giúp cho hàng chục ngàn lãnh đạo ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhanh

chóng nắm bắt kiến thức quản lý hiện đại trong một thời gian rất ngắn và liên tục

được cập nhật về thông tin thị trường ở những khu vực cạnh tranh then chốt nhất.

Cũng thông qua trang web các em học sinh ở vùng sâu vùng xa cũng được ôn thi

như các em ở thành phố lớn, ngay tại địa phương mình.

Sự phát triển của nền kinh tế tri thức đã tạo ra sự học một cách ồ ạt. Bên

cạnh những mặt tốt nâng cao tri thức, phát triển toàn diện con người hình thành

một xã hội văn minh. Để có địa vị xã hội tốt người dân không ngừng học tập, số

người vừa học vừa làm cũng khá nhiều.

Như vậy chính đòi hỏi của nền kinh tế tri thức đã giúp cho con người hoàn

thiện hơn về kiến thức để tiếp cận với nền kinh tế tri thức. Chính nhận thức của

con người được nâng lên đã làm giảm rất nhiều các tệ nạn xã hội, cải thiện xã hội,

phát triển con người, phát triển văn hoá, khoa học, giáo dục...

Trên thực tế xã hội thông tin phát triển còn một số hạn chế. Đó là số sinh

viên, học sinh lợi dụng internet vào việc giải trí quá nhiều làm ảnh hưởng đến việc

học, sa đoạ trong việc chơi bời làm mất thời gian và tốn tiền vô ích.

Phần IV. Giải pháp thúc đẩy phát triển mối quan hệ giữa con người và nền

kinh tế tri thức.

Việt Nam là một nước đang phát triển , một nước nghèo, nền kinh tế nông

nghiệp lạc hậu, công nghiệp mới bước đầu phát triển, dân số nông thôn chiếm

76.5%(1-4-1999). Theo thống kê của ngân hàng thế giới, GNP/đầu người của Việt

Nam là 330USD xếp thứ 140, HDI xếp thứ 110 trên 172 nước trên thế giới. Với

thực trạng của nền kinh tế như trên, nên con đường đi đến nền kinh tế tri thức của

Việt Nam không thể thực hiện phát triển tuần tự như các nước công nghiệp phát

triển.

Việt Nam phải nắm bắt những thuận lợi, đó là những tiến bộ khoa học công

nghệ, tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh của các nước phát triển trong bối cảnh

thế giới đang tiến tới toàn cầu hoá, từ đó Việt Nam thực hiện chuyển từ nền kinh

tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đồng thời vừa phải chuyển sang nền

kinh tế tri thức.

Để tiến tới nền kinh tế tri thức, Việt Nam cần thực hiện các giải pháp cơ

bản sau:

1. Phải đổi mới cơ chế quản lý, phát huy mọi khả năng sáng tạo của người

dân, tạo điều kiện cho mọi người dân, mọi thành phần kinh tế phát huy hết khả

năng của mình đóng góp vào phát triển sản xuất Nhà nước phải quản lý bằng pháp

luật, bằng cơ chế chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho sự cạnh tranh lành

mạnh; chăm lo phúc lợi xã hội, giáo dục, khoa khọc... mà không can thiệp vào sản

xuất kinh doanh; phải để cho mọi doanh nghiệp, mỗi người dân phát huy hết

quyền chủ động sáng tạo của mình.

Hiện nay trong kinh tế Nhà nước chế độ trách nhiệm không rõ, mất mát

thua lỗ không ai chịu trách nhiệm. Công trình xây dựng của Nhà nước về thực chất

là không có chủ, không có người chịu trách nhiệm về hiệu quả cuỗi cùng. Nhiều

công trình thấy rõ lãng phí hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu USD, không thể

nào thu hồi được vốn vẫn cứ được xây dựng , vì không có ai chịu trách nhiệm hiệu

quả cuối cùng cả. Nếu giao trách nhiệm cho một Công ty tự bỏ vốn ra xây dựng

rồi khai thác để thu hồi lại vốn thì tình hình sẽ khác hẵn, không hiệu quả thì họ

không làm.

Phải xem xét lại chính sách đầu tư và cơ chế đầu tư. Nước ta không phải

thiếu vốn cho phát triển khoa khọc, giáo dục. Những lãng phí gây ra do cách làm

thiếu cơ sở khoa khọc, và do tiêu cực lớn hơn nhiều so với yêu cầu đầu tư cho

khoa khọc và giáo dục. Nhà nước phải tập trung đầu tư nhiều vào nguồn vốn con

người, khoa khọc công nghệ, văn hoá, giáo dục, phúc lợi xã hội, phát triển nông

thôn, miền núi, xoá đói giảm nghèo.... Đầu tư vô hình phải nhiều hơn đầu tư hữu

hình thì mới nâng cao trình độ tri thức, rút ngắn khoảng cách đến nền kinh tế tri

thức.

Phải thực sự giải phóng mọi lực lượng sản xuất, phát huy mọi thành phần

kinh tế như các nghị quyết của Đảng đã đề ra. Hiện nay còn nhiều vướng mắc lúng

túng trong chính sách, mà chủ yếu là do nhận thức về mối quan hệ giữa cơ chế thị

trường và sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được

sáng tỏ. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là phát triển lực lượng sản xuất, phải xây

dựng và phát triển quan hệ sản xuất sao cho thúc đầylực lượng sản xuất. Mọi

người ai có khả năng góp phần voà sự phát triển sản xuất thì phải được khuyến

khích, phải thực sự khuyến khích mọi người làm giàu, Nhà nước có chính sách

điều tiết thu nhập, chăn lo phúc lợi xã hội, tạo công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi

những người yếu thế. Điều này là hết sức quan trọng đối với phát triển các ngành

kinh tế tri thức, nhất là công nghiệp phần mềm; như đã nói ở trên chỉ cần có chính

sách khuyến khích, những người không có đồng xu dính túi sau mấy năm đã có thể

trở thành tỷ phú, chủ yếu là nhờ trí tuệ, và nhờ đó họ đóng góp to lớn cho sự phát

triển vũ bão của In-tơ-nét. Công nghệ thông tin phát triển như ngày nay chủ yếu là

do những ông tỷ phú trẻ đầy năng động và sáng tạo không có vốn liếng tạo ra.

Trong 40 tỷ phú dưới 40 tuổi thì phần lớn là thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin.

2. Chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài.

Trong những năm tới phải tăng mạnh đầu tư để phát triển giáo dục và phải tiến

hành một cuộc cải cách giáo dục mới. Đây là yếu tố quyết định nhất thúc đẩy nước

ta đi nhanh vào kinh tế tri thức. Phải xây dựng những thế hệ người Việt Nam có

bản lĩnh, có lý tưởng, có khả năng sáng tạo làm chủ được tri thức hiện đại quyết

tâm đưa nước ta lên trình độ phát triển sánh kịp các nước. Khoảng cách với các

nước phát triển chủ yếu là khoảng cách về tri thức. Ta có thể rút ngắn được bằng

xây dựng và phát triển mạnh nền giáo dục tiên tiến phù hợp xu thế phát triển của

thời đại. Trong một thời gian ngắn (khoảng 5 năm) phải phổ cập giáo dục trung

học cơ sở trong toàn quốc, phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong toàn quốc, phổ

cập trung học phổ thông trong các thành thị, khu công nghiệp và vùng đồng bằng

đông dân, tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa khọc kỹ thuật và công nhân

lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, các doanh gia. Mở rộng quan hệ hợp tác giáo

dục đào tạo và khoa khọc công nghệ với nước ngoài; tuyển chọn đưa đi đào tạo ở

các nước tiên tiến số lượng lớn cán bộ khoa khọc – kỹ thuật thuộc các lĩnh vực ưu

tiên chiến lược.

Phải tiếp tục đầy mạnh thực hiện Nghị quyết trung ương hai, nhất là thực

thi các giải pháp tạo động lực vào nguồn lực cho giáo dục đào tạo và khoa khọc

công nghệ, nhất là các chính sách đãi ngộ đối với cán bộ khoa khọc, với giáo viên,

chính sách gắn giáo dục với nghiên cứu khoa khọc và sản xuất kinh doanh, phát

huy mạnh mẽ đội ngũ cán bộ đã được đào tạo.

3. Để phát triển mạnh công nghệ thông tin động lực chủ yếu nhất đưa nước

ta lên xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức, phải:

+ Đẩy mạnh đào tạo cán bộ công nghệ thông tin bằng nhiều hình thức đa

dạng, tăng cường dậy tin học trong các trường học, kể cả ở bậc tiểu học, để có một

đội ngũ đông đảo những người làm tin học, nhất là phần mềm và để cho mọi người

trên tất cả các lĩnh vực hoạt động đều sử dụng được công ngh thông tin;

+ Phát triển nhanh mạng viễn thông, với tốc độ lớn, thuận lợi, giá rẻ; như

vậy phải cho cạnh tranh, cho tư nhân tham gia;

+ Tạo mọi điều kiện dễ dàng cho các Công ty tin học thành lập và phát

triển, giảm tối đa các điều kiện ràng buộc về việc thành lập Công ty;

+ Nhà nước có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với những người làm công

nghệ thông tin, ưu đãi về thuế, về vay tài chính, về giá đất giá sử dụng cơ sở hạ

tầng. Kinh nghiệm Ai-len là nhờ chính sách thuế ưu đãi (chỉ đánh thuế lợi tức là

10%, không có bất cứ thuế gì khác) và chính sách cho không một khoản vốn ban

đầu tương đương khoảng 10-12 nghìn USD cho một lao động, mà các Công ty

phần mềm phát triển nhanh chóng, năm 1997 đã xuất khẩu được hơn 7 tỷ USD

phần mềm, trở thành thủ phủ phần mềm Châu Âu. Số tiền Nhà nước cho không

ban đầu chỉ sau hai năm thu thuế lợi tức đã bù lại, thực sự Nhà nước không đầu tư,

mà chỉ cần chính sách.

+ Có hệ thống luật pháp đầy đủ, được thực thi nghiêm chỉnh về chế độ bảo

hộ quyền sở hữu trí tuệ ngăn chặn được nạn ăn cắp bản quyền.

Kết luận

Có lẽ nước ta chưa bao giờ đứng trước những vận hội và thách thức lớn như

ngày nay. Trong thời đại chuyển biến như vũ bão sang nền kinh tế tri thức, Việt

Nam có thể vượt lên hàng đầu để “Sánh vai với các cường quố năm châu” trong

nữa đầu của thế kỷ XXI hoặc vẫn chỉ là một quốc gia nằm trong nhóm những nước

nghèo, chậm phát triển trong vài ba thập kỷ tới. Nhiều câu hỏi đầu tâm huyết được

đặt ra: “Liệu chúng ta sẽ có hội nghị bàn về nền kinh tế tri thức?” hay “Quyết sách

của ta sẽ chỉ đơn thuần dựa trên đề nghị của một vài bộ ngành liên quan, hay là sản

phẩm chung từ sự trăn trở của hàng triệu trái tim khối óc với ước vọng Việt Nam

sẽ vượt lên như một quốc gia ở hàng đầu?”

Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu,

Khó vạn lần dân liệu cũng qua”. Với hội nghị Diên Hồng trong lịch sử, người Việt

Nam ta đã quả cảm vượt qua những thách thức làm kinh hoàng hầu khắp thế giới.

Với tinh thần của một “hội nghị” trong thời đại của nền kinh tế tri thức, người Việt

Nam chắc chắn sẽ làm nên những kỳ tích lịch sử mới trong sự nghiệp xây dựng

một quốc gia có kỳ tích và vị thế đáng tự hào trong những thập kỷ tới của thế kỷ

XXI.

Tài liệu tham khảo

Sách tham khảo:

1. Vc 6119 – 6138/92

Phát huy nhân tố con người trong đổi mới quản lý kinh tế

Nguyễn Văn Sáu – Hà Nội, Chính trị quốc gia, 1993-118tr

2. Vc 27654 –27658 /92

Tri thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng

3. Va 2223 – 2225/92

Vấn đề con người và xây dựng con người mới

Tạp chí:

1. Tạp chí nghiên cứu kinh tế

Số 7 (278): Nền kinh tế tri thức, con đường và giải pháp tiến tới nền kinh

tế tri thức của Việt Nam - Tr57

Số 5 (276): Nguồn nhân lực Việt Nam với nền kinh tế tri thức – Tr55

Số 6 (277): Thu hẹp khoảng cách về tri thức và tăng trưởng kinh tế ở các

nước đang phát triển – Tr69.

Số 1 (272): - Đổi mới quản lý xã hội trong chiến lược phát triển đưa vào tri

thức – Tr20.

- Kinh tế tri thức và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở một số

nước hiện nay – Tr67

2. Tạp chí tri thức và công nghệ

Số 126: Kinh tế tri thức

Số 118: Thành uỷ khẳng định vai trò của nền kinh tế tri thức

Số 112: Làm sao để tri thức có điều kiện thuận lợi trong sự nghiệp khoa

khọc kỹ thuật và công nghệ của mình

3. Tạp chí thông tin thị trường lao động

Số 1 – 2001: Thách thức mới của thị trường lao động trong nền kinh tế tri

thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam

4. Tạp chí lý luận chính trị

Số 7-2001: Xu hướng phát triển nguồn lực trí tuệ Việt Nam –Tr21

5. Tạp chí thông tin khoa học xã hội

Số 222 (tháng 6/2001): - Nghiên cứu môi trường xã hội nền kinh tế tri thức

những vấn đề đặt ra.

- Cuộc cách mạng tri thức sẽ dẫn chúng ta tới đâu

Số 219: Tiếp cận kinh tế tri thức

Số 214: Công nghệ thông tin - động lực phát triển trong kinh tế tri thức

Số 210: Tri thức và phát triển kinh tế dựa trên tri thức trong thời đại ngày

nay

Số 205: Viện nghiên cứu con người với chương trình nghiên cứu khoa khọc

về con người.

Số 198: Chào đón xã hội tri thức xuất hiện

6. Tạp chí thông tin lý luận

Số 2: Con người Việt Nam – nguồn sức mạnh trí tuệ – Tr9.

7. Tạp chí nghiên cứu lý luận

8. Số 8/2000; số 9/2000: luận cương kinh tế học tri thức

Số 7/2000: Nguồn lực trí tuệ với sự phát triển xã hội

Số 3/2000: Những đặc điểm cơ bản của nguồn lực trí tuệ Việt Nam

Mục lục

Lời nói đầu ....................................................................................................... 1

Phần I: Con người Việt Nam và nguồn lực trí tuệ .......................................... 3

I)Con người Việt Nam và nguồn lực trí tuệ. ................................................ 3

1.Con người Việt Nam. ....................................................................................... 3

2) Nguồn lực trí tuệ ............................................................................................ 7

II.Nền kinh tế tri thức ............................................................................... 14

1. Khái niệm nền kinh tế tri thức. .................................................................... 14

2. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức................................................................ 15

3. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức ............................................................... 18

4. Yêu cầu của nền kinh tế tri thức đối với con người ................................... 20

Phần III: Mối quan hệ giữa con người Việt Nam và nền kinh tế tri

thức. ........................................................................................................................... 23

Phần IV. Giải pháp thúc đẩy phát triển mối quan hệ giữa con người và

nền kinh tế tri thức. .................................................................................................. 26

Kết luận .......................................................................................................... 30

Tài liệu tham khảo ......................................................................................... 31