intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến giáo dục đại học Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Phó Cửu Vân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

5
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến giáo dục đại học Việt Nam hiện nay" tập trung làm rõ một số nội dung cơ bản của cách mạng công nghiệp lần thứ tư; những cơ hội của giáo dục đại học Việt Nam trước tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ đó làm rõ một số yêu cầu và thách thức mà cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đặt ra đối với giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến giáo dục đại học Việt Nam hiện nay

  1. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 ĐẾN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY Bùi Thị Thùy Dương Tóm tắt: Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra một cách nhanh chóng, mạnh mẽ và tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực giáo dục. Bài viết tập trung làm rõ một số nội dung cơ bản của cách mạng công nghiệp lần thứ tư; những cơ hội của giáo dục đại học Việt Nam trước tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ đó làm rõ một số yêu cầu và thách thức mà cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đặt ra đối với giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0; giáo dục đại học; Việt Nam. 1. MỞ ĐẦU Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra đã làm thay đổi căn bản mọi sinh hoạt trong đời sống, từ hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động thực nghiệm khoa học đến hoạt động giáo dục và đào tạo. Đặc biệt, giáo dục đại học đang chịu sự chi phối và tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng này nhanh hơn bởi đây là bậc giáo dục then chốt tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng lĩnh hội, tiếp biến và làm chủ được nền khoa học công nghệ hiện đại. Đồng thời, tạo nền tảng vững chắc để tiến hành những cuộc cách mạng công nghệ trong tương lai gần. Do đó, giáo dục là vấn đề sống còn trong chiến lược phát triển chung của cộng đồng quốc tế cũng như mọi quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ; phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước”1. Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng nêu rõ định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 là: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào các lĩnh vực của đời sống xã hội”2. 2. NỘI DUNG 2.1. Cách mạng công nghiệp 4.0 - một số nét khái quát Khoảng 150 năm trở lại đây, các cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện ngày càng nhanh với nhịp độ ngày càng mạnh, làm thay đổi diện mạo của cả thế giới loài người.  ThS. Trường Đại học Mỏ - Địa chất. 1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.77. 2 Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Chi bộ, Đảng bộ cơ sở), Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.14. 233
  2. Trường Đại học Mỏ - Địa chất Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất được đánh dấu bởi dấu mốc quan trọng là việc James Watt phát minh ra động cơ hơi nước năm 1784. Phát minh vĩ đại này đã châm ngòi cho sự bùng nổ của công nghiệp thế kỷ 19 lan rộng từ Anh đến châu Âu và Hoa Kỳ, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại - kỷ nguyên sản xuất cơ khí, cơ giới hóa và sử dụng năng lượng hơi nước thay cho sức người và súc vật kéo. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai từ 1870 đến Thế chiến lần thứ nhất, xuất hiện động cơ điện và dây chuyền sản xuất hàng loạt, kéo dài chỉ trong vòng 44 năm - thời gian ngắn hơn và tốc độ lan tỏa rộng hơn. Từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX, khoa học công nghệ phát triển rất nhanh và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu bởi nhiều phát minh quan trọng trong nhiều lĩnh vực như: vật liệu, năng lượng tái tạo, công nghệ vũ trụ, công nghệ sinh học và đặc biệt là công nghệ thông tin. Cuộc cách mạng này diễn ra với tốc độ nhanh hơn, tác động sâu rộng hơn và là tiền đề quan trọng để loài người bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn liền với thuật ngữ “Công nghiệp 4.0” (Industry 4.0), lần đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ Công nghệ Hannover ở Cộng hòa Liên bang Đức năm 2011. Điều khác biệt giữa cách mạng công nghiệp 4.0 với 3 cuộc cách mạng trước đó là cách mạng công nghiệp 4.0 không gắn với sự ra đời của một công nghệ nào cụ thể mà là kết quả hội tụ của nhiều công nghệ khác nhau, trong đó trọng tâm là công nghệ nano, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin - truyền thông. Cách mạng công nghiệp 4.0 bắt nguồn từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học, đem lại sự kết hợp giữa hệ thống ảo và thực thể. Năm 2012, thuật ngữ này được đặt tên cho một chương trình hỗ trợ của Chính phủ Liên bang Đức hợp tác với giới nghiên cứu và các hiệp hội công nghiệp hàng đầu của Đức nhằm cải thiện quy trình quản lý và sản xuất trong các ngành chế tạo thông qua “điện toán hóa”. Ngày 20-1-2016, Diễn đàn kinh tế thế giới ở Đa-vốt, Thụy Sĩ, đã khai mạc với chủ đề “Làm chủ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” thì khái niệm “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” (The Fourth Industrial Revolution) được GS. Klaus Schwab, người Đức, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới đưa ra. Đây là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và Internet của các dịch vụ (IoS). Nhân loại đang đứng trước một cuộc cách mạng công nghiệp mới, có thể thay đổi hoàn toàn cách con người sống, làm việc và quan hệ với nhau. Có thể nhìn nhận một số nét khái quát của các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử qua bảng sau: Cách mạng công nghiệp Phương thức Thiết bị Ý nghĩa xã hội sản xuất Cách mạng công nghiệp lần 1 Sản xuất cơ khí Máy móc Xóa ý thức chiếm hữu (cách mạng cơ khí) nô lệ Cách mạng công nghiệp lần 2 Sản xuất lớn Điện, ánh sáng Phổ biến tiêu dùng (cách mạng điện khí) hàng hóa Cách mạng công nghiệp lần 3 Sản xuất tự động Thiết bị điện tử Tôn vinh giá trị con (cách mạng điện tử) người Cách mạng công nghiệp lần 4 Sản xuất thông minh Internet, người Làm chủ tri thức và ý (cách mạng kết nối) máy cao cấp thức 234
  3. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững Cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên nền tảng công nghệ số nhằm xây dựng thế giới siêu kết nối và tích hợp các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất. Cuộc cách mạng 4.0 đã cho phép hàng tỷ người kết nối mạng mọi lúc, mọi nơi thông qua các thiết bị di động, cho phép xử lý, lưu trữ và tiếp cận tri thức không giới hạn. Những khả năng này sẽ được nhân lên gấp bội bởi những công nghệ đột phá trong các lĩnh vực khác, đặc biệt bởi năng lực tính toán và sự sẵn có khối lượng lớn dữ liệu. Với sự phát triển chưa từng có về quy mô và tốc độ của hạ tầng kết nối, hạ tầng dữ liệu đã trở thành một khối thống nhất được cập nhật thường xuyên, có thể được truy cập ở mọi lúc, mọi nơi. Có thể nói, cuộc cách mạng 4.0 mở ra kỷ nguyên mới của đầu tư, năng suất và mức sống gia tăng. Việc áp dụng thành công robot trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học; Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence); điện toán đám mây (Cloud Computing); Internet kết nối vạn vật (Internet of things), dữ liệu lớn (Big Data); công nghệ in 3D; Xe tự lái; Công nghệ nano, Công nghệ vật liệu mới và cảm biến, Công nghệ sinh học... sẽ thúc đẩy năng suất lao động toàn cầu tăng nhanh như những gì mà máy tính cá nhân và mạng Internet đã làm được vào cuối những thập niên 90 của thế kỷ XX. Bởi vậy, cuộc cách mạng 4.0 không chỉ đơn thuần là sự kéo dài của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, mà có một sự khác biệt lớn về tốc độ phát triển, phạm vi và mức độ tác động. So với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc cách mạng 4.0 đang phát triển với tốc độ ở cấp số nhân. Lao động trí tuệ là đặc trưng của người lao động hiện đại. Do đó, nâng cao trình độ dân trí được xem là vấn đề cốt lõi của sự phát triển hiện nay. 2.2. Những cơ hội của giáo dục đại học Việt Nam trước tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 Những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội trong từng quốc gia và trên phạm vi toàn cầu. Những chuyển biến hết sức mạnh mẽ này đã làm thay đổi, nếu không nói là đảo lộn nhiều triết lý, quan niệm, phương thức tổ chức và hoạt động của hầu hết các lĩnh vực mà trước hết và chủ yếu lại chính là giáo dục đào tạo. Tri thức mới được tạo ra với cấp số nhân, được phổ biến nhanh và rộng đến mức không hình dung được lại có thể lưu giữ những khối lượng khổng lồ bằng những phương tiện vô cùng gọn nhẹ và việc tìm kiếm, sử dụng rất dễ dàng. Trong bối cảnh ấy, kiến thức chuyên môn cụ thể rất nhanh lạc hậu, cái mới luôn có cái mới hơn thay thế trong một thời gian ngắn. Việc học tập không chỉ thực hiện ở nhà trường mà có thể ở nhà hoặc ở bất cứ đâu. Cơ hội học tập không chỉ dành cho lứa tuổi cắp sách đến trường mà dành cho tất cả mọi lứa tuổi. Nguồn lực con người chất lượng cao mới là nguồn lực chủ yếu cho sự phát triển kinh tế xã hội thay vì nguồn lực tài chính hay nhân công rẻ, kém chất lượng. Lớp học số hóa, các thiết bị thông minh, thiết bị không dây và đa phương tiện kỹ thuật số ảo được phát triển mạnh, khóa học trên thiết bị di động và thiết kế trò chơi học tập là những công nghệ được hình thành trong kỷ nguyên số, làm cho giáo dục phải thay đổi để phù hợp và tiệm cận với xu thế phát triển của công nghệ. Các lớp học điện tử, thư viện điện tử, các chương trình đào tạo từ xa, hội nghị trực tuyến khiến cho phương thức dạy học được chuyển từ dạy kiến thức sang dạy cách tự học, tự tìm kiếm thông tin. Từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 dẫn đến kết quả tất yếu là nền giáo dục tương lai tiên tiến định hình và phát triển, nền “Giáo dục 4.0”. Giáo dục 4.0 có sự thay đổi lớn trong mục tiêu và cách thức đào tạo, chuyển từ truyền thụ kiến thức cho số đông sang khai phóng tiềm năng, đồng thời trao quyền sáng tạo cho từng cá nhân. Người dạy sẽ chuyển sang vai trò mới là người thiết kế, xúc tác, cố vấn và tạo môi trường học tập. Nhờ ứng dụng các công nghệ AI, Big Data và IoT, lãnh đạo nhà trường, giảng viên có thể thu thập dữ liệu, phân 235
  4. Trường Đại học Mỏ - Địa chất tích và đánh giá chính xác về người học; theo dõi quá trình học tập tại nhà, kiểm tra mức độ hoàn thành bài tập và thông báo kết quả học tập tới sinh viên cũng như gia đình. Thậm chí công nghệ AI có thể thay thế giảng viên ở một số khâu như điểm danh, chấm bài, soạn bài và hỗ trợ dạy ngoại ngữ. Công nghệ không chỉ tạo điều kiện thuận lợi để quá trình tiếp cận với các tri thức khoa học nhanh hơn, hiệu quả hơn mà còn là con đường ngắn nhất để giảng viên và sinh viên chia sẻ kiến thức hiệu quả, giúp giảng viên điều chỉnh quá trình truyền thụ tri thức sát thực tế. Đồng thời, hình thành và bồi dưỡng những kỹ năng công nghệ cho sinh viên khi tham gia vào thị trường lao động với tư cách là nguồn nhân lực chất lượng cao. Sự phát triển của các hình thức học trực tuyến giúp người học tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí. Công nghệ thực tế tăng cường/thực tế ảo (AR/VR) được sử dụng rộng rãi, có thể chủ động nghiên cứu tài liệu cũng như tương tác với giảng viên ở mọi thời điểm bằng máy tính hoặc điện thoại thông minh giúp người học trải nghiệm và rèn luyện kỹ năng. Điều đó làm xuất hiện động lực cạnh tranh lẫn nhau về điều kiện học tập và chất lượng giáo dục giữa các trường Đại học mà hệ quả cuối cùng là đẩy chất lượng giáo dục đại học được nâng lên. Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra những cá nhân có tư duy sáng tạo, độc lập, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với thử thách về công nghệ. Nó rút ngắn khoảng cách về không gian, địa lý, tạo điều kiện cho mọi người có thể học tập trong mọi lúc, ở mọi nơi, giúp cho người học có thể cá nhân hóa và hoàn toàn chủ động quyết định nội dung, phương thức học tập theo nhu cầu của bản thân. Nó cũng giúp thay đổi tư duy cũng như cách tiếp cận đối với mô hình đại học theo hướng: nhà trường không chỉ là nơi đào tạo, nghiên cứu mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, giải quyết các vấn đề thực tiễn, mang giá trị cho xã hội. Không gian “nhà trường” không còn giới hạn trong các bức tường của giảng đường, lớp học hay phòng thí nghiệm, mà được mở rộng kết hợp với doanh nghiệp và thị trường lao động để trở thành “hệ sinh thái giáo dục”. Đó là nền giáo dục hiện đại có khả năng đào tạo con người đáp ứng những đòi hỏi về nguồn nhân lực của nền kinh tế số và xã hội tương lai. Độ phức tạp của đời sống xã hội hay của “thế giới bên ngoài” được phản ánh thông qua những chuẩn đầu ra (chuẩn hóa đầu ra) trong nội dung, chương trình đào tạo và chuẩn hóa đi đôi với đơn giản hóa quá trình đào tạo. Sự “cá biệt hóa” cần thiết cho sinh viên trong quá trình học tập, tu dưỡng và rèn luyện ở đại học được dựa trên năng lực tự tổ chức của cả cá nhân lẫn tập thể sinh viên (tổ, nhóm, lớp) thông qua việc xác định rõ mục đích học tập của riêng mình - điều kiện tiên quyết cho phát triển năng lực của mỗi sinh viên. Khái niệm “Học” (learning) được coi là một loại hình hoạt động xã hội. Khái niệm “Học từ xa” hay “Học trực tuyến” (E-learning) đang dần được thay thế bằng khái niệm “Học suốt đời” (Long live WE-learning ). Do vậy, phải mở rộng tối đa khuôn viên nhà trường để mọi sinh viên sử dụng không gian này làm chỗ gặp mặt, cọ sát, đọ sức, thảo luận, giao lưu và kết nối; phải tạo ra môi trường, bối cảnh xã hội thích hợp, dân chủ hơn để sinh viên tranh luận và giải quyết các vấn đề thực tế đang tồn tại, mâu thuẫn đặt ra trong cuộc sống. Học mọi lúc mọi nơi, cá nhân hóa việc học tập cũng như tự do lựa chọn học tập của người học, học tập và trải nghiệm thực tế cũng như việc gắn kết việc học tập với xã hội là những ưu điểm vượt trội trong nền giáo dục 4.0. Đối với mỗi cá nhân và xã hội, các công cụ và nguồn lực giáo dục thời kỳ mới hứa hẹn các cơ hội cho các cá nhân phát triển năng lực, kỹ năng và kiến thức đầy đủ và mở ra tiềm năng sáng tạo cho con người. 2.3. Một số yêu cầu và thách thức mà cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra đối với giáo dục đại học Việt Nam hiện nay Cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học nhiều thách thức mới. Sự hội nhập quốc tế kéo theo một lượng lao động nước ngoài đến 236
  5. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững Việt Nam, điều này làm cho sự cạnh tranh trong thị trường lao động trở nên gay gắt hơn. Mặt khác, người học cũng mong muốn lựa chọn các cơ sở giáo dục đại học ở những nước có nền giáo dục phát triển trong khu vực và trên thế giới. Thực tế này đặt ra cho các trường đại học trong nước phải nghiên cứu và tìm giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo, hướng tới đáp ứng nhu cầu của người học và của thị trường sử dụng lao động trong nước và quốc tế. Cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu nguồn nhân lực và thị trường lao động. Các hệ thống tự động hóa sẽ thay thế dần lao động thủ công trong toàn bộ nền kinh tế, sự chuyển dịch từ nhân công sang máy móc sẽ gia tăng sự chênh lệch giữa lợi nhuận trên vốn và lợi nhuận dựa trên sức lao động, điều này tác động đến thu nhập của lao động giản đơn và gia tăng thất nghiệp. Tỷ trọng lao động chất lượng cao tăng, làm phát sinh một thị trường việc làm ngày càng tách biệt thành các phân khúc: thị trường kỹ năng cao, thị trường kỹ năng thấp và sẽ dẫn đến gia tăng sự phân hóa hoặc tạo ra nhu cầu và những việc làm hoàn toàn mới. Để đáp ứng được nhu cầu thị trường này, các trường Đại học phải cung cấp cho xã hội một nguồn lực lao động có chất lượng cao, có đủ kiến thức và kỹ năng để làm chủ được công nghệ mới, làm việc trong môi trường mới mang tính toàn cầu, khả năng cạnh tranh ngày một gay gắt và quyết liệt. Sự thay đổi căn bản về thị trường lao động trong thời kỳ hiện đại đã đặt ra rất nhiều thách thức cho các trường đại học, đòi hỏi các trường phải đổi mới toàn diện từ phương thức quản trị trường, đến đổi mới chương trình và phương thức tổ chức đào tạo cho phù hợp với xu thế phát triển của nền giáo dục 4.0. Các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam có thể chưa dự đoán hết được các kỹ năng cần hình thành cho người lao động mà thị trường lao động cần. Hoạt động đào tạo và nghiên cứu của các trường đại học theo phương pháp truyền thống sẽ phải đối mặt với những thay đổi mạnh mẽ cả về tư duy, cơ cấu kiến thức, kỹ năng và phương pháp. Với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, đòi hỏi giáo dục phải đem lại cho người học cả tư duy và những kiến thức, kỹ năng mới, khả năng sáng tạo, thích ứng với thách thức và những yêu cầu mới mà các phương pháp giáo dục truyền thống không thể đáp ứng. Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đang đặt ra những yêu cầu mới về kiến thức, kỹ năng và tâm thế của người lao động. Những kiến thức và kỹ năng mới ấy được chia thành 3 nhóm cơ bản: Các kiến thức và kỹ năng liên quan đến nhận thức, tư duy hệ thống, tư duy phản biện, kỹ năng thích nghi, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng giải quyết vấn đề; Các kỹ năng về thể chất; Các kỹ năng về xã hội: kỹ năng tạo lập quan hệ, làm việc theo nhóm, kỹ năng giao tiếp, sử dụng đa ngôn ngữ, kỹ năng hợp tác, kỹ năng cảm thụ và thẩm thấu đa văn hóa trong môi trường làm việc đa quốc gia. Sự thay đổi về công nghệ, những kỹ năng mới hình thành do yêu cầu của xã hội thời hiện đại và những xu thế giáo dục mới làm cho giáo dục tương lai, giáo dục 4.0 phải có tầm nhìn mới, khác biệt căn bản với nền giáo dục hiện tại. Bởi vậy, việc áp dụng tổng hòa những kiến thức, kỹ năng và tâm thế để đổi mới, sáng tạo quan trọng hơn so với những kiến thức, kỹ năng chuyên biệt trước đây. Đây là đặc điểm quan trọng không những định hướng, làm thay đổi chương trình đào tạo, hình thành chuyên ngành mới trong các trường đại học mà còn đặt ra yêu cầu tất yếu phải “học tập suốt đời” đối với người lao động trong cách mạng công nghiệp 4.0. Hiện nay, công nghệ đã cho phép hàng tỷ người kết nối mạng mọi lúc, mọi nơi thông qua các thiết bị di động, cho phép xử lý, lưu trữ, và tiếp cận tri thức không giới hạn. Những khả năng này sẽ tiếp tục được nhân lên bởi những công nghệ đột phá trong các lĩnh vực khác, đặc biệt bởi năng lực tính toán và sự sẵn có khối lượng lớn dữ liệu. Để người lao động không bị bỏ lại phía sau, có khả năng cạnh tranh tốt trên thị trường lao động mang tính toàn cầu, các trường Đại học cần phải có chương 237
  6. Trường Đại học Mỏ - Địa chất trình đào tạo khoa học và thực tiễn. Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là xu thế tất yếu, là đòi hỏi khách quan của tất cả các quốc gia không phân biệt thể chế chính trị, ngôn ngữ, văn hóa truyền thống. Bởi vậy, những vấn đề chính trị - xã hội, kinh tế và văn hóa, quốc phòng và an ninh cũng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia trong cuộc chơi chung. Những vấn đề mang tính toàn cầu đang đòi hỏi người lao động nói chung, sinh viên - nguồn nhân lực chất lượng cao trong trương lai gần nói riêng cần thích nghi nhanh với môi trường làm việc đa văn hóa. Vậy nên, sinh viên ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học phải được tiếp cận với chương trình đào tạo có sự tích hợp nhiều vấn đề mang tính toàn cầu nhằm hình thành, trang bị cho người học những kiến thức, kỹ năng mới thiết dụng. Trong nền sản xuất mới, tầm ảnh hưởng và tác động của công nghệ hiện đại đến mọi lĩnh vực của đời sống thực tiễn đòi hỏi người lao động phải sử dụng thành thạo các công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất. Do đó, ngay từ khi còn là nguồn nhân lực tiềm năng, người lao động cần được đào tạo để sử dụng hiệu quả các công nghệ tiên tiến, tức là nền giáo dục cần ứng dụng và sử dụng nhiều hơn các sản phẩm công nghệ hiện đại vào quá trình đào tạo. Khoa học và công nghệ đang có sự thay đổi từng giờ và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nên khả năng thích ứng và giải quyết vấn đề một cách linh hoạt, sáng tạo là chìa khóa để người lao động thành công trong thời đại mới. Nhiều tập đoàn công nghệ có tiềm lực khoa học, nhân lực và tài chính rất lớn, có lợi thế trong cuộc chạy đua biến tri thức thành sản phẩm phục vụ cuộc sống, có nhiều trải nghiệm thực tế mà những nhà nghiên cứu, những giảng viên đại học không có. Do vậy, trường đại học theo chuẩn giáo dục 4.0 không chỉ là nơi đào tạo - nghiên cứu mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong sinh viên, nâng cao năng suất lao động nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Việt Nam đang trở thành quốc gia có tiềm năng phát triển công nghệ cao, với hàng triệu việc làm mới trong lĩnh vực phần mềm. Tuy nhiên, khi tự động hóa dần thay thế nhân lực trong nhiều lĩnh vực, người lao động chắc chắn cần thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất. Do đó, để nâng cao kỹ năng của người lao động thì phương cách trực triếp và hiệu quả nhất là nâng cao chất lượng đào tạo, tức là lời giải hay, nhanh, hiệu quả và hữu dụng nhất là thông qua vai trò của giáo dục. Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học”1 và khẳng định: “Tập trung đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu phát triển mới của kinh tế - xã hội, của khoa học và công nghệ và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”2. 3. KẾT LUẬN Cách mạng công nghiệp 4.0 đem đến những cơ hội chưa từng có để phát huy tính sáng tạo của mỗi người, thúc đẩy nhanh chóng và lan truyền rộng rãi những lợi ích của công nghệ mới, những tiến bộ về y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội. Nhưng đồng thời cách mạng 4.0 cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro với việc các công nghệ mới có thể được sử dụng theo cách thúc đẩy các tiêu cực xã hội, các yếu tố phản 1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết 29-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, ngày 4-11-2013 về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. 2 Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Chi bộ, Đảng bộ cơ sở), Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.21. 238
  7. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững con người, phản xã hội, phản văn hóa. Phát huy mặt tích cực, giảm thiểu mặt tiêu cực của cách mạng 4.0 nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, thúc đẩy sự phát triển xã hội bao trùm hơn (bảo đảm cho mọi nhóm xã hội đều được hưởng lợi như nhau từ các tiến bộ kinh tế - xã hội), bền vững hơn đang là điều các quốc gia, các tổ chức và người dân trên thế giới hướng tới. Thế giới đương đại đòi hỏi phải có sự liên kết cá nhân trên bình diện toàn cầu trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong nền sản xuất hiện đại, tri thức tồn tại phổ biến ở khắp nơi, xuất hiện trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và hoạt động sản xuất, việc áp dụng những kiến thức được học trở nên quan trọng hơn rất nhiều. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động”1. Để có thể đáp ứng được những yêu cầu mới đặt ra đối với người lao động thì ngành giáo dục, nhất là giáo dục đại học cần có sự thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp nhằm đào tạo được nguồn nhân lực thực sự có chất lượng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết 29-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, ngày 4-11-2013 về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Chi bộ, Đảng bộ cơ sở), Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 4. Đàm Quang Minh, Phạm Hiệp (2016), “Cách mạng công nghiệp 4.0 và nguy cơ “thua trắng” của đại học truyền thống”, Báo Tuổi trẻ điện tử, ngày 7-9-2016. 5. TS Phan Quang Trung (2017), “Giáo dục đại học phải làm gì trước thách thức của cách mạng công nghiệp 4.0?”, Báo điện tử giaoduc.net.vn số ra ngày 22-7-2017. 1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.114-115. 239
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2