3
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu
Husson-Traore (2009) chỉ ra rằng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã làm nổi bật lên hai vấn
đề quan trọng sau: thứ nhất, vai trò có tính quyết định của cơ chế cấu trúc VCSH khi doanh nghiệp rơi vào
tình trạng khó khăn tài chính; thứ hai, sự bất lực của các cơ quan đánh giá xếp hạng tín nhiệm, Chính phủ và
các định chế tín dụng trong phòng ngừa và ứng phó với rủi ro kiệt quệ tài chính – FDR.
Trong những năm 1960, đã chứng kiến sự xuất hiện của rất nhiều nghiên cứu về mô hình dự báo FDR như
(Beaver, 1966); (Altman, 1968); (Altman & ctg, 1977); (Ohlson, 1980) và (Zmijewski, 1984). Các kết quả
nghiên cứu thời kỳ đó tập trung tranh luận về khả năng dự báo của các dữ liệu thu thập dựa trên báo cáo tài
chính của doanh nghiệp. Lee & Yeh (2004); Deng & Wang (2006) và Fich & Slezak (2008) cho rằng sử dụng
đơn thuần dữ liệu kế toán không đủ đảm bảo cho khả năng dự báo FDR và đề xuất bổ sung nhóm nhân tố
quản trị doanh nghiệp mà cấu trúc VCSH là một thành phần. Nền kinh tế Việt Nam đã cung cấp một bối cảnh
nghiên cứu củng cố thêm các bằng chứng thực nghiệm trong nghiên cứu tác động của cấu trúc VCSH đến
FDR dựa trên nền tảng lý thuyết đại diện – Agency theory.
Bên cạnh việc sử dụng các thông tin tài chính, thông tin phi tài chính đang trở thành nhân tố mới được kết
hợp và bổ sung các trong các nghiên cứu cùng chủ đề. Với vai trò là nhân tố dẫn đầu trong xu thế phát triển
hiện nay, vấn đề trách nhiệm xã hội doanh nghiệp - CSR trong hoạt động kinh doanh đang thu hút sự quan
tâm từ các nhà nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực. Sự quan tâm này xuất phát từ tính bất định - uncertainty của
hành vi doanh nghiệp khi đối diện với FDR với kỳ vọng doanh nghiệp sẽ khôi phục lòng tin của các bên liên
quan thông qua việc mở rộng các cam kết đối với vấn đề về đạo đức, yếu tố minh bạch và những đóng góp
cho sự phát triển của xã hội. Al Hadi & ctg (2019) dựa trên mẫu của 651 doanh nghiệp Úc trong giai đoạn‐
2007 – 2013, kết quả cho thấy CSR giúp giảm thiểu FDR ở giai đoạn trưởng thành của doanh nghiệp.
Boubaker & ctg (2020) cung cấp các bằng chứng cho thấy CSR có tác động giảm thiểu FDR dựa trên mẫu
của 1.201 doanh nghiệp niêm yết ở Mỹ trong giai đoạn 1991 – 2012. Không đứng ngoài xu hướng phát triển
bền vững, Việt Nam đang từng bước xây dựng các chính sách tương thích nhằm mục tiêu hướng tới một nền
kinh tế bền vững với sự tham gia của doanh nghiệp. Nguyen & ctg (2020) đánh giá tác động của việc công
bố thông tin CSR đến rủi ro phá sản của các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam, kết quả cho thấy doanh
nghiệp có mức độ công bố thông tin CSR cao giúp giảm thiểu rủi ro phá sản. Nguyen & Nguyen (2021) cho
rằng hoạt động CSR giúp giảm thiểu hành vi chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại có tình trạng
căng thẳng tài chính trong giai đoạn từ năm 2008 đến 2017. Do đó, nghiên cứu mối tương quan giữa CSR và
FDR dựa trên nền tảng lý thuyết bên liên quan – Stakeholder theory là cần thiết trong việc cung cấp thêm các
bằng chứng củng cố cho quan điểm trên.
Hiện nay có rất ít các nghiên cứu tại Việt Nam xem xét vai trò của CSR đối với hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp và thậm chí còn ít hơn đối với FDR. Các nghiên cứu tiên phong chủ yếu tập trung xem xét tác
động đơn lẻ của CSR với hiệu quả tài chính, giá trị doanh nghiệp và rủi ro kiệt quệ tài chính mà bỏ qua sự
cộng hưởng của nhân tố cấu trúc VCSH. Việc cân nhắc vai trò của cấu trúc VCSH trong đánh giá mối tương
quan tích cực giữa CSR và FDR là vấn đề mang tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Thông qua việc tổng
hợp các cơ sở lý thuyết và lược khảo cazc nghie{n cưzu có liên quan đa| cho thâzy đu}ơ~c sự câ•n thiêzt thực hiện
nghie{n cưzu đánh giá tác động của CSR và cấu trúc VCSH đến FDR. Và đoz cũng chiznh la• lý do mà tazc gia• lựa