
Bất đồng nhóm máu rhesus
Năm 1939, Levine và Stetson đã phát hiện ra rằng bệnh tiêu huyết ở trẻ sơ sinh
(erythroblastosis fetalis) là do một loại kháng nguyên nhóm máu mà thai được
hưởng từ cha, đi vào tuần hoàn mẹ và gây ra hiện tượng đồng miễn dịch ở mẹ.
Ngày nay, người ta đã hiểu rõ bệnh sinh của bệnh cảnh này và gọi nó là tán huyết
do bất đồng nhóm máu rhesus. Hiện đã có nhiều bước tiến bộ trong các kỹ thuật
chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa căn bệnh này.
Khái niệm về hệ nhóm máu rhesus
Mỗi người sinh ra có một nhóm máu hoàn toàn khác nhau, được quy định bởi
nhiều hệ kháng nguyên nhóm máu trong cơ thể. Tuy nhiên, chỉ có 2 hệ nhóm máu
chính có vai trò quan trọng trong miễn dịch là hệ ABO và hệ Rhesus. Do đó, khi
xác định nhóm máu của một người có thích hợp để truyền cho người khác hay
không, người ta chỉ chú trọng đến 2 hệ nhóm máu này. Rất hiếm khi xảy ra phản
ứng miễn dịch do bất đồng nhóm máu của các hệ khác.

Hệ ABO gồm các nhóm máu A, B, AB và O, được quy định bởi sự hiện diện của
các kháng nguyên A, B và kháng thể kháng A, kháng B. Kháng thể của hệ này
được gọi là kháng thể tự nhiên, do nó đã có sẵn trong cơ thể. Người có nhóm máu
A sẽ có kháng thể kháng B và ngược lại, người có nhóm máu AB không có kháng
thể, nhóm máu O có cả 2 loại kháng thể.
Hệ nhóm máu Rhesus lần đầu tiên được Landsteiner tìm thấy vào năm 1094 ở
hồng cầu khỉ Macacus Rhesus, ông đặt tên kháng nguyên nhóm máu của hệ này là
yếu tố Rh. Hệ Rhesus có các tính chất khác biệt so với hệ ABO. Thứ nhất, có 6
gen chính quy định nhóm máu rhesus tạo thành 3 cặp alen nằm trên mỗi nhánh của
một cặp nhiễm sắc thể. 3 gen C, D, E là 3 gen trội và c, d, và e là các gen lặn. Tuy
nhiên, chỉ có 1 gen quan trọng nhất quyết định sự bất tương hợp nhóm máu rhesus
là gen trội D và nó chịu trách nhiệm đến 95% các trường hợp bất tương hợp nhóm
máu. Nếu có yếu tố D (hay còn được gọi là yếu tố rhesus, theo tên đặt của
Landsteiner) thì nhóm máu là rhesus dương, nếu không có yếu tố D thì nhóm máu
tương ứng là rhesus âm. Thứ hai, kháng thể kháng rhesus là loại kháng thể miễn
dịch, nghĩa là cơ thể của người rhesus âm chỉ sản xuất kháng thể khi tiếp xúc với
hồng cầu của người khác có rhesus dương. Do vậy, trong lần tiếp xúc đầu tiên với
nhóm máu bất tương hợp, nếu bất tương hợp nhóm máu ABO thì phản ứng tán
huyết sẽ xảy ra ngay lập tức, còn nếu bất tương hợp hệ rhesus, phản ứng này sẽ
chưa xảy ra do nồng độ kháng thể mới được sản xuất còn thấp, chưa đủ mạnh để

tạo phản ứng miễn dịch. Phải đến lần tiếp xúc thứ 2, lượng kháng thể được tạo ra
mới đủ để gây phản ứng miễn dịch, dẫn đến hiện tượng tán huyết.
Hầu hết các dân tộc trên thế giới đều có người mang rhesus dương chiếm đa số.
Tuy nhiên, tỉ lệ này khác nhau giữa các dân tộc:[2,7,9]
Dân tộc Rhesus âm Rhesus dương
Dân tộc Baxcơ ở Châu Âu Khoảng 35% 65%
Dân tộc Capca 16% 84%
Anh 17% 83%
Mỹ, gốc da đen Khoảng 7% 93%
Mỹ (bản xứ) Khoảng 1% 99%
Người gốc Phi Gần 1% Hơn 99%
Châu Á Gần 1% Hơn 99%
Bất đồng nhóm máu rhesus
Bất đồng nhóm máu Rhesus xảy ra khi nhóm máu mẹ là rhesus âm, trong khi máu
thai nhi trong bụng mẹ lại là rhesus dương.

Vào một thời điểm nhất định, các tế bào máu con có thể vượt qua hàng rào nhau
thai để vào hệ tuần hoàn của mẹ và kích thích máu mẹ sản xuất kháng thể kháng
rhesus. Điều này được phát hiện sớm nhất là vào tuần thứ 8 của thai kỳ (Queenan
và cộng sự, 1973), nhưng điều kiện nào chính xác gây ra hiện tượng đi qua máu
mẹ vẫn chưa được biết rõ. Kháng thể do mẹ sản xuất có thể đi vào lại bánh nhau,
đến máu thai nhi, gắn lên hồng cầu của thai gây ra hiện tượng kết tụ làm cho hồng
cầu của bào thai bị tán huyết, dẫn đến thiếu máu từ mức độ từ nhẹ đến nặng. Mức
độ này tùy thuộc vào lượng kháng thể cơ thể mẹ sản xuất, mà lượng kháng thể này
lại phụ thuộc vào số lần tiếp xúc với kháng nguyên rhesus của mẹ.
Hồng cầu con bị kết tụ do kháng thể của mẹ
Đối với thai kỳ đầu tiên, đa số trẻ sinh ra bình thường, vì 2 lý do sau:
Hồng cầu của thai đa phần đi qua máu mẹ vào thời điểm lúc sinh. Khi đó, trẻ đã
tách biệt khỏi sự liên kết tuần hoàn với mẹ. Cơ thể mẹ dù có sản xuất kháng thể
cũng không ảnh hưởng đến trẻ nữa.

Mặt khác, dù hồng cầu con có đi vào máu mẹ trước khi sinh đi nữa, thì lượng
kháng thể mẹ sản xuất ra trong lần tiếp xúc đầu tiên cũng không đủ để gây ra hiện
tượng tán huyết nặng nề ở thai.
Tuy nhiên, nếu mẹ có thai rhesus dương lần thứ 2, sự tiếp xúc lại với kháng
nguyên sẽ kích thích tạo một lượng lớn kháng thể đủ để gây ra hiện tượng miễn
dịch mạnh hơn, dẫn đến bệnh cảnh bất đồng nhóm máu rhesus cho thai nhi thứ 2.
Trong trường hợp trước đó mẹ đã từng nhận máu của người có rhesus dương, hoặc
bị sẩy thai, hút nạo thai, thai ngoài tử cung, thực hiện các thủ thuật (như chọc dò
ối,…), xuất huyết qua bánh nhau rộng trong tiền sản giật,… có nguy cơ dẫn đến
trao đổi máu mẹ-thai mà thai lại có rhesus dương thì thai kỳ thứ nhất cũng sẽ bị
bất đồng nhóm máu rhesus nặng.
Chẩn đoán
Chẩn đoán tiền sản:
Không có bất kỳ triệu chứng thực thể nào cho phép dự đoán tình trạng bất đồng
nhóm máu rhesus giữa mẹ và thai nhi.
Khi một phụ nữ mang thai và được xác định nhóm máu là rhesus âm, thai phụ này
phải được theo dõi nồng độ kháng thể kháng rhesus trong máu, đồng thời siêu âm

