
1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
TẠO HỨNG THÚ CHO TRẺ 3 TUỔI
HỌC TỐT MÔN LÀM QUEN VĂN HỌC

2
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn học là một loại hình nghệ thuật, trong đó truyện là thể loại rất được trẻ
yêu thích. Đến với mỗi câu truyện là trẻ lại được bước vào một thế giới vừa
thực,vừa ảo, với bà tiên, ông bụt, với những nhân vật đáng yêu, đáng ghét. Việc
tạo cho trẻ được tiếp xúc với tác phẩm văn học, không những giúp trẻ nhận
thức thế giới xung quanh mà còn phát triển khả năng tư duy, chú ý, ghi nhớ.
Đặc biệt còn giúp trẻ phát triển mạnh mẽ về ngôn ngữ. thông qua các câu
chuyện với ngôn ngữ rất giàu hình ảnh và có sắc gợi cảm, không chỉ làm phong
phú thêm vốn từ cho trẻ, mà còn giúp trẻ 3 tuổi nói đủ câu, rõ ràng, mạch lạc.
Các câu chuyện này còn là những bài học giáo dục đạo đức, thẩm mỹ đến
với trẻ một cách dễ dàng.
Ở lứa tuổi mẫu giáo nói chung, nhất là các bé lớp 3 tuổi của tôi nói riêng
cháu chưa biết đọc, chưa biết viết, mà trẻ dựa vào ngôn ngữ, lời nói của cô kết
hợp với đồ dùng trực quan trong tiết học, giúp trẻ tìm tòi, khám phá mọi sự vật
hiện tượng xung quanh trẻ. Vì vậy trẻ đặt ra muôn vàn câu hỏi tại sao? Cái gì?
Vì sao lại thế… để người lớn trả lời, trẻ vô cùng thích được cô giáo kể chuyện
nhất là truyện cổ tích đầy bí ẩn.
Bản thân tôi cũng rất yêu thích những tác phẩm văn học đặc biệt là những
câu truyện có lời đối thoại hấp dẫn, nội dung giáo dục hay. Qua tình hình học
thực tế của lớp tôi vì thế tôi đi sâu nghiên cứu để giúp trẻ 3 tuổi có hứng thú
học tôt môn làm quên văn học.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng việc tạo hứng thú cho trẻ học tốt môn
làm quen văn học, từ đó chọn lọc các hình thức, hình ảnh trực quan để tạo hứng
thú phù hợp với trẻ 3 tuổi.
III. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
- Đối tượng là trẻ mẫu giáo 3 tuổi tại trường mầm non Cát Bi- Hải An- Hải Phòng.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nhiệm vụ chính của quá trình tạo hứng thú cho trẻ là giúp trẻ sự chú ý,
khả năng phát âm rõ ràng, diễn đạt trọn vẹn ý, khả năng ghi nhớ có chủ định
thông qua hình ảnh trực quan, đồ dùng, đồ chơi. Vì vậy nhiệm vụ nghiên cứu
của đề tài này là tìm ra một số giải pháp giúp trẻ hứng thú học tốt môn làm
quen văn học cho trẻ 3 tuổi ở trường mầm non.
V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong đề tài này tôi đã chọn và sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
1. Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan và đàm thoại.
2. Phương pháp đọc kể diễn cảm.
3. Phương pháp thực nghiệm.
4. Phương pháp tuyên truyền với các bậc phụ huynh.

3
5. Phương pháp nghiên cứu sử dụng tài liệu.
B.PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Đối với trẻ 3 tuổi luôn được những người thân trong gia đình như ông, bà,
bố, mẹ yêu thương, chăm sóc, trẻ chưa được làm quen với thế giới xung quanh
nhưng khi đến trường mầm non thế giới xung quanh được mở ra trước mắt trẻ
vô cùng đẹp và thích thú cái gì cũng mới lạ, điều gì trẻ cũng muốn được khám
phá, trẻ luôn đặt ra những câu hỏi hồn nhiên và ngộ nghĩnh.” Cái gì đây?, Để
làm gì?, Con gì đây?, Sao lại biết bơi?, Bơi ở đâu?...”.
Tất cả những câu hỏi ngộ nghĩnh đó đều bắt nguồn từ sự quan sát của trẻ. Nếu
người lớn chỉ giải thích bằng những ngôn ngữ đơn thuần thì trẻ rất mau quên và
chóng chán. Mặt khác đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ở giai đoạn này là tư duy trực
quan hành động, chú ý của trẻ là chú ý không chủ định. Vì vậy đối tượng nào gây sự
chú và thích thú đến với trẻ thì trẻ sẽ tập trung chú ý và nhớ lâu hơn.
* Về đặc điểm tâm sinh lý: Với trẻ 3 tuổi khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ
định của trẻ đang phát triển nhưng chưa hoàn thiện, ngôn ngữ diễn đạt bằng lời
còn bị hạn chế. Chính vì vậy thông qua các câu chuyện bằng hình ảnh trực
quan như rối dẹt, rối tay, tranh động, qua sự minh họa của cô giúp trẻ hứng thú
và hiểu được hành động, tính cách, tình cảm của từng nhân vật khi trẻ được làm
quen trong tác phẩm văn học.
II. HIỆN TRẠNG
Bản thân tôi luôn xác định rõ mục tiêu của việc tạo hứng thú cho trẻ trong
giờ học làm quen với tác phẩm văn học với trẻ 3 tuổi là rất cần thiết.
Nếu cô giáo chỉ kẻ bằng lời trẻ sẽ rất chán và không muốn nghe. Vì vậy trong
một năm nghiên cứu tổ chức việc tạo hứng thú cho trẻ học tốt môn làm quen
tác phẩm văn học, tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn sau:
1.Thuận lợi:
Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường đã tạo điều kiện về cở sở vật
chất, trang thiết bị phục vụ cho môn văn học.
Các cháu cùng lứa tuổi nên khả năng tương đối đồng đều.
2.Khó khăn:
Sự tập trung chú ý của trẻ chưa cao, nên việc thể hiện ngữ điệu của từng
nhân vật trong truyện còn yếu.
- Đồ dùng dạy chỉ có đủ cho chương trình, phần sử dụng đồ dùng chưa
sáng tạo, thể loại đồ dùng còn ít, không đa dạng và chưa phong phú.
- Giọng đọc và lời kể của giáo viên còn hạn chế nên chưa thu hút được sự
hứng thú với trẻ.
- Ngôn ngữ giao tiếp của trẻ còn hạn chế, vốn từ của trẻ còn nghèo nàn. Vì
vậy sự hứng thú học tập của trẻ còn chưa cao.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP

4
Trong thực trạng đó cũng như nhận thức được tình hình thực tế trên tôi đã
suy nghĩ, tìm tòi ra những giải pháp để tạo hứng thú cho trẻ một cách tốt nhất.
Vì vậy tôi đã dùng phương pháp thực nghiệm lấy 40 trẻ ở hai lớp là lớp
3A1 và 3A2 chia thành hai nhóm: Nhóm đối chứng 20 trẻ là lớp 3A2; nhóm
thực nghiệm 20 trẻ là lớp 3A1.
Sau đó tôi tiến hành thực nghiệm và áp dụng vào từng giải pháp cụ thể sau:
1. Giải pháp 1: Chuẩn bị đồ dùng dạy gây hứng thú cho trẻ.
Đối với trẻ mẫu giáo nhất là các bé 3 tuổi tư duy của trẻ là trực quan hình
tượng trẻ chóng nhớ, mau quên. Cho nên trong tiết dạy đồ dùng trực quan rất
cần thiết, mà đồ dùng phải đẹp, hấp dẫn trẻ. Có vai trò rất quan trọng trong quá
trình truyền thụ kiến thức cho trẻ: Minh họa cho lời kể, khắc sâu những hình
ảnh qua lời kể của cô giáo
VD1: Chuyện “Anh em mèo”.
Tôi làm những chú mèo băng ống rối tay bằng những nguyên vật liệu dễ
kiếm dễ làm, đầu mèo tôi làm rời, chọn những miếng vải nỉ khâu đầu nhồi
bông, trang trí mắt, râu, với màu sắc gần gũi với trẻ. Khi được học tiết kể
chuyện này trẻ rất thích.
Trẻ mẫu giáo bé chỉ có thể hiểu đầy đủ nội dung của tác phẩm khi được
nghe cô kể và được nhìn thấy đồ dùng trực quan minh họa cho lời kể. Điều đó
sẽ làm cho tác phẩm văn học trở nên sống động hơn, rõ ràng hơn. Vì thế đồ
dùng minh họa phải thể hiện được một cách khái quát nhưng phải đảm bảo tính
hệ thống.
VD2: Chuyện “Nhổ củ cải”
Tôi làm tất cả các con rối dẹt có trong câu chuyện, đằng sau dính gai. Khi kể đến
nhân vật nào thì tôi đưa và dính nhân vật đó lên, với những đồ dùng trực quan nhiều
thể loại, mỗi câu chuyện là những chất liệu khác nhau nên trẻ rất hứng thú.
VD3: Chuyện “Chú vịt xám”.
Tôi làm những chú vịt bằng những quả bóng trang trí mắt, mỏ, chân bằng
nguyên vật liệu dễ kiếm (len, hột, hạt…).
Mỗi một câu truyện tôi luôn luôn phải suy nghĩ, phải chuẩn bị đồ dạy như
thế nào, khác với đồ dùng của tiết học trước để cho cháu lớp tôi chú ý tham gia
vào giờ học
Với việc chuẩn bị đồ dùng chu đáo trước khi vào giờ dạy, tôi cảm thấy tự
tin hơn. Trẻ lớp tôi hứng thú tham gia giờ học.
2. Giải pháp 2: Sử dụng đồ dùng linh hoạt thuận tiện.
Như chúng ta đã biết, trong một tiết dạy văn học, khi đã chuẩn bị đày đủ đồ
dùng thì giáo viên nào cũng phải nghĩ cách sử dụng đồ dùng vừa linh hoạt và
thuận tiện, mới hỗ trợ cho giọng đọc, trực quan như thế nào cho hiệu quả mới
là vấn đề cần bàn. Tôi đã suy nghĩ để có nhiều loại đồ dùng khác nhau, tức là

5
đa dạng về thể loại, nhưng phải đơn giản, đẹp, hấp dẫn đến với trẻ, và dễ sử
dụng.
Cụ thể với từng loại như:
VD1: Với câu truyện “Chuyện của mèo con”
Tôi làm các con vật bằng ống dầu gội đầu… trang trí len, mút… khi sử
dụng tôi luồn tay vào thân nhân vật đó và kể.
VD2: Với câu truyện “Đôi bạn tốt”
Tôi làm các con rối ngón tay dài khoảng 15 cm, rộng 10 cm bằng bìa và tô
màu khi kể đến nhân vật nào dính nhân vật đó và kể.
- Trước khi vào dạy tiết văn học, tôi thường tập sử dụng đồ dùng dạy, với
mục đích xem việc sử dụng đồ dùng này còn gặp khó khăn gì.
VD3: “Giọng hót chim sơn ca”
Tôi làm các con chim bằng rối que, khi sử dụng những con rối này rất dễ.
Đôi khi tôi còn nhờ giáo viên dạy cùng lớp tập sử dụng, còn tôi ngồi phía dưới
ngang tầm nhìn của trẻ, xem tất cả các cháu có nhìn thấy không, xem bạn mình
sử dụngnhư thế đã phù hợp chưa, với những việc chuẩn bị trước khi sử dụng đồ
dùng trực quan như vậy, tôi thấy trẻ rất hứng thú tham gia hoạt động trong giờ học.
Tôi cũng cảm thấy tự nhiên hơn khi sử dụng đồ dùng trực quan của tiết dạy
3. Phƣơng pháp 3: Kết hợp với giọng kể diễn cảm.
Muốn gây hứng thú cho trẻ khi học, giáo viên phải thuộc chuyện chuẩn bị
giọng kể diễn cảm.
Để có giọng diễn cảm trước tiên phải xác định giọng của từng nhân vật.
VD1: Chuyện “Bác gấu đen và hai chú thỏ”
Giọng của bác gấu kể với giọng ồm ồm, chậm.
Giọng thỏ trắng nhẹ nhàng, trong trẻo.
Giọng thỏ nâu gắt gỏng.
- Khi kể chuyện xác định ngữ điệu, nhịp điệu, cường độ của âm thanh,
ngôn ngữ, sắc thái khác nhau để trình bày tác phẩm văn học.
- Đồng thời chú ý đến nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của mình sao cho phù hợp
với từng nội dung của câu truyện hay tôi có thể tập kể để cho đồng nghiệp góp ý.
VD2: Chuyện”Cô bé quàng khăn đỏ”
Giọng của chó sói hung dữ, tôi kể cho các bạn, đồng nghiệp nghe xem, tôi
bắt chước giọng nói đã được chưa? Nếu chưa được thì tôi nhờ bạn cùng lớp kể
mẫu rôi tôi tập kể lại, kết hợp nét mặt điệu bộ, tuy nhiên có những câu chuyện
khó tôi phải tập kể đi, kể lại nhiều lần, có khi nghe băng đài rồi bật đi, bật lại
nghe để tự sửa.
Có lúc tôi còn đứng tập kể trước gương kể sửa nét mặt điệu bộ phù hợp với
tính cách của nhân vật.