Tạo vốn bằng phương thức nào?

(Phần 1)

Có 1001 cách tạo vốn khác nhau tuỳ thuộc vào kinh nghiệm sống,

trí thông minh, sự khôn khéo, nhạy bén và cả sự can đảm của

người đứng đầu doanh nghiệp.

Konozuke Matshusita là một trong những tỷ phú giàu nhất ở Nhật

Bản,người sáng lập ra tập đoàn điện tử mang tên ông. Hồi còn

nhỏ, gia đình Matshuhita rất nghèo, lại là con út trong một nhà có

9 người con ở miền Trung Nhật Bản nên ông phải bỏ học lúc 19

tuổi, làm thuê ở một cửa hiệu sửa chữa xe máy kiếm sống. Ông

đã tích góp từng xu để nuôi chí làm giàu. Để có tiền làm nhà

xưởng, ông đã phải huy động vốn từ rất nhiều nguồn khác nhau,

thậm chí bán cả tư trang của vợ mình. Đến nay, nhà máy của

Matshusita phát triển thành một tập đoàn Matshusita với những

mặt hàng điện tử nổi tiếng mang nhãn hiệu Panasonic và

National. Hiện nay Matshusita sử dụng hơn 190.000 nhân viên,

có 200 nhà máy trên khắp thế giới và doanh thu riêng tại Mỹ đã

đạt tới gần 60 tỷ USD.

Bản thân việc vay vốn không phải lúc nào cũng là thượng sách.

Nếu lãi suất phải trả cao hơn tỷ suất lợi nhuận có thể thu được,

thì đương nhiên các công ty sẽ không bao giờ vay vốn. Và trên

thực tế, nhiều công ty cho rằng nếu không có được những dự án

đầu tư mang lại lợi nhuận cao hơn mức lãi suất tiền vay, thì thà

cứ cố gắng tiết kiệm tiền còn hơn là đi vay mượn thêm. Nhưng

đây không phải là lời giải cho bài toán vốn. Nếu chỉ cần tiết kiệm

và giảm tối đa mọi chi phí là đủ, thì chắc sẽ không có ai thành lập

công ty và mở rộng các hoạt động kinh doanh cả. Lời giải ở chỗ

các công ty làm sao để không phải đi vay mà vẫn tìm ra những

nguồn huy động vốn khác nhau.

Trên thị trường vốn, có khá nhiều phương thức khác nhau để tiếp

cận các nguồn vốn đầu tư, tuy nhiên, điều khó khăn đối với đa số

các công ty là họ không hội đủ các điều kiện cần thiết để vay vốn,

hay không nhận được sự tin tưởng từ phía các nhà tài trợ. Vì thế,

việc nâng cao năng lực kinh doanh, cũng như đẩy mạnh uy tín

của công ty trong con mắt các nhà tài trợ là rất cần thiết để công

ty có thể tiếp cận các nguồn vốn một cách dễ dàng.

Và để tối ưu hoá hoạt động huy động vốn, các công ty cần đề ra

cho mình những nguyên tắc nhất định, "đánh bóng" chính bản

thân công ty, từ đó tạo ra sự tin cậy trong con mắt các nhà tài trợ

vốn.

Trước mỗi quyết định tài trợ vốn, các nhà tài trợ thường căn cứ

vào độ tin cậy và uy tín của công ty. Nếu công ty muốn sớm nhận

được quyết định tài trợ vốn, thì một bộ tài liệu chứng minh độ tin

cậy của công ty sẽ là rất cần thiết. Văn bản này càng trung thực

và rõ ràng bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Các nhà tài trợ sẽ tiến

hành xác minh, nếu phát hiện có chi tiết thiếu trung thực, lập tức

họ sẽ đặt dấu hỏi về độ tin cậy của công ty.

Bên cạnh đó, một bộ máy kế toán tài chính hiệu quả cũng đóng

vai trò quan trọng trong việc tạo dựng độ tin cậy của công ty. Sau

những vụ bê bối tài chính lớn như Enron, Worldcom... giờ đây

các công ty trên thế giới đã quan tâm hơn đến bộ máy kế toán.

Điều này hoàn toàn hợp lý, bởi nếu cứ tiếp tục xem thường bộ

máy kế toán như trước đây, thì chắc hẳn sẽ không tránh khỏi

những "vết xe đổ". Và do vậy lòng tin của các nhà đầu tư sẽ giảm

sút nghiêm trọng.

Nhiều hãng lớn của châu Âu như Orcale, Vodaphone đã quy

định: nếu chưa am hiểu về kế toán, nhà quản lý phải bổ sung kiến

thức chuyên môn bằng cách tham dự các khóa học ngắn hạn do

trường đại học hoặc trung học kinh tế tổ chức. Thời gian học

khoảng từ hai đến sáu tháng, sau đó có thể học tiếp lớp nâng cao

hoặc tham khảo sách chuyên ngành. Nhà quản lý doanh nghiệp

hiểu biết về kế toán, tất nhiên, không phải để tự mình làm lấy các

công việc lập sổ sách, mà là để kiểm tra lại tính chính xác của

những thông tin cấp dưới báo cáo, giúp cho công tác quản lý,

điều hành và ra quyết định hiệu quả và phù hợp với tình hình

thực tế hơn.

Theo các chuyên gia tài chính của Oracle, tập đoàn viễn thông

lớn nhất châu Âu, thì bộ máy kế toán của Oracle nói riêng và của

các công ty khác nói chung, sẽ có tác dụng huy động khai thác

nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu kinh doanh, tổ chức sử

dụng vốn của công ty sao cho hiệu quả nhất. Bộ máy kế toán sẽ

xác định đúng nhu cầu cần huy động vốn, lựa chọn nguồn tài trợ,

lựa chọn phương thức đẩy mạnh kinh doanh làm cơ sở để huy

động vốn, đảm bảo nguồn vốn phát triển hữu ích, từ đó nâng cao

lợi nhuận của công ty.

Nếu công ty bạn chứng minh được với các nhà tài trợ vốn về khả

năng quản lý, kỹ năng hoạt động, năng lực tài chính cũng như sự

nhạy bén trong kinh doanh, thì bạn sẽ rất thuận lợi trong việc huy

động vốn, bởi năng lực công ty là một trong những yếu tố tiên

quyết mà các nhà tài trợ vốn xem xét và cân nhắc trước khi đưa

ra quyết định tài trợ vốn.

Ngoài việc chủ động huy động vốn và trình bày các năng lực kinh

doanh, bạn còn phải thể hiện cam kết tài chính của công ty đối

với những hoạt động kinh doanh cụ thể. Nhà tài trợ vốn sẽ luôn

nhìn vào giá trị thực của công ty và các hệ số chuẩn mực về tài

chính. Bạn nên chuẩn bị các bản báo cáo tài chính về hiệu quả

kinh doanh, năng lực quản lý (chứng nhận tiêu chuẩn ISO,

TQM...)..., bởi chúng là những biểu hiện rõ ràng nhất khả năng

của công ty trong con mắt các nhà tài trợ. Báo cáo tài chính sẽ

"tiết lộ" hoạt động của công ty bạn, đồng thời cung cấp những

thông tin cần thiết cho các cơ quan quản lý, các nhà đầu tư hiện

tại và tương lai, các chủ nợ,... về tình hình tài chính của công ty.

Vì vậy, tính trung thực trong báo cáo tài chính có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng.

Ngoài ra, có những chỉ số vừa cần thiết cho các nhà tài trợ vốn

khi muốn tìm hiểu về thực lực của công ty bạn, vừa giúp "trang

điểm" cho hình ảnh công ty rất hiệu quả:

- Tỷ lệ giá/lợi nhuận (P/E): Cho đến nay, tỷ lệ này được sử dụng

phố biến nhất để đánh giá cổ phiếu và tình hình tài chính của

công ty, thể hiện bạn sẵn sàng trả bao nhiêu cho mỗi USD lợi

nhuận của công ty.

- Tỷ lệ giá/doanh thu (P/S): Chỉ số này có thể được sử dụng để

nhận ra những công ty có mạng lưới kinh doanh ổn định, nhưng

lợi nhuận có thể giảm sút sau quá trình phát triển quá nóng.

- Tỷ lệ giá/lưu lượng tiền mặt (P/C): Con số doanh thu và lợi

nhuận mà công ty báo cáo là "sản phẩm" của những quy tắc tính

toán phức tạp có thể được vận dụng để làm sai lệch số liệu. Lưu

lượng tiền mặt từ các hoạt động kinh doanh có thể đưa ra một

bức tranh xác thực hơn.

- Tỷ lệ giá/giá trị sổ sách (P/B): Tỷ lệ này được dùng để đánh giá

giá trị toàn mạng lưới của công ty đối với các máy móc, thiết bị và

các tài sản khác, thường được sử dụng để tìm kiếm các mục tiêu

tiếp quản.

Tạo vốn bằng phương thức nào?

(tiếp)

Trong quá trình huy động vốn, một đòi hỏi tất yếu là khoản tiền

vốn huy động cần được đảm bảo bởi tài sản hợp pháp của công

ty, hoạt động kinh doanh có triển vọng cũng như thị trường mà

công ty bạn đang kiểm soát.

Bạn nên chứng minh cho nhà tài trợ thấy những tài sản hữu hình

và tài sản vô hình mà bạn đang sở hữu. Đôi khi tài sản vô hình

như giá trị thương hiệu, thị phần, kênh phân phối... còn có giá trị

lớn hơn rất nhiều so với tài sản hữu hình. Đôi khi, việc nhờ một tổ

chức chuyên nghiệp định giá công ty của bạn sẽ rất cần thiết để

việc huy động vốn của bạn được thực hiện dễ dàng và nhanh

chóng hơn.

Trong các kế hoạch huy động vốn, vấn đề lo ngại nhất của các

nhà tài trợ là những rủi ro tài chính do sự biến động của thị

trường, như giá ngoại tệ lên xuống thất thường, đồng nội tệ mất

giá, thị trường bất động sản thay đổi, tình trạng trượt giá phi

mã,... Các nhà tài trợ vốn sẽ luôn xem xét và suy tính rất kỹ về

các rủi ro xấu nhất có thể xảy ra.

Chính vì vậy, để giúp các nhà tài trợ sớm ra quyết định, công ty

nên có các phương án giải thích rõ ràng về tính tối ưu và khả thi

của khoản tiền huy động, đồng thời việc giải thích càng chi tiết, rõ

ràng bao nhiêu sẽ càng có lợi cho bạn bấy nhiêu.

Sau cùng, bạn chỉ nên cân nhắc tới một khoản huy động vốn, khi

bạn tin tưởng và tính toán thấy rằng lợi nhuận thu được từ các

hoạt động kinh doanh được đầu tư từ khoản vốn huy động đó sẽ

cao hơn các chi phí huy động vốn. Và bạn tuyệt đối không nên

huy động vốn để trang trải các khoản lỗ của công việc kinh doanh

hiện tại, bởi việc này có thể kéo bạn lún sâu vào "vũng lầy" với

tình trạng khó khăn hơn về tài chính . Thay vào đó, bạn có thể cắt

giảm các loại chi phí, hợp lý hoá hoạt động kinh doanh sao cho

tốt hơn và hiệu quả hơn. Bạn chỉ nên tập trung vào các hoạt động

kinh doanh nào chắc chắn mang lại lợi nhuận. Nếu ngay cả biện

pháp này cũng không giúp gì cho bạn, thì bạn nên suy nghĩ tới

việc chuyển hướng hoạt động kinh doanh của mình.

Tại Mỹ, ngay ở Nhật Bản chứng thư lập hội (articles of

association), những người sáng lập công ty đã ấn định số vốn

của công ty là bao nhiêu, chia ra bao nhiêu phần bằng nhau, gọi

là cổ phần. Khi cổ phần bán đi thì người mua nhận được biên

nhận đã trả tiền gọi là cổ phiếu và họ trở thành cổ đông.

Cổ phần luôn là cách thức giải quyết vấn đề vốn một cách hiệu

quả nhất. Công ty bán cổ phần để gọi vốn, giống như bán một

viên kẹo. Ở mức phát triển thấp, công ty chỉ có viên kẹo làm theo

hai hình, hình vuông có đề tên người chủ và hình tròn không đề

tên ai. Loại vuông không được chuyển nhượng cho người khác,

gọi là cổ phiếu ghi danh, còn loại tròn có thể chuyển nhượng cho

bất kỳ ai, gọi là cổ phiếu vô danh. Chuyển nhượng cổ phiếu dễ

dàng cũng là một cách thu hút người mua. Đến mức phát triển

cao hơn, công ty dựa trên lợi ích của các cổ đông để bán cổ

phiếu ưu đãi cho cổ đông. Đây là cổ phiếu được ưu tiên chia lời.

Để huy động vốn, công ty sẽ bán cổ phiếu cho cổ đông tùy theo

số tiền cần có. Nếu định bán rộng rãi ra cho dân chúng, thì công

ty cần phải đăng ký cổ phiếu với Sở giao dịch chứng khoán,

được gọi là niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán.

Lúc đó, cổ phiếu có thêm một tên mới là chứng khoán. Nếu chỉ

bán cho vài người thì không phải đăng ký cổ phiếu. Tùy theo tình

hình tài chính của công ty, nếu làm ăn khấm khá, công ty sẽ mua

lại số cổ phiếu đó để cất giữ.

Sau khi gọi vốn lần đầu, những lần sau, muốn tăng vốn, công ty

bán nốt số cổ phiếu hãy còn giữ lại lúc đầu, hay phát hành một

đợt cổ phiếu mới. Mức phát hành bao nhiêu sẽ do hội đồng quản

trị công ty quyết định. Cứ mỗi lần phát hành mà muốn bán ra

công chúng thì lại phải làm đủ thủ tục niêm yết như lần đầu.

Thuê tài chính là một hình thức đang được áp dụng phổ biến ở

nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Ðức, Thuỵ Ðiển,

Úc... Loại hình cho thuê tài chính đã được một số công ty đưa ra

thị trường tài chính vào những năm cuối thập niên 60 của thế kỷ

XX với tên gọi là thuê tài chính (finance lease).

Cho thuê tài chính (finance leasing) là một dạng cho thuê máy

móc, thiết bị và động sản. Người ta còn gọi là cho thuê thiết bị

(leasing). Ở nhiều nơi, người ta cho thuê xe hơi, máy bay, xe tải,

tàu hoả, khoang tàu thuỷ và tàu thuỷ, máy photocopy, máy

fax,...Tập đoàn General Motor của Mỹ còn cho thuê cả máy vi

tính. Hiện nay, Vietnam Airlines đã thuê máy bay của TEAC,

AirFrance... Tại Mỹ, ngành cho thuê tài chính chiếm khoảng 25 -

30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị hàng

năm của các công ty. Nguyên nhân chính thúc đẩy các hoạt động

cho thuê tài chính phát triển nhanh là do nó có tính chất an toàn

cao, tiện lợi và hiệu quả cho các bên giao dịch. .

Không thể phủ nhận rằng sự có mặt của các công ty cho thuê tài

chính đã "mở lối thoát" cho các công ty, trong thời điểm các công

ty này đang gặp khó khăn về thủ tục thế chấp tài sản để vay vốn

ở các ngân hàng. Tuy nhiên, khái niệm cho thuê tài chính vẫn còn

khá mới mẻ với nhiều công ty. Ít công ty hiểu được rằng cho thuê

tài chính là một hình thức tài trợ tín dụng, thông qua việc cho thuê

các loại tài sản, máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển... là

nhu cầu mà các công ty, các nhà đầu tư mong muốn để đổi mới

máy móc, thiết bị, hiện đại hóa công nghệ sản xuất kinh doanh.

Đặc trưng của phương thức này là đơn vị cho thuê (tức là chủ sở

hữu tài sản) sẽ chuyển giao tài sản cho người thuê (tức là người

sử dụng tài sản) được quyền sử dụng và hưởng dụng những lợi

ích kinh tế mang lại từ các tài sản đó trong một thời gian nhất

định. Người thuê có nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ tài sản

tương xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng. Điều này

cũng cho thấy việc cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài chính

không đòi hỏi sự bảo đảm tài sản có trước, tạo điều kiện cho các

công ty tiếp cận hình thức cấp tín dụng mới, vừa giải tỏa được áp

lực về tài sản đảm bảo nếu phải vay ở ngân hàng. Loại hình cho

thuê tài chính rất thích hợp cho các công ty vừa và nhỏ nhờ ưu

điểm không phải thế chấp tài sản như khi vay vốn ở các ngân

hàng. Nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế Trên thế giới có

rất nhiều tổ chức tài chính chuyên về hỗ trợ khu vực kinh tế tư

nhân, trong đó được biết đến nhiều nhất là Công ty tài chính quốc

tế (IFC). IFC là một tổ chức tài chính phi chính phủ trực thuộc

Ngân hàng thế giới, được thành lập với chức năng hỗ trợ tài

chính cho các công ty dưới nhiều hình thức khác nhau, thông qua

các dự án đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh. Hoạt động của

IFC đã được thực hiện tại nhiều nơi trên thế giới, từ những nước

phát triển như Mỹ, Nhật Bản đến những nước đang phát triển

như Trung Quốc, Thái Lan...

Điểm đặc biệt trong hoạt động của IFC là bản thân tổ chức này

không tạo ra các dự án mới, mà IFC chỉ đầu tư vào hoặc hỗ trợ

cho các dự án, công ty hiện có trên thị trường. Nói một cách

khác, qui mô hoạt động của IFC phụ thuộc rất nhiều vào mức độ

hoạt động của bản thân các công ty. Để thực hiện chương trình

tài trợ vốn, IFC sẽ xem xét, tìm kiếm các công ty hoạt động tốt

trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tài chính, tư vấn... sau đó hỗ

trợ tài chính dưới hai hình thức: một là sử dụng các ngân hàng

như là khâu trung gian trong việc cung cấp tín dụng cho khu vực

kinh tế tư nhân; hai là hỗ trợ kỹ thuật cho các công ty trên các

mặt quản lý hoạt động tài chính, quản lý rủi ro, tăng cường vốn....

IFC hiện cũng đang xem xét việc thành lập một quỹ đầu tư hoặc

trực tiếp cấp vốn cho các dự án do các công ty tư nhân thực hiện,

hoặc có thể đứng ra làm trung gian kêu gọi các tổ chức tài chính

khác.

Thông qua việc hỗ trợ đầu tư cho nhiều dự án trong các lĩnh vực

kinh doanh khác nhau từ xi măng, sắt thép, nông nghiệp, cơ sở

hạ tầng cho đến du lịch, dịch vụ tài chính,... với vốn đầu tư lên tới

hàng trăm tỷ USD, có thể nói IFC đã đóng vai trò rất lớn trong

việc hỗ trợ sự phát triển của các công ty, tạo cơ sở hình thành

nhiều khu vực kinh tế tư nhân năng động trên thế giới.

Tuy nhiên, IFC không phải là một định chế tài chính trực tiếp đầu

tư cho các công ty, mà chỉ đóng vai trò trung gian, cầu nối. Một

mình IFC khó có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn của

các nhà đầu tư. Vấn đề là làm thế nào để các tổ chức và các định

chế tài chính khác cùng chung sức giúp các công ty cất cánh?

Cũng chính vì lý do này mà IFC hiện đang tìm một số tổ chức tài

chính cùng hợp tác hỗ trợ tín dụng cho các công ty trên toàn thế

giới. Nếu công ty của bạn cần vốn, bạn có thể liên hệ với chi

nhánh IFC tại địa phương mình để tìm hiểu thêm thông tin về các

chương trình tài trợ vốn đầu tư.