NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
S_
THẾ GIỚI BIỂU
TƯỢNG SÓNG ĐÔI
TRONG CA DAO
NGƯỜI VIỆT
NGUYÊN THỊ NGỌC ĐIỆP?
I1. Đôi nét về khái niệm biểu
tượng sóng đôi trong ca dao người
Việt
Đến với kho tàng ca đao người Việt,
có lẽ khó ai quên được những hình ảnh
của mận - đào, bướm — hoa, trúc — ma,
thuyền - bến... Chúng xuất hiện với tần
số cao trong các bài ca dân gian, mang
những giá trị thẩm mĩ nhất định, tạo nên
một lối nói riêng cho thể loại trữ tình
này. Các nhà nghiên cứu gọi đó là những
biểu tượng, hay chính xác hơn là những
biểu tượng sóng đôi.
Có thể nói ngôn ngữ ca dao phần lớn
là ngôn ngữ biểu tượng. Biểu tượng tổn
tại trong ca dao không phải với tính chất
là những yếu tế đơn lẻ rời rạc, mà đã
hình thành nên một hệ thống khá hoàn
chỉnh. Theo thống kê sơ bộ của chúng tôi,
trong 286 biểu tượng ca dao thì số biểu
tượng sóng đôi đã chiếm gần phân nửa :
114/286. Trong quá trình ứng tác, người
bình dân xưa luôn có ý thức sử dụng biểu
tượng để giãi bày tâm tư, tình cảm của
mình. Nhiều bài ca dao nói bằng biểu
tượng, hình thành từ biểu tượng, vận
động bằng biểu tượng.
©) Thạc sĩ, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
Biểu tượng là những dạng thức dùng
hình này để tỏ nghĩa nọ, dùng một hình
ảnh cụ thể để nói nên một ý niệm trừu
tượng. Biểu tượng trong ca dao là một
loại biểu tượng nghệ thuật, được xây
dựng bằng ngôn từ với những quy ước
của cộng đồng. Thế giới biểu tượng này
vừa mang những đặc điểm của biểu
tượng nói chung, vừa mang những nét
riêng đặc thù của nó do nghệ thuật ngôn
từ, nghệ thuật thi ca dân gian quy định.
Biểu tượng ca dao là những hình ảnh ẩn
dụ được một cộng đồng đồng chấp nhận
và sử dụng rộng rãi, phổ biến, mang đậm
tính truyền thống. Để tạo nên biểu
tượng, nghĩa đen, nghĩa biểu vật của các
từ ngữ sẽ không được khai thác, mà chủ
yếu là nghĩa bóng, nghĩa biểu cảm của
ngôn ngữ sẽ phát huy tác dụng. Được xây
dựng trên cơ sở tính hàm súc, hàm nghĩa
của ngôn ngữ văn chương, hệ thống biểu
tượng nghệ thuật trong ca dao đã góp
phần làm cho ngôn ngữ của loại thi ca
dân gian này mang tính đa nghĩa và giầu
sức khơi gợi.
Để đáp ứng nhu cầu biểu hiện tình
cảm đa dạng, nhiều hình, nhiều vẻ của
con người, các biểu tượng cũng được hình
thành theo những cách cấu tạo khác
nhau. Phổ biến trong ca dao là hai loại
:biểu tượng đơn và biểu tượng đôi.
Biểu tượng là biểu tượng chỉ bao gồm
một sự vật một hình ảnh duy nhất. Trong
ca dao, nhiều bài chỉ có một biểu tượng,
hoặc tuy một bài có nhiều biểu tượng
song các biểu tượng đó chỉ gắn bó lâm
thời với nhau trong bài ca, nghĩa là
chúng không xuất hiện theo dạng cặp đôi
nhiều lần như là những liên kết truyền
thống, lúc đó ta có những biểu tượng đơn.
Con cò, con bống, hạt mưa, ngọn đèn, tấm
54
NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP
——————EE— CC ——cễ
lụa đào, cánh bèo, chiếc khăn, cái áo,... là
những biểu tượng đơn.
Ví dụ :
- Đừng lo phận áo hhông tay
Trời bia ngó lại anh may mấy hồi.
(TLI- tr.223)
- Thân em như hạt mưa rào,
Hạt rơi xuống giếng hạt uào uườn hoa
(TLI-tr.2027)
Biểu tượng đôi còn gọi là biểu tượng
sóng đôi, biểu tượng cặp đôi được tạo
thành bởi hai sự vật, hai hình ảnh ởi
song song với nhau, liên kết bền vững
trong nhiều bài ca dao. Cá - nước, rồng —
mây, loan —- phụng, bèo — sen, củi — trầm
là những biểu tượng sóng đôi.
Ở biểu tượng sóng đôi, các biểu
tượng thành tố tác động lẫn nhau, bổ
sung ý nghĩa cho nhau. Nhiều biểu tượng
đôi mang ý nghĩa là những liên kết vĩnh
viễn và duy nhất : kim — chỉ, nút — khuy,
khoá - chìa, gương — thuỷ, phượng - ngô
đồng... _
Hệ thống biểu tượng sóng đôi trong
ca dao người Việt rất phong phú như
chính bản thân cuộc sống, nơi nguồn cội
ban đầu đã sinh ra biểu tượng. Từ thế
giới các hiện tượng tự nhiên, chúng ta có
các biểu tượng : trăng — sao, trăng - cuội,
núi — sông, nước trong — nước đục...; từ
thế giới động vật, ta có: loan - phụng, én
- nhạn, tằm - nhện, phượng hoàng -
gà..., từ thực vật, có; mận - đào, trúc —
mai, lựu - đào, trầu — cau, sen — bèo, quế
- trầm, lan - huệ..., từ các vật thể nhân
tạo, có: đá - dao, giếng — gàu, gương —
lược, nhà ngói —- nhà tranh, bát đàn — bát
sứ...; từ thế giới con người, có Ngưu Lang
— Chức Nữ, ông Tơ - bà Nguyệt, Kim
Trọng —- Thuý Kiểu...
2. Nguồn gốc và cấu tạo của các
biểu tượng sóng đôi trong ca dao
người Việt :
Theo nghiên cứu bước đầu của chúng
tôi, có thể do nhiều nguyên nhân khác
nhau, các biểu tượng sóng đôi đã được
hình thành :
- Do trong đời sống thực tế, các sự
vật hình thành nên biểu tượng đó luôn
tồn tại gắn bó với nhau : nút - khuy,
khoá - rư+ng, rượu - nem, giếng - gàu,
trầu —- cau, hoa — bướm, thuyền - bến, ...
Đồng thời trong nói năng, dân gian lại
luôn hướng tới sự hài hoà, cân xứng, nên
các sự vật thường xuất hiện sóng đôi với
nhau.
- Do chúng có nguồn gốc từ những
điển tích, điển cố, những tác phẩm văn
học cổ: Châu - Trần, Tấn - Tần, Ngưu
Lang - Chức Nữ, Kim Trọng - Thuý
Kiều, rồng - mây, loan - phụng, én -
nhạn... Từ trong gốc dễ ban đầu này, các
thành tố của biểu tượng đôi đã tổn tại
bên nhau không tách rời, cho nên khi đi
vào ca dac, chúng vẫn giữ nguyên trạng
thái liên kết chặt chẽ đó.
- Do hình thức hát đối đáp nam nữ
trong dân gian: Với ca dao - dân ca, ta
thường quen thuộc với cách xưng hô anh
- em, thiếp - chàng, mình - ta, qua -
bậu, tôi — người, tính - tình, đó - đây ...
và cũng không xa lạ khi các chàng trai,
cô gái xưng hô với nhau bằng những đại
từ - biểu tượng (biểu tượng đóng vai trò
là những đại từ nhân xưng): thuyền -
bến, rồng — mây, lan — huệ...
- Bây giờ rồng mới gặp mây,
Sao rồng chẳng thở uới mây uời lời ...
(TLI- tr 156)
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ĐO
“==————— ———
- Trúc uới mai, mai uề trúc nhồ,
Trúc trở uề mai nhớ trúc không? ...
(TL]I-tr 799)
Phần lớn các biểu tượng đôi được
hình thành trên cơ sở của nhiều biểu
tượng đơn.
Bèo - sen được hình thành từ biểu
tượng bèo và biểu tượng sen, thuyền -
bến, loan —- phụng, trúc - mai... đều được
hình thành theo cách như thế. Quá trình
kết hợp các biểu tượng đơn để tạo nên
biểu tượng đôi không ngừng diễn ra trong
các sinh hoạt ca hát dân gian, vì vậy, sự
kết hợp này cũng không phải hoàn toàn
là cố định. Rồng có khi kết hợp với tiên
thành rồng - tiên, có khi kết hợp với mây
thành rồng - mây, có khi kết hợp với
phụng thành rồng - phụng ... Biểu tượng
hoa cũng được kết hợp với nhiều biểu
tượng khác tạo thành các biểu tượng đôi
bướm — hoa, ong — hoa...
Trong biểu tượng sóng đôi, chúng ta
có thể chia thành hai loại nhỏ: biểu tượng
đôi tương đồng, biểu tượng đôi đối lập.
Biểu tượng đôi tương đồng là những
biểu tượng trong đó hai thành tố tạo nên
chúng tương xứng với nhau về phẩm
chất, thuộc tính, cùng kết hợp với nhau
tạo nên một tín hiệu thẩm mỹ mang nội
dung cảm xúc nhất định. Thành tố này bổ
sung, nhấn mạnh, khơi gợi thành tố kia.
Các thành tố tương nhau, nâng nhau lên,
làm thành một cặp biểu tượng hoàn
chỉnh “tuy hai mà một, tuy một mà haÏ.
Gạo trắng - nước trong, trúc - mai, mận
- đào, liễu —- mai, rồng — tiên, rồng —
phụng, đá - dao ... đều là những cặp biểu
tượng tương đồng.
Loại biểu tượng này thường xuất
hiện trong những bài ca dao thể hiện
niềm vui, niềm hạnh phúc, sự xứng đôi
vừa lứa : loan —- phụng, lựu - đào, bướm -—
hoa, vàng — ngọc, đũa ngọc — mâm vàng...
- Vợ nên chồng, chồng nên tiên,
Quí bạn gặp quí, bạn hiền gặp nhau.
(TLI-tr.2347)
Hoặc là chúng xuất hiện trong các
bài ca dao thể hiện sự gắn bó, thuỷ
chung: cá - nước, rồng — mây, trầu - cau,
kim - chỉ, Châu - Trần, Tấn - Tần ...
- Em như nút, anh như khuy,
Như Thuý Kiều - Kim Trọng biệt l¡
sao đành?
(TLHI —- TR 227)
Biểu tượng đôi đối lập là biểu tượng
trong đó các sự vật, hình ảnh hợp thành
đối lập, mâu thuẫn, tương phản nhau về
phẩm chất thuộc tính, không tương xứng
nhau về nội dung hoặc hình thức: củi —
trầm, bèo — sen, trăng - đèn, bát đàn -
bát sứ, nồi đồng - nồi đất, nhà ngói —- nhà
tranh, vàng - thau...
Loại biểu tượng này thường được sử
dụng trong các bài ca dao thể hiện nỗi
đau khổ, bất hạnh, tâm trạng xót xa,
đắng cay, ngậm ngùi nuối tiếc ...
- Có bát sứ, tình phụ bát đàn,
Nâng nĩu bát sứ, uở tan có ngày.
(TL I - 394)
Trong biểu tượng đôi đối lập, thường
có sự kết hợp những hình ảnh mang giá
trị tương phản cao để chỉ ra sự không
xứng hợp giữa đôi lứa: Tiên - cú, phượng
hoàng - gà, đũa mốc - mâm son, trầu
vàng -— cau sâu..., sự đối lập giữa hai
chàng trai (hay hai cô gái) trong tình
ĐỒ
NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP
=————EEE———ễễễễ——ễ———————ằ... ốc
yêu: trăng - đèn, đũa tre - đũa mun, nước
sông - nước bàu, nước trong - nước đục,
vàng - thau ... hay những hoàn cảnh trái
ngược nhau: nhà ngói —- nhà tranh, áo
rách - áo lành, thuyền thúng - thuyền
ván, cầu ván - cầu tre ...
Nhiều trường hợp, từ một biểu tượng
đơn ban đầu có thể kết hợp với các biểu
tượng đơn khác làm thành các biểu tượng
đôi mang giá trị đối lập: quế - phượng
hoàng >< quế - cú; trầu vàng — cau xanh
>< củi — trầm; tiên —- rồng >< tiên - cú;
vàng —- ngọc >< vàng thau...
Ví dụ:
- Thôi đừng nói mà phiền
Đầu rồng đã ấp tay tiên đi rồi.
(TL II (1) - tr. 406)
- Cú đã biết thân cú hôi,
Cú sao lại dám đến ngôi cùng tiên.
(TLIHI (2) - tr. 215
Trong môi trường diễn xướng dân
gian, các biểu tượng sóng đôi tương đồng
hay đối lập không ngừng được hình
thành, phát triển từ các biểu tượng đơn
mà bản thân luôn tiềm ẩn một khả năng
tạo nghĩa, khả năng kết hợp đa dạng,
uyến chuyển.
Các biểu tượng sóng đôi thường
xuyên được dân gian sử dụng cùng với
các biểu tượng đơn trong nhiều bài ca
dao. Cũng có khi trong một bài ca dao
xuất hiện nhiều cặp biểu tượng, hoà hợp
với nhau về ý nghĩa, cùng hướng người
đọc về một nét nghĩa chung nào đó:
- Sen xa hồ, sen khô hồ cạn,
Liễu xa đào, liễu ngủ liễu nghiêng
Anh xa em như bến xa thuyền,
Như Thuý Kiều xa Kim Trọng, biết
mấy niên cho tái hồi
(TLIT - tr. 1834)
Điểm qua các cách cấu tạo của biểu
tượng sóng đôi, chúng ta phần nào thấy
được sự tôn tại đa dạng của loại biểu
tượng này trong ca dao người Việt. Nhu
cầu biểu đạt tư tưởng, tình cảm của dân
gian, nhờ vậy đã được đáp ứng trọn vẹn.
3. Chức năng của các biểu tượng
sóng đôi trong ca dao người Việt
Biểu tượng ca dao nói chung, biểu
tượng sóng đôi nói riêng, với tư cách là
những mô - típ, những công thức truyền
thống, được xem là những yếu tố nội
dung - hình thức tiêu biểu, là những tế
bào hạt nhân có vai trò quan trọng trong
toàn bộ chỉnh thể ca dao. Với số lượng
phong phú, biểu tượng sóng đôi đã có
những tác động chi phối đáng kể đến các
thành tố khác của thi pháp ca dao như
ngôn ngữ, đề tài, chủ đề, kết cấu ...
Đối với ngôn ngữ ca dao, sự xuất
hiện với mật độ dày đặc của các biểu
tượng sóng đôi khiến cho các văn bản của
thể loại này mang đậm tính biểu hiện.
Cần tránh khuynh hướng cực đoan cho
rằng tất cả các văn bản ca dao đều là
những văn bản biểu hiện, nhưng cũng
cần thấy rằng văn bản biểu hiện chiếm
phần lớn trong ca dao, và chính ở đây
chức năng thẩm mĩ của các biểu tượng đã
được bộc lộ. Những thuyền - bến, liễu —
mai, mận - đào, tằm - dâu, chim — nhành
mai, én —- nhạn ... trong các bài ca đao đã
góp phần hướng người tiếp nhận đến với
các tầng ngữ nghĩa khác của văn bản.
Ngôn ngữ trở nên giàu có về khả năng
biểu hiện, sức chứa đựng, sức nén của
ngôn từ khiến tác phẩm trở nên cô đọng,
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
hàm súc. Đặc biệt với những biểu tượng
sóng đôi được hình thành từ những điển
tích, điển cố, các lớp nghĩa tiểm ẩn trong
ngôn từ càng lớn. Những câu chuyện đời
xưa. viết ra phải có khi đến hàng trang
giấy thì bây giờ cô đọng lại trong một sự
vật, một hình ảnh, một nhân vật. Biểu
tượng có nguồn gốc từ điển cố nối bài ca
đao với cả một thời kì lịch sử, một giai
đoạn văn hoá, một truyền thống thẩm
HHu¿
Các biểu tượng sóng đôi vừa là yếu
tố thuộc về một văn bản, vừa là yếu tố
liên văn bản. chúng nối văn bản cụ thể
với truyền thống, vừa đưa văn bản vào
một kiểu công thức sẵn có, vừa là sự thể
hiện sáng tạo công thức đó. Nhiều bài ca
dao sử dụng biểu tượng trúc - mai,
nhưng mỗi lần xuất hiện biểu tượng này
lại được dùng với những cách biểu đạt
khác nhau, khi thì trúc nhớ mai, trúc mai
một nhà, sum vầy trúc mai, trúc mai
trông lộn một bồn, khi thì: trúc hiệp cùng
mai cho tài xứng sắc, trúc muốn ghẹo
mai, rầu trúc mai, phân chia mai trúc ...
Biểu tượng loan - phụng cũng được sử
dụng với những biến thể linh hoạt: ion
phụng lẻ bây, loan xa phụng cách,
phượng múa loan đờn, loan ôm lấy
phượng, phượng bông bế loan, chim
phượng tới gần chim loan... Biểu tượng
tầm — dâu thì có: m bạc nghĩa bỏ nương
dâu không nhìn, tằm uắng dâu, dâu nhớ
tầm, tầm đợi dâu, trồng dâu cho tối
tháng 3 nuôi tằm ...
Với các biến thể trên, công thức biểu
tượng trở nên uyển chuyển, linh hoạt, và
cũng vì vậy, khả năng sử dụng biểu
tượng trong các sáng tác càng cao.
Với chức năng triển khai, thể hiện đề
tài, phần lớn các biểu tượng sóng đôi đã
trở thành những đại diện tiêu biểu cho đề
tài về tình yêu lứa đôi. Đó là phượng
hoàng- ngô đồng, chim đậu - chim bay,
cá - người câu cá, cá - lưới, kiếng — bổn,
thuyền - lái, cây đa - bến cũ ... Hệ thống
các biểu tượng sóng đôi này đã tạo nên
một phong cách rất riêng cho ca dao tình
yêu, đó là lối nói năng bình dị, kín đáo,
tao nhã, quen thuộc nhưng không đi đến
sáo mòn. Hiện tượng các biểu tượng sóng
đôi xuất hiện với tần số cao trong đề tài
này còn cho thấy nhu cầu được giãi bày
tâm tư tình cảm của các chàng trai, cô
gái nông thôn xưa kia là rất lớn.
Biểu tượng sóng đôi còn có nhiều tác
động đến kết cấu của ca dao, đặc biệt là
kết cấu đối thoại: đối thoại một vế, đối
thoại hai vế. Kiểu kết cấu này nảy sinh
do môi trường, hoàn cảnh ứng tác, diễn
xướng ca dao. Dù ở dạng lời nói của một
người hay hai người , một vế hay hai vế,
bài ca dao vẫn in đậm dấu ấn của lối giãi
bày giữa nhân vật trữ tình và đối tượng
trữ tình. Đây là một biểu hiện cụ thể về
mối quan hệ, ảnh hưởng của những yếu
tố ngoài văn bản đối văn bản văn học dân
gian. Hình thức hát đối đáp nam nữ
trong dân gian là những yếu tố ngoài văn
bản đã trở thành nguyên nhân chính của
việc hình thành nên kết cấu đối thoại,
một yếu tố thuộc cấu trúc bên trong của
văn bản ca đao.
Với lố. kết cấu này, không thể không
nhắc đến vai trò của các biểu tượng sóng
đôi. Nhiều biểu tượng loại này đã được
dùng thay thế cho con người. Nhân vật
trữ tình, đối tượng trữ tình ẩn mình
ĐỒ
NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP
trong các biểu tượng, mang những đặc
điểm, giá trị phẩm chất... của biểu tượng.
Các chàng trai, cô gái tự xưng mình là
rồng, là mây, là trúc, là mai, là liễu, là
đào ... các nhân vật đang được hoá thân
trong những hình ảnh đó:
Phụng uới rồng cũng đồng nhan sốc,
Trách ai làm phụng bắc, rồng nam.
(TL II - tr.358)
Do đặc điểm trên, nhân vật ca dao
thường là những nhân vật phi cá thể hoá.
Chàng trai nào cũng có thể là ong, là
bướm, cô gái nào cũng có thể là hoa,
trăng, cá..... lứa đôi nào cũng có thể là
chim phượng - ngô đồng, lựu - đào, lan —
huệ ...
Trong kết cấu đối thoại, các biểu
tượng sóng đôi không chỉ có chức năng
thể hiện tính cách, hoàn cảnh, đặc điểm
của nhân vật và đối tượng trữ tình, mà
các biểu tượng còn trở thành những để
tài để lứa đôi trò chuyện. Ca dao phổ biến
lối nói chuyện biểu tượng, hỏi và đáp
bằng biểu tượng:
- Bấy lâu còn lạ chưa quen,
Hỏi hồ đã có hoa sen chưa hồ?
Hồ còn leo lẻo nước trong
Bấy lâu chỉ dốc một lòng đợt sen
(TLI - tr.260)
hay:
-_ Đêm bhuya thiếp hỏi lòng nhau,
Lược bia muốn tựa gương Tàu được
chăng?
(TLI—- tr771)
Trong những bài ca này, biểu tượng
sóng đôi là hạt nhân, là cốt lõi, nền tảng
hình thành nên kết cấu, cấu tứ của tác
phẩm. Lối nói chuyện bằng biểu tượng
như vậy rất phù hợp cách cảm, cách nghĩ
cách diễn đạt của người Việt Nam. Các
biểu tượng sóng đôi giúp dân gian nói ít
hiểu nhiều , tác phẩm ngắn gọn nhưng ý
tình sâu sắc.
w kJ
Có thể nói, các biểu tượng sóng đôi
đã chiếm vị trí khá đặc biệt trong kho
tàng ca dao của người Việt. Bên cạnh
những giá trị nội tại, với tư cách là một
thành tố của thi pháp ca dao, các biểu
tượng sóng đôi đã có những tác động
đáng kế đến các thành tố thi pháp khác
của thể loại này. Biểu tượng sóng đôi với
số lượng phong phú, cấu trúc đa dạng và
chức năng rõ rệt đã góp phần tạo nên cái
hay cái đẹp cho ca dao.
N.T.N.Đ
CÁC TÀI LIỆU DÙNG ĐỀ THỐNG
KÊ KHẢO SÁT
- Tư liệu I (TL ID Nguyễn Xuân
Kính, Phan Đăng Nhật... - Kho tàng ca
dao người Việt, 4 tập, Nxb Văn hoá Thông
tin, Hà Nội. 1995.
- Tư liệu II (TL ID:Nguyễn Đổng
Chi, Ninh Viết Giao, Võ Văn Trực —- Kho
tàng ca dao xử Nghệ, 2 tập, Nxb Nghệ An,
19896
- Tư liệu III (TL HI: Bảo Định
Giang, Nguyễn Tấn Phát... Ca dao - dân
ca Nam Bộ, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1984
- Tư liệu IV (TL IV): Mã Giang Lân,
Nguyễn Đình Bưu - Hát uí đồng bằng Hà
Bắc, Ty văn hoá Hà Bắc xuất bản, 1976