YOMEDIA
ADSENSE
Thế giới như tôi thấy: Nguyễn Ngọc Tú
67
lượt xem 2
download
lượt xem 2
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Thế giới như tôi thấy nguyên gốc là tên một tiểu luận Einstein viết tại Berlin năm 1930 khi ông 51 tuổi. Qua lần tái bản thứ hai bổ sung nhiều bài viết mới, cuốn sách thành một tập hợp các bài viết, thư từ, tiểu luận khoa học,… chắt lọc trong suốt cuộc đời nghiên cứu và tham gia hoạt động xã hội, chính trị của Einstein.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thế giới như tôi thấy: Nguyễn Ngọc Tú
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 4 (37) 2014<br />
<br />
111<br />
<br />
THẾ GIỚI NHƯ TÔI THẤY<br />
Nguyễn Thị Ngọc Tú1<br />
đối và những phát minh khoa học quan trọng,<br />
tầm ảnh hưởng của Einstein còn lan rộng qua<br />
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Là con<br />
người khiêm nhường, ông cho rằng “mỗi<br />
người cần được tôn trọng như một nhân cách<br />
và không ai được thần thánh hóa”, bởi theo<br />
ông “sự sùng bái cá nhân luôn có gì đó thiếu<br />
công bằng”, tuy thế chính điều này lại xảy ra<br />
với Einstein, thế giới ngưỡng mộ ông, “khoác<br />
cho những phẩm chất thần thánh về trí tuệ và<br />
nhân cách” mà theo Einstein đã vượt quá “điều<br />
mà tôi thực chất là và muốn là”.<br />
<br />
Tuyển tập Mein Weltbild (Thế giới như<br />
tôi thấy) của Albert Einstein được công bố lần<br />
đầu tại Đức vào năm 1931. Năm 1955, cuốn<br />
sách tái bản ở Mỹ, được bổ sung nhiều bài viết<br />
mới và đã dịch ra nhiều thứ tiếng. Năm 2005,<br />
bản tiếng Việt do Trần Tiễn Cao Đăng dịch do<br />
NXB Tri Thức ấn hành và tính đến năm 2011,<br />
cuốn sách đã tái bản đến lần thứ tư.<br />
Albert Einstein (1879 – 1955) là một<br />
trong những nhà khoa học vĩ đại nhất thế kỷ<br />
XX. Không chỉ nổi tiếng bởi Thuyết Tương<br />
1<br />
<br />
Thế giới như tôi thấy nguyên gốc là tên<br />
một tiểu luận Einstein viết tại Berlin năm 1930<br />
khi ông 51 tuổi. Qua lần tái bản thứ hai bổ<br />
sung nhiều bài viết mới, cuốn sách thành một<br />
tập hợp các bài viết, thư từ, tiểu luận khoa<br />
học,… chắt lọc trong suốt cuộc đời nghiên cứu<br />
và tham gia hoạt động xã hội, chính trị của<br />
Einstein; thể hiện tư tưởng, quan điểm, ý kiến<br />
của ông trong nhiều lĩnh vực; thông qua đó,<br />
độc giả có thể tự phác họa cho mình chân dung<br />
về nhà khoa học thiên tài với tầm cao tư tưởng<br />
sâu sắc nhưng mang đậm tính nhân bản; giản<br />
dị và kiên định nhưng vẫn giữ nguyên nét<br />
duyên dáng của sự hài hước tinh tế. Cuốn sách<br />
chia thành bốn phần: phần một Thế giới như<br />
tôi thấy, phần hai Chính trị và chủ nghĩa hòa<br />
bình, phần ba Trong cuộc chiến chống chủ<br />
nghĩa Quốc Xã và phần bốn Các vấn đề Do<br />
Thái được viết trong 227 trang với 72 chuyên<br />
mục nhỏ, bao gồm cả lời giới thiệu và niên<br />
biểu Einstein.<br />
Điểm xuyên suốt và có lẽ cũng thú vị<br />
nhất trong tác phẩm là chất liệu mà Einstein<br />
dùng để viết: ông lấy từ chính nội tâm phong<br />
phú của những suy tư và trải nghiệm riêng<br />
mình, kết hợp với lối văn phong cố hữu và<br />
ngòi bút sắc sảo, Einstein tự soi rọi cho độc giả<br />
thấy cái nhìn của ông về chính bản thân ông.<br />
Điều này thể hiện rõ nét ở phần một – Thế<br />
<br />
Sinh viên Khoa XHH-CTXH-ĐNA, Trường Đại học Mở TP.HCM. Email: tunguyenxhh@gmail.com<br />
<br />
112<br />
<br />
GIỚI THIỆU SÁCH<br />
<br />
giới như tôi thấy, cũng là chương dài nhất với<br />
30 chủ đề khác nhau – khi ông cho rằng con<br />
người sống trong mối tương quan với người<br />
khác, được nối kết bằng sợi dây cảm thông.<br />
Điều này có phần mâu thuẫn với việc ông nhận<br />
rõ giới hạn của sự đồng cảm và hòa hợp với<br />
người khác của mình. “Cảm giác xa lạ khôn<br />
dứt và nhu cầu được cô đơn” là cảm thức ám<br />
ảnh thường trực đối với ông. Tuy thế sự dấn<br />
thân nhiệt thành và ý thức sâu sắc về tự do,<br />
quyền con người vẫn là minh chứng sống động<br />
cho lý tưởng của ông. Mỗi người cần có lý<br />
tưởng riêng để trả lời cho câu hỏi về sự tồn tại<br />
của mình. “Lý tưởng soi đường” và luôn làm<br />
Einstein “dâng đầy cảm khái yêu đời” là<br />
“Chân, Thiện, Mỹ”. Đối với ông, kẻ không<br />
biết đến ý nghĩa cuộc đời mình qua lý tưởng là<br />
kẻ “không những chỉ bất hạnh mà còn hầu như<br />
không thể sống được”. Theo đuổi vật chất và<br />
sự yên ấm cá nhân bị Einstein đả kích quyết<br />
liệt như một “lý tưởng của bầy lợn”. Nếu<br />
không có sự “đau đáu với cái khách quan, cái<br />
mãi mãi không vươn tới được trong lĩnh vực<br />
nghệ thuật và nghiên cứu khoa học” thì cuộc<br />
đời ông có lẽ đã trống rỗng như cái nền tảng<br />
luân lý mà ông lên án. Các tư tưởng chủ đạo<br />
sau đó khi bàn về Giá trị đích thực của một<br />
con người, Về của cải, Cộng đồng và cá thể,<br />
Tốt và xấu đều thấm đẫm tinh thần này. Con<br />
người được xác định giá trị bởi việc “anh ta đã<br />
đạt đến chỗ giải phóng cái Tôi đến mức độ nào<br />
và theo nghĩa gì”, vậy nên của cải “không thể<br />
đưa nhân loại tiến lên được”. Với Einstein, chỉ<br />
có cá thể đơn lẻ mới vượt lên soi đường cho<br />
cộng đồng, tuy tính độc lập ấy không thể tách<br />
khỏi cộng đồng. Vấn đề tốt hay xấu cũng nằm<br />
ở đó: nâng cao phẩm giá con người, hướng tới<br />
tri thức là căn cứ rõ ràng nhất cho việc đánh<br />
giá một con người.<br />
Trong Nhà nước và lương tâm cá nhân,<br />
Chủ nghĩa Phát xít và khoa học, Về tự do học<br />
thuật, Đạo nghiên cứu, Sự cần thiết của văn<br />
hóa đạo đức và Những biện pháp của tòa án dị<br />
giáo tân thời, Einstein quay trở về sự tự do, tri<br />
thức và đạo đức – vốn là lý tưởng ông luôn<br />
hướng tới. Tri thức, hiểu biết được ông nâng<br />
lên thành một “đạo” riêng, đó là “sự kinh ngạc<br />
ngất ngây trước sự hài hòa của tính quy luật tự<br />
nhiên, nơi tỏa rạng một lý tính ưu việt […]<br />
vượt qua cõi nô lệ của tham vọng cá nhân”.<br />
<br />
Đẹp đẽ làm sao ánh hào quang vĩnh hằng ấy!<br />
Bàn về Tôn giáo và khoa học, Einstein khẳng<br />
định “Đạo vũ trụ là động lực mạnh mẽ nhất và<br />
cao quý nhất của nghiên cứu khoa học”, trong<br />
thời đại duy vật chất này chỉ có “những nhà<br />
nghiên cứu nghiêm chỉnh mới là những người<br />
duy nhất có tín ngưỡng sâu xa”. Đây hẳn là<br />
quan điểm có tính cách mạng đối với định kiến<br />
về sự đối đầu giữa khoa học và tôn giáo, là<br />
động lực cho sự tự do thanh khiết của khoa<br />
học. Tri thức không thể làm nô lệ cho bất kỳ<br />
quyền lực nào, cũng chẳng có tòa án dị giáo<br />
nào có quyền bắt nhà khoa học lên tiếng. Nếu<br />
bị ép buộc, con đường Einstein đưa ra là “phải<br />
hy sinh những lợi ích cá nhân cho những lợi<br />
ích văn hóa của đất nước”, nói thực tế hơn là<br />
“phải sẵn sàng chịu giam cầm và kiệt quệ về<br />
kinh tế”. Vì nếu viện lý do bị cưỡng chế, trách<br />
nhiệm cá nhân chỉ giảm đi chứ không thể bị<br />
tiêu hủy. “Đạo lý không phải là một sự vụ của<br />
Thượng đế mà thuần túy là một sự vụ của con<br />
người”.<br />
Giáo dục cũng là một trong những lĩnh<br />
vực Einstein quan tâm khi đề cập tới Các khóa<br />
đào tạo ở Davos hay chuyện Giáo dục tư duy<br />
độc lập, Giáo dục và nhà giáo. Điều này cũng<br />
thể hiện trong hai bài phát biểu Gửi các em<br />
học sinh Nhật Bản, Thầy và trò. Theo ông,<br />
công việc trí tuệ nếu thực hiện điều độ và đúng<br />
cách sẽ “mang lại sự phong phú tâm hồn cho<br />
thật nhiều con người đáng quý”, giải phóng sự<br />
ù lì yếu ớt về mặt tinh thần. Việc học hỏi<br />
những nhân cách cao cả cũng là một phương<br />
cách giáo dục. Einstein ngưỡng mộ A. Lorentz<br />
như một người thầy ngoại hạng mà ông gọi là<br />
“con người vĩ đại và cao quý nhất thời đại<br />
chúng ta” trong các tiểu luận và bài phát biểu<br />
trước mộ Lorentz. Các nhân vật khác có ảnh<br />
hưởng đến Einstein như Josef PopperLynkeus, George Bernard Shaw, nhà triết học<br />
lỗi lạc Bertrand Russell hay người bạn thân<br />
Arnold Berliner đều nhận được sự kính trọng<br />
gần như tương tự.<br />
Ở phần hai – Chính trị và chủ nghĩa<br />
hòa bình – quan điểm cũng như các giải pháp<br />
Einstein đưa ra nhằm thiết lập một nền hòa<br />
bình dân chủ toàn cầu thực sự là một cuộc<br />
cách mạng. Trong tình hình thế giới lúc bấy<br />
giờ, khi chiến tranh thế giới thứ nhất mới kết<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 4 (37) 2014<br />
<br />
thúc, chủ nghĩa Phát xít đang lên ngôi và lăm<br />
le phát động một cuộc chiến toàn cầu thứ hai,<br />
Einstein lại kiên quyết bảo vệ quan điểm giải<br />
trừ quân bị từ gốc rễ tinh thần, phản đối nghĩa<br />
vụ quân sự, giải tán các đội quân, loại trừ chủ<br />
nghĩa dân tộc cực đoan đi kèm lòng yêu nước<br />
mù quáng và thiết lập một liên kết quốc tế hợp<br />
tác lâu dài, hiệu quả. Tín niệm chính trị của<br />
ông là “Nhà nước tồn tại vì con người, chứ<br />
không phải con người tồn tại vì nhà nước”. Đó<br />
không phải một công thức mới. Từ rất lâu<br />
chúng đã “được khắc ghi bởi những ai xem<br />
nhân cách con người như một giá trị cao quý<br />
nhất có tính người”. Nỗ lực của ông còn thể<br />
hiện ở hành động kêu gọi sự liên kết giữa<br />
những nhà khoa học trên thế giới về Việc hợp<br />
tác trí tuệ quốc tế. Thư gửi Sigmund Freud và<br />
Ba bức thư gửi tới người yêu chuộng hòa bình<br />
cũng không nằm ngoài những hành động thực<br />
tế này. Hoạt động của Tòa án Trọng tài và Hội<br />
Quốc Liên khi đó chỉ như một “phòng họp”,<br />
“không có phương tiện để thực thi các quyết<br />
định của mình” và cũng “không đảm bảo được<br />
an ninh cho bất cứ quốc gia nào trong trường<br />
hợp bị tấn công”. Rõ ràng sự thiếu hiệu quả<br />
của các tổ chức quốc tế, sự nửa vời của các lời<br />
cam kết và hiệp định đã không thể làm vừa<br />
lòng Einstein. Ông nhấn mạnh đến một Chủ<br />
nghĩa hòa bình tích cực mà ở đó, cuộc chạy<br />
đua vũ trang phải dừng lại, sự cộng sinh giữa<br />
các dân tộc phải đạt đến cấp độ mới: từ giải<br />
phóng cá nhân ra khỏi cái tôi vị kỉ đến phá vỡ<br />
gông xiềng của “thói ích kỷ của giai cấp và<br />
dân tộc mình”.<br />
Trong cuộc đấu tranh chống Chủ<br />
nghĩa Quốc xã của Einstein – phần ba cuốn<br />
sách, người ta thấy một trong những cái giá<br />
ông đã phải trả cho hành động chống chính<br />
quyền Phát xít Đức: Thư từ trao đổi với Viện<br />
Hàn lâm Khoa học Phổ mà trong đó Viện<br />
công khai đứng lên chống lại ông, quy kết<br />
những hành động đấu tranh phân biệt chủng<br />
tộc và nền chính trị độc tài của Einstein là “các<br />
hoạt động bôi nhọ”. Thế nhưng Einstein tuyên<br />
bố rõ ràng “tôi chưa bao giờ tham gia vào hoạt<br />
động bôi nhọ, và tôi phải nói thêm rằng tôi<br />
chưa bao giờ nhìn thấy chuyện bôi nhọ đó ở<br />
bất cứ đâu”. Với ông, “tình trạng của nước<br />
Đức hiện nay là tình trạng của bệnh tâm thần<br />
tập thể” – một cách ví von sâu cay nhưng<br />
<br />
113<br />
<br />
không thể không đúng hơn. Nước Đức đã mất<br />
lý trí sáng suốt, “nền văn minh đang bị lâm<br />
nguy” và những hành động chống đối của<br />
Einstein là nhằm để “ngăn ngừa không cho lan<br />
tràn hơn nữa cái cơn hoang tưởng tập thể này”,<br />
Viện Hàn lâm Khoa học Phổ đã cho rằng phe<br />
mà Einstein đang đứng cùng một chiến tuyến<br />
là “cái phe mà – phần nào chắc chắn là do<br />
không hiểu biết về các hoàn cảnh và sự kiện<br />
thực tế – đã gây nhiều tổn thất cho dân tộc<br />
Đức chúng ta qua việc loan truyền những quan<br />
điểm sai trái và những lời đồn đại vô căn cứ”.<br />
Xu hướng chính trị vào thời điểm này của Đức<br />
hầu như chẳng che giấu được nữa: một cuộc<br />
diệt chủng Do Thái tận gốc và tham vọng bành<br />
trướng chế độ Phát xít trên quy mô toàn cầu.<br />
Quả thật, những bức thư đậm mùi dân tộc cực<br />
đoan và cáo buộc vô căn cứ của Viện càng<br />
chứng tỏ việc từ chức của Einstein “là đúng<br />
đến nhường nào”. Thêm nữa, “nhiệm vụ hàng<br />
đầu của các viện hàn lâm là khuyến khích và<br />
bảo vệ đời sống khoa học của một đất nước”.<br />
Giới học giả Đức lúc đó không chỉ ngậm tăm<br />
mà thậm chí một số thành phần còn ủng hộ bộ<br />
máy chính trị ngông cuồng của thủ tướng A.<br />
Hitler. Việc xảy ra còn ảnh hưởng đến mối<br />
quan hệ của ông với Viện Hàn lâm Bayern và<br />
các viện khoa học trên toàn nước Đức.<br />
Phần cuối Einstein viết về Các vấn đề<br />
Do Thái – cũng là nói về chủng tộc của mình.<br />
Ông bày tỏ cái nhìn sâu sắc về vấn đề Do Thái<br />
đang nóng bỏng lúc bấy giờ. Dân tộc Do Thái<br />
được xem là “dân riêng” được tuyển chọn của<br />
Chúa. Họ có những truyền thống cổ xưa với<br />
các nghi lễ được gìn giữ nghiêm ngặt. Sự đào<br />
sâu tri thức và “mưu cầu tri thức vì bản thân tri<br />
thức” cũng như “tình yêu hầu như sùng bái đối<br />
với công lý, lòng khao khát độc lập cá nhân”<br />
được xem là cội nguồn của Lý tưởng Do Thái.<br />
Nhiều trí tuệ vĩ đại có gốc gác Do Thái đã góp<br />
phần khai sáng nền văn minh nhân loại trong<br />
suốt chiều dài lịch sử. Điều này khiến Einstein<br />
cảm thấy việc thuộc về dân tộc đó “như là một<br />
quà tặng của số phận”. Đối với Einstein, sự tàn<br />
sát điên cuồng của chế độ Hitler được xem<br />
như sự diệt vong công lý và sự thật, phản lại lý<br />
tưởng về lý trí và tự do cá nhân nhằm dựng lên<br />
một nhà nước phi tinh thần – “một nhà nước<br />
nô dịch bằng bạo lực”. Thế giới quan Do Thái<br />
thuần khiết hơn những chồng chất văn tự. Đó<br />
<br />
114<br />
<br />
GIỚI THIỆU SÁCH<br />
<br />
là một giáo lý tinh ròng – vượt lên trên khái<br />
niệm tôn giáo – đòi hỏi “một sự thánh hóa đời<br />
sống theo nghĩa siêu nhân tính”. Thực thế, Do<br />
Thái giáo không tự cho mình siêu việt như<br />
nhiều người vẫn nghĩ, trái lại, “nó bận tâm đến<br />
đời thường của chúng ta và có thể nắm bắt đời<br />
sống đến một mức độ nào đó”. Sự kêu gọi về<br />
phía cộng đồng Do Thái của Einstein tập trung<br />
vào mục tiêu tập hợp các nhóm Do Thái phân<br />
tán lại, xây dựng nên một Cộng đồng Do Thái,<br />
tiến tới Khôi phục dân tộc Do Thái. Có như<br />
thế, Chủ nghĩa bài Do Thái mới có thể bị loại<br />
trừ. Ở vị trí này, người ta thấy trổi vượt lên lời<br />
kêu gọi của một lãnh tụ hơn là của một nhà<br />
khoa học. Einstein đã từ chối chức Tổng thống<br />
Israel khi được thủ tướng David Ben-Gurion<br />
đề nghị vào năm 1952.<br />
<br />
Những quan điểm cũng như thế giới<br />
quan của Einstein, tuy đã trải qua nhiều thập<br />
niên nhưng vẫn còn nguyên vẹn tính lịch sử và<br />
giá trị. Tự ngôn của ông là lời xác tín về tự do<br />
con người, về một nền hòa bình đích thực. Có<br />
lẽ Einstein đã thấy trước cuộc diệt chủng kinh<br />
hoàng và sự vươn rộng những cái vòi bạo tàn<br />
của chế độ Phát xít. Có thể xem ông như người<br />
cầm đuốc soi đường cho nhân loại trong những<br />
thời khắc lịch sử đen tối này. Những tư tưởng<br />
táo bạo của Einstein về giải trừ quân bị hay<br />
chủ nghĩa quân sự thực sự cần chờ tương lai<br />
phán quyết. Tuy thế, một điều chắc chắn là lý<br />
tưởng cao quý vươn tới tri thức và sự đấu<br />
tranh không mệt mỏi cho hòa bình, công lý, tự<br />
do và sự thật của ông mãi mãi được lịch sử<br />
ghi nhận.<br />
<br />
THỂ LỆ GỬI BÀI<br />
1. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Mở TP.HCM đăng những bài báo khoa học, các công trình<br />
nghiên cứu khoa học, thông tin khoa học, trao đổi học thuật trong các lĩnh vực. Ngoài các bài báo<br />
mang tính chất đặt hàng của Tạp chí Khoa học, các thông tin khoa học, các trao đổi học thuật, tất<br />
cả các bài báo khoa học đều được phản biện khoa học và thông qua Hội đồng Biên tập.<br />
2. Bài báo khoa học thông thường không quá 15 trang đánh máy vi tính. Những bài báo dài hơn sẽ<br />
được xem xét nếu có chất lượng khoa học cao, có đóng góp lớn về lý thuyết và ứng dụng. Toàn<br />
bộ bài báo khoa học sử dụng phông chữ Time New Roman, kiểu gõ Unicode, cỡ chữ 12, trên khổ<br />
giấy 190x270 mm.<br />
3. Ban Biên tập chỉ nhận những bản in rõ ràng, hình vẽ rõ nét, có file gởi kèm theo bản in. Các công<br />
thức Toán học dùng phần mềm Microsoft Equation 3.0, công thức hóa học dùng phần mềm<br />
ACD/ChemSchetch hoặc Science Helper for Word (được canh ở giữa trang, có đánh số liên tục),<br />
hình vẽ được định dạng .PNG, .JPG, .WMF có chú thích ở phía dưới (kèm số thứ tự tài liệu tham<br />
khảo dẫn nguồn, nếu có), tên hình ảnh biểu đồ ở phía trên.<br />
4. Bài báo khoa học phải bao gồm các nội dung như sau: (1) Tóm tắt bằng tiếng Việt và tiếng Anh.<br />
Mỗi tóm tắt không quá nửa trang đánh máy (khoảng 400 từ, nêu khái quát về mục đích, phương<br />
pháp, kết quả đạt được, kết luận kiến nghị), cuối phần tóm tắt có từ khóa (không quá 5 từ); (2)<br />
Đặt vấn đề (tóm tắt dạng tổng quan tình trạng nghiên cứu trong nước và ngoài nước, nêu tính thời<br />
sự và phát triển mục tiêu của nghiên cứu; (3) Phương pháp nghiên cứu (nêu phương pháp sử dụng<br />
để giải quyết các mục tiêu nghiên cứu, cơ sở khoa học được kế thừa vận dụng, giải pháp được sử<br />
dụng để tiếp cận nghiên cứu); (4) Kết quả nghiên cứu; (5) Thảo luận; (6) Kết luận (đối chiếu mục<br />
tiêu đã đề ra). (7) Tài liệu tham khảo.<br />
5. Trích dẫn: Khi trích dẫn ý tưởng hoặc nguyên văn của một tác giả nào đó cần phải chú dẫn tên tác<br />
giả, Năm xuất bản, trang (nếu trích nguyên văn) của nguồn tài liệu tham khảo và phải liệt kê<br />
trong danh mục tài liệu tham khảo phần cuối bài báo.<br />
Ví dụ: …Larsen (1971) hoặc … (John 2008, p.78).<br />
6. Phần tài liệu tham khảo: Tác giả phải liệt kê tất cả các tài liệu được sử dụng trong quá trình viết.<br />
Tạp chí thống nhất cách ghi tài liệu tham khảo như sau:<br />
Đối với sách<br />
Họ tác giả, Chữ cái viết tắt tên tác giả (nếu là tác giả nước ngoài - Họ tên tác giả, nếu tác giả<br />
trong nước) Năm xuất bản, Tên sách, Lần xuất bản, Nhà xuất bản, Nơi xuất bản.<br />
Ví dụ: Jones, B 1995, Sleeper, Wake!: technology and the future of work, 4th edn, Oxford<br />
University Press, Melbourne.<br />
Đối với bài báo<br />
Họ tác giả, Chữ viết tắt tên tác giả (nếu là tác giả nước ngoài - Họ tên tác giả nếu là tác giả<br />
trong nước) Năm xuất bản, ‘Tiêu đề bài báo’, tên Tạp chí, ngày tháng hoặc số báo, số trang.<br />
Ví dụ: Nguyễn Minh Hà, Huỳnh Gia Xuyên, Huỳnh Thị Kim Tuyết & Lý Duy Trung 2013,<br />
‘Lý do chọn Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh để học cao học’, Tạp chí khoa học<br />
Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, số 5(33), tr.73-82.<br />
Danh mục tài liệu được xếp theo thứ tự ABC (theo họ nếu là tác giả nước ngoài, theo tên nếu<br />
là tác giả trong nước).<br />
7. Tạp chí không trả lại bản thảo nếu bài không được duyệt đăng hoặc không đúng qui định.<br />
8. Cuối bài ghi rõ: Họ tên, địa chỉ, điện thoại, Email và chữ ký của tác giả (trên bản in).<br />
9. Thư từ, bài viết gởi về Tạp chí theo địa chỉ:<br />
Phòng Hợp tác và Quản lý khoa học (107B)<br />
97 Võ Văn Tần, Phường 6, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh<br />
Điện thoại: 08-39.306.539.<br />
Email: tapchikhoahoc@ou.edu.vn hoặc tckhoahoc.ou.edu@gmail.com<br />
<br />
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn