BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TỂ * * * * * * * * * * * * *

TRẦN THANH DŨNG THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG

TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA

THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Ở VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ XHCN Mã số: 5. 02. 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:

TS. NGUYỄN VĂN LUÂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Năm 1999

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, chƣa từng đƣợc công bố

trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác; các số liệu, tài liệu sử dụng trong luận án đều

trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Tác giả TRẦN THANH DŨNG

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1

CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỨC LAO ĐỘNG VÀ THỊ TRƢỜNG SỨC LAO ĐỘNG ............................................................................................................................... 8

1.1. Đặc điểm và vai trò của sức lao động ............................................................................. 8

1.1.1. Đặc điểm chung của sức lao động. ........................................................................... 8

1.1.2. Vai trò của sức lao động. .......................................................................................... 9

1.2. Tính chất hàng hóa của sức lao động ............................................................................ 14

1.2.1. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa. ...................................................... 14

1.2.2. Thực chất của việc mua - bán sức lao động............................................................ 16

1. 2. 3. Giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa sức lao động ........................................... 18

1.3. Vị trí, đặc điểm và vai trò của thị trƣờng sức lao động nói chung ................................ 19

1.3.1 Vị trí của thị trƣờng sức lao động trong nền kinh tế thị trƣờng. .............................. 19

1.3.2. Đặc điểm chung của thị trƣờng sức lao động. ........................................................ 21

1.3.3. Vai trò của thị trƣờng sức lao động ........................................................................ 23

1.4. Một số vấn đề liên quan đến thị trƣờng sức lao động ................................................... 26

1.4.1. Sự xuất hiện và phát triển của thị trƣờng sức lao động trong lịch sử các nền kinh tế. ...................................................................................................................................... 26

1.4.2. Trạng thái cung - cầu sức lao động. ........................................................................ 27

1.4.3. Quan hệ lao động .................................................................................................... 33

1.4.4. Vấn đề bóc lột sức lao động. .................................................................................. 40

1.4.5 Xu hƣớng di chuyển lao động. ................................................................................ 41

1.4.6. Giáo dục đào tạo và thị trƣờng đào tạo. .................................................................. 44

1.4.7. Việc làm và vấn đề thất nghiệp. ............................................................................. 47

1.4.8. Xu hƣớng hợp nhất và phân hóa trên thị trƣờng sức lao động. .............................. 54

1.4.9. Vai trò Nhà nƣớc đối với thị trƣờng sức lao động .................................................. 56

Kết luận chương 1: ............................................................................................................. 59

CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƢỜNG SỨC LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM .................................................................................................... 60

2. 1. Quá trình hình thành thị trƣờng sức lao động ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử ........ 60

2.1.1. Thị trƣờng sức lao động trƣớc Cách mạng tháng Tám. .......................................... 60

2.1.2 Thị trƣờng sức lao động thời kỳ 1954 -1975. .......................................................... 61

2.1.3. Thị trƣờng sức lao động trong bƣớc chuyển sang kinh tế thị trƣờng. .................... 64

2.2. Thực trạng của thị trƣờng sức lao động ở Việt Nam hiện nay ...................................... 72

2.2.1. Thực trạng về nguồn cung sức lao động. ................................................................ 72

2.2.2. Nhu cầu sức lao động ngày càng tăng và không ổn định. ...................................... 85

2.2.3. Nạn thất nghiệp do tình trạng cung vƣợt cầu. ......................................................... 89

2.3. Thực trạng về quản lý nhà nƣớc đối với thị trƣờng sức lao động ở Việt Nam ............. 96

2.3.1. Về quản lý lao động. ............................................................................................... 96

2. 3. 2. Giải quyết tranh chấp lao động. ............................................................................. 99

2.3.3. Quản lý các Trung tâm dịch vụ việc làm. ............................................................. 104

2.3.4 Quản lý tiền lƣơng và bảo hiểm xã hội. ................................................................. 105

2.4. Tình hình thất nghiệp và các giải pháp về thị trƣờng sức lao động trên thế giới ........ 112

2.4.1. Tình hình thất nghiệp trên thế giới. ...................................................................... 113

2.4.2. Một số giải pháp áp dụng ở thị trƣờng sức lao động của các nƣớc. ..................... 115

Kết luận chương 2: ........................................................................................................... 123

CHƢƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG SỨC LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM ............................................................................................................................ 124

3.1. Thị trƣờng sức lao động trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội. ........................ 124

3.1.1. Nguồn nhân lực trong chiến lƣợc kinh tế - xã hội ở Việt Nam. ........................... 124

3.1.2 Các mục tiêu của chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội ở Việt nam đến năm 2020. ........................................................................................................................................ 126

3.2. Những giải pháp cho các bộ phận của thị trƣờng sức lao động ở nƣớc ta. ................. 132

3.2.1. Giải pháp phát triển thị trƣờng sức lao động ở nông thôn. ................................... 133

3.2.2. Giải pháp phát triển thị trƣờng sức lao động thành thị. ........................................ 139

3.2.3 Giải pháp cho thị trƣờng sức lao động liên thông với nƣớc ngoài. ....................... 142

3.3. Những giải pháp chung để thúc đẩy sự phát triển thị trƣờng sức lao động ở Việt Nam hiện nay .............................................................................................................................. 147

3.3.1. Các giải pháp thúc đẩy tăng cầu sức lao động, tạo việc làm. ............................... 148

3.3.2. Các giải pháp cải thiện nguồn cung sức lao động. ............................................... 155

3.3.3. Các giải pháp tạo điều kiện phát triển thị trƣờng sức lao động. ........................... 166

Kết luận chương 3: ........................................................................................................... 176

KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 177

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 180

MỞ ĐẦU

1. Sự cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.

Vấn đề sức lao động và thị trường sức lao động trong nền kinh tế nhiều thành phần

của nước ta hiện nay đang là mối quan tâm rộng rãi của các nhà nghiên cứu học thuật, giảng

dạy và cơ quan quản lý lao động. Cho đến nay, mặc dù vấn đề này đã được đề cập khá nhiều,

nhưng vẫn còn những nội dung chưa được nói đến một cách đầy đủ. Nghiên cứu đề tài này sẽ

có ý nghĩa trên nhiều phương diện về kinh tế, xã hội và về lý luận.

- Về phương diện kinh tế.

Làm rõ vai trò của sức lao động và thị trường sức lao động sẽ góp phần vào việc

nhận thức và phát huy nguồn vốn nhân lực tiềm tàng của đất nước, mở ra triển vọng gia tăng

việc làm và thu nhập, cải thiện sức mua, thúc đẩy đầu tư phát triển sản xuất, tăng tổng sản

phẩm xã hội và đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Giải quyết nạn thất nghiệp là một vấn đề đã được nghiên cứu, được khái quát về lý

luận và kiểm nghiệm trong thực tế. Vận dụng các học thuyết lành tế hiện đại, như học thuyết

nhấn mạnh chính sách "tăng cầu " hay học thuyết đề nghị chính sách "tiền lương linh hoạt",

Chính phủ các nước trên thế giới đã thực hiện các chính sách khác nhau để giải quyết nạn

thất nghiệp, sứ dụng hợp lý nguồn nhân lực xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bài

toán vẫn chưa thực sự được giải quyết một cách toàn diện và triệt để.

Sự cấp bách của việc nghiên cứu đề tài còn xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế là

cần phải khắc phục sự mất cân đối cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng sức lao động xã

hội, khắc phục sự bất hợp lý của tiền lương. Ở nước ta hiện nay,

1

tình trạng lao động nông nghiệp dư thừa và chiếm tỷ lệ lớn nhất trong cơ cấu lao động xã hội

sẽ dẫn đến xu hướng di chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, từ nông thôn ra

thành thị, trong khi đó trong công nghiệp do kỹ thuật mới được áp dụng cũng sẽ đưa đến tình

trạng dư thừa lao động... Đó là thực tế của thị trường sức lao động nước ta, đòi hỏi phải có

những giải pháp trước mắt cũng như lâu dài.

- Về phương diện xã hội - chính trị.

Việc làm và thu nhập không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội - chính trị,

bởi vì chúng ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống của người dân, liên quan trực tiếp đến tình

trạng nghèo đói và tệ nạn trong xã hội. Đối với một quốc gia đang phát triển, khi mà mức thu

nhập bình quân còn chưa cao thì việc đầu tiên để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo là làm thế

nào để người lao động có việc làm và thu nhập.

Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng CSVN lần thứ VIII đã xác định: Bảo đảm công ăn

việc làm cho người dân là mục tiêu xã hội hàng đầu, không để thất nghiệp trở thành căn bệnh

kinh niên trong xã hội.

Khi vai trò tích cực của thị trường sức lao động được khẳng định, cùng với vai trò

quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước được phát huy thì mục tiêu đó nhất định sẽ được thực

hiện. Ngoài ra, giải quyết tình trạng tranh chấp chủ thợ và đình công đang diễn ra hiện nay

cũng là những vấn đề chính trị - xã hội cần được quan tâm nghiên cứu.

- Về phương diện lý luận.

Điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi đã buộc tư duy của các nhà làm công tác nghiên

cứu lý luận phải đối diện với một vấn đề quan trọng: sự tồn tại và phát triển của các thành

phần kinh tế có tạo điều kiện kinh tế - xã hội cho hàng hóa sức

2

lao động và thị trường sức lao động hay không? Các nhà nghiên cứu thường dè dặt với khái

niệm "hàng hóa sức lao động ".

Việc phát triển lý luận "hàng hoá sức lao động" của Các Mác là rất cần thiết, trong

điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, có sự quản lý của Nhà nước, phát triển

theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề đặt ra là cần phát hiện tính quy luật chi phối quan

hệ giữa người và người trong việc mua bán và sử dụng sức lao động đang diễn ra trên thực

tế. Ngoài ra, thị trường sức lao động theo định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình chưa từ có

trong lịch sử, cần được làm rõ về mặt lý luận.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Karl Marx đã có công lao to lớn đối với kinh tế chính trị học, khi Người đi sâu nghiên

cứu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và xây dựng nên lý luận hàng hoá sức lao động. Đó

chính là sự nghiên cứu bước đầu đối với thị trường sức lao động nói chung.

Theo học thuyết của J.M. Keynes, cơ chế thị trường không thể bảo đảm sử dụng tối ưu

các yếu tố sản xuất, mà Nhà nước phải can thiệp nhằm làm gia tăng tổng cầu, hạn chế thất

nghiệp, khắc phục suy thoái kinh tế, lập lại thế quân bình.

Trong kinh tế học hiện đại, cả trường phái chính lẫn trường phái tự do mới đều đề

cập đến vấn đề thất nghiệp, đều thấy mối quan hệ giữa chống lạm phát với giảm thất nghiệp

nhưng với góc độ phân tích khác nhau. Trong "Kinh tế học" của David Begg và các cộng sự,

có một số nội dung liên quan cũng được trình bày thành các chương: phân tích thị trường lao

động, vốn nhân lực, vấn đề thất nghiệp. Tuy nhiên, những vấn đề trên đây còn có thể phát

triển hơn nữa.

Một số các giáo sư đại học ở Mỹ đã biên soạn một tác phẩm mang tên "Kinh tế học

lao động và những quan hệ lao động" được tái bản lần thứ chín vào

3

năm 1986 trong đó đề cập nhiều vấn đề về quan hệ lao động, thị trường sức lao động ở Mỹ,

nhưng tính khái quát về mặt lý luận thì chưa cao.

Ở Việt Nam, thị trường sức lao động và vấn đề giải quyết thất nghiệp cũng là đề tài

của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, đã phân tích bước đầu về thực trạng và giải pháp phát

triển loại thị trường này.

Trong những công trình nghiên cứu đó, tác phẩm "Thị trường lao động, thực trạng và

giải pháp", của Nguyễn Quang Hiển xuất bản năm 1995 là công phu. Tác giả đã đề cập tới

các yếu tố cung, cầu, tiền lương và đã phân tích cũng như đưa ra các giải pháp phát triển

từng bộ phận của thị trường sức lao động ở nước ta vào cuối những năm 90.

Ngoài ra, nhiều tác giả cũng đã nghiên cứu thị trường sức lao động, qua các bài viếi

írên các tạp chí: "Thị trường sức lao động - những mâu thuẫn và giải pháp" của Nguyễn Văn

Dần, đăng trên Tạp chí Lao động & Xã hội tháng 4/1996; "Thị trường lao động Việt nam,

thực trạng và định hướng phát triển" của Nguyễn Bá Ngọc, đăng trên Tạp chí Lao động &

Xã hội tháng 3/97; "Phân tích và dự báo thị trường lao động Việt Nam" của Kim Ngọc Trầm,

đăng trên Thông tin thị trường lao động số 10/1997; "Về sự tương thích của đào tạo nghề và

thị trường lao động" của Nguyễn Lê Minh, đăng trên Tạp chí lao động & Xã hội, tháng 8/98;

"Thị trường sức lao động - thực trạng và giải pháp" của Hà Quý Tình, đăng trên Tạp chí Lao

động & Xã hội tháng 10/1998...

Thêm nữa là các bài viết đề cập những nội dung có liên quan đến thị trường sức lao

động như là phân tích cung - cầu về sức lao động, vấn đề thất nghiệp, đào tạo nghề, giải

quyết lao động dư thừa ở nông thôn,... Tất cả đều là những tài liệu tham khảo có ích cho bản

luận án này và nhiều ý tưởng được trình bày ở đây là kết quả của sự tổng hợp các bài viết ấy

4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án Là sức lao động và thị trường sức lao động ở Việt

nam. Luận án sẽ tập trung vào những vấn đề lý luận và thực tiễn của sức lao động và thị

trường sức lao động để làm rõ hơn về mối quan hệ lao động dưới tác động của các quy luật

kinh tế thị trường, nhằm mục tiêu sử dụng hữu hiệu nquồn nhân lực và thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế

Đề tài luôn được đặt trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà

nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Các vấn đề nghiên cứu sẽ được

xem xét, đối chiếu với thực trạng của nền kinh tế, của một số địa phương và với những giải

pháp được áp dụng ở các quốc gia trên thế giới.

Để đảm bảo tính khoa học, luận án không thể không đề cập đến những tư tưởng kinh

tế phi mác-xít, nhưng có liên quan đến chuyên ngành kinh tế chính trị học và nền tảng rõ

ràng vẫn là những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

4. Mục đích nghiên cứu

Kế thừa có chọn lọc những kết quả của các nhà nghiên cứu, thông qua việc trình bày

chúng một cách có hệ thống, dựa trên cơ sở lý luận kinh tế học chính trị Mác - Lênin và thực

tiễn của nền kinh tế nước ta hiện nay, tác giả hy vọng rằng một số kết quả nghiên cứu của

bản luận án này sẽ góp phần làm rõ vấn đề lý luận về sức lao động và thị trường sức lao

động, một bộ phận không thể thiếu trong kinh tế học chính trị Mác - Lênin.

Không chỉ dừng lại ở mục đích hoàn thiện lý luận, luận án còn đưa ra những kiến

nghị và giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả và phát huy nguồn nhân lực, nhằm hoàn thiện

chính sách kinh tế - xã hội, để phát huy vai trò của sức lao động và thị trường sức lao động,

giải quyết tình trạng thất nghiệp đang là nóng

5

bỏng và thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế, trong bối cảnh của xu hướng toàn cầu hóa.

5. Những đóng góp của luận án

Luận án nghiên cứu một số vấn đề lý luận về đặc điểm, vai trò của sức lao động và thị

trường sức lao động trong nền kinh tế thị trường nói chung, nhằm mục đích nhận thức về

nguồn vốn nhân lực của một quốc gia.

- Luận án góp phần làm sáng tỏ thị trường sức lao động có sự quản lý của Nhà nước

theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong

giai đoạn phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay, góp phần làm rõ những chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

- Luận án sẽ phân tích làm rõ một số vấn đề có liên quan đến thị trường sức lao động.

Trong đó, đặc biệt là lý luận về quan hệ lao động trong tương quan với các mặt của quan hệ

sản xuất, sự tác động qua lại giữa quan hệ lao động với lực lượng lao động và với lực lượng

sản xuất nói chung.

- Luận án sẽ đưa ra những giải pháp thúc đẩy các bộ phận của thị trường sức lao

động và những giải pháp nhằm tăng cầu sức lao động, cải thiện nguồn cung nhân lực và tạo

điều kiện phát triển thị trường sức lao động ở nước ta, nhằm thực hiện mục tiêu phát huy

nguồn nhân lực dồi dào, tiềm tàng của đất nước.

6. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp chung là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch

sử. Thị trường sức lao động sẽ được xem xét một cách toàn diện, trong các mối liên hệ và tác

động lẫn nhau với các loại thị trường khác trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa tư duy biện

chứng khách quan với quan điểm lịch sử.

6

Phương pháp trừu tượng hóa khoa học được vận dụng để nghiên cứu thị trường sức

lao động với giả định tạm thời không xét đến sự tác động của các thị trường khác. Các giả

định cũng thường xuyên được giải tỏa khi xem xét ở góc độ, khía cạnh khác.

Phương pháp phân tích - tổng hợp cũng được vận dụng: Thị trường sức lao động sẽ

được phân tích thành các bộ phận với các đặc điểm riêng biệt và dược đánh giá một cách

tổng hợp để có thể hiểu chúng rõ ràng, đầy đủ hơn.

Phương pháp so sánh đối chiếu: đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn để tìm ra và giải

quyết mâu thuẫn; so sánh đối chiếu với một số kiến thức trong kinh tế học; so sánh đối chiếu

giữa thị trường sức lao động với các loại thị trường khác; so sánh đối chiếu với thị trường

sức lao động của các nước để tìm điểm tương đồng và khác biệt, đề tìm ra cái mới.

Ngoài ra, luận án còn vận đụng phương pháp phân tích số liệu, phương pháp hệ

thống hóa.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án sẽ được trình

bày thành ba chương như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về sức lao động và thị trường sức lao động.

Chương 2: Quá trình hình thành và thực trạng thị trường sức lao động ở nước ta.

Chương 3: Những giải pháp phát triển thị trường sức lao động ở Việt nam.

Các số liệu sử dụng trong luận án được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau như Niên

giám thống kê - Tổng cục Thống kế, số liệu của Bộ và các Sở Lao động -Thương binh - Xã

hội, số liệu điều tra và qua các tài liệu tham khảo.

7

CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỨC LAO ĐỘNG VÀ THỊ

TRƢỜNG SỨC LAO ĐỘNG

1.1. Đặc điểm và vai trò của sức lao động

Sức lao động là năng lực lao động của một con ngƣời cụ thể, là tổng hợp toàn bộ

những khả năng thể lực, trí lực và tâm lực (ý chí, quyết tâm) mà ngƣời đó có thể sử dụng để

tạo ra một ích lợi nào đó. Sức lao động xã hội bao gồm hai phần: một phần đƣợc sử dụng và

một phần còn tiềm năng. Lao động chính là việc sử dụng sức lao động của con ngƣời nhằm

tạo ra những vật phẩm có ích.

1.1.1. Đặc điểm chung của sức lao động.

Sức lao động tồn tại trong cơ thể con ngƣời nên gắn liền không thể tách rời với những

con ngƣời cụ thể, nó đƣợc lƣu chuyển do sự vận động của nhân lực trong xã hội.

Sức lao động tùy thuộc vào tuổi tác, giới tính, đặc điểm dân tộc, trình độ văn hóa,

trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sức khỏe... của từng ngƣời lao động. Một ngƣời nào đó muốn

lao động nhƣng thể lực yếu, trí lực kém thì không có đƣợc sức lao động hữu dụng.

Sức lao động sẽ đƣợc phát huy nếu việc sử dụng nó phù hợp với giới hạn tâm sinh lý

của từng cá nhân. Một ngƣời muốn lao động cả ngày không nghỉ nhƣng sức lao động không

cho phép. Do vậy, ngƣời lao động cần đƣợc nghỉ ngơi sau một thời gian lao động nhất định,

đƣợc đáp ứng những nhu cầu thiết yếu để tái sản xuất khả năng lao động mới.

8

Chất lƣợng sức lao động thể hiện ở năng suất lao động, ở trình độ tay nghề, kinh

nghiệm; tùy thuộc phần lớn vào quá trình giáo dục và đào tạo của ngƣời lao động, vào việc

chăm sóc sức khỏe và cả ý thức thái độ (tích cực, sáng tạo) của ngƣời lao động.

Sức lao động không thể dự trữ, để dành mà đòi hỏi phải đƣợc sử dụng thƣờng xuyên.

Nếu sức lao động không đƣợc sử dụng hoặc chƣa đƣợc sử dụng thì cũng phải tốn kém chi phí

nhất định để duy trì nó, để nuôi sống ngƣời lao động.

1.1.2. Vai trò của sức lao động.

Có thể thấy vai trò của sức lao động nói chung và vai trò của sức lao động với tƣ cách

là hàng hóa.

1.1.2.1. Sức lao động là một yếu tố cơ bản của sản xuất, là nguồn gốc của mọi của cải

vật chất.

Trong bất cứ nền sản xuất xã hội nào, sức lao động bao giờ cũng là một yếu tố cơ bản

của sản xuất, đồng thời là yếu tố tạo ra giá trị. Đó là thành phần hàng đầu của lực lƣợng sản

xuất, bởi vì quá trình sản xuất sẽ không thể tiến hành đƣợc nếu không có con ngƣời với khả

năng lao động phù hợp với yêu cầu.

Sức lao động là yếu tố sản xuất không thể thay thế. Ngày nay, cho dù máy móc hiện

đại có thể thay thế lao động giản đơn hay một số lao động phức tạp, nhƣng nó không thể thay

thế hoàn toàn sức lao động con ngƣời mà nó chỉ có thể làm giảm nhẹ lao động cho con ngƣời

mà thôi.

Sức lao động không phải là yếu tố sản xuất thụ động mà là một yếu tố sản xuất tích

cực, xuất phát từ bản chất của con ngƣời. Nó có khả năng chủ đạo đối với các yếu tố khác và

suy cho cùng chính sức lao động con ngƣời đã tạo ra mọi thứ của cải, kể cả khoa học và công

nghệ. Trong các thành phần của công nghệ gồm có kỹ thuật, nhân sự, thông tín, tổ chức thì

thành phần nhân sự là cơ bản, nhiều hơn cả thành phần vật chất.

9

Sức lao động còn là yếu tố sản xuất thích nghi, nhất là trong điều kiện kinh tế thị

trƣờng. Ngƣời lao động luôn có ý thức nâng cao chất lƣợng sức lao động, hoàn thiện khả

năng lao động của mình, phát huy khả năng sáng tạo để đạt năng suất lao động cao, chứ

không chịu ngủ im nhƣ hầm mỏ chờ ngƣời khai mác. Hơn nữa, trình độ lành nghề của ngƣời

lao động phải tƣơng xứng với trình độ khoa học công nghệ.

Một mặt, sức lao động phải đƣợc kết hợp một cách có hiệu quả với các yếu tố đầu vào

khác, phải đƣợc sử dụng hầu hết để nền kinh tế đạt đƣợc mức sản lƣợng đầu ra tối đa; mặt

khác, con ngƣời với sức lao động ấy lại là mục tiêu của phát triển kinh tế, đƣợc thừa hƣởng

những lợi ích do sản xuất phát triển.

Đối với các nhà sản xuất, sức lao động là biến số cơ bản của hàm sản xuất. Các doanh

nghiệp luôn phải lựa chọn sức lao động, tính toán năng suất lao động biên để xác định số lao

động thuê mƣớn, nhằm mục đích giảm chi phí và tối đa hóa lợi nhuận.

1.1.2.2. Sức lao động là nguồn vốn quan trọng của xã hội, của doanh nghiệp và của

cá nhân người lao động.

Với cái nhìn kinh tế thì con ngƣời với sức lao động của mình là nguồn vốn nhân lực

quan trọng, quí giá không chỉ đối với xã hội mà còn đối với các doanh nghiệp và đối với chủ

sở hữu nó là bản thân ngƣời lao động. Cơ sở kinh tế của quan điểm này là sức lao động có

khả năng sinh lợi, có khả năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó.

Vốn nhân lực có thể còn tiềm tàng và sẽ phát huy khi nguồn lợi của nó là sức lao động

đƣợc sử dụng hầu hết. Trong trƣờng hợp sau, số việc làm càng nhiều, thu nhập và khả năng

thanh toán - sức mua xã hội càng cao, thì nguồn lao động mới thực sự trở thành vốn nhân lực

quan trọng cho phát triển kinh tế. Nếu sức lao động nói riêng, nhân lực nói chung không đƣợc

sử dụng hoặc chƣa đƣợc

10

sử dụng thì không một lƣợng giá trị hay giá trị sử dụng nào đƣợc tạo ra từ đó, mà còn phải

tốn kém chi phí để nuôi sống ngƣời lao động, để "duy trì, bảo quản và dự trữ" sức lao động,

tạo ra gánh nặng cho nền kinh tế, thu nhập và khả năng thanh toán trong nền kinh tế tất yếu sẽ

suy giảm và những khoản chi phí để nuôi sống ngƣời lao động đến lúc trƣởng thành cũng

không đƣợc thu hồi. Do đó, để tránh sự lãng phí kép, cần sử dụng khả năng sinh lợi của sức

lao động, ƣu tiên hơn so với các với vật chất - tài nguyên hay vốn tiền tệ. (Theo một bản

nghiên cứu của ngân hàng thế giới, trong tổng số của cải của một quốc gia có 16% là cái vật

chất, 20% là vốn tự nhiên và 64% là vốn con người). Phát triển con ngƣời, phát huy vốn nhân

lực là điều kiện để khai thác và phát huy vốn vật chất - tài nguyên, để gia tăng sản lƣợng tiềm

năng của quốc gia, là điều kiện tiên quyết cho sự tăng trƣởng kinh tế của quốc gia.

Ngƣợc lại, ngƣời ta cũng thừa nhận rằng kinh tế có tăng trƣởng thì mới đảm bảo sự

phát triển con ngƣời, nếu nhƣ việc phân phối kết quả tăng trƣởng kinh tế đƣợc thực hiện một

cách hợp lý và công bằng. Tạo ra việc làm chính là chiếc cầu nối giữa tăng trƣởng kinh tế và

phát triển con ngƣời. Chỉ có thông qua việc tiếp cận những việc làm sinh lợi, đƣợc trả lƣơng

xứng đáng, có đƣợc thu nhập đáp ứng đƣợc nhu cầu tiêu dùng, sức lao động đƣợc tái tạo thì

con ngƣời mới thật sự trở thành tác nhân cho tăng trƣởng kinh tế. Đầu tƣ vào con ngƣời, đầu

tƣ cho vốn nhân lực sẽ làm cho quá trình ấy đƣợc diễn ra một cách thuận lợi.

Sức lao động vừa là vốn lƣu động vừa là vốn cố định của doanh nghiệp. Nó là vốn lƣu

động bởi vì giá trị của nó chuyển hoá ngay vào sản phẩm. Nó là vốn cố định bởi vì khả năng

sáng tạo vô tận của con ngƣời. Tuyển chọn đƣợc một đội ngũ lao động tốt, doanh nghiệp mặc

nhiên có đƣợc một lƣợng vốn cố định quan trọng. Mặt khác, qua việc tạo ra việc làm và thu

nhập cho xã hội, quan tâm đến

11

việc đào tạo công nhân, doanh nghiệp cũng góp phần phát triển nguồn vốn nhân lực của xã

hội một cách gián tiếp.

Là vốn của ngƣời lao động, họ và gia đình họ phải quyết định bỏ ra chi phí bao nhiêu

để đầu tƣ cho việc làm một cách có hiệu quả nhất, cân nhắc giữa chi phí đào tạo với thu nhập

dự định. Đồng thời, ngƣời lao động sẽ có ý thức tự hoàn thiện vốn sức lực của mình để có

đƣợc việc làm và có thu nhập cao hơn.

1.1.2.3. Sức lao động là một lợi thế kinh tế của các quốc gia có lực lượng lao động

đông đảo.

Lợi thế kinh tế của một quốc gia đƣợc thể hiện ra là những nguồn lực, những khả

năng, những ƣu thế riêng có, nhờ vào đó mà nền kinh tế của quốc gia ấy đƣợc phát triển một

cách thuận lợi.

Các quốc gia đang phát triển, với lực lƣợng lao động đông đảo, có thể xem sức lao

động là một lợi thế kinh tế, bởi vì giá cả sức lao động thấp do cung sức lao động nhiều hơn

cầu sức lao động. Với một mức năng suất lao động nhất định, tiền lƣơng thấp sẽ làm giảm

tƣơng đối giá thành sản phẩm, tạo ra khả năng cạnh tranh thuận lợi cho các sản phẩm trong

nƣớc, tạo lợi thế trong thu hút vốn đầu tƣ trực tiếp từ nƣớc ngoài. Một số nước phát triển

phương Tây đã phải lo lắng là các nước đang phát triển có lợi thế cạnh tranh do tiền công

lao động thấp, làm cho giá thành sản phẩm giảm thấp. Họ đã đòi hỏi một cách phi lý rằng

các nước đang phát triển phải tăng tiền lương ngang bằng với nước họ. Các nước đang phát

triển cho rằng họ trả tiền công phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, phù hợp với mặt bằng

giá cả tại nước mình.

Đối với các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, bên cạnh việc e ngại thuế cao, lãi suất cao, họ

luôn chú ý đến một mối lợi là khả năng giá thành thấp nhờ nhân công rẻ, nhất là khi họ có thể

dễ dàng thuê đƣợc lao động chất xám, lao động kỹ thuật

12

lành nghề có thể nắm vững công nghệ và có thể sử dụng những máy móc thiết bị hiện đại.

Tuy nhiên, lợi thế kinh tế không bất biến theo không gian và thời gian, do đó, phải

xem xét lợi thế so sánh trên nhiều phƣơng diện. Các công ty xuyên quốc gia lớn nhất trên thế

giới đều lấy châu Á làm mục tiêu trƣớc tiên cho đầu tƣ lâu dài, do tiềm năng phát triển to lớn

của thị trƣờng mới này, chứ không phải chỉ vì nhân công rẻ. Hơn nữa, cuộc cách mạng khoa

học công nghệ đã làm cho sản xuất ở các nƣớc phát triển trở nên ít hao tốn nguyên liệu và

nhân công nên phần nào làm giảm đi ý nghĩa của lợi thế về tài nguyên và nhân lực rẻ ở các

nƣớc đang phát triển và trong cơ cấu giá thành sản phẩm công nghiệp hiện nay, thành phần

có nguồn gốc chất xám trong giá trị hàng hóa thƣờng tăng lên 80 - 85% mà trƣớc đây chỉ có

khoảng 20 - 25%. Từ đó, để giảm giá thành, tối đa hóa lợi nhuận, xu hƣớng chung của các

doanh nghiệp trên thế giới không phải là sử dụng sức lao động rẻ với chất lƣợng thấp mà là

sẵn sàng thuê ngƣời có năng lực, có trình độ lành nghề phù hợp với công việc dù phải trả

lƣơng cao.

Việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động sẽ góp phần tạo ra nguồn thu nhập quan trọng và

khả năng thanh toán cho các nƣớc đang phát triển, nhƣng lại làm cho lợi thế sức lao động giá

rẻ sớm bị mất đi, vì giá cả sức lao động sẽ đƣợc bình quân hóa trên phạm vi thế giới.

Nhƣ vậy, đây là một lợi thế bất đắc dĩ, tạm thời của các quốc gia đang phát triển có

lực lƣợng lao động đông đảo, chỉ có thể phát huy nó trong giai đoạn trƣớc mắt mà thôi. Bởi vì

tiền lƣơng thấp có tác dụng thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài nhƣng ngƣời lao động lại bị thiệt, mức

sống của ngƣời lao động không cao, thu nhập thấp thì sức mua sẽ không đƣợc cải thiện, sản xuất cũng không phát triển đƣợc. Về lâu dài, để sức lao động thực sự là một lợi thế kinh tế ở

các nƣớc đang phát triển, thì ngƣời lao động phải đƣợc đào tạo tốt, trình độ lành nghề phải

đƣợc nâng

13

lên để đáp ứng yêu cầu của thị trƣờng sức lao động không chỉ trong nƣớc mà còn

ngoài nƣớc.

1.2. Tính chất hàng hóa của sức lao động

1.2.1. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.

Theo Karl Marx, sức lao động trở thành hàng hóa khi ngƣời lao động đƣợc tự do về

thân thể và không có tƣ liệu sản xuất. Marx nói: "Ngƣời công nhân làm thuê ngày nay bị ràng

buộc vào giới chủ không bằng xiềng xích mà bằng những sợi dây vô hình". Nhƣ vậy, trong xã

hội tƣ bản, ngƣời công nhân có quyền tự do bán sức lao động, nhƣng đó là sự lựa chọn duy

nhất của những nô lệ kiểu mới.

Điều kiện thứ nhất - "ngƣời lao động phải đƣợc tự do về thân thể" phản ánh một điều

kiện của sản xuất và trao đổi hàng hóa là sự tồn tại của chế độ tƣ hữu hay sự đa dạng của hình

thức sở hữu. Thật vậy, ngƣời có sức lao động phải đƣợc tự do về thân thể mới đảm bảo quyền

quyết định đối với sức lao động của mình, trên cơ sở tự nguyện "thuận mua vừa bán": bán

hay không bán, bán cho ai, giá cả bao nhiêu, điều kiện ra sao.

Điều kiện thứ hai - "ngƣời lao động không có tƣ liệu sản xuất" phản ánh điều kiện còn

lại của sản xuất và trao đổi hàng hóa là sự phân công lao động xã hội. Thật vậy, do không có

tƣ liệu sản xuất, khả năng sinh sống, tiềm năng duy nhất của ngƣời lao động chỉ còn lại là sức

lao động.

Từ đây, theo tác giả luận án, có thể nói rằng không thể nào loại bỏ tính chất hàng hóa

của sức lao động trong những nền sản xuất có phân công lao động xã hội, bởi vì không thể

xóa bỏ quyền tƣ hữu sức lao động của chính bản thân ngƣời lao động.

Điều kiện thứ hai có thể phát biểu mở rộng hơn là: ngƣời có sức lao động mong muốn

biến nó thành hàng hóa, nhƣ vậy, sẽ bao hàm cả trƣờng hợp ngƣời ấy

14

có vốn liếng tài sản, nhƣng do sự hấp dẫn của tiền công hay do nguyện vọng, sở thích muốn

làm việc theo một nghề nghiệp nào đó.

Nhƣ vậy, chỉ có trên cơ sở sản xuất hàng hóa, thì lao động bị tách khỏi tƣ liệu sản

xuất mới trở thành lao động làm thuê. Hai điều kiện trên đã phản ánh hai điều kiện của sản

xuất và trao đổi hàng hóa, nhƣng đó chỉ là xét về cung sức lao động. Mặc dù biết rằng cung

kích thích cầu, chúng ta hãy xét đến những điều kiện liên quan đến nhu cầu sử dụng sức lao

động. Sức lao động chỉ thực sự là hàng hóa nếu ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động

gặp nhau và đi đến thống nhất mua bán. Khả năng tạo ra ích lợi hay chất lƣợng của sức lao

động cũng là cơ sở để nó có thể trở thành hàng hóa.

Trƣớc hết là phải có những cá nhân hay chủ thể am hiểu chuyên môn ngành nghề, có

khả năng vốn liếng, mua sắm đƣợc tƣ liệu sản xuất, có nhu cầu sử dụng sức lao động để tiến

hành sản xuất; thêm nữa là sản xuất kinh doanh phải có triển vọng sáng sủa, nhu cầu tiêu

dùng và sức mua xã hội gia tăng. Ngoài ra là điều kiện về chủ trƣơng, chính sách của Nhà

nƣớc. Nếu nhà nƣớc ngăn cấm hay không cho phép mua bán sức lao động, không tạo điều

kiện hình thành thị trƣờng sức lao động thì sẽ khó diễn ra quan hệ trao đổi sức lao động.

Sức lao động trở thành hàng hóa thì hiệu quả sử dụng của nó sẽ đƣợc nâng cao, cái

chung và cái riêng sẽ đƣợc hài hòa. Cái chung đƣợc thể hiện ở chỗ sức lao động của ngƣời

lao động là một bộ phận của sức lao động xã hội, phải tham gia vào sự phân công lao động xã

hội, tùy theo khả năng và trình độ tay nghề của mình. Cái riêng thì thể hiện ra là ngƣời lao

động có quyền quyết định đối với sức lao động của bản thân mình: bán hay không bán, bán

cho ai, giá cả nhƣ thế nào, điều kiện ra sao.

15

1.2.2. Thực chất của việc mua - bán sức lao động.

Quan hệ trao đổi hàng hoá là quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong việc chuyển đổi

những vật phẩm hay dịch vụ cho nhau. Nói chung, trên một thị trƣờng nào đó, có thể phân

biệt hai dạng hoạt động: một là hoạt động mua bán giữa ngƣời mua hàng hóa với ngƣời sản

xuất, hai là hoạt động dịch vụ - thƣơng nghiệp, là hoạt động mua bán giữa ngƣời mua đƣợc

hàng hóa với ngƣời mua lại hàng hóa đó. Ngoài quan hệ hàng đổi hàng, khi kinh tế thị trƣờng

phát triển thì có các dạng trao đổi hàng hóa chủ yếu nhƣ sau:

+ Một là, quan hệ mua - bán hàng hóa - quan hệ trao đổi hàng hóa có một thành phần

tiền tệ và phải thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu cho nhau, bên mua có tiền và bên

bán có hàng.

+ Hai là, quan hệ thuê và cho thuê - quan hệ trao đổi quyền sử dụng vật phẩm với tiền

tệ, là quan hệ giữa bên cho thuê là chủ sở hữu vật phẩm với bên thuê có tiền muốn sử dụng

vật phẩm đó. Khi việc trao đổi đƣợc tiến hành, bên cho thuê vẫn giữ nguyên quyền sở hữu

đối với vật phẩm đó.

Karl Marx đã phân biệt lao động và sức lao động. Loại hàng hóa ngƣời công nhân bán

không phải là lao động mà là sức lao động.

Lao động là hoạt động có ý thức của con ngƣời làm biến đổi đối tƣợng tự nhiên, để

tạo ra sảo phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của bản thân con ngƣời và của

xã hội. Lao động là một khái niệm trừu tƣợng, là sự sử dụng sức lao động theo nghĩa chung

chung, không đề cập đến thời gian hay điều kiện cụ thể. Còn sức lao động thì cụ thể rõ ràng

với công việc lao động là gì, điều kiện làm việc ra sao, thời gian lao động trong ngày là bao

nhiêu, thời gian làm việc là bao lâu. Không thể nói mua bán lao động, mà chỉ có thể nói thuê

và cho thuê lao động mà thôi.

16

Mua bán sức lao dạng chính là mua bán quyền sử dụng sức lao động trong một

khoảng thời gian nào đó với giá cả và những điều kiện nhất định. Hàng hóa sức lao động là

một hàng hóa đặc biệt, có tính nhân văn, không giống bất cứ một loại hàng hóa thông thƣờng

nào. Tuy nhiên, mua bán sức lao động có điểm tƣơng đồng với mua bán quyền sử dụng vốn,

quyền sử dụng nhà đất là tính chất có thời hạn, có điều kiện và không chuyển giao quyền sở

hữu. Nhƣng do quyền sử dụng vốn thuần nhất nên việc mua bán không kén chọn chất lƣợng,

quyền sử dụng tách rời quyền sở hữu và đòi hỏi một sự đảm bảo nào đó bằng một khoản thế

chấp tƣơng ứng. Mua bán sức lao động không đòi hỏi thế chấp, dễ xảy ra trục trặc thay đổi

giữa chừng, không thể sang nhƣợng hay mua đi bán lại; ngƣời bán sức lao động không thoát

ly với sức lao động mà vẫn giữ quyền sở hữu nó, bởi vì ngƣời ấy chỉ bán quyền sử dụng sức

lao động. (Xem bảng 1) Việc chuyển nhƣợng cầu thủ bóng đá (đôi khi là một tỷ phú) hiện

nay không phải nhƣ là mua bán nô lệ khi xƣa: câu lạc bộ nhận về phải trả tiền để bù lại những

Bảng 1: So sánh các hình thức mua bán hàng hóa

thiệt hại của câu lạc bộ chuyển giao.

Loại hàng hóa Chuyển giao Yêu cầu thế Có thể bán hay sang

quyền sở hữu chấp nhƣợng lại

Hàng hóa thông thƣờng Có Không Có

Quyền sử dụng vốn Không Có Có

Quyền sử dụng nhà đất Không Có Không

Sức lao động Không Không Không

17

1. 2. 3. Giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa sức lao động.

+ Giá trị sử dụng của sức lao động là tính có ích, là công dụng của nó. Nếu sức lao

động là hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó còn là khả năng tạo ra một lƣợng giá trị mới lớn

hơn giá trị bản thân nó. Đây chính là cái mà ngƣời mua sức lao động quan tâm đến. Giá trị sử

dụng sức lao động không chỉ đáp ứng lợi ích của doanh nghiêp mà còn đáp ứng lợi ích xã hội

vì đó là điều kiện để phát triển kinh tế -xã hội.

+ Giá trị sức lao động là đại lƣợng thể hiện sự đánh giá của xã hội về chi phí để có

đƣợc sức lao động và về giá trị sử dụng của nó. Giá trị sức lao động là cơ sở của giá cả sức

lao động hay tiền lƣơng. Theo Karl Marx, giá trị sức lao động (xét về lƣợng) là giá trị những

tƣ liệu sinh hoạt cần thiết cho bản thân và gia đình của ngƣời lao động.

Cơ cấu giá trị của hàng hóa sức lao động bao gồm:

- Chi phí lao động sống đảm bảo tái tạo sức lao động cho ngƣời lao động.

- Chi phí tái tạo sức lao động cho xã hội: những chi phí tái đào tạo, chi phí bảo hiểm

xã hội, những chi phí để nuôi sống các thành viên trong gia đình ngƣời lao động.

- Chi phí quá khứ là những chi phí để nuôi sống ngƣời lao động đến lúc trƣởng thành,

những chi phí học tập, huấn luyện, đào tạo trƣớc đây. Ngƣời sử dụng lao động có thể lập luận

rằng xã hội và ngƣời mua sức lao động của bố mẹ của ngƣời lao động đã trang trải rồi. Tuy

nhiên, các doanh nghiệp có thể không ngần ngại bù đắp hay ứng trƣớc một phần của chi phí

đào tạo cho ngƣời lao động, nếu nhƣ nhờ đó mà chất lƣợng sức lao động đáp ứng đƣợc yêu

cầu sử dụng.

Giá trị sức lao động là cái kết tinh của lao động xã hội tất yếu, không chỉ để tạo ra mà

trƣớc hết là để tái tạo ra sức lao động cho ngƣời lao động và cho xã hội. Khi xác định giá trị

sức lao động, trƣớc hết phải đảm bảo sự tái tạo sức lao

18

động cho ngƣời lao động, sau đó là đảm bảo tái tạo sức lao động cho xã hội và sau cùng nếu

có thể đƣợc thì xét đến việc bù đắp những chỉ phí quá khứ đã đầu tƣ để có đƣợc sức lao động.

Theo xu hƣớng phổ biến trong xã hội, hai thành phần sau thƣờng bị lãng quên, hay chỉ tính

tƣợng trƣng, không đầy đủ trong giá trị (cũng nhƣ giá cả) sức lao động. Ngƣời sử dụng lao

động thì có lợi, còn ngƣời lao động bị thiệt thòi nhƣng đành phải chấp nhận. Trong thực tế,

giá trị sức lao động đã không đảm bảo sự tái sản xuất sức lao động xã hội đúng nghĩa, chƣa

đảm bảo đủ sống hay có tích lũy. Ngoài ra, việc xác định giá trị sức lao động phải tính tới yếu

tố lịch sử, xã hội, tinh thần... Nói đến yếu tố lịch sử chính là nói tới quá trình hình thành sức

lao động, đến chi phí đã đầu tƣ cho giáo dục đào tạo và nuôi sống ngƣời lao động để có đƣợc

sức lao động. Nói đến yếu tố xã hội là nói tới nhu cầu tiêu dùng của gia đình ngƣời lao động,

nói tới sự tƣơng quan về giá trị sức lao động giữa các ngành nghề... Các yếu tố hợp thành giá

trị của hàng hóa sức lao động còn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia nhƣ mức

sống trong xã hội, khí hậu, tập quán, đặc điểm văn hóa dân tộc...

1.3. Vị trí, đặc điểm và vai trò của thị trường sức lao động nói chung

1.3.1 Vị trí của thị trường sức lao động trong nền kinh tế thị trường.

Thị trƣờng sức lao động là tổng hợp tất cả các điều kiện khách quan và chủ quan nhờ

đó mà diễn ra quan hệ mua bán sức lao động giữa ngƣời lao động với các chủ thể sử dụng sức

lao động; đƣa đến việc xác định giá cả, số lƣợng, chủng loại của hàng hóa sức lao động.

Các điều kiện khách quan là những cơ sở vật chất cần thiết, sự chuyển dịch liên thông

giữa thị trƣờng trong nƣớc với thị trƣờng ngoài nƣớc, sự gia tăng

19

nguồn cung sức lao động về số lƣợng và chất lƣợng, sự phát triển nhu cầu sử dụng sức lao

động, sự tồn tại và phát huy vai trò của các trung tâm dịch vụ việc làm...

Các điều kiện chủ quan là sự nhận mức và hành vi của các chủ thể kinh tế, thể hiện ra

trƣớc hết là quan điểm, chủ trƣơng, chính sách, pháp luật và sự quản lý của nhà nƣớc đối với

thị trƣờng sức lao động; sau nữa là những ứng xử của ngƣời lao động và của ngƣời sử dụng

lao động nhằm tối đa hóa lợi ích của mình.

Thị trƣờng sức lao động có vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trƣờng hiện đại. Thị

trƣờng sức lao động là thị trƣờng yếu tố sản xuất, là một bộ phận tất yếu không thể thiếu

trong hệ thống các thị trƣờng. Hệ thống đồng bộ các trụ trƣờng đóng vai trò cơ sở hạ tầng của

nền kinh tế, chúng có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, làm tiền đề cho nhau trong nền

kinh tế thị trƣờng ngày càng phát triển, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội.

Thị trƣờng sức lao động không chỉ hình thành và phát triển trong mối quan hệ hữu cơ

với các thị trƣờng đầu vào khác nhƣ thị trƣờng vốn, thị trƣờng công nghệ, thị trƣờng tiền tệ...

mà còn quan hệ mật thiết cả với thị trƣờng hàng tiêu dùng. Chúng là điều kiện cho nhau, góp

phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế. Thật vậy, ngƣời ta trao đổi hàng tiêu dùng thực ra là trao

đổi lao động cho nhau; ngƣời lao động cũng là ngƣời tiêu dùng, nhu cầu và sức mua của họ

tùy thuộc vào mức thu nhập có đƣợc từ sức lao động của họ.

Thị trƣờng sức lao động có mối quan hệ mật thiết với thị trƣờng vốn, bởi vì vốn và

sức lao động là hai yếu tố cơ bản của sản xuất. Khi cung sức lao động tăng, giá cả sức lao

động giảm thì cầu về vốn tăng, sẽ kích thích gia tăng nguồn vốn đầu tƣ. Ngƣợc lại, khi cung

về vốn tăng, lãi suất giảm, nhu cầu đầu tƣ tăng thì nhu cầu sức lao động sẽ gia tăng.

20

1.3.2 Đặc điểm chung của thị trường sức lao động.

a) Cũng nhƣ thị trƣờng sản phẩm thông thƣờng, thị trƣờng sức lao động có nhiều dạng

theo vùng địa lý, theo những loại nhu cầu và nguồn cung sức lao động khác nhau. Nhƣ vậy,

tính đa dạng của thị dƣờng sức lao động đƣợc cho thấy ở sự phân đoạn về cung và cầu của

nó. Về cầu, có thể phân chia các lĩnh vực sử dụng sức lao động trong công nghiệp, nông

nghiệp và dịch vụ... về cung, cố thể phân biệt lao động phức tạp, lao động giản đơn...

Trên thị trƣờng sức lao động thành thị chính thức, cung sức lao động phức tạp, lao

động kỹ thuật, có trình độ, đáp ứng nhu cầu sức lao động của các công ty, doanh nghiệp lớn ỏ

thành thị. Trên thị trƣờng sức lao động thành thị không chính thức, cung sức lao động giản

đơn, đáp ứng nhu cầu sức lao động của các doanh nghiệp nhỏ, các cơ sở kinh tế gia đình ở

thành thị. Trên thị trƣờng sức lao động nông thôn, cung sức lao động nhàn rỗi theo mùa vụ,

đáp ứng nhu cầu sức lao động của các hộ gia đình, các cơ sở tiểu thủ công, các hợp tác xã... Ở

thị trƣờng sức lao động liên thông với nƣớc ngoài, cung sức lao động từ giản đơn đến tay

nghề cao, đáp ứng nhu cầu sức lao động đa dạng của các quốc gia thiếu nhân lực trên thế

giới.

Những bộ phận thị trƣờng ấy có quan hệ gán bó, đƣợc nối lại với nhau bởi sự lựa

chọn việc làm của ngƣời lao động và bởi sự lựa chọn sức lao động của doanh nghiệp. Những

sự lựa chọn ấy dẫn đến kết quả là sức lao động sẽ đƣợc chuyển dịch từ ngành này sang ngành

khác, từ nơi này sang nơi khác.

b) Thị trƣờng sức lao động không có mua đi bán lại đúng nghĩa, dù có thể có những

cai thầu sức lao động, mà chỉ chủ yếu là dịch vụ môi giới tuyển dụng và giới thiệu việc làm,

bởi vì sau khi bán sức lao động ngƣời lao động vẫn còn quyền sở hữu nó, sức lao động không

thể tách rời ngƣời lao động. Khác với hàng hóa

21

thông thƣờng, sức lao động không đƣợc trƣng bày tại những địa điểm bán lẻ, ngƣời bán

không dễ tiếp cận với ngƣời mua.

c) Đối với thị trƣờng sức lao động, sự khác biệt so với thị trƣờng hàng hóa thông

thƣờng là hàng hóa không đƣợc tiêu chuẩn hóa, nên khi lựa chọn, khó mà có thể đánh giá

chính xác, đầy đủ về năng suất, chất lƣợng và hiệu quả sử dụng của nó. Bởi vì không kể

những yếu tố nhƣ tuổi tác, giới tính, sức khỏe, quá trình đào tạo, kinh nghiệm làm việc thì

còn những yếu tố không thể đánh giá chính xác ngay nhƣ sự khéo léo, thông minh, nghị lực,

sự tích cực năng động trong công việc... mà phải thông qua sử dụng sức lao động trong công

việc.

d) Trong thị trƣờng sức lao động, phƣơng thức thông tin có nhiều hạn chế. Thông tin

thị trƣờng sức lao động là các số liệu đánh giá, lƣu trữ về cung và cầu việc làm, về những

thay đổi của cơ cấu việc làm, với yêu cầu về trình độ tay nghề và xu hƣớng tuyển dụng ở các

khu vực kinh tế, các ngành, các vùng khác nhau... Thông tin thị trƣờng sức lao động chậm

hơn rất nhiều so với các loại thị trƣờng khác và thƣờng không chính xác, thiếu tính tổng hợp

và bị thổi phồng. Do vậy, ngƣời lao động thƣờng không dễ gì tìm đƣợc việc làm phù hợp với

nguyện vọng và khả năng nghề nghiệp; sự can thiệp điều chỉnh của Nhà nƣớc đối với thị

trƣờng sức lao động luôn không kịp thời. Các doanh nghiệp thƣờng tiếp nhận khá nhiều số

ứng viên do thông tin tuyển dụng bị nhân lên một cách tự phát, khiến cho nhu cầu giả đối với

sức lao động trở nên phổ biến.

Trên thị trƣờng sức lao động, các Trung tâm dịch vụ việc làm không chỉ là cầu nối

giữa cung và cầu sức lao động, giữa ngƣời lao động với ngƣời sử dụng lao động, mà còn là

công cụ để tổ chức thị trƣờng, góp phần ngăn chặn tình trạng cò lao động hay các tụ điểm của

thị trƣờng sức lao động tự phát

e) Thị trƣờng sức lao động có tính chất không hoàn hảo vì sức mạnh vô hình của

ngƣời sử dụng sức lao động và cả của ngƣời lao động, khả năng chi phối

22

lƣợng cung sút lao động của công đoàn (ở một số quốc gia) và việc ẩn định tiền lƣơng tối

thiểu của Nhà nƣớc... Trên thị trƣờng sức lao động, sức ép thƣờng xuyên của thất nghiệp có

thể làm lợi cho các doanh nghiệp, nhƣng lại gây bất lợi cho xã hội và cho ngƣời lao động.

Ngƣời lao động luôn rơi vào vị trí yếu thế, rất khó kiếm đƣợc việc làm nếu chất lƣợng sức lao

động của mình không cao, thƣờng thua thiệt khi mặc cả với ngƣời sử dụng sức lao động. Khả

năng kén chọn công việc, đặt điều kiện trong hợp đồng lao động hay rời khỏi việc làm của

ngƣời lao động tùy thuộc vào tình hình thất nghiệp; khả năng chuyên môn, trình độ tay nghề;

vào các khoản thu nhập nhƣ phúc lợi xã hội, trợ cấp thất nghiệp, tiền lời tiết kiệm... Trong khi

đó, các doanh nghiệp có thể lựa chọn ngƣời lao động có chất lƣợng trong số ứng viên dƣ thừa

một cách dễ dàng và luôn có tiếng nói ƣu thế khi nêu lên mức tiền lƣơng với những điều kiện

tƣơng ứng cùng với những điều kiện không trả lƣơng. Các doanh nghiệp có thể chèn ép ngƣời

lao động, thƣờng yêu cầu cao về trình độ ngƣời lao động, chọn những ngƣời lao động đa

năng vƣợt quá yêu cầu, gây lãng phí cho xã hội.

g) Thị trƣờng sức lao động thƣờng phân tán, ít biến động, kém linh hoạt hơn các thị

trƣờng khác, do yếu tố địa lý cách trở, do sự quản lý nhân khẩu không thống nhất, do quan hệ

mua bán sức lao động tƣơng đối phức tạp, do hợp đồng lao động đƣợc thực hiện có thời hạn

và do những khó khăn trong tìm kiếm hay chuyển đổi việc làm... Tuy nhiên, sự ổn định tƣơng

đối của thị trƣờng sức lao động là nên đƣợc duy trì vì mục tiêu ổn định nền kinh tế và sử

dụng có hiệu quả nguồn nhân lực xã hội.

1.3.3. Vai trò của thị trường sức lao động

a) Thị trƣờng sức lao động là điều kiện thực hiện xã hội hóa, lƣu động hóa sức lao

động, bởi vì sức lao động là một yếu tố đầu vào sẽ đƣợc tìm kiếm dễ dàng trên thị trƣờng. Thị

trƣờng sức lao động thúc đẩy sự phân công lao động xã hội

23

cũng nhƣ phân công lao động nội bộ. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải thƣờng xuyên củng

cố tổ chức nhân sự, nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, tăng năng suất lao động.

Thị trƣờng sức lao động góp phần phát huy và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực xã

hội, làm gia tăng thu nhập, nâng cao mức sống, gia tăng sản lƣợng quốc gia, mang lại hiệu

quả kinh tế - xã hội. Thị trƣờng sức lao động đảm bảo cho quá trình tái sản xuất cá biệt lẫn tái

sản xuất xã hội đƣợc diễn ra một cách nhịp nhàng. Hơn nữa, để phát triển nền kinh tế, vấn đề

không phải chỉ là tái tạo nguồn nhân lực mà còn là làm sao sử dụng nó hầu hết.

b) Thị trƣờng sức lao động là nơi đánh giá sức lao động về giá trị sử dụng và về

những chi phí để tạo ra nó, từ đó mà xác định giá cả, số lƣợng và chủng loại sức lao động cần

thiết.

Thông qua tác dụng của quy luật cung - cầu trên thị trƣờng sức lao động, trong điều

kiện luân chuyển sức lao động dễ dàng, cung và cầu sức lao động sẽ trở nên cân đối, gắn bó

chặt chẽ với nhau, làm giảm nguy cơ khủng hoảng thừa cũng nhƣ thiếu nguồn nhân lực trong

nền kinh tế. Thị trƣờng sức lao động tác động đến nguồn cung sức lao động, góp phần đáp

ứng nhu cầu sức lao động ở nhiều ngành sản xuất kinh doanh khác nhau một cách đầy đủ, kịp

thời. Quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh trên thị trƣờng sức lao động sẽ trở thành công cụ

giúp phân loại, sắp xếp hàng triệu ngƣời lao động có những kỹ năng và chuyên môn ngành

nghề đa dạng, để bố trí phù hợp với vô số những công việc khác nhau trong nền kinh tế.

c) Thị trƣờng sức lao động là nơi khai thông các mối quan hệ mua bán sức lao động,

gián tiếp ảnh hƣởng đến quan hệ lao động trƣớc và sau thị trƣờng, là nơi cung cấp thông tin

giúp cho đôi bên điều chỉnh hành vi của mình để đạt đƣợc lợi ích lớn nhất. Thị trƣờng sức lao

động phản ánh mối quan hệ xã hội giữa ngƣời

24

lao động không có tƣ liệu sản xuất hay vốn liếng mong muốn việc làm, để có thu nhập đảm

bảo cuộc sống của mình và ngƣời chủ sở hữu tƣ liệu sản xuất, có vốn đầu tƣ có nhu cầu sử

dụng sức lao động để tiến hành sản xuất kinh doanh.

Là chủ thể có nhu cầu sử dụng sức lao động, các doanh nghiệp có thể áp dụng một

mức tiền lƣơng cao để thu hút lao động có kinh nghiệm, có trình độ tay nghề tƣơng ứng với

công việc và có thể ngƣng hợp đồng đối với những lao động không phù hợp. Ngƣời lao động

có thể lựa chọn việc làm và nơi làm việc thích hợp với nguyện vọng, trình độ, khả năng

chuyên môn của mình và có đƣợc thu nhập xứng đáng.

Thị trƣờng sức lao động tác động đến nhận thức của ngƣời lao động, đòi hỏi họ phải

luôn có ý thức nâng cao trình độ tay nghề chuyên môn, trình độ hiểu biết để đƣợc tuyển dụng;

phải phát huy sở trƣờng, năng lực sáng tạo, đảm bảo kỷ luật lao động để có năng suất lao

động cao, để thích nghi với công nghệ mới và tạo đƣợc lợi thế với ngƣời sử dụng lao động;

phải tích lũy kinh nghiệm để có thể nắm lấy cơ hội chuyển đổi việc làm và có đƣợc thu nhập

cao hơn. Nhƣ vậy, lực lƣợng lao động sẽ phát triển, sẽ đƣợc nâng lên về chất dƣới tác động

của thị trƣờng sức lao động.

Bên cạnh những vai trò tích cực nhƣ trên, thị trƣờng sức lao động còn có một số vai

trò tiêu cực, có những mặt trái của nó nhƣ làm phát sinh mâu thuẫn xã hội, sức ép thất nghiệp

có thể tạo điều kiện cho việc bóc lột ngƣời lao động. Tính tự phát trên thị trƣờng sức lao động

tạo ra sự bất bình đẳng về cơ hội việc làm, thu nhập giữa các tầng lớp dân cƣ. Ngoài ra, tác

dụng của quy luật giá trị trên thị trƣờng sức lao động có thể khiến cho lực lƣợng lao động di

chuyển một cách không cần thiết do thông tín nhiễu loạn. Ngƣời lao động có thể chạy theo

những nghề có sức hút, gây mất cân đối cung - cầu sức lao động, gây lãng phí cho nền kinh

tế.

25

1.4. Một số vấn đề liên quan đến thị trường sức lao động

1.4.1 Sự xuất hiện và phát triển của thị trường sức lao động trong lịch sử các nền

kinh tế.

Nói chung, thị trƣờng sức lao động đƣợc hình thành bắt đầu từ khi chấm dứt chế độ

nô lệ và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế thị trƣờng. Nó xuất hiện vào

nửa cuối thế kỷ XIV - thời kỳ phát sinh của nền sản xuất tƣ bản chủ nghĩa. "Giai cấp tƣ sản

đang ra đời cần đến quyền lực nhà nƣớc và đã thực sự dùng nó để "điều hòa" tiền công, nghĩa

là bắt buộc tiền công phải ở trong những giới hạn thích hợp cho việc bòn rút giá trị thặng dƣ,

để kéo dài ngày lao động và duy trì bản thân ngƣời công nhân ở một mức độ lệ thuộc bình

thƣờng vào tƣ bản". (1)

Quy chế công nhân năm 1349 ở Anh cũng nhƣ Đạo dụ năm 1350 ở Pháp: "Qui định

một biểu tiền công cho thành thị và nông thôn, cho công khoán và công ngày. Cấm không

đƣợc trả công cao hơn mức qui định, trái lệnh thì bị phạt tù, nhƣng ngƣời lãnh tiền công cao

lại bị phạt nặng hơn ngƣời trả công". (2) "Ngƣời chủ bội ƣớc chỉ bị truy tố về dân sự, còn

ngƣời thợ bội ƣớc lại bị truy tố về hình sự". (3)

Từ thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XVII, thị trƣờng sức lao động đã có những bƣớc phát

triển, diễn ra đồng thời với những cuộc đấu tranh cho ngày lao động bình thƣờng, chống lại

những đạo luật cƣỡng bƣớc kéo dài ngày lao động, tƣơng ứng với hai giai đoạn phát triển

của chủ nghĩa tƣ bản là hợp tác giản đơn và công trƣờng thủ công. Sự bóc lột giá trị thặng dƣ

tuyệt đối là chủ yếu và là nguyên nhân của thất nghiệp.

Đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tƣ bản vào thế kỷ XVIII, thị

trƣờng sức lao động có những biểu hiện mới, thất nghiệp có thêm nguyên nhân là sự bóc lột

giá trị thặng dƣ tƣơng đối.

26

Đến giai đoạn chủ nghĩa tƣ bản hiện đại, việc điều chỉnh thị trƣờng sức lao động là

khâu quyết định đến sự ổn định kinh tế, xã hội và chính trị nên có ý nghĩa đặc biệt trong quá

trình tự điều chỉnh của chủ nghĩa tƣ bản. Đây là kết quả của cuộc đấu tranh giữa các lực

lƣợng xã hội, đã làm thay đổi một cách căn bản cơ chế vận hành của thị trƣờng sức lao động.

Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, thị trƣờng sức lao động đã trở thành thị trƣờng có điều

tiết tại phần lớn các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa phát triển, tác động đến cả phía cung và cầu sức

lao động, mà chủ thể điều tiết là các công đoàn, các doanh nghiệp và Nhà nƣớc.

Kể từ giữa những năm 70, mô hình phát triển tiết kiệm các nguồn lực là rõ rệt, cơ cấu

kinh tế thay đổi, bên cạnh xu hƣớng sát nhập cũng có xu hƣớng chia nhỏ các doanh nghiệp.

Cơ chế điều tiết thị trƣờng sức lao động đƣợc điều chỉnh, làm cho nó trở nên linh hoạt hơn và

cá thể hóa đối với ngƣời lao động... Nhƣ vậy, khả năng tự điều chỉnh của các nền kinh tế phát

triển đã đƣợc nâng cao. (4)

Mô hình mới xuất hiện những năm gần đây, chƣa từng có trong lịch sử là mô hình thị

trƣờng sức lao động theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa đang đƣợc thể hiện ở Việt Nam, mà

luận án sẽ phân tích ở chƣơng 2.

Nhƣ vậy, sự hình thành và phát triển của thị trƣờng sức lao động dựa trên cơ sở là sự

phân công lao động xã hội và sự đa dạng của các hỉnh thức sở hữu, trong đó có cả hình thức

sở hữu sức lao động.

1.4.2 Trạng thái cung - cầu sức lao động.

1.4.2.1 Các yếu tố của cung sức lao động.

Số lƣợng nguồn cung sức lao động tùy thuộc vào nhiều yếu tố, hàm cung sức lao động

có nhiều biến số. Trƣớc hết là quy mô và tốc độ tăng dân số của 13 năm - 20 năm về trƣớc.

Tỷ lệ sinh đẻ cao trƣớc mắt chƣa làm tăng cung sức lao động, nhƣng lại gây bất lợi cho nền

kinh tế, bởi vì phải giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh, làm giảm đầu tƣ cho phát triển.

Cung sức lao động còn phụ thuộc

27

vào số lao động mất việc, vào sự di chuyển lao động giữa các vùng kinh tế, giữa các quốc gia,

dƣới tác động của các quy luật kinh tế và các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nƣớc nhƣ

việc qui định thời gian lao động, ấn định tiền lƣơng tối thiểu và việc đảm bảo các lợi ích khác

của ngƣời lao động.

Khi nói đến nguồn cung sức lao động, nên phân biệt cung thực tế và cung tiềm năng.

Cung thực tế về sức lao động là lƣợng cung đƣợc thƣờng xuyên sử dụng bao gồm những

ngƣời đang đi làm thuê và những ngƣời đang tích cực đi tìm việc làm. Cung tiềm năng về sức

lao động là lƣợng lao động có thể bổ sung vào nguồn cung sức lao động, phụ thuộc vào số

lƣợng ngƣời đến tuổi lao động, vào sự lƣu chuyển sức lao động giữa các vùng, các khu vực,

các ngành, các thành phần kinh tế vì điều kiện môi trƣờng lao động tốt hơn hay do mức tiền

lƣơng hấp dẫn hơn. Cung sức lao động có thể đƣợc xét theo một phạm vi nào đó, ví dụ cung

sức lao động của một quốc gia hay giữa các quốc gia, của một vùng kinh tế, của một địa

phƣơng với lao động tại chỗ và lao động nhập cƣ; cung sức lao động có thể đƣợc xét theo cơ

cấu tuổi tác, giới tính và theo chuyên môn ngành nghề, tính chất công việc nhƣ lao động giản

đơn, lao động phức tạp...

Nguồn cung sức lao động đƣợc phân loại căn cứ vào chất lƣợng và cơ cấu của nó, gắn

với nghề nghiệp chuyên môn của ngƣời lao động, tùy thuộc vào quá trình đào tạo của ngƣời

lao động. Chất lƣợng nguồn cung sức lao động đƣợc thể hiện ở khả năng thể lực, trí lực và

trình độ chuyên môn tay nghề và cả đức tính của ngƣời lao động. Khả năng thể lực, sức khỏe

của ngƣời lao động là yêu cầu đầu tiên của sức lao động, quyết định chất lƣợng sức lao động

chứ không chỉ là ở trình độ, kỹ năng của ngƣời lao động. Việc đảm bảo sức khỏe cho ngƣời

lao động là vấn đề tái sản xuất sức lao động, tùy thuộc vào mức thu nhập của ngƣời lao động

để có đƣợc khả năng thanh toán cho những chi phí về lƣơng thực thực phẩm

28

tùy thuộc vào việc đảm bảo môi trƣờng lao động và tùy thuộc vào việc thực hiện bảo hiểm xã

hội, bảo hiểm y tế cho ngƣời lao động.

Những cán bộ nghỉ hƣu nhƣng còn sức khỏe, những trẻ em lao động sớm hay một bộ

phận nhân viên sau khi hoàn thành công việc của mình, nếu sử dụng thời gian nhàn rỗi để đi

làm thêm các công việc để nhận thù lao thì cũng làm tăng lƣợng cung sức lao động. Di cƣ,

nhập cƣ làm tăng dân số cơ học cục bộ, từ đó làm tăng nguồn cung sức lao động ở một địa

phƣơng nào đó.

1.4.2.2 Các yếu tố của cầu sức lao động.

Nhu cầu sức lao động là khả năng thuê lao động trên thị trƣờng sức lao động. Cũng

nhƣ cung, cầu về sức lao động gồm có cầu thực tế và cầu tiềm năng. Cầu thực tế về sức lao

động đƣợc thể hiện ỡ số việc làm đang có ngƣời và số việc làm chƣa có ngƣời tại một thời

điểm nào đó. Cầu tiềm năng về sức lao động thể hiện ở số việc làm sẽ có nhờ gia tăng sử

dụng các nguồn lực, vốn liếng và đất đai còn tiềm tàng, kể cả các nguồn lực từ nƣớc ngoài. Ở

tầm vĩ mô, nên xem xét sự thay đổi cầu tổng thể của quốc gia, của từng khu vực, của từng

ngành nghề, từng thành phần kinh tế, cầu ngoài nƣớc về sức lao động và cầu sức lao động do

thu hút đƣợc các nguồn lực từ nƣớc ngoài.

Nhu cầu sức lao động luôn tùy thuộc vào mức tiền lƣơng trong một thời điểm nhất

định. Với mức tiền lƣơng nào đó sẽ cố một mức cầu tƣơng ứng về sức lao động. Theo luật

cầu, cầu sức lao động sẽ tăng khi tiền lƣơng giảm và ngƣợc lại cầu sức lao độog sẽ giám khi

tiền lƣơng tăng. Cồn khi chính bản thân cầu sức lao động tăng ở khu vực hay vùng kỉnh tế

nào đố thì mức tiền lƣơng phải tăng lên để có thể thu hút đƣợc lao động.

Ngoài tiền lƣơng, còn có các biến số khác của hàm cầu sức lao động là giá cả và số

lƣợng máy móc công nghệ, đất đai - tài nguyên; lãi suất và số lƣợng vốn

29

đầu tƣ đƣợc đƣa vào sử dụng. Do sức lao động là một yếu tố sản xuất phụ thuộc vào các yếu

tố sản xuất khác, nên cầu sức lao động là cầu thứ phát.

Ngoài ra, nhu cầu sức lao động cũng bị tác động bởi chất lƣợng sức lao động, hệ

thống luật pháp, chính sách, khả năng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tình hình sản xuất

và tiêu thụ sản phẩm, thời tiết, mùa vụ... Nhu cầu sức lao động có chuyên môn kỹ thuật ngày

càng tăng hơn so với lao động giản đơn, phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhu cầu

sức lao động tăng cao ở ngành nghề nào có triển vọng phát triển, nhƣ ngành dịch vụ đang và

sẽ có tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Nhu cầu sức lao động nông nghiệp sẽ giảm trong

tƣớng lai, nhu cầu sức lao động công nghiệp tăng là vấn đề có tính quy luật.

1.4.2.3. Quan hệ cung - cầu và giá cả trên thị trường sức lao động.

Trên thị trƣờng, cung và cầu sức lao động đƣợc hình thành, biến đổi và tác động qua lại với

nhau một cách khách quan theo quy luật cung - cầu, đƣa đến việc xác định hay làm thay đổi

mức giá cả sức lao động của từng ngành và của toàn xã hội. Giá cả sức lao động chính là tiền

công (wage) nói chung, hay là tiền lƣơng (salary) nói riêng, dựa trên cơ sở giá trị sức lao

động và đƣợc hình thành trên thị trƣờng theo tƣơng quan cung - cầu sức lao động.

Trạng thái cân bằng sẽ xác định mức tiền lƣơng cân bằng, nhƣng đây chỉ là khái niệm

tƣơng đối, có tính chất lý thuyết, Nếu sức hút của cầu dƣới mức cung, trạng thái dƣ thừa xảy

ra, thì tiền lƣơng sẽ có xu hƣớng giảm. Khi sản xuất đƣợc mở rộng, nhu cầu sức lao động

tăng lên, trạng thái thiếu hụt sức lao động xảy ra thì tiền lƣơng sẽ có xu hƣớng tăng. Tiền

lƣơng không chỉ chịu ảnh hƣởng bởi trạng thái cung - cầu của loại sức lao động tƣơng ứng

mà còn của loại sức lao động khác, bởi vì việc giảm nhu cầu ở khu vực này có thể làm tăng

sức ép về cung ở khu vực khác và các loại sức lao động có thể thay thế lẫn nhau, do sự lựa

chọn của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, tiền lƣơng thƣờng không biến động trong

30

ngắn hạn, khi mức cầu giảm hay mức cung tăng, bởi vì hợp đồng lao động đã ấn định tiền

lƣơng trong một khoảng thời gian nhất định.

So với các thị trƣờng khác, tuy tính chất cạnh tranh của thị trƣờng sức lao động đƣợc

thể hiện yếu ớt hơn, nhƣng cũng làm ảnh hƣởng đến giá cả sức lao động. Ngƣời lao động có ý

thức nâng cao chất lƣợng sức lao động của mình để có đƣợc tiền lƣơng cao và có thể chấp

nhận một mức tiền lƣơng thấp để có đƣợc việc làm (mua việc làm). Doanh nghiệp có thể

chấp nhận một mức lƣơng cao để thu hút, giữ lại và sử dụng đƣợc lao động chất xám, lao

động lành nghề.

Sự thay đổi tiền lƣơng cũng ảnh hƣởng đến tƣơng quan cung - cầu sức lao động theo

luật cung và luật cầu. Khi tiền lƣơng tăng thì cung sức lao động tăng và cầu sức lao động

giảm, nghĩa là số ngƣời muốn tham gia lực lƣợng lao động, muốn đi làm nhiều hơn số ngƣời

xin đƣợc việc làm. Tình hình này là rõ rệt, dừ biết rằng khi thu nhập tăng, ngƣời lao động có

thể cho phép mình nghỉ ngơi nhiều hơn. Còn khi tiền lƣơng giảm thấp, số ngƣời muốn đi làm

sẽ sụt giảm, nhân công sẽ thiếu, nghĩa là cung nhỏ hơn cầu.

Tiền lƣơng còn chịu ảnh hƣởng của giá cả các yếu tố sản xuất khác. Khi giá cả máy

móc giảm, thì tùy theo đó là loại thay thế hay là điều kiện sử dụng sức lao động, sẽ khiến nhu

cầu sức lao động và tiền lƣơng giảm hay tăng. Ngoài ra, còn các yếu tố khác ảnh hƣởng đến

tiền lƣơng nhƣ năng suất lao động, trình độ tay nghề, sự tác động của Nhà nƣớc... Tiền lƣơng

tối thiểu chính là giá sàn của sức lao động do Nhà nƣớc qui định nhằm đảm bảo mức sống

bình thƣờng của những ngƣời lao động làm các công việc giản đơn, ngăn ngừa tình trạng bóc

lột dƣới sức ép thất nghiệp. Đây là công cụ mà ngƣời lao động sử dụng để đấu tranh với

ngƣời sử dụng lao động.

Đối với các nƣớc phát triển, mức lƣơng tối thiểu thƣờng không ảnh hƣởng nhiều đến

thị trƣờng sức lao động, bởi vì mức lƣơng tối thiểu luôn thấp hơn mức

31

lƣơng trung bình trong xã hội. Đối với các nƣớc đang phát triển có thu nhập quốc dân thấp,

thất nghiệp gay gắt, Chính phủ thƣờng quy định một mức lƣơng tối thiểu thấp hơn mức lƣơng

trung bình trong xã hội, để không làm giảm nhu cầu sức lao động. Khi thu nhập quốc dân

bình quân đầu ngƣơi tăng, mức sống xã hội tăng, việc quy định mức lƣơng tối thiểu tăng lên

là đúng đắn, nhƣng không nên đến mức gây ra hậu quả là làm kềm chế tác dụng của thị

trƣờng sức lao động, làm giảm số lƣợng việc làm, khiến cho tình hình thất nghiệp tăng hơn.

Doanh nghiệp có thể áp dụng nhiều hình thức tiền lƣơng khác nhau. Lƣơng thời gian

tỷ lệ thuận với thời gian làm việc của ngƣời lao động, thƣờng áp dụng cho các công việc khó

tính đƣợc sản phẩm cụ thể, căn cứ vào độ dài ngày lao động, cƣờng độ lao động và cả trình

độ lành nghề của họ. Lƣơng sản phẩm tỷ lệ thuận với số lƣợng và chất lƣợng sản phẩm làm

ra, đƣợc xác định căn cứ vào lƣơng thời gian và định mức lao động tƣơng ứng. Lƣơng khoán

thì đƣợc xác định trƣớc, tƣơng ứng với khối lƣợng và chất lƣợng công việc phải hoàn thành.

Định mức khoán, do chủ doanh nghiệp quyết định, có thể là cao một cách không hợp lý, làm

cho ngƣơi lao động bị thua thiệt và bị bóc lột

Tiền lƣơng theo thời gian, theo sản phẩm và lƣơng khoán là những hình thức của tiền

lƣơng danh nghĩa, thể hiện ra là số tiền mà ngƣời lao động nhận đƣợc. Tiền lƣơng thực tế thể

hiện ra là số lƣợng hàng hóa và dịch vụ mà ngƣời lao động mua đƣợc bằng tổng thu nhập từ

lao động, tức là bằng tiền lƣơng danh nghĩa, tiền thƣởng và tiền phúc lợi. Tiền lƣơng thực tế

tỷ lệ thuận với tiền lƣơng danh nghĩa, với giá trị tiền tệ và tỷ lệ nghịch với giá cả tƣ liệu sinh

hoạt cần thiết cho ngƣời lao động. Giá cả tƣ liệu tiêu dùng tăng sẽ làm cho tiền lƣơng tăng

theo nhƣng rất chậm và ít hơn làm cho ngƣời lao động bị thiệt, phải hy sinh cho sự ổn định

của nền kinh tế! Ngƣợc lại, giá cả tƣ liệu tiêu dùng giảm nhƣng có thể tiền lƣơng chƣa giảm

làm lợi cho ngƣời lao động. Nhƣ vậy, giá cả tƣ liệu tiêu dùng và

32

tiền lƣơng đồng biến với nhau nhƣng sự tăng hay giảm của tiền lƣơng chậm hơn và ít hơn

làm cho ngƣời lao động bị thiệt hay đƣợc lợi.

Lợi ích của ngƣời lao động có thể không đƣợc đảm bảo, bởi vì tiền lƣơng - giá cá của

sút lao động đƣợc thực hiện sau, còn giá trị sử dụng của sức lao động lại đƣợc thực hiện

trƣớc. Nhƣng không phải lợi ích của ngƣời lao động chỉ biểu hiện ở tiền lƣơng mà còn là sự

đảm bảo có việc làm thƣờng xuyên, sự cải thiện điều kiện làm việc, môi trƣờng xã hội, có

đƣợc cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp, đƣợc học hỏi để nâng cao tay nghề để có tiền

lƣơng tăng tƣơng ứng. Mặt khác, tiền lƣơng lại có thể giúp bù lại những điều kiện khó khăn

hay sự không hấp dẫn của công việc.

Tiền lƣơng có thể đƣợc xem nhƣ đòn bẩy kinh tế quan trọng để kích thích tính tích

cực, phát huy tài năng sáng kiến, tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình của ngƣời lao động, tạo

nên động lực cho phát triển kinh tế.

1.4.3. Quan hệ lao động

Quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh từ quá trình lao động, là tất cả những

mối quan hệ giữa ngƣời lao động với các chủ thể khác dẫn đến việc sử dụng sức lao động.

Quan hệ lao động là một nội dung hay là một bộ phận hợp thành của quan hệ sản xuất. Tính

chất của quan hệ lao động tùy thuộc vào quan hệ sở hữu đang đƣợc áp dụng.

Quan hệ lao động vừa phổ biến, vừa đặc thù, chịu ảnh hƣởng bởi yếu tố khách quan

và yếu tế chủ quan. Yếu tố khách quan là tính chất và trình độ của lực lƣợng lao động cũng

nhƣ của lực lƣợng sản xuất. Lực lƣợng lao động có chất lƣợng sẽ là điều kiện quan trọng để

thiết lập và củng cố quan hệ lao động, tạo điều kiện để mở rộng thị trƣờng sức lao động. Yếu

tố chủ quan là sự nhận thức và hành vỉ của các chủ thể trong quan hệ lao động, chẳng hạn

ngƣời lao động phải

33

luôn tích cực hoàn thiện khả năng lao động của mình mới có thể thiết lập và củng cố đƣợc

mối quan hệ lao động.

Nếu căn cứ vào các loại hình doanh nghiệp thì có quan hệ lao động trong doanh

nghiệp nhà nƣớc và quan hệ lao động trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nếu dựa trên

trình tự diễn tiến thì có quan hệ lao động trƣớc thị trƣờng, trên thị trƣờng và sau thị trƣờng

sức lao động.

Quan hệ lao động trƣớc thị trƣờng là quan hệ giữa ngƣời lao động với các chủ thể

khác dẫn đến việc đào tạo, tƣ vấn học nghề, hƣớng nghiệp, môi giới việc làm... Quan hệ lao

động trên thị trƣờng là quan hệ tuyển dụng, quan hệ mua bán sức lao động giữa một bên là

chủ sở hữu tƣ liệu sản xuất hay ngƣời đại diện của chủ sở hữu cần sử dụng sức lao động vì

mục tiêu lợi nhuận và một bên là ngƣời lao động vì mục tiêu thu nhập. Quan hệ lao động sau

thị trƣờng là quan hệ tổ chức quản lý quá trình lao động (ngƣời lao động là đối tƣợng của sự

quản lý), phân phối kết quả sản xuất; quan hệ giữa tổ chức công đoàn với ngƣời sử dụng lao

động, quan hệ đoàn kết hay thi đua giữa những ngƣời lao động với nhau...

Quan hệ sau thị trƣờng ảnh hƣởng đến quan hệ trƣớc và trên thị trƣờng. Ở những

doanh nghiệp thƣờng xảy ra tranh chấp lao động, việc tuyển dụng mới có thể gặp khó khăn;

ngƣời lao động chƣa có việc làm sẽ lựa chọn doanh nghiệp khác, ngành nghề khác. Khi sự

phối hợp công việc đã trở nên nhịp nhàng, ngƣời lao động tích lũy đƣợc kinh nghiệm, nâng

cao đƣợc tay nghề, doanh nghiệp sẽ không muốn tuyển dụng mới, trừ khi phải mở rộng sản

xuất.

Cơ sở của quan hệ lao đông, của việc mua bán sức lao động là hợp đồng lao động cá

nhân, đƣợc qui định bởi Luật lao động.

Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động

về việc làm có trả công với những điều khoản nhất định (không qui định hợp đồng lao động

với một nhóm). Nội dung chủ yếu của hợp đồng lao động bao

34

gồm công việc phải làm, giờ làm việc, giờ nghỉ ngơi, tiền lƣơng, thời hạn hợp đồng, bảo hiểm

xã hội...

Hợp đồng lao động là một hình thức pháp lý để xác lập quan hệ lao động, là cơ sở để

đảm bảo lợi ích cho các chủ thể trong quan hệ lao động. Nhờ có hợp đồng lao động, ngƣời

lao động sẽ gắn bó hơn, có trách nhiệm hơn với doanh nghiệp; họ sẽ lao động có kỹ thuật, có

năng suất hơn theo nguyên tắc làm giỏi thì lƣơng cao, làm thiệt hại phải bồi thƣờng. Các

doanh nghiệp có điều kiện để ổn định đội ngũ lao động, đồng thời cũng đòi hỏi doanh nghiệp

phải cải tiến tổ chức quản lý, nâng cao năng suất và hiệu quả lao động. Các cơ quan chức

năng của Nhà nƣớc sẽ có cơ sở để giải quyết những tranh chấp, việc quản lý kinh tế - xã hội

sẽ thuận lợi hơn. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ lao động: Người sử dụng

lao động có quyền đưa ra các điều kiện tuyển chọn đội ngũ lao động với chất lượng phù hợp

và yêu cầu công việc; có quyền bố trí, điều hành lao động theo yêu cầu sản xuất kinh doanh;

có quyền khen thưởng, kỷ luật và chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của luật pháp;

có quyền thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể trong doanh nghiệp hoặc trong

ngành; có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước chức năng giải quyết tranh chấp lao động.

Người sử dụng lao động có nghĩa vụ thực hiện đúng hợp đồng lao động, thỏa ước lao động

tập thể; tôn trọng danh dự, nhân phẩm của người lao động, cải thiện điều kiện môi trường

lao động, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động; cộng tác với công

đoàn để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ lao động. Người lao động có quyền tự

do tìm việc làm và nơi làm việc theo nguyện vọng ngành nghề mà pháp luật không cấm và

phù hợp với khả năng, trình độ, sức khỏe của mình; có quyền thương lượng giao kết hay

chấm dứt hợp đồng lao động, được tham gia thỏa ước lao động tập thể; được hưởng phúc lợi

và bảo hiểm xã hội theo qui định, được tham gia quản lý doanh nghiệp theo nội quy của

doanh nghiệp; có quyền tham gia

35

hoạt động công đoàn theo Luật công đoàn để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình; có quyền

đình công theo qui định của pháp luật. Nghĩa vụ của người lao động là làm tốt công việc theo

hợp đồng lao động đã ký kết, tuân thủ nội quy, qui định về an toàn - kỷ luật lao động của

Bảng 2: Phân biệt các loại hợp đồng lao động.

doanh nghiệp và phục tùng sự điều hành hợp pháp của người sử dụng lao động.

Căn cứ Đối tƣợng Tiền lƣơng

Phƣơng thức tuyển dụng hợp lao Loại đồng

động

các đồng Tùy thuộc các Lao động giản Tiền lƣơng Qua Hợp

tâm đơn đặt hàng đơn - thời vụ thỏa thuận

Trung DVVL ngắn hạn (ba tháng)

Hợp trung đồng hạn Theo kế hoạch hằng năm Lao động có kinh nghiệm, Tiền lƣơng theo thị trƣờng Qua Trung các tâm

(một năm) có tay nghề DVVL

Tiền lƣơng cao Tuyển dụng

Hợp đồng dài hạn ( 4 - 6 Theo kế hoạch chiến lƣợc Lao động kỹ thuật - quản lý trực tiếp

năm)

Những nguyên tắc của hợp đồng lao động là tự do và tự nguyện, bình đẳng trƣớc pháp

luật, không trái với Luật lao động và phù hợp với thỏa ƣớc lao động tập thể. Thỏa ƣớc lao

động tập thể là sự thỏa thuận giữa tập thể ngƣời lao động với ngƣời sử dụng lao động, là một

quy phạm giúp giảm bớt công việc cho nhà quản lý doanh nghiệp.

36

Quan hệ lao động không nên chỉ trên cơ sở pháp luật và thị trƣờng mà còn trong cả

tình cảm. Bên cạnh quan hệ chủ thợ lạnh lùng trên cơ sở thị trƣờng, làm cho lao động bị tha

hóa, còn có mối quan hệ lao động mang tính nhân văn, công bằng, bình đẳng, trên cơ sở tôn

trọng, hợp tác lẫn nhau trong công việc và cùng nhau chia sẻ trách nhiệm. Vần đề là ở giới

chủ, nếu họ nhận thức đƣợc công nhân là ngƣời mang lại lợi nhuận, uy tín cho công ty của

mình, thì họ phải quan tâm đến ngƣời lao động. Quan hệ lao động hài hòa, hợp lý là yếu tố

quan trọng giúp doanh nghiệp phát triển. Đối xử tôn trọng và có tình cảm với ngƣời lao động

thực ra cũng có lợi cho chính ngƣời sử dụng lao động. Nếu đôi bên hiểu quyền lợi và nghĩa

vụ của nhau, cùng đấu tranh thẳng thắn trên cơ sở hài hòa lợi ích, doanh nghiệp vừa lòng với

lợi nhuận, công nhân hài lòng với thu nhập (tiền lƣơng, tiền thƣởng) thì sự thống nhất sẽ bền

vững.

Quan hệ lao động phải đƣợc tái tạo, đƣợc xây dựng trên tính thần bình đẳng nhằm

mục tiêu lành mạnh hóa các mối quan hệ kinh tế, phản ánh sự phân công hiệp tác lao động,

góp phần sử dụng hữu hiệu nguồn nhân lực xã hội, thúc đẩy phát triển lực lƣợng lao động nói

riêng và lực lƣợng sản xuất nói chung. Đứng trên góc độ phân công lao động xã hội, vì lợi ích

xã hội và vì lợi ích của các chủ thể, quan hệ chủ thợ phải đƣợc duy trì ngay cả trong nền kinh

tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, vì lợi ích xã hội chúng ta

phải tính đến lợi ích của giới chủ.

Bên cạnh sự thống nhất trên cơ sở hài hòa lợi ích kinh tế, thì mâu thuẫn vẫn có thể

xảy ra. Sự quan tâm chủ yếu của ngƣời lao động là tiền lƣơng và thu nhập, họ không chú ý

đến việc có lợi cho doanh nghiệp, cho xã hội hay không. Trong khi đó, tạo ra việc làm và thu

nhập cho ngƣời lao động không phải là mối quan tâm, ý thức hay mục đích của ngƣời sử

dụng lao động, mà đó là tác động gián tiếp của các quy luật kinh tế thị trƣờng. Họ sẵn sàng áp

dụng kỹ thuật mới,

37

giảm bớt những công nhân không đáp ứng yêu cầu sản xuất, tuyển công nhân mới ít hơn để

tăng hiệu quả sản xuất, bất chấp việc gia tăng số ngƣời thất nghiệp nhƣ thế nào, việc lãng phí

nguồn lao động trong xã hội ra sao. Để tăng sức cạnh tranh, các nhà doanh nghiệp thƣờng

quan tâm giảm chi phí, trong đó có chi phí sức lao động nhằm tăng lợi nhuận, nhƣng lại

không chú ý tái sản xuất sức lao động, thông qua việc đảm bảo mức thu nhập thực tế của

ngƣời lao động.

Mâu thuẫn của quan hệ lao động thƣờng phát sinh ở giai đoạn sau thị trƣờng và có thể

dẫn đến đình công, lãng công. Về mặt quản lý xã hội, việc đình công phải tuân thủ các qui

định của pháp luật, để đảm bảo trật tự công cộng, không đƣợc làm ảnh hƣởng đến sự ổn định

và phát triển kinh tế. Đình công không phải là biện pháp duy nhất mà nó chỉ là biện pháp cuối

cùng, khi không còn biện pháp nào khác; nhƣng đôi khi bị lạm dụng làm vũ khí đầu tiên, vì

những lý do không chính đáng. Tuy nhiên, ngƣời lao động luôn mong có việc làm ổn định,

không muốn đình công làm ảnh hƣởng đến đời sống của bản thân và gia đình. Do vậy, nói

chung hòa giải trong quan hệ lao động là phƣơng hƣớng tích cực.

Để có sự hài hòa trong quan hệ lao động, hạn chế các tranh chấp lao động thì vai trò

của Nhà nƣớc và vai trò của tổ chức Công đoàn là rất quan trọng.

Nhà nƣớc đƣa ra những chuẩn mực mang tính chất bắt buộc nhƣ tiền lƣơng tối thiểu,

thời gian lao động, hợp đồng lao động; những chuẩn mực mang tính chất hƣớng dẫn nhƣ thỏa

ƣớc lao động tập thể, khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo lại ngƣời lao động; và những

chuẩn mực mang tính chất linh hoạt để đôi bên có thể cùng nhau thƣơng lƣợng, thỏa thuận

trên cơ sở cùng có lợi, vì sự phát triển của doanh nghiệp, sự tiến bộ xã hội và sự phồn vinh

của đất nƣớc.

Đối với thị trƣờng sức lao động, bàn tay hữu hình không chỉ là vai trò của Nhà nƣớc

mà còn là vai trò của Công đoàn - tổ chức đại diện cho quyền lợi của ngƣời lao động. Ở các

nƣớc tƣ bản, Công đoàn có thể gián tiếp điều chỉnh mức

38

cung sức lao động, tác động đến mức tiền lƣơng, làm ảnh hƣởng đến tỷ lệ thất nghiệp trong

nền kinh tế.

Quan hệ lao động trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở các nƣớc xã hội chủ

nghĩa trƣớc đây đƣợc xác lập, điều chỉnh chủ yếu bằng biện pháp hành chính nhà nƣớc. Cơ

chế sử dụng sức lao động trong nền kinh tế ấy có ƣu điểm là đã tạo ra nhiều việc làm, giúp ổn

định nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, nó cũng đã bộc lộ nhiều bất hợp lý, làm cho

hiệu quả sử dụng sức lao động đôi lúc đôi nơi không đạt đƣợc. Sức lao động đƣợc phân phối

sử dụng theo kế hoạch, đôi khi việc bố trí sử dụng không đúng với khả năng chuyên môn và

đặc biệt là khó thải hồi khi ngƣời lao động đã là biên chế nhà nƣớc. Việc làm đƣợc đồng nhất

với biên chế Nhà nƣớc, chƣa có biên chế là chƣa có việc làm, ngƣời lao động khi có biên chế

rồi thì lại không phấn đấu vƣơn lên. Trên lý thuyết, sức lao động đƣợc huy động toàn bộ cho

sản xuất nhƣng thực tế là không đủ việc làm, chỉ có việc làm trên danh nghĩa.

Cơ chế đó xuất phát từ quan điểm cho rằng dƣới chủ nghĩa xã hội không có bóc lột,

lao động của cá nhân là một phần của lao động xã hội phải chịu sự phân bố sử dụng chung.

Ngƣời lao động trong khu vực kinh tế nhà nƣớc không phải là ngƣời làm thuê mà là ngƣời

chủ, họ không bán sức lao động mà là lao động cho mình và cho xã hội với ý thức xã hội chủ

nghĩa. Thu nhập quốc dân đƣợc phân phối một phần cho tiêu dùng cá nhân dƣới hình thức

tiền lƣơng theo số lƣợng, chất lƣợng và hiệu quả lao động mà họ đóng góp cho xã hội. Tính

chất đặc thù của sức lao động lại không đƣợc đề cập đến, ấy là sức lao động không thể nào bị

tách rời khỏi ngƣời lao động và họ vẫn có quyền quyết định việc sử dụng sức lao động của

mình. Nhƣ vậy, quyền sở hữu sức lao động bản thân của ngƣời lao động là loại quyền tƣ hữu

không thể xóa bỏ về lý luận cũng nhƣ trên thực tế. Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa trƣớc đây

không thể là chủ sở hữu toàn dân đối với sức lao động.

39

nhƣng mặc nhiên trở thành chủ thể độc quyền sử dụng sức lao động xã hội. Đó là một loại

độc quyền bất đắc dĩ, là gánh nặng chứ không phải là lợi thế, bởi vì khó có thể sử dụng hầu

hết sức lao động, mà luôn phải tốn kém chi phí để duy trì nó. Trong khi đó, ngƣời lao động

không thể tính đƣợc khoản thu nhập cơ hội nếu có thể bán sức lao động nơi khác, từ đó họ

thƣờng không tự nguyện và buộc phải chấp nhận tính chất độc quyền của tiền lƣơng do Nhà

nƣớc qui định.

1.4.4. Vấn đề bóc lột sức lao động.

Theo từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1977, thì "bóc lột là

lấy không sức lao động của ngƣời khác vì lợi ích riêng của mình, bất chấp mọi lẽ phải, tình

cảm, đạo đức". Theo Karl Marx, bóc lột sức lao động là mục đích của nhà tƣ bản, phản ánh

bản chất của quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa. Khả năng và điều kiện để ngƣời sử dụng lao

động thực hiện sự bóc lột là do giá trị sử dụng đặc biệt của sức lao động, có thể tạo ra giá trị

mới lớn hơn giá trị sức lao động.

Theo tác giả luận án, từ thực tiễn của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam, một

quan điểm có thể đƣợc chấp nhận là: sức lao động trở thành hàng hóa và tạo ra đƣợc giá trị

thặng dƣ không phải tất yếu đƣa đến sự bóc lột, mà bóc lột là tình trạng xâm phạm hay bất

chấp lợi ích của ngƣơi lao động; biểu hiện ra là giá trị thặng dƣ tạo ra không đƣợc phân phối

bổ sung cho ngƣời lao động, theo hiệu quả công việc mà họ đã hoàn thành.

Chỉ với quan điểm nhƣ vậy thì mới có thể giải thích rằng, hiện nay ở khu vực kinh tế

nhà nƣớc, về nguyên lý, sự bóc lột không thể xảy ra, bởi vì giá trị thặng dƣ (giá trị của sản

phẩm thặng dƣ) tạo ra đƣợc dùng để đáp ứng lợi ích của ngƣời lao động và của xã hội.

Ngày nay, sự bóc lột sức lao động có nhiều biến tƣớng và đổi khác nhƣ: lợi dụng áp

lực thất nghiệp, kéo dài thời gian thử việc, học nghề để trả tiền lƣơng

40

thấp, tìm cách hợp đồng lao động ngắn hạn... Tuy nhiên, cái lợi trƣớc mắt đã làm hại cái lợi

lâu dài, bởi vì chi phí giảm nhƣng lao động biến động, sản xuất không ổn định, không tạo

đƣợc năng suất tối ƣu, gây lãng phí công suất máy móc.

Trong bối cảnh sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, giới chủ không muốn công nhân làm

việc nhiều hơn mà chỉ đòi hỏi lao động có chất lƣợng hơn, có trách nhiệm hơn trong công

việc của mình, có ý thức kỷ luật và cả sự trung thành để làm việc lâu dài hơn. Hiện nay, để

giảm giá thành, tối đa hóa lợi nhuận, xu hƣớng chung của các doanh nghiệp không phải là sử

dụng sức lao động rẻ với chất lƣợng thấp mà là sẵn sàng thuê ngƣời có năng lực phù hợp với

công việc dù phải trả lƣơng cao. Tuy nhiên, lao động chất xám vẫn có thể bị bóc lột dù tiền

lƣơng cao, bởi vì do năng suất lao động cao, giá trị cá biệt của hàng hóa giảm sẽ mang lại lợi

nhuận lớn cho nhà sản xuất, giá trị sức lao động chất xám vẫn thấp hơn những giá trị sáng tạo

của nó, vẫn không bù đắp những khoản đầu tƣ của xã hội và gia đình ngƣời lao động để có

đƣợc sức lao động nhƣ vậy.

1.4.5 Xu hướng di chuyển lao động.

Trong quá trình phát triển kinh tế, cơ cấu lao động sẽ thay đổi, việc di cƣ nhân lực

vừa diễn ra có tổ chức theo kế hoạch của Nhà nƣớc và di cƣ tự phát theo quy luật vận động

của nhân lực: từ nông thôn ra thành thị, từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Có hai

loại lao động nhập cƣ là lao động nhập cƣ thời vụ và lao động nhập cƣ cố định. Lao động

nhập cƣ thời vụ chính là lao động nông nhàn ở nông thôn có thể đáp ứng nhu cầu sức lao

động cho ngành xây dựng, ở thành thị nhằm mục đích kiếm thêm thu nhập trong thời gian

không có việc làm.

Quy luật vận động của nhân lực nói trên cần đƣợc thừa nhận, bởi vì nó là phổ biến và

tất yếu đối với thị trƣờng sức lao động của bất cứ quốc gia đang phát triển nào; bởi vì đó là

điều kiện và là hệ quả của tăng trƣởng kinh tế, của sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đô thị hóa.

Cơ sở của nó là sự chênh lệch, sự hấp dẫn

41

của thu nhập (quy luật bình quân hóa thu nhập). Nơi ngƣời lao động di chuyển tới là nơi có

nhu cầu sức lao động và tiền lƣơng cao, việc di chuyển đó sẽ có lợi cho họ và có hiệu quả xã

hội hơn. Những ngƣời di cƣ đến thành thị không hoàn toàn là những ngƣời nghèo khổ, nhƣng

cũng không phải là sung túc, bởi vì nếu đã có cuộc sống khấm khá thì không ai muốn lang

thang.

Ngoài ra, quy luật trên còn đƣợc giải thích một phần bởi quy luật Ersnt Engel: khi

kinh tế tăng trƣởng, thu nhập của xã hội tăng lên thì chi tiêu về lƣơng thực thực phẩm sẽ giảm

tƣơng đối; nhu cầu sản phẩm công nghiệp sẽ tăng hơn, cho nên nhu cầu lao động của ngành

công nghiệp sẽ tăng theo.

Theo Athur Lewis - nhà kinh tế học Jamaica đƣợc giải thƣởng Nobel 1979 tất cả các

nƣớc phát triển trƣớc kia đều phải trải qua thời kỳ di chuyển dân cƣ nhƣ vậy, bởi vì quá trình

đô thị hóa sẽ tất yếu làm cho diện tích đất nông nghiệp giảm, số lao động nông nghiệp đông

đảo sẽ trở nên dƣ thừa, phải tìm kiếm việc làm ở nơi khác. (5)

Theo lý thuyết tăng trƣởng kinh tế ở châu Á gió mùa của ông Harry T. Oshima, mô

hình nhị nguyên của Athur Lewis không có ý nghĩa thực tế với tình trạng dƣ thừa lao động

trong các nƣớc nông nghiệp gió mùa. Bởi vì nền nông nghiệp lúa nƣớc vẫn thiếu lao động khi

thời vụ ở đỉnh cao và chỉ thừa lao động trong mùa nhàn rỗi, tình trạng lao động nông nhàn rất

phổ biến nhƣng buộc phải chấp nhận. Vì vậy, ông đƣa ra mô hình tăng trƣởng mới, là vẫn giữ

lại lao động nông nghiệp và chỉ tạo thêm nhiều hoạt động sản xuất trong những tháng nhàn

rỗi bằng cách tăng vụ, đa dạng hóa cây trồng, phát triển chăn nuôi; đồng thời sử dụng lao

động nông nhàn vào các ngành sản xuất tiểu công nghiệp và hoạt động dịch vụ ở địa phƣơng.

Khi lao động nông nghiệp đƣợc sử dụng hầu hết, đồng thời còn thực hiện cơ giới hóa, sử

dụng máy móc nhỏ giảm bớt lao động thủ công, làm cho năng suất tăng lên, thì nông dân

không những nuôi đƣợc chính mình mà còn

42

nuôi đƣợc ngƣời khác, thu nhập thực tế và GDP trên đầu ngƣời tăng nhanh. Từ đó ông cho

rằng công nghiệp hoá nông thôn là con đƣờng tốt nhất để bắt đầu một chiến lƣợc phát triển ở

châu Á gió mùa, tiến tới một nền kinh tế có cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ. (6)

Từ thực tế của nền kinh tế Việt Nam, tác giả luận án xin nêu nhận xét rằng: Lý thuyết

của ông Hany T. Oshima còn có cơ sở khác mà ông không đề cập tới, đó là yêu cầu phát huy

nguồn lực đất đai và lao động ở nông thôn một cách hữu hiệu và phải hạn chế tình trạng thất

nghiệp cao ở các thành phố. Trong thực tế, lực lƣợng lao động tại chỗ ở các thành phố (khu

vực thành thị không chính thức) đã đủ thừa để cung ứng cho nhu cầu sức lao động trong công

nghiệp (khu vực thành thị chính thức), và lao động ở nông thôn nên đáp ứng nhu cầu sản xuất

và dịch vụ tại chỗ là hợp lý. Ngoài ra, ông chƣa thấy đƣợc xu hƣớng đô thị hóa nông thôn

cũng là kết quả của tăng trƣởng kinh tế.

Thực ra, lý thuyết của ông Harry T. Oshima có ý nghĩa bổ sung cho giải pháp của

Athur Lewis, tức là trong quá trình tăng trƣởng kinh tế của các nƣớc đang phát triển ở châu Á

gió mùa sẽ đồng thời diễn ra hai xu hƣớng, về lâu dài là xu hƣớng đô thị hóa, phát triển nông

thôn và trƣớc mắt là xu hƣớng chuyển dịch lao động nông nghiệp - nông thôn sang công

nghiệp - thành thị.

Trong quá trình phát triển kinh tế, lao động nông thôn sẽ trở nên dƣ thừa còn vì năng

suất lao động nông nghiệp tăng lên. Nếu số lao động di chuyển là lao động dƣ thừa, không

làm giảm sản lƣợng lƣơng thực, thì trƣớc mắt có thể chƣa đòi hỏi sự tăng lên của năng suất

lao động nông nghiệp. Nếu việc di chuyển lao động làm cho nông thôn thiếu lao động, sản

lƣợng lƣơng thực giảm, thì cần tiến hành cơ giới hóa nông nghiệp để năng suất lao động tăng

lên và đảm bảo an toàn lƣơng thực cho nền kinh tế.

43

Việc di chuyển lao động nhƣ vậy ở các nƣớc đang phát triển sẽ có tác dụng giảm bớt

tình trạng thất nghiệp thực tế và thất nghiệp tiềm tàng ở nông thôn; góp phần phân bố cân đối

lại lực lƣợng lao động, tập trung nhân lực vào một số khu vực trọng điểm để đáp ứng cho tiến

trình công nghiệp hóa, phục vụ cho mục tiêu tăng trƣởng kinh tế; góp phần xóa đói nghèo ở

nông thôn, giảm bớt khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, phân chia đồng đều những lợi

ích có đƣợc từ tăng trƣởng kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội. Lực lƣợng lao động nhập cƣ

góp phần đa dạng hóa ngành nghề; ngành công nghiệp, dịch vụ sẽ tăng sản lƣợng và lợi

nhuận nhờ sử dụng lao động nhập cƣ đông đảo, kinh tế sẽ đƣợc thúc đẩy phát triển. Tuy

nhiên, việc di chuyển nhân lực nhƣ vậy có thể gây ra sức ép về kinh tế - xã hội, làm nảy sinh

nhiều vấn đề khó khăn phức tạp ở các thành phố lớn, nhƣ thiếu nhà ở, môi trƣờng đô thị

xuống cấp do dân cƣ quá tải, làm gia tăng thất nghiệp và tội phạm.

Chất lƣợng sức lao động từ nông thôn không cao, không đáp ứng đƣợc yêu cầu của

sản xuất công nghiệp, do thiếu trình độ tay nghề. Sự lựa chọn kỹ thuật sử dụng nhiều hay ít

lao động ở khu vực công nghiệp sẽ có ảnh hƣởng tới việc thu hút lao động từ nông nghiệp.

1.4.6. Giáo dục đào tạo và thị trường đào tạo.

Giáo dục đào tạo là một thành phần của cơ sở hạ tầng xã hội của nền kinh tế. Giáo

dục đào tạo quyết định chất lƣợng nguồn cung sức lao động, năng suất lao động, tác động đến

đến nhu cầu sử dụng sức lao động, nên nó làm thay đổi sự phân khúc thị trƣờng sức lao động.

Nó giúp khắc phục sự bất cập của cơ cấu lao động so với cơ cấu kinh tế và với yêu cầu của

thị trƣờng sức lao động, góp phần giải quyết mâu thuẫn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế. Nó gián tiếp làm giảm bớt tình trạng cách biệt giàu nghèo trong xã hội, bởi vì tình

trạng đó không chỉ do sự cạnh tranh kinh tế mà còn tùy thuộc vào năng lực hoạt động kinh

44

tế của mỗi cá nhân. Giáo dục đào tạo giúp ngƣời lao động dễ tiếp cận với cơ hội có việc làm,

góp phần giải quyết nạn thất nghiệp.

Hiệu quả của đầu tƣ cho đào tạo là khả năng tìm việc làm và mức thu nhập so vái mức

chi phí mà ngƣời lao động hay xã hội đã bỏ ra. Ngƣời lao động chịu học phí nhƣ là sự đầu tƣ

để có đƣợc thu nhập cao hơn, để có thể tìm đƣợc việc làm hay tự tạo việc làm. Ngƣời sử dụng

lao động sẵn sàng bỏ ra chi phí đào tạo lại nếu ngƣời lao động cam kết làm việc sau khi đƣợc

đào tạo. Trong cả hai trƣờng hợp, Nhà nƣớc đều nên trợ cấp một phần học phí để đầu tƣ cho

vốn nhân lực xã hội.

Tác giả luận án cho rằng, liên quan đến thị trƣờng sức lao động có một loại thị trƣờng

là thị trƣờng đào tạo. Đó là loại thị trƣờng không hoàn hảo, bởi vì sự độc quyền mặc nhiên

nhƣng cần thiết của các cơ quan đào tạo. Nhà nƣớc phải đóng vai trò chủ đạo trong việc

tuyển chọn, đào tạo và sử dụng nhân tài.

Không chỉ thị trƣờng sức lao động mà cả thị trƣờng đào tạo cũng đòi hỏi về chất

lƣợng đào tạo. Chất lƣợng đào tạo tùy thuộc vào trang bị cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên

và là yếu tố quyết định chất lƣợng sức lao động, để cung và cầu sức lao động gặp nhau.

Nhu cầu tuyển dụng, nhu cầu việc làm và khả năng kiếm đƣợc việc làm của ngƣời lao

động là những yếu tố chi phối quyết định đến nhu cầu đào tạo, học tập trong xã hội. Nhu cầu

tuyển dụng luôn thay đổi, trong khi việc điều chỉnh định hƣớng học tập và đào tạo là chuyện

không dễ dàng, nên thƣờng xảy ra mất cân đối. Việc hƣớng nghiệp có thể thuận lợi hay khó

khăn nếu phù hợp hay không với cơ cấu việc làm hiện thời.

Quy mô, cơ cấu giáo dục đào tạo - dạy nghề, cơ cấu sức lao động đƣợc quyết định bởi

cơ cấu việc làm hay cơ cấu cầu sức lao động, chứ không phải bởi nhu cầu của ngƣời học. Cơ

cấu việc làm phản ánh cơ cấu kinh tế, thƣờng rất linh

45

hoạt, trong khi cơ cấu giáo dục đào tạo lại thƣờng có sức ỳ hay có sự lạc hậu tƣơng đối. (Xem

bảng 3)

Do vậy, trên thị trƣờng đào tạo, khủng hoảng thừa và thiếu thƣờng xuyên xảy ra đối

với các ngành học về trƣờng lớp và ngƣời theo học; bởi vì tình hình sản xuất kinh doanh, tình

hình kinh tế - xã hội thƣờng xuyên biến động, đến lúc tốt nghiệp thì có thể cơ cấu việc làm đã

đổi khác so với trƣớc, tức là cơ cấu đào tạo lệ thuộc vào thời gian đào tạo. Ở các nƣớc đang

phát triển, cơ cấu việc làm luôn thay đổi bởi vì cơ cấu kinh tế đang và sẽ chuyển đổi. Ở

Singapore, Bộ Giáo dục chỉ góp ý, còn Bộ Công nghiệp và Thƣơng mại mới có quyền quyết

định cơ cấu sinh viên giữa các ngành kỹ thuật, thƣơng mại và máy tính là 25%, 25% và 10%.

Do vậy, trên thị trƣờng đào tạo, khủng hoảng thừa và thiếu thƣờng xuyên xảy ra đối

với các ngành học về trƣờng lớp và ngƣời theo học; bởi vì tình hình sản xuất kinh doanh, tình

hình kinh tế - xã hội thƣờng xuyên biến động, trong khi cơ cấu đào tạo lệ thuộc vào thời gian

đào tạo, lúc tốt nghiệp thì có thể cơ cấu việc làm đã khác trƣớc. Ở các nƣớc đang phát triển,

Bảng 3: Cơ sở xác định chiến lược giáo dục đào tạo.

cơ cấu việc làm luôn thay đổi vì cơ cấu kinh tế đang và sẽ chuyển đổi.

Cơ cấu Việc làm Cơ cấu Đào tạo Cơ cấu Sức lao động

46

Ở các nƣớc đang phát triển, loại hình đào tạo ngắn hạn chiếm ƣu thế vì hai nguyên

nhân: một là có thể đáp ứng nhu cầu của các ngành nghề có sức hút, hai là phù hợp với túi

tiền của học sinh học nghề và mức đầu tƣ không nhiều. (Kết luận của cuộc điều tra "Nghiên

cứu phát triển kỹ năng và thị trường lao động" năm 1998)

1.4.7. Việc làm và vấn đề thất nghiệp.

Ở phần này, tác giả chỉ xin trình bày lại những kiến thức đã biết cho rõ ràng hơn, có

hệ thống hơn và phát triển thêm một số thuật ngữ.

1.4.7.1 Việc làm và các yếu tố ảnh hưởng đến việc làm.

Việc làm là những hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập mà không bị pháp luật

cấm và mang lại ích lợi cho xã hội. Nghề nghiệp là việc làm chủ yếu, tạo ra thu nhập cơ bản,

với đòi hỏi nhất định về kinh nghiệm và trình độ chuyên môn của ngƣời lao động. Việc làm

là vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội rất nhạy cảm, là một trong những yếu tố cơ bản nhất đảm

bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Có thể phân biệt việc làm đã có ngƣời và việc

làm chƣa có ngƣời; việc làm toàn thời gian, việc làm bán thời gian; việc làm tạm thời, việc

làm ổn định lâu dài... Các loại việc làm nói trên cho thấy nhu cầu về sức lao động hay số

cung việc làm. Số cung thực tế sức lao động chính là số cầu việc làm. Những ngƣời lao động

chƣa cần đến việc làm là thuộc về số cung sức lao động tiềm năng.

Những nhân tố ảnh hƣởng đến việc chọn nghề là khả năng chuyên môn, khả năng vốn

liếng, tình trạng sức khỏe, các quan hệ xã hội có đƣợc, hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lý

hay sở thích cá nhân; hoạt động hƣớng nghiệp trong xã hội... Khả năng tìm việc của ngƣời

lao động dựa vào quá trình đào tạo, năng lực chuyên môn nghề nghiệp, kinh nghiệm của bản

thân ngƣời lao động kể cả kỹ năng ứng xử khi đƣợc phỏng vấn tuyển dụng; có thể dựa vào

thân thế, qua thông

47

tin từ bạn bè gia đình; qua các trung tâm giới thiệu việc làm, hay nhờ đƣợc tự giới thiệu trên

báo chí. Các Trung tâm dịch vụ việc làm có thể lƣu trữ sức lao động xã hội, có thể cung cấp

trong thời gian ngắn các loại nhân viên làm việc thƣờng xuyên, bán thời gian hoặc tạm thời

cho các doanh nghiệp. Nhƣng, không nên gọi đó là ngân hàng việc làm vì có sự khác biệt cơ

bản giữa tiền tệ với sức lao động. Sự hạn chế của thông tin thị trƣờng sức lao động làm tăng

chi phí tìm việc và làm cho ngƣời lao động giảm ƣớc muốn thay đổi công việc, trừ khi có một

sức hút nào đó. Ngƣời lao động có khả năng chuyên môn thì sẽ có nhiều ƣu thế và sẽ có khả

năng tìm đƣợc việc làm nhiều hơn, hơn nữa họ có thể tự tạo ra việc làm cho mình và cả cho

ngƣời khác. Một số ngƣời trong số đó, có thể đi làm thêm ngoài giờ để tăng thu nhập, nhƣng

không làm giảm số việc làm của ngƣời khác, vì không phải ai cũng có thể làm những việc ấy

đƣợc.

Khả năng tìm việc làm của lao động nữ vừa khó lại vừa dễ. Dễ là bởi vì cùng một

công việc nhƣng tiền lƣơng của lao động nữ thấp, bằng 50% - 80% tiền lƣơng của nam giới,

điều kiện làm việc dễ dãi nên giới chủ thƣờng mƣớn lao động nữ nhiều hơn. Khó là bởi vì đa

số lao động nữ thích hợp với việc làm có yêu cầu trình độ thấp, trong khi nhu cầu sử dụng

sức lao động là ngƣợc lại. Lao động nữ thƣờng cần cù, chịu khó, tỷ mỷ, nhẫn nại, có ý thức

kỷ luật, cẩn thận hơn so với nam giới, nhƣng thƣờng bị phân biệt đối xử, gặp nhiều khó khăn

hơn nam giới. (Tại 2/3 các nước công nghiệp phát triển, tỷ lệ thất nghiệp của phụ nữ cao hơn

nam giới, số lượng tăng từ 40% trước đấy lên 45% hiện nay).

Chúng ta hãy phân tích những yếu tố chi phối đến việc làm từ phía các doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp luôn muốn tuyển dụng đúng ngƣời lao động làm đƣợc việc, có khả năng

thật sự, gồm những ngƣơi có kinh nghiệm và ngƣời trẻ có năng lực, có khả năng tƣ duy, có

tính cách nhanh nhẹn, có khả năng thích ứng với công nghệ mới, phù hợp vơi chiến lƣợc phát

triển lâu dài của doanh nghiệp. Mặt

48

khác, việc sa thải và tuyển dụng mới sẽ gây ra tốn kém chi phí, số công nhân thay thế sẽ làm

phá vỡ những nhóm lao động đã gắn bó hài hòa với nhau trong công việc, làm ảnh hƣởng đến

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; trong khi đó phần đầu tƣ vô hình của doanh

nghiệp mang lại kinh nghiệm, trình độ cho ngƣời lao động sẽ bị mất đi. Do đó, mỗi khi có

những biến động giảm về nhu cầu và sản lƣợng trong ngắn hạn, các doanh nghiệp thƣờng

không muốn thuê thêm hoặc sa thải ngƣời lao động, mà sẽ cố giữ số lao động nhƣ cũ, đồng

thời rút ngắn thời gian làm việc trong tuần, chấp nhận để ngƣời lao động nghỉ việc hƣởng

70% lƣơng; nhƣng nếu tính đến khả năng cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động và

chất lƣợng sản phẩm, thỉ các doanh nghiệp có thể đào tạo lại ngƣời lao động. Khi yêu cầu về

sản lƣợng tăng trong ngắn hạn, thì doanh nghiệp sẽ yêu cầu ngƣời lao động làm thêm giờ có

tiền phụ trội trong giới hạn cho phép, đồng thời còn hợp đồng lao động tạm để tăng thêm

nhân lực. Nếu chắc chắn rằng tình hình sản xuất kinh doanh là phát triển ổn định, thì doanh

nghiệp sẽ tuyển ngƣời nhiều hơn, tăng lƣơng để giữ ngƣời giỏi và áp dụng tiền thƣởng trên

kết quả sản xuất. Nếu tình hình là suy giảm dài hạn, thì doanh nghiệp sẽ cho ngƣời lao động

tạm nghỉ việc và khi có nhu cầu sử dụng thì gọi lại.

Về phía ngƣời lao động, họ mong muốn tìm đƣợc những việc làm có thuận lợi nhất,

phù hợp với năng lực, sở trƣờng của mình; họ cân nhắc tất cả những mục có lƣơng và không

lƣơng của công việc, nhƣng một số điều kiện làm việc chỉ có thể đƣợc nhận ra sau một thời

gian làm việc. Do vậy, thời gian thử việc nƣớc khi tuyển dụng chính thức là cần thiết, không

chỉ cho ngƣời sử dụng lao động mà cả đối với ngƣời lao động. Đối với ngƣời lao động, thay

đổi công việc liên tục làm cho cuộc sống không an toàn, việc tìm kiếm công việc mới sẽ mất

thời gian, sức lực, tiền bạc, đồng thời bỏ phí kinh nghiệm tích lũy đƣợc; việc chuyển đổi chỗ

làm lại thể hiện sự hạn chế về năng lực và lòng trung thành. Sự chiếm giữ lâu dài

49

một công việc cho thấy sự an toàn của ngƣời lao động, sự ổn định của quan hệ lao động, tuy

nhiên lại làm cho những ngƣời lao động khác khó có đƣợc việc làm.

1.4.7.2. Vấn đề thất nghiệp.

Thất nghiệp là tình trạng không có, chƣa có hoặc bị mất việc làm ở những ngƣời trong

độ tuổi lao động có sức lao động, đang mong muốn tìm việc làm vì cuộc sống bức bách.

Cũng có thể nói đó là tình trạng không bán đƣợc hay chƣa bán đƣợc sức lao động của ngƣời

lao động muốn bán nó. Những ngƣời đang đi học, trông coi nhà cửa, nội trợ, về hƣu, đau ốm

kéo dài... thì nằm ngoài lực lƣợng lao động, không phải là ngƣời thất nghiệp. Toàn dụng lao

động là tình trạng ngƣời có khả năng lao động muốn làm việc có thể tìm đƣợc việc làm trong

thời gian ngắn (dƣới 3 tháng) và số lƣợng việc làm tƣơng ứng với sản lƣợng tiềm năng. Có

hai chỉ số thể hiện sự toàn dụng lao động là mức thất nghiệp và số ngƣời tìm việc trên một

chỗ làm việc trống.

Lực lƣợng lao động gồm có hai nhóm là nhóm bên trong đang có việc làm và nhóm

bên ngoài đang thất nghiệp và giữa hai nhóm có sự đối kháng về lợi ích và có sự cạnh tranh

gián tiếp. Thông thƣờng, nhóm bên trong không muốn giảm lƣơng, bớt nhiệm vụ để tạo việc

làm cho nhóm bên ngoài. Nhƣng, khi khối lƣợng công việc quá nhiều, nhóm bên trong nhận

thấy mình bị bóc lột trƣớc sức ép thất nghiệp, họ đã đấu tranh đòi giới chủ phải thuê thêm lao

động. Hơn nữa, với thu nhập hiện tại ngƣời lao động có thể cho phép mình đƣợc nghỉ ngơi.

Thất nghiệp xảy ra khi cung sức lao động quá nhiều hơn cầu sức lao động, với hai

nguyên nhân tƣơng ứng với tình trạng nhân khẩu thừa tuyệt đối do dân số tăng và tình trạng

nhân khẩu thừa tƣơng đối do quy luật cung - cầu có tác dụng chậm đối với thị trƣờng sức lao

động, do hợp đồng lao động phải có thời hạn và Nhà nƣớc không thể nhanh chóng can thiệp

để điều chỉnh nguồn cung hay lƣợng cầu nhƣ đối với hàng hóa thông thƣờng.

50

Có hai trƣờng hợp không có việc làm là cần hoặc không cần việc làm. Thất nghiệp tự

nguyện là trƣờng hợp ngƣời lao động không cần tìm việc làm hay tự nguyện xin thôi việc do

mức tiền lƣơng thực tế quá thấp, do ngƣời lao động có khả năng vốn liếng tài sản, hay do trợ

cấp thất nghiệp của Nhà nƣớc (thu nhập cơ hội của họ). Ở hầu hết các nƣớc đang phát triển,

chỉ có trợ cấp mất việc, trợ cấp thôi việc do các doanh nghiệp chỉ trả (thực ra cũng chính là

bằng nguồn tiền lƣơng của ngƣời lao động), chứ không có trợ cấp thất nghiệp cho mọi đối

tƣợng nhƣ ở các nƣớc phát triển. Thất nghiệp tự nguyện thƣờng xuất hiện ở các nƣớc phát

triển, nó không đáng ngại, không phải là thất nghiệp đúng nghĩa, nhƣng cũng có thể đƣa đến

sự lãng phí về nguồn lực. Nói chung, mỗi cá nhân trong xã hội đều muốn có việc làm theo

những mục đích nào đó nhƣ là mong muốn có thu nhập đảm bảo cuộc sống hay nhằm đạt

đƣợc sở thích, nguyện vọng. Xã hội phải ƣu tiên giải quyết việc làm cho những ngƣời cần

việc làm vì đảm bảo cuộc sống bức bách. Tuy nhiên, đối với những ngƣời này vẫn có sở thích

và nguyện vọng nghề nghiệp. Một xã hội là tiến bộ nếu đáp ứng đƣợc hai mục tiêu của ngƣời

lao động là vừa đƣợc đảm bảo cuộc sống nhờ có thu nhập và vừa đƣợc thăng tiến trong nghề

nghiệp mà mình có nguyện vọng.

Ngƣời ta nói đến nhiều dạng thất nghiệp, nhƣng có một số thuật ngữ trùng lắp, tác giả

luận án cho rằng nên trình bày lại cho rõ ràng hơn, khái quát hơn. Theo định nghĩa, xét về

nguyên nhân thất nghiệp, thì gồm có:

Một là, thất nghiệp cơ cấu, xảy ra do cơ cấu của cung sức lao động (hầu hết là lao

động giản đơn) không phù hợp với cơ cấu của cầu sức lao động. Các nƣớc đang phát triển

luôn xảy ra phổ biến loại thất nghiệp này, khi cơ cấu kinh tế đƣợc chuyển dịch (bao gồm thay

đổi cơ cấu sử dụng đất đai). Biện pháp khắc phục là đẩy mạnh đào tạo nghề cho ngƣời lao

động trẻ chƣa có việc làm, cải thiện hoạt động dịch vụ việc làm.

51

Hai là, thất nghiệp công nghệ, xảy ra khi cầu sức lao động thay đổi do ứng dụng công

nghệ mới (kể cả trong nông nghiệp khi tiến hành cơ khí hóa), ngƣời lao động đang làm việc

không đáp ứng đƣợc yêu cầu sử dụng. Biện pháp khắc phục là đào tạo lại ngƣời lao động, hay

bố trí công việc khác cho họ.

Ba là, thất nghiệp chu kỳ (thất nghiệp nhu cầu), là hậu quả của chu kỳ kinh tế suy

thoái, cầu sức lao động giảm mạnh do tổng cầu - tổng mức chi tiêu giảm nhiều, tỷ lệ thất

nghiệp thƣờng là cao.

Có thể phân biệt các loại thất nghiệp theo tính chất và đặc điểm của nó.

Một là, thất nghiệp bán phần (thất nghiệp vô hình hay trá hình): ngƣời lao động có

việc làm nhƣng không đủ so với yêu cầu làm việc và thu nhập của họ, còn nhiều thời gian

nhàn rỗi trong ngày, trong năm (theo mùa vụ trong nông nghiệp và một số ngành công nghiệp

thực phẩm và xây dựng).

Hai là, thất nghiệp tạm thời, hệ quả của thất nghiệp công nghệ: ngƣời lao động với tay

nghề và kinh nghiệm có thể tìm công việc mới trong ngắn hạn. (7)

Sẽ là không tƣởng nếu cho rằng có thể xóa bỏ triệt để nạn thất nghiệp. Theo các nhà

kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp từ 3% đến 4% là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, đƣợc xem là toàn dụng

nhân lực, đƣợc coi nhƣ dự trữ nguyên liệu cho sản xuất, tạo ra "túi chứa" sức lao động vô hại

cho nền kinh tế, mà lại có tác dụng phát huy vai trò của thị trƣờng sức lao động. Tỷ lệ từ 4%

đến 9% là cao và trên 9% là nguy hiểm.

Thất nghiệp là nguyên nhân chính gây ra nạn đói nghèo ở các nƣớc đang phát triển và

gây ra khủng hoảng, bất ổn kinh tế - xã hội ở các nƣớc phát triển. Nạn thất nghiệp tạo ra gánh

nặng cho nền kinh tế, bởi vì trong khi thu nhập và sản lƣợng không gia tăng, xã hội vẫn phải

tiêu phí một lƣợng sản phẩm nhất định để nuôi sống ngƣời lao động và những chi phí đã đầu

tƣ cho sức lao động không thể thu hồi đƣợc. Nạn thất nghiệp còn khiến cho nền kinh tế bị

đình trệ, khủng

52

hoảng, bởi vì ngƣời lao động không có việc làm và thu nhập nên sức mua xã hội sụt giảm,

sản xuất khó phát triển. Về phía ngƣời thất nghiệp, họ gặp khó khăn về đời sống, căng thẳng

về tinh thần và thậm chí bị đe dọa về cuộc sống của mình.

Các nhà kinh tế đã thừa nhận mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp.

Trƣờng phái "Kinh tế vĩ mô hiện đại" ở Mỹ đã ủng hộ quan điểm của phái trọng tiền là để

giảm thất nghiệp thì nên tăng mức cung tiền tệ hằng năm theo tỷ lệ nhất định (đồng thời với

chính sách lãi suất thấp), đầu tƣ sẽ tăng, lạm phát tăng, số cầu gia tăng sẽ đòi hỏi số cung

hàng hóa và số cầu sức lao động tăng theo, tình trạng khiếm dụng nguồn lực sẽ đƣợc khắc

phục. Họ cho rằng quan hệ tỷ lệ nghịch này chỉ có giá trị trong ngắn hạn, còn trong dài hạn

thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ ổn định ở mức thất nghiệp tự nhiên. Do vậy, họ chủ trƣơng ƣu tiên cho

việc chống lạm phát hơn là giảm thất nghiệp.

Từ thực tế quản lý kinh tế ở Việt nam, tác giả luận án cho rằng toàn dụng nhân lực và

một mức lạm phát thấp hơn mức lãi suất là hoàn toàn có thể đồng thời đảm bảo đƣợc.

Vai trò quyết định của đầu tƣ đƣợc thể hiện trong lý thuyết việc làm của J.M. Keynes.

Qua phân tích khuynh hƣớng tiêu dùng và tiết kiệm trong xã hội, ông đã rút ra kết luận là:

cùng với sự tăng lên của thu nhập thì tiêu dùng có xu hƣớng giảm và tiết kiệm có xu hƣớng

tăng, lạm phát sẽ giảm thiểu, thất nghiệp tăng, nền kinh tế sẽ trở nên trì trệ. Tình trạng thất

nghiệp một phần là bắt nguồn từ sự thiếu hụt đầu tƣ, đồng thời với sự dƣ thừa tiết kiệm. Nếu

dân chúng tiết kiệm bằng cách đầu tƣ thì tốt hơn. Ông đã nói đến lý thuyết số nhân: mỗi sự

gia tăng của đầu tƣ đều kéo theo sự gia tăng số lƣợng việc làm và thu nhập, tiêu dùng cá nhân

- sức mua xã hội tăng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, kích thích đầu tƣ mới, thất nghiệp sẽ

giảm. Song khối lƣợng đầu tƣ lại phụ thuộc vào môi trƣờng đầu tƣ, vào hiệu quả của tƣ bản

(tỷ suất lợi nhuận) so với mức lãi suất. Khó khăn

53

trong nền kinh tế là tỷ suất lợi nhuận thì giảm sút, còn lãi suất cho vay thì ổn định, khiến các

nhà sản xuất kinh doanh không tin vào thu nhập tƣơng lai, nên hạn chế đầu tƣ. Theo ông, Nhà

nƣớc phải có chƣơng trình đầu tƣ với quy mô thích hợp để tăng "cầu có hiệu quả" (cả số cầu

tiêu thụ lẫn số cầu đầu tƣ, trong đó cầu tiêu thụ có tác dụng thúc đẩy cầu đầu tƣ), kích thích

đầu tƣ tƣ nhân, tạo ra việc làm.

Ngoài ra, theo định luật Okun, khi GNP giảm 2% so với GNP tiềm năng thì tỷ lệ thất

nghiệp tăng 1%. Hơn nữa, các nhà kinh tế học và dân số học đã đƣa ra một thông số là nếu

dân số tăng tự nhiên mỗi năm 1%, muốn đảm bảo đủ việc làm cho số lao động tăng thêm mà

vẫn giữ đƣợc mức sống dân cƣ không giảm thì tổng sản phẩm trong nƣớc phải tăng 3%.

1.4.8. Xu hướng hợp nhất và phân hóa trên thị trường sức lao động.

Do tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật, nền kinh tế toàn cầu ngày càng hội

nhập một cách mạnh mẽ, các quan hệ kinh tế quốc tế đƣợc mở rộng thì thị trƣờng sức lao

động sẽ phát triển theo hai xu hƣớng là phân hóa và hợp nhất.

Xu hƣớng hợp nhất: Các tiến bộ kỹ thuật công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin

đã giúp lƣu thông hàng hóa thông suốt; vốn đầu tƣ, lao động cũng nhƣ công nghệ đƣợc di

chuyển khắp thế giới. Với sự phát triển của tin học, cung và cầu của thị trƣờng sức lao động

cũng nhƣ các loại thị trƣờng khác sẽ đƣợc giải quyết với công cụ máy vi tính nối mạng, lao

động văn phòng đƣợc sử dụng từ xa, làm việc ở nhà; các doanh nghiệp có thể tuyển dụng lao

động ở hải ngoại để thay thế số nhân viên tại chỗ.

Xu hƣớng phân hóa: Tự động hóa sản xuất có những ảnh hƣởng bất lợi đối với thị

trƣờng sức lao động. Công nghệ, máy móc hiện đại đƣợc đƣa vào sử dụng có thể tạm thời

làm giảm nhu cầu sức lao động trực tiếp, khiến ngƣời lao động bị mất việc làm, nhu cầu chỉ

tăng lên đối với sức lao động có chuyên môn kỹ thuật

54

với mức tiền lƣơng cao và đối với sức lao động ở những khâu dịch vụ có liên quan theo tác

động dây chuyền. Hơn nữa, do ảnh hƣởng của cách mạng khoa học kỹ thuật, xu hƣớng phổ

biến ở các quốc gia hiện nay là các nhà sản xuất sẽ sử dụng lao động ít hơn nhƣng lành nghề

hơn, phù hợp với công nghệ thiết bị hiện đại; họ không phải quan tâm đến số lƣợng giờ lao

động mà là quan tâm đến năng suất và chất lƣợng của nó. Nếu cách đây 20 năm, hàm lƣợng

các yếu tố vật chất trong sản phẩm chiếm từ 70 - 75% và chất xám chỉ chiếm từ 15 - 20%, thì

nay tỷ lệ đã đƣợc đảo ngƣợc (Theo Ban chính sách khoa học-Bộ KHCN và MT). Về lâu dài,

máy móc làm tăng năng suất lao động và chất lƣợng sản phẩm, thu nhập và sức mua tăng, sản

xuất phát triển sẽ tạo nhiều việc làm mới nhƣng với yêu cầu lao động cao hơn.

Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại đã thúc đẩy lực lƣợng sản xuất phát

triển cực kỳ nhanh chóng, làm thay đổi cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu sản

phẩm, cơ cấu tổ chức xí nghiệp, cơ cấu, vị trí và tính chất của các loại lao động, sự bố trí dân

cƣ... nên sẽ có ảnh hƣởng lớn đến thị trƣờng sức lao động. Theo thống kê, năm 1995 có 1,1 tỷ

dân châu Á sống tại các đô thị, theo tỷ lệ cứ ba người có một người thành thị. Theo tính toán

dự báo, đến năm 2020 dân số đô thị châu Á sẽ là 2,5 tỷ người, chiếm 1/2 tổng số dân.

Sự phân cực trong lực lƣợng lao động theo ngành nghề và vùng kinh tế sẽ xảy ra, biểu

hiện qua sự chênh lệch về thu nhập do khả năng của mỗi cá nhân; một bài có khả năng cao,

lƣơng cao là những ngƣời có chuyên môn, những cán bộ quản lý và nhân viên kỹ thuật và

một bên có khả năng thấp, lƣơng thấp là thợ thủ công, nhân viên bán hàng và marketing,

nhân viên hành chính, công nhân vận hành và nông dân. Sự chênh lệch thu nhập trong lực

lƣợng lao động công nghiệp, giữa lao động công nghiệp với lao động nông nghiệp thoạt đầu

nảy sinh, nhƣng sau đó sẽ giảm dần khi kinh tế phát triển vì khi đó lực lƣợng lao động xã

55

hội đƣợc toàn dụng, lao động sẽ trở nên khan hiếm và tiền lƣơng sẽ có xu hƣớng bình quân

hóa. Chu trình vận động hai chiều giữa lao động thành thị và lao động nông thôn ngày càng

rõ rệt. Trong tƣơng lai gần, sẽ có xu hƣớng ngƣợc lại với hiện nay, dòng ngƣời lao động

thành phố sẽ đến những vùng nông thôn đất hứa hay về những khu công nghiệp lớn.

Theo xu hƣớng chung đƣợc chứng minh từ thực tế các nƣớc NIC, thế mạnh giá cả sức

lao động rẻ vốn là vũ khí cạnh tranh chính của các nƣớc này sẽ bị suy yếu. Kinh tế phát triển

nhanh làm cho công nhân có xu hƣớng đòi hỏi tăng lƣơng liên tục, cũng nhƣ đòi hỏi cải thiện

điều kiện làm việc. Chi phí lao động chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong giá thành sản phẩm, sản

phẩm sẽ không cạnh tranh đƣợc không chỉ ở thị trƣờng nƣớc ngoài mà cả ở thị trƣờng trong

nƣớc. Nếu mức tăng tiền lƣơng vƣợt quá mức tăng năng suất lao động thì các doanh nghiệp

sẽ gặp khó khăn. Nhƣng bù lại nếu năng lực và tay nghề của lực lƣợng lao động đƣợc nâng

lên thì khả năng cạnh tranh vẫn không giảm. Các nƣớc NIC đã phải đẩy mạnh quá trình tự

động hóa, tấn công mạnh mẽ vào lĩnh vực kỹ thuật cao, đồng thời tìm cách đầu tƣ sang các

nƣớc xung quanh có mức lƣơng thấp hơn. Lợi thế sức lao động giá rẻ của Việt Nam cũng sẽ

biến chuyển theo xu hƣớng nhƣ vậy.

1.4.9. Vai trò Nhà nước đối với thị trường sức lao động.

Mặc dù tiền công linh hoạt có thể làm cân đối thị trƣờng sức lao động, việc phân phối

nguồn nhân lực vẫn có thể bị trục trặc. Bên cạnh việc phát huy vai trò của thị trƣờng sức lao

động, Nhà nƣớc còn phải có những biện pháp quản lý có hiệu lực để hạn chế những mặt tiêu

cực hay lãng phí có thể xảy ra.

Nhà nƣớc là chủ thể đại diện cho lợi ích xã hội, nên phải theo dõi, điều tiết thị trƣờng

sức lao động nhiều hơn, bởi vì các quy luật kinh tế tác dụng yếu hơn so với các thị trƣờng

khác. Quy luật giá trị chỉ có tác dụng điều tiết phân phối lƣu thông sức lao động chứ không

điều tiết "sản xuất" nó; chỉ có cạnh tranh trong

56

việc mua và bán sức lao động (sự cạnh tranh giữa lao động tại chỗ với lao động nhập cƣ, lao

động nhập khẩu), chứ không có cạnh tranh trong việc "sản xuất" nó bởi vì lƣợng cung sức lao

động đƣợc giới hạn bởi số dân đến tuổi lao động, số dân chuyển cƣ và số lao động mất việc.

Trên thị trƣờng sức lao động, ngƣời lao động khó mặc cả với doanh nghiệp và dễ bị thiệt thòi

vì phải cân nhắc những thành phần đƣợc và không đƣợc trả lƣơng của công việc và những

điều kiện vật chất và xã hội chỉ đƣợc thấy rõ khi sử dụng sức lao động.

Nhà nƣớc có vai trò quan trọng trong việc hoạch định các chính sách đồng bộ cùng

với việc sử dụng khả năng tài chính, thế mạnh về kinh tế đối ngoại của mình, gia tăng đặt

hàng các doanh nghiệp... để kích thích phát triển sản xuất kinh doanh, làm gia tăng tổng cầu,

thúc đẩy nhu cầu sức lao động, tạo ra việc làm cho xã hội, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân

lực cũng nhƣ các nguồn lực khác của đất nƣớc. Nhà nƣớc còn phải xây dựng hệ thống luật

lao động để tạo hành lang pháp lý, phát huy vai trò của hệ thống bộ máy quản l ý, điều chỉnh

quan hệ lao động theo hƣớng ổn định, hài hòa, đƣợc tái tạo theo hƣớng mở rộng.

Chiến lƣợc phát triển nguồn nhân lực đƣợc hiểu là quyết sách có tính định hƣớng của

Nhà nƣớc cho một thời kỳ dài, từ 5 đến 10 năm, trong đó thể hiện rõ quan điểm, chủ trƣơng,

cơ chế, chính sách, phạm vi, đối tƣợng, những cân đối và giải pháp lớn nhằm đạt đƣợc mục

tiêu đề ra.

Nhà nƣớc có thể hạn chế mức cung sức lao động trong tƣơng lai bằng chính sách hạn

chế tỷ lệ gia tăng dân số; có thể điều tiết lƣợng cung sức lao động thông qua việc quản lý

nhân khẩu nhập cƣ, qui định tiền lƣơng tối thiểu, số giờ làm việc tối đa trong ngày, số ngày

làm việc trong tuần... Chính sách về tiền lƣơng, thời gian làm việc hợp lý còn kích thích năng

suất và hiệu quả lao động. Chính sách về thuế thu nhập vừa có tác dụng điều tiết nguồn cung

sức lao động, vừa tác động đến nhu cầu sức lao động. Nhà nƣớc thực hiện chính sách tăng

cƣờng đầu tƣ cho

57

giáo dục đào tạo, thực hiện chủ trƣơng xã hội hóa giáo dục đào tạo và dạy nghề qui định việc

đóng góp chi phí đào tạo của doanh nghiệp... để nâng cao chất lƣợng sức lao động xã hội.

Chính sách việc làm và chính sách thị trƣờng sức lao động là không đồng nhất với

nhau. Việc phân biệt hai loại chính sách này đƣợc căn cứ vào các công cụ sử dụng và phạm

vi tác động. Chính sách việc làm nghiêng về sử dụng các công cụ của chính sách tài chính -

tiền tệ, tác động trực tiếp trên thị trƣờng hàng hóa tiền tệ, qua đó tác động đến tổng cầu và

mức việc làm trong nền kinh tế, ảnh hƣởng gián tiếp đến thị trƣờng sức lao động. Chính sách

thị trƣờng sức lao động tác động đến nguồn cung sức lao động thông qua các công cụ đặc thù

nhằm nâng cao chất lƣợng sức lao động, điều chỉnh cung để thích nghi với cầu sức lao động

và nhằm tạo điều kiện để phát huy và ổn định thị trƣờng sức lao động. Chính sách thị trƣờng

sức lao động đƣợc áp dụng khi xảy ra những mất cân đối trên những thị trƣờng sức lao động

khu vực. Chính sách thị trƣờng sức lao động đóng vai trò trung gian và làm giảm nhẹ các

mâu thuẫn do các chính sách khác nhau tác động xấu đến thị trƣờng sức lao động, hƣớng tới

các mục tiêu cơ cấu, mục tiêu xã hội và mục tiêu giảm thất nghiệp trong ngắn hạn. Những

biện pháp kèm theo chính sách thị trƣờng sức lao động là hoàn thiện hệ thống thông tin về

cung và cầu lao động, hƣớng nghiệp và tƣ vấn nghề nghiệp, khuyến khích di chuyển lao động

theo khu vực kinh tế, vùng, ngành và thực hiện bảo hiểm xã hội cho những ngƣời lao động bị

mất việc. (8)

58

Kết luận chương 1:

Trong chƣơng này, luận án đã góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận về sức lao

động và thị trƣờng sức lao động. Việc làm rõ đặc điểm và vai trò nói chung của sức lao động

cũng nhƣ của thị trƣờng sức lao động đã có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và nhận thức,

hƣớng tới mục tiêu phát huy nguồn nhân lực trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị

trƣờng. Qua việc phân tích giá trị của hàng hóa sức lao động, chúng ta càng thấy rõ đó là cơ

sở của giá cả sức lao động, còn tƣơng quan cung - cầu sức lao động chỉ là yếu tố tác động mà

thôi. Nhƣ vậy, chúng ta càng khẳng định tính đúng đắn của lý luận giá trị của Các Mác.

Sự khẳng định tính chất hàng hóa của sức lao động trong điều kiện nền kinh tế hàng

hóa theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa đã góp phần phát triển lý luận "hàng hoá sức lao động"

của Các Mác. Việc đi sâu nghiên cứu trạng thái cung - cầu sức lao động giúp chúng ta thấy

đƣợc yếu tố chi phối thƣờng xuyên đến tiền lƣơng và những nguyên nhân của tình trạng thất

nghiệp trong xã hội.

Qua việc nghiên cứu một vấn đề lý luận mới là quan hệ lao động - một nội dung của

quan hệ sản xuất, chúng ta sẽ nhận thức đƣợc tác dụng của thị trƣờng sức lao động đối với

quan hệ sản xuất và lực lƣợng sản xuất và làm thế nào để tái tạo quan hệ lao động, đảm bảo

cho quá trình tái sản xuất xã hội, cũng nhƣ tái sản xuất cá biệt đƣợc diễn ra không ngừng.

Nghiên cứu về sự biến động của nguồn cung sức lao động, chúng ta càng thấy rõ quy

luật chuyển dịch lực lƣợng lao động và chuyển đổi cơ cấu lao động. Vai trò của giáo dục đào

tạo đã đƣợc nhấn mạnh trong việc tác động đến chất lƣợng nguồn cung sức lao động, làm

thay đổi sự phân đoạn thị trƣờng sức lao động. Nhà nƣớc có vai trò quan trọng thông qua việc

xây dựng hệ thống các chính sách nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của thị

trƣờng sức lao động và phát huy nguồn nhân lực của quốc gia.

59

CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ THỰC TRẠNG CỦA THỊ

TRƢỜNG SỨC LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM

2. 1. Quá trình hình thành thị trường sức lao động ở Việt Nam qua các thời

kỳ lịch sử

Ở mỗi quốc gia đều có một quá trình hình thành thị trƣờng sức lao động đặc thù tùy

theo điều kiện lịch sử của mỗi nƣớc.

2. 1. 1. Thị trường sức lao động trước Cách mạng tháng Tám.

Trong thời kỳ Pháp thuộc, nhiều ngƣời dân Việt Nam vì cuộc sống phải đi làm phu

đồn điền. Ngƣời lao động phải làm sổ lao động ghi rõ lý lịch, quê quán, chỗ ở hiện tại, tính

chất và thời hạn giao kèo, số lƣợng và cách thức trả lƣơng. Sổ lao động có giá trị nhƣ giấy

phép cƣ trú, đƣợc xác nhận của nhà cầm quyền sau mỗi lần thay đổi, để theo dõi việc di

chuyển của ngƣời lao động.

Toàn quyền Đông dƣơng - Paul Doumer đã ký Nghị định ngày 26.8.1889, với nội

dung là buộc công nhân Việt Nam ở Bắc kỳ phải làm giao kèo miệng với chủ Pháp. Trong

thời hạn một năm, nếu ngƣời công nhân bỏ việc là phạm pháp do vi phạm giao kèo, sẽ bị phạt

tù và phạt tiền. Nghị định này áp đặt ngƣời công nhân lệ thuộc vào ngƣời chủ gần nhƣ hoàn

toàn.

Nghị định ngày 25.10.1927 quy định thể lệ chung cho công nhân làm giao kèo viết,

với thời hạn ba năm, tại các đồn điền trong toàn Đông Dƣơng. Hình thức giao kèo viết nhƣ có

vẻ công bằng, sòng phẳng, "thuận mua vừa bán", nhƣng thực ra thì chỉ là công cụ để ràng

buộc ngƣời công nhân.

60

Với những văn bản pháp luật ấy, nhà cầm quyền thực dân đã đạt đƣợc mục đích giải

quyết nạn thiếu phu trầm trọng và đảm bảo một đội ngũ công nhân ổn định với giá rẻ mạt,

thông qua một chế độ lao động cƣỡng bức công khai cũng nhƣ trá hình.

Theo Sắc lệnh ngày 19.1.1933 về chế độ lao động "tự do", công nhân tự do là công

nhân làm việc không có giao kèo, hoặc theo giao kèo miệng, giao kèo viết nhƣng không xác

định rõ thời hạn.

Sắc luật ngày 30.12.1936 đã qui định mối quan hệ giữa ngƣời chủ với ngƣời thợ. Chủ

không đƣợc dùng con trai hay con gái dƣới 12 tuổi vào học việc. Chủ và thanh tra lao động

đồng ý với nhau để quy định những thể lệ nhƣ: lƣơng chính đối với từng loại thợ và từng

vùng khác nhau, nghỉ phép hằng năm đƣợc hƣởng lƣơng, việc tổ chức học nghề, thể thức giải

quyết các cuộc xung đột giữa chủ và thợ, bồi thƣờng thiệt hại cho bên kia. Sắc luật này còn

đặt ra mức lƣơng tối thiểu cho công nhân.

Nhƣ vậy, trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ nƣớc ta, thị trƣờng sức lao động đã hình

thành bƣớc đầu, phục vụ cho mục đích khai thác sức lao động của nhân dân ta, chứ không vì

hiệu quả của nền kinh tế thuộc địa. Nó cũng tạo cho ngƣời lao động Việt nam ý thức về việc

mua bán sức lao động, về quan hệ giữa chủ và thợ trong nền kinh tế lúc bấy giờ.

2.1.2 Thị trường sức lao động thời kỳ 1954 -1975.

Năm 1954, ở miền Nam dân số là 24 triệu ngƣời, tỷ lệ tăng dân số là 2,3%. Bấy giờ

lao động nông nghiệp chiếm 90%, công nghiệp tiểu thủ công nghiệp 3%, thƣơng mại 2%, làm

công 5%, lao động tự do rất ít. Tỷ lệ thất nghiệp thấp, chỉ là 2%. Lao động giản đơn có việc

làm: nam 32,4% nữ 29,8%; binh lính nam 16,4%, nữ 0,5%; lao động làm thƣơng mại: nam

14,8%, nữ 33,9%; lao động dịch vụ: nam

61

10,3%, nữ 17,6%. Đa số lao động nam không có việc làm 29,7% là do còn đi học; còn lao

động nữ không việc làm 67,2% là do phải coi sóc việc nhà.

Lúc bấy giờ, những ngƣời bình luận có hai ý kiến trái ngƣợc nhau về việc tăng dân số

là tăng dân số có cái lợi là sẽ tăng nhân công cho sản xuất, tăng quân số cho chiến tranh; và

tăng dân số có hại vì sẽ có tình trạng thất nghiệp, khiến cho sản xuất không đáp ứng đủ nhu

cầu. (Tác giả luận án cho rằng dân số tăng sẽ gây bất lợi cho nền kinh tế, bởi vì trƣớc mắt

chƣa tăng cung sức lao động, mà đòi hỏi phải gia tăng sản lƣợng để đáp ứng mức gia tăng

nhu cầu tiêu dùng).

Dân chúng có xu hƣớng di cƣ về thành thị và di dân sang những địa phƣơng lân cận,

do ảnh hƣởng của chiến tranh và do tìm kiếm điều kiện sinh sống thuận lợi. Ngƣời di cƣ

thƣờng thay đổi nghề nghiệp và không muốn trở về nông thôn hay nơi ở cũ nữa. Chính quyền

Sài Gòn đã có kế hoạch di dân trở lại nông thôn, vừa nhằm mục đích kinh tế vừa nhằm mục

đích phục vụ chiến tranh. Bấy giờ ngƣời ta cũng nói đến hai mặt lợi và hại của di cƣ, là có lợi

cho thƣơng mại do mức tiêu thụ sản phẩm tăng, rất có ích cho những vùng mới khai khẩn,

dân cƣ thƣa thớt; nhƣng lại gây mất ổn định kinh tế - xã hội ở những địa phƣơng mới, những

địa phƣơng bị mất cƣ dân là thành phần ƣu tú sẽ bị thiệt hại.

Về hoạt động nghiệp đoàn, Dụ số 023, Sắc luật 19/64 của Chính quyền Sài Gòn đã

cấm đoán tổ chức nghiệp đoàn hoạt động ngoài mục đích nghề nghiệp. Nhiều vụ đình công

đã xảy ra, trong đó có vụ Pin Con Ó là khá lớn.

Nhƣ vậy, trong thời kỳ 1954 đến 1975 ở miền Nam, cũng đã có một thị trƣờng sức lao

động, mặc dù vai trò không nổi bật do thực trạng nền kinh tế yếu kém, sống nhờ viện trợ, chủ

yếu đáp ứng nhu cầu nhân lực phục vụ cho bộ máy chiến tranh.

Ở miền Bắc, với cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sức lao động không đƣợc coi

là hàng hóa, nhƣng trong thực tế đã thể hiện ra dù chƣa đầy đủ

62

nhƣ trƣờng hợp đổi công và tiền công lao động. Nhƣ vậy, trong thời kỳ này, mầm mống của

thị trƣờng sức lao động đã xuất hiện.

Nghị định 24 CP ngày 13/3/1963 của Hội đồng chính phủ ban hành Điều lệ tuyển

dụng và cho thôi việc đối với công nhân, viên chức nhà nƣớc, đã qui định tại điều 8 chƣơng I:

Trƣớc khi đƣợc tuyển dụng chính thức, học sinh tốt nghiệp các trƣờng, các lớp đào tạo cán

bộ, công nhân phải qua một thời gian tập sự. Thời gian tập sự đối với sinh viên tốt nghiệp đại

học là 24 tháng, đối với học sinh tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 18 tháng. Nếu hết

thời gian tập sự mà không tuyển dụng vào biên chế chính thức, thì cho phép kéo dài thời gian

tập sự, nếu đã hết mức cho phép mà vẫn không đạt nữa thì cơ quan xí nghiệp có quyền không

tuyển dụng. Đối với những ngƣời không qua các trƣờng lớp và những ngƣời đã thôi việc nay

xin tuyển lại thì phải qua một thời gian làm thử không quá 30 ngày. Trong thời gian làm thử,

nếu xét thấy đƣơng sự có đủ năng lực làm tốt công việc đƣợc giao thì xí nghiệp, cơ quan có

thể xét tuyển dụng chính thức trƣớc khi hết thời hạn làm thử, nếu xét thấy ngƣời đó không đủ

điều kiện tuyển dụng thì xí nghiệp cơ quan có quyền không tuyển dụng.

Theo chế độ biên chế, ngƣờỉ sử dụng lao động có trách nhiệm tuyển dụng và kiểm tra

thử thách, còn ngƣời lao động phải phấn đấu trong thời hạn mà Nhà nƣớc quy định. Tuy

nhiên sau thời hạn thử thách, đƣợc tuyển dụng vào biên chế chính thức thì quan hệ giữa

ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động sẽ khác đi rất nhiều. Sự phấn đấu của ngƣời lao

động sẽ giảm đi, vị trí giữa ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động gần nhƣ ngang nhau,

vì họ đều là biên chế nhà nƣớc.

Trong Thông tƣ số 6 TT - LB ngày 6.9.1963 của Bộ Lao động và Bộ Nội vụ, tại phần

B, điều 2, mục II đã ghi "Tuyển dụng công nhân viên chức làm tạm thời gồm công nhân viên

hợp đồng, tạm tuyển đƣợc cơ quan tuyển dụng theo chế

63

độ hợp đồng có thời hạn để làm những việc có tính chất tạm thời, thời vụ, đột xuất trong một

thời gian nhất định, khi hoàn thành công việc thì thôi việc".

Nhƣ vậy, ngoài quy định về tuyển dụng theo chỉ tiêu biên chế nhà nƣớc, cơ quan hay

xí nghiệp còn đƣợc áp dụng chế độ hợp đồng, tập sự và làm thử nhƣng phạm vi còn hạn hẹp.

2.1.3. Thị trường sức lao động trong bước chuyển sang kinh tế thị trường.

Phƣơng thức sử dụng lao động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung trƣớc đây làm cho

biên chế cán bộ công nhân viên nhà nƣớc ngày càng phình to, bộ máy sản xuất, quản lý cồng

kềnh kém hiệu lực, việc làm đƣợc tạo ra cũng không nhiều. Sự bắt buộc từ bỏ cơ chế quản lý

kinh tế - xã hội cũ đã kéo theo sự bắt buộc từ bỏ cách tuyển ngƣời, dùng ngƣời theo kiểu cũ.

Cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và ngƣời lao động trong nông nghiệp đã

giúp cho ngƣơi lao động nhận khoán, tự đầu tƣ thêm để vƣợt mức khoán; một số ngƣời lao

động tham gia vần công, đổi công hoặc cho thuê lao động của mình qua hợp đồng miệng hay

văn bản, ngƣời thuê lao động giao việc theo ngày hoặc khoán việc. Nhƣ vậy, cơ chế khoán đó

đã tạo điều kiện cho việc hình thành và phát triển thị trƣờng sức lao động ở nông thôn.

Hội nghị Trung ƣơng lần thứ 3, Khóa VI của Đảng CSVN đã chỉ rõ quyền hạn, nghĩa

vụ của xí nghiệp và của ngƣời lao động, tôn trọng quyền đƣợc làm việc và thôi việc của

ngƣời lao động; chủ trƣơng làm thử để mở rộng việc thực hiện hợp đồng lao động. Giám đốc

xí nghiệp có trách nhiệm và quyền hạn ấn định tiền lƣơng tiền thƣởng, đƣợc quyền tuyển

dụng và sa thải; có trách nhiệm tổ chức sản xuất kinh doanh, bố trí nhân lực và tạo điều kiện

cho số lao động dôi ra có việc làm...

64

Theo Quyết định 217/HĐBT, xí nghiệp có quyền tuyển chọn lao động trực tiếp theo

sự hƣớng dẫn của cơ quan lao động, hoặc thông qua cơ quan này mà tuyển chọn theo yêu cầu

của xí nghiệp. Xí nghiệp đƣợc quyền từ chối không nhận những ngƣời do cơ quan lao động

giới thiệu, nếu ngƣời đó không đủ tiêu chuẩn hoặc xí nghiệp không có nhu cầu. Xí nghiệp

quốc doanh chuyển dần từng bƣớc từ chế độ tuyển dụng biên chế nhà nƣớc sang chế độ hợp

đồng lao động. Giám đốc xí nghiệp và ngƣời lao động thỏa thuận và ký kết hợp đồng lao

động, có thể theo các hình thức là hợp đồng không thời hạn, hợp đồng có thời hạn và hợp

đồng theo công việc... Giám đốc có quyền cho ngƣời lao động thôi việc hoặc chấm dứt hợp

đồng lao động nếu họ vi phạm hợp đồng đã ký... Khi Giám đốc cho thôi việc, hoặc ngƣời lao

động vì những lý do chính đáng muốn thôi việc, thì phải báo trƣớc ít nhất 30 ngày và ngƣời

lao động đƣợc hƣởng quyền lợi theo quy định.

Sau đó, Thông tƣ số 01/LĐTBXH, ngày 9.1.1988, đã hƣớng dẫn thực hiện rộng rãi

chế độ hợp đồng lao động (kể cả đối với học sinh tốt nghiệp các trƣờng). Đối với công nhân

viên chức trong biên chế, xí nghiệp căn cứ vào điều kiện cụ thể mà thực hiện việc chuyển

từng ngƣời, từng bộ phận hoặc toàn bộ (trừ Giám đốc, Phó Giám đốc, Kế toán trƣởng) sang

chế độ hợp đồng lao động. Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa Giám đốc

xí nghiệp và ngƣời lao động, theo đó ngƣời lao động cam kết hoàn thành công việc đƣợc xác

định với số lƣợng cũng nhƣ chất lƣợng đảm bảo và phải chấp hành nội quy, kỷ luật lao động

của xí nghiệp. Giám đốc phải đảm bảo các điều kiện cần thiết để ngƣời lao động hoàn thành

công việc, bảo đảm an toàn lao động và thực hiện các chính sách, chế độ khác cho ngƣời lao

động.

Nhƣ vậy, chính Quyết định 217/HĐBT đã khai thông cho thị trƣờng sức lao động ở

nƣớt ta. Chế độ biên chế nhà nƣớc dần dần đƣợc xóa bỏ trong các đơn vị kinh tế quốc doanh

và thay thế bằng chế độ hợp đồng lao động với nhiều ƣu

65

điểm. Tuy nhiên, bấy giờ thị trƣờng sức lao động vẫn chƣa đƣợc coi là hiện hữu, quan hệ lao

động vẫn chƣa theo cơ chế thị trƣờng.

Pháp lệnh "Hợp đồng lao động" ngày 30.8.1990, Nghị định 165/HĐBT và Thông tƣ

04/LĐTBXH đã thể chế hóa chế độ hợp đồng lao động. Pháp lệnh này đã làm thay đổi

phƣơng thức tuyển chọn và sử dụng lao động, phù hợp với cơ chế thị trƣờng, đảm bảo quyền

lợi của ngƣời lao động, đề cao trách nhiệm của ngƣời sử dụng sức lao động, đáp ứng yêu cầu

phát huy tiềm năng lao động.

Ngoài ra, Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam - 1992, điều 57 đã

khẳng định rằng mọi công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật. Điều

này cũng có nghĩa là thừa nhận quyền tự do thuê và cho thuê sức lao động.

Đến tháng 4 năm 1992, Nghị quyết 120/HĐBT về chủ trƣơng, phƣơng hƣớng và các

biện pháp giải quyết việc làm, nghiên cứu xây dựng hệ thống chính sách, đặc biệt là chính

sách về đào tạo, dạy nghề... đã đánh dấu một bƣớc ngoặt quan trọng trong lĩnh vực giải quyết

việc làm, từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần có

sự quản lý của nhà nƣớc.

Bộ luật lao động đƣợc ban hành ngày 5.7.1994 (có hiệu lực từ 1.1.1995) đã tạo hành

lang pháp luật với những chuẩn mực, chế định (độ dài ngày làm việc, tiền lƣơng tối thiểu,

tiền lƣơng phụ trội, bảo hiểm xã hội, giải quyết tranh chấp lao động...) làm cơ sở cho quan hệ

mua bán sức lao động trong xã hội.

Bộ luật lao động ra đời đã thể chế hóa đƣờng lối đổi mới của Đảng và cụ thể hóa Hiến

pháp 1992, nhằm mục tiêu giải phóng và phát triển nguồn nhân lực của đất nƣớc; tạo điều

kiện để ngƣời lao động có việc làm, có chỗ dựa pháp lý vững chắc để đòi hỏi quyền lợi của

mình, có đƣợc thế bình đẳng về mặt pháp luật với ngƣời sử dụng sức lao động. Nhà đầu tƣ

hoan nghênh Luật lao động, vì quyền lợi chính đáng đƣợc đảm bảo, từ đó họ yên tâm thuê

mƣớn lao động, mở rộng sản

66

xuất kinh doanh. Ngoài ra, nó còn quy định quyền và nghĩa vụ của ngƣời lao động và ngƣời

sử dụng sức lao động, xác định trách nhiệm của các cơ quan quản lý lao động của Nhà nƣớc.

Bộ Luật lao động cùng với các văn bản dƣới luật hình thành nên một hệ thống khá

hoàn chỉnh hoàn thiện mối quan hệ giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động, thông

qua hợp đồng lao động (trừ quan hệ dân sự, công chức nhà nƣớc, hợp tác xã, dân cử), góp

phần cải cách cơ chế quản lý lao động, tạo điều kiện phát triển thị trƣờng sức lao động.

Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trƣớc đây, mặc dù ngƣời lao động có quyền

tự do thân thể tức là có quyền bán sức lao động, nhƣng sức lao động cũng không thể trở thành

hàng hóa vì quan điểm chủ trƣơng của Nhà nƣớc không coi sức lao động là hàng hóa và khi

nói đến hàng hóa sức lao động thì ngƣời mua lẫn ngƣời bán đều ngần ngại về mặt tâm lý.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần của nƣớc ta hiện nay, với sự

phát triển của thị trƣờng sức lao động, ngƣời lao động có thể đem sức lao động của mình ra

bán cho bất cứ chủ thể nào với giá thỏa thuận và tất yếu đƣa đến sự đa dạng của quan hệ lao

động. Với chế độ hợp đồng lao động, quan hệ lao động đã có những thay đổi: ngƣời lao động

làm việc cho các tổ chức cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đều phải thực hiện giao kết

hợp đồng lao động, nghĩa là ở đâu có thuê mƣớn, tuyển dụng lao động thì ở đó có giao kết

hợp đồng lao động (trừ công chức nhà nƣớc theo chế độ biên chế, còn quan hệ dân sự, hợp

tác xã, dân cử thì theo qui định riêng). Quan hệ lao động trở nên lành mạnh hóa, tranh chấp

lao động giảm đáng kể, tạo điều kiện thúc đẩy thị trƣờng sức lao động phát triển, đảm bảo

quyền lợi và nghĩa vụ của của các chủ thể.

Nhà nƣớc trƣớc đây từ chỗ là chủ thể điều tiết trực tiếp, độc quyền sử dụng sức lao

động nay trở thành chủ thể của quá trình quản lý xã hội, đại diện cho lợi

67

ích xã hội, gián tiếp điều tiết sức lao động và thị trƣờng sức lao động, thông qua việc xây

dựng hệ thống chính sách và pháp luật về lao động. Nhà nƣớc phải quan tâm đến ngƣời lao

động vì họ luôn yếu thế hơn ngƣời sử dụng lao động, luôn phải chịu sức ép thất nghiệp...

Không thể vì mục tiêu tạo nhiều việc làm cho xã hội mà chỉ quan tâm đến lợi ích của giới chủ

mà coi nhẹ lợi ích của ngƣời lao động.

Thừa nhận hàng hóa sức lao động là một tất yếu theo xu thế vận động khách quan của

nền kinh tế hàng hóa. Hiện nay, với hệ thống luật lao động của nƣớc ta, mà trƣớc hết là Bộ

Luật lao động, Pháp lệnh "Hợp đồng lao động", trên tinh thần "sống và làm việc theo Hiến

pháp và pháp luật" thì quan hệ mua bán sức lao động đã đƣợc mặc nhiên thừa nhận, hàng hóa

sức lao động và thị trƣờng sức lao động đã là một thực thể khách quan.

2.1.4. Thị trường sức lao động theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đối chiếu những điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa với thực tế của nền

kinh tế hiện nay, chúng ta thấy rằng tính chất hàng hóa của sức lao động nhất thiết phải đƣợc

thừa nhận trong nền kinh tế thị trƣờng nói chung, trong đó không chỉ trong nền kinh tế thị

trƣờng tƣ bản chủ nghĩa, mà còn cả trong nền kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần có sự quản

lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, bởi vì không thể xóa bỏ quyền tƣ hữu sức

lao động của chính bản thân ngƣời lao động. Đây là một quan niệm đổi mới có thể chấp nhận

đƣợc.

Đƣờng lối đổi mới nền kinh tế ở nƣớc ta là biểu hiện của sự kết hợp giữa học thuyết

kinh tế chính trị Mác - Lênin với tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Thật vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

viết: "Cuộc đấu tranh giai cấp ở Phƣơng Đông không giống nhƣ ở Phƣơng Tây (...) cần xem

xét lại Chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học Phƣơng Đông"

(9). Ngƣời đã nói: "Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân". Ngƣời "chỉ có một sự

ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nƣớc ta hoàn toàn độc lập, dân ta đƣợc hoàn

toàn tự

68

do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, ai cũng đƣợc học hành" (10). Ngƣời đã viết về chế độ làm

khoán - mầm mống của thị trƣờng sức lao động, ngay từ năm 1957: "Chế độ làm khoán là

một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích ngƣời công nhân luôn luôn tiến bộ. Làm

khoán là ích chung và lại lợi riêng". ( 1 1 ) Đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta

về phát triển nền kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng công

cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, đã định hƣớng phát triển cho thị trƣờng sức lao

động nƣớc ta trong thời kỳ tới. Nền kinh tế nƣớc ta dựa trên chế độ công hữu về tƣ liệu sản

xuất, nhƣng nhiều hình thức sở hữu khác nhau vẫn tồn tại. Tính chất đa sở hữu nhƣ vậy đã trở

thành cơ sở của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ngày càng phát triển. Các chủ thể

trong nền kinh tế có nhu cầu nhân lực đa dạng, đòi hỏi về chất lƣợng... nên tất yếu phải có thị

trƣờng sức lao động để phân chia nguồn nhân lực cho các chủ thể ấy theo các quy luật của thị

trƣờng.

Sự khác biệt của thị trƣờng sức lao động ở nƣớc ta so với thị trƣờng sức lao động ở

các nƣớc tƣ bản là do đặc điểm lịch sử, đặc điểm kinh t ế - x ã hội cụ thể của các nền kinh tế.

Xét về đặc điểm lịch sử, so với các quốc gia trên thế giới thì thị trƣờng sức lao động nƣớc ta

là kém phát triển; bởi vì nƣớc ta chuyển từ nền kinh tế mà toàn bộ ngƣời lao động đƣợc nhà

nƣớc đảm bảo việc làm sang một nền kinh tế mà ngƣời lao động phải tự tìm kiếm việc làm

cho mình là chủ yếu. Nhƣ vậy, sự kém phát triển của thị trƣờng sức lao động nƣớc ta là do

nhận thức xã hội và do các yếu tố khách quan.

Sự khác biệt của thị trƣờng sức lao động ở nƣớc ta còn xuất phát từ sự khác biệt về

chế độ sở hữu và bản chất của Nhà nƣớc, xác lập nên thị trƣờng sức lao động theo định

hƣớng xã hội chủ nghĩa.

Định hƣớng xã hội chủ nghĩa là cách phát biểu khác của mục tiêu cách mạng xã hội

chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản Việt nam đã nêu lên tại Đại hội lần

69

thứ VII và luôn đƣợc giữ vững trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Đại hội VIII đã khẳng

định: Tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự

quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa".

Tác giả luận án cho rằng kinh tế thị trƣờng nói chung, thị trƣờng sức lao động nói

riêng, về cơ bản, không mâu thuẫn với định hƣớng xã hội chủ nghĩa bởi vì chúng đều nhằm

mục tiêu hay góp phần thực hiện xã hội hóa sản xuất.

Kinh tế thị trƣờng với các quy luật của nó có khả năng thúc đẩy sự phát triển. Chủ

nghĩa xã hội không đối lập với phát triển, với kinh tế thị trƣờng, mà là một nấc thang của phát

triển, của tiến bộ xã hội (12). Nền kinh tế theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mỗi bƣớc

phát triển phải mang lại công bằng xã hội, con ngƣời có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,

có điều kiện phát triển toàn diện. Thực tế cho thấy nơi nào kinh tế thị trƣờng phát triển, thị

trƣờng sức lao động phát huy đƣợc vai trò thì nơi đó đời sống ngƣời dân đƣợc cải thiện rõ rệt

Thị trƣờng sức lao động theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa là mô hình chƣa từng có

trong lịch sử, đang đƣợc thể hiện ở Việt nam. Đây là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực

tiễn trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội ở nƣớc ta hiện nay, góp phần làm rõ những chủ

trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam.

Vấn đề có ý nghĩa xã hội - chính trị lớn lao là với khả năng thức đẩy tạo việc làm và

thu nhập, giải quyết vấn đề nghèo đói trong xã hội, thị trƣờng sức lao động hoàn toàn có thể

hƣớng tới tính ƣu việt của chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu con ngƣời, bởi lẽ đời sống nhân dân

đƣợc cải thiện hay không, thiết thực nhất và trƣớc hết là tùy thuộc vào công việc làm và thu

nhập trong xã hội. Chủ nghĩa xã hội, theo cách nói tóm tắt và mộc mạc của Chủ tịch Hồ Chí

Minh "... trƣớc hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi ngƣời

có công ăn việc làm, đƣợc ấm no và sống một đời hạnh phúc" (13). Mục tiêu giải phóng con

70

ngƣời khỏi áp bức, bóc lột và mục tiêu giải phóng con ngƣời khỏi đói nghèo sẽ đƣợc kết hợp

trong bối cảnh nền kinh tế thị trƣờng. Mục tiêu ấy đƣợc thể hiện trong Luật lao động là "giải

quyết việc làm, bảo đảm cho mọi ngƣời có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm và

thu nhập là trách nhiệm của nhà nƣớc, của các doanh nghiệp và toàn xã hội".

Có thể nói rằng, quá trình phát triển thị trƣờng sức lao động theo định hƣớng xã hội

chủ nghĩa là quá trình vừa tự khẳng định, vừa tự phủ định để hƣớng tới một xã hội công bằng,

văn minh. Nền kinh tế nhiều thành phần và thị trƣờng sức lao động đƣợc chấp nhận thì phải

chấp nhận sự bóc lột ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, ngƣời lao động phải đƣợc hƣởng một

mức tiền thƣởng thỏa đáng, rõ ràng trích từ lợi nhuận căn cứ vào năng suất, hiệu quả và

những sáng kiến cải tiến sinh lợi, tức là đảm bảo thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao

động.

Thị trƣờng sức lao động theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa sẽ là hiện thực bởi vì nó

dựa trên sự thống trị, sự vững mạnh của chế độ công hữu; vai trò chủ đạo thực sự của thành

phần kinh tế nhà nƣớc; vai trò quản lý kinh tế của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo

tuyệt đối của Đảng.

Nó càng trở nên hiện thực do có vai trò của Công đoàn - tổ chức đại diện cho quyền

lợi của ngƣời lao động. Công đoàn nằm trong hệ thống chính t r ị - xã hội của quốc gia, đấu

tranh bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của ngƣời lao động. Ban chấp hành Công đoàn ký

thỏa ƣớc lao động tập thể với Giám đốc doanh nghiệp, theo dõi việc chấp hành pháp luật và

chính sách về lao động của Nhà nƣớc và có thể đƣợc công nhân ủy quyền khởi kiện doanh

nghiệp vi phạm hợp đồng lao động. Công đoàn hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp về chế

độ chính sách, thi đua sản xuất, rèn luyện tay nghề, giúp nâng cao nhận thức cho công nhân

và cải thiện đời sống ngƣời lao động, nên thực sự cần thiết cho doanh nghiệp. Công đoàn sẽ

bắc một nhịp cầu khai thông cho quan hệ lao động, hạn

71

chế các cuộc đình công. Thiện chí của chủ, năng lực cán bộ công đoàn và nhận thức của

ngƣời lao động sẽ góp phần hóa giải mâu thuẫn của quan hệ lao động.

Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ đảm bảo sự thống nhất giữa mục tiêu hiệu quả kinh tế

của doanh nghiệp; với mục tiêu xã hội - giải quyết việc làm, sử dụng có hiệu quả tiềm năng

nhân lực của quốc gia. Trong thực tế, có rất ít doanh nghiệp chịu dự trữ sức lao động bằng

cách chi phí một phần tiền lƣơng cho lao động chờ việc. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn có

thể đạt đƣợc hiệu quả tối ƣu nhờ sử dụng hầu hết lực lƣợng lao động của mình, bằng cách mở

ra các lĩnh vực hoạt động mới. Vì hiệu quả kinh tế, khu vực kinh tế nhà nƣớc trƣớc mắt buộc

phải giảm sử dụng lao động, nhƣng về lâu dài sẽ ngày càng ổn định và phát triển, sẽ vẫn giữ

vai trò chủ yếu trong việc tạo ra nhiều việc làm cho xã hội.

Bên cạnh đó, Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa có vai trò quan trọng trong việc hoạch định

các chính sách sử dụng khả năng tài chính của chủ sở hữu toàn dân, thế mạnh về kinh tế đối

ngoại của mình... để kích thích phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy nhu cầu sức lao động,

tạo ra việc làm cho xã hội, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực cũng nhƣ các nguồn lực khác

của đất nƣớc.

2.2. Thực trạng của thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay

Nhìn chung, thị trƣờng sức lao động ở Việt Nam đang ở trạng thái mất cân đối; cung

sức lao động nhiều hơn cầu sức lao động và chƣa đáp ứng đƣợc những đòi hỏi của cầu sức

lao động về cơ cấu và chất lƣợng.

2.2.1. Thực trạng về nguồn cung sức lao động.

+ Xét về mặt số lƣợng:

Số ngƣời đến tuổi lao động hằng năm ở nƣớc ta không ngừng tăng lên do cơ cấu dân

số trẻ. Lực lƣợng lao động nƣớc ta năm 1998 có trên 42 triệu ngƣời

72

(năm 1995 có 38 triệu, năm 1996 có hơn 41.3 triệu), chiếm 53,7% dân số, dân số dƣới 15 tuổi

chiếm 45%, dân số từ 16 - 35 chiếm hơn 65% (Xem bảng 4). Hằng năm có 1,2 triệu ngƣời bổ

sung vào lực lƣợng lao động (tăng bình quân 3,4% mỗi năm), trong đó lao động nữ tăng hơn

lao động nam. Ngoài ra, còn phải kể đến số ngƣời ngoài độ tuổi lao động nhƣng thực tế có

làm việc cũng tăng lên: cuối năm 1995, cả nƣớc có 3,7 triệu ngƣời, trong đó có khoảng 1,3

triệu trẻ em.

Nguồn cung sức lao động sẽ còn tăng trong những năm trƣớc mắt do dân số nƣớc ta

tăng nhanh từ nhiều năm trƣớc. Dân số Việt nam đến đầu tháng 4/1999 là 76,32 triệu, hiện

đứng hàng thứ 12 trên thế giới, thứ hai ở Đông Nam Á, trong số đó có 49,2% nam, có 76,5%

ở nông thôn. Với nhiều biện pháp tích cực, tỷ lệ tăng dân số trong những năm gần đây đƣợc

giữ ở mức 1,5% đến 2,1%, bình quân mỗi năm tăng gần 1,4 diệu ngƣời. Tỷ lệ nhƣ vậy là hợp

lý, vẫn còn nằm trong tầm kiểm soát, mặc dù mức tăng dân số nhƣ vậy là tƣơng đối cao so

Bảng 4: Dân số trong độ tuổi lao động.

với thế giới.

Năm 1997 1998

2000 (dự báo) 2005 (dự báo) 2010 (dự báo)

Dân số lao động Tỷ lệ so với dân số 36,29 triệu (53,7%) 42,6 triệu (53,9%) 45,1 triệu (55%) 52 triệu (59,1%) 63,65 triệu (60,7%)

Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. (14)

Nguồn vốn lao động hùng hậu, to lớn và đang tăng nhanh ấy là một tiền đề quan trọng

cho phát triển kinh tế. Lực lƣợng lao động trẻ nên có thể lực và trí lực tốt, có tính năng động

cao, có khả năng tiếp thu nhanh nhạy các kiến thức khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, sự phân bố

lại không đều giữa các vùng, các ngành và luôn biến động.

73

Ở ĐBSCL trong những năm gần đây, tỷ lệ lao động trong độ tuổi so với tổng dân số

của vùng mỗi năm một tăng, từ khoảng 50% vào năm 1990 tăng lên 54% vào năm 1996, hằng

năm có từ 80.000 đến 100.000 lao động mới. Đó là hệ quả của việc phát triển dân số không

có kế hoạch của các thập niên trƣớc.

Nguồn cung sức lao động ở các vùng đô thị chiếm tỷ trọng 51% - 53% dân số tại chỗ,

đặc biệt lao động nhập cƣ tăng nhiều cao do chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cũng nhƣ do tác

dụng của các quy luật kinh tế thị trƣờng.

Lực lƣợng lao động TPHCM chiếm 58% số dân. Dân nhập cƣ vào TPHCM gần 1

triệu ngƣời (hằng năm có khoảng 6 vạn lao động nhập cƣ), chỉ có khoảng 50% có việc làm ổn

định, số còn lại làm các công việc nội trợ, lao động tạm thời, đi học... số thất nghiệp chiếm

8%. Ở ngoại thành TPHCM, việc phát triển những khu công nghiệp và đô thị hóa đã làm diện

tích đất nông nghiệp giảm và dôi ra lao động. Lao động nông nghiệp với trình độ học lực thấp

(dƣới lớp 9) lại không có tay nghề nên không đáp ứng đƣợc nhu cầu sức lao động ở các khu

công nghiệp, đã đổ về thành phố làm lao động tự do giản đơn, nhƣng với mức thu nhập gần

gấp đôi lao động nông nghiệp!

Sự chuyển dịch lao động cũng đã diễn ra đồng thời với quá trình đổi mới quản lý kinh

tế ở khu vực kinh tế nhà nƣớc và quá trình phát triển ở các khu vực kinh tế khác... Việc tinh

giảm biên chế, việc đầu tƣ chiều sâu, sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nƣớc vốn chiếm tỷ trọng

lớn trong nền kinh tế, đã làm dôi ra một lƣợng lớn ngƣời lao động, gần 60 vạn ngƣời lao động

phải rời khỏi dây chuyền sản xuất và công tác.

Lao động lành nghề có xu hƣớng tự phát dịch chuyển từ khu vực có tiền lƣơng, thu

nhập thấp sang khu vực có tiền lƣơng, thu nhập cao, nhất là trong tình hình mức sống xã hội

còn thấp và sự phát triển không đồng đều giữa các vùng kinh tế. Một lƣợng lớn lao động -

chiếm 7,14% dân số hoạt động kinh tế, đã di

74

chuyển từ nông thôn đến thành thị do thu nhập hấp dẫn, nhiều hơn ở nông thôn 1,72 lần. (15)

Hàng loạt cán bộ trẻ, lao động có chất lƣợng cao ở các doanh nghiệp nhà nƣớc đã

chuyển sang các doanh nghiệp khác nhƣ doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài vì tiền

lƣơng khá hơn và còn bởi vì môi trƣờng làm việc tốt hơn, có điều kiện để tự khẳng định và

học hỏi. Tháng 6/1999, trong số lao động dịch chuyển của khu vực Nhà nƣớc có 50% là

chuyển sang khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, 28% là chuyển sang khu vực tƣ nhân, 30% là

chuyển dịch bên trong khu vực Nhà nƣớc; hầu hết là lao động lành nghề, có trình độ chuyên

môn kỹ thuật, một số chuyển từ ngành giáo dục. Đây là hiện tƣợng chảy máu chất xám xảy ra

trong nƣớc, ở khu vực nhà nƣớc; nhƣng phải chấp nhận trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng

nhiều thành phần.

Cũng vì thu nhập cao, một lƣợng lớn sinh viên tốt nghiệp chƣa có việc làm đã lƣu lại

thành phố, với mức thất nghiệp lên đến 50%, tạo ra sự bất hợp lý trong bố trí sử dụng và lãng

phí trong đào tạo (theo Viện kinh tế TPHCM). Ngoài ra, lao động từ miền Bắc vào miền

Nam, nơi có quan hệ thuê mƣớn lao động sôi động và có thu nhập cao. (Vấn đề di dân đã có

từ mấy thập kỷ trƣớc, đó là trƣờng hợp ngƣời Việt từ Bắc, từ Trung vào Nam để khẩn hoang

lập ấp).

Dòng di chuyển ngƣợc lại là đi xây dựng vùng kinh tế mới, hay những lao động có tay

nghề, có trình độ đại học từ thành phố sang các tỉnh lân cận (năm 1998 có tới 10.000 lao

động ở TPHCM di cƣ nhƣ vậy). Ngƣời lao động từ nông thôn ra đã nhận thấy làm lao động

giản đơn ở thành phố không có tƣơng lai, một số tìm cách học thêm văn hóa, ngoại ngữ để hy

vọng một nghề khác khá hơn; một số trở về với sản xuất nông nghiệp, làm chủ nhỏ nhƣng

vẫn đi học để đón thời cơ mới.

75

Dòng di chuyển lao động dƣới dạng xuất khẩu lao động và xuất cảnh đã lên tới gần

nửa triệu ngƣời. Ngƣợc lại là số lƣợng lao động xuất khẩu sẽ quay về; lao động nhập cƣ từ

nƣớc ngoài. Có nhiều lao động nƣớc ngoài làm việc ở Việt nam, gần 5.000 ngƣời và ngày

càng tăng, nhiều nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh, trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ

nƣớc ngoài, hay trong các văn phòng đại diện công ty nƣớc ngoài.

+ Xét về mặt chất lượng sức lao động:

Nƣớc ta giàu nguồn lao động, nhƣng vốn nhân lực còn nghèo hay còn tiềm tàng, vì đó

không chỉ là số lƣợng ngƣời lao động trong xã hội mà còn là chất lƣợng, trình độ chuyên

môn, khả năng thể lực của ngƣời lao động và cả về cơ cấu lao động.

Trong điều kiện kinh tế của một nƣớc nghèo, lại phải trải qua cuộc chiến tranh lâu dài

và khốc liệt, rồi khủng hoảng kinh tế, thiên tai, đói kém vào những năm 80, lực lƣợng lao

động nƣớc ta đã bị hao mòn, sa sút, làm ảnh hƣởng lớn đến chất lƣợng sức lao động trong

hiện tại cũng nhƣ tƣơng lai. Môi trƣờng bị ô nhiễm cũng ảnh hƣởng đến chất lƣợng sức lao

động, nhƣ việc cung cấp nƣớc sạch chỉ đạt 37,8% và có tới 50 vạn ngƣời lao động trong các

ngành tiếp xúc với điều kiện độc hại trong khi các trang bị an toàn lao động chƣa đạt yêu cầu.

Cân nặng trung bình của ngƣời Việt nam chỉ có 49,8 kg, mức dinh dƣỡng bình quân chỉ đạt

2220 calo. Kinh phí cho công tác bảo vệ sức khỏe là ở mức thấp nhất thế giới, trung bình chỉ

đạt 1,27 USD/ngƣời/ năm, khả năng bảo trợ của nhà nƣớc chỉ đƣợc khoảng 40%. Số giƣờng

bệnh chỉ mới đạt 40% nhu cầu tối thiểu là mức thấp nhất thế giới. Công tác kế hoạch hóa gia

đình và chăm sóc bà mẹ - trẻ em có nhiều tiến bộ, nhƣng tình trạng trẻ em suy dinh dƣỡng là

nghiêm trọng, chiếm tỷ lệ 51,5% (theo OMS). Dựa trên 12 chỉ tiêu y tế, kinh tế - xã hội của

tổ chức y tế thế giới, Quỹ

76

dân số Liên hiệp quốc thì tình hình sức khỏe của ngƣời dân VN xếp hạng trung bình trên thế

giới, hơn 63 nƣớc và kém 67 nƣớc.

Nguồn cung sức lao động nƣớc ta chƣa đáp ứng đƣợc cầu sức lao động về trình độ tay

nghề và cơ cấu nghề nghiệp. Đây là một thách thức đối với nền kinh tế, nhƣng nó sẽ đƣợc cải

thiện về chất do tốc độ tăng dân số giảm, do sự tác động của thị trƣờng sức lao động và do

yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tháng 3/1999, Bộ Giáo dục đào tạo báo động số

học sinh đang tăng mạnh sẽ làm mất cân đối nghiêm trọng cơ cấu nhân lực trong tƣơng lai.

Bảng 5: Đánh giá nguồn nhân lực của Việt nam.

Vấn đề này cho thấy mối quan hệ giữa số lƣợng và chất lƣợngcủa lực lƣợng lao động.

1994 1995 1996 1997 1998 1999

%

%

%

%

%

%

Khung pháp lý 43 45 46 46 46 45

Năng suất tƣơng đối 18 20 21 22 21 20

Thái độ ngƣời lao động 39 41 42 41 41 40

Sự thành thạo về kỹ thuật 15 16 16 16 16 16

Đánh giá tổng hợp 30 32 33 33 33 32

Nguồn: Ben (Business Environment Risk Intelligence), năm 1999, Singapore đứng thứ

nhất (84%), Thụy sĩ đứng thứ nhì (75%), Nhật và Bỉ cùng đứng thứ ba (73%).

Chất lƣợng sức lao động nƣớc ta có nhiều ƣu điểm: trẻ trung, có nghị lực kiên trì, ý

chí, có tinh thần vƣợt khó, cần cù, có trình độ văn hóa khá, có óc thông minh sáng tạo, có khả

năng tiếp thu kỹ thuật mới. Nhƣng so với yêu cầu của nền kinh tế thị trƣờng mở cửa và hiện

đại, của thị trƣờng sức lao động thì chất lƣợng sức lao động vẫn còn hạn chế về sức lực, trình

độ học vấn và trình độ chuyên

77

môn kỹ thuật và cả về những yếu điểm của thói quen và tâm lý của ngƣời sản xuất nhỏ. Theo

đánh giá của Quỹ Hanns Seidel - Đức, thì điểm mạnh của nguồn nhân lực Việt nam là tỷ lệ

biết chữ cao, có động lực học tập tốt, học nhanh, tự tin cao, có thể trở thành thiện nghệ nếu

đƣợc học tập và làm việc trong một môi trƣờng tốt ở nƣớc ngoài; điểm yếu là không quen với

các chuẩn mực và hệ thống quốc tế, thiếu kỹ năng quản lý và các kiến thức khoa học kỹ thuật

Bảng 6: Lực lượng lao động theo trình độ.

cập nhật.

Toàn quốc Nam 100 Nữ 100 Thành thị Nam 100 Nữ 100 Nông thôn Nam 100 Nữ 100 Tổng số

90,3 1,8 0,7 1,4 3,9 1,9 3,4 2,5 4,1 10,4 7,0

Trình độ 85 1,8 3,9 2,9 3,7 2,7 0,012 - 64,5 72,6 2,0 10,3 6,9 6,8 9,3 0,02 - 90 1,7 2,3 1,9 3,0 1,1 - 94,3 1,4 0,3 0,8 2,5 0,7 -

Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội và Tổng cục Thống kê, Điều tra lao động

- việc làm năm 1996.

Trình độ văn hóa của lực lƣợng lao động nƣớc ta vẫn còn thấp, bất cập với nền kinh

tế đang chuyển đổi: 50% lao động đang làm việc chƣa học hết cấp 1, cấp 2; chỉ có 4% là

qua đại học cao đẳng. Mặc dù tỷ lệ ngƣời biết chữ và số học sinh tới trƣờng là cao so với

mức thu nhập trên đầu ngƣời và do triển khai luật

78

phổ cập giáo dục tiểu học nên số lƣợng học sinh tiểu học đã tăng rõ rệt, nhƣng vẫn có 1 triệu

ngƣời lớn mù chữ, trong đó có trên 369.000 ngƣời trong độ tuổi lao động, có 200.000 là

thanh niên từ 15 - 35 tuổi; có 269.800 trẻ em thất học có khoảng 20% học sinh ở tuổi 6 - 14

bỏ học; cả nƣớc thiếu 6 vạn giáo viên tiểu học (1994), có khoảng 8,6 triệu thanh niên chƣa tốt

nghiệp phổ thông cơ sở.

Năm 1999, TPHCM vẫn còn hơn 3,08% ngƣời từ 15 đến 35 tuổi chƣa biết chữ, mặt

bằng học vấn chung là lớp 6,08. ĐBSCL có tỷ lệ mù chữ cao nhất nƣớc là 19,2%, bởi vì

trƣớc đây nông dân quan niệm rằng làm nông nghiệp chỉ đòi hỏi sức lực cùng với siêng năng

là đủ và còn vì giao thông nông thôn khó khăn, học phí cao so với thu nhập của nông dân, chi

phí cơ hội cho việc đi học tăng (cho con cái đi học tiếp không có lợi bằng để lao động sản

xuất ở nhà).

Nhƣng, mọi khả năng mƣu sinh ngày nay đều tùy thuộc vào trình độ học vấn. Một

trong những điều kiện để đƣợc xuất khẩu lao động là phải có trình độ tốt nghiệp phổ thông cơ

sở. Một số nhà doanh nghiệp phát biểu rằng thiếu nghề thì có thể tuyển trƣớc đào tạo sau, chứ

Bảng 7: Tỷ lệ ngƣời lao động đƣợc đào tạo (hiện tại và dự báo)

cồn thiếu chữ thì sự tiếp thu sẽ khó khăn, cả trong công việc lẫn môi trƣờng công nghiệp.

1997 1998 2000 2005 2010 2020

12% 17,8% 23% 32% 40% 60%

Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội

Trong cơ cấu lao động đƣợc đào tạo, tỷ lệ ngƣời có trình độ đại học ở Việt nam là

cao, có sự mất cân đối về quy mô đào tạo giữa các bậc học. Điều này có ý nghĩa tích cực ở

chỗ là giá trị của lao động chất xám đƣợc nhận thức rõ trong cơ chế thị trƣờng. Nhƣng tác giả

luận án cho rằng, so với các nƣớc khác và về lâu

79

dài, khi thị trƣờng sức lao động đƣợc quốc tế hóa, khi chất lƣợng đào tạo đƣợc nâng lên, lao

động chất xám đƣợc săn đón thì tỷ lệ trình độ đại học nhƣ vậy vẫn là chƣa cao. "Nên thấy

rằng chỉ đến giai đoạn tự động hóa toàn bộ nền kinh tế thì số lƣợng công nhân kỹ thuật mới

giảm và số lƣợng cán bộ có trình độ đại học mới cần phải tăng nhanh. Còn trong giai đoạn

đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nƣớc ta hiện nay, khi mà đại bộ phận ngƣời

lao động đang làm việc với công cụ cơ giới và nửa cơ giới thì đòi hỏi phải có một số lƣợng

Bảng 8: So sánh cơ cấu lao động được đào t ạ o của nước ta so với các nước.

lớn công nhân kỹ thuật" (16).

Đại học Trung học Công nhân lành

chuyên nghiệp nghề

Tuyển sinh 90 - 95 1 0,83 0,5

Việt Nam -1998 1 1,6 2,8

Mức hợp lý (1998) 1 4 60

Mục tiêu Việt nam - 2005 1 3 9

Thế giới 1 4 15

Các nƣớc trong khu vực 1 4 10

Các nƣớc công nghiệp 1 6,5 13

Nguồn: Thực trạng lao động và việc làm ở Việt nam 1997, Nhà xuất bản Thống kê,

Hà Nội, 1998; theo số liệu của Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Bộ GD - ĐT và theo

Tạp chí Lao động - Xã hội số tháng 5/1999.

Một bộ phận khá đông công nhân hiện nay (khoảng 60%) có trình độ nghề nghiệp còn

thấp xa so với yêu cầu của công nghiệp hóa và đổi mới công nghệ,

80

nên phải đào tạo lại, lý do là đội ngũ này đƣợc đào tạo trong điều kiện cơ chế kế hoạch hóa

tập trung và điều kiện công nghệ lạc hậu trƣớc đây. Hằng năm nƣớc ta có thêm 1,1 triệu học

sinh đến tuổi lao động mà chƣa đƣợc chuẩn bị khả năng nghề nghiệp và chỉ có 30% học sinh

Bảng 9: Tỷ lệ công nhân kỹ thuật trong công nghiệp và xây dựng, năm 1996.

tiếp tục học lên.

Bậc I, II Bậc III Bậc IV Bậc V, VI, VII

57,56% 10,48% 28% 3,90%

Bảng 10: So sánh tháp lao động của Việt nam với các nước công nghiệp phát triển.

Nguồn: Theo Tạp chí Lao động - Xã hội số tháng 5/1999.

lành Lành nghề Chuyên viên Kỹ sƣ Chuyên gia Không nghề kỹ thuật

35% 35% 24,5% 5% 0,5% Các nƣớc công nghiệp phát triển

Việt Nam 88% 5% 3,5% 2,7% 0,3%

Nguồn: Theo tạp chí Lao động - Xã hội số tháng 5/1999

Hệ thống các trƣờng đào tạo còn chƣa hợp lý (Xem bảng 10). Nhìn chung, số sinh

viên đại học đều tăng một cách đột biến qua các năm. Nếu năm học 95 -96, lƣợng tuyển sinh

vào đại học, cao đẳng là 120.000 ngƣời, gấp 1,78 lần học sinh trung học chuyên nghiệp

(69.000 ngƣời) và 2,73 lần học sinh học nghề (45.000 ngƣời), thì đến năm học 97 - 98, số

sinh viên đại học tăng gấp 2,8 lần số học sinh trung học chuyên nghiệp và gấp 5 lần số học

sinh học nghề. (17)

81

Cơ cấu lao động nƣớc ta trong độ tuổi: 56,36% thuộc loại hình thể lực 41,8% thuộc

loại hình lao động văn hóa, 1,84% thuộc loại hình lao động trí tuệ (ở Trung Quốc tỷ lệ của

loại này là 26,41%, ở Italia là 52,27%). Tỷ lệ nguồn nhân lực có trình độ cao ỏ một số ngành

quan trọng còn quá mấp, nhƣ ở các ngành kỹ thuật là 14,6%, nông - lâm - ngƣ nghiệp là

5,26%, sƣ phạm 5,52%; trong khi có đến 40% sinh viên đại học, cao đẳng theo học các ngành

kinh tế, luật (Hội thảo góp ý đề cương chiến lược phát triển nguồn nhân lực và cải thiện đời

sống người dân thời kỳ 2001 - 2010, do Ban Khoa giáo trung ương tổ chức tại TPHCM ngày

7/8/1999).

Ở ĐBSCL, lao động qua đào tạo chỉ đƣợc hơn 3%, trong đó có hơn 60% tốt nghiệp

đại học, cao đẳng; chỉ có gần 40% tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ

thuật. Điều này cho thấy lực lƣợng lao động ở nông thôn vừa thiếu học vừa thiếu chuyên

môn. Qua Hội nghị về đào tạo nhân lực ở ĐBSCL, một dự báo đáng lo ngại đƣợc đƣa ra về

sự thiếu hụt đội ngũ tri thức trong tƣơng lai. Hiện có không quá bốn cán bộ có trình độ đại

Bảng 11: Số lượng học sinh theo học ở các trường qua các năm

học cao đẳng trên 1.000 dân.

Trƣờng 1979 - 1980 1993 - 1994 1996 - 1997 1998

Dạy nghề 244.100 39.160 51.087 10.000

THCN 155.760 43.500 54.168 25.000

ĐH-CĐ 56.000 212.000 169.418 108.000

Nguồn: Báo Nhân dân ngày 24/11/1997 và Tạp chí Lao động - Xã hội số tháng

5/1999.

82

Bảng 12; Quan niệm lựa chọn của học sinh phố thông sau khi tốt nghiệp.

Học sinh phổ 1981 1996

Thích vào đại học 89,4% 91,2% thông

Thích học nghề 4,7% 3,9%

Nguồn: Báo Nhân dân, ngày 15/12/1997. (18).

Theo Viện nghiên cứu giáo dục đào tạo phía Nam, số thanh niên đi học nghề là

11,7%, trong khi số đi học ngoại ngữ là 38,5%; đối với số thanh niên thất nghiệp (9,5%) thì

có 13,7% học nghề và có 32,6% học ngoại ngữ. Ngoài ra, trong tình hình thất nghiệp hiện

nay, do không dễ tìm đƣợc việc làm ngƣời lao động phải nỗ lực tự đào tạo theo phƣơng châm

giỏi một nghề biết nhiều nghề đến mức dƣ thừa, ngƣời sử dụng lao động thì phát sinh nhu cầu

sức lao động có chất lƣợng cao một cách giả tạo gây lãng phí cho xã hội. Nhƣ vậy, có thể

thấy đƣợc một sự hụt hẫng hoặc lệch lạc trong quan niệm về nghề nghiệp của thanh niên.

Việc chọn ngành học, chọn nghề nghiệp của ngƣời lao động trẻ đang thiếu sự hƣớng dẫn

đáng tín cậy, mà chủ yếu là do tâm lý hay theo sở thích cá nhân...

Hiện nay, 95% học sinh có xu hƣớng không muốn học nghề mà muốn học lên đại học

vì sẽ tìm đƣợc việc làm dễ hơn (nhƣng chỉ có khoảng 10% trúng tuyển vào đại học) và học

sinh trƣờng nghề hầu hết không tự nguyện học nghề. Ngoài ra, sinh viên thƣờng chú trọng

những ngành học có sức hút, hay theo sở thích nhƣ khoa học xã hội - nhân văn trong khi lĩnh

vực khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật chính xác thì không đƣợc yêu thích. (Trong khi

tỷ lệ sinh viên tìm đƣợc việc làm ở Trung tâm dịch vụ việc làm thanh niên: sinh viên kỹ thuật

51,26%, sinh viên kinh tế 29,11 %, sinh viên ngoại ngữ 18,35%, sinh viên luật 6,66%).

Nguyên nhân của sự sụt giảm số lƣợng các trƣờng dạy nghề là ngƣời học ít do khả

năng tìm đƣợc việc làm sau khi học nghề là không chắc chắn; do sự chọn

83

lọc đầu vào ở các trƣờng đại học còn dễ dàng; do năm lần thay đổi cơ quan quản lý nhà nƣớc

về dạy nghề và ngân sách nhà nƣớc dành cho dạy nghề vừa thấp lại vừa giảm liên tục (1991

là 8,7%; 1996 còn 4%).

Công tác đào tạo nghề chƣa đƣợc coi trọng: trƣờng thì cứ dạy nghề mà mình có chứ

không phải dạy nghề mà thị trƣờng sức lao động đòi hỏi, công nhân đƣợc đào tạo nghề vẫn

chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu sử dụng, không phù hợp với kỹ thuật và công nghệ hiện đại, các

doanh nghiệp phải đào tạo lại. Điều tra ở bốn trƣờng nghề trong toàn quốc cho thấy có 75%

trang thiết bị dạy nghề lạc hậu 20 -30 năm, thua kém hơn máy móc của các doanh nghiệp;

một số trƣờng mua đƣợc một vài thiết bị mới, đắt tiền từ tiền viện trợ nhƣng không đồng bộ,

sử dụng không có hiệu quả. Theo Tổng cục Dạy nghề, ngoài kinh phí thƣờng xuyên, trong

năm năm (2000 - 2005) hệ thống dạy nghề cần khoảng 700 tỷ đồng để tăng cƣờng cơ sở vật

chất và thiết bị dạy nghề (Báo Tuổi trẻ 17/8/1999).

Chất lƣợng giáo dục đào tạo - dạy nghề bị giảm sút, do thiếu thốn cơ sở vật chất, sách

giáo khoa, giáo viên không đủ hay thiếu trình độ giảng dạy, lƣơng giáo viên đƣợc ƣu đãi

nhƣng vẫn không đảm bảo cuộc sống. Chƣơng trình đào tạo hiện nay chƣa phải là hoàn hảo,

còn nặng lý thuyết, xem nhẹ thực hành, chƣa đƣợc cập nhật; chỉ mới đào tạo kỹ năng cơ bản

cho ngƣời lao động với loại nghề ngắn hạn, bất cập với chuyên môn hẹp, trong khi có hàng

trăm ngành nghề phải đào tạo với công nghệ mới, các trƣờng không thể đáp ứng đƣợc. Theo

Tổng cục Dạy nghề, hiện nay (tháng 6/1999) có tới 73% trong tổng số gần 8.000 giáo viên

dạy nghề chƣa đạt chuẩn qui định, thiếu kỹ năng thực hành, chỉ có trình độ tay nghề bậc 3/7,

bằng với trình độ của học sinh ra trƣờng. Tỷ lệ học sinh so với giáo viên dạy nghề là 32,3/1,

trong khi tỷ lệ này ở bậc đại học là 6,2 / 1. (19).

Nhiều trƣờng dạy nghề hệ cao đẳng đã đƣợc thành lập, trên cơ sở các trƣờng trung

học kỹ thuật sẵn có và Nhà nƣớc đã thành lập hai Trung tâm huấn

84

nghiệp quốc gia tại Hà nội và TPHCM nhằm đáp ứng nhu cầu sức lao động chất lƣợng cao.

Tuy nhiên, ngân sách Nhà nƣớc đầu tƣ cho giáo đục đào tạo và dạy nghề còn rất hạn hẹp.

Trong khi đó, Nhà nƣớc chƣa có quy chế ràng buộc các doanh nghiệp trong việc tham gia đào

tạo nghề cho ngƣời lao động. Ở TPHCM theo Sở LĐTBXH thì các cơ sở đào tạo nghề dân

lập đã đáp ứng đƣợc nhu cầu chuyển dịch nghề nghiệp của ngƣời lao động.

Ngoài ra, khả năng hợp tác quốc tế cũng góp phần nâng cao chất lƣợng đào tạo ngƣời

lao động. Chính phủ Nhật, Singapore, Hàn quốc, Anh quốc và ADB đã giúp Việt Nam xây

dựng khu công nghệ cao nhằm huấn luyện và đào tạo đội ngũ trí thức công nghệ và lao động

kỹ thuật có chất lƣợng cao, giúp cải thiện hệ thống dạy nghề ờ Việt nam. Công ty T.F Việt

Nam tuyển một số công nhân sang đào tạo tại Nhật, sau 6 tháng trình độ chuyên môn của họ

đã ngang ngửa so với các thầy dạy; nhƣng quan trọng là họ đƣợc tiếp cận với máy móc công

nghệ hiện đại, tƣơng đƣơng với gần 3 năm ở các trƣờng nghề trong nƣớc với máy móc cũ kỹ.

Ở các khu công nghiệp và khu chế xuất của TPHCM, trong vòng ba năm qua (97 - 99) đã có

hơn 600 ngƣời là cán bộ, công nhân đƣợc đƣa sang các công ty mẹ ở nƣớc ngoài để đào tạo.

2.2.2. Nhu cầu sức lao động ngày càng tăng và không ổn định.

Chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, kêu gọi đầu tƣ

nƣớc ngoài đã đƣa đến kết quả là các nguồn lực kinh tế đƣợc tăng cƣờng và làm gia tăng nhu

cầu đối với tất cả các loại sức lao động.

Tuy nhiên, nguồn lao động dồi dào của nƣớc ta trong thực tế chƣa đƣợc thu hút hầu

hết vào các lĩnh vực, các ngành kinh tế. Trong những năm qua, số lƣợng doanh nghiệp nhà

nƣớc giảm dần, lại thua lỗ nên giảm sử dụng lao động và có tình trạng dƣ thừa lao động. Mặc

dù qua nhiều đợi giảm lao động, sắp xếp bộ máy nhƣng tình trạng trên vẫn chƣa đƣợc cải

thiện nhiều: năm 1988, số lao động

85

dƣ thừa trong các doanh nghiệp nhà nƣớc là 25% và trong các cơ quan hành chính sự nghiệp

là 20%; năm 1997 có 44% doanh nghiệp thừa lao động với tỷ lệ 8% năm 1998 thừa 9 -10%,

số ngƣơi thiếu việc làm là 18%, so với trƣớc khi sắp xếp là 10%. Việc giảm nhu cầu sức lao

động ở khu vực kinh tế nhà nƣớc, từ 2,7 triệu năm 1990 còn 1,8 niệu năm 1998, đã làm biến

động nguồn cung sức lao động trên thị trƣờng.

Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhất là kinh tế tƣ nhân trong lĩnh vực công nghiệp

chế biến, nông nghiệp và dịch vụ, với quy mô vừa và nhỏ ngày càng có vai trò quan trọng

trong việc giải quyết việc làm; bởi vì khu vực kinh tế quốc doanh phải sắp xếp lại lực lƣợng

lao động nhằm mục đích hiệu quả quả tế, phải tạm thời giảm bớt lao động. Tuy nhiên, hiện

nay công nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh đã có biểu hiện chựng lại về việc thu hút lao

động, đòi hỏi khu vực kinh tế quốc doanh phải phát huy vai trò chủ đạo của mình. Năm 1997,

lao động trong khu vực kinh tế Nhà nƣớc chiếm 8,71 %, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh

chiếm 90,9% (năm 1989 có số liệu tƣơng ứng là 36% và 64%) (20). Năm 1998, ở 21 doanh

nghiệp nhà nƣớc đã cổ phần hóa, không chỉ ngƣời lao động có việc làm ổn định, thu nhập

tăng gấp đôi, mà các công ty này còn đầu tƣ mở rộng sản xuất kinh doanh, thu hút thêm 1000

lao động mới vào làm việc. (21)

Năm 1998, Tp. HCM có trên 1,3 triệu lao động đang làm việc trong khu vực kinh tế

ngoài quốc doanh, chiếm tỷ lệ 75,88%, gấp 4 lần so với lao động ở khu vực kinh tế quốc

doanh. Nhìn chung, chất lƣợng sức lao động ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn thấp:

trên 60% có trình độ văn hóa thấp và chƣa qua đào tạo nghề; việc làm không ổn định, thu

nhập thấp nên lao động trong khu vực ngoài quốc doanh luôn biến động. (Theo Sở Lao động -

Thương binh và Xã hội). Đến năm 1997, các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoai đã trực

tiếp sử dụng gần 230.000 lao động trong nƣớc, ngoài ra còn gián tiếp tạo việc làm và thu

86

nhập cho hơn 20.000 lao động. Các doanh nghiệp này tuy có góp phần quan trọng vào kết

quả tăng trƣởng kinh tế, nhƣng sử dụng lao động chƣa nhiều, chủ yếu là thu hút lao động có

tay nghề, có trình độ cao hầu hết là từ các doanh nghiệp nhà nƣớc để thay thế ngƣời lao động

nƣớc ngoài ở các vị trí then chốt nhƣ quản lý, điều hành kỹ thuật

Hiện nay có hơn 20.000 doanh nghiệp là thuộc loại vừa và nhỏ, chiếm 85% trong số

doanh nghiệp nhà nƣớc, chiếm 97% trong số doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Doanh nghiệp

vừa và nhỏ thu hút 4,5 triệu lao động, chiếm khoảng 15% lực lƣợng lao động xã hội (bình

quân một doanh nghiệp sử dụng từ 18 đến 20 lao động). Ngoài ra còn có 2,2 triệu doanh

nghiệp hộ gia đình cũng góp phần tạo việc làm cho xã hội (một cơ sở sản xuất thu hút 10 lao

động, một cơ sở kinh doanh thu hút 5 lao động, một cơ sở dịch vụ thu hút 3 lao động).

Ở nƣớc ta, năm 1996 có gần 25 triệu lao động nông lâm ngƣ nghiệp, chiếm 71% lực

lƣợng lao động; trong khi có 3,7 triệu lao động công nghiệp - xây dựng chiếm 10,5%. Ngành

may giải quyết lao động rất nhiều, phát triển nhanh do vốn đầu tƣ ít, nhƣng giá gia công và

lƣơng công nhân giảm do sự cạnh tranh của quá nhiều cơ sở may, cƣờng độ lao động cao nên

lao động khó tuyển; việc thiếu lao động khiến nhiều nơi đã hạ bậc, 2/7 thay vì 3/7, hay tuyển

học sinh tốt nghiệp phổ thông để đào tạo. Ngành cơ khí có dấu hiệu hồi sinh nhất là trong khu

vực kinh tế tƣ nhân, nên có nhu cầu sức lao động cao, nhƣng ngƣời lao động lại không chú ý.

Ngành lắp ráp điện tử phát triển nóng trong khoảng thời gian 1990 - 1995, nhƣng do thiếu

chính sách điều tiết vĩ mô, chính sách bảo hộ, thuế bất hợp lý, lại thiếu chiến lƣợc phát triển...

nên ngành này mất dần chỗ đứng, hàng ngàn công nhân thiếu và mất việc làm.

Các ngành dịch vụ thƣơng mại chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân, thu

hút từ 20% đến 22% lực lƣợng lao động, trong đó 9,25% là phục vụ

87

sinh hoạt (1996). Hiện nay, cứ một lao động làm trong khu công nghiệp thì có bốn lao động

dịch vụ kèm theo bên ngoài khu công nghiệp. Lĩnh vực giáo dục y tế, khoa học sử dụng 7,9%

Bảng 13: Lao động xuất khẩu qua các năm.

lực lƣợng lao động.

Nhu cầu sức lao động cho xuất khẩu tăng dần qua các năm là kết quả của chính sách

hòa nhập với thế giới theo chủ trƣơng đa phƣơng hóa và đa dạng hỏa quan hệ kinh tế đối

ngoại.

Nhƣng nhu cầu lao động xuất khẩu của Việt nam chƣa táng nhiều do chất lƣợng sức

lao động còn hạn chế là không thạo nghề và kỷ luật lao động cũng chƣa tốt. thêm vào đó là

cuộc chạy đua tìm việc làm của khoảng 10 triệu ngƣời mất việc làm do cuộc khủng hoảng tài

chính tiền tệ châu Á, khiến cho nhu cầu lao động xuất khẩu của Việt nam giảm đi.

Nếu nhƣ năm 1992, lao động xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là lao động giản đơn

thì năm 1993 có 25% và hiện nay là 70% lao động có nghề, trong đó có cả chuyên gia (lao

động thuyền viên không đủ đáp ứng nhu cầu). Một số

88

doanh nghiệp đầu tƣ nƣớc ngoài đã có ý định đƣa lao động Việt nam có năng lực trình độ,

theo yêu cầu của công nghệ mới, sang làm việc ở nƣớc ngoài tại các công ty cùng tập đoàn.

Nhu cầu sức lao động còn tăng lên nhờ các phƣơng thức tín dụng. Quỹ quốc gia giải

quyết việc làm, từ khi thành lập năm 1992 đến năm 1997, đã kết hợp cho vay theo chƣơng

trình xóa đói giảm nghèo, dƣới dạng tín chấp cho gần 5 vạn dự án nhỏ tạo việc làm mới và

cho các cơ sở sản xuất nhỏ sử dụng nhiều lao động; 70% cho sản xuất nông nghiệp, 30% cho

sản xuất tiểu thủ công nghiệp, khôi phục và phát triển nhiều ngành nghề truyền thống sử dụng

vốn không lớn lại thu hút nhiều lao động (năm 1996 cho vay gần 15.500 dự án tạo hơn

300.000 việc làm). Tuy nhiên, Quỹ chỉ mới đáp ứng đƣợc gần 11% tổng số hộ có nhu cầu vay

vốn, chƣa mở rộng cho vay sang lĩnh vực dịch vụ; lãi suất còn cao (0,6%/tháng), thủ tục còn

khó khăn (theo hệ thống tổ chức đoàn thể, việc xét duyệt khá chậm), thời hạn vay ngắn (từ 1

đến 2 năm tùy theo dự án) và mức cho vay thấp (đã tăng từ 5 triệu lên 10 triệu đồng cho mỗi

lao động đƣợc vay). (Năm 1998, Quỹ chỉ có trên 1.000 tỷ đồng để thực hiện chƣơng trình

theo dự án nhỏ).

2.2.3. Nạn thất nghiệp do tình trạng cung vượt cầu.

Tháng giêng 1996, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) trong báo cáo nhan đề "Việt Nam,

những vấn đề lao động và xã hội trong một nền kinh tế chuyển tiếp", đã đƣa ra nhận xét "Việt

Nam có thể là một nƣớc đang phát triển nhanh nhất nhƣng vẫn còn là một trong những nƣớc

nghèo nhất do sự gia tăng đội quân những ngƣời không kiếm đƣợc việc làm. Tỷ lệ việc làm

đƣợc tạo ra ở Việt Nam hiện nay là 2,5%, trong khi sự gia tăng của lực lƣợng lao động ở

quốc gia giàu tiềm năng nhân lực này là 3% tính chung toàn quốc và tới 5% tại các đô thị.

Nếu tình hình trên kéo dài, chậm đƣợc khắc phục sẽ tạo ra hậu quả tiêu cực về kinh tế và xã

hội".

89

Từ năm 1986 đến 1996, số ngƣời lao động làm việc trong nền kinh tế tăng từ 27,4

triệu lên 34,9 triệu, nhƣng tỷ trọng ngƣời có việc làm trong độ tuổi lao động giảm từ 90%

xuống còn 85% và giữ tỷ lệ này cho đến nay. Điều này có nghĩa là số ngƣời trong độ tuổi lao

động không có việc làm và chỉ làm nội trợ ngày càng tăng: số ngƣời không có việc làm tăng

từ 904 nghìn ngƣời năm 1986 lên 2 triệu năm 1995, số ngƣời làm nội trợ từ 664 nghìn năm

1986 tăng lên 2,1 diệu năm 1995, nhƣng số ngƣời trong tuổi lao động đi học không tăng lên

Bảng 14: Tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam

mà còn giảm xuống.

Nguồn; Tổng hợp số liệu từ Bộ LĐ - TB - XH và Tổng cục Thống kê.

Theo kết quả của tổng điều tra dân số năm 1989, số nguừi thất nghiệp là 1,35 triệu

ngƣời trên 32,4 triệu lao động (4,2%). Năm 1991, trong số 33 triệu ngƣời lao động thì có 2

triệu ngƣời thất nghiệp, tỷ lệ là 6%; năm 1992 thất nghiệp 2,2 triệu, năm 1993 là 7,37%; năm

1994 là 6,08%. Năm 1995, có 2,4 triệu lao

90

động thất nghiệp, chiếm 7% lực lƣợng lao động trong đó có 70% là thanh niên;năm 1996 thất

nghiệp 5,8%; năm 1997 thất nghiệp khoảng 6%; năm 1998 thất nghiệp 6,85% với 2,75 triệu

lao động.

Tại các vùng đô thị, tỷ lệ thất nghiệp có xu hƣớng gia tăng kể từ năm 1996, do phải

chịu áp lực của luồng di dân tự phát từ nông thôn. Tại Hà Nội, hằng năm có khoảng 100.000

lao động chƣa có việc làm, 55.000 lao động có nhu cầu tìm việc, nhƣng chỉ có 33% lao động

có tay nghề, 15% đƣợc đào tạo. Ở khu tứ giác phát triển TPHCM, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng

Tàu, Bình Dƣơng, hiện còn khoảng trên 500.000 lao động thất nghiệp, hầu hết có trình độ

văn hóa thấp, không chuyên môn. Ở Đồng Nai mỗi năm có thêm 50.000 lao động cần việc

làm, chƣa kể lao động nhập cƣ, nhƣng lao động có trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật lại

thiếu nghiêm trọng. Tỷ lệ thất nghiệp ở Quảng Ninh năm 1997 từ 7-8% (99: 9,29%), ở Hải

Phòng năm 1998 là 8,43%, ở Đà Nẵng năm 1999 là 6,64%. Đối với các tỉnh miền Trung,

theo số liệu điều tra đƣa ra tại hội thảo ngày 7/6/96 tại Đà Nẵng, nguồn nhân lực hiện đang bị

Bảng 15: Tỷ lệ thất nghiệp tại Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh

lãng phí nghiêm trọng do nhu cầu sức lao động rất thấp.

Năm 1994 1996 1997 1998 1999

Hà nội 7,82% 7,7% 8,56% 9,09% 1031%

TPHCM 6,39% 5,08% 6,13% 6,76% 7,04%

Nguồn: Theo điều tra lao động -việc làm ngày 1-7(1998, 1999) và theo Bộ Lao động

Thương binh - Xã hội (22).

Điều tra năm 1999 cho thấy số ngƣời thất nghiệp từ 12 tháng trở lên chiếm tỷ lệ cao

nhất- 46,01%, kế đến là thất nghiệp 6 - 1 2 tháng: 16,6%, dƣới một

91

tháng: 14,44%. Nhƣ vậy số thất nghiệp tạm thời ít hơn số thất nghiệp kéo dài chính là do

thiếu trình độ, tay nghề. Số thất nghiệp chủ yếu tập trung ở lực lƣợng lao động trẻ từ 15 - 24

tuổi.

Thành phố Hồ Chí Minh là nơi đi đầu cả nƣớc về các quan hệ thị trƣờng, mối quan hệ

cung - cầu sức lao động khá phong phú đa dạng, nhƣng phải chịu sức ép về giải quyết việc

làm do quá trình đô thị hóa nhanh ở ngoại thành, việc đổi mới công nghệ và di dân từ các

tỉnh. Năm 1995, trong số 1,2 triệu lao động của TPHCM, có đến 225.000 ngƣời trong độ tuổi

lao động không có việc làm, chiếm 8,4% tổng số ngƣời lao động, trong số này có 150.000 lao

động trẻ, và mỗi năm phát sinh thêm 100.000 lao động trẻ khác cần việc làm. Năm 1997, số

lao động nhập cƣ không có hộ khẩu là 800.000 ngƣời và có tới 200.000 ngƣời cƣ trú vãng lai.

Ở hầu hết các huyện ngoại thành, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên còn cao trong khi các xí

nghiệp lại thiếu công nhân và tình trạng chờ đợi nhƣng cơ hội về nghề nghiệp trong thanh

niên là phổ biến.

Ở nƣớc ta hiện nay, có cả thất nghiệp tạm thời trong thời gian thay đổi nghề nghiệp

hay nơi làm việc do muốn tìm việc làm tốt hơn và có một bộ phận ngƣời lao động thất nghiệp

tự nguyện. Ngoài ra, thất nghiệp vô hình là phổ biến, đó là tình trạng ngƣời lao động có việc

làm trong khu vực nông thôn hoặc khu vực thành thị không chính thức, nhƣng làm việc với

Bảng 16: Mức độ thiếu việc làm ở nông thôn.

năng suất rất thấp và không sử dụng hết thời gian lao động.

1989 1995 1996 1997 1998 2000

31% 28% 27,65% 25,47% 28,87% 25% (mục tiêu)

Nguồn: Điều tra lao động - việc làm 1996,, 1997, 1998

92

Số ngƣời thiếu việc làm thƣờng xuyên ở nông thôn lên đến 9 triệu ngƣời do tình trạng

nông nhàn khi mùa vụ kết thúc. Thời gian lao động thực sự trong năm của ngƣời nông dân

chỉ trên dƣới 150 ngày; tỷ lệ sử dụng thời gian lao động năm 1997 là 73,14%, năm 1998 là

71,13%. Những vùng có tỷ lệ thiếu việc làm khá cao (khoảng 29%) là đồng bằng sông Hồng,

Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung. (23)

Trong số khoảng 120.000 công nhân sơ cấp đƣợc đào tạo mỗi năm chỉ có từ 1/4 đến

1/3 là có việc làm. Năm 1996, chỉ có 18,52% lao động qua đào tạo là có đƣợc việc làm.

Ngoài ra, có thể thấy mâu thuẫn là ngay cả loại lao động đƣợc đào tạo chuyên môn, nghiệp

vụ cao vẫn bị thất nghiệp. Có đến 1,2% số ngƣời thất nghiệp có trình độ cao đẳng, đại học so

với 0,7% số ngƣời thất nghiệp là công nhân kỹ thuật. Theo điều tra của ủy ban Thanh niên

Việt Nam, từ năm 1988 đến nay có khoảng 37% tổng số sinh viên tốt nghiệp chƣa có việc

làm, những sinh viên có việc làm đúng ngành học chỉ là 45 - 50%, đƣa đến sự lãng phí lớn

Bảng 17: Tỷ lệ thất nghiệp theo trình độ chuyên môn kỹ thuật ở thành thị

cho xã hội (mỗi năm Nhà nƣớc đầu tƣ 4-5 triệu đồng cho một sinh viên!).

Lực lƣợng lao động trong độ tuổi Tỷ lệ thất nghiệp (%)

1996 1997 Chênh lệch

Tổng số. 5,88 6,01 + 0,13

Không có chuyên môn kỹ thuật. 5,57 6,46 + 0,89

Công nhân kỹ thuật + sơ cấp. 5,53 5,29 -0,24

Trung học chuyên nghiệp. 5,50 4,41 -1,09

Cao đẳng, đại học. 5,00 3,21 -1,79

Trên đại học. 0,53 0,80 + 0,27

Nguồn: Điều tra lao động và việc làm 1996, 1997. (24)

93

Từ bảng số liệu trên đây, ta thấy đây là cơ sở để khẳng định ý nghĩa quan trọng của

công tác dạy nghề đối với vấn đề làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Tình hình cung - cầu sức lao

động ở các ngành công nghiệp nƣớc ta, nhƣ các nƣớc đang phát triển khác, là khủng hoảng

thừa lao động giản đơn, thiếu lao động kỹ thuật, thiếu gay gắt lao động có tay nghề cao, thiếu

chuyên viên kinh tế kỹ thuật - lao động kỹ thuật có kiến thức quản lý. (Hiện nay, tháng

9/1999, có tình trạng dƣ thừa lao động có trình độ đại học quản trị kinh doanh, kinh tế, kế

toán...).

Nguyên nhân của thất nghiệp ở Việt Nam là do cơ cấu kinh tế lẫn cơ chế kinh tế, do

thiếu vốn đầu tƣ lẫn thiếu sự đa dạng các tổ chức kinh tế và do nhu cầu tiêu dùng không tăng,

sức mua xã hội kém, tốc độ tăng trƣởng kinh tế giảm.

Sau một thời gian dài, cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã để lại một khối lƣợng lao

động biên chế vƣợt quá mức nhu cầu, việc làm không đủ cho ngƣời lao động dù có biên chế

và việc bố trí sử dụng chƣa phù hợp với khả năng chuyên môn của họ, chƣa thực sự cân nhắc

đến hiệu quả. Vì thế, khi chuyển sang kinh tế thị trƣờng, khu vực kinh tế quốc doanh phải

giảm sử dụng lao động, đã góp phần làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.

Cơ chế kinh tế mới có nhiều ƣu điểm trong việc tạo việc làm, nhƣng thất nghiệp có

nguyên nhân khác là do sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Cơ cấu cung sức lao động chƣa phù

hợp, chƣa đáp ứng đƣợc đòi hỏi của cơ cấu ngành và cơ cấu vùng kinh tế về chất lƣợng, trình

độ nghề nghiệp (do đào tạo không gắn với nhu cầu của thị trƣờng sức lao động), nên lao động

bị thất nghiệp hay không có việc làm ổn định. Lao động trẻ, lao động nữ, nhất là lao động

nông thôn không đƣợc hƣớng nghiệp nên thƣờng thất nghiệp cao hơn và họ thay đổi công

việc thƣờng xuyên hơn. Cơ cấu cầu sức lao động lạc hậu: lao động làm trong ngành nông -

lâm - ngƣ nghiệp vào năm 1989 là 73%, năm 1995 là 71%, năm 1999 là 70% (số đƣợc đào

tạo chiếm tỷ lệ 1,5% trong tổng số qua đào tạo) (Hội thảo góp ý đề

94

cương chiến lược phát triển nguồn nhân lực và cải thiện đời sống người dân thời kỳ 2001 -

2010, do Ban Khoa giáo trung ương tổ chức tại TPHCM ngày 7/8/1999).

Cơ cấu phân bố lao động đã qua đào tạo cũng mất cân đối giữa các thành phần kinh

tế: 80% lao động có chuyên môn - kỹ thuật đang làm việc trong khu vực Nhà nƣớc, trong khi

khu vực này chỉ sử dụng 9% lao động cả nƣớc. Một nguyên nhân quan trọng là sự mất cân

đối cơ cấu kinh tế vùng, sự phát triển không đồng đều giữa các vùng kinh tế: trí thức thất

nghiệp vì không chịu về vùng xa, lao động nông thôn tràn về thành phố làm tỷ lệ thất nghiệp

tăng vì kinh tế nông thôn kém phát triển.

Trong giai đoạn 1986 - 1990, lực lƣợng lao động làm việc trong các ngành kinh tế

bình quân mỗi năm tăng 2,5%, trong khi mức tăng GDP là 4,8%, độ co dãn về cầu lao động

so với GDP là 0,52. Giai đoạn 1990 - 1995, các chỉ số tƣơng ứng là 2,4%; 8,2% và 0,29. Nhƣ

vậy, độ co dãn về cầu lao động so với GDP đã giảm gần một nửa. Từ độ co dãn này, có thể

suy ra cầu lao động sẽ tăng không đáng kể, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên trong những năm vừa

qua và trong những năm sắp tới. (25)

Tuy nhiên, tác giả luận án cho rằng, độ co dãn về cầu nhƣ trên đƣợc tính với giả định

các yếu tố khác là không đổi nên nó chỉ có ý nghĩa tƣơng đối.

Nhƣ vậy, tỷ lệ thất nghiệp của nƣớc ta luôn ở mức cao, trong khoảng 4% -9%, nếu

tính cả số bán thất nghiệp thì tỷ lệ khoảng 20%, số ngƣời thất nghiệp lên đến 6 triệu. Trên

thực tế, số ngƣời không có việc làm còn cao hơn nhiều, vì trong số 2,1 triệu ngƣời trong độ

tuổi lao động đang làm công việc nội trợ, khoảng 40% - 50% vẫn có nhu cầu tham gia lao

động. Theo định luật OKun, cứ 1% vƣợt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (giả thiết ở nƣớc ta là

5%) thì GDP bị giảm 2,5%, suy ra chúng ta đã lãng phí khoảng 15 x 2,5 = 37,5% GDP. Nhƣ

vậy, thất nghiệp chính là nguyên nhân gây ra nạn đói nghèo ở Việt Nam.

95

Số thất nghiệp ngày càng tăng còn do tình trạng tồn đọng từ năm trƣớc việc giải quyết

việc làm càng trở nên khó khăn: năm 1997 chuyển sang 1998 khoảng 1,05 triệu ngƣời, năm

1998 chuyển sang 1999 khoảng 1,75 triệu ngƣời. Việc làm đang là vấn đề bức xúc và là đòi

hỏi cấp thiết của ngƣời lao động ở thành phố cũng nhƣ ở nông thôn. Cuộc khủng hoảng tài

chính - tiền tệ châu Á cũng đã làm gay gắt tình hình thất nghiệp ở Việt Nam. Đến 1998, do

ảnh hƣởng của khủng hoảng, các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài sa thải 8%, ở một

số doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp số mất việc làm lên tới 30%. Nếu

không có phƣơng hƣớng và biện pháp giải quyết hữu hiệu, tình hình thất nghiệp sẽ căng

thẳng hơn, làm giảm tốc độ tăng trƣởng kinh tế, gây khó khăn cho tiến trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nƣớc, làm mất ổn định kinh tế -xã hội.

2.3. Thực trạng về quản lý nhà nước đối với thị trường sức lao động ở Việt

Nam

2.3.1 Về quản lý lao động.

Theo qui định của Nhà nƣớc, ngƣời lao động giao kết hợp đồng lao động từ một năm

trở lên hay không xác định thời hạn trong mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều

đƣợc cấp sổ lao động. Sổ lao động dùng để ghi toàn bộ quá trình làm việc của ngƣời lao

động, là cơ sở để thực hiện bảo hiểm xã hội. Việc lập sổ lao động nhằm quản lý lao động tốt

hơn, nhƣng lại làm phát sinh công việc mang tính hình thức, nặng về kê khai lý lịch. Từ khi

sổ bảo hiểm xã hội đƣợc đƣa vào sử dụng thì hiệu lực quản lý của sổ lao động giảm xuống.

Nhà nƣớc cũng có những qui định về việc quản lý lao động ở các doanh nghiệp. Các

doanh nghiệp chỉ đƣợc tuyển dụng lao động khi đã đăng ký kinh doanh, phải ký kết hợp đồng

lao động, lập sổ lao động, sổ lƣơng, sổ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, qui định về thời gian

làm việc, nghỉ ngơi và cho thôi việc

96

đúng pháp luật. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày bắt đầu hoặc chẩm dứt hoạt động, các

doanh nghiệp phải khai trình việc sử dụng hoặc chấm dứt sử dụng lao động với cơ quan quản

lý địa phƣơng.

Do dân số tăng, đời sống ngƣời dân nông thôn khó khăn, do việc di dân của Nhà nƣớc

chƣa đáp ứng đủ nhu cầu... đã làm cho lực lƣợng lao động tự do phình ra rất nhanh. Tháng

12-1995, cả nƣớc có gần 450.000 lao động tự do đang lao động trong các doanh nghiệp tƣ

nhân và nhà nƣớc hoặc tìm việc làm tại các đô thị.Ở Hà Nội, Lạng Sơn, TPHCM, Đồng Nai

đã hình thành các "chợ ngƣời" làm đủ các nghề lao động giản đơn, rất khó quản lý.

Đến tháng 9/96, ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhƣ lịch sử của nó, hiện có khoảng

700.000 ngƣời di dân tự do tập trung 2/3 ở nội thành, mỗi năm tăng hơn 50.000 chiếm 2,37%

lực lƣợng lao động, trong khi tỷ lệ tăng dân số là 1,7%. Trong số này, tỷ lệ lao động trên 15

tuổi là 79%, số có việc làm là 68%, trong đó phân nửa là việc làm không ổn định; 40% có

trình độ văn hóa dƣới cấp 1, 34% cấp 2, chỉ 5% là có tay nghề; có 2/3 tìm việc làm và 14,2%

vì mục đích học tập. Có 21,3% lao động làm việc trong các doanh nghiệp cố vốn đầu tƣ nƣớc

ngoài là lao động nhập cƣ. Có thể chia thành ba nhóm: nhóm lao động giản đơn; nhóm có

chuyên môn tay nghề, có thu nhập ổn định và nhóm những sinh viên các tỉnh đang theo học

ở thành phố.

Ở Hà nội, cơ quan quản lý lao động đã cấp thẻ lao động nhập cƣ cho gần 8000 lƣợt

ngƣời, xây nhà chờ việc cho ngƣời lao động với cơ chế tự quản (ngƣời lao động cử ra tổ

trƣởng), xóa các chợ sức lao động...

Việc di cƣ nhân lực là tất yếu xảy ra, nhƣng làm ảnh hƣởng đến phân công lại lao

động xã hội, gây ra những mất cân đối; nông thôn sẽ thiếu lao động vào mùa vụ, sản lƣợng

lƣơng thực sẽ giảm; thành thị sẽ nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, chi phí xã hội gia tăng, kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội bị phá vỡ, thất

97

nghiệp tăng (thất nghiệp trong số dân nhập cƣ là 8%), cơ sở hạ tầng quá tải an ninh trật tự xã

hội không đảm bảo... đòi hỏi Nhà nƣớc phải có chính sách và giải pháp đúng đắn.

Các nhà quản lý TPHCM cho rằng khi lực lƣợng lao động đáp ứng đƣợc yêu cầu của

một vùng, một địa phƣơng theo đúng chƣơng trình kế hoạch, thì lực lƣợng lao động này sẽ

phát huy hiệu quả, đóng góp tích cực cho sự phát triển của địa phƣơng đó; còn khi nguồn lực

lao động gia tăng vƣợt khỏi sự quản lý, kiểm soát của Nhà nƣớc, nhƣ nƣớc lũ tràn bờ thì

nguồn lực đó sẽ bị phí phạm, không hiệu quả và gây trở ngại cho sự phát triển, thị trƣờng sức

lao động sẽ phát triển không bình thƣờng.

Ý kiến ngƣợc lại là: Những chính sách, biện pháp nhằm ngăn cấm hay hạn chế luồng

di dân tự phát là trái với quy luật và chắc chắn sẽ không mang lại hiệu quả. Nền kinh tế sẽ có

lợi là lực lƣợng lao động đƣợc phân bố một cách hợp lý và phát huy đƣợc các nguồn lực

khác, giúp xóa đói nghèo, góp phần vào sự thịnh vƣợng của đất nƣớc (thu nhập của mỗi lao

động nhập cƣ tăng lên gần gấp 3 lần so với mức thu nhập trƣớc đây, trung bình đóng góp cho

quê hƣơng 270.000đ/năm, tính trên tổng số 700.000 ngƣời thì mức đóng góp khoảng 190 tỷ

đồng). Nhìn tầm ngắn hạn, lao động nhập cƣ gây quá tải cho đô thị; nhƣng nhìn xa hơn, đó là

một quy luật có lợi. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (60%) có xu hƣớng tuyển lao động

nhập cƣ, bởi vì họ siêng năng, chấp nhận mức lƣơng thấp, chấp nhận làm tăng giờ, tăng ca;

thậm chí chấp nhận bị lạm dụng sức lao động, không đòi hỏi tiền thƣởng, tiền bảo hiểm xã

hội. Ngƣời lao động nhập cƣ không phải là đối tƣợng phải ngăn ngừa mà là đối tƣợng cần

đƣợc bảo vệ bởi vì họ luôn bị thất thế trong quan hệ lao động; họ phải đƣợc quyền tìm kiếm

việc làm một cách bình đẳng, phù hợp với khả năng của họ và với quy hoạch cơ cấu kinh tế

tại chỗ.

98

Theo Nghị định 51CP của Chính phủ, di dân là một quá trình có tính quy luật mà bất

cứ nƣớc nào bƣớc vào công nghiệp hóa cũng phải chấp nhận. Chủ trƣơng của Chính phủ là

không cấm công dân tìm việc làm hay tự tạo việc làm ở các thành phố trên lãnh thổ Việt

Nam, quyền tự do tìm việc làm đó phù hợp với Hiến pháp và Luật lao động. Ngƣời lao động

di dân đƣợc quyền cƣ trú, đƣợc cấp thẻ lao động (gia hạn mỗi 6 tháng) nếu đƣợc chính quyền

địa phƣơng xác nhận đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ. Theo Luật lao động, mọi ngƣời đều có

quyền làm việc, tự lựa chọn nghề nghiệp và việc làm, có quyền làm việc cho bất kỳ ngƣời sử

dụng lao động nào và bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm.

2. 3. 2. Giải quyết tranh chấp lao động.

Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt nam hiện nay, sự bóc lột vẫn diễn ra ở khu

vực kinh tế tƣ nhân và tình hình tranh chấp lao động ở nƣớc ta đang có xu hƣớng gia tăng.

Phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều vi phạm qui định về thời gian lao động

(không tăng ca sẽ bị trừ lƣơng, tăng ca để đạt định mức thƣờng không hợp lý); chậm trả hay

nợ lƣơng kéo dài ("giam" 30% tiền lƣơng để giữ chân công nhân) làm cho tiền lƣơng danh

nghĩa giảm; chiếm dụng bảo hiểm xã hội, không đảm bảo điều kiện môi trƣờng lao động, bảo

hộ lao động... Tiền thƣởng từ lợi nhuận thƣờng bị thất hứa hay không rõ ràng ("ngƣời lao

động bảo lời, nhà doanh nghiệp than lỗ"). Ở một số doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài,

những qui định của pháp luật lao động thƣờng không đƣợc thực hiện đầy đủ; cƣờng độ làm

việc căng thẳng; những bất đồng về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục tập quán; tính kỷ luật còn

yếu của ngƣời lao động vốn là nông dân; việc đối xử trịch thƣợng, xúc phạm nhân phẩm

ngƣời lao động đã làm xấu đi quan hệ lao động. Trong khi đó, Bộ Luật Lao động của nƣớc ta

vẫn còn nhiều vƣớng mắc, nhất là những nội dung nhạy cảm nhƣ tiền lƣơng, tiền thƣởng và

thời gian làm việc.

99

Bảng 18: Số liệu tổng hợp về đình công theo thành phần kinh tế.

DN nhà nƣớc DN tƣ nhân DN có vốn nƣớc ngoài Năm Tổng số vụ

SỐ vụ Số vụ Số vụ Tỷ trọng (%) Tỷ trọng (%) Tỷ trọng (%)

1989 9 9 100 0 0 0 0

1990 21 18 85,7 3 14,3 0 0

1991 10 7 70 3 30 0 0

1992 15 9 60 6 40 0 0

1993 38 14 36,8 11 28,9 13 34,2

1994 51 19 37,3 17 33,3 15 29,4

1995 60 11 18,3 28 46,7 21 35

1996 52 6 11,5 32 61,6 14 26,9

1997 48 10 20,8 24 50 14 29,2

Nguồn; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Hiện nay vẫn còn 40% ngƣời lao động chƣa đƣợc ký hợp đồng lao động (Thành phố

Hồ Chí Minh còn gần 30%, chủ yếu ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có

vốn đầu tƣ nƣớc ngoài chỉ còn 5%) bởi vì doanh nghiệp né tránh trách nhiệm, muốn tránh

đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, muốn đơn giản hóa việc tuyển dụng lao động và dễ

cho thôi việc. Nguồn lao động lại có tâm lý thỏa mãn khi vƣợt qua đƣợc khâu khó khăn là

phỏng vấn tuyển dụng; họ xem việc ký kết hợp đồng chỉ là thủ tục để đƣợc làm việc chứ

không xem là cơ sở đảm bảo quyền lợi của mình và không muốn bị ràng buộc vào một doanh

nghiệp nào đó. Ở một số nơi, hợp đồng lao động chỉ là hình thức, không đầy đủ về nội

100

dung, chƣa rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm của đôi bên. Ngƣời lao động không

biết rõ nội dung hợp đồng và bản thỏa ƣớc lao động tập thể nên không biết đƣợc

quyền lợi khác ngoài tiền lƣơng. Ngƣời lao động bị thiệt hại nhƣng không biết đấu

tranh vì không hiểu luật, hay có thể cam chịu dù biết luật vì sợ mất việc, nhất là lao

Bảng 19; Đình công trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

động nhập cƣ.

Năm Tổng Hàn Quốc Đài Loan Hồng Kông Đối tác khác

số vụ Số vụ Tỷ trọng Số vụ Tỷ trọng Số vụ Tỷ trọng Số vụ Tỷ trọng

(%) (%) (%) (%)

1990 3 2 66,7 1 33,3 0 0 0 0

1991 3 0 0 1 33,3 0 66,7 2 0

1992 6 2 33,3 2 33,3 0 33,3 2 0

1993 11 4 36,4 4 36,4 0 27,3 3 0

1994 17 7 41,2 2 11,8 6 41,2 7 1

1995 28 12 43 6 21,4 7 28,6 8 2

1996 32 10 6 16 5 2 31,3 15 46,9

Nguồn: Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam

1997 24 10 21 5 2 41,7 7 29,2 8,3

Đó là những nguyên nhân của tranh chấp lao động và đình công. Tranh chấp lao động

dẫn tới đình công là do các doanh nghiệp không thành lập Hội đồng hòa giải lao động và do

nhiều địa phƣơng chƣa thành lập Hội đồng trọng tài. Chỉ có tranh chấp tập thể mới dẫn đến

đình công. Nếu sự tranh chấp tập thể không giải quyết được bởi Hội đồng hòa giải cơ sở

(hoặc hòa giải viên trong

101

doanh nghiệp có dưới 10 lao động), và nếu đôi bên không đồng ý với quyết định của Hội

đồng trọng tài cấp trên, thì hoặc là đưa ra Tòa lao động, hoặc thực hiện đình công. Đối với

tranh chấp cá nhân, nếu không giải quyết được bởi Trọng tài cơ sở, thì đưa ra Tòa lao động.

Đình công hợp pháp là đình công phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể (trong phạm vi

quan hệ lao động), do Ban chấp hành công đoàn cơ sở quyết định sau khi được trên 50%

người lao động tán thành, khi không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài cấp tỉnh

mà không khởi kiện ra tòa và không vi phạm quyết định của Thủ tướng về việc hoãn hoặc

ngừng đình công.

Hầu hết các cuộc đình công đều không tuân thủ những trình tự qui định và sai luật,

90% vụ là do lỗi của ngƣời sử dụng lao động, chƣa vụ nào vƣợt ra khỏi quan hệ lao động.

Đình công thƣờng xảy ra ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhất là ở những doanh

nghiệp chƣa có công đoàn hoặc công đoàn còn thiếu kinh nghiệm.

Tình hình tranh chấp trong quan hệ lao động ở nƣớc ta đang có xu hƣớng gia tăng,

nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế châu Á. Trong 3 tháng đầu năm 1999, tại TPHCM

đã xảy ra 11 cuộc đình công, lãn công của công nhân và nhiều vụ tranh chấp lao động ở các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.

Việc trả lƣơng và giải quyết các quyền lợi khác cho ngƣời lao động tham gia đình

công trong những ngày đình công phải căn cứ vào quyết định của tòa án về cuộc đình công

hợp pháp hay bất hợp pháp và lỗi của mỗi bên trong việc thực hiện các qui định của pháp luật

lao động. Từ đó, quan hệ lao động sẽ trở nên bình đẳng và đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của

đôi bên. (27)

Ngƣời viết luận án cho rằng, không nên gọi là vũ khí đình công, vì sẽ vô tình làm

nghiêm trọng hóa vấn đề khiến cho mối quan hệ lao động giữa hai bên sẽ khó đi đến hòa giải,

mà nên gọi là biện pháp hay phƣơng cách đình công.

102

Về việc xử lý kỷ luật lao động, Luật lao động quy định ba hình thức xử lý đối với

ngƣời vi phạm kỷ luật lao động là khiển trách, chuyển làm công việc khác có mức lƣơng thấp

hơn trong thời hạn tối đa là sáu tháng và sa thải. Doanh nghiệp không đƣợc áp dụng việc xử

phạt bằng cách trừ lƣơng, nhƣng trong thực tế biện pháp này dễ thực hiện, đƣợc công nhân

chấp nhận. Trƣờng hợp ngƣời lao động bị thôi việc thắng kiện, sự trở lại công việc là không

dễ dàng chút nào, bởi vì quan hệ lao động đã đổ vỡ, mâu thuẫn nội bộ trở nên căng thẳng,

ngƣời lao động không thể tiếp tục công việc; giải pháp thực tế là cho thôi việc có trợ cấp để

ngƣời lao động tìm việc nơi khác.

Tranh chấp lao động cũng có thể xảy ra trong việc đào tạo nghề cho ngƣời lao động.

Một số ngƣời lao động sau khi đƣợc doanh nghiệp đào tạo đã bỏ đi nơi khác gây khó khăn

cho việc sắp xếp nhân sự và gây tổn thất cho doanh nghiệp vì kinh phí đào tạo khó thu hồi.

Nhà nƣớc đã qui định: trong hợp đồng học nghề hay hợp đồng lao động phải ghi thời gian

làm việc cho doanh nghiệp sau khi học xong; học phí do doanh nghiệp hoặc đối tác nƣớc

ngoài tài trợ; nếu ngƣời lao động tự ý bỏ học, không làm việc hay làm việc không đủ thời

gian doanh nghiệp sau khi đào tạo, thì phải đền bù chi phí đào tạo, trừ trƣờng hợp bất khả

kháng (Điều 17 của NĐ 90CP ngày 15/12/1995). Nhà nƣớc còn qui định: khi doanh nghiệp

thay đổi công nghệ thiết bị, cơ cấu tổ chức, thu hẹp quy mô sản xuất mà phải cất giảm lao

động thì phải có trách nhiệm trợ cấp một khoản kinh phí theo thỏa thuận để ngƣời lao động tự

đào tạo lại nghề (Dự thảo sửa đổi Nghị định 72). Những qui định này là hợp lý, sòng phẳng,

có thể giữ chân ngƣời lao động và góp phần đào tạo nghề cho lực lƣợng lao động - một vấn

đề cấp bách hiện nay.

Ngƣời lao động trẻ có khả năng chuyên môn giỏi thƣờng đòi hỏi lƣơng cao, rồi bỏ

việc đột ngột sang xí nghiệp khác, vi phạm thời hạn báo trƣớc khi chấm dứt hợp đồng lao

động. Các doanh nghiệp nói rằng luật qui định ngƣời lao động làm

103

thêm đƣợc tính phụ trội, nhƣng khi không có việc kéo dài cả chục ngày, doanh nghiệp vẫn

phải trả lƣơng nên bị thiệt.

2.3.3. Quản lý các Trung tâm dịch vụ việc làm.

Các Trung tâm dịch vụ việc làm có vai trò quan trọng đối với thị trƣờng sức lao động,

thông qua các nhiệm vụ: hƣớng nghiệp, dạy nghề, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động, tổ

chức sản xuất, dịch vụ quy mô nhỏ và cung cấp thông tin về thị trƣờng sức lao động cho cơ

quan nhà nƣớc hay doanh nghiệp.

Đến 1997, cả nƣớc có 143 trung tâm xúc tiến việc làm thuộc các ngành, địa phƣơng,

đoàn thể. Dựa vào NĐ 72CP, Bộ LĐTBXH đã có Thông tƣ thống nhất quản lý tất cả các

trung tâm dịch vụ việc làm trong cả nƣớc, yêu cầu các địa phƣơng sắp xếp lại và nghiêm cấm

tƣ nhân. Số ngƣời đƣợc đào tạo nghề hàng năm ở các Trung tâm dịch vụ việc làm gấp 4 lần

số ngƣời đƣợc đào tạo trong các trƣờng dạy nghề chính quy. (28)

Hiện nay, vẫn có tình trạng tƣ nhân núp bóng các Trung tâm của nhà nƣớc, tạo ra

những cơn sốt giả để móc túi ngƣời lao động, gây nhiễu loạn thông tin trên thị trƣờng sức lao

động. Một số công ty tƣ nhân tùy tiện mở văn phòng giới thiệu việc làm, đặt ra mức lệ phí

cao, thậm chí lƣờng gạt ngƣời lao động. Doanh nghiệp tuyển lao động phải trả tiền cho nơi

làm dịch vụ cung ứng lao động: không quá 3% lƣơng tháng thứ nhất. Thế nhƣng để tranh thủ

đƣợc đầu ra, để đảm bảo cái lợi cho mình, bí quyết của các Văn phòng cung ứng lao động là

không thu phí nơi doanh nghiệp mà thu ngay nơi ngƣời lao động.

Công tác nghiên cứu thị trƣờng của các Trung tâm còn yếu, chƣa cung ứng đƣợc

những ngƣời lao động có chuyên môn, có kinh nghiệm. Một số doanh nghiệp có tâm lý

không muốn qua vai trò trung gian của các Trung tâm dịch vụ việc làm, mà muốn tuyển dụng

lao động theo cách thức riêng. Một cuộc điều tra vào năm 1995 đối với học sinh tốt nghiệp

trƣờng dạy nghề ở các thành phố lớn

104

cho thấy tình hình có việc làm nhƣ sau: 50,4% là do quen biết 15,7% là do sự năng động của

bản thân ngƣời lao động, chỉ có 7,5% là nhờ đến tổ chức dịch vụ việc làm (ở TPHCM tỷ lệ

này 25,8%). Nhƣ vậy, thông qua cầu nối dịch vụ việc làm, không phải lúc nào cũng phù hợp

nhau giữa ngƣời và việc, giữa cung và cầu vẫn chƣa đáp ứng yêu cầu của thị trƣờng sức lao

động.

Đầu năm 1998, sau khi TPHCM quy hoạch, sắp xếp lại giảm bớt còn 8 Trung tâm với

22 chi nhánh thì việc giới thiệu việc làm, cung ứng lao động trở nên có hiệu quả hơn. Tuy

nhiên, hoạt động dịch vụ việc làm vẫn còn chồng chéo, thiếu liên kết phối hợp, vẫn chƣa thật

sự phát huy năng lực và hiệu quả là cầu nối giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động,

do các Trung tâm không nắm đƣợc nguồn lao động lại thiếu thông tin về thị trƣờng sức lao

động. Tỷ lệ ngƣời tìm đƣợc việc làm so với số đăng ký tìm việc ở các Trung tâm là 66%,

trong đó có 30% không hộ khẩu ở Thành phố, 30% có trình độ tay nghề.

Ngƣời lao động thƣờng ngại đến những trung tâm giới thiệu việc làm lớn, phải chịu

chi phí dịch vụ việc làm, mà thƣờng qua quen biết hay qua báo chí. Trung tâm dịch vụ việc

làm phối hợp với báo chí ngày càng phổ biến. Khi đăng tin trên chuyên trang báo Ngƣời lao

động thì thông tin việc làm có độ lan tỏa nhanh hơn, các đơn vị tuyển dụng biết đến Trung

tâm nhiều hơn, lƣợng khách hàng tăng 200%; các mục nhƣ "nhà tuyển dụng tự giới thiệu",

hay phụ trang "việc làm và nghề nghiệp" trên báo chí đã mang lại kết quả tốt.

2.3.4 Quản lý tiền lương và bảo hiểm xã hội.

2.3.4.1 Quản lý tiền lương.

Nhà nƣớc có thể tác động đến tiền lƣờng để gián tiếp can thiệp vào thị trƣờng sức lao

động. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa - tập trung trƣớc đây, tiền lƣơng và tiền thƣởng đƣợc

coi nhƣ một phần của thu nhập quốc dân mà Nhà nƣớc phân phối cho ngƣời lao động, tƣơng

ứng với số lƣợng và chất lƣợng lao động của

105

họ và chƣa đƣợc thừa nhận mối quan hệ với các quy luật thị trƣờng. Hệ thống thang bảng

lƣơng ở nƣớc ta trong nhiều năm theo cơ chế bao cấp còn mang nặng tính bình quân, chƣa

kích thích tính tích cực của ngƣời lao động. Tiền lƣơng thực tế không đúng nghĩa của tiền

lƣơng, không đủ để tái sản xuất sức lao động, đời sống của ngƣời lao động gặp nhiều khó

khăn.

Sau khi Nghị định 235/HĐBT tháng 9/1985 đƣợc ban hành nhằm cải tiến hệ thống

tiền lƣơng trong khu vực kinh tế quốc doanh, tƣởng chừng đời sống ngƣời lao động sẽ khá

hơn, sức mua của đồng tiền mạnh hơn; nhƣng với tốc độ của lạm phát trong những năm 1986

-1989, tiền lƣơng càng trở nên vô nghĩa so với yêu cầu đảm bảo đời sống của ngƣời lao động.

Nghị định 25CP ngày 15.6.1993 đã ban hành chế độ tiền lƣơng mới, xây dựng các

thang bậc lƣơng cho khu vực sản xuất kinh doanh, hành chính sự nghiệp, lực lƣợng vũ trang,

các chức vụ dân cử và kèm theo là các chế độ cho đối tƣợng hƣởng chính sách xã hội. Mức

lƣơng tối thiểu đƣợc quy định là 120.000đ/tháng. Trong thực tế khi đó, lƣơng của lao động

phổ thông ở các doanh nghiệp khoảng 300.000 đ/tháng, lƣơng công nhân từ 15.000đ đến

35.000đ/ngày, lƣơng công chức có bằng cấp từ 15.000đ đến 30.000đ/ngày, công lao động

nông nghiệp từ 10.000đ đến 20.000đ, vào thời vụ thì 40.000đ. Nhƣ vậy, cũng vẫn còn bất hợp

lý là lao động phức tạp rẻ hơn lao động giản đơn.

Theo số liệu điều tra của công ty Wener Intemational tại 51 quốc gia và lãnh thổ trên

thế giới vào năm 1996, mức lƣơng trung bình trong ngành dệt Việt Nam là 0,39USD/giờ,

thấp nhất so với mức lƣơng trong bình của thế giới; mặc dù tạo lợi thế trong phân công lao

động quốc tế, thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài, nhƣng lại không đủ đảm bảo tái sản xuất sức lao

động cho ngƣời lao động.

Việc định mức lƣơng ở các doanh nghiệp nhà nƣớc, lúc bấy giờ, không phải trực tiếp

giữa Ban Giám đốc với công nhân, mà là với Bộ chủ quản, căn cứ

106

theo hệ thống thang bảng lƣơng của Nhà nƣớc theo nghị định 26CP ngày 25/6/93 cũng có

tham khảo thị trƣờng và phụ thuộc vào mức lợi nhuận thu đƣợc của doanh nghiệp. Một số

doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì thu nhập của ngƣời lao động có khá hơn,

nhƣng cơ chế tiền thƣởng từ lợi nhuận theo qui định tại NĐ 59CP ngày 3/10/1996 cũng chƣa

phù hợp.

Tiền lƣơng ở khu vực hành chính sự nghiệp còn nhiều bất hợp lý, tiền lƣơng thực tế

giảm sút, không khuyến khích công chức làm việc hết trách nhiệm. Do tiền lƣơng không đủ

sống, một số cơ quan hay bản thân công chức phải tìm kiếm các khoản thu nhập ngoài lƣơng.

Công tác tổ chức ở nhiều cơ quan đã vì con ngƣời mà xếp việc, chƣa căn cứ vào nhu cầu

công việc để bố trí ngƣời. Nhà nƣớc chƣa nắm đƣợc chính xác số lƣợng công nhân viên chức,

ngạch bậc, mức lƣơng mỗi ngƣời, chƣa tạo điều kiện cho việc sắp xếp lại biên chế tổ chức,

cải cách hành chính quốc gia. (29)

Nghị định 28CP ra đời tháng 3/97, bƣớc đầu đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tế của sản

xuất kinh doanh: căn cứ vào qui định của Luật lao động về lƣơng tối thiểu của ngành và

vùng; Nhà nƣớc cho phép các doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc áp dụng hệ số điều chỉnh tăng

thêm không vƣợt quá 1,5 lần so với mức tiền lƣơng tối thiểu của khu vực hành chính sự

nghiệp (144.000đ/tháng) để làm thông số tính đơn giá tiền lƣơng.

Tháng 5/97, Chính phủ đổi mới cơ chế quản lý tiền lƣơng và thu nhập ở các doanh

nghiệp nhà nƣớc, tách chế độ tiền lƣơng khu vực sản xuất kinh doanh ra khỏi khu vực hành

chính sự nghiệp: cho phép xem xét, cân đối thu nhập giữa các ngành, so với tốc độ tăng

trƣởng kinh tế, hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng tự trang trải của doanh nghiệp để

tính đúng tiền lƣơng ở đầu vào theo chỉ số trƣợt giá, theo quan hệ cung - cầu trên thị trƣờng

sức lao động; cao nhất không vƣợt quá hai lần mức tiền lƣơng bình quân chung của tất cả các

doanh nghiệp;

107

bảo đảm mối tƣơng quan hợp lý giữa tiền lƣơng với năng suất lao động (tốc độ tăng tiền

lƣơng phải thấp hơn tốc độ táng năng suất lao động), giữa tiền lƣơng với lợi nhuận và nộp

ngân sách.

Mặc dù nhà nƣớc quy định tiền lƣơng tối thiểu tăng lên 157.000đ/tháng từ tháng 8/98,

mức lƣơng thực tế chƣa đảm bảo tái sản xuất sức lao động cho ngƣời lao động, vẫn không

đáp ứng yêu cầu đảm bảo mức sống tối thiểu. Tiền lƣơng ở các doanh nghiệp nhà nƣớc với

đơn giá quá thấp, đã không giữ đƣợc ngƣời lao động, nhất là ngƣời lao động tay nghề cao.

Các doanh nghiệp nhà nƣớc, doanh nghiệp tƣ nhân, liên doanh với nƣớc ngoài đã lấy thang

bảng lƣơng của nhà nƣớc làm chuẩn, đồng thời tùy theo doanh lợi của doanh nghiệp và hiệu

quả lao động để trả lƣơng theo hợp đồng lao động; phần lớn các doanh nghiệp áp dụng mức

lƣơng tối thiểu điều chỉnh tăng lên 360.000đ/tháng.

Mức lƣơng tối thiểu trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc nâng từ

35 USD lên 35-50 USD tùy theo vùng kinh tế: ở Hà nội và TPHCM là 50 USD/tháng, ở các

tính là 40 USD/tháng, ở những địa bàn khó khăn nhằm khuyến khích đầu tƣ thì 30 - 35

USD/tháng. Mức lƣơng bình quân ở các doanh nghiệp này đã tăng lên 70 - 100 USD, yêu cầu

đối với lao động cũng cao hơn so với các doanh nghiệp khác.

Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tƣ nhân đƣợc tự do hơn trong việc

định mức lƣơng, chỉ phải đảm bảo cao hơn mức lƣơng tối thiểu, cũng có đối chiếu với khu

vực doanh nghiệp nhà nƣớc, chủ yếu là theo thị trƣờng. Thông thƣờng, mức lƣơng ở đây cao

hơn so với các doanh nghiệp nhà nƣớc, nhất là đối với lao động kỹ thuật, có trình độ cao

nhằm mục đích thu hút chất xám; còn đối với lao động phổ thông thì lƣơng cao đi đôi với

cƣờng độ lao động cao, yêu cầu cao, thời gian làm việc từ 10 - 14 giờ/ngày và thƣờng chiếm

dụng tiền lƣơng.

108

Ở khu vực nông thôn và kinh tế hộ gia đình, các nhân tố chi phối giá nhân công là mức lƣơng

phổ biến trên thị trƣờng và tày theo sự mặc cả hay thỏa thuận.

Tháng 6/98, ở TPHCM, các doanh nghiệp đột ngột thay đổi cách tính lƣơng, chuyển

từ lƣơng thời gian sang lƣơng sản phẩm khiến xảy ra các cuộc đình công tự phát của ngƣời

lao động. Theo Luật lao động, nếu sản phẩm làm ra vào giờ thứ chín thì chủ doanh nghiệp

phải trả 150% tiền lƣơng cho sản phẩm đó; trong khi với lƣơng khoán thì làm đến giờ thứ 10

cũng chƣa đạt định mức! Sở LĐTBXH đã hƣớng dẫn cho các doanh nghiệp trong việc xây

dựng những phƣơng án tính lƣơng cho ngƣời lao động. Nếu 90% công nhân không thực hiện

đƣợc định mức thì phải giảm xuống và nếu sản phẩm làm ra trong tám giờ lao động vƣợt quá

20% định mức, tức là năng suất lao động tăng, thì doanh nghiệp đƣợc phép hạ đơn giá thành

Bảng 20: Tiền lương bình quân ở một số ngành và khu vực: (ngàn đồng)

phẩm.

Thành thị Nhà hàng, khách sạn Khu vực hỗn hợp

Vận tải, thông tin Nông, lâm nghiệp Khu vực nƣớc ngoài Kinh tế tập thể Kinh tế cá thể, gia đình

500 643 624,6 409 855,7 685,3 566,4 494,6

Nguồn: Điều tra lao động và việc làm 1/7/1999 (Tuổi trẻ 25/9/1999)

Nhƣ vậy, chế độ tiền lƣơng ở nƣớc ta hiện nay vừa theo thị trƣờng, vừa tùy theo mức

lƣơng tối thiểu và tiền lƣơng ở khu vực nhà nƣớc. Chế độ tiền lƣơng mới góp phần nâng tiền

lƣơng thực tế của ngƣời lao động, Nhà nƣớc biết đƣợc quỹ lƣơng của từng doanh nghiệp,

từng ngành, từng địa phƣơng. Nhƣng cơ chế quản lý tiền lƣơng còn bộc lộ nhiều nhƣợc điểm:

tiền lƣơng thực tế còn thấp chƣa đảm bảo tái sản xuất sức lao động, hệ thống thang lƣơng và

ngạch bậc lƣơng chƣa

109

hợp lý, hệ thống phụ cấp phức tạp, không phản ánh sự khác biệt giữa các loại hình lao động,

chƣa khuyến khích ngƣời lao động giỏi, chênh lệch thu nhập giữa các cơ quan, các ngành và

các vùng là rất lớn.

2. 3.4.2. Về vấn đề bảo hiểm xã hội.

Chính sách bảo hiểm xã hội có liên quan đến nhiều chính sách khác đặc biệt là chính

sách về tiền lƣơng, thu nhập... Hệ thống bảo hiểm xã hội của nƣớc ta trƣớc đây đã tồn tại chủ

yếu dựa vào sự bao cấp của Nhà nƣớc.

Từ năm 1995, do thực hiện Bộ Luật lao động và Nghị định 12CP, quỹ bảo hiểm xã

hội đã trở nên độc lập, nằm ngoài ngân sách nhà nƣớc và theo cơ chế thị trƣờng. Đối tƣợng

của bảo hiểm xã hội không chỉ là công nhân viên khu vực nhà nƣớc mà còn mở rộng ra cho

ngƣời lao động trong các thành phần kinh tế, ở bất cứ doanh nghiệp nào có 10 lao động trở

lên. Nguồn thu chủ yếu của quỹ gồm những khoản đóng góp của ngƣời sử dụng lao động

(15%), của ngƣời lao động (5%), của Chính phủ (cho những đối tƣợng hƣởng bảo hiểm xã

hội từ 1/1/1995 về trƣớc) và thu khác. Bảo hiểm xã hội đã góp phần hỗ trợ cho thị trƣờng sức

lao động, làm tăng nguồn tài chính tập trung và góp phần ổn định xã hội.

Theo các chuyên gia ILO, để khắc phục tình trạng thâm hụt, nên tăng tỷ lệ nộp phí lên

30%. Ngoài ra, còn có ý kiến cho rằng nên tăng tuổi nghỉ hƣu để kéo dài thời hạn đóng bảo

hiểm, sử dụng quỹ để đầu tƣ sinh lời: đầu tƣ vào thị trƣờng bất động sản, cho Chính phủ vay,

tái bảo hiểm...

Cơ chế hoạt động của bảo hiểm xã hội vẫn còn phải tiếp tục hoàn thiện. Một số không

ít các doanh nghiệp nhà nƣớc còn nợ bảo hiểm xã hội với số tiền lớn làm ảnh hƣởng đến

nguồn chi trả. Nguồn thu bảo hiểm xã hội không ngừng tăng lên là do hiện tại có nhiều ngƣời

nộp phí, trong khi hầu hết số đang thụ hƣởng vẫn do ngân sách nhà nƣớc chi trả. Trong thời

gian tới, gánh nặng tài chính của quỹ bảo hiểm xã hội sẽ ngày càng lớn, bởi vì số ngƣời thụ

hƣởng sẽ tăng

110

nhanh hơn so với số ngƣời tham gia bảo hiểm. Hơn nữa, do tuổi thọ của ngƣời lao động nghỉ

hƣu tăng, nên thời gian hƣởng bảo hiểm của họ sẽ kéo dài, làm cho chi bảo hiểm càng lớn.

Theo tính toán của chuyên gia ILO về tài chính của bảo hiểm xã hội Việt nam, đến năm 2030,

Bảng 21; Dự báo về tài chính của Quỹ Bảo hiểm xã hội Việt nam.

quỹ bảo hiểm xã hội sẽ bị thâm hụt.

1997 2000 2010 2020 2030

Số ngƣời đóng bảo hiểm xã hội (ngàn) 3.110 3271 4406 5233 5897

số ngƣời hƣởng bảo hiểm xã hội (ngàn) 1792 1802 1739 1808 1867

Trong đó:

+ Hƣởng trƣớc năm 1995 1732 1635 1195 706 290

+ Hƣởng sau năm 1995 60 167 544 1102 1577

Thu bảo hiểm xã hội (ngàn tỷ) 7,9 11,6 23,4 35,1 49,6

Chi bảo hiểm xã hội (ngàn tỷ) 5,9 8,7 17,9 33,4 63,0

Chênh lệch thu - chi (ngàn tỷ) 2,0 2,8 5,5 1,8 -13,5

Nguồn: Dự báo của chuyên gia ELO. (30)

Tác giả luận án cho rằng, không nên thay đổi tỷ lệ nộp phí vì sẽ làm ảnh hƣởng đến

sản xuất và đời sống; không nên tăng tuổi nghỉ hƣu vì trái với chủ trƣơng tạo việc làm và có

thể làm cho quỹ sinh lời bằng cách cho Chính phủ vay là đủ để đảm bảo quỹ bảo hiểm xã hội

hoạt động bình thƣờng, không nên áp dụng các hình thức đầu tƣ nhiều rủi ro. Bảo hiểm xã

hội còn có ý nghĩa nhƣ là một loại tiết kiệm nhân thọ, bởi vì ngoài trƣờng hợp đối tƣợng bảo

hiểm đƣợc hƣởng tiền bảo hiểm khi bệnh tật hay tai nạn lao động xảy ra trong quá trình sản

xuất, còn là trƣờng hợp đối tƣợng đƣợc hƣởng trợ cấp sau khi về hƣu.

Hiện nay, có ý kiến cho rằng cần phải có bảo hiểm thất nghiệp (31); các doanh nghiệp

tán đồng vì sẽ không phải lo trợ cấp mất việc và trợ cấp thôi việc

111

mỗi khi ngƣời lao động nghỉ việc. Thôi việc là tình trạng ngƣời lao động không cơn làm việc

lại nơi làm việc cũ do chấm dứt hợp đồng lao động - mất việc làm là một trƣờng hợp của thôi

việc khi ngƣời lao động không có khả năng đảm nhận công việc và yêu cầu công nghệ sản

xuất mới. Thực chất của hai loại trợ cấp này là trợ cấp một lần cho ngƣời bị thất nghiệp, là

phần chia lợi nhuận khi ngƣời lao động không còn làm việc ở doanh nghiệp nữa. Theo luật

lao động, trách nhiệm chi trả cả hai loại trợ cấp này đều thuộc về ngƣời sử dụng lao động, tác

dụng tích cực là việc sa thải sẽ ít xảy ra hơn, nhƣng việc tuyển dụng sẽ phải cân nhắc hơn.

Trong Công ƣớc quốc tế 158 (1982) và Khuyến nghị 166 (1982) của ILO về chấm dứt việc

làm cũng có điều khoản riêng về trợ cấp chấm dứt việc làm, do ngƣời sử dụng lao động trả

cho ngƣời lao động.

Để đảm bảo an toàn cho ngƣời lao động, bảo hiểm thất nghiệp rất cần thiết, có thể

thay thế cho hình thức trợ cấp thôi việc và trợ cấp mất việc. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp đƣợc

hình thành từ: phần đóng góp nghĩa vụ của ngƣời sử dụng lao động (thƣờng chiếm 4,5 - 4,7%

quỹ lƣơng), của ngƣời lao động (1,7 - 2% tiền lƣơng) và một phần từ ngân sách nhà nƣớc. Để

hƣởng bảo hiểm thất nghiệp (thời hạn dự kiến là 12 tháng), việc đóng góp vào Quỹ tối thiểu

phải đƣợc 24 tháng và ngƣời lao động phải bị mất việc chính đáng (doanh nghiệp thu hẹp sản

xuất, đổi mới công nghệ) và bất khả kháng (doanh nghiệp phá sản, thiên tai, hỏa hoạn).

2.4. Tình hình thất nghiệp và các giải pháp về thị trường sức lao động trên

thế giới

Thị trƣờng sức lao động ở Việt Nam không phải là đóng cửa với thế giới, do vậy liên

hệ, phân tích thị trƣờng sức lao động trên thế giới để vận dụng vào điều kiện nƣớc ta là rất

thiết thực.

112

2.4.1. Tình hình thất nghiệp trên thế giới.

Tổ chức Lao động quốc tế ILO đã báo động là thế giới đang lâm vào cuộc khủng

hoảng thiếu việc làm. Năm 1998, có hơn 1 tỷ ngƣời thất nghiệp và thiếu việc làm (150 triệu

ngƣời đang thất nghiệp hoàn toàn và 950 triệu ngƣời không đủ việc làm), chiếm 30% lao

động thế giới. (32)

Đây là mức nặng nề nhất từ đầu những năm 30 đến nay. Cuộc khủng hoảng việc làm

toàn cầu là kết quả của nạn suy thoái kéo dài của nền kinh tế thế giới. Nó đã gây ra nhiều khó

khăn cho cả các nƣớc giàu và gay gắt nhất là các nƣớc nghèo, làm thay đổi cơ cấu xã hội ở

nhiều nƣớc. Đối diện với nạn thất nghiệp, ngƣời ta thấy vừa lo ngại vừa bất lực.

Việc so sánh tỷ lệ thất nghiệp chỉ là tƣơng đối, do sự khác biệt trong định nghĩa thất

nghiệp ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp ở các nƣớc có thu nhập cao thƣờng cao

hơn ở các nƣớc có mức thu nhập thấp hoặc trung bình. (33)

Nạn thất nghiệp ở các nƣớc công nghiệp Phƣơng Tây từ lâu vẫn là căn bệnh khó chữa

trị và ngày càng trầm trọng (trừ nƣớc Mỹ), mặc dù nền kinh tế các nƣớc này đi vào phục hồi

nhờ động lực cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu, bởi vì các xí nghiệp suy thoái bắt buộc phải

thải thợ, còn đối với các xí nghiệp tăng trƣởng do áp dụng kỹ thuật công nghệ mới lại sử

dụng rất ít lao động. Năm 1998, tỷ lệ thất nghiệp ở Liên minh châu Âu (EU) vào khoảng

10,6%, với 18 triệu ngƣời không có việc làm. Để giải quyết nạn thất nghiệp, các biện pháp

của EU là: tăng cƣờng tối đa các khả năng tạo việc làm; khuyến khích tính linh hoạt của các

doanh nghiệp, của ngƣời lao động; phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ thích ứng với

các biến động kinh tế; và đẩy mạnh thực hiện chính sách công bầng xã hội. Một số kiến nghị

là phải đào tạo đƣợc đội ngũ lao động có tay nghề cao và hƣớng những ngƣời lao động trẻ

tìm kiếm việc làm ở khu vực dịch vụ.

113

Nguyên nhân khiến thất nghiệp ở các nƣớc phát triển gia tăng là Nhà nƣớc thiếu chính

sách kinh tế đúng đắn và đầu tƣ ra nƣớc ngoài làm thu hẹp nguồn vốn trong nƣớc. Một bản

nghiên cứu của OECD đã đƣa ra những nhận định khác với những nhận định từ trƣớc tới nay

là: nạn thất nghiệp ở các nƣớc công nghiệp phát triển không phải do tiến bộ kỹ thuật, hay vì

sự cạnh tranh của các nƣớc châu Á, mà bởi vì ngƣời ta chƣa lợi dụng tối đa những lợi ích do

tiến bộ kỹ thuật đem lại (chính Châu Âu đã có ý định trì hoãn quá trình tự động hóa để khắc

phục thất nghiệp!) và do sự cạnh tranh trong nội bộ của các nƣớc thành viên. Các công ty đa

quốc gia, các tập đoàn kinh tế đã mất khả năng áp đặt giá, chỉ có thể tồn tại và kiếm lời bằng

cách giảm giá thành nhờ đầu tƣ máy móc và giảm nhân viên. Sự cạnh tranh này làm nhiều

công ty xí nghiệp phải khánh kiệt, làm mất đi mỗi năm 10% việc làm tại mỗi nƣớc. Những

căng thẳng về thƣơng mại giữa Mỹ, Nhật và Tây Âu đã nói lên áp lực của nạn suy thoái kinh

tế và thất nghiệp đè nặng lên Chính phủ các nƣớc này. Việc sát nhập các tập đoàn lớn trên thế

giới cũng tạo thêm nguy cơ thất nghiệp.

Bản nghiên cứu đã kiến nghị đến các chính phủ thành viên là nên cải tổ chính sách

kinh tế và xã hội sao cho mềm dẻo hơn để có thể thích ứng với những biến đổi kinh tế, tránh

gây khó khăn cho mậu dịch tự do và tăng cƣờng các biện pháp bảo vệ cơ cấu kinh tế và xã

hội. Bản nghiên cứu đã đƣa ra nhiều khuyến cáo, trong đó có cải tiến kỹ thuật, khuyến khích

chế độ làm việc uyển chuyển hơn, cắt giảm phiền hà trong việc thành lập công ty mới; và có

những khuyến cáo gây nhiều tranh cãi nhƣ là cắt giảm bảo hiểm xã hội - phúc lợi, áp dụng hệ

thống tiền lƣơng hợp lý, cắt giảm chi phí ngoài lƣơng; bởi vì một mức bảo hiểm nhất định

nào đó cho ngƣời lao động là cần thiết.

Năm 1998, một số nƣớc Đông Nam Á đang rơi vào khủng hoảng tài chính tiền tệ, gây

ra nạn thất nghiệp lan tràn: Thái Lan 4,7%, Hàn Quốc 5%, Indonesia

114

20%, Philippines 11%... Giáo dục và dạy nghề, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực từng là

nguyên nhân chính của phép lạ kinh tế của châu Á cũng sẽ giúp khắc phục cuộc khủng hoảng

hiện nay. Nhƣng để giải quyết khủng hoảng còn phải phát huy sự linh hoạt của thị trƣờng sức

lao động, loại bỏ những cản trở hoạt động đầu tƣ trong xã hội, đẩy mạnh xuất khẩu lao động.

Trong khi đó, ILO lƣu ý biện pháp tự do hóa thƣơng mại và mở rộng hợp tác trên

phạm vi thế giới, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (tạo ra khoảng 80% việc làm) sẽ

thúc đẩy sử dụng nhân lực nhiều hơn. Theo ILO, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ là

khủng hoảng cơ cấu, thƣờng phải mất vài năm mới kết thúc. Các quốc gia phải tính đến các

chính sách, biện pháp dài hơi hớn: giáo dục và đào tạo tốt có thể giúp ngƣời lao động có

nhiều cơ hội việc làm trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang biến đổi nhanh chóng.

2.4.2. Một số giải pháp áp dụng ở thị trường sức lao động của các nước.

• Sự biến đổi của mô hình thị trƣờng sức lao động ở Nhật. Phƣơng thức "thuê mƣớn

suốt đời" đã đem lại hiệu quả cao cho việc sử dụng nguồn nhân lực ở Nhật Bản trƣớc đây, đã

góp phần đƣa nền kinh tế nƣớc này phát triển một cách kỳ diệu vào những thập niên 60 - 70.

Ngƣời lao động làm việc có trách nhiệm và tình cảm chứ không phải vì mệnh lệnh, không chỉ

bản thân mình gắn bó với ngƣời chủ mà còn cả đời con, đời cháu của họ; họ làm việc căng

thẳng nhƣng có thời gian thƣ giãn, tinh thần thoải mái; họ yên tâm không lo thất nghiệp và tin

rằng sự trung thành của mình sẽ đƣợc đền bù xứng đáng sau này. Tiền lƣơng thì tùy theo

thâm niên, xí nghiệp thƣờng ít thuê lao động thêm, mà chỉ cần điều chỉnh giờ lao động theo

khối lƣợng công việc và áp dụng lƣơng phụ trội.

Quan hệ lao động nhƣ vậy là hài hòa, nhƣng với phƣơng thức đó thì ngƣời chƣa có

việc làm trong xã hội sẽ khó có cơ hội việc làm, tỷ lệ thất nghiệp cao và

115

tính lƣu chuyển của hàng hóa sức lao động trong nền kinh tế sẽ bị hạn chế. Ở nƣớc Nhật ngày

nay, phƣơng thức "tuyển dụng suốt đời" không còn là duy nhất trƣớc tình hình thất nghiệp

tăng nhanh (67 việc làm/100 ngƣời tìm việc, chƣa kể số lao động nữ không có việc làm) và

tình hình phá sản của nhiều công ty diễn ra thƣờng xuyên. Trong khi đó, ngƣời lao động cũng

phải có quyền nghỉ việc hoặc đổi việc làm; doanh nghiệp phải bổ sung, trẻ hóa lực lƣợng lao

động. Do vậy, nhiều công ty Nhật đã phải sa thải công nhân và áp dụng phƣơng thức tuyển

dụng ngắn hạn.

• Về hƣớng nghiệp và dạy nghề.

Ở Trung Quốc, với cuộc cải cách giáo dục năm 1985, việc dạy nghề đã đƣợc mở rộng

ở cấp trung học, học sinh đƣợc phân luồng từ sau cấp phổ thông cơ sở, số lƣợng học sinh

nghề tƣơng đƣơng với học sinh phổ thông. Việc định hƣớng nghề nghiệp sớm giúp học sinh

yên tâm với sự lựa chọn của mình, tuy nhiên vẫn còn có cơ hội để thay đổi sự lựa chọn. (Lê

Lâm - Viện Kinh tế thế giới).

Ở Đức, việc làm và dạy nghề đƣợc giải quyết một cách hợp lý thông qua hệ thống dạy

nghề kép (Dual Vocation Training System). Ngƣời học nghề không chỉ đƣợc nhà trƣờng đào

tạo, mà với phân nửa thời gian của khóa học, họ đƣợc đào tạo trong nhà máy với chính những

máy móc kỹ thuật đang đƣợc sử dụng trong sản xuất. Nếu nhƣ học viên ký đƣợc hợp đồng

lao động với công ty thì ngay trong thời gian học, anh ta đƣợc hƣởng 70% lƣơng hay có thể

đƣợc thanh toán tiền học phí. Sau khi tốt nghiệp ngƣời học không phải mất thời gian làm

quen với thực tế sản xuất. Đây chính là thực hiện phƣơng châm kết hợp giữa lý thuyết và

thực hành, phƣơng thức này tỏ ra có hiệu quả nhằm giúp cho ngƣời lao động trẻ có đƣợc việc

làm, hiện nay đã đƣợc nhiều nƣớc châu Á áp dụng.

Ở Hàn Quốc, doanh nghiệp có trên 150 lao động bắt buộc phải thành lập cơ sở dạy

nghề. Họ đƣợc giúp đỡ từ phía Nhà nƣớc, các doanh nghiệp khác phải

116

đóng "phí dạy nghề". Cơ cấu học nghề hiện nay ở Hàn Quốc là 19% tại các trƣờng chính qui

dài hạn, 66% tại các doanh nghiệp và 15% tại các trung tâm ngắn hạn (34).

Ở Úc, Chính phủ đã phát triển thị trƣờng đào tạo với tính chất cạnh tranh và mở rộng

ra thế giới. Việc đào tạo nghề đƣợc tiến hành bởi hai loại trƣờng là trƣờng cao đẳng kỹ thuật

và các tổ chức đào tạo tƣ nhân. Những trƣờng tƣ nhân phải tuân theo tiêu chuẩn quốc gia, đã

mở rộng nhanh chóng nhờ sự tài trợ của Nhà nƣớc. Đây là biện pháp để nâng cao chất lƣợng

đào tạo và gia tăng khả năng lựa chọn chuyên ngành đào tạo của ngƣời học (35).

• Việc giảm thời gian lao động, sử dụng lao động từ xa.

Lao động bán thời gian đang thịnh hành ở một số nƣớc trên thế giới. Nƣớc Anh đã tạo

ra 40% việc làm bán thời gian trong ba năm. Ở Tây Ban Nha, 90% chỗ làm mới là bán thời

gian hoặc tạm thời. Mông Cổ giải quyết nạn thất nghiệp bằng cách bớt giờ làm. Số lƣợng

công nhân Mỹ làm việc bán thời gian đã tăng lên 2,2 triệu ngƣời kể từ năm 1973. Tuy nhiên,

những công nhân bán thời gian này thƣờng phải làm việc toàn thời gian, bởi vì để duy trì mức

sống với nhu cầu gia tăng, họ đã phải làm thêm một lƣợng thời gian tƣơng đƣơng bốn tuần lễ

mỗi năm so với trƣớc đây hai thập niên.

Đức là một trong những quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất châu Âu (10%), đã có

chiến lƣợc hạn chế thất nghiệp từ 1983, chủ yếu bằng việc giảm giờ làm. Ở hãng Mercedes,

giờ làm việc giảm từ 5 xuống 4 ngày (40 giờ) trong một tuần để tránh nạn mất việc. So với

các nƣớc khác thì thời gian lao động là ít nhất, thời gian nghỉ phép hằng năm - một dạng của

phúc lợi xã hội là dài nhất; thu nhập của công nhân giảm nhƣng không có cách nào khác.

Trung Quốc đã giảm giờ làm việc còn 5 ngày/tuần từ tháng 5/1995. Sản xuất ít ảnh

hƣởng vì năng suất lao động đã tăng cao hơn trƣớc; lƣợng hàng hóa

117

bán lẻ tăng vọt do dân chúng có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn, mặc dù giá bán vào ngày thứ

bảy cao hơn ngày thƣờng, chi tiêu cho du lịch trong nƣớc tăng 10%; tạo thuận lợi cho việc

sắp xếp lao động dƣ thừa, nâng cao trình độ quản lý của các doanh nghiệp.

Cuộc cách mạng công nghệ và tin học đã sớm mang lại kết quả cho nền kinh tế Mỹ,

năng suất tăng lên nhanh chóng, những lại làm giảm đi số việc làm. Ngƣời lao động làm việc

từ xa chiếm 15% ở Mỹ (và Pháp); họ chỉ phải đến nơi làm việc mỗi tuần một lần, nhờ đƣợc

trang bị một máy vi tính tại nhà, họ có thể nhận đƣợc thông tin, dữ liệu từ cơ quan chuyển

đến. Hiệu suất lao động tăng lên đáng kể do giảm đƣợc thời gian và mệt nhọc do đi lại, giảm

đƣợc nạn kẹt xe, giảm tối thiểu mặt bằng làm việc (văn phòng ảo). Mặt hạn chế là sự không

đảm bảo về ý thức lao động của nhân viên, tâm lý cô đơn làm giảm đi những cơ may xã hội

hóa con ngƣời trong đời sống cộng đồng.

• Vấn đề xuất khẩu lao động.

Xuất khẩu lao động đã thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế ở các quốc gia có hệ thống đào

tạo tốt những kinh tế kém phát triển nhƣ Philipinnes, Ai Cập, Ba Lan, Hungary... Theo ILO,

mỗi năm trên thế giới hiện có khoảng 65 triệu lao động xuất khẩu (trong đó châu Á có hơn 2

triệu lƣợt ngƣời) với tổng thu nhập hằng trăm tỷ USD.

Mêhicô hiện đƣợc coi là nƣớc xuất khẩu lao động nhiều nhất thế giới với số lƣợng 17

triệu ngƣời lao động tại Mỹ, chiếm 44,2% số lao động nƣớc ngoài nhập cƣ vào Mỹ.

Philippines cũng đƣợc xem là nƣớc xuất khẩu lao động nhiều trên thế giới với 4 triệu ngƣời

đang làm việc ở nƣớc ngoài (5,7% dân số), nhờ khả năng tiếng Anh của ngƣời lao động; hàng

loạt trung tâm xuất khẩu lao động đƣợc thành lập tại miền Nam; với nguồn thu 5,7 tỷ USD

năm 1997 (5% GDP) từ xuất khẩu lao động mà nền kinh tế èo uột của họ đƣợc cứu vớt.

Chính phủ Indonesia

118

coi xuất khẩu lao động là quốc sách, chỉ quản lý bằng chủ trƣơng chính sách: hỗ trợ ngƣời

nghèo xuất khẩu lao động bàng cách cho vay vốn trƣớc khi đi và trả dần bằng 10% tiền công

hàng tháng; hoạt động xuất khẩu lao động hầu hết do tƣ nhân (154 doanh nghiệp) điều hành

tuyển lao động đi 52 nƣớc, duy trì khoảng 1,5-2,5 triệu lao động ở nƣớc ngoài. Trung Quốc

hy vọng lĩnh vực xuất khẩu lao động sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trƣởng kinh tế, đã

đƣa 1,27 triệu lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài. Thái Lan trƣớc đây dù thiếu nhân công

nhƣng vẫn xuất khẩu lao động, hiện có 450.000 ngƣời đang làm việc ở nƣớc ngoài.

• Vấn đề di dân và bố trí lao động ở Trung Quốc.

Trung Quốc có dân số đông, phân bố không cân bằng giữa hai khu vực thành thị và

nông thôn. Nguyên nhân của thất nghiệp ở Trung Quốc là sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế

lẫn cơ cấu đầu tƣ. Trung Quốc đã thực hiện đô thị hóa, hiện đại hóa, 130 triệu lao động nông

thôn dƣ thừa nên đã có khoảng 100/800 triệu nông dân đi tìm việc làm ở thành thị, trong khi

có 14 triệu công nhân xí nghiệp quốc doanh bị sa thải, khiến cho thị trƣờng sức lao động bị

sức ép, tỷ lệ thất nghiệp ở các đô thị dự kiến đến năm 2000 là 7,4%. Trƣớc tình hình đó,

Chính phủ Trung Quốc đã phải thực hiện cải cách nông nghiệp nhằm giảm sự căng thẳng về

lƣơng thực, đồng thời thực hiện đô thị hóa nông thôn nhằm hạn chế di dân.

Hiện tỷ lệ dân số thành thị ở Trung Quốc chiếm tới 30% dân số cả nƣớc, tăng 12% so

với năm 1949. Tổng số diện tích của các thành phố chiếm 18% tổng diện tích đất đai cả nƣớc

(tỷ lệ này cách đây 15 năm chỉ có 7,6%). (Báo Tuổi trẻ -BBC, ngày 2/9/1999).

Chú ý là ngay từ năm 1980, Trung Quốc đã thực hiện cơ chế "3 kết hợp" trong lĩnh

vực bố trí lao động: tự tìm việc làm cho bản thân, theo con đƣờng nhà nƣớc phân công và

theo chỉ dẫn của cơ quan quản lý lao động địa phƣơng. Ở Trung Quốc các xí nghiệp hƣơng

trấn phát triển mạnh nhƣng không chắc chắn, kể

119

cả khả năng tạo việc làm của chúng. Nét đặc biệt của cơ chế này là cho thấy sự thay đổi từ

một kênh duy nhất (là khu vực quốc doanh) sang nhiều kênh (là kể cả khu vực tƣ nhân, tập

thể). Đây chính là cơ sở ban đầu của thị trƣờng sức lao động trong nền kinh tế nhiều thành

phần. Ở Trung Quốc, bên cạnh chế độ hợp đồng lao động thì chế độ biên chế ở các xí nghiệp

vẫn đƣợc duy trì ở các đội cải tiến tổ chức lao động.

• Về tranh chấp lao động ở Hàn Quốc và công đoàn ở Mỹ.

Ở Hàn Quốc, trong khoảng thời gian vài chục năm trở lại đây, để đổi lấy sự ổn định

việc làm, ngƣời lao động đã làm việc quên mình cho công ty và phải chịu hƣởng mức lƣơng

thấp; tiền lƣơng ở một số ngành nghề chỉ mới đƣợc cải thiện vào khoảng thập niên 80. Nay

với Luật lao động mới, ngƣời lao động Hàn Quốc không còn đƣợc đảm bảo việc làm, nên họ

phải phản đối bằng cách đình công. Luật Lao động ấy lại qui định công nhân đình công

không đƣợc trả lƣơng, đúng theo nguyên tắc không lao động thì không hƣởng lƣơng và còn

cho phép các doanh nghiệp đƣợc sa thải công nhân nhằm nâng cao sức cạnh tranh. Điều đó

khuyến khích sự thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc đào tạo lại ngƣời lao

động.

Ở Mỹ, hầu hết ngƣời lao động đều tham gia nghiệp đoàn, trong lịch sử đó là con

đƣờng chống chọi với giới chủ. Năm 1881, Liên đoàn lao động đƣợc thành lập với nguyên

tắc hoạt động là "Ngƣời lao động và doanh nghiệp tự thƣơng lƣợng tiền công, Chính phủ

đứng ngoài". Mục đích của Liên đoàn là cải thiện đời sống cho công nhân nhƣ là tăng lƣơng,

giảm giờ làm, nghỉ nhiều ngày, đảm bảo phúc lợi. Các Nghiệp đoàn lao động đã tác động làm

tăng lƣơng bằng cách hạn chế mức cung lao động, thông qua việc đƣa ra luật về số giờ làm

việc tối đa, kéo dài thời gian học nghề, hạn chế sự khác biệt về chủng tộc và giới tính, ngăn

chặn lao động không phải thành viên nghiệp đoàn. Thứ hai là mặc cả tập thể để nâng

120

mức lƣơng chuẩn và đòi giới chủ không đƣợc trả thấp hơn mức lƣơng này dù giới chủ có sức

mạnh độc quyền. Và thứ ba là đề nghị những chính sách làm tăng mức cầu lao động.

Bảng 22 Phương thức tính bảo hiểm thất nghiệp ở Đức

• Về phúc lợi xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.

Thời gian Thời gian Thời gian đƣợc hƣởng bảo hiểm thất nghiệp theo tuổi đời

làm việc làm việc (đơn vị: ngày)

theo ngày theo năm Dƣới 42 Từ 42 Từ 44 Từ 49 Từ 54

tuổi tuổi tuổi tuổi tuổi

360 3 156 156 156 156 156

480 7 208 208 208 208 208

600 7 260 260 260 260 260

730 7 312 312 312 312 312

840 7 364 364 364 364

960 7 416 416 416 416

1080 7 468 468 468 468

1200 7 520 520 520 520

1320 7 572 572 572

1440 7 624 624

1560 7 676 676

1680 7 728

1800 7 780

Nguồn: Thông tin thị trường lao động số 11/1997.

1920 7 832

121

Trong suốt 40 năm, nƣớc Đức phát triển mô hình nhà nƣớc chăm lo mọi mặt của đời

sống ngƣời dân với một hệ thống an sinh xã hội rất hoàn chỉnh. Nhƣng để duy trì mô hình

này, Chính phủ Đức phải thƣờng xuyên táng mức đóng góp của ngƣời dân vào các quỹ xã

hội. Hậu quả là mức lƣơng trung bình ở Đức là cao nhất thế giới, 85 phrăng so với Pháp là 52

phrăng. Chi phí lao động tăng cao, khiến cho các xí nghiệp không dám đầu tƣ thêm, mà cũng

không dám nhận thêm công nhân, cho nên con số thất nghiệp đã gia tăng một cách đáng ngại.

Tất cả thế mạnh đang bị đe dọa: xuất khẩu giảm sút, tốc độ lạm phát gấp hai lần ở Pháp... Từ

tháng 5/1993, Chính phủ Đức thi hành một "chƣơng trình củng cố": giảm 3% chi tiêu công

cộng, đánh 7,5% thêm vào thuế thu nhập làm cho sức mua xã hội giảm sút. Nhƣ vậy, họ buộc

phải tháo gỡ dần cái tháp phúc lợi cao đã từng tạo nên sức mạnh của nƣớc này từ nửa thế kỷ

nay và áp dụng chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Mức đóng góp bảo hiểm thất nghiệp là 6,5%

tiền lƣơng, chia đôi cho ngƣời lao động và doanh nghiệp. Tiền trợ cấp đƣợc xác định là 67%

tính trên tiền lƣơng trung bình trong 6 tháng trƣớc khi mất việc.

Tháng 8/1996, Chính phủ Mỹ thông qua dự luật mới về an sinh xã hội, chấm dứt sự

đảm bảo trợ cấp xã hội cho tất cả ngƣời nghèo đƣợc áp dụng từ 1935 (thấp nhất so với các

nƣớc tƣ bản phát triển khác) và tăng mức lƣơng tối thiểu, nhằm làm cho lao động có thu nhập

cao, hơn là nhờ vào bảo trợ xã hội. Luật mới sẽ kích thích ngƣời nhận trợ cấp trƣớc đây tích

cực tìm kiếm việc làm; các văn phòng phụ trách trợ cấp sẽ chuyển thành trung tâm giải quyết

việc làm, lo việc hƣớng nghiệp và đào tạo kỹ năng lao động. Trên thực tế, ngƣời lao động bị

tấn công trên hai phía: thị trƣờng việc làm bị thu hẹp và trợ cấp xã hội bị cắt giảm.

122

Kết luận chương 2:

Trong chƣơng này, luận án đã góp phần làm rõ quá trình hình thành thị trƣờng sức lao

động ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, qua đó khẳng định hơn nữa về sự tồn tại và phát

triển của thị trƣờng sức lao động ở nƣớc ta là một tất yếu khách quan và đặc biệt là đã phân

tích, làm rõ thị trƣờng sức lao động theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nƣớc ta.

Luận án còn đề cập đến thực trạng của thị trƣờng sức lao động ở Việt Nam bao gồm

thực trạng về nguồn cung sức lao động cùng với những biến động của nó; về những thay đổi

của nhu cầu sức lao động; về tình hình thất nghiệp do tình trạng cung sức lao động vƣợt cầu

sức lao động.

Thực trạng về quản lý nhà nƣớc đối với thị trƣờng sức lao động ở Việt Nam cũng đã

đƣợc đề cập tới, bao gồm các nội dung là quản lý lao động, giải quyết các tranh chấp lao

động, quản lý các trung tâm dịch vụ việc làm, quản lý về tiền lƣơng và bảo hiểm xã hội...

Nguyên nhân của những thực trạng nêu trên là do đặc điểm kinh tế - xã hội mang tính lịch sử

của nền kinh tế nƣớc ta, càng làm cho sự bất cập gia tăng trong quá trình chuyển đổi nền kinh

tế, hòa nhập với thế giới theo xu hƣớng toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay.

Ngoài ra luận án còn đề cập đến tình hình thất nghiệp trên thế giới và các giải pháp về

thị trƣờng sức lao động ở các quốc gia, từ đó mà có thể so sánh, liên hệ vận dụng vào thị

trƣờng sức lao động ở nƣớc ta.

123

CHƢƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG SỨC LAO

ĐỘNG Ở VIỆT NAM

3.1. Thị trường sức lao động trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

3.1.1. Nguồn nhân lực trong chiến lược kinh tế - xã hội ở Việt Nam.

Với một nền kinh tế mà tỷ lệ thừa lao động nông thôn rất cao và tỷ lệ thất nghiệp cao

ở thành thị, trƣớc mắt nƣớc ta nên chọn chiến lƣợc phát triển kinh tế sử dụng nhiều lao động,

tạo ra nhiều việc làm: thu hút lao động thừa từ nông thôn và thất nghiệp ở thành phố vào các

ngành sử dụng nhiều lao động, ƣu tiên cho mục tiêu hƣớng về xuất khẩu, nhƣng cũng chú ý

thay thế nhập khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu lao động... với yêu cầu chi phí tối thiểu cho một

chỗ làm việc mới. Chiến lƣợc nhƣ vậy không chỉ khai thác lợi thế tƣơng đối về giá nhân công

rẻ mà còn là thu hút đầu tƣ, kích thích trao đổi ngoại thƣơng và chuyển giao công nghệ.

Đồng thời, trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài, cần thực hiện chiến lƣợc ƣu tiên cho giáo dục

đào tạo. Bởi vì, cũng nhƣ các quốc gia đang phát triển khác, Việt Nam phải giải quyết mâu

thuẫn giữa yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, với

thực trạng lao động lành nghề không đủ, chƣa thể sử dụng đƣợc công nghệ mới và chất lƣợng

đào tạo nghề còn thấp.

Thực hiện chiến lƣợc công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Đảng ta tại Hội nghị Trung

ƣơng lần thứ 7 (khóa VII) đã đề ra chính sách phát triển nguồn nhân lực, đã đặt con ngƣời

vào vị trí trung tâm.

124

Đại hội lần thứ 8 của Đảng ta đã khẳng định: "Thành công của công nghiệp hóa, hiện

đại hóa phụ thuộc chủ yếu vào 3 yếu tố: con ngƣời có trình độ chuyên môn và học vấn cao,

khoa học tiên tiến, công nghệ hiện đại, trong đó yếu tố con ngƣời là động lực quyết định.

Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân

trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài. Cần coi trọng cả 3 mặt: mở rộng quy mô, nâng cao

chất lƣợng và phát huy hiệu quả".

Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đặt ra những yêu cầu mới về số lƣợng, cơ

cấu và chất lƣợng cao của nguồn nhân lực, đặc biệt lƣu ý đến nguồn nhân lực trẻ. Phát triển

nguồn nhân lực, vừa là mục tiêu vừa là động lực quan trọng nhất của sự nghiệp công nghiệp

hóa; mục tiêu đó có vị trí trung tâm trong chiến lƣợc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của

nƣớc ta đến năm 2010.

Nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bao gồm

những con ngƣời vừa có đức, vừa có tài; đƣợc chuẩn bị tốt về kiến thức văn hóa, đƣợc đào

tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh, có trình độ khoa

học - kỹ thuật ngang tầm thế giới... phấn đấu đƣa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đến thành công. Phải coi việc đầu tƣ cho giáo dục đào tạo là một trong nhũng hƣớng chính

của đầu tƣ phát triển; giáo dục đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu.

Nhà kinh tế Ấn Độ Amartya Sen (đoạt giải Nobel kinh tế 1998) đã đề cập tới chiến

lƣợc ƣu tiên đầu tƣ vào con ngƣời, gồm 3 điểm: một là, giáo dục đào tạo đƣợc coi là tác động

đầu tiên cho sự thay đổi; hai là, tạo điều kiện để đảm bảo các quyền kinh tế giúp mở rộng sự

tiếp cận với các cơ hội do thị trƣờng mang lại; ba là, kết hợp thận trọng giữa hành động của

Nhà nƣớc với tác đụng của kinh tế thị trƣờng, (theo Báo SGGP 17/10/1999).

125

Đi đôi với đào tạo, phải chú ý bố trí sử dụng hợp lý nguồn nhân lực đã đƣợc đào tạo,

phát huy khả năng, sở trƣờng và nhiệt tình lao động sáng tạo của họ, để đóng góp vào sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Chiến lƣợc con ngƣời đi đôi với chiến lƣợc

phát triển và quy hoạch giáo dục - đào tạo con ngƣời đồng thời với các chính sách kinh tế - xã

hội ở nƣớc ta hiện nay (phân bổ - sử dụng, cơ chế tiền lƣơng). Một thực tế là lƣơng ngƣời

nƣớc ngoài rất cao gấp 27 đến 33 lần so với thu nhập của ngƣời lao động Việt Nam, càng cho

thấy sự cần thiết phải đầu tƣ cho giáo dục và đào tạo.

3.1.2 Các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở Việt nam đến năm

2020.

Năm 2020, Việt nam sẽ là một nƣớc công nghiệp, tham gia đầy đủ vào tiến trình tự do

hóa thƣơng mại và đầu tƣ trên thế giới. GDP bình quân đầu ngƣời đạt từ 2.000 - 3.000 USD,

thời gian làm việc rút ngắn còn 5 ngày/tuần, phổ cập trung học cơ sở trong độ tuổi, ở thành

phố thì phổ cập phổ thông trung học, tuổi thọ trung bình là 70 - 72, mức sống đạt đƣợc 2800 -

3000 calo/ngƣời/ngày, chênh lệch giàu nghèo còn khoảng 4 - 5 lần, dân số đô thị chiếm 50 -

60%, tỷ suất sinh là 2,1%. Việt Nam phấn đấu thuộc diện 50 nƣớc ở phía trên của thế giới.

Trong thời kỳ phát triển của đất nƣớc ta hiện nay, để tăng 1 đồng GDP thì phải đầu tƣ

thêm khoảng 3 đồng. Nhƣ vậy, nếu muốn có tốc độ tăng trƣởng kinh tế 9 - 10%, thì cần huy

động một số vốn tƣơng đƣơng 30-35% GDP cho đầu tƣ phát triển. Trong năm năm 1996 -

2000, để có khoản vốn đầu tƣ 41 - 42 tỷ USD, thì phải huy động vốn trong nƣớc, thực hiện

tiết kiệm (21-22% GDP) cả trong sản xuất lẫn tiêu dùng, tích lũy nội bộ đạt 30%. Nhà nƣớc

phải có chính sách để ổn định môi trƣờng đầu tƣ, để huy động và sử dụng vốn có hiệu quả

nhất.

Căn cứ để hoạch định chiến lƣợc kinh tế - xã hội là yêu cầu của tiến trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, xây dụng cơ cấu kinh tế hợp lý (nông nghiệp

126

20%, công nghiệp và xây dựng 35%, dịch vụ 45%). Thị trƣờng sức lao động có vị trí quan

trọng trong các chƣơng trình lớn theo chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, với

các nhóm mục tiêu đã đƣợc xác định

a. Nhóm các chƣơng trình phát triển nông nghiệp, nông thôn, vùng núi tập trung vào

các mục tiêu là phát triển toàn diện nông, lâm, ngƣ nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, đổi

mới cơ cấu lãnh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới theo hƣớng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa với các phƣơng hƣớng cụ thể là điện khí hóa, cơ giới hóa, thủy lợi hóa, tin học

hóa. Tạo điều kiện phát triển đồng đều các vùng trên cơ sở phát huy thế mạnh và tiềm năng

của từng vùng, ƣu tiên giúp đỡ các vùng miền núi còn nhiều khó khăn, khai thác tối đa tiềm

năng và lợi thế của vùng biển và vùng ven biển.

Từ 1999 đến 2000, phải tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông

thôn, thâm canh thêm vụ, phát triển nhiều việc làm phi nông nghiệp.

b. Nhóm các chƣơng trình xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giao thông đƣờng bộ,

đƣờng sắt và đƣờng thủy; phát triển một số ngành công nghiệp có lợi thế, có sức cạnh tranh

trên thị trƣờng, có khả năng hƣớng mạnh về xuất khẩu; và phát triển các ngành dịch vụ đa

dạng.

c. Chƣơng trình kinh tế đối ngoại nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả các hoạt động

ngoại thƣơng; đẩy nhanh quá trình hội nhập với khu vực và thế giới; mở rộng thị trƣờng ra

thế giới với kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân mỗi năm khoảng 28%, kim ngạch nhập khẩu

tăng khoảng 24%; tiếp tục cải thiện môi trƣờng đầu tƣ, tận dụng thời cơ tăng nhanh khả năng

tiếp nhận, thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tƣ, nâng dần tỷ lệ vốn của Việt Nam trong

các liên doanh.

d. Nhóm các chƣơng trình về khoa học và công nghệ, giáo dục đào tạo tập trung vào

các mục tiêu là phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh để thúc đẩy sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi mới công nghệ

127

trong các ngành sản xuất mỗi năm từ 10% trở lên, tranh thủ công nghệ tiến bộ, hƣớng tới

trình độ trung bình của khu vực; đào tạo và sử dụng có hiệu quả đội ngũ khoa học - công

nghệ bằng các chính sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa.

Theo dự báo đến năm 2000, Việt Nam cần khoảng 8 triệu công nhân kỹ thuật trong

các khu công nghiệp và khu chế xuất, bình quân mỗi năm phải đào tạo 2 triệu công nhân

trong khi hiện nay các trƣờng dạy nghề, trung học chuyên nghiệp chi có khả năng đào tạo

500.000 ngƣời/năm. Một thực tế là lƣơng chuyên gia nƣớc ngoài rất cao, gấp nhiều lần lao

động kỹ thuật trong nƣớc, càng cho thấy sự cần thiết đầu tƣ cho đào tạo chiều sâu.

Mục tiêu đến năm 2000, phấn đấu đạt cơ cấu lao động là 60% nông nghiệp, 15% công

nghiệp, 25% dịch vụ (1996: 71%; 10,5% và 18,5%). Phấn đấu đến năm 2005, tỷ lệ lao động

trình độ cao chiếm khoảng 15% tổng lƣợng lao động. Dự báo đến năm 2010 dân số nƣớc ta

khoảng 95 triệu ngƣơi, lực lƣợng lao động khoảng 58 triệu ngƣời, trong đó có 20% lao động

trình độ cao; đến năm 2020, dân số nƣớc ta khoảng 120 triệu trong đó cố khoảng 50 triệu

sống ở đô thị, chiếm 40%, tăng gấp 3 lần so với hiện nay (do phát triển và mở rộng các khu

đô thị mới), lao động trong công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng 85% - 90%.

Việc làm và dạy nghề là hai mặt của chiến lƣợc nhân lực lâu dài của nƣớc ta. Chính

phủ đã phê duyệt kế hoạch đào tạo nghề giai đoạn 1999 - 2000, theo đó sẽ tăng nhanh cả về

quy mô lẫn chất lƣợng, hiệu quả; tăng cƣờng đào tạo nghề cho vùng nông thôn, tạo ra cơ cấu

lao động phù hợp. Chính phủ đã quyết định đầu tƣ gần 2000 tỷ đổng cho công tác đào tạo

nghề giai đoạn 1999-2000, đồng thời khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đào tạo

nghề, khuyến khích liên doanh đầu tƣ đào tạo nghề. Để thực hiện mục tiêu đào tạo 670.000

lao động trong năm 1999 và 780.000 trong năm 2000, Chính phủ đã xây dựng hệ thống

128

đào tạo nghề theo hƣớng mở. Các trƣờng đào tạo nghề chính qui của Nhà nƣớc tuyển học

sinh học nghề dài hạn, đảm nhận 20% chỉ tiêu hằng năm, phần còn lại sẽ do các doanh

nghiệp, cơ sở đào tạo nghề tƣ nhân, các trung tâm dạy nghề địa phƣơng, của các đoàn thể xã

hội đầu tƣ dạy nghề ngắn hạn. Nhƣng chi phí dạy nghề cao vì tiền thuê mặt bằng, trang thiết

bị và cả thuế dạy nghề... là những nhân tố cản trở khả năng phát triển các trƣờng dạy nghề,

mặc dù Nhà nƣớc có chủ trƣơng khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi. Nhà nƣớc sẽ xây

dựng 114 Trung tâm dạy nghề cấp quận huyện, ƣu tiên cho các địa phƣơng khó khăn.

Theo chiến lƣợc phát triển giáo dục đào tạo đến nám 2010 của Bộ Giáo dục - Đào tạo,

trong 10 năm tới nền giáo dục nƣớc ta đƣợc xây dựng và phát triển theo mục tiêu: có quy mô

phù hợp, chất lƣợng và hiệu quả cao, đáp ứng tốt nhu cầu về nhân lực, dân trí và nhân tài,

phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và nhu cầu học tập của nhân

dân.

Năm 2000, hoàn thành phổ cập tiểu học trong cả nƣớc và huy động học sinh trong độ

tuổi đến trƣờng đạt tỷ lệ 95%. Hoàn thành phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010, riêng các

thành phố, đô thị, vùng kinh tế phát triển thì vào năm 2005. Xây dựng hệ thống đào tạo đại

học đa dạng bao gồm các trƣờng đa và đơn lỉnh vực thuộc trung ƣơng, các trƣờng cao đẳng,

đại học cộng đồng thuộc địa phƣơng, phát triển trƣờng ngoài công lập... (Tuổi trẻ 20/7/99)

Từ năm 2001, xây dựng hệ thống các trƣờng trung học chuyên nghiệp phù hợp với cơ

cấu việc làm, quy mô đào tạo mỗi trƣờng không ít hơn 600 học sinh, đồng thời giảm một số

trƣờng để tránh hiện tƣợng trùng lặp về ngành đào tạo hay có nhiều trƣờng trên cùng một địa

bàn. Bộ Giáo dục - Đào tạo chỉ khuyến khích mở các trƣờng trung học chuyên nghiệp ngoài

công lập nhƣ bán công, dân lập hay tƣ thục. Các địa phƣơng cố gắng có ít nhất một trƣờng

trung học kinh tế-kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực tại chỗ. Các tỉnh miền núi

phải có một

129

trƣờng trung học y tế. Chƣơng trình đào tạo trung học chuyên nghiệp tới đây sẽ tăng thời gian

thực hành, đạt tỷ lệ giữa lý thuyết và thực hành là 50/50. (Vụ Trung học chuyên nghiệp và

Dạy nghề, Bộ giáo dục đào tạo - Tuổi trẻ 2/9/1999)

đ. Nhóm các chƣơng trình về phát triển văn hóa - xã hội, tập trung vào các mục tiêu

và phƣơng hƣớng chính là giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, trợ giúp các đối tƣợng

yếu thế trong thị trƣờng sức lao động, thực hiện chính sách xã hội theo nguyên tắc công bằng

và tiến bộ xã hội. Nhà nƣớc phải tăng đầu tƣ và tạo điều kiện để phát triển việc làm, đảm bảo

mỗi năm có thêm 1,3 -1,4 triệu lao động có chỗ làm việc, để có thể giảm tỷ lệ thất nghiệp ở

thành thị xuống còn 5% và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 75% vào

năm 2000. (39) Để đạt đƣợc mục tiêu đó, trong 4 năm 1997 - 2000 phải giải quyết việc làm

cho khoảng 7 triệu ngƣời, với 6 triệu việc làm mới và phải huy động mọi nguồn lực cho mục

tiêu tạo việc làm. Năm 1998, 1,3 triệu lao động đƣợc giải quyết việc làm, tỷ lệ thất nghiệp ở

thành thị đã tăng lên 6,85%, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn đạt 70,88%. Mục

tiêu năm 1999 và 2000 là phải giải quyết việc làm cho 1,3 -1,4 triệu lao động, kiềm chế tỷ lệ

thất nghiệp tại thành thị không vƣợt quá 7 % , nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông

thôn lên 72-73%, xuất khẩu 20.000 lao động và chuyên gia. Năm 1999, Nhà nƣớc đã đầu tƣ

6,5% ngân sách cho đào tạo nghề và năm 2000 tỷ lệ sẽ là 7,3%. Dự báo thời kỳ 2001 - 2010,

cần tạo thêm chỗ làm việc mới cho khoảng 1 1 - 1 2 triệu lao động, nên phải tập trung mọi

nguồn lực để giải quyết sức ép về việc làm.

Năm 1992, nƣớc ta có 3,8 triệu hộ đói nghèo với khoảng 20 triệu nhân khẩu, chiếm

30% tổng số hộ trên toàn quốc. Đến cuối năm 1997, còn khoảng 2,65 triệu hộ với khoảng 14

triệu nhân khẩu chiếm tỷ lệ 17,7%, trong đó có 300.000 hộ thƣờng xuyên thiếu đói chiếm

2%, có 1.498 xã có tỷ lệ nghèo đói 40%. Đến cuối 1998, còn 2,4 triệu hộ (khoảng 12,5 triệu

ngƣời) chiếm 15,7%, có

130

hơn 1.700 xã đặc biệt khó khăn. Mục tiêu đề ra là xóa đói, giảm tỷ lệ nghèo xuống khoảng

14% vào năm 1999, dƣới 10% vào năm 2000, bình quân hằng năm phải giảm đƣợc 300.000

hộ nghèo đói. Đến năm 2000 sẽ giải quyết cơ bản 500.000 hộ nghèo đói ở nông thôn và 2,4

triệu ngƣời sống du canh du cƣ, đến năm 2005, cơ bản xóa hộ đói. (40)

Nhà nƣớc ta đã có 14 chƣơng trình quốc gia, 10 chính sách bổ sung về xóa đói giảm

nghèo, tập trung đầu tƣ vào các xã nghèo ở nông thôn (với nguồn vốn bổ sung nhờ phát hành

công trái), tăng cƣờng cơ sở hạ tầng về điện, đƣờng, thông tin, trƣờng học, bệnh viện. chợ,

thủy lợi - nƣớc sạch và định canh, định cƣ... Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa

thông tin, thể dục thể thao, y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình; đảm bảo nhịp độ tăng dân số

dƣới 1,8%, tuổi thọ trung bình 68 tuổi, chiều cao trung bình 1,65m. Phấn đấu thu hẹp dần

khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng về y tế, giáo dục, phát thanh, truyền hình...

Định hƣớng phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998 - 2000

và đến năm 2005: 40% đội ngũ lao động đƣợc đào tạo nghề, trong đó lao động kỹ thuật có tay

nghề bậc 3/7 chiếm 15 - 20% (vào tháng 9/99 chỉ đạt 6%!); mỗi năm giải quyết 180.000

ngƣời có việc làm ổn định, hạ tỷ lệ thất nghiệp dƣới 6%; đồng thời tăng cƣờng các biện pháp

bảo đảm đời sống của ngƣời lao động nhất là khu vực kinh tế tƣ nhân và khu vực không chính

thức. (41)

Giai đoạn 1996 - 2000, ĐBSCL phải tập trung nâng cao dân trí, bồi dƣỡng nhân lực

100% hộ dân đƣợc dùng nƣớc sạch, 90% có nhà ở kiên cố có thể chống lũ và bán kiên cố.

Đến năm 2000 tỷ lệ ngƣời lao động qua đào tạo ở ĐBSCL phải đạt khoảng 12% (năm 1998

cả nƣớc đạt 17,8%), sắp xếp lại hệ thống các trƣờng dạy nghề cho hợp lý, mỗi tỉnh có một

trƣờng Cao đẳng cộng đồng đào tạo công nhân bậc 3/7. Đến 2010, tại đây lao động kỹ thuật

sẽ chiếm 30%, phổ cập phổ thông cơ sở và đạt đƣợc mục tiêu toàn dụng lao động.

131

Theo UNDP, tiến bộ về phát triển nguồn nhân lực đã có tác dụng làm giảm mức độ

nghèo ở Việt nam, biểu hiện qua tuổi thọ trung bình là 68 (1994), có 90% dân số tiếp cận

đƣợc dịch vụ y tế và tỷ lệ biết chữ là 93%, ngang với Singapore và Hongkong. Tỷ lệ nghèo

khổ đã giảm 35%, một thành tích không thể tin nổi trong thời gian 10 năm. Việt Nam đã

thành công trong việc biến mức tăng trƣởng kinh tế thành cuộc sống tốt hơn cho nhân dân.

Có thể thấy rằng phát triển nguồn nhân lực và xóa nghèo là điều kiện tiền đề cho

nhau. Nếu xét chỉ số phát triển nhân lực HDI, căn cứ vào 3 chỉ tiêu: GDP/ngƣời, trình độ dân

trí và tuổi thọ bình quân, thì năm 1996 của Việt Nam đạt đƣợc là 0,54 (tối đa là 1) đứng hàng

121/174, cao hơn 20 bậc so với thứ bậc về GDP. Nếu xét đến CPM (capability poverty

measure) - thƣớc đo mức nghèo đói về năng lực, tình trạng thiếu cuộc sống khỏe mạnh và

dinh dƣỡng, thiếu khả năng sinh sản mạnh khỏe và an toàn, thiếu kiến thức và hiểu biết, thì

Việt Nam đƣợc xếp hàng thứ 27 trong 101 nƣớc.

Chiến lƣợc phát triển kinh tế-xã hội đƣợc xây dựng dựa trên cơ sở xem con ngƣời

vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển. Trong chiến lƣợc đó, thị trƣờng sức lao động

có vị trí quan trọng, góp phần gián tiếp trong việc sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực quí giá

của quốc gia, giải quyết việc làm cho ngƣời lao động, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trƣởng kinh

tế và ổn định xã hội.

3.2. Những giải pháp cho các bộ phận của thị trường sức lao động ở nước

ta.

Xét về tính chất thì có thể chia thị trƣờng sức lao động ở Việt Nam thành hai loại là

thị trƣờng tự do và thị trƣờng có tổ chức. Tại thị trƣờng sức lao động tự do (nhƣ chợ sức lao

động), ngƣời lao động có nhu cầu việc làm bức bách để đảm bảo cuộc sống; ngƣời có nhu

cầu sử dụng sức lao động có thể lựa chọn một cách

132

dễ dàng. Tại thị trƣờng sức lao động có tổ chức, quan hệ lao động tuân theo qui định của

pháp luật, ngƣời lao động đƣợc bảo vệ quyền lợi trên cơ sở hợp đồng lao động. Các bộ phận

thị trƣờng sức lao động đƣợc nối lại với nhau bởi sự lựa chọn của ngƣời mua sức lao động và

của ngƣời lao động. Thật vậy, không có gì ngăn cản các doanh nghiệp và các trung tâm dịch

vụ việc làm ở các địa phƣơng đến tuyển dụng lao động ở thành phố; trong khi đó, những

ngƣời lao động trẻ có xu hƣớng chuyển đổi nghề nghiệp, công việc nhằm tìm kiếm thu nhập

cao hơn, đƣa đến sự di chuyển của hàng hóa sức lao động. Điều này có tác dụng hai mặt đối

với sản xuất là tạo khả năng sử dụng hợp lý lực lƣợng lao động xã hội nhƣng đồng thời lại tạo

sự không ổn định trong sản xuất. Tuy nhiên, đôi khi việc chuyển đổi là không dễ và tốn kém,

tạo nên bức tƣờng ngăn cản vô hình.

Ở đây, chúng ta hãy phân tích và đƣa ra các giải pháp cho các thị trƣờng sức lao động

xét về khu vực kinh tế nhƣ sau:

3.2.1. Giải pháp phát triển thị trường sức lao động ở nông thôn.

Kết quả điều tra năm 1997 cho thấy nƣớc ta có 27.857.460 lao động sống tại vùng

nông thôn chiếm tỷ lệ 75,88% (dân số nông thôn chiếm 80% dân số cả nƣớc); lao động nông

nghiệp chiếm 78,08% (96: 81,64%), lao động công nghiệp -xây dựng chiếm 6,86% (96:

6,83%), còn dịch vụ chiếm 15,06% (96: 11,53%). Thu nhập bình quân của nông dân năm

1996 đạt 181.000 đồng/tháng, chỉ bằng 50% cƣ dân thành thị, lại bấp bênh do giá cả nông sản

thất thƣờng. Cơ cấu thu nhập của nông dân: 56% từ nông nghiệp, 5% từ công nghiệp, 17,3%

từ dịch vụ, 21,7% từ nguồn thu khác. (36)

Diện tích đất canh tác khoảng tích đất nông nghiệp là 8,1 triệu ha ít ỏi và ngày càng bị

thu hẹp, bình quân 6800 m2/hộ, vùng Đồng bằng sông Hồng chỉ có 2700 m2 /hộ. Nhƣng, cả

nƣớc vẫn còn 10 triệu ha đất hoang hóa, đất trống đồi trọc. Năm 1999, toàn khu vực miền

Đông Nam bộ còn khoảng 196.500 ha đất

133

nông nghiệp bị bỏ hoang. Đầu tƣ của toàn xã hội cho nông nghiệp, nông thôn còn rất thấp

(dƣới 10% trong tổng đầu tƣ), giá trị sản phẩm nông nghiệp chỉ tăng bình quân khoảng 3%,

kinh tế nông thôn vẫn nặng về nông nghiệp (70%), trong nông nghiệp vẫn nghiêng về trồng

trọt (78% cơ cấu kinh tế nông nghiệp) và chủ yếu là cây lƣơng thực (56% trong cơ cấu cây

trồng). (37)

Cơ cấu nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn vẫn chƣa thoát khỏi tình trạng độc

canh, tự cấp tự túc, trình độ sản xuất hàng hóa còn thấp, hiệu quả kinh tế - xã hội chƣa cao.

Công nghiệp ở nông thôn vẫn còn manh nha, trình độ thấp, quy mô nhỏ, không đồng đều giữa

các địa phƣơng và các vùng. Ở nông thôn, nông - lâm - ngƣ nghiệp và công nghiệp chế biến

vẫn phát triển tách rời, thiếu kết hợp chặt chẽ với nhau, giảm sức mạnh cộng hƣởng trong

kinh tế thị trƣờng và thực tế chƣa gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năng suất lao động

trong nông nghiệp còn tùy thuộc vào thời tiết, nông dân chỉ lợi dụng chu kỳ tự nhiên -sinh

học và do thiếu vốn nên ít sử dụng các tiến bộ kỹ thuật.

Do sức ép của dân số gia tăng và việc thiếu đất trồng trọt, việc làm không đủ nên

nông dân vừa có thể lao động cho gia đình vừa lao động làm thuê theo thời vụ hay có thể lao

động vần công; tình trạng lao động nông nhàn khiến cho thất nghiệp ở nông thôn là tiềm tàng.

Ở các vùng nông thôn đô thị hóa, nhu cầu sức lao động nông nghiệp giảm không phải do tác

động tích cực của công nghiệp hóa, cơ giới hóa nông nghiệp làm tăng năng suất lao động; mà

là do đất nông nghiệp bị thu hẹp, chuyển sang mục đích xây dựng, công nghiệp và dịch vụ.

Nhu cầu sức lao động tăng lên ở các lĩnh vực, các ngành này nhƣng chất lƣợng sức lao động

nông thôn lại bất cập.

Nhu cầu sức lao động ở nông thôn sẽ gia tăng khi chiến lƣợc phát triển kinh tế nông

thôn đƣợc thực hiện, khu vực nông thôn vẫn đóng vai trò chủ yếu trong việc tạo việc làm cho

xã hội. Thị trƣờng sức lao động nông thôn sẽ phát

134

triển và giúp hạn chế tình trạng di chuyển khó kiểm soát của lao động nhập cƣ vào các thành

phố lớn, khắc phục có kết quả tình trạng thất nghiệp trong nền kinh tế. Không thể coi việc

chuyển lao động nông nghiệp sang các khu công nghiệp tập trung là lối thoát duy nhất cho

lao động nông nghiệp, xu hƣớng đó chỉ diễn ra cho một bộ phận lao động mà thôi và nên nhớ

rằng kinh tế nông thôn không phải chỉ có ngành nông nghiệp. Đó là kết quả của quá trình

phân công lao động tại chỗ, có mối quan hệ biện chứng với quá trình phân công lao động xã

hội trong nền kinh tế; bởi vì lao động ở nông thôn chiếm đại bộ phận lực lƣợng lao động xã

hội, nên nếu khắc phục đƣợc sự mất cân đối cung xã hội. Hơn nữa, chỉ có thể phát triển sản

xuất công nghiệp cũng nhƣ thị trƣờng sức lao động ở thành thị khi sản xuất ở nông thôn đƣợc

phát triển và nhu cầu tiêu dùng của nông dân đƣợc kích thích nhờ có đƣợc việc làm và thu

nhập, sức mua xã hội tăng lên.

Tháng 11/98, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về "Sáu chủ trƣơng, chính sách lớn về phát

triển nông nghiệp và nông thôn ", cụ thể là:

- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.

- Khuyến khích các thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn cùng phát triển

theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.

- Thực hiện tốt chính sách đất đai, kiểm soát quá trình tập trung ruộng đất. Giữ

nguyên mức hạn điền theo Luật đất đai 93, những qui định cụ thể hơn theo vùng và theo loại

đất.

- Dành ƣu tiên đầu tƣ cho khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp và nông thôn:

thủy lợi, sinh học, giống mới, chế biến, bảo quản...

- Thực hiện tốt các chính sách đầu tƣ, tín dụng và thị trƣờng: trƣớc hết là xây dựng cơ

sở hạ tầng.

135

- Thực hiện tốt chính sách quốc gia việc làm, xóa đói giảm nghèo, hạn chế chênh lệch

giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn.

Để phát triển thị trƣờng sức lao động ở các vùng nông thôn và vùng ven biển, nên chú

ý hai giải pháp cơ bản là đẩy mạnh phát triển lực lƣợng sản xuất và đa dạng hóa quan hệ sản

xuất, gắn với hai mục tiêu là tăng cầu và cải thiện chất lƣợng của nguồn cung sức lao động.

Nhằm tạo điều kiện phát triển lực lƣợng sản xuất, trên cơ sở xúc tiến công cuộc công

nghiệp hóa nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, Nhà nƣớc nên tập trung đầu tƣ cho

cơ sở hạ tầng (bê tông hỏa kênh thủy lợi, xây dựng đƣờng giao thông nông thôn, điện, nƣớc

sạch, thông tin liên lạc). Đồng thời, cần phát triển các ngành nghề đa dạng nhƣ công nghiệp

chế biến nông - lâm - thủy sản, sản xuất vật liệu xây dựng, sửa chữa cơ khí với quy mô nhỏ

và vừa. phục hồi các ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thông và các hoạt động dịch vụ đa

dạng... sẽ tạo nhiều việc làm cho nông thôn. Cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lý sẽ quyết định

việc khai thác và sử dụng có hiệu quả tối ƣu tài nguyên đất đai, vốn, sức lao động và cả cơ sở

vật chất kỹ thuật hiện có. Khắc phục tình trạng thuần nông, thực hiện phƣơng châm "rời đất,

không rời làng", "phi nông nghiệp hóa" một bộ phận thu nhập của nông dân. Thụt hiện cải

cách nông nghiệp, khắc phục tình trạng độc canh, thuần lƣơng, điều chỉnh cơ cấu cây trồng

đa dạng hóa phù hợp với thời tiết, loại đất, không chỉ cây lƣơng thực mà còn phải chú ý cây

công nghiệp xuất khẩu, phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, đánh bắt nuôi trồng thủy sản;

phát triển nền nông nghiệp sinh thái với phong trào "vƣờn - ao - chuồng", cải tạo giống, thâm

canh để táng năng suất lao động... tăng vòng quay của đất lên 2 đến 2,5 lần ở những nơi có

điều kiện; thụt hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, đa dạng sinh học... Thực tiễn sản

xuất ở nhiều địa phƣơng đã khẳng định rằng nơi nào sớm thoát khỏi thế thuần nông thì nơi đó

sẽ thu hút ngày càng nhiều lao động

136

hơn, thu nhập của ngƣời dân tăng lên, giúp cải thiện đời sống ngƣời dân và tiến lên giàu có.

Nhà nƣớc cần có biện pháp giúp đào tạo nghề cho thanh niên ở nông thôn để phù hợp

với cơ cấu lao động chuyển dịch theo hƣớng tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ,

giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp và để họ dễ có việc làm và thu nhập ổn định. Lực lƣợng

lao động nông thôn đông đảo, nhƣng thiếu tri thức, thiếu tay nghề ngoài nghề nông, trong khi

đất nông nghiệp ngày một giảm, một số ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển... đã và đang

là nguồn gốc làm nảy sinh những mâu thuẫn gay gắt giữa cung và cầu sức lao động ở nông

thôn.

Để khắc phục sự bất cập của lực lƣợng sản xuất trong nông nghiệp so với yêu cầu sản

xuất hàng hóa tập trung (hiện chỉ có 20-22% trong tổng số hơn 10 triệu hộ nông dân sản xuất

hàng hóa), Nhà nƣớc nên xây dựng các dự án đầu tƣ phát triển, các chƣơng trình kinh t ế - x ã

hội, khai hoang những vùng kỉnh tế mới có tiềm năng về đất đai sản xuất (dự án 327, 773) và

cũng nên khuyến khích những dự án nhỏ; phải xây dựng những vùng chuyên canh tập trung,

đảm bảo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, tạo ra một số hàng nông sản xuất khẩu chủ

lực, cỏ chất lƣợng và giá trị cao, có sức cạnh tranh trên thị trƣờng và vƣơn ra thị trƣờng nƣớc

ngoài, tăng nhanh tỷ suất nông sản hàng hóa. Thực hiện phân công lại lao động xã hội,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động tại chỗ trên phạm vi rộng, gắn với việc di dân

theo quy hoạch vùng và tiểu vùng, với sự thay đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi trên địa bàn,

theo hƣớng chuyên môn hóa và sản xuất hàng hóa.

Nhằm đa dạng hóa quan hệ sản xuất, Nhà nƣớc cần thực hiện nhất quán chính sách

kinh tế nhiều thành phần. Bên cạnh việc phát triển kinh tế nhà nƣớc, kinh tế hợp tác xã, nên

tạo điều kiện mở rộng các loại hình hợp tác trong sản xuất kinh doanh ở nông thôn, phát triển

kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, kinh tế

137

tƣ bản tƣ nhân, kinh tế tƣ bản nhà nƣớc... Khi các loại hình kinh tế này đa dạng hóa hoạt

động, sẽ tạo ra nhiều việc làm cũng nhƣ cơ hội có việc làm cho ngƣời lao động. Đồng thời, để

phát triển quan hệ lao động trong nông nghiệp và thị trƣờng sức lao động ở nông thôn thì làm

thuê trong nông nghiệp nên đƣợc thừa nhận cũng nhƣ đã thừa nhận trong công nghiệp và dịch

vụ.

Nhà nƣớc cần tạo điều kiện thuận lợi về môi trƣờng sản xuất kinh doanh; ƣu đãi, trợ

giúp tín dụng cho các doanh nghiệp đầu tƣ vào nông thôn, trợ giúp khoa học kỹ thuật để nâng

cấp các khâu bảo quản, chế biến, vận chuyển, tiêu thụ, hỗ trợ thông tin, tiếp thị... Khắc phục

tình trạng thả nổi thị trƣờng nông thôn gây thiệt hại đến lợi ích của nông dân, xây dựng các

quỹ bảo hiểm sản xuất dƣới nhiều hình thức, đảm bảo sức mua xã hội ở nông thôn. Nhà nƣớc

phải có chính sách huy động tối đa mọi nguồn đầu tƣ trong nƣớc và ngoài nƣớc cho nông

thôn, vùng núi không phân biệt thành phần kinh tế. Nhà nƣớc phải chú ý đổi mới các chính

sách đất đai, chính sách tài chính, tín dụng nhằm thúc đẩy sản xuất, chú ý chính sách giá cả

đảm bảo lợi ích của nông dân. Đất có chủ, nông dân hăng hái, yên tâm tập trung đầu tƣ sản

xuất, khai thác tốt tiềm năng đất đai, vốn và sức lao động để phát triển sản xuất nông nghiệp,

vấn đề quan trọng là phải làm sao vừa không để nông thôn bị bần cùng hóa do không có đất

sản xuất, vừa thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất hợp lý theo tiến trình công nghiệp hóa, khắc

phục tình trạng ruộng đất quá phân tán và manh mún. Mục tiêu đặt ra là phải khai thác có

hiệu quả các tiềm năng hiện có trong khu vực nông thôn về lao động, đất đai, mặt nƣớc, tiền

vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật còn tiềm tàng trong khu vực này để tăng năng suất lao động,

bảo đảm việc làm cho đại bộ phận lao động khu vực nông thôn, tăng thu nhập, sức mua, cải

thiện đời sống ngƣời dân, tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản, tiến lên "bùng nổ kinh tế

nông nghiệp và nông thôn".

138

Đối với thị trƣờng sức lao động vùng ven biển, để tăng cầu sức lao động cố thể áp

dụng rộng rãi mô hình tạo việc làm có tính chất đan xen, xoay quanh nghề đánh bắt và nuôi

trồng thủy sản. Mô hình này đƣợc nêu lên trên cơ sở hoạt động của ngành thủy sản với vòng

khép kín là sản xuất ngƣ lƣới cụ, đánh bắt - nuôi trồng, chế biến và dịch vụ tiêu thụ. Xét về

khía cạnh kinh tế lẫn xã hội thì vùng ven biển cần đƣợc đầu tƣ nhiều hơn các vùng khác, bởi

vì mức lợi tức của nghề cá là khá cao và một lao động đánh bắt phải có tƣơng ứng 2,4 lao

động làm chế biến và dịch vụ. Loại thị trƣờng này sẽ phát triển khi các dự án lấn biển,

chƣơng trình đánh bắt xa bờ, khai thác kinh tế biển và lanh tế đảo đƣợc đi vào thực hiện. (38)

3.2.2. Giải pháp phát triển thị trường sức lao động thành thị.

Thị trƣờng sức lao động thành thị là nơi diễn ra quan hệ mua bán sức lao động ở

thành thị. Nguồn cung sức lao động gồm có lao động nhập cƣ không có hộ khẩu với lao động

tại chỗ có hộ khẩu. Xét về nhu cầu sức lao động, thị trƣờng sức lao động thành thị gồm có

khu vực chính thức và khu vực không chính thức. Khu vực chính thức bao gồm những nhà

máy, ngân hàng, các doanh nghiệp lớn, các cơ quan hành chính sự nghiệp... sử dụng sức lao

động chất xám, có tay nghề; công việc thƣờng ổn định, mức lƣơng cao, có thể áp dụng chế độ

biên chế hay hợp đồng dài hạn cho ngƣời lao động. Khu vực không chính thức bao gồm các

cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ có quy mô nhỏ, cá thể, sử dụng lao động giản đơn, lao

động thời vụ từ nông thôn. Trong thực tế, các loại hình doanh nghiệp nhỏ ở thành thị thƣờng

dễ thích nghi, không đòi hỏi nhiều vốn đầu tƣ về cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị nhƣ ngành

công nghiệp, mà chủ yếu sử dụng lao động sống, ngày càng tạo ra nhiều công ăn việc làm

cho ngƣời lao động: cơ sở sản xuất thu hút tới 10 ngƣời lao động, cơ sở kinh doanh thu hút 5

ngƣời, cơ sở dịch vụ thu hút 3 ngƣời, trong đó có 50% là ngƣời trong gia đình.

139

Mỗi năm, ƣớc tính thị trƣờng sức lao động ở Việt nam tiếp nhận thêm 1,2 triệu ngƣời

lao động, khu vực nông nghiệp chỉ có thể cung cấp việc làm cho 700.000 ngƣời với đặc thù

bán thất nghiệp, nửa triệu ngƣời còn lại phải kiếm sống ở các đô thị. Một bộ phận ngƣời lao

động có việc làm trong khu vực kinh tế không chính thức ở thành thị: 35% - 40% dân cƣ đô

thị có việc làm là nhờ các vỉa hè, lòng lề đƣờng, với các thành phần xuất thân là 49%

CBCNV, 23% là thợ thủ công và 8% là bộ đội xuất ngũ. (Khảo sát năm 1997 của Bộ LĐ -

TBXH).

Theo thống kê, trung bình mỗi năm TpHCM tạo ra đƣợc 150.000 chỗ đến 200.000

chỗ làm mới, nhu cầu sức lao động có trình độ vãn hóa và tay nghề càng cấp bách khi mƣời

hai khu công nghiệp mới sẽ đi vào hoạt động. Vào giữa tháng 9/1999, tại TpHCM có 47% số

lao động đang làm việc là thuộc khu vực không chính thức (Theo Sở Lao động - Thương binh

và Xã hội), số lao động kỹ thuật lành nghề, có khả năng tiếp cận công nghệ mới chỉ chiếm

khoảng 15%, vẫn còn từ 30% - 40% lao động không đáp ứng đƣợc yêu cầu tuyển dụng.

Hoạt động của nhiều Trung tâm dịch vụ việc làm đã phát sinh tình trạng cạnh tranh và

lại thƣờng khuếch trƣơng thông tin tạo nên nhu cầu ảo về sức lao động, gây thiệt hại và phiền

toái cho ngƣời lao động. Mỗi Trung tâm dịch vụ việc làm đều cố giữ "bí mật thông tin" của

mình tạo ra bức màn huyền bí bao phủ lên thị trƣờng sức lao động thành thị.

Quan hệ cung - cầu sức lao động trên thị trƣờng sức lao động thành thị ngày càng

căng thẳng, song lại luôn đƣợc điều chỉnh vừa tự phát vừa tự giác để trở nên cân đối hơn. Các

doanh nghiệp thƣờng có nhu cầu lao động lành nghề, trẻ tuổi, trình độ trung cấp (bậc 3/7),

trong khi hàng chục ngàn lao động tay nghề sơ cấp đƣợc đào tạo từ hệ thống trƣờng dạy nghề

phải thất nghiệp. Các doanh nghiệp đƣợc Trung tâm giới thiệu ngƣời lao động tới còn chọn

lọc lại, cứ ba ngƣời chỉ chọn đƣợc một; khi đăng báo tuyển dụng ngƣời thì số nộp đơn nhiều

hơn nhu

140

cầu sử dụng 10 lần. Do tình trạng sức lao động dƣ thừa, các doanh nghiệp hiện nay có xu

hƣớng đòi hỏi sức lao động có chuyên môn cao, có trình độ đại học, bởi vì chất lƣợng dù sao

vẫn hơn công nhân kỹ thuật mà tiền lƣơng cũng vậy. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể đƣa ra

các yêu cầu cao khi tuyển dụng: ngƣời lao động phải có kinh nghiệm, có một chuyên môn

nghiệp vụ chính nào đó nhƣ kế toán, quản trị kinh doanh, thƣ ký văn phòng, bên cạnh các yêu

cầu về ngoại ngữ, tin học... Đây chính là nhu cầu giả đối với sức lao động có chất lƣợng, đƣa

đến sự lãng phí cho xã hội và cho ngƣời lao động.

Bên cạnh đó, một xu hƣớng ngƣợc lại là nhiều doanh nghiệp có trang thiết bị hiện đại,

qui trình sản xuất tiên tiến lại hầu nhƣ chỉ tuyển dụng lao động trẻ có trình độ lớp 9 - 12, có

một số yêu cầu về kiến thức căn bản, có sức khỏe tốt, để tự đào tạo trƣớc khi bố trí trong dây

chuyền sản xuất. Lý do là ngƣời lao động đƣợc đào tạo từ các trƣờng dạy nghề không đáp

ứng đƣợc yêu cầu, trong khi công nghệ hiện đại và phân công lao động chặt chẽ làm cho thao

tác của ngƣời công nhân trở nên đơn giản, mà việc tuyển dụng sẽ dễ dàng và không phải trả

chi phí đào tạo. Nhƣng từ đây, vấn đề hiệu quả của đào tạo đã đƣợc đặt ra trƣớc mâu thuẫn là

lao động đƣợc đào tạo lại không có việc làm.

Để phát triển thị trƣờng sức lao động thành thị, trƣớc mắt nên chú trọng phát triển khu

vực không chính thức, khuyến khích tăng cầu sức lao động trong lĩnh vực dịch vụ, thƣơng

mại nhỏ, bởi vì khu vực này có khả năng tự tạo việc làm nhiều hơn, chi phí đầu tƣ tạo việc

làm thấp, tính cơ động và thích nghi cao, góp phần giảm sức ép việc làm ở thành thị. Còn sau

đó và về lâu dài, cần phải cải thiện nguồn cung sức lao động, phát triển giáo dục đào tạo và

dạy nghề, từ đó mà làm gia tăng tỷ trọng của khu vực thành thị chính thức.

141

Một giải pháp nữa là phải cải tiến và phát huy vai trò tích cực của hệ thống các trung

tâm dịch vụ việc làm; á p dụng nhiều hình thức phong phú giúp cho cung, cầu sức lao động

đƣợc gặp nhau.

3.2.3 Giải pháp cho thị trường sức lao động liên thông với nước ngoài.

Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng mở cửa, xuất nhập khẩu sức lao động thực sự là

một hoạt động kinh tế, dựa trên cơ sở quan hệ cung - cầu sức lao động. Xuất nhập khẩu sức

lao động là quốc tế hóa thị trƣờng sức lao động, là mở rộng thị trƣờng sức lao động của quốc

gia, nối kết với thị trƣờng sức lao động khu vực và thế giới. Xuất khẩu lao động làm tăng ý

nghĩa của vốn nhân lực, phát huy lợi thế kinh tế của đất nƣớc. Theo ILO. Việt Nam nên chú

trọng phát triển nguồn nhân lực, một thế mạnh của mình, do công nhân có trình độ, tiếp thu

nhanh, tay nghề khéo, tính kỷ luật... để hƣớng tới xuất khẩu sức lao động.

Vào những năm 80, mỗi năm có khoảng từ 5 đến 6 vạn lao động Việt nam đi hợp tác

lao động ở Liên xô, Đông Âu và Irak. Việc xuất khẩu lao động bấy giờ đã giải quyết việc làm

tạm thời (từ 2 đến 6 năm) cho hơn 27 vạn lao động. Thu nhập đƣợc gởi về bằng hàng hóa đã

góp phần ổn định thị trƣờng, cải thiện đời sống của một bộ phận nhân dân.

Từ 1992 đến nay Việt Nam đã thực hiện cơ chế thị trƣờng trong xuất khẩu lao động:

chấp nhận quan hệ chủ thợ, từng bƣớc hòa nhập vào thị trƣờng sức lao động khu vực và thế

giới. Các doanh nghiệp có quyền chủ động tìm thị trƣờng, chọn đối tác để ký kết hợp đồng

cung ứng lao động theo nguyên tắc cùng có lợi và có trách nhiệm; tổ chức tuyển chọn, đào

tạo và quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài. Nhà nƣớc chỉ thực hiện chức năng

quản lý, kiểm tra, giám sát, xây dựng cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để các doanh nghiệp

từng bƣớc ổn định vững chắc thị trƣờng sức lao động ở nƣớc ngoài.

142

Năm 1994, Việt Nam xuất khẩu lao động sang 24 nƣớc: Úc, Đài Loan, Bắc Triều

Tiên, Libi, Mã Lai, Nhật, CH Czech... Năm 1995, có thêm một một số thị trƣờng nữa là Hàn

Quốc, Đài Loan, Lào. Số lao động VN ở nƣớc ngoài là khoảng 330.000 ngƣời, mỗi năm

chuyển về nƣớc hơn 1 tỷ USD, góp phần không nhỏ vào tăng trƣởng kinh tế, cải thiện đời

sống nhân dân.

Năm 1996, ngƣời lao động đã chuyển về nƣớc 160 triệu USD, bằng khoảng 800.000

tấn gạo xuất khẩu, nhiều hơn xuất khẩu cao su, than đá. Thu nhập bình quân của ngƣời lao

động làm việc ở nƣớc ngoài là 500 USD/tháng, cao hơn từ 6 đến 10 lần so với ngƣời có việc

làm trong nƣớc, đời sống của ngƣời lao động đƣợc cải thiện rô rệt so với trong nƣớc. Ngoài

thu nhập, ngƣời lao động còn đƣợc nâng cao tay nghề, nắm đƣợc công nghệ tiên tiến, rèn

luyện tác phong công nghiệp, góp phần xây dựng đội ngũ lao động có kỷ luật, kỹ thuật cho

đất nƣớc.

Năm 1998, Việt Nam phát triển thêm nhiều thị trƣờng mới nhƣ Nam Mỹ (Argentina,

Brazil), Trung Đông (Côoet, Libăng, Các Tiểu vƣơng quốc Ả Rập thống nhất UAE), Brunây,

Mỹ, Âu châu... Từ năm 2000, phấn đấu xuất khẩu từ 50.000 đến 100.000 lao động và luôn có

500.000 làm việc ở nƣớc ngoài.

Quốc gia Thái lan Indonesia Philippines Việt nam

1.000.000 1.700.000 4.300.000 (chính

Lao động xuất khẩu (ngƣời) 35.000 thức)

lƣơng 7.800 USD 6.500 ƢSD 6.500 USD 4.500 USD

Mức (năm)

Nguồn: Cục Quản lý lao động với nước ngoài, tháng 9/1999.

143

Số liệu của bảng trên đây cho thấy sự thua kém của lực lƣợng lao động của nƣớc ta so

với các nƣớc xung quanh trong việc chiếm lỉnh thị trƣờng sức lao động thế giới, cũng nhƣ về

thu nhập của ngƣời lao động. Tiền lƣơng của lao động Việt Nam làm ỏ Hàn Quốc thấp hơn

ba lần ngƣời bản xứ, trong khi nhập khẩu lao động từ Việt Nam thì Hàn Quốc đồng thời xuất

khẩu lao động nhƣng với giá cao hơn (ngƣời nƣớc ngoài làm việc ở Việt Nam có lƣơng gấp

30 lần ngƣời Việt Nam!).

Bộ Chính trị Đảng CSVN đã ra chỉ thị 41-CT/TƢ ngày 22-9-1998 về xuất khẩu lao

động và chuyên gia, trong đó nêu rõ là cần đa dạng hóa hình thức, thị trƣờng xuất khẩu lao

động; từ năm 2000 - 2010 phấn đấu có một triệu lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Khóa VIII Đảng CSVN đã khẳng định: "Mở rộng

xuất khẩu lao động trên thị trường đã có và thị trường mới. Cho phép các thành phần kinh tế

tham gia xuất khẩu và làm dịch vụ xuất khẩu lao động trong khuôn khổ pháp luật dưới sự

quản lý chặt chẽ của Nhà nước". Vào tháng 9/1999, Chính phủ ta đã ban hành Nghị định

152/NĐ-CP thay cho NĐ 07/95 về việc đƣa lao động và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở

nƣớc ngoài. Nhà nƣớc cho phép nhiều doanh nghiệp có đủ điều kiện đƣợc tham gia xuất khẩu

lao động (năm 1999 có 70 doanh nghiệp), khuyến khích ngƣời lao động tự tìm việc làm ở

nƣớc ngoài theo các mối quan hệ cá nhân.

Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về nhân lực và thị trƣờng sức lao động là một chủ

trƣơng có lợi, là phƣơng hƣớng đúng đắn để làm cho thị trƣờng sức lao động nƣớc ta thông

suốt với thế giới, nhằm thực hiện phân công lao động quốc tế, phù hợp với xu hƣớng toàn cầu

hóa hiện nay, phát huy vai trò và phát triển nguồn nhân lực - lợi thế so sánh của nền kinh tế

nƣớc ta, làm tăng giá trị sức lao động, tăng thu ngoại tệ cho đất nƣớc, nâng cao trình độ tay

nghề và thu nhập cho ngƣời lao động, tăng cƣờng quan hệ hợp tác quốc tế giữa nƣớc ta với

các nƣớc.

144

Cần duy trì và mở rộng thị trƣờng truyền thống đã có, đẩy mạnh việc nghiên cứu tìm

kiếm thị trƣờng sức lao động thế giới, dù sự cạnh tranh là khá gay gắt do các nƣớc xung

quanh cũng đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Nên nghiên cứu và học tập kinh nghiệm của các

nƣớc ấy, để đổi mới một cách căn bản về xuất khẩu lao động. Chú trọng hoạt động tiếp thị

nhằm nắm bắt nhanh nhạy nhu cầu sức lao động ở nƣớc ngoài về số lƣợng, cơ cấu nghề

nghiệp, điều kiện làm việc, giá sinh hoạt, tiền lƣơng, bảo hiểm, bảo hộ lao động, khả năng

hòa nhập của lao động Việt nam... và phải dự báo chúng trong tƣơng lai. Phải sử dụng mọi

phƣơng thức để thông tin, quảng cáo về khả năng cung sức lao động của nƣớc ta đến các đối

tác trên thế giới, gắn việc xuất khẩu lao động với xuất khẩu hàng hóa.

Xuất khẩu lao động đáp ứng cả mục tiêu kinh tế lẫn mục tiêu xã hội. Việc xuất khẩu

lao động của ngƣời nghèo, đúng là có ý nghĩa kinh tế, có thể tín chấp và lập quỹ rủi ro từ một

phần tiền lƣơng hàng tháng của họ. Tuy nhiên, nên xem đây là giải pháp tạm thời chứ không

phải là lâu dài; bởi vì ngƣời nghèo thƣờng chỉ có lao động giản đơn nên cái bất lợi là thu

nhập không cao và cũng không tốt về mặt chính trị; việc hỗ trợ cho ngƣời lao động nghèo

tham gia xuất khẩu lao động có thể làm gia tăng cái giá phải trả cho việc tạo việc làm, trong

khi có rất nhiều ngƣời lao động có đủ khả năng, điều kiện tham gia xuất khẩu lao động. Nên

hƣớng những ngƣời lao động nghèo vào những việc làm trong nƣớc.

Nên hạn chế việc đƣa lao động không có nghề ra nƣớc ngoài thông qua việc xác định

điều kiện để đƣợc xuất khẩu lao động. Nhà nước ta đã có quyết định không được đưa người

lao động chưa được đào tạo ra nước ngoài làm việc, trừ khi trong các hợp đồng có điều

khoản bên nhận lao động thực hiện việc đào tạo nghề trong 3 tháng và cấm xuất khẩu lao

động làm những công việc giảm nhân phẩm, tư cách của người Việt Nam. (Quyết định

725/QĐ ngày 30/6/1999 của Bộ LĐTBXH).

145

Ngành giáo dục đào tạo và dạy nghề phải xây dựng định hƣớng phục vụ cho xuất

khẩu lao động. Phải đảm bảo đào tạo theo yêu cầu trƣớc khi xuất khẩu lao động về trình độ

học lực, tay nghề, ngoại ngữ... Chú trọng giáo dục ý thức chấp hành kỷ luật lao động, tác

phong công nghiệp, trang bị những kiến thức tối thiểu về luật pháp và phong tục tập quán của

nƣớc sẽ đến làm việc, để có thể hòa nhập với cộng đồng nơi đến làm việc, góp phần thực hiện

tốt hợp đồng và nâng cao uy tín của đội ngũ lao động nƣớc ta trên trƣờng quốc tế, để ngƣời

lao động Việt Nam đƣợc chủ doanh nghiệp nƣớc ngoài và nhân dân nƣớc sở tại đánh giá cao.

Doanh nghiệp nào, quốc gia nào chuẩn bị đƣợc đội ngũ lao động để cung ứng cho nƣớc ngoài

thì sẽ có ƣu thế trong chiếm lĩnh thị trƣờng sức lao động thế giới, làm tăng tính cạnh tranh

của "hàng hóa" của mình của mình trên thị trƣờng sức lao động thế giới. Nếu lao động xuất

khẩu là lao động phức tạp, lao động lành nghề, lao động chuyên gia thì nguy cơ chảy máu,

thiệt hại đến sản xuất trong nƣớc là rõ ràng. Nhƣng nếu khả năng này đƣợc thực hiện mà

không gây tác hại gì thì chúng tỏ rằng ngành giáo dục đào tạo đã vƣơn lên đáp ứng đƣợc yêu

cầu và nguồn nhân lực đƣợc phát huy tốt. Chính phủ đã có kế hoạch xây dựng 10 đến 12

trường trong cả nước dành riêng cho đào tạo lao động xuất khẩu.

Nhà nƣớc cần ban hành hệ thống chính sách hợp lý, ƣu đãi về thuế cho các đơn vị xuất

khẩu lao động... để tạo điều kiện tăng nhanh xuất khẩu sức lao động. Phải hoàn thiện cơ chế

quản lý lao động xuất khẩu và các doanh nghiệp hoạt động Anh vực này; sửa đổi những qui

định không còn phù hợp, giảm bớt những thủ tục hành chính nhân sự và xuất nhập cảnh để

tạo sự thông thoáng cho ngƣời lao động và doanh nghiệp xuất nhập khẩu lao động. Nhà nƣớc

cũng qui định những lĩnh vực đƣợc phép xuất khẩu lao động, chỉ cấp phép hoạt động cho các

doanh nghiệp đủ điều kiện, những không hạn chế các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lao

động, kể cả doanh nghiệp đoàn thể và tƣ nhân tham gia hoặc làm

146

dịch vụ xuất khẩu lao động. Chú ý giải quyết chế độ chính sách đối với lao động hợp tác về

nƣớc, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của ngƣời lao động trong quá trình lao động, khắc phục

những tình trạng tiêu cực có thể xảy ra. Bên cạnh hoạt động cung ứng lao động chuyên

nghiệp và kết hợp với thƣơng mại và đầu tƣ của các doanh nghiệp, cần khuyến khích và tạo

điều kiện cho ngƣời lao dộng tự tìm việc ở nƣớc ngoài thông qua các tổ chức, cá nhân, ngƣời

thân ở nƣớc ngoài.

3.3. Những giải pháp chung để thúc đẩy sự phát triển thị trường sức lao

động ở Việt Nam hiện nay

Mấy năm qua, nền kinh tế nƣớc ta đạt đƣợc mức tăng trƣởng GDP tƣơng đối cao, do

các nguồn lực trong và ngoài nƣớc đƣợc đƣa vào sử dụng, nhƣng nguồn nhân lực vẫn còn dƣ

thừa, thất nghiệp chƣa đƣợc giảm tƣơng ứng bởi vì cầu sức lao động nói riêng, tổng cầu nói

chung chƣa đƣợc tăng lên đúng mức (biểu hiện của thất nghiệp chu kỳ do suy thoái) và chất

lƣợng nguồn cung sức lao động còn bất cập (thất nghiệp cơ cấu). Tình trạng thất nghiệp nƣớc

ta sẽ gay gắt, nên phải tác động đến tất cả các yếu tố tác động đến cầu cũng nhƣ cung sức lao

động.

Giải quyết việc làm phải đƣợc coi là quốc sách hàng đầu; chính sách giải quyết việc

làm phải đƣợc xem xét đồng bộ trong hệ thống chính sách lánh tế - xã hội xuyên suốt từ giáo

dục đào tạo, dạy nghề, chăm sóc sức khỏe, bố trí sử dụng hợp l ý lực lƣợng lao động đến việc

thúc đẩy đầu tƣ, mở rộng sản xuất, phù hợp với mục tiêu của chiến lƣợc phát triển đã nêu

trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng ta. Do vậy, giải quyết việc làm không phải chỉ là nhiệm

vụ của ngành lao động mà còn là nách nhiệm của tết cả các cấp các ngành, các đơn vị cơ sở

cũng nhƣ của mỗi gia đình và cá nhân từng ngƣời lao động.

Vấn đề đặt ra là nên tăng tổng cầu để khắc phục tình trạng ngƣời chờ việc, hay tăng

đầu tƣ cho giáo dục đào tạo để khắc phục tình trạng việc chờ ngƣời.

147

Tăng tổng cầu thì sẽ thúc đẩy ngƣời lao động tự đào tạo, tự đầu tƣ học nghề; thị trƣờng sức

lao động, thị trƣờng đào tạo sẽ đƣợc khởi động. Hiện nay, phát triển thị trƣờng sức lao động ở

Việt Nam đồng nghĩa với tăng nhiều và nhanh hơn nữa về nhu cầu sức lao động, để giảm bớt

sức ép của cung sức lao động, làm cho cung - cầu sức lao động cân bằng theo phƣơng hƣớng

tích cực. Nhƣ vậy, trƣớc mắt chúng ta phải tăng tổng cầu, còn về lâu dài phải tăng đầu tƣ cho

giáo dục đào tạo, nhằm cải thiện nguồn cung sức lao động.

3.3.1. Các giải pháp thúc đẩy tăng cầu sức lao động, tạo việc làm.

Vốn nhân lực là một lợi thế kinh tế, là nhân tố quan trọng của tăng trƣởng kinh tế ở

Việt Nam, nhất thiết phải phát huy, sử dụng nó một cách có hiệu quả thông qua việc tăng cầu

sức lao động tạo nhiều việc làm cho ngƣời lao động có khả năng lao động, có yêu cầu việc

làm; thực hiện các biện pháp giúp ngƣời thất nghiệp nhanh chóng có việc làm... từ đó từng

bƣớc mang lại tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, khi tính đến hiệu quả các chƣơng trình giải quyết

việc làm, nên cân nhắc cái giá mà xã hội phải trả cho việc làm đƣợc tạo ra.

Tác giả luận án cho rằng để giảm thất nghiệp, tạo việc làm Nhà nƣớc phải thông qua

thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô, sử dụng nhiều biện pháp tổng hợp để tăng đầu tƣ,

tăng tổng cầu, từ đó mà tăng cầu sức lao động.

a - Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, thu hút đầu tƣ nƣớc

ngoài, khuyến khích đầu tƣ trong nƣớc, nhằm khai thác có hiệu quả tài nguyên quốc gia, giữ

vững nhịp độ tăng trƣởng kinh tế, tạo cơ hội cho ngƣời lao động có việc làm trực tiếp và gián

tiếp.

Để phát triển nền kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần, Nhà nƣớc ta đã chú ý hoàn

thiện các chính sách vĩ mô nhƣ chính sách thuế, tín dụng, đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ

trợ thông tin, quy hoạch, cải cách thủ tục hành chính... để giải phóng và phát huy lực lƣợng

sản xuất, qua đó mà tạo mở việc làm cho ngƣời

148

lao động. Nhà nƣớc phải đóng vai trò giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi nỗ lực đầu

tƣ phát triển, xóa kỳ thị trong kinh tế; vận dụng phƣơng thức nhà nƣớc và nhân dân cùng đầu

tƣ; bảo đảm cho mọi cá nhân, mọi đơn vị kinh tế, không phân biệt hình thức sở hữu đƣợc tự

do kinh doanh theo pháp luật, trong môi trƣờng pháp lý ổn định, bình đẳng; trên cơ sở phân

công xã hội nhằm phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và phân bố lại lao động xã

hội theo vùng lãnh thổ, sử dụng hầu hết sức lao động xã hội một cách hợp lý.

Chính sách kinh tế nhiều thành phần là nhất quán nếu nó đƣợc áp dụng cả cho lĩnh

vực nông nghiệp. Nhà nƣớc nên tạo điều kiện để phát triển kinh tế hộ gia đình, khuyến khích

công trình khẩn hoang dƣới dạng kinh tế trang trại, kỉnh tế tƣ nhân nhất là ở nơi đất trống đồi

trọc. Đây đây là những loại hình kinh tế có lợi, sẽ tạo ra sự phân công lao động tại chỗ, làm

tiền đề cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phƣơng theo hƣớng chuyên môn hóa, đồng

thời tạo nhân tố mới cho sự hợp tác sản xuất kỉnh doanh, phát triển quan hệ lao động trong

nông nghiệp, nông thôn, mang lại việc làm cho lao động nông thôn, tạo cơ sở để phát triển thị

trƣờng sức lao động tại chỗ. Không nên đối lập giữa làm thuê với làm giàu, ngƣợc lại nên

khuyến khích ngƣời dân làm giàu, từ đó mà mang lại việc làm cho ngƣời khác. Đồng thời,

nên thực hiện nguyên tắc "ngƣời lao động có việc làm" thay cho nguyên tắc "ngƣời cày có

ruộng". Điều này rất có ý nghĩa trƣớc yêu cầu tạo việc làm cho lao động nông nghiệp - chiếm

3/4 cơ cấu lao động xã hội của nƣớc ta.

Thành phần kinh tế nhà nƣớc hiện đang giảm nhu cầu sức lao động, nhƣng sẽ ngày

càng ổn định và phát triển, sẽ vẫn giữ" vai trò chủ yếu trong việc tạo ra việc làm cho xã hội.

Tuy nhiên, khu vực kinh tế nhà nƣớc cũng không thể tiếp nhận toàn bộ số công nhân lao

động, sức lao động xã hội phải đƣợc chia sẻ cho các thành phần kinh tế khác, thì mới thực sự

trở thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển kinh tế.

149

Ở các doanh nghiệp nhà nƣớc, việc sắp xếp lại sản xuất, đổi mới công nghệ, cải tiến

mẫu mã sản phẩm đƣợc chú ý giải quyết hợp lý với việc duy trì việc làm cho ngƣời lao động,

hạn chế tình trạng mất việc hàng loạt, thông qua các biện pháp, các chính sách trợ giúp của

Nhà nƣớc về thuế, vốn, tài chính (khoanh nợ), công nghệ, đào tạo nghề cho lao động dôi dƣ

để phù hợp với công nghệ mới. Nhà nƣớc ta đã đẩy mạnh cổ phần hóa một số doanh nghiệp

nhà nƣớc, điều này phù hợp với chủ trƣơng tạo việc làm, bởi vì trong thực tế sau khi cổ phần

hóa số lƣợng việc làm đã gia tăng nhiều hơn trƣớc kia. Tăng cƣờng đầu tƣ mạnh vào khu vực

kinh tế quốc doanh, có thể bằng vốn cổ phần hóa, sau khi nó đƣợc củng cố, đổi mới. Vì mục

tiêu tạo việc làm, trong vấn đề lựa chọn dự án, phƣơng án đầu tƣ mới hay mở rộng sản xuất

để sử dụng lại lao động và thu hút lao động mới, nếu chỉ đạt đƣợc hiệu quả ngang bằng với

lãi suất hay hòa vốn thì cũng có thể chấp nhận đƣợc.

Bên cạnh việc tăng cƣờng đầu tƣ cho các doanh nghiệp lớn, Nhà nƣớc còn khuyến

khích, tạo điều kiện ƣu đãi để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng nhiều lao

động, nhất là trong lĩnh vực chế biến nông lâm hải sản, mặc dù hoạt động không ổn định

nhƣng có thể tạo nhiều việc làm cho xã hội.

b - Mở mang ngành nghề, khôi phục các nghề truyền thông, phát triển ngành dịch vụ;

tăng cƣờng liên kết và hợp tác giữa các vùng kinh tế nhiều tiềm năng, có triển vọng sử dụng

nhiều lao động, trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội... để tạo công ăn việc làm cho

xã hội.

Nhà nƣớc ta đã tăng cƣờng đầu tƣ cho các vùng kinh tế - xã hội - dân cƣ mới, xây

dựng các dự án để tạo nhiều việc làm cho ngƣời lao động; đầu tƣ xây dựng các công trình hạ

tầng ở thành thị và nông thôn, kích thích hoạt động của thị trƣờng xây dựng, chuyển một

phần lao động cơ giới sang lao động thủ công ở một số khâu và công đoạn cần thiết, tạo việc

làm trực tiếp và gián tiếp thông qua tác

150

động dây chuyền. Tuy nhiên, cần phải chú ý đến khả năng cho phép của nền tài chính quốc

gia, đến nhu cầu của nền kinh tế và hiệu quả sử dụng vốn đầu tƣ nên lồng ghép các chƣơng

trình để tiết kiệm nguồn lực.

Để ngƣời lao động nghèo yếu thế có thể mƣu sinh lập nghiệp, tự tạo việc làm, mở ra

cơ hội lựa chọn việc làm và nghề nghiệp cho họ, xã hội nên tạo điều kiện về vốn liếng và

trình độ tay nghề cho họ. Bởi vì, ngƣời lao động luôn năng động tìm kiếm và tự tạo việc làm

và thực tế là không có ngƣời lao động không có việc làm mà chỉ có ngƣời lao động không có

việc làm ổn định. Đó là thiết thực xóa đói giảm nghèo trong nền kinh tế. Quỹ quốc gia giải

quyết việc làm, Quỹ xóa đói giảm nghèo, Ngân hàng phục vụ ngƣời nghèo chú ý ƣu tiên trợ

vốn cho thanh niên chƣa có việc làm, mạnh dạn tín chấp với mức vay - thời hạn vay phù hợp

và lãi suất nhẹ, khắc phục tình trạng mất vốn và đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích. Các

địa phƣơng phải tăng cƣờng thêm nguồn vốn, huy động nguồn lực trong dân để đủ đáp ứng

nhu cầu giải quyết việc làm. Cần quan tâm hỗ trợ tạo việc làm cho lao động nữ (chiếm 47%

lao động cả nƣớc); bảo vệ quyền lợi của họ trên thị trƣờng sứt lao động, vì lao động nữ

thƣờng chịu thiệt thòi hơn nam giới về những cơ hội bình đẳng. Cần kêu gọi trách nhiệm xã

hội, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nhƣ Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ kết hợp với

ngành Lao động -Thƣơng binh - Xã hội, với Ngân hàng nhằm tạo việc làm cho ngƣời lao

động.

c - Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tham gia vào phân công lao động quốc tế, hợp

tác đầu tƣ vốn với nƣớc ngoài, phát triển ngoại thƣờng, thúc đẩy nền kinh tế hƣớng về xuất

khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu lao động.

Khi quan hệ kinh tế đối ngoại đƣợc mở rộng, nhu cầu sức lao động sẽ gia tăng nhờ

xuất khẩu lao động, nhờ đầu tƣ nƣớc ngoài và nhờ tăng sản lƣợng hàng xuất khẩu.

151

Xuất khẩu phải đƣợc đẩy mạnh vì đó là tiền đề và là kết quả của việc sử dụng nhân

lực nhiều hơn. Bảo hộ mậu dịch là tất yếu để bảo vệ sản xuất trong nƣớc, giữ việc làm, đảm

bảo thu nhập; nhƣng không thể cứ thực hiện nhƣ thế mãi trƣớc xu thế toàn cầu hóa, các

nguồn lực kinh tế sẽ bị lãng phí xét về mặt phân công lao động quốc tế. Chiến lƣợc phát triển

hƣớng về xuất khẩu là xu thế phát triển của thế giới, đồng thời là giải pháp tối ƣu trong điều

kiện của Việt Nam, bởi vì đầu tƣ cho xuất khẩu đem lại hiệu quả hơn cho thay thế nhập khẩu.

Thị trƣờng nội địa là mục tiêu trƣớc mắt, do yêu cầu về chất lƣợng sản phẩm chƣa cao, những

đến một lúc nào đó sẽ bảo hòa đối với những sản phẩm sản xuất trong nƣớc. Mục tiêu về lâu

về dài là thị trƣờng nƣớc ngoài rộng lứa dù rằng yêu cầu về chất lƣợng sản phẩm là nghiêm

ngặt.

Nhà nƣớc nên tạo điều kiện về vốn liếng, về thị trƣờng để phát triển những ngành,

những mặt hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động, tạo nhiều việc làm nhƣ may mặc, chế

biến, thủ công mỹ nghệ... Nên hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô, bằng cách tăng thuế suất

đối với nó và giảm thuế suất cho hàng tinh chế. (Cứ 1 triệu USD xuất khẩu gỗ tinh chế, hàng

sơn mài xuất khẩu có thể tạo việc làm cho 10.000 lao động). Chú ý hạn chế nhập khẩu hàng

tiêu dùng chƣa thật cần thiết, nhất là những mặt hàng trong nƣớc sản xuất đƣợc. Nếu không,

điều đố sẽ đồng nghĩa với nhập khẩu lao động hay nhập khẩu thất nghiệp, là một trong những

nguyên nhân làm giảm số lƣợng việc làm. Có thể thực hiện việc nhập nguyên liệu cho sản

xuất trong nƣớc, đáp ứng công suất của các nhà máy chế biến và tạo việc làm cho ngƣời lao

động. Áp dụng chính sách thuế khuyến khích nhập linh kiện dạng rời về lắp ráp trên dây

chuyền thay vì nhập thành phần, nhằm tạo thêm việc làm cho ngƣời lao động.

Khả năng tiếp nhận lao động ở những ngành sản xuất hàng xuất khẩu sẽ rất lớn với

điều kiện phải đổi mới công nghệ thiết bị, nâng cao trình độ tay nghề

152

của ngƣời lao động, để nâng cao chất lƣợng sản phẩm. Trong giai đoạn trƣớc mắt có thể

chấp nhận công nghệ vừa, công nghệ lắp ráp giúp sử dụng lao động nhiều hơn. Nhƣng cần

phải cân nhắc tính hiệu quả, xem xét cái giá phải trả cho số việc làm đƣợc tạo ra, phải vừa

tính chi phí để nhập dây chuyền láp ráp xe gắn máy và vừa tính chi phí cơ hội là tiền thuế

chênh lệch (50% - 30%) lên đến hàng chục triệu USD/năm, mà cơ sở vật chất tăng thêm

không đáng là bao. Xét về mục tiêu tạo việc làm cho xã hội, rõ ràng là phƣơng án sản xuất

tốt hơn phƣơng án lắp ráp, nhƣng do không đủ khả năng tài chính nên phải từng bƣớc.

Những cơ hội thu hút đầu tƣ từ nƣớc ngoài đã đƣợc tranh thủ trong thời gian qua,

nhƣng nên tránh làm thiệt hại sản xuất trong nƣớc, trƣớc hết là thể hiện qua việc chuẩn bị

các dự án mời gọi đầu tƣ và đảm bảo quy hoạch cơ cấu kinh tế hợp lý. Cần khuyến khích

đấu thầu công trình nƣớc ngoài sử dụng nhiều lao động trong nƣớc. Bƣớc đầu, nên coi trọng

phƣơng thức gia công hàng xuất khẩu cho nƣớc ngoài, bởi vì nó tạo việc làm và thu nhập,

tạo khả năng sử dụng cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất hiện có, tranh thủ đƣợc công nghệ

kỹ thuật nƣớc ngoài, có đƣợc thị trƣờng, tăng thu nhập ngoại tệ... mà không đòi hỏi vốn đầu

tƣ nhiều nhƣ những trƣờng hợp khác.

Trong nhóm các giải pháp mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, không thể không nói tới

giải pháp xuất khẩu lao động. Đây là giải pháp tất yếu bởi vì tỷ lệ thất nghiệp, tiền lƣơng và

trình độ của ngƣời lao động giữa các quốc gia luôn có sự chênh lệch. Giải pháp này vừa cấp

bách vừa chiếm vị trí quan trọng trong chiến lƣợc quốc gia về giải quyết việc làm.

Nhà nƣớc ta đã có chủ trƣơng mở rộng và đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia

với cơ chế linh hoạt, đảm bảo mỗi năm đƣa đƣợc từ 20 đến 25 vạn lao động đi làm việc có

thời hạn ở nƣớc ngoài. Xuất khẩu lao động là cơ may đổi đời đối với ngƣời nghèo, nhƣng họ

không có tiền thế chân (2.200USD), lại thiếu trình

153

độ học vấn và tay nghề! Nếu họ đƣợc tham gia xuất khẩu lao động thì sẽ mang lại ý nghĩa

kinh tế - xã hội lớn.

Các giải pháp tăng cầu sức lao động nói trên sẽ thực sự có tác dụng mạnh mẽ nếu có

sự tác động của Nhà nƣớc về chính sách tài chính - tín dụng, chính sách thuế, chính sách giá

cả và phải có sự hỗ trợ đắc lực của hệ thống ngân hàng, các công ty bảo hiểm.

d - Mở rộng việc áp dụng các phƣơng thức chia sẻ việc làm, bằng cách tăng cƣờng sử

dụng lao động bán thời gian, giảm thời gian lao động, giảm giờ làm việc trong tuần trên cơ sở

đảm bảo năng suất lao động.

(Hội nghị Trung ương 7 ĐCSVN Khóa 8 đã đưa ra chủ trương "một tuần làm việc 40

giờ". Chính phủ xác định từ tháng 10/1999 các cơ quan hành chính sự nghiệp sẽ áp dụng

thời gian làm việc trong tuần như vậy, nhưng không được làm tăng biên chế và quỹ lương mà

đảm bảo thực hiện công việc tốt).

Xu hƣớng ở các nƣớc phát triển là ngƣời lao động làm ít giờ, có thể lƣơng ít nhƣng

thoải mái hơn. Nó góp phần cải thiện nguồn cung sức lao động, bởi vì giờ làm việc ít hơn sẽ

giúp ngƣời lao động có thời gian nghỉ ngơi, có điều kiện tái tạo sức lao động, cải thiện sức

khỏe, có thời gian để học tập nâng cao trình độ tay nghề, nâng cao năng suất lao động.

Giải pháp này thích hợp cho các nƣớc phát triển, nhƣng các nƣớc đang phát triển cũng

có thể áp dụng, bởi vì trên phạm vi xã hội, không phải ngƣời lao động làm việc ít đi mà là

thời gian lao động đƣợc sử dụng hợp lý hơn. Đây là giải pháp làm hạn chế lãng phí do thất

nghiệp vô hỉnh nhờ tận dụng thời gian lao động cho hoạt động cá nhân; nhƣng cũng là tăng

cầu sức lao động, tạo cơ hội cho nhiều ngƣời lao động có đƣợc việc làm nhờ gia tăng các hoạt

động dịch vụ. Đây là giải pháp đƣợc tính đến nhằm khắc phục thất nghiệp cơ cấu vì trên thực

tế việc làm đƣợc tạo ra từ các ngành kinh tế là có hạn, hơn nữa xu hƣớng cơ khí hóa, cơ giới

154

hóa và tự động hóa đƣa đến kết quả là năng suất lao động tăng, làm giảm sử dụng nhân lực

mà trƣớc hết là giảm thời gian lao động.

Giảm giờ làm việc trong tuần đâu chỉ có lợi cho ngƣời lao động mà còn cho doanh

nghiệp. Khi đó, ngƣời lao động thật sự có trách nhiệm với công việc, có ý thức tổ chức kỷ

luật cao, họ nỗ lực làm việc trọn 8 giờ vàng ngọc mỗi ngày của mình, không có hiện tƣợng ăn

cắp giờ công; phía doanh nghiệp giảm đƣợc chi phí đƣa đón, chi phí ăn uống, có thể dự trữ

đƣợc sức lao động, sắp xếp lao động dƣ thừa... Giảm bớt ngày làm việc sẽ tạo điều kiện để bố

trí thêm chỗ làm việc (biên chế có thể tăng nhẹ ở một số lĩnh vực), giảm một phần chi phí

ngân sách cho trợ giúp giải quyết việc làm và kích thích nhu cầu tiêu dùng trong xã hội.

Nhƣng ở góc độ phân tích khác, giải pháp này có thể làm tăng chi phí sản xuất, giảm

hiệu quả kinh doanh và nền kinh tế có thể bị giảm sức cạnh tranh. Nhƣ vậy, các doanh nghiệp

phải tăng đầu tƣ đổi mới kỹ thuật - công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, tạo điều kiện nâng

cao năng suất lao động để ngƣời lao động có việc làm thƣờng xuyên mà không làm giảm tiền

lƣơng, do thời gian lao động rút ngắn.

Nhà nƣớc ta đã thực hiện chủ trƣơng khuyến khích về hƣu sớm, giảm tuổi nghỉ hƣu,

không nhất thiết phải đủ tuổi đời, đặc biệt ƣu tiên cho lao động làm các công việc nặng nhọc,

độc hại và nguy hiểm. (NĐ 93CP tạm giảm tuổi về hưu để tháo gỡ khó khăn cho các doanh

nghiệp nhà nước nhằm ổn định sản xuất và việc làm). Đây là giải pháp khả thi, bởi vì ngƣời

về hƣu có thể vẫn còn sức lao động, mong muốn có thu nhập, nhƣng với tiền trợ cấp họ có

thể cải thiện đời sống bằng kinh tế gia đình.

3.3.2. Các giải pháp cải thiện nguồn cung sức lao động.

Giải quyết việc làm phải gắn bó hữu cơ với mục tiêu phát triển nguồn nhân lực và

phải đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động của tiến trình

155

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Hơn nữa, trong cuộc cạnh tranh toàn cầu hiện nay,

điều quan trọng không phải là làm ra bao nhiêu sản phẩm, mà là làm bằng cách nào, bằng

công nghệ gì với lực lƣợng lao động nhƣ thế nào. Vấn đề đặt ra đối với các quốc gia chuyển

sang kinh tế thị trƣờng là sự không tƣơng xứng giữa kỹ năng lao động với yêu cầu của việc

làm. Các nƣớc đang phát triển chỉ có thể sớm thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, rút ngắn

đƣợc khoảng cách tụt hậu so với các nƣớc phát triển nếu biết dựạ vào nguồn nhân lực đƣợc

đào tạo tốt, để có thể tiếp thu sáng tạo những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và mới

có thể tiếp cận đƣợc việc làm và thu nhập.

Các giải pháp tăng cầu sức lao động nêu trên đã đƣợc thực hiện mấy năm qua, trong

điều kiện nền kinh tế có tăng trƣởng, vốn đầu tƣ tăng không ngừng, nhƣng cung sức lao động

vẫn dƣ thừa so với cầu sức lao động. Đó là bởi vì cơ cấu. số lƣợng và chất lƣợng của lực

lƣợng lao động đã không đáp ứng đƣợc các đòi hỏi của thị trƣờng sức lao động.

Lao động Việt nam đƣợc đánh giá tốt về chất lƣợng, giá cả sức lao động thấp, sự dễ

dàng khi tuyển dụng do dƣ thừa, sự chăm chỉ gắn bó của ngƣời lao động với nơi làm việc...

Nhƣng nguồn vốn nhân lực sẽ thực sự trở thành lợi thế kinh tế của Việt nam, đáp ứng đƣợc

những yêu cầu của thị trƣờng sức lao động nếu nƣớc ta có chiến lƣợc phát triển nhân lực

đúng đắn. Đây là câu hỏi của các nhà hoạch định chính sách lao động của mỗi quốc gia, đặc

biệt là đối với các nƣớc đang phát triển.

a. Tiến hành những biện pháp để điều chỉnh, cân đối cơ cấu sức lao động và phân bố

lực lượng lao động trong phạm vi nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu của thị trường sức lao động.

Để giảm sức ép đối với mức cung sức lao động, về lâu về dài phải kiểm soát, hạn chế

tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên, ở mức không quá 2%. Công tác dân

156

số kế hoạch hóa gia đình phải tập trung vào các vùng nghèo, vì chính tỷ lệ sinh đẻ cao là

nguyên nhân dẫn tới đỏi nghèo. Giải pháp này chỉ có ý nghĩa cho năm 2015 trở về sau, còn số

ngƣời đến tuổi lao động vào năm 2.000 đã có mặt, không phụ thuộc vào tỷ lệ tăng dân số hiện

nay.

Để làm tốt việc phân bố lại lực lƣợng lao động nhằm phát triển kinh tế - xã hội, thì

phải cải cách công tác quản lý nguồn nhân lực. Nhà nƣớc ta đã xây dựng chiến lƣợc, chƣơng

trình quốc gia và địa phƣơng về dân số, đào tạo và giải quyết việc làm, nhằm khai thác, kế

hoạch hóa việc sử dụng có hiệu quả tiềm năng nhân lực. Nhà nƣớc đã thực hiện điều tra hằng

năm về lao động và việc làm ở thành thị và nông thôn trong phạm vi cả nƣớc; dự báo, đánh

giá những biến động thay đổi của nguồn lao động về số lƣợng và chất lƣợng. Nội dung điều

tra là mức gia tăng số ngƣời lao động muốn tìm việc theo giới tính, trình độ học lực, trình độ

chuyên môn kỹ thuật; tỷ lệ lao động theo các loại hình công việc và mức lƣơng bình quân;

thống kê số ngƣời có việc làm và thất nghiệp, thực trạng thất nghiệp tiềm tàng... nhằm điều

chỉnh việc đào tạo và sử dụng lao động.

Vấn đề đặt ra là phải giải quyết tình trạng táng dân số cơ học, đồng thời phải giải

quyết sự mất cân đối cơ cấu lao động theo vùng kinh tế với thực trạng là lao động nông thôn

nhiều hơn lao động thành thị gấp bốn lần. Vấn đề đó nên đặt trên cơ sở thừa nhận sự di

chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị là một quy luật khách quan, phù hợp với quy luật

cung - cầu sức lao động, quy luật bình quân hóa thu nhập và còn là biểu hiện của xu hƣớng

vƣơn tới tiến bộ của con ngƣời Việt Nam, mong muốn thoát khỏi đói nghèo.

Tuy nhiên cũng không thể để cho "bàn tay vô hình" tự phát huy tác dụng, mà cần thiết

phải có sự điều tiết, kiểm soát của Nhà nƣớc; bởi vì sự chuyển dịch lao động không hợp lý,

mất cân đối, nhân lực sẽ bị mai một cũng là sự lãng phí của xã hội. Quản lý lao động là một

nội dung quan trọng của quản lý đô thị,

157

nhƣng không nên ngăn cấm dòng ngƣời di cƣ tìm việc làm từ các vùng nông thôn đến các

thành phố lớn bằng những biện pháp hành chính, áp chế mà nên tạo điều kiện thuận lợi để

ngƣời lao động tìm việc làm, đảm bảo quyền tự do đi lại, cƣ trú của mọi công dân trong xã

hội nhƣ hiến pháp đã qui định; không nên phân biệt lao động địa phƣơng hay lao động nơi

khác đến, mà phải đảm bảo sự liên thông của thị trƣờng sức lao động, để đạt hiệu quả kinh tế

- xã hội cao nhất. Nhà nƣớc nên định hƣớng hạn chế lao động nhập cƣ theo quy hoạch dài

hạn, bằng những chính sách kinh tế - xã hội vĩ mô hợp lý, đồng bộ, thống nhất từ các ngành

chức năng ở trung ƣơng đến các địa phƣơng, dựa trên cơ sở những quy phạm pháp luật (nhƣ

Luật nhập cƣ), chứ không phải bằng những giải pháp tình thế.

Nhà nƣớc ta đã có chiến lƣợc tăng cƣờng đầu tƣ phát triển các vùng nông thôn để thu

hút lao động tại chỗ, sẽ làm giảm mức cung lao động ở thành thị, đảm bảo sự phát triển hài

hòa của cộng đồng dân cƣ và các miền đất nƣớc, thu ngắn sự cách biệt giữa nông thôn và

thành thị. Đó chính là áp dụng những biện pháp điều hòa, điều tiết nhân lực hợp lý, bố trí lại

dân cƣ giữa các vùng kinh tế gần với điều chỉnh cơ cấu sản xuất, sử dụng tài nguyên đất đai

và nguồn nhân lực hữu hiệu hơn. Các thành phố lớn cần tăng cƣờng hợp tác với các tỉnh có

đông ngƣời di cƣ nhằm phát huy lợi thế về nhân lực, đất đai ở các địa phƣơng ấy. Nông dân

có đời sống khá hơn, thoát khỏi đói nghèo sẽ giảm bớt di cƣ về thành thị; giảm bớt sự lãng

phí nhân lực do chi phí xã hội phát sinh.

Đối với trƣờng hợp di dân đến các vùng kinh tế mới, Nhà nƣớc ta đã thực hiện theo

dự án, có kế hoạch, phù hợp với quy hoạch; góp phần chấm dứt tình trạng du canh, du cƣ;

biến di dân tự do thành di dân có tổ chức, trên cơ sở chuẩn bị tốt về cơ sở hạ tầng vật chất và

cơ sở hạ tầng xã hội.

Quản lý lao động là cần thiết nhƣng nên tránh trƣờng hợp làm hạn chế, cản trở tác

dụng của thị trƣờng sức lao động. Không nên thực hiện việc cấp sổ lao

158

động cho mọi công dân một cách hình thức, không thiết thực mà chỉ nên áp dụng cho một số

đối tƣợng. Căn cứ trên yêu cầu phát triển kinh tế từng vùng, từng địa phƣơng, mà điều chỉnh

những quy định về di chuyển nhân khẩu, nhập hộ khẩu. Cần cân nhắc khi áp dụng chính sách

thuế sử dụng lao động nhập cƣ để các doanh nghiệp phải lựa chọn khi sử dụng lao động, hay

lao động nhập cƣ phải trích nộp tiền lƣơng để đóng góp vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng của

thành phố.

b. Nâng cao chất lượng sức lao động trước yêu cầu của quá trình chuyển đổi cơ cấu

kinh tế và trước yêu cầu tạo ra một đội ngũ lao động lành nghề ngang tầm quốc tế, có khả

năng cạnh tranh trên thị trường sức lao động trong và ngoài nước.

Thực trạng dƣ thừa sức lao động, giá cả sức lao động thấp là lợi điểm trƣớc mắt giúp

thu hút vốn đầu tƣ trong và ngoài nƣớc, tạo việc làm cho ngƣời lao động. Nhƣng đó cũng là

thực trạng dƣ thừa lao động chƣa qua đào tạo và khan hiếm sức lao động có chất lƣợng cao

của thị trƣờng sức lao động ở Việt Nam, nên để đảm bảo việc làm chắc chắn cho ngƣời lao

động, điều quan trọng là phải nâng cao chất lƣợng sức lao động, bởi vì trong hiện tại cũng

nhƣ tƣơng lai đó là yêu cầu hàng đầu của các nhà đầu tƣ. (Hãng Sony nói rằng họ sẵn sàng

sử dụng công nghệ mới 100%, nhưng liệu người lao động Việt Nam có sử dụng được hay

không).

Những yếu tố nổi bật của con ngƣời Việt Nam là ý chí kiên trì, nghị lực dẻo dai,

thông minh, sáng tạo, cần cù, chăm chỉ, có truyền thống học tập, có nhiều kỹ năng về kinh

doanh và có khả năng tiếp cận nhanh với khoa học kỹ thuật hiện đại. Những yếu tố ấy nói lên

chất lƣợng cơ bản với nhiều ƣu điểm của tiềm năng vốn nhân lực Việt Nam, mà không phải

quốc gia nào cũng có đƣợc. Tuy nhiên so với yêu cầu phát triển thì sức lao động của nƣớc ta

vẫn còn bất cập, lợi thế về sức lao động sẽ ngày càng bị giảm đi, sản phẩm tuy có sức cạnh

tranh, xuất khẩu đƣợc, nhƣng năng suất lao động hiện nay là khá thấp.

159

Phát triển kinh tế phải dựa trên việc phát triển tiềm năng nhân lực là vấn đề có tính hai

mặt. Một mặt, tiềm năng con ngƣời đƣợc phát triển là kết quả của sự phát triển kinh tế. Mặt

khác, đầu tƣ vào con ngƣời là đầu tƣ cơ bản nhất, sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, không chỉ

trong hiện tại mà cả trong tƣơng lai, đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện

đại hóa.

Giáo dục đào tạo có vai trò đặc biệt quan trọng đối với tiềm năng con ngƣời, đối với

chiến lƣợc con ngƣời. Tăng cƣờng đầu tƣ cho giáo dục đào tạo là đầu tƣ cho phát triển, là giải

pháp có ý nghĩa lâu dài, bởi vì lực lƣợng lao động trẻ chiếm tỷ lệ lớn trong lực lƣợng lao

động Nhà nƣớc cần phải có chiến lƣợc phát triển giáo dục - đào tạo, định hƣớng chiếu lƣợc

đào tạo nhân lực đón đầu hoặc song song với quá trình phát triển kinh tế.

Trên cơ sở chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội, chiến lƣợc phát triển khoa học - công

nghệ và giáo dục đào tạo của đất nƣớc, trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài cần đầu tƣ cho giáo dục

đào tạo, nâng cao chất lƣợng sức lao động, trình độ tay nghề của ngƣời lao động đồng thời

với quá trình đổi mới công nghệ, phù hợp với sự phân công lại lao động xã hội, chuyển dịch

cơ cấu kinh tế làm cho lợi thế sức lao động nƣớc ta đƣợc khẳng định theo hƣớng tích cực.

Cần chú trọng đào tạo chiều sâu để nâng cao chất lƣợng sức lao động trƣớc yêu cầu di

chuyển sức lao động từ các ngành truyền thống sang các ngành mới có hàm lƣợng khoa học

kỹ thuật cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nƣớc. Cần phải gia tăng

tỷ trọng nhân lực có trình độ cao trong nguồn vốn nhân lực xã hội, bởi vì khả năng sinh lợi,

khả năng tạo ra của cải vật chất của sức lao động phức tạp là hơn hẳn so với sức lao động

giản đơn.

Cần hoàn thiện hệ thống giáo dục đào tạo, mở rộng quy mô đi đôi với cải cách chất

lƣợng toàn diện, đạt đƣợc trình độ của các nƣớc phát triển, nâng cao hiệu quả để "sản phẩm"

ra lò đáp ứng đƣợc những yêu cầu mới của nhu cầu sức

160

lao động trong tình hình sản xuất và thị trƣờng luôn thay đổi. Thực hiện mục tiêu gắn đào tạo

với sử dụng, trên cơ sở dự báo ngành nghề, các cơ sở đào tạo phải nắm bắt nhu cầu sức lao

động của thị trƣờng, đổi mới nội dung chƣơng trình, để tránh trƣờng hợp đào tạo xong thì lại

không phù hợp và tránh tình trạng dôi dƣ nhân lực ở ngành này nhƣng lại thiếu hụt đối với

ngành khác. Quy hoạch đào tạo phải dựa trên nhu cầu của thị trƣờng sức lao động; hệ thống

dạy nghề phải có vị trí quan trọng hơn cả về quy mô lẫn tốc độ phát triển. Nhà nƣớc phải ban

hành hệ thống luật pháp đầy đủ, cơ chế, chính sách và xây dựng kế hoạch định hƣớng, quy

hoạch, chƣơng trình đào tạo, đáp ứng yêu cầu của thị trƣờng sức lao động, phù hợp với chiến

lƣợc phát triển kinh tế. Ngành giáo dục đào tạo phải nâng cao chất lƣợng của hệ thống phổ

thông trung học và đại học; xây dựng những trung tâm chất lƣợng cao để kéo chất lƣợng đào

tạo của toàn hệ thống đạt chuẩn mực, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nƣớc và phù hợp với xu

thế trên thế giới. Ngành giáo dục đã sắp xếp lại hệ thống các trƣờng nhằm nâng cao hiệu quả

đào tạo, sử dụng cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên. Tổ chức các cơ sở đào tạo trên cơ sở

liên kết giữa các Tnƣờng Đại học, các trƣờng nghề và các địa phƣơng nhƣ trƣờng cao đẳng

cộng đồng, tùy theo nhu cầu của địa phƣơng và ngƣời học, nhƣng nên chú ý chất lƣợng và

tƣơng quan giữa các loại hình đào tạo.

Cần đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ giáo dục phục vụ cho

mục tiêu phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo; xác định lại mục tiêu, thiết kế lại nội dung,

phƣơng pháp đào tạo của từng bậc học, cấp học, ngành học... Chú ý nghiên cứu kinh nghiệm

của thế giới về vấn đề sử dụng công nghệ mới trong đào tạo, quản lý và phát triển nguồn

nhân lực. Đi đôi với việc trang bị tri thức, tay nghề, năng lực thực hành, nên coi trọng giáo

dục nhân cách, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, đạo đức, phẩm chất., mà chính

thị trƣờng sức lao động luôn đòi hỏi ở ngƣời lao động.

161

Phải thƣờng xuyên chú ý thanh toán nạn mù chữ, hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu

học, thực hiện phổ cập giáo dục cấp 2, nâng cao dân trí, bởi vì học vấn giúp cho ngƣời lao

động có việc làm dễ hơn. Nhà nƣớc phải trợ giúp cho những ngƣời lao động ở vùng nông

thôn thoát khỏi vòng luẩn quẩn "vì nghèo mà thất học, vì thất học mà thất nghiệp và vì thất

nghiệp mà nghèo khó", để bảo đảm cho mọi công dân đù với mức thu nhập nào cũng đƣợc

hƣởng nền giáo dục cơ bản.

Chú trọng đào tạo nghề cho lực lƣợng lao động, trƣớc hết là lao động thanh niên, nhất

là lao động nông thôn với những nghề ngắn hạn; góp phần giảm tỷ lệ lao động giản đơn, giảm

thất nghiệp cơ cấu. Chiến lƣợc đào tạo nghề phải gắn với chiến lƣợc phát triển kỉnh tế - xã

hội, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, yêu cầu của thị trƣờng sức lao động, nhu cầu phát triển của các ngành, các

vùng kinh tế: tỷ lệ ngƣời lao động đƣợc đào tạo phải tăng lên 23 - 25% trong những năm sắp

tới.

Để nâng cao chất lƣợng và hiệu quả đào tạo nghề, cần kiện toàn bộ máy quản lý nhà

nƣớc về dạy nghề; tổ chức, sắp xếp lại hệ thống các trƣờng đào tạo nghề, mạng lƣới các

trƣờng chuyên nghiệp, đảm bảo tính chất vừa trọng điểm vừa phổ cập, phù hợp với cơ cấu

ngành nghề, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của đất nƣớc. Ƣu tiên đầu tƣ nâng

cấp các trƣờng hiện có, để đảm bảo năng lực và chất lƣợng đào tạo. Chú ý xây dựng một số

trƣờng trọng điểm đào tạo lao động kỹ thuật có trình độ cao với hình thức tập trung dài hạn

để cung cấp cho các ngành kinh tế kỹ thuật chủ yếu, đáp ứng yêu cầu của các khu công

nghiệp, khu chế xuất và xuất khẩu lao động. Bên cạnh hình thức đào tạo chính quy tập trung

dài hạn, đào tạo nghề bậc cao; cần phát triển những hình thức dạy nghề ngắn hạn tại các

Trung tâm việc làm, kết hợp giữa dạy nghề với giới thiệu việc làm. Khuyến khích phát triển

mạnh hình thức dạy nghề tại các doanh nghiệp, các tổng công ty; mở rộng sự hợp tác giữa

trƣờng dạy nghề với các doanh nghiệp

162

nhằm sử dụng các thiết bị công nghệ cao ở các xí nghiệp. Áp dụng phƣơng thức nhƣ thỉnh

giảng những chuyên viên của các doanh nghiệp, thực tập sử dụng máy tại xí nghiệp, để ngƣời

lao động có điều kiện thực hành, tích lũy đƣợc kinh nghiệm thực tế. Có thể áp dụng phƣơng

thức đào tạo theo hai giai đoạn là giai đoạn cơ bản ở trƣờng và giai đoạn chuyên sâu ở xí

nghiệp.

Phát triển hệ thống dạy nghề theo hƣớng mở, liên thông với đào tạo trung học chuyên

nghiệp và đào tạo kỹ sƣ thực hành, tạo điều kiện cho ngƣời lao động cổ thể tiếp tục học lên

và nâng cao trình độ. Cần có giải pháp đúng để phân luồng học sinh ngay từ lớp 9 và lớp 12

theo kết quả học tập từ khá trở lên, giảm dần tỷ lệ học sinh vào đại học, cao đẳng để tăng dần

tỷ lệ vào trƣờng dạy nghề và trung học chuyên nghiệp. Đẩy mạnh công tác hƣớng nghiệp

trong các trƣờng phổ thông, tránh sự lãng phí cho xã hội, giúp học sinh tránh đƣợc cảm giác

thất bại khi chọn nghề không đúng. Hƣớng nghiệp và dạy nghề phải phù hợp với nhu cầu xã

hội, với yêu cầu của thị trƣờng sức lao động, theo kế hoạch dự báo của Nhà nƣớc và phối hợp

chặt chẽ với các Tổ chức Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ... đảm bảo sự nỗ lực đồng bộ của

toàn xã hội. Nhà nƣớc cần có chính sách, chế độ ƣu đãi học sinh học nghề, đảm bảo nâng cao

mức thu nhập của công nhân lành nghề, cán bộ kỹ thuật bậc cao để khuyến khích thanh niên

học nghề. Ngoài ra, cũng cần tôn vinh các giá trị xã hội của ngƣời thợ, xây dựng quan niệm là

nghề nào cũng cao quí, khắc phục tâm lý coi rẻ việc học nghề, hay học nghề theo sở thích

nhất thời, do tâm lý lây lan trong thanh niên, làm mất cân đối cơ cấu lao động và thị trƣờng

sức lao động, gây lãng phí trong đào tạo.

Trong lĩnh vực này, cần thực hiện cơ chế thị trƣờng có sự trợ giúp của nhà nƣớc thực

hiện phƣơng thức đào tạo có địa chỉ, theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp, gắn với nhu

cầu của thị trƣờng sức lao động. Chú ý đào tạo những nghề mà ngƣờỉ sử dụng lao động cần

thay vì đào tạo những nghề mình sẵn có giáo

163

trình. Phải khơi đƣợc động lực từ phía ngƣời dạy, ngƣời học, ngƣời sử dụng lao động dƣới

tác động của thị trƣờng sức lao động và thị trƣờng đào tạo. Các trƣờng dạy nghề phải đẩy

mạnh "tiếp thị" đến ngƣời lao động, đến các doanh nghiệp.

Nhà nƣớc cần điều chỉnh sự phân bổ ngân sách theo hƣớng ƣu tiên hơn cho lĩnh vực

dạy nghề so với đào tạo đại học, cao đẳng. Nên giảm bớt đào tạo đại học các ngành khoa học

cơ bản để chuyển sang đào tạo nghề. Chú ý đổi mới, hiện đại hóa các trang thiết bị phục vụ

dạy nghề và cập nhật nội dung, giáo trình giảng dạy; chú trọng đặc biệt đối với các trƣờng sƣ

phạm kỹ thuật; nâng cao trình độ tiếp cận công nghệ mới cho đội ngũ giáo viên dạy nghề.

Nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, toàn dụng nhân công, Nhà nƣớc phải tăng dần tỷ

trọng chi ngân sách nhà nƣớc cho giáo dục đào tạo từ hơn 10% hiện nay lên 15% (ở các nƣớc

trong khu vực thì mức trung bình là 18 - 20%). Nhà nƣớc cần tiếp tục quy định các doanh

nghiệp sử dụng từ 30 công nhân chuyên nghiệp trở lên phải dạy một số công nhân bằng 1/10

số công nhân chuyên nghiệp; đòi hỏi các doanh nghiệp mỗi khi đổi mới công nghệ phải có

trách nhiệm thực hiện việc huấn luyện bổ sung, chịu chi phí đào tạo lại cho ngƣời lao động và

có phƣơng án sử dụng họ lại và sau 6 tháng nếu không thực hiện đƣợc việc bố trí lại thì mới

cho ngƣời lao động thôi việc. Nhƣng nếu ngƣời lao động không tiếp tục làm việc cho doanh

nghiệp thì phải hoàn trả một phần chi phí ấy, tỷ lệ nghịch với thời gian phục vụ, nhằm mục

đích giữ chân ngƣời lao động, góp phần thúc đẩy việc đào tạo nghề cho ngƣời lao động (theo

NĐ 90). Thực hiện phƣơng châm là Nhà nƣớc và nhân dân cùng làm trong sự nghiệp giáo

dục đào tạo, đảm bảo việc kết hợp giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, thực hiện

dân chủ hóa để nâng cao trách nhiệm xã hội, tạo nguồn lực tổng hợp. (Nghị quyết Hội nghị

Trung ương Đảng lần thứ 4 khóa VII đã chỉ rõ: "Đa dạng hóa các hình thức đào

164

tạo, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, người đi học phải đóng học phí, người sử

dụng lao động đã qua đào tạo phải đóng góp chi phí đào tạo").

Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa giáo dục đào lạo và dạy nghề với ba nội dung: huy

động mọi nguồn lực trong xã hội bao gồm nhân lực, vật lực và tài lực, tạo lập phong trào học

tập rộng khắp, xây dựng môi trƣờng giáo dục lành mạnh, ngăn chặn và đẩy lùi mọi ảnh

hƣởng tiêu cực đối với nhà trƣờng và thế hệ trẻ. Mặc dù giáo dục đào tạo là quốc sách hàng

đầu, Nhà nƣớc không thể tiếp tục bao cấp toàn bộ về giáo dục đào tạo trong điều kiện nền

kinh tế đa thành phần, nhƣng cần tránh xu hƣớng thƣơng mại hóa giáo dục đào tạo. Chú ý

xây dựng cơ chế tay ba giữa ngƣời đào tạo, ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động trƣớc

hết là về chi phí đào tạo, nhằm huy động các nguồn tài chính cho đào tạo nghề, giảm bớt

gánh nặng cho ngân sách (kinh phí khá cao: 4,1 triệu/hs/năm!): Nhà nƣớc đóng góp 50% kinh

phí, các doanh nghiệp, ngƣời học và các nơi đào tạo đảm nhận 50% còn lại. (Phương thức

này tương tự ở Úc, ở Pháp thì các doanh nghiệp phải đảm bảo 50%, Nhà nước chỉ chịu 35%,

địa phương 8% và 7% là dành cho quỹ thất nghiệp). Nhà nƣớc có thể xây dụng luật qui định

sự đóng góp kinh phí đào tạo nghề của các doanh nghiệp, hợp lý là từ 1,1% đến 1,5% tổng

mức tiền lƣơng của doanh nghiệp (ở Pháp là 1,5%), hình thành Quỹ đào tạo phát triển nhân

lực. Nhƣng không nên xem đây là một loại thuế, có thể làm giảm sự hấp dẫn đầu tƣ nƣớc

ngoài, mà là sự đóng góp để có đƣợc sức lao động chất lƣợng cao.

Phải huy động các nguồn đầu tƣ trong nhân dân, mở rộng hợp tác quốc tế nhằm tranh

thủ các nguồn vay, viện trợ từ nƣớc ngoài cho giáo dục đào tạo - dạy nghề. Cần có chính sách

khuyến khích các tổ chức xã hội và tƣ nhân đầu tƣ thành lập cơ sở giáo dục, dạy nghề dân

lập; nghiên cứu miễn giảm thuế dạy nghề - thuế đánh vào ngƣời nghèo. Tạo điều kiện cho

ngƣời lao động đƣợc đào tạo nghề ở nƣớc ngoài thông qua các doanh nghiệp; khuyến khích

tự đào tạo, du học tự túc.

165

Nhà nƣớc cần có chính sách tạo điều kiện về học phí, học bổng; mở ra hình thức tín

dụng học nghề, học trả góp hay trừ dần vào lƣơng cho thanh niên nghèo, bộ đội xuất ngũ;

phát huy tác dụng của quỹ bảo trợ học nghề, mạnh dạn tín chấp cho họ. Khuyến khích các

doanh nghiệp sử dụng ngƣời lao động chƣa qua đào tạo (giảm thuế doanh thu) và tạo điều

kiện để các doanh nghiệp tham gia vào việc dạy nghề, mở các trƣờng lớp bên cạnh xí nghiệp,

khu công nghiệp mở cơ sở đào tạo nghề ngắn hạn cho công nhân tham gia vào dây chuyền

lao động kỹ thuật cao.

Chú ý việc chăm sóc sức khỏe, cải thiện điều kiện nâng cao thể lực cho ngƣời lao

động, trên cơ sở đảm bảo thu nhập thực tế cho ngƣời lao động, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo

điều kiện nhà ở, đi lại, nâng cao mức sống ngƣời dân trong hiện tại và tƣơng lai. Nhà nƣớc

phải đầu tƣ cho y tế cộng đồng, coi nhƣ là một phần đầu tƣ cho cơ sở hạ tầng xã hội, hứa hẹn

chất lƣợng của nguồn lao động trong tƣơng lai

3.3.3. Các giải pháp tạo điều kiện phát triển thị trường sức lao động.

Thực tế cho thấy nơi nào kinh tế thị trƣờng phát triển, thị trƣờng sức lao động phát

huy đƣợc vai trò thì nơi đó đời sống ngƣời dân đƣợc cải thiện rõ rệt. Việt nam là một nƣớc

nghèo nàn, lạc hậu. nhiều khó khăn nhƣng lại còn tiềm năng nhân lực to lớn chƣa đƣợc phát

huy. Phát triển thị trƣờng sức lao động trong điều kiện mở cửa hiện nay ở Việt Nam là con

đƣờng tất yếu để giải quyết mâu thuẫn đó của nền kinh tế.

Thúc đẩy thị trƣờng sức lao động, làm cho nó trở nên linh hoạt hơn (sự ổn định là

tƣơng đối) chính là để tạo môi trƣờng để phát triển việc làm và sử dụng hợp lý nguồn nhân

lực xã hội. Thế nhƣng, cũng không thể để cho thị trƣờng sức lao động vận hành một cách tự

phát, mà nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà

166

nƣớc, nhằm tạo điều kiện cho thị trƣờng sức lao động phát huy tác dụng và hạn chế những

biến động của nó.

a. Thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động, lành mạnh hóa quan hệ lao động.

Tiếp tục thúc đẩy quan hệ lao động trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng nhiều thành

phần, nhằm đạt hiệu quả trong quản lý và sử dụng lao động. Đẩy mạnh thực hiện chế độ hợp

đồng lao động trong các ngành, các lĩnh vực, mở rộng trong nông nghiệp và nông thôn, giảm

thiểu phạm vi áp dụng chế độ biên chế. Mở rộng việc ký kết thỏa ƣớc lao động tập thể; nhƣng

tránh tính hình thức, không phải là trích sao y luật lao động mặc dù phải căn cứ vào đó.

Ở các đơn vị kinh tế quốc doanh, cần chú ý hoàn thiện cơ chế sử dụng sức lao động

trên cơ sở tối đa hóa hiệu quả kinh tế; sắp xếp lại lực lƣợng lao động mới có thể tăng năng

suất lao động và tăng lƣơng; tuyển dụng lao động phải phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh

doanh; phải đảm bảo trợ cấp thôi việc và trợ cấp mất việc khi cho ngƣời lao động thôi việc.

(Người sử dụng lao động phải trợ cấp mất việc được qui định tại khoản 1 điều 17, trợ cấp

thôi việc được qui định tại khoản 1 điều 42 của Luật lao động. Theo Nghị định 72CP và Nghị

định 59CP về quy chế quân lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà

nước, thì Quỹ mất việc được trích 5% phần lợi tức sau thuế).

Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Nhà nƣớc cần ban hành các quy chế về

tuyển dụng và sử dụng lao động. Sau khi tuyển dụng các doanh nghiệp phải thực hiện việc ký

kết hợp đồng lao động và cấp sổ lao động cho ngƣời lao động theo qui định. Thực tế cho thấy

ở những doanh nghiệp làm đúng quy định về hợp đồng lao động thì khi đi vào ổn định việc

sử dụng lao động sẽ ít phức tạp hơn.

167

Nhà nƣớc cần có biện pháp can thiệp để bảo vệ ngƣời lao động, bởi vì họ là đối tƣợng

yếu thế trong quan hệ lao động, chỉ có sức lao động và luôn phải chịu sức ép thất nghiệp. Tuy

nhiên, cần phải đảm bảo quyền lợi và đòi hỏi nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ lao

động, một cách công bằng, hợp lý và hài hòa; Nhà nƣớc không thể đứng về một phía, mà phải

bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của ngƣời sử dụng lao động, nhằm đảm bảo việc tái tạo

và mở rộng quan hệ lao động.

Cần tạo ra một hành lang pháp lý để Công đoàn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi

cho ngƣời lao động. Trong khu vực kinh tế nhà nƣớc, mối quan hệ giữa Công đoàn và Giám

đốc là quan hệ trực tiếp, phải tính đến quyền tự chủ sản xuất kinh doanh đƣợc thừa nhận của

giám đốc, nhƣng làm thế nào để mối quan hệ đó đạt đƣợc sự thống nhất cao. Chú ý giải quyết

thỏa đáng các yêu cầu hợp lý của ngƣời lao động ở một số doanh nghiệp nhà nƣớc không

đƣợc quyền đình công. Chú ý phối hợp thật tốt vai trò của cơ quan công quyền, đoàn thể, giới

chủ và ngƣời lao động. Phát huy vai trò của Hội đồng hòa giải ở cơ sở, Hội đồng trọng tài cấp

tỉnh để tránh dẫn đến đình công không theo luật định.

Các chủ thể trong quan hệ lao động phải góp phần hỏa giải mâu thuẫn, cùng nhau

cộng tác trên tinh thần hòa giải, đoàn kết, có trách nhiệm chung với xã hội và đất nƣớc. Nên

xây dựng tinh thần hợp tác trong quan hệ lao động, tạo cơ sở để hạn chế và giải quyết tranh

chấp lao động. Nếu chủ doanh nghiệp công khai lợi nhuận với Công đoàn, để cùng bàn bạc

về tiền lƣơng, tiền thƣởng thì lợi ích đôi bên sẽ dễ thống nhất, tranh chấp sẽ không xảy ra.

Giải quyết tranh chấp lao động chủ yếu phải bằng biện pháp hòa giải, trên cơ sở đảm bảo hài

hòa lợi ích, đáp ứng đƣợc lợi ích xã hội. Tòa án lao động cần thực hiện nguyên tắc Tòa chƣa

thụ lý khi chƣa hòa giải", ngay cả khi ra tòa cũng phải tiếp tục hòa giải.

168

Tiếp tục hoàn thiện và phát huy vai trò của hệ thống luật lao động, phù hợp với thực

tiễn của thị trƣờng sức lao động, tạo cơ sở cho quan hệ lao động đƣợc phát triển hài hòa, ổn

định và lành mạnh hóa. Qua các văn bản dƣới luật, cần làm rõ vấn đề lao động đặc thù, bao

gồm lao động nữ, lao động chƣa thành niên, lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam, lao động Việt

Nam ở nƣớc ngoài, cần tuyên truyền phổ biến pháp luật, chính sách về lao động đến các

doanh nghiệp và ngƣời lao động để họ làm theo luật và hạn chế việc đình công không đứng

pháp luật. Bên cạnh đó, cần thanh tra - kiểm tra việc thi hành pháp luật lao động, cần áp dụng

các biện pháp chế tài cần thiết đối với những trƣờng hợp vi phạm.

Điều cơ bản là nên khuyến khích, tạo điều kiện để công nhân cũng là cổ đông của

doanh nghiệp thì họ sẽ gắn bó với doanh nghiệp, quan hệ lao động sẽ đƣợc cải thiện. Mặt

khác, để bảo vệ quyền lợi của ngƣời lao động, cần phải hoàn thiện đội ngũ lao động, nâng cao

trình độ văn hóa, tay nghề cho ngƣời lao động, nêu cao ý thức kỷ luật của ngƣời lao động vốn

quen với phong cách nông dân tự do thoải mái, mới thực sự đảm bảo quan hệ lao động trở

nên hài hòa.

b. Phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của hệ thống các Trung tâm dịch vụ việc làm,

vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng, vận dụng nhiều phương thức đa dạng giúp

cung và cầu sức lao động gặp nhau, tạo ra nhiều kênh thông tin trong thị trường sức lao

động.

Các Trung tâm dịch vụ việc làm cần đƣợc củng cố, đầu tƣ để nâng cao năng lực và

chất lƣợng hoạt động, để phát triển tƣơng xứng với yêu cầu là cầu nối thật sự giữa ngƣời lao

động và ngƣời sử dụng lao động, góp phần mở rộng thị trƣờng sức lao động có tổ chức. Phát

huy chức năng của các Trung tâm với tính chất là tổ chức dịch vụ việc làm theo phƣơng thức

hoạt động sự nghiệp có thu vì mục tiêu xã hội là giải quyết công ăn việc làm, chứ không phải

vì mục tiêu kinh doanh. Hơn nữa, những ngƣời lao động tìm đến các Trung tâm là những đối

tƣợng

169

yếu thế trên thị trƣờng sức lao động, có nhu cầu bức bách về việc làm rất mong muốn đƣợc

quan tâm giúp đỡ. Nhà nƣớc cần qui định thống nhất mức thu phí dịch vụ việc làm, phí học

nghề và cần qui định thuế dịch vụ việc làm thỏa đáng hơn.

Cần nâng cao trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm cho cán bộ quản lý và đội ngũ giáo

viên; trang bị cơ sở vật chất cần thiết, đồng bộ cho các Trung tâm. Chú trọng việc quy hoạch,

sắp xếp, giảm bớt các Trung tâm dịch vụ việc làm trên từng địa bàn, tránh tình trạng cạnh

tranh làm thiệt hại cho ngƣời lao động; cần ngăn chặn tình trạng tƣ nhân núp bóng các Trung

tâm việc làm nhà nƣớc, tạo ra những cơn sốt giả để lừa đảo móc túi ngƣời lao động, gây

nhiễu loạn thông tin trên thị trƣờng sức lao động. Chú ý lành mạnh hóa mối quan hệ giữa

doanh nghiệp tuyển lao động với các Trung tâm dịch vụ cung ứng lao động, ngăn chặn việc

móc ngoặc lừa đảo ngƣời lao động, ngăn chặn tình trạng các doanh nghiệp đăng ký tuyển

dụng ở nhiều trung tâm gây ra nhu cầu giả đối với sức lao động. Các Trung tâm phải phối

hợp với các doanh nghiệp trong việc đào tạo nghề cho ngƣời lao động và mở rộng việc cung

ứng lao động cho các vùng lân cận, kể cả cho xuất khẩu lao động.

Các Trung tâm việc làm phải điều tra thu thập thông tin cần thiết và chính xác về số

lƣợng, chất lƣợng, theo giới tính, độ tuổi của ngƣời thất nghiệp; cập nhật tình hình nhu cầu

nhân sự của các doanh nghiệp, các ngành. Ngoài ra, Trung tâm còn tƣ vấn hƣớng nghiệp cho

ngƣời lao động trẻ; tƣ vấn cho các nhà quản lý sử dụng lao động về các chính sách có liên

quan đến lao động - việc làm. Các Trung tâm dịch vụ việc làm đã tổ chức thành công những

cuộc gặp gỡ, nhƣ "Hội chợ sức lao động" (hội nghị khách hàng) để tìm hiểu khả năng và nhu

cầu của ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động; tạo điều kiện để ngƣời lao động đƣợc dự

thính những cuộc phỏng vấn tuyển dụng trực tiếp, các buổi đối thoại xung quanh quan hệ chủ

- thợ, các buổi hội thảo về tranh chấp lao động, đào tạo lao

170

động, nhu cầu nhân lực, định kỳ tổ chức hội chợ sức lao động... Ngƣời lao động cần việc làm,

doanh nghiệp cần công nhân có tay nghề, trƣờng dạy nghề và trung tâm dịch vụ việc làm là

nơi đào tạo và cung ứng; đi tìm một sự liên kết liên hoàn giữa các cực nhƣ vậy là không phải

dễ, nhƣng gặp gỡ ở các hội nghị khách hàng sẽ cho phép các chủ thể có thể lạc quan hơn.

Hệ thống thông tin về thị trƣờng sức lao động, hiện đang thiếu mà không chính xác,

chƣa đáp ứng cho công tác hoạch định chính sách của Nhà nƣớc, chƣa đảm bảo yên tâm cho

nhà đầu tƣ và chƣa góp phần tạo cơ hội có việc làm cho ngƣời lao động. Phải luôn chú ý tính

hiệu quả, không nên đặt nặng vấn đề thƣơng mại hóa thông tin: cần làm cho cung - cầu sức

lao động gặp nhau với chi phí ít nhất. Nên phối hợp giữa các Trung tâm với nhau trong việc

trao đổi thông tin, nghiệp vụ và phối hợp với hệ thống thông tin đại chúng mà có hiệu quả

nhất là báo chí, phổ biến thông tin đến ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động. Chú ý phát

huy vai trò của báo chí trong việc thông tín cung - cầu việc làm, giới thiệu các chƣơng trình

hay các dự án tạo việc làm, khai thông nguồn lực lao động, bởi vì báo chí tạo mức độ thông

tin nhiều hơn, có hiệu quả hơn. Khi ngƣờỉ lao động đƣợc tự giới thiệu trên báo chí, nêu rõ

khả năng làm việc, đề xuất tiền lƣơng và các điều kiện khác, thì sẽ có nhiều thuận lợi hơn bởi

vì sẽ có nhiều ngƣời sử dụng lao động biết đến và cần sử dụng. Thông qua báo chí, ngƣời lao

động đã và đang rút ngắn khoảng cách địa lý để đến với thị trƣờng sức lao động ở những nơi

xa hơn. Ngoài ra, báo chí còn góp phần tuyên truyền, nêu gƣơng những quan hệ lao động tốt,

bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngƣời lao động và góp phần hạn chế đƣợc sự bóc lột ngƣời

lao động.

Ngoài hình thức hội chợ lao động, cần mở rộng những phƣơng thức có tác dụng tốt

nhƣ là tuần lễ nguồn nhân lực trẻ ở các trung tâm kinh tế; chiến dịch 15 ngày việc làm trên

báo chí; tự giới thiệu và tuyển dụng qua mạng máy tính nhanh

171

hơn và có hiệu quả hơn; đƣa nội dung thông tin thị trƣờng sức lao động vào trƣờng học, các

hoạt động câu lạc bộ, hoạt động của các tổ chức xã hội. cần hạn chế "chợ ngƣời" ở nông thôn

cũng nhƣ thành thị với tính chất sơ khai lại kém văn minh; nên thay thế bằng một trung tâm

giao dịch việc làm, do chính quyền địa phƣơng quản lý.

c. Nhà nước cần tạo lập môi trường pháp lý đồng bộ để hình thành và phát triển thị

trường sức lao động; phải hoạch định và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm phát

huy nguồn nhân lực, làm gia tăng nhu cầu sức lao đông, cải thiện nguồn cung sức lao động.

Không nên chỉ nhấn mạnh hay tuyệt đối hóa vai trò của thị trƣờng sức lao động, coi

nhẹ vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nƣớc mà phải kết hợp cả hai một cách hài hòa, để phát

huy nguồn vốn nhân lực của quốc gia, giảm thiểu mâu thuẫn xã hội, đảm bảo sự ổn định, cân

đối và phát triển kinh tế. Thị trƣờng sức lao động nói riêng, kinh tế thị trƣờng nói chung luôn

có tính hai mặt; cần phát huy mặt thuận lợi, tích cực, hạn chế mặt tiêu cực và hoàn thiện nó

thông qua vai trò quản lý của Nhà nƣớc. Nhà nƣớc là chủ thể đại diện cho lợi ích của xã hội,

phải đề ra các chính sách cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng sức lao động xã hội, đƣa

đến tăng trƣởng kinh tế, làm tăng thu nhập xã hội, cải thiện đời sống ngƣời dân. Nhà nƣớc

cần đảm bảo quyền tự do đi tìm việc làm (bao hàm cả quyền tự do đi lại, tự do cƣ trú) của

những ngƣời lao động và quyền tự do kinh doanh của các chủ doanh nghiệp đƣợc pháp luật

thừa nhận. Sự quản lý của Nhà nƣớc phải tạo điều kiện phát huy thị trƣờng sức lao động, tác

động vào cung và cầu sức lao động để phân bố và sử dụng lao động với hiệu quả cao, chứ

không nên cắt khúc làm cho nó bị tắc nghẽn và không nên nặng tính hình thức.

Nhà nƣớc ta đã bƣớc đầu xây dựng hệ thống pháp luật, hệ thống chính sách về lao

động phù hợp để tạo điều kiện phát triển thị trƣờng sức lao động theo

172

hƣớng linh hoạt và để lành mạnh hóa quan hệ lao động. Nhà nƣớc cần hoàn thiện các chính

sách kinh tế-xã hội ở tầm vĩ mô nhƣ chính sách thu hút và sử dụng vốn đầu tƣ, xây dựng

chiến lƣợc dân số và đào tạo nhân lực nhất là cho nông thôn; điều chỉnh chính sách tài chính

và tín dụng, chính sách đất đai... Ngoài ra là các chính sách tạo điều kiện cho thị trƣờng sức

lao động, xóa bỏ những cản trở đối với các hoạt động kinh tế nhằm tái tạo và gia tăng số

lƣợng việc làm trong nền kinh tế, nhằm mục tiêu tăng trƣởng nhanh và phát triển bền vững

nền kinh tế quốc dân. Tổ chức nghiên cứu, phân tích đánh giá tác động của các chủ trƣơng,

chính sách vĩ mô, hệ thống pháp luật đến tình hình việc làm để kiến nghị các nội dung cần

hoàn thiện. Chú ý đến việc thẩm định chỉ tiêu tạo việc làm mới và giảm chỗ làm việc trong

các kế hoạch Nhà nƣớc, các chƣơng trình, dự án.

Phải hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý nhà nƣớc, gắn với cải cách hành chính; phối

hợp giữa các ngành, các địa phƣơng và cơ sở; kết hợp sử dụng biện pháp hành chính chế tài

với biện pháp kinh tế; để có thể làm tốt những phƣơng hƣớng và nhiệm vụ nêu trên. Trong

công tác hƣớng nghiệp, ngành Lao động -Thƣơng bỉnh và Xã hội với chức năng và nhiệm vụ

của mình phải là cơ quan nghiên cứu tổng hợp; cùng với các ngành Giáo dục - Đào tạo, Văn

hóa - Thông tin, các Đoàn thể quần chúng tổ chức thực hiện tƣ vấn nghề nghiệp một cách

rộng rãi. Nhà nƣớc cần tạo điều kiện để xây dựng và phát triển tổ chức Công đoàn đến từng

doanh nghiệp, chú ý đào tạo cán bộ Công đoàn ở cơ sở, nhất là trong các doanh nghiệp liên

doanh với nƣớc ngoài và doanh nghiệp tƣ nhân.

Nhà nƣớc cần tiếp tục thực hiện cải cách hệ thống tiền lƣơng, giải quyết những bất

hợp lý, không khả thi về thang bảng lƣơng hiện nay; phải xem lại hệ số chênh lệch giá trị sức

lao động giản đơn và giá trị sức lao động phức tạp. Tiền lƣơng vừa dựa trên giá dị sức lao

động, theo quan hệ cung - cầu trên thị trƣờng sức lao động; vừa bảo đảm yêu cầu của nguyên

tắc phân phối theo lao động, đảm

173

bảo tái sản xuất sức lao động, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cơ bản của ngƣời lao động. Mức

lƣơng bình quân hiện nay khá thấp cần đƣợc điều chỉnh tăng để tiền lƣơng thực sự trở thành

bộ phận chủ yếu trong thu nhập của ngƣời lao động; nhƣng cần phải đảm bảo tính hợp lý, để

duy trì lợi thế sức lao động giá rẻ của nƣớc ta và về lâu dài tiền lƣơng tăng phải trên cơ sở

nâng cao năng suất lao động.

Chú ý sử dụng tiền lƣơng làm đòn bẩy kinh tế quan trọng để kích thích tính tích cực,

phát huy tài năng sáng kiến, tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình của ngƣời lao động, điều tiết

lao động trong xã hội nhất là lao động có trình độ chuyên môn đến vùng sâu vùng xa, tạo

động lực cho phát triển kinh tế. Tiền lƣơng của ngƣời lao động mặc dù đƣợc xác định lúc

tuyển dụng, nhƣng cần phải thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động bằng cách đảm bảo

một mức tiền thƣởng thỏa đáng, rõ ràng trích từ lợi nhuận căn cứ vào năng suất, hiệu quả và

những sáng kiến cải tiến sinh lợi. Điều quan trọng là Nhà nƣớc phải tăng cƣờng quản lý kinh

tế tài chính, cải cách hệ thống thuế, bình ổn giá cả, cân đối cung - cầu từng sản phẩm kết hợp

với cân đối cơ cấu lao động, kiểm soát lạm phát nhằm đảm bảo tiền lƣơng thực tế đủ sống

cho ngƣời lao động,

Nhà nƣớc qui định tiền lƣơng tối thiểu hợp lý nhằm tạo chuẩn mực cho quan hệ lao

động và điều tiết thị trƣờng sức lao động, giúp ngăn chặn, giảm bớt tình trạng bóc lột sức lao

động, bởi vì đây là công cụ để ngƣời lao động đấu tranh với ngƣời sử dụng lao động. Nhà

nƣớc chỉ nên quản lý mức lƣơng tối thiểu, không khống chế mức lƣơng tối đa ở các doanh

nghiệp; để hạn chế những cách biệt quá đáng trong thu nhập, chỉ nên điều tiết bằng thuế thu

nhập.

Cần tiếp tục điều chỉnh đảm bảo tính hợp lý của thang bảng lƣơng theo Nghị định

28CP trên cơ sở đổi mới cơ chế tài chính, có tham khảo thị trƣờng, theo định mức lao động,

đơn giá tiền lƣơng và phụ thuộc vào mức lợi nhuận thu đƣợc (hiệu quả sản xuất kinh doanh)

của doanh nghiệp. Việc cải cách tiền lƣơng trong

174

khu vực Nhà nƣớc phải tiến hành đồng thời với việc sắp xếp lại tổ chức, biên chế, cải cách

hành chính; nhƣng đảm bảo đãi ngộ theo hiệu quả công việc, giảm bớt sự bất hợp lý và sự

phức tạp của hệ thống phụ cấp, để không chỉ áp dụng cho khu vực Nhà nƣớc, mà còn ảnh

hƣởng chi phối đến các khu vực khác, đến mặt bằng tiền lƣơng trên thị trƣờng sức lao động.

Cần có cơ chế trả lƣơng thích hợp cho các đơn vị sự nghiệp có làm dịch vụ nhƣ giáo

dục, y tế. "Nhà nƣớc sẽ qui định và công khai mức dịch vụ phí để quản lý chặt chẽ nguồn thu

này và điều phối vào việc chi trả lƣơng một cách hợp lý để giảm bớt gánh nặng ngân sách".

(Đỗ Quang Trung, Bộ trưởng, Trưởng ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ; Bảo Tuổi trẻ

24/8/1999).

Chú trọng nghiên cứu tiền lƣơng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài,

nhằm bảo vệ quyền lợi của ngƣời lao động và ngăn chặn tình trạng hút lao động tay nghề cao

trong khu vực nhà nƣớc. Nhà nƣớc cần hƣớng dẫn các doanh nghiệp xây dựng phƣơng án

tính lƣơng, định mức lao động, dựa trên năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh và

đảm bảo tái sản xuất sức lao động cho ngƣời lao động. Nhà nƣớc nên giao cho Công đoàn

ngành tiến hành xây dựng định mức lao động chuẩn (đúng hơn so với giao cho từng doanh

nghiệp tự làm) và tiền lƣơng tối thiểu ngành từ thực tế các doanh nghiệp quốc doanh, để áp

dụng vào các thành phần kinh tế khác.

Nhà nƣớc cần hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội, mở rộng cho đối tƣợng bắt buộc

và cả đối tƣợng tự nguyện khác, nhƣ lao động ở khu vực không chính thức ở thành thị và đặc

biệt là nông dân. Cần thực hiện cơ chế hợp đồng giữa bảo hiểm xã hội với ngƣời lao động.

Cần sớm ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp.

175

Kết luận chương 3:

Trong chƣơng này, luận án đã đề cập đến chiến lƣợc phát triển nguồn nhân lực và

chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam đến năm 2020.

Luận án còn đi sâu phân tích và nêu lên các giải pháp để thúc đẩy các bộ phận của thị

trƣờng sức lao động ở Việt Nam theo từng khu vực: thị trƣờng sức lao động ở nông thôn và

vùng ven biển, thị trƣờng sức lao động thành thị và thị trƣờng sức lao động liên thông với

nƣớc ngoài.

Ngƣời viết luận án cho rằng các thị trƣờng sức lao động ấy không tách rời nhau, ranh

giới giữa chúng chỉ là tƣơng đối. Cho nên nhằm mục tiêu sử dụng và phát huy thế mạnh về

lực lƣợng lao động của nƣớc ta, luận án đã nêu lên các giải pháp xuyên qua các thị trƣờng sức

lao động ấy, đó là các giải pháp tăng cầu sức lao động, tạo việc làm - giải pháp cấp bách

trƣớc mắt, các giải pháp cải thiện nâng cao chất lƣợng nguồn cung sức lao động và các giải

pháp tạo điều kiện cho thị trƣờng sức lao động - những giải pháp vừa trƣớc mắt vừa lâu dài.

176

KẾT LUẬN

1. Đất nƣớc ta đang bƣớc vào kỷ nguyên công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh

quốc tế hóa quan hệ kinh tế với những thuận lợi và khó khăn to lớn. Từ một nền kinh tế chủ

yếu là nông nghiệp lạc hậu, với hai nguồn vốn quý giá là lao động và đất đai, việc lựa chọn

một chiến lƣợc phát triển với các bƣớc đi thích hợp, để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo ở

trong nƣớc và rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với thế giới là vô cùng quan trọng. Trong

chiến lƣợc ấy, thị trƣờng sức lao động có vị trí trọng yếu, bởi vì nó gián tiếp giúp nguờỉ lao

động có việc làm và thu nhập, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế - xã hội.

2. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra những yêu cầu mới về số lƣợng, cơ

cấu và chất lƣợng cao của nguồn nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực, phát triển con ngƣời

vừa là mục tiêu vừa là động lực quan trọng nhất của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa;

mục tiêu đó có vị trí trung tâm trong chiến lƣợc ổn định và phát triển kỉnh tế - xã hội của

nƣớc ta đến năm 2010. Nhằm mục đích phát huy và sử dụng có hiệu quả tiềm năng nhân lực -

nguồn lực quý nhất và to lớn nhất của đất nƣớc, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã

hội, việc mở rộng, phát triển thị trƣờng sức lao động ngày càng là một yêu cầu đặt ra một

cách bức thiết. Hƣớng tới mục đích nhận thức và phát huy nguồn vốn nhân lực dồi dào, tiềm

tàng của đất nƣớc, luận án đã đặc biệt quan tâm nghiên cứu vai trò của sức lao động và thị

trƣờng sức lao động trên nhiều phƣơng diện.

3. Đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta về phát triển nền kinh tế thị trƣờng

nhiều thành phần, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nƣớc, đã định hƣớng phát triển cho thị trƣờng sức lao động nƣớc ta trong thời kỳ tới.

Vấn đề đặt ra lớn nhất trong chiến lƣợc phát triển

177

nguồn nhân lực là cơ cấu lao động xã hội phải luôn phù hợp với cơ cấu kinh tế trong từng

bƣớc phát triển (gắn sự chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội với sự thay đổi của cơ cấu kinh

tế) và cần nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực để nâng cao hàm lƣợng chất xám trong sản

phẩm, làm gia tăng sức canh tranh của nền kinh tế.

4. Luận án đã góp phần tìm ra lời giải đáp đối với thị trƣờng sức lao động theo định

hƣớng xã hội chủ nghĩa - một vấn đề chƣa đƣợc nghiên cứu một cách đầy đủ. Đối với một

quốc gia đang phát triển, khi mà mức thu nhập bình quân còn chƣa cao thì việc đầu tiên để

thu hẹp khoảng cách giàu nghèo là làm thế nào để ngƣời lao động có việc làm và thu nhập, từ

đó sẽ cải thiện sức mua xã hội, phát triển sản xuất và đầu tƣ, thúc đẩy tăng trƣờng kinh tế - xã

hội. Đây không chí là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội, bởi vì chúng ảnh hƣởng trực

tiếp đến mức sống của ngƣời dân, liên quan trực tiếp đến tình trạng nghèo đói trong xã hội, vì

mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng văn minh.

5. Luận án đã bƣớc đầu giải đáp vấn đề phát huy vai trò của thị trƣờng sức lao động

để tạo điều kiện cho các cơ hội việc làm trong xã hội, giải quyết tình trạng thất nghiệp một

cách có hiệu quả nhất Việc giảm dần sức ép của cung sức lao động về lâu dài chỉ có thể thực

hiện thông qua chính sách dân số. Duy trì mức lƣơng thấp để góp phần giải quyết nạn thất

nghiệp là biện pháp không tích cực, mặc dù sẽ thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài nhiều hơn, nhƣng

đời sống ngƣời lao động sẽ không đƣợc cải thiện. Nhà nƣớc cần phải xây dựng cơ chế quản

lý vĩ mô với hệ thống đồng bộ các chính sách và hệ thống pháp luật, nhằm kích thích đầu tƣ,

gia tăng nhu cầu sử dụng sức lao động. Tăng cƣờng cho giáo dục đào tạo, cải thiện chất

lƣợng nguồn cung sức lao động là giải pháp có ý nghĩa trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài, bởi vì

hiện nay lụt lƣợng lao động trẻ chiếm tỷ lệ lớn trong lực lƣợng lao động. Phát triển thị trƣờng

sức lao động ở Việt nam cần có sự tác động mạnh mẽ cả vào cung và vào cầu sức lao động

nhằm tạo ra trạng thái cân bằng tích cực.

178

thống đồng bộ các chính sách và hệ thống pháp luật, nhằm kích thích đầu tƣ, gia tăng nhu cầu

sử dụng sức lao động. Tăng cƣờng cho giáo dục đào tạo, cải thiện chất lƣợng nguồn cung sức

lao động là giải pháp có ý nghĩa trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài, bởi vì hiện nay lực lƣợng lao

động trẻ chiếm tỷ lệ lớn trong lực lƣợng lao động. Phát triển thị trƣờng sức lao động ở Việt

Nam cần có sự tác động mạnh mẽ cả vào cung và vào cầu sức lao động nhằm tạo ra trạng thái

cân bằng tích cực.

Nhƣ vậy, thị trƣờng sức lao động đang thực sự tồn tại ở Việt Nam. Sự hình thành và

phát triển thị trƣờng sức lao động, bản thân nó không phải là một việc cần ngăn chặn mà

ngƣợc lại nó còn có tác dụng thúc đẩy sự tăng trƣởng của nền kinh tế, đồng thời phát huy vai

trò của nhân tố con ngƣời trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

179

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Đặng Danh Ánh - "Dạy nghề nỗi lo còn đó", Báo Nhân dân, ngày 15/12/1997.

(18)

2.

David Begg, Stanley FPischer, Rudiger Dornbusch - "Kinh tế học", Nhà xuất

bản giáo dục, Hà Nội, 1992, Tập 1, Tập 2.

3.

Nguyễn Hồng Chƣơng - "Tiếp cận mục tiêu xã hội chủ nghĩa theo tƣ tƣởng Hồ

Chí Minh", Thông tin lý luận số 5/99, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh.

4. Mai Ngọc Cƣờng - "Lịch sử các học thuyết kinh tế", Nhà xuất bản Thống kê,

Hà nội, 1995. (5) (6)

5.

Nguyễn Văn Dần - "Thị trƣờng sức lao động - những mâu thuẫn và giải pháp",

Tạp chí Lao động và xã hội số 4/96.

6.

Đỗ Lộc Diệp chủ biên - "Chủ nghĩa tƣ bản ngày nay", Nhà xuất bản Khoa học

Xã hội, Hà Nội, 1991.

7.

Đỗ Lộc Diệp - "Chủ nghĩa tƣ bản ngày nay: Nhà nƣớc, tính vô chính phủ và sự

tự điều khiển của nền kinh tế", Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 6,

tháng 12/1992. (4)

8.

Phạm Tất Dong - "Khoa học xã hội và nhân văn, mƣời năm đổi mới và phát

triển", Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội, 1997.

9.

Đặng Quang Điều, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam - "Cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nƣớc, ngƣời lao động không mất việc làm", Tạp chí Lao động &

Xã hội số tháng 7/1998. (21)

10. Nguyễn Minh Đƣờng (chủ biên) - "Bồi dƣỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân

lực trong điều kiện mới", Đề tài KX - 97-14, Hà Nội, 1996. (17)

180

11. Trần Thanh Hà, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Tranh chấp lao động tập thể...

những kiến nghị và giải pháp", Tạp chí Lao động & Xã hội số chuyên đề III/l 998.

(26)

12. Trần Kim Hải - "Đào tạo công nhân lành nghề - thực trạng và những vấn đề

cần giải quyết", Thông tin lý luận số 4/99. (16)

13. Trần Kim Hải - "Đặc điểm và biện pháp tạo lập sự cân bằng cung cầu sức lao động ở

nƣớc ta", Tạp chí Kinh tế và dự báo số 7/96.

14. Nguyễn Thị Hằng - "Phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam đến năm 2020", Tạp chí

Cộng sản số 7, tháng 4/1999. (14)

15. Nguyễn Thị Hằng - "Những giải pháp thực hiện Chƣơng trình xóa nghèo và giải quyết

việc làm", Tạp chí Lao động & Xã hội số tháng 4/1999. (22), (23), (24), (37).

16. Vũ Văn Hân, Trần Bình Trọng - "Kinh tế thị trƣờng - Lý luận, thực tiễn và vận dụng

ở Việt Nam", Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1993.

17. Nguyễn Quang Hiển - "Thị trƣờng lao động, thực trạng và giải pháp", Nhà xuất bản

Thống kê, Hà Nội, 1995. (38)

18. Nguyễn Quang Hiển - "Công tác giáo dục và đào tạo kỹ thuật nghề nghiệp của

Australia". Thông tin thị trƣờng lao động số 6/1998. (35)

19. Mã Hồng, Tôn Thƣợng Thanh, Lƣu Quốc Quang, Ngô Kính Liễn, Tạ Mục -"Kinh tế

thị trƣờng xã hội chủ nghĩa", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

20. Iuan Luxtxiui - "Cải cách lao động, tiền lƣơng ở Trung Quốc", Tạp chí Thông tin lý

luận, số 5/1992, Viện Mác - Lênin.

21. Phạm Khiêm ích, Nguyên Đình Phan - "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

và các nƣớc trong khu vực", Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 1995.

181

John Maynard Keynes - "Lý thuyết tổng quát", Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1994. 22.

23. Lê Quốc Khánh "Di dân với vấn đề dân số và phát triển Tạp chí Cộng sản số 9, tháng

5/1999.

24. Tôn Sĩ Kính - "Các giải pháp và chính sách bảo đảm dân số nội thành hiện hữu của

Thành phố Hồ Chí Minh", Viện kinh tế Thành phố HCM, 1998.

25. Mạc Tuấn Linh - "Quỹ Bảo hiểm xã hội - thực trạng và xa hƣớng", Tạp chí Lao động

& Xã hội số tháng 8/98. (30)

26. Phạm Ngọc Lộc - "Cần tiếp tục cải cách tiền lƣơng khu vực hành chính sự nghiệp",

Tạp chí Lao động - Xã hội số tháng 5/1999. (29)

27. Nguyên Văn Luân - "Kinh tế học vĩ mô", "Kinh tế học vi mô", Nhà xuất bản Thống

kê. 1995.

28. Các Mác - "Tiền công, Giá cả và Lợi nhuận", Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1956.

29. Các Mác, Ăng-ghen - "Bàn về tổ chức lao động". Nhà xuất bản sự thật. Hà Nội, 1971.

30. Mác Ăng-ghen toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, trang 1026. ( 1 ),

trang 1027 (2), trang 1030 (3).

31. Các Mác - Tƣ bản, quyển Nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơva, 1984.

32. Nguyễn Lê Minh - "Về sự tƣơng thích của đào tạo nghề và thị trƣờng lao động", Tạp

chí Lao động và xã hội số 141, tháng 8/1998.

33. Nguyễn Bá Ngọc - Thị trƣờng lao động Việt Nam, thực trạng và định hƣớng phát

triển Tạp chí Lao động và xã hội số 8/97.

34. Nguyễn Bá Ngọc – “Thất nghiệp ở nƣớc ta: hình thức và bản chất", Tạp chí Lao động

& Xã hội số tháng 4/1998. (7)

182

35. Nguyễn Bá Ngọc - "Một số vấn đề phƣơng pháp luận trong nghiên cứu, hoạch định

chính sách chống thất nghiệp", Thông tin thị trƣờng lao động số 3/1998. (8)

36. Nguyễn Bá Ngọc - "Cần sớm có chính sách bảo hiểm thất nghiệp", Tạp chí Lao động

- Xã hội số tháng 4/1999. (31)

37. Nguyễn Bá Ngọc - "Một số ý kiến về hƣớng đi cho công tác dạy nghề, Tạp chí Lao

động & Xã hội số tháng 10/1998. (34)

38. Ivan Nontrep - "Tiến bộ kỹ thuật và sức lao động trong nông nghiệp", Nhà xuất bản

Nông nghiệp, Hà nội, 1984.

39. Vũ Oanh - "Để giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ thật sự là quốc sách hàng

đầu", Tạp chí Khoa học xã hội số 31, tháng 1/1997.

40. Dƣơng Bá Phƣợng, Nguyễn Minh Khải - "Kinh tế thị trƣờng và định hƣớng xã hội

chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản số 18, tháng 9/1998. (13)

41. Trƣơng Văn Phúc, Trung tâm thông tin thống kê Lao động và Xã hội - "Kết quả điều

tra lao động và việc làm 1996, 1997", Tạp chí Lao động và Xã hội số tháng 4/1998.

(20), (36).

42. Joseph Putti - "Ảnh hƣởng của chuyển giao công nghệ đối với thực tiễn quản lý nguồn

dự trữ con ngƣời", Chiến lƣợc quản lý và kinh doanh (tập 2), Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia, Hà Nội, 1996.

43. Đào Duy Quát - "Một số suy nghĩ về đảng viên làm kinh tế tƣ bản tƣ nhân", Thông tin

lý luận số 2/1996.

44. Nguyễn Duy Quý - "Khoa học xã hội và nhân văn trong mƣời năm đổi mới", Nhà

xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998.

45. Đ.I.Rô-den-be - "Giới thiệu Quyển 1 Bộ Tƣ bản của Các Mác", Nhà xuất bản Sự thật

Hà Nội, 1976.

46. Paula Samuelson - "Kinh tế học", Viện quan hệ quốc tế, 1989.

183

47. Đặng Đức San - "Tìm hiểu Luật lao động Việt nam", Nhà xuất bản Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, 1996.

48. Lê Văn Sang - "Ảnh hƣởng của cách mạng khoa học kỹ thuật đối với chủ nghĩa tƣ bản

ngày nay” Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991.

49. Nguyễn Quốc Tế - "Lao động, Việc làm - nguồn lực cơ bản của nƣớc ta", Tạp chí

phát triển kinh tế số 76, tháng 2/ 1997.

50. Lê Thi - "Phát triển các ngành dịch vụ và cách tiếp cận giới trong việc sử dụng nhân

lực ở nƣớc ta Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 9, tháng 12/1995.

51. Lƣu Đạt Thuyết - "Dân số và bảo đảm việc làm", Tạp chí Cộng sản số 5, tháng

3/1999.

52. Hà Quý Tình - "Thị trƣờng sức lao động - thực trạng và giải pháp", Tạp chí Lao động

& Xã hội số tháng 10/1998.

53. Kim Ngọc Trâm - "Phân tích và dự báo thị trƣờng lao động Việt Nam", Thông tin thị

trƣờng lao động số 10/1997. (25)

54. Trần Văn Từng, Lê Ái Lâm - "Phát triển nguồn nhân lực - Kinh nghiệm thế giới và

thực tiễn nƣớc ta", Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, ỉ996. (19)

55. Eiko Shinotsuka "Chế độ mƣớn ngƣời ở Nhật", Tài liệu Hội thảo "Kinh nghiệm của

Nhật Bản về quản lý doanh nghiệp", Đại học Kinh tế TPHCM, 1993.

56. Okuhira Yasuhiro - "Chính trị và kinh tế Nhật Bản Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,

Hà Nội, 1994, trang 178 - 189.

57. "Các Mác Ăng-ghen tuyển tập", Tập 3, Nhà xuất bản Sự thật, 1982, trang 89 -135.

58. "Con ngƣời và nguồn lực con ngƣời trong phát triển" - Viện Thông tin khoa học xã

hội, Hà Nội, 1995.

184

59. "Hồ Chí Minh toàn tập", Nhà xuất bảo Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; (9) tập 1:

trang 464, 465; (10) tập 4, trang 161; (11) tập 10, trang 17; (12) tập 4, trang 341.

60. "Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1996.

61. "Luật Lao động và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động", Nhà xuất

bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.

62. "Một số đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tƣ bản hiện đại", Nhà xuất bản Sự thật, Hà

Nội 1992.

63. "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng

ở nƣớc ta ", Trung tâm thông tin công tác tƣ tƣởng, Hà Nội, 1993.

64. "Nghiên cứu tổng thể về đào tạo, giáo dục và phân tích nhân lực", Dự án Quốc gia

VIE 89/92, Hà Nội, 1992.

65. Niên giám thống kê Lao động - Thƣơng binh và Xã hội năm 1995. (15)

66. Pháp lệnh về giải quyết tranh chấp lao động (11/4/97) và NĐ 58CP (31/5/97). (27)

67. "Quyết định 217 - HĐBT và hƣớng dẫn thực hiện", Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,

1988.

68. Quyết định 126 ngày 11 tháng 7 năm 1998 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc phê

duyệt Chƣơng trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2000. (39)

69. Quyết định 133 ngày 23 tháng 7 năm 1998 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc phê

duyệt Chƣơng trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo trong giai đoạn 1998-

2000.(40)

70. Tạp chí Lao động - Xã hội số tháng 8/1998. (28)

71 Tạp chí Lao động - Xã hội số tháng 5/1999. (32), (41).

72. Thông tin thị trƣờng lao động số 10/1997, "Báo cáo phát triển thế giới 1996",

Hoàng Anh Thƣ lƣợc dịch. (33)

185

"Thực trạng Kinh tế xã hội Việt nam giai đoạn 1986 - 1990", Tạp chí Thống kê - Hà 73.

Nội, 1990.

74. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời và về chính sách xã hội", Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia, Hà Nội, 1996.

75. "Việt Nam cải cách kinh tế theo hƣớng rồng bay", Viện phát triển quốc tế Harvard,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.

76. "Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII", Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia, Hà Nội, 1996.

77. "Vấn đề con ngƣời trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá", Nhà xuất bản

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.

78. "Vấn đề nghèo ở Việt Nam", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang

88-110.

79. Reynolds, Masters, Moser - "Labor Economics and Labor Reỉatioas", Prentice - Hall,

1986, trang 3 -12.

186