Nguyễn Kiến Thọ<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
96(08): 199 - 204<br />
<br />
THƠ CA HMÔNG VÀ NHỮNG MẠCH NGUỒN CẢM HỨNG<br />
Nguyễn Kiến Thọ*<br />
Truờng Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Thơ ca Hmông đã khắc họa một cách rõ nét và sinh động cuộc sống và số phận của dân tộc<br />
Hmông từ quá khứ đến hiện tại, từ số phận cá nhân đến số phận cộng đồng. Thông điệp nghệ thuật<br />
mang tính tư tưởng đó được biểu hiện thông qua những phức điệu cảm hứng- những phức điệu tâm<br />
hồn Hmông, từ cảm hứng cảm thương- bi kịch đến cảm hứng trữ tình- ngợi ca và cảm hứng suy<br />
tư- chiêm nghiệm. Chúng ta nhận thấy trong thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại một diện<br />
mạo tâm hồn Hmông đầy cá tính và bản sắc.<br />
Từ khóa: Dân tộc Hmông, thơ ca, cảm hứng, đổi mới, hiện đại…<br />
<br />
Trong bức tranh toàn cảnh của văn học các<br />
dân tộc thiểu số Việt Nam, dù chỉ chiếm một<br />
vị trí khiêm tốn, vẫn phải thừa nhận rằng, dân<br />
tộc Hmông (Hmôngz) có một kho tàng thơ ca<br />
phong phú và độc đáo. Đó là sản phẩm tinh<br />
thần của một dân tộc được nuôi dưỡng và<br />
phát triển trong một nền văn hoá giàu truyền<br />
thống và bản sắc. Từ những truyện thần thoại,<br />
truyện cổ tích, tục ngữ, câu đố, những bài dân<br />
ca... đến sáng tác của những nhà thơ Hmông<br />
thời kì hiện đại là một quá trình lao động sáng<br />
tạo của cả một dân tộc và của từng cá nhân,<br />
để góp phần tạo ra một nguồn thơ Hmông đặc<br />
sắc, phản ánh chân thực và sinh động đời<br />
sống lao động sản xuất, đời sống văn hoá-tinh<br />
thần, đời sống tâm linh...của dân tộc này.*<br />
Nhìn từ phương diện nội dung phản ánh, thơ<br />
ca dân tộc Hmông mang những nét đặc trưng<br />
riêng: Đó là quá trình mở rộng đề tài, chủ đề<br />
gắn liền với sự đổi thay, phát triển trong đời<br />
sống cộng đồng; đó là quá trình tiếp biến của<br />
những phức điệu cảm hứng nghệ thuật; đó<br />
còn là sự vận động, phát triển của năng lực<br />
nhận thức về thế giới và con người. Đời sống<br />
tinh thần, vật chất, những nét bản sắc văn hóa,<br />
tâm hồn dân tộc Hmông được hiển lộ qua một<br />
nền thơ ca từ truyền thống đến hiện đại.<br />
Nghiên cứu thơ ca Hmông dưới góc độ cảm<br />
hứng nghệ thuật sẽ góp phần làm nổi bật<br />
những âm hưởng chủ đạo trong giai điệu tâm<br />
hồn của dân tộc Hmông. Mặt khác, sẽ góp<br />
phần lí giải một vấn đề mang tính qui luật<br />
*<br />
<br />
Tel: 0983 677111, Email: nguyenkientho@gmail.com<br />
<br />
trong thơ ca- đó là quá trình hình thành, tiếp<br />
biến và phát triển của các phức điệu cảm<br />
hứng nghệ thuật. Nó không chỉ mặc định<br />
những đặc trưng bản sắc trong thơ ca của dân<br />
tộc Hmông bên cạnh thơ ca của các dân tộc<br />
thiểu số khác, mà còn góp phần nhận diện<br />
một gương mặt tâm hồn dân tộc Hmông đầy<br />
cá tính và bản lĩnh.<br />
Cho đến nay, những thành quả ban đầu trong<br />
nghiên cứu về dân tộc Hmông chủ yếu vẫn là<br />
hướng tiếp cận trên các phương diện văn hoá<br />
học, ngôn ngữ học và dân tộc học với các<br />
công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu có<br />
tên tuổi như: Đặng Nghiêm Vạn, Lê Trung<br />
Vũ, Cư Hoà Vần, Trần Hữu Sơn, Đỗ Đức<br />
Lợi, Trần Trí Dõi...Tuy nhiên, việc nghiên<br />
cứu về văn học nói chung và thơ ca nói riêng<br />
của dân tộc Hmông vẫn còn hết sức khiêm<br />
tốn, thiếu sự đồng bộ và chưa toàn diện. Hầu<br />
như các nhà nghiên cứu mới chỉ hướng sự chú<br />
ý vào mảng thơ ca dân gian Hmông (chủ yếu<br />
là dân ca), còn mảng thơ ca Hmông thời kì<br />
hiện đại cho đến nay vẫn chưa thật sự được<br />
quan tâm. Theo khảo sát của chúng tôi, cho<br />
đến thời điểm hiện tại, hầu như chưa có một<br />
công trình, bài viết nào tập trung nghiên cứu<br />
về thơ ca Hmông dưới góc độ cảm hứng nghệ<br />
thuật, có chăng, vấn đề cảm hứng chỉ có thể<br />
được nhắc đến với tư cách là một trong những<br />
yếu tố góp phần thể hiện nội dung/chủ đề của<br />
thơ ca Hmông. Đáng chú ý là các bài viết tiêu<br />
biểu: "Tiếng hát làm dâu, tiếng hát yêu<br />
thương, tiếng hát căm hờn, ngàn đời của<br />
người phụ nữ Mèo" của Tô Hoài (Tạp chí Văn<br />
học, số 2, 1965), "Tâm hồn và tiếng hát<br />
199<br />
<br />
Nguyễn Kiến Thọ<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Hmông" cuả Chế Lan Viên (Lời giới thiệu<br />
cuốn Dân ca Hmông, Nxb Văn học, 1984).<br />
Đây là những gợi ý quan trọng để chúng tôi<br />
nảy sinh ý tưởng và những luận điểm khoa<br />
học cho bài viết này.<br />
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: "Cảm hứng là<br />
trạng thái tâm lí đặc biệt khi sức chú ý được<br />
tập trung cao độ kết hợp với cảm xúc mãnh<br />
liệt, tạo điều kiện cho óc tưởng tượng và năng<br />
lực sáng tạo hiệu quả nhất"[1]. Từ trước đến<br />
nay, có nhiều ý kiến khác nhau về việc định<br />
danh và phân loại cảm hứng. Ý kiến của<br />
N.Pôxpôlôv trong Dẫn luận nghiên cứu văn<br />
học chia cảm hứng làm 6 loại: Cảm hứng anh<br />
hùng ngợi ca, cảm hứng kịch tính, cảm hứng<br />
lãng mạn, cảm hứng cảm thương, cảm hứng<br />
bi kịch và cảm hứng trào phúng [2]. Nhà<br />
nghiên cứu Phương Lựu chia cảm hứng làm 3<br />
loại: cảm hứng lịch sử dân tộc, cảm hứng thế<br />
sự và cảm hứng đời tư [3]. Về cơ bản, chúng<br />
tôi tán đồng với cách phân loại như trên. Tuy<br />
nhiên, trong một tác phẩm văn học nhất định,<br />
có hiện tượng phổ biến là các loại cảm hứng<br />
nói trên không tồn tại độc lập, mà kết hợp,<br />
đan xen lẫn nhau. Do vậy, khi xem xét đối<br />
tượng cụ thể là thơ ca dân tộc Hmông từ<br />
truyền thống đến hiện đại, chúng tôi chủ<br />
trương phân loại và định danh các phức hợp<br />
cảm hứng gắn liền với các giai đoạn lịch sử<br />
nhất định và với sự vận động, phát triển của<br />
thơ ca Hmông: Từ cảm hứng cảm thương-bi<br />
kịch, đến cảm hứng trữ tình- ngợi ca và bao<br />
trùm lên tất cả là cảm hứng suy tư- chiêm<br />
nghiệm như là một nét đặc trưng trong việc<br />
biểu hiện lối tư duy, cách diễn đạt mang đậm<br />
bản sắc Hmông.<br />
Từ cảm hứng cảm thương- bi kịch...<br />
Cảm hứng cảm thương- bi kịch là những rung<br />
động mãnh liệt của cảm xúc, bộc lộ sự thương<br />
cảm sâu sắc của các tác giả trước những vấn<br />
đề hiện thực nghiệt ngã, mang tính bi kịch của<br />
xã hội. Đây là cảm hứng chủ đạo trong thơ ca<br />
dân gian Hmông cũng như thơ ca của các dân<br />
tộc thiểu số khác trước Cách mạng.<br />
Trong xã hội cũ, và xa hơn nữa, từ các cuộc<br />
thiên di trong lịch sử, hành trình cuộc sống<br />
của người Hmông là hành trình của những nỗi<br />
buồn triền miên từ thực tại và những ám ảnh<br />
200<br />
<br />
96(08): 199 - 204<br />
<br />
nặng nề trong quá khứ. Đời sống du canh du<br />
cư đầy bất ổn, những niềm tin bị đánh cắp,<br />
những ước mơ bị vùi dập... đã khiến cho<br />
người Hmông sống khép lòng mình, ít cởi mở<br />
và giao lưu. Vì vậy, thơ Hmông truyền thống<br />
chủ yếu được viết theo lối giãi bày tâm trạng<br />
và âm điệu chủ đạo của nó là tiếng than. Nói<br />
cách khác, đó là sự biểu hiện của cảm hứng<br />
cảm thương- bi kịch. Toàn bộ truyện thơ của<br />
người Hmông là điệp khúc của những éo le và<br />
khổ đau bất tận. Trong dân ca Hmông, với 5<br />
mảng đề tài chính thì chỉ có Tiếng hát tình<br />
yêu (gầu plềnh) còn có chút le lói của niềm<br />
vui, của niềm hy vọng vào một thứ hạnh phúc<br />
vốn còn quá mong manh, một cách xa xăm<br />
mơ hồ, bên cạnh những giai điệu trầm buồn,<br />
ám ảnh, day dứt, ngân vang của Tiếng hát làm<br />
dâu (gầu ua nhéng), Tiếng hát mồ côi (gầu tú<br />
giua) và cả Tiếng hát cúng ma (gầu tuờ).<br />
Cảm hứng cảm thương- bi kịch trong thơ ca<br />
Hmông là sự soi chiếu những bi kịch cay<br />
đắng nghiệt ngã của dân tộc Hmông từ trong<br />
lịch sử. Đó là bi kịch của số phận dân tộc, số<br />
phận cộng đồng và số phận cá nhân với tất cả<br />
những hệ luỵ của nó.<br />
Lịch sử của người Hmông là lịch sử của các<br />
cuộc thiên di và những cuộc đấu tranh quyết<br />
liệt chống lại sự đô hộ của người Hán. Trên<br />
hành trình khổ đau bất tận ấy, bi kịch của<br />
người Hmông trở thành những ám ảnh tâm lí<br />
nặng nề hằn sâu trong tâm hồn dân tộc: đó là<br />
ám ảnh về sự mất tự do, mặc cảm bị thua thiệt<br />
đã in đậm và hình thành tâm lí tự ti dân tộc:<br />
Người Hmông ta ở Quí Chân đến/ Vì người<br />
Hmông ta không có chữ/ Thua kiện người<br />
Hán ta mới đi ; Người Hán có chữ/ Người<br />
Hán ăn không hết tài hết phép/ Người Hmông<br />
không có chữ/ Quanh năm suốt tháng cơ hàn<br />
(Dân ca Hmông). Định mệnh đã đưa đẩy một<br />
dân tộc từ trong truyền thuyết vốn đã có một<br />
quốc gia riêng, một tên gọi riêng đầy kiêu<br />
hãnh, đến một cuộc sống du canh du cư<br />
thường trực nỗi lo âu, bất ổn.<br />
Bi kịch cộng đồng của người Hmông khởi<br />
phát từ những điều kiện nghiệt ngã của công<br />
cuộc mưu sinh: điều kiện địa lí và xã hội<br />
không ưu ái cho những người đến muộn.<br />
Trong thẳm sâu tâm hồn, người Hmông đã coi<br />
<br />
Nguyễn Kiến Thọ<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Việt Nam là quê hương thứ hai của mình:<br />
Người Mèo ta cũng có quê/ Quê ta là Mèo<br />
Vạc (Dân ca Hmông). Môi trường sống của<br />
họ là chót vót trên những đỉnh non cao với<br />
khí hậu khắc nghiệt: Từ một đến hai tháng<br />
tuyết phủ trắng phau/Giống nương, giống rẫy<br />
khoanh tay, xếp chân, co ro ngồi (Dân ca<br />
Hmông); họ luôn phải còng lưng bới đá gieo<br />
hạt ngô và be bờ ruộng bậc thang mỗi năm<br />
một vụ (Đất quê hương, Mã Én Hằng)...<br />
Bi kịch lớn nhất của người Hmông trong xã<br />
hội cũ là bi kịch thân phận và quyền sống của<br />
con người. Đó là bi kịch của những người phụ<br />
nữ với những đắng cay cơ cực, nạn nhân của<br />
xã hội phụ quyền, không thể quyết định số<br />
phận và tương lai của bản thân. Hay bi kịch<br />
của những con người mồ côi; bi kịch của<br />
những lứa đôi yêu nhau mà không đến được<br />
với nhau. Tiếng hát mồ côi, Tiếng hát làm<br />
dâu và cả kho tàng Truyện thơ Hmông (Luk<br />
tẩuv Hmôngz) là những mảng đề tài thể hiện<br />
sâu sắc và sinh động nhất cảm hứng nói trên.<br />
"Trong vốn văn học của các dân tộc ít người<br />
vùng cao, Tiếng hát làm dâu của dân tộc Mèo<br />
là những tiếng hát đầy uất hận lên án tập tục<br />
ép duyên, cảnh làm dâu nhà người "như con<br />
ngựa trong tàu". Người trong truyện không<br />
chịu ép một bề mà đã tìm cách thoát ra ngoài<br />
cảnh éo le, đôi bạn tình không lấy được nhau<br />
đã cùng nhau ăn lá ngón chết, với dự định lên<br />
"trời" kiện ông tơ hồng đã làm cho họ lỡ làng<br />
ở trần gian và đòi được sống bên nhau ở thế<br />
giới bên kia" [4; tr15]. Trước thực tế xã hội<br />
nghiệt ngã đó, không thể có chuyện tự do yêu<br />
đương và chọn lựa hạnh phúc cho những<br />
người phụ nữ Hmông. Biết bao những lứa đôi<br />
yêu nhau tha thiết để rồi phải chia lìa. Khổ<br />
đau, uất ức vì bị đối xử tệ bạc, có bao cô gái<br />
Hmông chỉ biết than thân trách phận:Trời ơi!<br />
Thân chị như thân ngựa/Không biết tự mình<br />
hạ bao hạ túi [5]; có người lại trách kẻ phụ<br />
tình, trách người con trai không chủ động bày<br />
tỏ tình yêu: Gió về, tại sao giậu vườn không<br />
cản gió/Để gió đi xô giậu vườn đổ ngổn<br />
ngang/Anh có lòng muốn cùng tôi kết đôi/Sao<br />
anh không sớm cùng tôi ngỏ lời?[6]. Có khi,<br />
cô gái Hmông lại chỉ biết trách móc mẹ cha<br />
nỡ lòng ép duyên con phải đi vào con đường<br />
gai góc, đau khổ, để rồi, phải chịu đựng một<br />
<br />
96(08): 199 - 204<br />
<br />
cách nhẫn nhịn, uất ức: Em chỉ còn biết lên<br />
đỉnh núi cao em khóc/Cho nước mắt thấm ba<br />
tầng đất đen [7]...<br />
Trong khổ đau, uất ức vì bị đối xử tệ bạc, đã<br />
có lúc người phụ nữ Hmông vùng vẫy, đứng<br />
lên đấu tranh tự giải thoát mình. Các tác giả<br />
dân gian Hmông đã để cho người phụ nữ với<br />
thân phận của người con dâu, phản kháng<br />
quyết liệt với mẹ chồng, như một sự thách<br />
thức: Bà không ưa tôi, bà hãy kêu họ nhà tôi<br />
tới nói cho bỏ thật chân, buông thật tay/Tôi sẽ<br />
theo chân họ nhà tôi, tôi đi/... Và lúc ấy tôi sẽ<br />
vỗ tay nhảy/Vui mừng như người đi làm ăn<br />
[8]. Người con dâu đã thẳng thừng, chống đối<br />
mãnh liệt với mẹ chồng (đại diện cho lễ giáo<br />
phong kiến khắc nghiệt) để đòi tự do, để thoát<br />
khỏi cảnh làm dâu nghiệt ngã. Câu thơ- lời<br />
phản kháng đó mang đậm chất Hmông, bản<br />
lĩnh Hmông, tính cách Hmông mạnh mẽ,<br />
quyết liệt (rất hiếm gặp thái độ và bản lĩnh<br />
như thế của những người phụ nữ cùng cảnh<br />
ngộ trong thơ ca của các thơ ca dân tộc thiểu<br />
số khác).<br />
Tuy nhiên, những hành động phản kháng như<br />
vậy trong thơ ca Hmông không nhiều. Trái<br />
lại, họ thường phản kháng tiêu cực một cách<br />
quyết liệt, mà hành động phổ biến là ăn lá<br />
ngón. Cái chết bi thảm của họ như một sự<br />
cảnh tỉnh người thân và lên án xã hội bất<br />
công. Hình tượng cây lá ngón hoa vàng trở<br />
nên quen thuộc trong thơ ca Hmông như một<br />
phương thuốc hữu hiệu cho sự giải thoát khỏi<br />
cuộc đời và số phận:Em ơi! Chị ngắt lá thuốc<br />
độc đắng thật đắng/Đưa lên mồm, nuốt ực<br />
cho nát quách lá gan/Chị ngắt lá thuốc độc<br />
cay thật cay/Đưa lên miệng nuốt ực..., hay:<br />
Nàng ơi! Ta trở về nắm cây thuốc độc rễ<br />
không chắc/Ta trở về, ta được nàng thì<br />
thôi/Không được nàng, ta ăn lá thuốc độc<br />
chết đi cho thịt rữa tan...[9]<br />
Trong một chừng mực nào đó, thơ ca đối với<br />
dân tộc Hmông trước cách mạng tháng Tám<br />
chính là phương tiện để bộc lộ, giãi bày tâm<br />
trạng chứ không phải là phương tiện để nhìn<br />
nhận cuộc sống với tất cả sự phong phú, đa<br />
dạng của nó. Để rồi, bước sang thời kì hiện<br />
đại, thơ ca Hmông có một sự thay đổi quan<br />
trọng. Từ điểm nhìn bản thân mang tính<br />
201<br />
<br />
Nguyễn Kiến Thọ<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
hướng nội đã được thay thế bằng điểm nhìn<br />
xã hội mang tính hướng ngoại, mà dấu ấn rõ rệt<br />
nhất là từ phương diện cảm hứng nghệ thuật.<br />
Đến cảm hứng trữ tình- ngợi ca ...<br />
Cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại đã giải<br />
phóng cuộc đời của cả dân tộc Việt Nam.<br />
Đồng bào miền núi nói chung và đồng bào<br />
dân tộc Hmông nói riêng cũng đã thoát khỏi<br />
cảnh đời tăm tối để bắt tay vào xây dựng một<br />
cuộc sống mới, một tương lai mới cho dân tộc<br />
mình. Lớp thế hệ nhà thơ Hmông đầu tiên<br />
được ra đời và lớn lên trong cuộc sống hoà<br />
bình, hiểu sâu sắc giá trị của cuộc sống, của<br />
hai chữ tự do. Chính vì vậy mà cảm hứng nổi<br />
trội nhất trong thơ ca dân tộc Hmông thời kỳ<br />
hiện đại là cảm hứng ngợi ca cuộc sống mới<br />
do Cách mạng, Đảng và Bác Hồ đem lại.<br />
Thơ ca Hmông thời kì hiện đại là một bài ca<br />
ca ngợi cuộc sống và tình yêu mà biểu hiện<br />
sâu sắc và chân thực nhất là lòng biết ơn.<br />
Dường như, với các tác giả người Hmông, khi<br />
đặt bút làm thơ, mục tiêu đầu tiên là thể hiện<br />
được tấm lòng của mình, của dân tộc mình,<br />
lòng biết ơn đối với Cách mạng đã khai sinh<br />
cho người Hmông có được một cuộc đời mới.<br />
Hùng Đình Quí có các bài thơ Người Mông<br />
có chữ (1968), Ơn Đảng (1969), Nhớ Bác Hồ<br />
(1969), Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải, Việt<br />
Bắc ngày nay (1972); Giàng A Của có bài thơ<br />
Có Cụ Hồ về; Vừ Thị Dưa có bài Nhớ đến<br />
Chính phủ; rồi Giàng Páo Ly, Giàng A Páo,<br />
Mùa A Sấu, Sùng Nhìa Tú... đều có những<br />
bài thơ nói lên lòng biết ơn sâu nặng của dân<br />
tộc Hmông đối với Đảng, với Chính phủ và<br />
Bác Hồ.<br />
Dân tộc Hmông là một dân tộc có tính cộng<br />
đồng rất cao. Có lẽ do sống khu biệt trên các<br />
đỉnh núi hẻo lánh nên tình cảm cộng đồng<br />
được cộng hưởng, được nở rộ như những<br />
bông hoa dưới ánh mặt trời. Không khí vui<br />
tươi, sôi nổi rộn rã ở miền Bắc trong những<br />
năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội đã lan toả<br />
đến tận các bản làng heo hút của người<br />
Hmông. Cuộc sống dần văn minh, xoá bỏ<br />
những hủ tục cũ kỹ, lạc hậu là đối tượng miêu<br />
tả, biểu hiện của các nhà thơ Hmông. Những<br />
thửa ruộng bậc thang lúa vàng trĩu hạt; những<br />
mái trường có con em của người Hmông theo<br />
202<br />
<br />
96(08): 199 - 204<br />
<br />
học, như những “bầy ong tung tăng đi hút nhị<br />
hoa”; Những chính sách của Đảng tựa như<br />
những làn điệu dân ca bay bổng, lay động,<br />
thấm sâu vào tâm hồn người Hmông. Khắp<br />
nơi rộn rã không khí đổi mới vui tươi, tràn<br />
ngập niềm tin vào cuộc sống. Cảm giác lâng<br />
lâng của con người được giải phóng, được tự<br />
do thật là kì diệu, để người Hmông nhìn thiên<br />
nhiên cũng thấy có tâm hồn, có sự đồng điệu,<br />
say mê: Mặt trời nâng hoa mây/Bồng bềnh<br />
sáng núi đá (Mặt trời hoa mây - Giàng A<br />
Páo). Cuộc sống của người Hmông có sự bình<br />
yên, êm đềm, đẹp một cách lãng mạn. Chất<br />
lãng mạn ngấm sâu vào tim vào óc mỗi người<br />
để thăng hoa thành những tâm hồn nghệ sĩ.<br />
Trong thơ ca Hmông, Tiếng hát tình yêu (gầu<br />
plềnh) chiếm một vị trí vô cùng quan trọng.<br />
Đó là ánh trăng sáng lung linh trên bầu trời<br />
thơ ca, đẹp một cách huyền diệu. Chính cảm<br />
hứng trữ tình-ngợi ca đã làm cho những câu<br />
thơ có sức lay động và quyến rũ diệu kì, "có<br />
thể nằm không hổ thẹn trong những tuyển tập<br />
thơ hay của thế giới" (Chế Lan Viên). Tuy<br />
nhiên, cả trong cuộc sống và tình yêu, người<br />
Hmông đều hồn nhiên và mãnh liệt đến độ<br />
cực đoan. Đã sống- sống hết mình; đã yêuyêu đến nồng nàn đam mê; đã ghét- ghét đến<br />
tận cùng xương tuỷ. Thơ ca Hmông là sứ giả<br />
trung thành cho việc bộc lộ những cung bậc<br />
và trạng thái tình cảm ấy: Gió về gió thổi lá<br />
cây lật lả lướt bên khe/ Nếu ta là hạt mưa hạt<br />
sương/ Ta xin tan trên bàn tay nàng; Đêm đã<br />
qua, sao lượn vòng đổi chỗ/ Ngày đã rạng, lối<br />
đi đã toe/ Ta lê bước về nhà/ mà hồn như còn<br />
ngủ ở thắt lưng em (Dân ca Hmông)<br />
Cuộc sống của người Hmông trên núi cao đơn<br />
sơ nhưng không đơn điệu, một phần cũng bởi<br />
người Hmông có đời sống tinh thần phong<br />
phú. Âm nhạc chính là một chất men say<br />
trong tâm hồn người Hmông. Người Hmông<br />
yêu âm nhạc bằng một tình yêu gần như là<br />
bản năng, đầy chất nghệ sĩ. Cuộc sống của<br />
đồng bào dân tộc Hmông không thể thiếu<br />
những tiếng khèn, tiếng đàn môi, kèn lá những nhạc cụ quen thuộc và gần gũi của dân<br />
tộc Hmông. Chàng trai Hmông múa khèn tài<br />
hoa như những nghệ sĩ đích thực trong các<br />
buổi chợ phiên, những đêm trăng hay trong<br />
<br />
Nguyễn Kiến Thọ<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
các lễ hội “Gầu tào”: “Điệu khèn vui xóm núi/<br />
Tiếng đàn môi giục lòng” (Giàng Xuân Hồ).<br />
Những thiếu nữ Hmông thả tâm tình trong<br />
tiếng đàn môi dìu dặt, trong tiếng kèn lá ẩn<br />
chứa những tâm sự vui buồn: “Nhớ buổi tiễn<br />
chân ta qua đồi/ Em ngắt lá thổi bài kèn réo<br />
rắt” (Dân ca Hmông). Âm nhạc Hmông<br />
không ưa sự quân bình mà ưa đi đến tận cùng<br />
của những cung bậc thanh âm, chót vót cao<br />
và thăm thẳm sâu. Có lẽ đó cũng chính là cá<br />
tính của một dân tộc chứa bao điều bí ẩn<br />
trong tâm hồn.<br />
Cuộc sống của người Hmông không thiếu sự<br />
thơ mộng đến lãng mạn, những chủ nhân của<br />
núi đá vùng cao có đời sống tinh thần phong<br />
phú, trước hết và trên hết, họ có một tình yêu<br />
nồng nàn. Từ những đỉnh núi - cao nguyên<br />
vừa hùng vĩ nên thơ vừa rất đỗi khắc nghiệt<br />
đã sinh ra những nhà thơ Hmông để cất lên<br />
những tiếng ca ca ngợi quê hương và tình yêu<br />
của mình:“Từ đá/Sinh ra những chàng thi<br />
sĩ/Hát ca về đất trời, tình yêu của mình”(Đá ở<br />
Sapa - Mã A Lềnh).<br />
Cảm hứng suy tư- chiêm nghiệm- biểu hiện<br />
của lối tư duy, cách diễn đạt mang đậm<br />
bản sắc Hmông.<br />
Nhìn chung, sau năm 1975 và nhất là sau Đổi<br />
Mới (1986), cùng với sự thay đổi lớn lao và<br />
nhanh chóng bộ mặt đời sống xã hội của đất<br />
nước, thơ ca dân tộc Hmông có sự chuyển đổi<br />
cơ bản về cảm hứng nghệ thuật. Nếu như ở<br />
các giai đoạn trước, cảm hứng cảm thương- bi<br />
kịch và cảm hững trữ tình- ngợi ca chiếm ưu<br />
thế chủ đạo, thì giai đoạn này, khi mối quan<br />
hệ giao lưu văn hóa giữa các dân tộc ngày<br />
càng mạnh mẽ và sâu sắc, nhận thức của<br />
người Hmông ngày càng được nâng cao,<br />
những nhà thơ- sứ giả tâm hồn của người<br />
Hmông bắt đầu có những suy tư, chiêm<br />
nghiệm, có sự quan tâm hơn đến những vấn<br />
đề mang tính thế sự, và cả nhu cầu tự bộc lộ<br />
và khám phá bản thân.Thơ ca dân tộc Hmông<br />
đi vào chiều sâu trí tuệ bằng những suy nghĩ,<br />
cảm nhận mang dấu ấn cá nhân rõ rệt.<br />
Người Hmông là một dân tộc ưa triết lí,<br />
"trong thơ Hmông có yếu tố rất rõ của lí trí.<br />
<br />
96(08): 199 - 204<br />
<br />
Chữ lí là chữ thường thấy trong thơ Hmông.<br />
Người Hmông là ngưởi rất muốn biết rõ lí lẽ,<br />
phân biệt phải trái" [10]. Ngay từ trong mạch<br />
nguồn dân gian, chất suy tư, triết lí ấy đã<br />
được bộc lộ. Ta thường thấy trong dân ca<br />
Hmông những triết lí về cuộc đời: Đời người<br />
như củ cải phơi nắng, hay: Đời người như<br />
bóng râm từ từ ngả bên đồi, hoặc: Mình ơi!/<br />
Sống là khổ đấy/ Chết là nát tan.. Sự suy<br />
nghiệm, triết lí đã trở thành một nét tính cách<br />
của người Hmông từ truyền thống, là cơ sở để<br />
tạo nên phức điệu cảm hứng suy tư- chiêm<br />
nghiệm trong thơ Hmông thời kì hiện đại.<br />
Mỗi nhà thơ có một cách suy tư, chiêm<br />
nghiệm riêng về thế sự, cuộc đời, và cách triết<br />
lí cũng rất riêng, độc đáo và đặc sắc. Nhà thơ<br />
Hùng Đình Quí trăn trở với những giá trị đạo<br />
đức truyền thống, những tinh hoa văn hoá của<br />
người Hmông đã được gìn giữ từ bao đời.<br />
Ông khuyên người Hmông phải biết sống<br />
thuỷ chung, tình nghĩa, không nên "tranh đục<br />
cũ người dùng/cướp dao mẻ người liếc". Ông<br />
khẳng định một chân lí vĩnh hằng trong quan<br />
niệm về sự sống và cái chết của "người<br />
Hmông mình" (pêz Hmông): Có chết, chết<br />
trên lưỡi sắc/ Chớ chết sau sống Dao. Ông<br />
cảnh tỉnh những người Hmông lầm đường,<br />
lạc lối, thiếu ý chí, nghị lực và niềm tin trong<br />
cuộc sống: Chỉ có con cóc mới đi không hết<br />
đường/ Trở về chết dưới bàn chân vợ. Mã A<br />
Lềnh suy tư về số phận và tương lai của dân<br />
tộc mình, để rồi chiêm nghiệm và khẳng định:<br />
Ở đâu có bầu trời/ đó là Tổ quốc. Ông bằng<br />
lòng và ca ngơi sự lựa chọn cuộc sống như là<br />
một nét đặc trưng riêng của dân tộc mình:<br />
Chiếc nôi êm là tảng đá giữa non ngàn. Ở đó,<br />
người Hmông thênh thênh sống, thênh thênh<br />
bộc lộ những vui buồn của mình. Bản lĩnh và<br />
ý chí chính là cội nguồn sức mạnh của dân tộc<br />
Hmông. Hình ảnh người đàn ông Hmông với<br />
đôi chân trần đạp trên đá sắc và mái đầu trơ<br />
một chỏm đá hoang là sự bộc lộ sâu sắc bản<br />
lính và ý chí ấy.<br />
Tóm lại, thơ ca Hmông với những phức điệu<br />
cảm hứng nghệ thuật đã góp phần bộc lộ một<br />
cách sâu sắc và chân thực con người và cuộc<br />
sống của dân tộc Hmông trong những hoàn<br />
cảnh lịch sử nhất định, như những lát cắt của<br />
203<br />
<br />