ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------- --------
NGUYỄN BÁ LONG
THƠ TRẺ VIỆT NAM THỜI KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ: CẢM HỨNG VÀ GIỌNG ĐIỆU
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------- --------
NGUYỄN BÁ LONG
THƠ TRẺ VIỆT NAM THỜI KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ: CẢM HỨNG VÀ GIỌNG ĐIỆU
Chuyên nghành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số:
62.22.34.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS PHÙNG QUÝ NHÂM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả Luận án, dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Phùng Quý Nhâm. Kết quả nghiên cứu không sao
chép bất kì một công trình khoa học hay tài liệu tham khảo nào. Tôi giữ bản quyền và
hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Tác giả
Nguyễn Bá Long
MỤC LỤC
DẪN NHẬP Trang
1. Lý do chọn đề tài. 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 27
4. Phương pháp nghiên cứu. 28
5. Những đóng góp của luận án 29
6. Cấu trúc luận án. 30
CHƯƠNG 1: THƠ CHỐNG MỸ VÀ THƠ TRẺ VIỆT NAM
THỜI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
1.1. Thơ chống Mỹ: Biên độ thời gian, đặc điểm nổi bật 31
1.1.1. Biên độ thời gian 31
1.1.2. Đặc điểm nổi bật 35
1.1.2.1. Một số đặc điểm về tư tưởng, tình cảm 35
1.1.2.2. Một số đặc điểm về hình thức nghệ thuật 39
1.2. Thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ: Khái niệm,
diễn trình vận động 56
1.2.1. Khái niệm 56
1.2.2. Diễn trình vận động 61
CHƯƠNG 2: CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRẺ
VIỆT NAM THỜI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
2.1. Cảm hứng nghệ thuật: Khái niệm, hướng phân loại 75
2.1.1. Khái niệm 75
2.1.2. Hướng phân loại 79
2.2. Những dạng thức cảm hứng trong thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến
chống Mỹ 81
2.2.1. Cảm hứng lãng mạn - sử thi 81
2.2.2. Cảm hứng dấn thân - nhập cuộc 95
2.2.3. Cảm hứng bi tráng 103
2.3.4. Cảm hứng đời tư, thế sự 110
2.3. Một số phương thức biểu đạt cảm hứng nghệ thuật trong thơ trẻ
Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ 119
2.3.1. Sáng tạo hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng 120
2.3.2. Đa dạng các màu sắc nghệ thuật 126
CHƯƠNG 3: GIỌNG ĐIỆU THƠ TRẺ VIỆT NAM THỜI KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ 3.1. Giọng điệu và giọng điệu nghệ thuật 134
3.1.1. Giọng điệu trong đời sống 134
3.1.2. Giọng điệu nghệ thuật 135
3.2. Những kiểu giọng điệu trong thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến
chống Mỹ 141
3.2.1. Giọng hào sảng, lạc quan 142
3.2.2. Giọng trữ tình thống thiết 150
3.2.3. Giọng triết lí suy tưởng 157
3.2.4. Giọng day trở, tự vấn 168
3.3. Một số thủ pháp kiến tạo giọng điệu thơ trẻ Việt Nam thời
kháng chiến chống Mỹ 174
3.3.1. Tích hợp nhiều phong cách ngôn ngữ, mở rộng lớp từ thi ca 174
3.3.2. Khai thác lợi thế phép điệp và so sánh tu từ 178
3.3.3. Biến đổi câu thơ, gia tăng nhịp điệu 183
KẾT LUẬN 190
CÁC CÔNG TRÌNH, BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN 195
TÀI LIỆU THAM KHẢO 196
NHỮNG THI PHẨM ĐƯỢC KHẢO SÁT 210
1
DẪN NHẬP
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sự kiện Việt Nam chống Mỹ và thắng Mỹ không chỉ vang dội ở thế kỷ XX mà
sau cuộc chiến ấy, bên cạnh những “di chứng”, “hội chứng” để lại, ngày càng xuất
hiện nhiều công trình nghiên cứu về nó trên các mặt quân sự, lịch sử, tâm lí, văn
học,… với nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhưng dù khác nhau thế nào, thì với Việt
Nam, đó là cuộc kháng chiến chính nghĩa, kháng chiến để giải phóng dân tộc, thống
nhất nước nhà. Nghiên cứu cốt nhằm khẳng định, lí giải và làm sáng tỏ thêm một số
vấn đề mà độ lùi thời gian, xu thế thời đại cho phép; nghiên cứu vì mục đích hòa bình,
hướng tới hòa giải - hòa hợp dân tộc, khép bỏ hận thù, vì một nước Việt Nam độc lập,
dân chủ, giàu mạnh.
Trên tinh thần ấy, chúng tôi chọn đề tài Thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến
chống Mỹ: Cảm hứng và giọng điệu cho Luận án tiến sĩ của mình, với những lí do
sau đây:
1.1. Thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ (gọi tắt “thơ trẻ thời chống
Mỹ”), qua độ lắng thời gian, nay trở thành hiện tượng văn hóa tinh thần rất đáng trân
trọng. Có thể nói, thời đại ấy đã sản sinh ra một thế hệ nhà thơ, mà nếu thiếu họ, thơ
chống Mỹ sẽ không tránh khỏi hẫng hụt, thậm chí tẻ nhạt, nghèo sinh khí. Coi thơ trẻ
thời chống Mỹ là hiện tượng nghệ thuật nổi bật, chúng tôi cho rằng, cần nghiên cứu
cảm hứng và giọng điệu của cả dòng thơ dưới dạng một công trình khoa học chuyên
biệt. Hướng tiếp cận này sẽ là cơ sở để đánh giá những đóng góp của một thế hệ nhà
thơ vào lịch sử chống ngoại xâm và diễn trình vận động của thơ ca dân tộc.
1.2. Tiếp cận thơ trẻ thời chống Mỹ từ cảm hứng và giọng điệu là khám phá tư
tưởng và nghệ thuật của một dòng thơ nảy sinh trong bối cảnh lịch sử đặc biệt, rất
nghiệt ngã. Đó là chiến tranh - bom đạn - chết chóc, đối lập với môi trường “sinh
trưởng” của thơ. Chúng tôi thấy cần góp phần đánh giá hiện tượng thơ trẻ trên tinh
thần đổi mới có kế thừa những kết luận hợp lí trong các công trình nghiên cứu trước
đây. Độ giãn gần bốn mươi năm kể từ khi chiến tranh kết thúc, gần hai mươi năm Việt
Nam - Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ, là lợi thế để người nghiên cứu kiến giải, kết
2
luận những thành tựu cũng như mặt hạn chế của dòng thơ này. Vả lại, đội ngũ thơ trẻ
thời ấy, nay phần đa bước sang độ tuổi “thất thập diệp như thu”, một số nhà thơ đã ra
đi theo quy luật sinh tử. Bởi vậy, theo chúng tôi, cần nghiên cứu sáng tác của họ khi
họ đang là người đương thời, chắc chắn sẽ thuận lợi hơn.
1.3. Sau cùng, xét từ phương diện một người nghiên cứu, giảng dạy văn
chương trong nhà trường đã hơn 30 năm, một người sinh ra và lớn lên trong cuộc
kháng chiến ác liệt ấy, chọn đề tài này, chúng tôi nghĩ, nó phù hợp và hữu ích cho bản
thân khi tác nghiệp, hỗ trợ học sinh - sinh viên trong học tập nghiên cứu, thêm tài liệu
để đồng nghiệp tham khảo. Ngoài ra, nếu đề tài thành công thì bản thân cảm thấy như
được bày tỏ tấm lòng tri ân đối với vô số những người ngã xuống cho đất nước độc
lập, thống nhất, trong đó có thân nhân ruột thịt của mình.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
- Mỗi thời kì, mỗi thời đại thường xuất hiện một kiểu nghệ sĩ. Thời kháng chiến
chống Mỹ xuất hiện thế hệ nhà thơ trẻ tài năng, giàu sáng tạo, tràn đầy nhiệt huyết
cách mạng. Có thể nói, đó là cả một thế hệ nhà thơ “dàn hàng gánh đất nước trên vai”,
xả thân cứu nước, xả thân để làm ra đời và làm ra thơ. Sáng tác của họ góp vào nền
thơ Việt Nam hiện đại sắc điệu riêng, rất nổi bật, càng có độ lắng thời gian càng thấy
rõ sự nổi bật ấy.
Kể từ khi hình thành (đầu thập niên 60, thế kỉ XX) đến nay, thơ trẻ thời chống
Mỹ được giới nghiên cứu tìm hiểu trên nhiều phương diện và cấp độ khác nhau.
Những cây bút thẩm định văn chương uy tín như Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Xuân
Diệu, Hoàng Trung Thông, Lê Đình Kỵ, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Đình Sử, Nguyễn
Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá, Nguyễn Văn Long, Hà Minh Đức, Huỳnh Như Phương,
Nguyễn Đăng Điệp, Bùi Công Hùng, Mã Giang Lân, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Bá
Thành,... đều có những nhận định sâu sắc về thơ trẻ thời chống Mỹ. Chưa ai thống kê
chính xác có bao nhiêu công trình khoa học khám phá dòng thơ này, chỉ biết rằng số
lượng khá phong phú và đa dạng. Theo chúng tôi, có thể tạm quy về một số hướng
nghiên cứu sau đây:
- Hướng nghiên cứu tập trung vào một tác giả; đối tượng thường là một trong
số các nhà thơ tiêu biểu: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Xuân
3
Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Lê Anh Xuân, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Ngô Kha, Trần
Quang Long,... tầm độ từ bài viết có tính giới thiệu (tiểu luận) đến khóa luận đại học,
luận văn thạc sĩ.
- Hướng phân tích, thẩm bình một thi phẩm cụ thể. Hướng này chủ yếu tập
trung vào những bài thơ được chọn giảng trong nhà trường: Bếp lửa - Bằng Việt, Bài
thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật, Đất quê ta mênh mông - Dương
Hương Ly, Trở về quê nội, Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân, Sóng - Xuân Quỳnh,
Tre Việt Nam - Nguyễn Duy, Bài ca chim chơ rao (trích) - Thu Bồn, Hạt gạo làng ta -
Trần Đăng Khoa,...); số lượng bài viết khá nhiều, khó tính hết.
- Hướng nghiên cứu toàn bộ dòng thơ trẻ dưới dạng phân tích tổng thể nội dung
và nghệ thuật (Giáo trình Lịch sử văn học tập III - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại tập II - sách Dự án đào tạo giáo viên THCS, Bộ
Giáo dục & Đào tạo, Lời tựa tập thơ Sức mới - Chế Lan Viên,...). Hay dưới dạng
khám phá chuyên sâu một trong các vấn đề nổi bật của cả dòng thơ: cái tôi trữ tình,
phong cách, cảm hứng, giọng điệu, thể loại... (tập trung ở các chuyên luận, luận văn,
luận án). Hoặc dưới dạng trao đổi, hồi tưởng về một thời thơ trận mạc (đăng trên các
tờ báo, tạp chí trung ương và địa phương).
- Hướng nghiên cứu lồng ghép (tích hợp) trong các công trình khoa học chuyên
ngành. Hướng này phân tích đánh giá thơ trẻ với tư cách là một hiện tượng, một bộ
phận trong phạm vi nghiên cứu rộng hơn nó. Cụ thể như trong các chuyên luận về thơ
Việt Nam hiện đại, các công trình nghiên cứu văn học sau Cách mạng tháng Tám, lời
giới thiệu các tuyển tập thơ,... Chẳng hạn: Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Văn học Việt
Nam chống Mỹ cứu nước của Viện Văn học, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam
hiện đại của Hà Minh Đức, Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm định của
Vũ Tuấn Anh, Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại của Mã Giang Lân, Sự cách tân của
thơ Việt Nam hiện đại của Bùi Công Hùng, Tựa tuyển tập Thơ ba năm chống Mỹ của
Chế Lan Viên, Văn học giải phóng miền Nam của Phạm Văn Sĩ, Tư duy thơ và tư duy
thơ hiện đại Việt Nam của Nguyễn Bá Thành,...
Chúng tôi tạm quy về bốn hướng nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ (cũng là
bốn nhóm công trình khoa học) như trên, là để tiện cho việc tổng luận tình hình
4
nghiên cứu dòng thơ này theo tiến trình trước và sau đổi mới (1986). Sự kiện đổi mới
mở ra bước ngoặt lớn trong đời sống văn học ở nước ta: lí luận văn chương được nhận
thức lại, các lí thuyết phê bình phương Tây được truyền bá và ứng dụng rộng rãi, bước
đầu đạt được một số thành tựu rất đáng ghi nhận. Tuy vẫn còn những mặt “yếu kém,
khuyết điểm” [9, tr.11], nhưng nhìn chung, nền lí luận phê bình văn học ở nước ta sau
đổi mới thực sự phong phú, đa dạng (và cũng phức tạp) hơn trước. Một số quan niệm
khô cứng, lỗi thời (thậm chí giáo điều, ấu trĩ) được thay thế bằng cách nhìn mới mẻ,
linh hoạt hơn. Tất nhiên cũng không phủ nhận những thành tựu từ trước để lại, đổi
mới là vừa thay đổi vừa tiếp nối trong tình thế mới.
Từ sự hiểu như vậy, chúng tôi lấy sự kiện đổi mới (1986) làm mốc chia các
công trình nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ thành hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất:
từ khi dòng thơ trẻ hình thành (nửa đầu thập niên 60, thế kỷ XX) đến 1986 (phê bình
đồng hành sáng tác). Giai đoạn thứ hai: từ 1986 đến nay (tiếp tục phê bình, đánh giá
lại). Ở giai đoạn thứ nhất, về phương diện lịch sử, rõ ràng có hai chặng. Chặng một:
trước 1975, tức thời đất nước chiến tranh. Chặng hai, mười năm đầu hậu chiến, tức
tiền đổi mới. Nhìn chung cả hai chặng, các nhà nghiên cứu tiếp cận thơ trẻ thời chống
Mỹ chủ yếu theo hướng xã hội học, thiên về khám phá nội dung tư tưởng, chưa chú ý
nhiều đến sáng tạo hình thức, thi pháp. Bối cảnh xã hội thời ấy định hướng như vậy,
chưa thể khác được. Tuy nhiên, đến cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 đã bắt đầu
xuất hiện một số nhà phê bình tiên phong đổi mới tư duy (chẳng hạn Hoàng Ngọc
Hiến). Trong nghiên cứu thơ trẻ, hướng tiếp cận, sự đánh giá cũng có những dấu hiệu
thay đổi (chẳng hạn Nguyễn Trọng Tạo: “Chất trẻ trong thơ trẻ chống Mỹ” - 1981).
Nhưng nhìn chung, những tín hiệu ấy chưa đủ để khẳng định đã có bước ngoặt trong
nghiên cứu dòng thơ này. Phải sau 1986, việc đánh giá thơ trẻ thời chống Mỹ mới
thực sự đa chiều, đa ý kiến, nhiều thi phẩm bị phê phán trước đây được soi xét lại,
trong đó có những sáng tác được “chiêu tuyết” và phổ biến rộng rãi (như Trò chuyện
với Thúy Kiều - Lý Phương Liên, Vòng trắng - Phạm Tiến Duật, Sẹo đất - Ngô Văn
Phú...). Những diễn biến này liên quan đến không khí dân chủ, “cởi trói” trong phê
bình và sáng tạo văn học thời kì đổi mới.
5
Phác thảo mấy nét trên để thấy rằng, mỗi giai đoạn có đặc điểm về hoàn cảnh
xã hội, gắn với nó là quan niệm tiếp nhận, đánh giá văn chương cũng khác nhau.
Những công trình nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ, bên cạnh những tương đồng, tất
sẽ có khác biệt. Do số lượng công trình nghiên cứu dòng thơ này khá dồi dào với
nhiều hướng tiếp cận khác nhau, trong khi phần Lịch sử vấn đề lại hạn hẹp, không thể
tổng thuật tất cả, nên chúng tôi chỉ điểm luận những công trình, những bài viết tiêu
biểu và một số hướng nghiên cứu liên quan đến Luận án, cũng như thấy được sự thay
đổi trong thẩm định, đánh giá thơ trẻ qua mỗi giai đoạn.
2.1. Giai đoạn trước đổi mới 1986
Thơ trẻ thời chống Mỹ là một thực thể vận động liên tục, gắn với cuộc kháng
chiến giải phóng dân tộc; nghiên cứu về nó cũng chưa bao giờ đứt gãy. Tuy trước đổi
mới (1986), hệ quy chiếu trong phê bình đánh giá chưa có gì thay đổi, nhưng để tương
hợp với bước chuyển của lịch sử, sát với diễn trình vận động của dòng thơ này, chúng
tôi tạm phân những công trình nghiên cứu thành hai chặng:
● Chặng thứ nhất: từ khi thơ trẻ hình thành đến 1975
Chúng tôi muốn dành dung lượng nhiều hơn để điểm luận những công trình
nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ ở chặng thứ nhất, tức chặng đất nước chiến tranh;
cũng là chặng phê bình đồng hành sáng tác, kết nối rất hiệu quả với người đọc. Những
bài viết, những công trình nghiên cứu hồi ấy có ý nghĩa khai mở, làm tư liệu quý cho
những ai tiếp tục khám phá dòng thơ này ở chặng sau.
Trước hết, có một sự thực đến kì lạ, chiến tranh ác liệt mà thơ thì bùng phát:
lãnh tụ làm thơ, dân thường làm thơ, người già - trẻ em đều có thơ, đông đảo độc giả
cũng hết lòng với thơ. Khắp nơi, người ta đọc thơ, bình thơ, ngâm thơ, nói chuyện
thơ,... bất kể bom đạn và gian khổ hy sinh, cứ ngỡ như đó là cái thời “quyền lực” của
thơ. Thế hệ nhà thơ trẻ ra đời, vận động trong bối cảnh như vậy. Ngay từ khi thơ họ
vừa “đăng đàn” thì liền được nhiều nhà phê bình chú ý, đông đảo người đọc quan tâm.
Những nhà thơ sớm bộc lộ tài năng, chắc chắn không bao lâu sẽ có bài giới thiệu đăng
trên các tờ báo lớn. Có thể nói, thời ấy, lực lượng phê bình văn học tuy không đông
nhưng rất mạnh. Họ bắt nhịp rất nhanh, rất nhạy, “kích cầu” rất kịp thời, góp phần tích
cực vào đời sống văn học vốn nhộn nhịp, nhiều khởi sắc.
6
Người tiên phong như một bậc thầy trong lĩnh vực này là nhà phê bình Hoài
Thanh. Với năng lực thẩm thơ đạt đến mức “thiên phú”, với độ nhạy, độ cảm hiếm có,
những bài viết của ông tinh tế, chuẩn xác, sức thuyết phục cao. Những phát hiện, đánh
giá của Hoài Thanh về các nhà thơ trẻ, mà lúc ấy, theo ông là có nhiều triển vọng (Ca
Lê Hiến - Lê Anh Xuân, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật...), qua độ
lắng thời gian, hết thảy đều không sai số. Cái “tạng” phê bình “lấy hồn ta để hiểu hồn
người”, ấn tượng - trực cảm của Hoài Thanh là lợi thế làm cho những bài thơ đã hay
lại càng hay và rất dễ “lây lan” sang người đọc. Ông không nghiên cứu sâu giọng điệu
của nhà thơ trẻ nào nhưng trong các bài viết đều có phát hiện, khi đã phát hiện chất
giọng của nhà thơ nào thì đích thực của nhà thơ đó, không lẫn với ai được (ông
thường dùng “hơi thơ”, “tiếng thơ”, “giọng thơ” thay “giọng điệu”).
Chẳng hạn, năm 1968, trên Tạp chí Văn học số 9 và số 10, Hoài Thanh viết liền
hai bài về nhà thơ trẻ Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân. Bài thứ nhất “Tiếng gà gáy của Ca
Lê Hiến hay tâm sự của người thanh niên miền Nam tập kết”, ông phát hiện ra “Tiếng
nói của một con người dễ cảm xúc, hay suy nghĩ” [158, tr.1212], “lời thơ, nhạc thơ
của anh nhiều chỗ độc đáo nhưng nói chung vẫn bình dị và tự nhiên, đằm thắm và
ngọt ngào” [158, tr.1214]. Bài viết thứ hai “Thơ Lê Anh Xuân hay tấm lòng của
người thanh niên trên tiền tuyến lớn”, Hoài Thanh giới thiệu sáng tác của Lê Anh
Xuân kể từ khi nhà thơ trở về quê hương chiến đấu. Ông chỉ rõ: “Câu thơ của Lê Anh
Xuân vẫn dịu hiền và có khi nhỏ nhẹ nữa… Có thể nói Lê Anh Xuân đã đạt tới cái
nhìn anh hùng ca và tìm đúng cái giọng anh hùng ca (NBL nhấn mạnh)” [158,
tr.1233].
Hay, trên báo Văn nghệ số 340 ra ngày 17/4/1970, trong bài “Một vài cảm
tưởng nhân cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ”, Hoài Thanh nhận định khá sớm về
Phạm Tiến Duật: “Tứ thơ của anh độc đáo, phong phú, táo bạo, đúng là tứ thơ của
người trong cuộc... Nếu anh giữ được cho nó luôn bình dị, trong sáng thì chắc chắn
tiếng thơ của anh sẽ là tiếng thơ quý”. Đối với Lưu Quang Vũ, đọc những sáng tác
đăng trên các báo Văn nghệ quân đội, Nhân dân, Văn nghệ, trong năm 1966, Hoài
Thanh đặt tiêu đề bài viết Một cây bút trẻ nhiều triển vọng, thay lời khẳng định. Ông
nhận thấy: “Thơ Lưu Quang Vũ rất dồi dào màu sắc và cũng rất thính về các mùi
7
hương”, “Cảm xúc suy nghĩ của anh thường nhuần nhị. Ý thơ có khi mượn chỗ này
chỗ nọ nhưng giọng thơ thì đúng là giọng của anh (NBL nhấn mạnh)” [154, tr.46].
Đến với thơ Nguyễn Duy từ thuở ban đầu, Hoài Thanh chỉ rõ điểm mạnh điểm yếu,
nhận ra chất giọng riêng, nhiều hứa hẹn: “Câu thơ của Nguyễn Duy nhiều khi còn
khắc khổ, thậm chí còn cầu kì và rắc rối nữa... Nhưng một số bài của anh đậm đà
phong cách Việt Nam. Giọng thơ chân chất. Tình thơ chắc. Ý thơ sâu” [155, tr.4].
Viết về bốn cây bút tiêu biểu thuộc thơ trẻ thời chống Mỹ, nhà phê bình văn
học hàng đầu ở nước ta đã bắt rất đúng “mạch chủ” trong nguồn thơ của họ. Chúng tôi
coi những bài viết như thế là đi tìm những hạt ngọc thơ ca đang nảy sinh từ cuộc sống
tươi xanh của những tâm hồn tươi trẻ, góp phần làm nên dáng nên hình của một thế hệ
nhà thơ. Trong những bài nghiên cứu trên, để ý, chúng tôi thấy Hoài Thanh không
trực tiếp nói đến “cảm hứng”. Có lẽ, theo tác giả, thẩm định tư tưởng, tình cảm mà
nhà thơ thể hiện trong thi phẩm cũng là đủ (và không ra ngoài cảm hứng). Văn phê
bình của Hoài Thanh là vậy. Một người rất uyên bác nhưng ông lại né tránh kiểu viết
tầm chương trích cú, lí luận dông dài. Nói chuyện bình thơ, ông tâm sự: “Phân tích
giọng thơ, hơi thơ, nhạc thơ hay phân tích gì thì rốt cuộc cũng là nhằm đưa người ta
đi sâu vào tình cảm tư tưởng trong thơ” [159, tr.32].
Cùng Hoài Thanh, Xuân Diệu cũng tỏ ra rất chú ý phát hiện, bồi dưỡng và giới
thiệu tài năng các cây bút trẻ. Những Nguyễn Xuân Thâm, Hoàng Cát, Trần Đăng
Khoa,... là những nhà thơ được ông quan tâm đặc biệt. Nhà thơ Nguyễn Xuân Thâm
(bút danh Dao Ca, Đỗ Hữu) cho biết: “Anh Xuân Diệu dạy cho tôi nhiều nhất. Anh
chữa cho từng chữ. Thậm chí có khi bài thơ của tôi được anh vẽ ra như một bức
tranh” [184]. Tiếp đến, Lê Đình Kỵ, Nguyễn Xuân Nam giới thiệu thơ Bằng Việt,
Nguyễn Văn Hạnh thẩm bình Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật khi tập thơ
mới được ấn hành. Các nhà lí luận phê bình uy tín đã rất chú ý đến ngôn ngữ, bút
pháp, nhịp thơ... tức những vấn đề không tách rời cảm hứng và giọng điệu. Nguyễn
Văn Hạnh viết: “Trong “Vầng trăng quầng lửa” có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp
hiện đại và bút pháp truyền thống, hình thức thơ có sự biến đổi phù hợp với nội dung.
Nhà thơ tài hoa này không trói buộc mình trong những quy tắc cũ, câu thơ dài ngắn
không đều, vần nhịp tư do những vẫn có sức lôi cuốn” [41, tr.7]. Định Nguyễn, trong
8
bài “Đọc thơ người ra trận” (báo Văn nghệ số 451 - 1972) đã phác thảo chất thơ, giọng
thơ của Nguyễn Đức Mậu và Vương Trọng: “cả hai anh đều khỏe, chắc, mộc mạc,
thô, đạm mà chân thành”. Trang Nghị trên báo Văn nghệ (số tháng 6 - 1972) có bài
“Một tác giả trẻ trên chiến trường Trị - Thiên - Huế”. Trong bài viết, Trang Nghị nhận
diện thơ Nguyễn Khoa Điềm, khi nhà thơ này mới có tập Đất ngoại ô ra mắt bạn đọc:
“Nguyễn Khoa Điềm chưa phải đã có nhiều bài thơ hay, nhưng đáng chú ý ở anh là
một giọng nói mới (NBL nhấn mạnh)”. Trước đó, đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm mới
được đăng trên báo, Vũ Quần Phương trong bài “Quá trình phát triển nội tâm trong
một bài thơ”, (Văn nghệ tháng 11 - 1970) đã có lời bình “Thơ Nguyễn Khoa Điềm
khỏe mà thấm”.
Các nhà thơ nữ Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ,...
mỗi người đều hình thành được chất giọng riêng của mình. Tuy vậy, ý kiến đánh giá
từ các nhà phê bình chuyên nghiệp đăng trên các tờ báo lớn lúc bấy giờ thì lại không
nhiều, phải sau 1975 thơ họ (nhất là Xuân Quỳnh) mới được nhiều người tập trung
nghiên cứu. Nói không nhiều nhưng không phải không có người viết. Chẳng hạn,
Hoàng Trung Thông nhận xét: “Xuân Quỳnh sau Chồi biếc với những vần thơ tươi
mát đã mở rộng hồn thơ của mình ra cuộc sống nhiều mặt. Tập thơ Hoa dọc chiến
hào mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế” [177, tr.64]; “Phan Thị
Thanh Nhàn từ những bài thơ nhẹ nhàng thầm thì đã chuyển sang viết khá nhuần
nhuyễn về một xóm đê hay một khu phố, về cuộc sống cần lao của quần chúng mà vẫn
giữ được giọng riêng của mình” [177, tr. 62].
Riêng Lý Phương Liên là hiện tượng đặc biệt. Nữ công nhân trẻ này làm thơ và
sáng danh trên thi đàn vào đầu thập niên 70 như một sự tình cờ. Khởi đầu là chùm bài
đăng trên báo Nhân dân (số ra ngày 28-8-1970): Ca bình minh, Em mơ có một phiên
tòa, Thư gửi một người bạn gái Mỹ và một số sáng tác khác đăng ở các báo Văn nghệ,
Hà Nội mới, Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Tiền phong, Lao động,… gây được sự
chú ý của nhiều nhà phê bình và sự hâm mộ của đông đảo bạn đọc: “Thơ Lý Phương
Liên đến thẳng với trái tim người đọc bằng hình ảnh xúc động, bằng cách nói trực
tiếp và không kém phần sâu sắc”, “đôi lúc Lý Phương Liên đã nói được những vấn đề
lớn của dân tộc” [177, tr.67]. Tuy nhiên, cách không bao lâu, Lý Phương Liên lại nổi
9
danh (theo cách đánh giá hiện nay) với bài Nghĩ về Thúy Kiều (sau đổi thành Trò
chuyện với Thúy Kiều) đăng trên báo Văn Nghệ số ra ngày 28-8-1970. Đây là bài thơ,
có thể nói, cảm hứng thế sự thể hiện khá rõ (rất hiếm hoi trên thi đàn khi ấy). Và dĩ
nhiên, bài thơ bị phê phán gay gắt: “Bài thơ rõ ràng xa lạ với cuộc chiến đấu anh
hùng, luẩn quẩn trong những triết lí mơ hồ đồng thời biểu hiện một quan niệm sống
yếu đuối, lạc lõng” [195, tr.164]; mãi đến những năm sát đổi mới, có nhà phê bình,
trong công trình nghiên cứu của mình vẫn đánh giá gay gắt như thế, dù rằng Lý
Phương Liên từ bỏ thơ đã chục năm ngoài.
Tuy gặp nhiều sóng gió do hoàn cảnh lịch sử nhưng Lý Phương Liên là cây bút
có hình có nét trong thơ trẻ thời chống Mỹ: “những bài thơ hay của Lý Phương Liên
mang bản sắc riêng, khá cụ thể, khá sinh động, không trộn lẫn với những người khác”
[177, tr.67]. Nữ nhà thơ này để lại một số dấu ấn khá đậm: biên độ cảm hứng được mở
ra, tính nhân văn khá rõ (Thư gửi một người bạn gái Mỹ, Em mơ có một phiên tòa),
giọng thơ trong trẻo, hồn nhiên mà nhiều trăn trở (Ca bình minh, Trò chuyện với Thúy
Kiều). Chúng tôi nghĩ, sáng tác của Lý Phương Liên cần được khảo sát, nghiên cứu
như những nhà thơ khác cùng thế hệ (lâu nay trong các luận án, luận văn liên quan
đến thơ chống Mỹ hầu như không ai đề cập đến).
Xét theo hướng nghiên cứu, đánh giá tổng thể dòng thơ trẻ thời chống Mỹ,
chúng tôi nghĩ, Chế Lan Viên là người khai mở đầu tiên. Trong tiểu luận “Đốt cháy
hơn nữa ngọn lửa trong thơ bạn trẻ” (Lời tựa tập thơ Sức mới - 1965) ông đã sớm nhận
ra “Điều đáng yêu của tập thơ này là nó nồng ấm cái hơi thở của cuộc sống” [193,
tr.424]. Và cũng theo Chế Lan Viên, sự “nồng ấm cái hơi thở của cuộc sống” chính là
thế mạnh của thơ trẻ: “Họ có cái này ghê gớm lắm: cái con mắt trẻ để nhìn đời, nhìn
cái cụ thể của đời” [193, tr.488]. Cả một đội ngũ nhà thơ được hợp lại từ nhiều
nguồn, nhiều lĩnh vực, nhiều tầng lớp. Theo Chế Lan Viên, nhãn quan cuộc sống của
lớp nhà thơ trẻ rất phong phú, nguồn cảm hứng của họ dồi dào: “Các bạn trẻ này
phần đông là công nhân bộ đội, cán bộ. Họ ở trong nhiều ngành nghề địa phương
khác nhau, đứng từ nhiều góc độ khác nhau để nhìn cuộc sống. Do đó gộp tất cả cái
nhìn riêng của họ lại, ta có một số thành không đơn điệu, một cái nhìn chung khá
phong phú về cuộc đời” [193, tr.425]. Phác thảo về một đội ngũ nhà thơ đang sinh
10
thành qua một tuyển tập (lọc trong hơn 1500 bài thơ), những cây bút sáng danh đều
được Chế Lan Viên nhận xét và bước đầu chỉ ra dấu ấn riêng, tỏ ý tin vào triển vọng
phát triển của họ: Xuân Quỳnh, Thái Giang, Bằng Việt, Nguyễn Mỹ, Vũ Quần
Phương, Phạm Ngọc Cảnh, Trúc Thông, Nguyễn Vũ Tiềm, Phạm Tiến Duật (cho
rằng, trong Lời tựa tập Sức mới, Chế Lan Viên chưa nhắc đến Phạm Tiến Duật là
không đúng). Trong diễn trình vận động, đội ngũ nhà thơ trẻ liên tục được bổ sung
những cây bút xuất sắc (Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy,
Vương Trọng, Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Thị Mỹ Dạ,...); và giọng thơ của thế hệ họ
cũng dần dần định hình: đa dạng mà thống nhất, phân biệt với giọng thơ của thế hệ
trước họ (ở đây Chế Lan Viên chưa bàn đến vấn đề này).
Đến tiểu luận “Thơ đánh Mỹ cứu nước” (Tựa tuyển tập Thơ ba năm chống Mỹ
1965 - 1967), Chế Lan Viên nhận thấy sự lớn mạnh nhanh chóng đội ngũ nhà thơ trẻ:
“Cái làm cho tuyển tập thơ này khác với các tuyển tập trước, là tiếng nói ríu rít
(NBL nhấn mạnh) của đông đảo những cây bút trẻ. Họ chiếm một phần ba tuyển tập”
[193, tr.487]. Và tiếp tục khẳng định ưu thế của họ: “ta có một đội ngũ trẻ có mặt ở
khắp nơi để đón bắt cuộc sống mới khi nó xuất hiện. Nhờ thế hình ảnh của cuộc sống
ở đây là một hình ảnh chẳng đơn điệu nghèo nàn” [193, tr.490]. Không chỉ thấy được
sự năng nổ, xông xáo của đội ngũ nhà thơ trẻ trong việc nắm bắt, đưa hiện thực cuộc
sống vào thơ, mở rộng nguồn cảm hứng cho thơ, Chế Lan Viên còn khẳng định tài
năng của họ ở phương diện “kỹ thuật” (tức các thủ pháp nghệ thuật): “Không phải lớp
trẻ chỉ có tâm hồn, họ còn nắm vững kỹ thuật” [193, tr.489].
Từ giữa những năm sáu mươi của thế kỷ trước, khi thế hệ thơ trẻ thời chống
Mỹ mới hình thành mà Chế Lan Viên đã có những nhận xét như trên, chúng tôi nghĩ,
không chỉ có tác dụng “truyền nghề” mà còn thể hiện sự bao quát về một thế hệ nhà
thơ đầy triển vọng. Có điều cũng đáng lưu ý là, sau chiến tranh, khi thơ trẻ thời chống
Mỹ đã đi hết chặng đường vẻ vang của nó, nhìn lại thế hệ hệ nhà thơ ấy (so sánh với
thơ trẻ thời hậu chiến), trả lời câu hỏi của Phạm Tiến Duật, Chế Lan Viên nhận xét:
“Ngày trước các cậu bắn đạn thơ có viên nổ viên xịt nhưng cộng lại là trúng đích.
Bây giờ đạn của chúng nó tốt đấy, viên nào cũng nổ nhưng bắn thăng thiên, thăng
11
địa, tán loạn” [23, tr.76]. Đấy là lời đánh giá bằng hình ảnh, dí dỏm nhưng không
phải không đúng.
Sau Chế Lan Viên, khi cuộc chiến cận kề kết thúc, những Hoàng Trung Thông,
Bùi Công Hùng, Nguyễn Văn Long, Bằng Việt đều có bài viết về thơ trẻ thời chống
Mỹ theo hướng nghiên cứu tổng thể. Trong các bài viết ấy, mức độ này mức độ khác,
vấn đề cảm hứng và giọng điệu đã được đề cập, những đóng góp của thơ trẻ được chú
ý. Chẳng hạn, trong “Một vài suy nghĩ về dòng thơ trẻ trên miền Bắc hiện nay”,
Hoàng Trung Thông viết: “Họ đến với đội ngũ thơ, ríu rít, hồn nhiên, chân thực,
nhưng sớm ý thức phải có một tiếng nói riêng (NBL nhấn mạnh) trong tiếng nói
chung hùng tráng của dân tộc đang đánh thắng giặc Mỹ” [177, tr.62]; “Các bạn làm
thơ trẻ của chúng ta ngày càng muốn tự khẳng định mình và đem nhiều cách nói,
cách diễn tả vào phong trào thơ. Chúng ta tin ở tài năng của anh chị em đó và chúng
ta hiểu rằng họ có nhiều đóng góp đáng khuyến khích cho thơ ca” [177, tr.66].
Nghiên cứu tổng thể dòng thơ trẻ, Hoàng Trung Thông không quên chỉ ra một số
“thần thái” riêng của từng cây bút tiêu biểu: Bằng Việt “nghiêng về suy nghĩ trong
giọng thơ bình thản có phần đơn điệu”, Vũ Quần Phương “trăn trở tìm tòi, nhiều lúc
khá tinh tế mà như chưa vượt qua được những cuộc sống hạn chế quanh mình”, Lưu
Quang Vũ “chắt chiu những kỷ niệm, có trau chuốt màu mè mà thiếu sự nóng hổi của
cuộc sống”, Ngô Văn Phú “rung động về con người và cảnh sống của nông thôn,
ngày càng sâu hơn, giàu có hơn, nhưng chưa tạo được nét riêng thật độc đáo”, Phạm
Ngọc Cảnh “chân chất, khỏe”, Nguyễn Đức Mậu “đã có chiều sâu, có sức khái quát
cao”,... Riêng Phạm Tiến Duật, cũng như các nhà phê bình khác, Hoàng Trung Thông
nhận xét: “Thơ anh lấy từ cuộc sống thực, có khi trần trụi, nhưng không dừng lại ở
phản ánh đơn sơ mà được nâng lên bằng trí tưởng tượng và suy nghĩ độc đáo... Anh
phóng túng mà đã bắt đầu có bản sắc riêng” [177, tr.63]. Tuy nhiên, cái giọng “nói
chơi, nghịch ngợm, hơi ngang” trong thơ Phạm Tiến Duật, nếu nhà phê bình khác cho
là độc đáo thì ngược lại, Hoàng Trung Thông cho đấy là nhược điểm: “Vui là một đức
tính của tuổi trẻ, nhưng đi đến bỡn cợt thì không nên... Một số bài thơ gần đây của
anh cũng rơi vào những nhược điểm đó, mà có phần còn nặng hơn” [177, tr.64]. Theo
chúng tôi, lời cảnh báo của Hoàng Trung Thông không phải không có cơ sở. Thực tế
12
cho thấy, viết về Trường Sơn trong những năm chống Mỹ, giọng thơ Phạm Tiến Duật
được coi là phù hợp (phần nào thể hiện tinh thần lạc quan, ngạo nghễ, vượt lên hi sinh
gian khổ của người lính). Nhưng chuyển sang thời bình, cuộc sống cân bằng trở lại,
nếu vẫn giọng “nói chơi”, “bỡn cợt” như thế thì rất khó thành công. Có lẽ đây là lí do
vì sao cho đến cuối đời, thơ Phạm Tiến Duật vẫn chưa ra khỏi Trường Sơn.
Hoàng Trung Thông nghiên cứu thơ trẻ miền Bắc, còn Bùi Công Hùng viết về
thơ trẻ miền Nam vùng giải phóng. Trong bài “Sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ trẻ
ở miền Nam”, tác giả đã sớm đưa ra nhận định tổng quát: “Nhìn vào đội ngũ những
người làm thơ ở miền Nam, chúng ta thấy những người cầm bút trẻ chiếm một số
lượng đáng kể và có một vị trí nhất định trên văn đàn của nền văn nghệ giải phóng”
[57, tr.15]. Điểm mới ở đây là, khác một số nhà phê bình tỏ ý không khuyến khích
những bài thơ viết về mất mát hy sinh, thì theo Bùi Công Hùng, thơ trẻ miền Nam cần
phải nói lên mặt này, không nên ngợi ca một cách dễ dãi: “Nếu chỉ ca ngợi chiến
thắng một cách dễ dàng, có thể làm nhẹ giá trị của những gì chúng ta phải giành lấy
từ cái chết, đổi lấy mồ hôi nước mắt, bằng bao suy tư, bằng bao nhiêu trí tuệ thông
minh vào đó” [57, tr.16]. Ngay cả một số biểu hiện cảm xúc hoài niệm mà có nhà phê
bình hồi ấy cho là nên cảnh giác: “Khi đã tỏ ra gửi lòng mình quyến luyến với quá
khứ, không gỡ mình ra khỏi những kỷ niệm thì dẫu sao vẫn là một thái độ tiêu cực...”
[33, tr.244]; Bùi Công Hùng lại khác, ông tỏ ý đánh giá cao mạch xúc cảm này: “Tình
yêu quê hương, những người thân yêu được thể hiện một cách say mê hơn, tinh tế hơn
trong thơ trẻ miền Nam. Vì họ hiểu đó là một phần quan trọng của tình yêu Tổ quốc.
Họ trưởng thành trong cuộc sống cụ thể giàu kỉ niệm, ấn tượng, giàu màu sắc cá biệt
ấy” [57, tr.21]. Cắt nghĩa rõ hơn, Bùi Công Hùng viết: “nó phải được thể hiện trực
tiếp bằng cách nghĩ, cách viết của người dân miền Nam. Những người ở xa chiến
trường lâu ngày (tức nhà thơ tập kết mới trở về - NBL) có quyền viết về những kỉ
niệm đã có dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn, kinh qua cuộc chiến đấu” [57, tr.23]. Theo
chúng tôi, Bùi Công Hùng đã thuyết phục. Mà không riêng gì các nhà thơ miền Nam
mới “có quyền viết về kỉ niệm”; thời chống Pháp, nếu không hoài niệm thì Hữu Loan
chưa chắc đã có Màu tím hoa sim, Hoàng Cầm có thể trống vắng Bên kia sông Đuống,
Nguyễn Đình Thi, đoạn mở đầu không là “Tôi nhớ những ngày thu đã xa” thì có lẽ
13
Đất nước (tên bài thơ) đã không còn là Đất nước của Nguyễn Đình Thi nữa. Chúng
tôi cho rằng, đặt vào khung thẩm mỹ thời chiến tranh, khi phản ánh hiện thực, tính
chiến đấu được coi như tiêu chuẩn hàng đầu trong đánh giá nghệ thuật, những ý kiến
trên của Bùi Công Hùng là đáng quan tâm. Đồng thời, dấu ấn sáng tạo, giọng điệu
nghệ thuật của một số nhà thơ trẻ cũng được tác giả bài viết nhận diện: “Nguyễn Khoa
Điềm sâu sắc lắng đọng; Dương Hương Ly nồng say chân thành, Nguyễn Chí Hiếu
đằm thắm mượt mà, Ngô Bằng Vũ giàu chi tiết trăn trở tìm tòi, Vũ Ngàn Chi xông
xáo, chắc khỏe, Hồng Chinh Hiền giàu chất tạo hình. Mỗi người mỗi vẻ: Diệp Minh
Tuyền tươi mát, dịu dàng; Lê Chí giản dị; Nguyễn Bá ấm áp...” [57, tr.15].
Kế tiếp phải nói đến nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long. Trong bài “Hướng đi
của một số người làm thơ trẻ”, cùng lúc, tác giả bài viết so sánh, chỉ ra mặt mạnh mặt
yếu của một số nhà thơ: “Bên cạnh Phạm Tiến Duật phong phú thì Nguyễn Duy chắt
lọc thâm trầm suy nghĩ, tuy cảm xúc còn hơi nghèo, Nguyễn Đức Mậu lại bề bộn ngổn
ngang và đang cố gắng lắng lại để chắt lọc chất sống và dồn thêm xúc cảm” [83,
tr.7]; đồng thời đánh giá chung về thế hệ nhà thơ: “Một thế hệ lớn lên trong những
năm đánh giặc, một dòng thơ nảy nở ở ngọn nguồn thác lũ. Tuổi trẻ cầm súng và cầm
bút làm ra đời và làm ra thơ” [83, tr.7]. Cũng cần nhận thấy, Nguyễn Văn Long viết
bài này khi chiến tranh sắp kết thúc, trên nền thơ chống Mỹ hiện hình khá rõ sắc diện
dòng thơ trẻ - một dòng thơ mỗi người mỗi vẻ nhưng vẫn có những nét đặc trưng
mang dấu ấn thế hệ. Nhìn chung, đánh giá của Nguyễn Văn Long thỏa đáng vào thời
điểm ấy; còn về sau, dĩ nhiên thơ của Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức
Mậu,... đều có những đổi thay nhất định.
Không chuyên ở lĩnh vực nghiên cứu phê bình như Nguyễn Văn Long, Bằng
Việt - một cây bút tiêu biểu của thơ trẻ thời chống Mỹ cũng có bài viết về thế hệ thơ
mình. Bàn về “Chất trẻ, chất mới và sự từng trải”, là người trong cuộc, ông đưa ra
chính kiến khá thuyết phục: “Chất trẻ chỉ cho sinh khí, nhiệt tình, nó chưa phải là cứu
cánh. Mới theo tôi phải là cách nhìn riêng của mình vào sự vật, vào cuộc sống xung
quanh, phát hiện ra những góc độ chưa ai phát hiện, đón bắt những gì chỉ mới đang
manh nha trong hiện thực và cố gắng tìm ra cho nó một câu giải đáp” [197, tr.68].
Tuy vẫn phải bám vào nguyên lí văn học phản ánh hiện thực và ít nhiều vận dụng cách
14
nói của Nam Cao, nhưng Bằng Việt đã “mới” ở ý “tìm cho nó một câu giải đáp” (gần
nghĩa với “nghiền ngẫm hiện thực” - chữ của Lê Ngọc Trà). Cái mới nữa, khi không ít
nhà phê bình khẳng định ưu thế của thơ trẻ là chất trẻ, chất trẻ làm nên giá trị; Bằng
Việt lại “nói ngược”: “nó chưa phải là cứu cánh”. Ở đây còn liên quan đến việc đánh
giá thơ trẻ thời bấy giờ. Nhiều người quen nghĩ, thơ trẻ thường thiếu chiều sâu, dễ
“lệch lạc” tư tưởng. Nghĩa là họ cần được “rèn cặp”, bồi dưỡng thì mới trưởng thành.
Quan niệm phổ biến là thế, với Nguyễn Tuân thì không nghĩ thế: “Trong sáng tác
không có già trẻ gì hết, mỗi anh đều có cái sự sinh của mình, biết đâu cái thằng trẻ nó
bật ra những cái bất ngờ mà mình không có được” [190].
Như vậy, nghiêng về phương pháp trực cảm - ấn tượng (Hoài Thanh, Trang
Nghị, Định Nguyễn, Vũ Quần Phương,...); phương pháp tổng hợp - so sánh (Chế Lan
Viên, Hoàng Trung Thông, Bùi Công Hùng, Nguyễn Văn Long...) và những phương
pháp nghiên cứu khác, trước 1975, nhiều nhà phê bình đã khẳng định rõ tài năng và
đóng góp của thơ trẻ thời chống Mỹ. Điểm chung của các nhà nghiên cứu là đều tiếp
cận theo hướng “phân đôi” nội dung và hình thức (nội dung trên hết), chú trọng nhiều
đến chủ thể sáng tạo (nhà thơ); hướng nghiên cứu phong cách, thi pháp, thể loại trong
các công trình khoa học chưa nhiều. Tuy nhiên, cái đạt được nổi bật trong các bài
nghiên cứu trước 1975 là tính truyền cảm cao, gây được “hiệu ứng” tích cực cho
người đọc, khai mở vấn đề cho các công trình nghiên cứu về sau.
● Chặng thứ hai: mười năm đầu hậu chiến (1976 - 1986)
Chiến tranh kết thúc, chiến trường im tiếng súng, đất nước thống nhất, thế hệ
nhà thơ trẻ thời chống Mỹ đã không còn “trẻ” nữa. Đáng lưu ý là, trong đội ngũ nhà
thơ này, một số cây bút dành thời gian nghiên cứu về một thời thơ của thế hệ mình.
Chẳng hạn, Nguyễn Trọng Tạo: “Chất trẻ trong thơ trẻ chống Mỹ” - 1981 và “Ghi lại
mấy nhà thơ cùng thời” - 1983 (in trong Văn chương cảm & luận); Vũ Quần Phương:
“Đôi nét về lớp nhà thơ chống Mỹ 1965 - 1975” (báo Văn nghệ tháng 11 - 1978),
Kháng chiến chống Mỹ và một thế hệ nhà thơ (Văn nghệ quân đội tháng 7 - 1984),
Phạm Tiến Duật: “Về bút pháp hiện thực trong thơ Việt Nam hiện đại 1945 - 1980”
(Tạp chí văn học số 5 - 1980),... Đọc những bài nghiên cứu của họ, chúng tôi thấy
Nguyễn Trọng Tạo là người đưa ra chính kiến khá rạch ròi: “Tôi cho rằng sự thay đổi
15
quan trọng giữa các thế hệ thơ chính là sự thay đổi về giọng điệu thơ (NBL nhấn
mạnh). Sự thay đổi giọng điệu không chỉ hiểu là sự thay đổi đơn thuần về hình thức,
mà thực chất là sự thay đổi về hồn thơ, sự thay đổi về cái bên trong, cái bản chất của
sự vật” [149, tr.117]. Theo Nguyễn Trọng Tạo, thơ trẻ thời chống Mỹ hình thành từ
đầu những năm 60 nhưng phải đến khi Phạm Tiến Duật nổi danh trên thi đàn thì giọng
điệu riêng của thế hệ mới thực sự nổi bật: “Những đóng góp buổi đầu của thơ trẻ có
thể kể đến các tác giả như Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Vũ Quần phương, Nguyễn Mỹ,
Thái Giang v.v... Tuy nhiên phải đợi đến sự xuất hiện của Phạm Tiến Duật, thơ chống
Mỹ mới bộc lộ thật sự cái giọng điệu riêng của nó, cái giọng điệu riêng của lớp trẻ”
[149, tr.117]. Dẫu sao, đây cũng chỉ ý kiến của một người, tỏ ý coi thơ Phạm Tiến
Duật như đỉnh của thơ trẻ thời chống Mỹ. Đánh giá như thế không biết có quá lắm
không, nhưng phải thừa nhận rằng, đưa thơ vượt Trường Sơn cùng đoàn quân ra trận
thì không ai qua được tác giả Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Còn ý kiến của Nguyễn Trọng Tạo về sự thay đổi giọng điệu, coi đây như bước
chuyển quan trọng giữa các thế hệ nhà thơ, theo chúng tôi, hướng tiếp cận này là tín
hiệu đổi mới trong phê bình văn học nói chung, nghiên cứu thơ trẻ nói riêng (ông cũng
là tác giả của Tản mạn thời tôi sống - một bài thơ “đột phá” tư duy, nổi tiếng trong
những năm tiền đổi mới). Ngoài ra, phát hiện của Nguyễn Trọng Tạo về thơ Thanh
Thảo, thơ Hữu Thỉnh cũng có những điểm đáng quan tâm. Chẳng hạn: “Điệu thơ
thông minh một cách thâm trầm, và sắc sảo một cách ngọt ngào là bước tiến vượt bậc
trong thơ Thanh Thảo, đó cũng là bước tiến mới trong thơ chống Mỹ” [149, tr.124],
hay: “Hữu Thỉnh giàu lượng thông tin tâm hồn, mang dấu ấn rõ nét cái tôi trữ tình
của nhà thơ, góp với Thanh Thảo và lớp thơ trẻ chống Mỹ một tiếng nói nhân hậu về
cuộc chiến tranh” [149, tr.130].
Tiếp đến là bài viết “Kháng chiến chống Mỹ và một thế hệ nhà thơ” của Vũ
Quần Phương. Ở bài viết này, tác giả tiếp cận dòng thơ trẻ theo hướng nghiên cứu
tổng thể và có một số đánh giá khá thỏa đáng. Chẳng hạn, đoạn khẳng định thơ trẻ
thời chống Mỹ có chất giọng riêng, không lẫn với thơ của các thế hệ trước: “Đến
1975, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa kết thúc, lớp trẻ thực sự đã có một giọng
16
thơ riêng (NBL nhấn mạnh) khác biệt với hai lớp đàn anh, có ảnh hưởng khá rộng
trong độc giả thanh niên” [127, tr.115].
Một cây bút phê bình khác cũng tiếp cận thơ trẻ thời chống Mỹ theo hướng
nghiên cứu tổng thể. Đó là Mai Hương với bài “Nghĩ về đóng góp của đội ngũ trẻ
trong thơ chống Mỹ” (Tạp chí văn học số 1 - 1981). Đây là công trình nghiên cứu khá
công phu. Tác giả phân tích, khẳng định những đóng góp của thơ trẻ trên nhiều
phương diện, trong đó có giọng điệu nghệ thuật: “Thực tế, họ đã mang đến cho thơ
chống Mỹ tiếng nói đặc sắc của riêng của tuổi trẻ mà những thế hệ nhà thơ trước
không thể nói thay được” [64, tr.93]. Chất giọng của một số nhà thơ tiêu biểu cũng
được “gọi tên”, nhưng nhìn chung, không khác những nhà phê bình trước đó đã nhận
diện: “chắc, khỏe như Phạm Ngọc Cảnh, Nguyễn Đức Mậu; hồn hậu, nhẹ nhàng bình
dị như Nguyễn Duy; mượt mà, thấm đẫm suy tư và tình cảm như Hữu Thỉnh, Lâm Huy
Nhuận, Hoàng Nhuận Cầm...” [64, tr.96]. Mai Hương chia thơ trẻ thành hai nhánh để
làm bật nổi những đóng góp của họ: thơ trẻ ở hậu phương miền Bắc và thơ trẻ ở tiền
tuyến miền Nam. Tuy nhiên, mảng thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng chính quyền Sài Gòn
kiểm soát thì chưa đề cập tới (có lẽ thời ấy, mảng này đang “gai góc” đối với nhà
nghiên cứu). Điểm đáng lưu ý nữa ở bài viết là, tác giả đã bàn đến sự cân bằng giữa
chất liệu hiện thực với chất liệu tâm hồn trong sáng tác thơ: “Muốn có thơ, chỉ chất
liệu hiện thực không tôi chưa đủ, mà phải có chất liệu tâm hồn để chuyển hóa chất
liệu hiện thực đời sống thành thơ” [64, tr.97].
Tập trung nhiều, có tính chuyên nghiệp vẫn là những nhà khoa học ở các viện
nghiên cứu, các trường đại học. Khi cuộc kháng chiến khép lại, nhu cầu tổng kết, đánh
giá nền văn học chống Mỹ được đặt ra; đã có độ lắng thời gian, tư liệu được tập hợp,
lực lượng nghiên cứu được bổ sung... là những thuận lợi để các công trình nghiên cứu
thơ chống Mỹ tầm quy mô ra đời, trong đó có nghiên cứu dòng thơ trẻ (theo hướng
lồng ghép, tích hợp). Bao gồm Nhà thơ Việt Nam hiện đại (Viện Văn học), Văn học
Việt Nam chống Mỹ cứu nước (Viện Văn học), Văn học giải phóng miền Nam (Phạm
văn Sĩ) và nhiều công trình nghiên cứu khác.
Viện Văn học như “đầu mối” tập trung những nhà nghiên cứu uy tín: Viện
Trưởng Hoàng Trung Thông (chủ biên), Phong Lê, Vũ Tuấn Anh, Hồng Diệu, Bích
17
Thu, Vũ Văn Sỹ,... để biên soạn một số công trình khoa học bề thế, bao quát cả giai
đoạn văn học, đủ các thể loại. Dĩ nhiên, trong những công trình ấy, thơ trẻ thời chống
Mỹ có vị trí được trân trọng, được coi như hiện tượng nghệ thuật nổi bật, như sản
phẩm đặc thù của một thời kì lịch sử đặc biệt.
Công trình Nhà thơ Việt Nam hiện đại [176] hướng tới phác thảo chung về lịch
sử văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, đánh giá thành tựu của ba thế hệ nhà thơ
nối tiếp nhau. Những người biên soạn chọn một số nhà thơ trong từng thế hệ để
nghiên cứu. Hầu hết những gương mặt được chọn đều đã sáng danh trên thi đàn, họ
được tập hợp vào Nhà thơ Việt Nam hiện đại là hợp lý. Riêng thế hệ nhà trẻ thời
chống Mỹ, những cây bút quen thuộc như Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly,
Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Trần Đăng Khoa đều
được phân tích đánh giá thấu đáo. Theo chúng tôi, nếu có thêm Hữu Thỉnh, Thanh
Thảo, Nguyễn Duy, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Đức Mậu, Hoàng Nhuận Cầm,... trong
công trình thì chân dung thơ trẻ thời chống Mỹ sẽ đầy đặn hơn.
Tiếp đến, Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước [195] là công trình nghiên
cứu được triển khai theo từng thể loại: văn xuôi, thơ, kịch. Trong đó, phần thơ (Vũ
Tuấn Anh biên soạn) chiếm dung lượng nhiều nhất (11 trong tổng số 21 chương). Ở
phần này, bên cạnh đánh giá khái quát về một chặng đường vận động của thơ ca dân
tộc trong bối cảnh chiến tranh, nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh còn khám phá phong
cách các thế hệ nhà thơ từ những cây bút tiêu biểu (chương 8). Theo đó, phong cách
của một số nhà thơ trẻ như Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Quỳnh, Phạm
Tiến Duật,... được nhận diện qua những nét phác thảo, mỗi người có điểm mạnh và
điểm yếu riêng. Chẳng hạn: “Vẫn sôi nổi, thiết tha, vẫn những cảm nghĩ mạnh bạo và
lối viết trong trẻo, phóng khoáng, thơ Xuân Quỳnh in dấu rõ những chuyến đi, những
cảnh vật, con người cụ thể... mạch thơ của chị cũng còn nhiều tản mạn, sức tổ chức
nội tại ở một số bài còn yếu” [195, tr.198]. Đồng thời, Vũ Tuấn Anh cũng chỉ ra mối
liên hệ, ảnh hưởng cũng như sự tiếp nối giữa các phong cách: “Bằng Việt, Xuân
Quỳnh có thời kì giống nhau trong lối viết thiên về cảm xúc, bút pháp nhẹ nhàng êm ả.
Lê Anh Xuân và Tế Hanh, hai nhà thơ miền Nam thuộc hai thế hệ cầm bút, sống và
sáng tác trong hai hoàn cảnh khác nhau nhưng cũng có những nét gần gũi trong
18
những bài thơ về quê hương, về người em gái miền Nam” [195, tr.200]. Chúng tôi
quan tâm đến những nhận định này, bởi trong sáng tạo nghệ thuật, phong cách không
tách rời cảm hứng và giọng điệu.
Trước đó (chương 5), tác giả biên soạn phần thơ có đoạn khái lược chất giọng
của một số cây bút trẻ khá thuyết phục, nhận diện đúng “hồn cốt” trong thơ họ: “Lê
Anh Xuân sôi nổi và thiết tha, Chim Trắng thủ thỉ ngọt ngào..., Nguyễn Khoa Điềm sôi
nổi mà sâu lắng, Trần Vàng Sao mạnh mẽ và phóng túng, Vũ Ngàn Chi hào hùng,...”
[195, tr.128 - 129].
Cũng trong công trình Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, có thể nói, lần
đầu tiên mảng thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền Nam được nghiên cứu theo
hướng tổng thể, hé lộ cách nhìn mới (chương 20: “Sức bật của một đội ngũ cầm bút
trẻ” - Thạch Phương viết). Thực ra trước đó, mảng thơ này đã được một số nhà phê
bình để ý: Giang Nam - “Vài suy nghĩ khi đọc tập “Thơ máu” của sinh viên Sài Gòn”,
Nguyễn Huy Khánh - “Hai mươi năm văn học yêu nước tại các thành thị miền Nam
1954 - 1975”, Trường Lưu - “Đề tài chiến tranh trong văn học miền Nam vùng tạm bị
chiếm”,... Nhưng nhìn chung, ý kiến đánh giá còn dè dặt, thậm chí nghiêng về phê
phán. Phải thừa nhận tính phức tạp của mảng thơ này, nhà phê bình Lê Quang Trang
viết: “nếu nhìn vào tình hình văn nghệ ở các đô thị dưới chế độ Sài Gòn thì phức tạp
nhân lên rất nhiều. Chỉ riêng khuynh hướng văn học cách mạng, yêu nước, tiến bộ
cũng không hề đơn giản” [185, tr.50]. Vả lại, một phần còn do sự ràng buộc của tư
duy chiến tranh, phải để sau cuộc chiến kết thúc một thời gian, nhà phê bình mới vững
tâm viết về nó. Thạch Phương khẳng định: “Có thể nói chưa bao giờ trong các thành
thị miền Nam có một đội ngũ làm thơ đông đảo và sung sức như những năm cuối 60
đầu 70, và cũng chưa bao giờ người làm thơ lại có ý thức sử dụng sáng tác của mình
đi sâu vào quần chúng để phục vụ cho cuộc đấu tranh như vậy” [195, tr.421]. Đi vào
cụ thể, tác giả biên soạn đã phác thảo một số nét nổi bật trong sáng tác của một số nhà
thơ tiêu biểu: Trần Quang Long, Thái Ngọc San, Đông Trình, Tần Hoài Dạ Vũ, Võ
Quê, Trần Vạn Giã,... Những ý kiến của Thạch Phương, theo chúng tôi, là sự cụ thể
hóa quan niệm: “Bắc - Nam một nước, văn nghệ một nhà”, hữu ích đối với các nhà
nghiên cứu văn học.
19
Nhìn chung, trong những năm đất nước chiến tranh và vừa ra khỏi chiến tranh,
dõi theo diễn trình vận động của dòng thơ trẻ thời chống Mỹ, phần đa các bài viết đều
nghiêng về phát hiện, giới thiệu, bình phẩm sáng tác của một số nhà thơ tiêu biểu. Còn
nghiên cứu ở dạng tổng thể, “xâu chuỗi” toàn bộ dòng thơ trẻ với tư cách là một hiện
tượng nghệ thuật trong một công trình khoa học thì chưa nhiều. Do dòng thơ trẻ đang
vận động (trong chiến tranh) và vừa đi hết lộ trình của nó (thập niên đầu sau chiến
tranh), độ giãn thời gian chưa là bao, nên nhìn đại thể, tuy đã có một số công trình
nghiên cứu làm rõ những đóng góp của các nhà thơ trẻ vào nền văn học chống Mỹ,
nhưng về thành tựu của cả thế hệ nhà thơ (nhìn từ cảm hứng, giọng điệu, thi pháp,...)
thì phải sau 1986 mới được triển khai với tư cách là những đề tài khoa học chuyên
ngành.
2.2. Giai đoạn từ đổi mới 1986 đến nay
Điều mà ai cũng dễ nhận thấy: trước 1986, phần lớn các công trình nghiên cứu
thơ trẻ thời chống Mỹ đều nghiêng về mặt nội dung tư tưởng. Phải bắt đầu từ giai
đoạn đất nước bước vào đổi mới (1986) trở về sau, hình thức nghệ thuật mới được chú
trọng đúng mức; nhiều vấn đề được khám phá, nhận thức lại. Đồng thời cũng nảy sinh
những ý kiến trái chiều, thậm chí cực đoan: hoặc khẳng định “giá trị tuyệt đối” của
thơ trẻ thời chống Mỹ, hoặc “phủ nhận sạch trơn” thành tựu của dòng thơ này. Kỳ
thực cả hai đều không công bằng, chưa khoa học. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, số công
trình nghiên cứu có sự đánh giá hợp lí vẫn nhiều hơn, nổi trội hơn.
Do có sự ứng dụng lý thuyết phê bình văn học phương Tây nên nhiều vấn đề
thuộc nội dung và nghệ thuật của thơ trẻ thời chống Mỹ được tiếp cận theo hướng
mới, bóc tách thành các đề tài chuyên sâu, hay chuyển sang sử dụng thuật ngữ khác
(như phong cách, cảm hứng, giọng điệu, cái tôi trữ tình, thi pháp thể loại, đặc điểm
thẩm mỹ, tư duy nghệ thuật,...).
Khó tính hết những bài viết về thơ trẻ thời chống Mỹ đăng trên các tờ báo và
tạp chí. Số lượng công trình nghiên cứu dòng thơ này khá nhiều, đủ các tầm độ. Ở đây
chúng tôi chỉ điểm một số công trình tiêu biểu, liên quan đến đề tài luận án mà bản
thân đang nghiên cứu.
20
Những Lịch sử văn học Việt Nam tập III [94], Giáo trình Văn học Việt Nam tập
II [79], Một thời đại mới trong văn học [109], 50 năm văn học Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám [110], Văn học Việt Nam trong thời đại mới [80], Tiếp cận và đánh
giá văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám [81], Văn học Việt Nam hiện đại,
nhận thức và thẩm định [3], Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại [73], Tư duy và tư duy
thơ Việt Nam hiện đại [160], Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước [54],... là
những công trình nghiên cứu khá quy mô, trong đó mức này mức khác đều có phân
tích, đánh giá thơ trẻ thời chống Mỹ.
Riêng ở Lịch sử văn học Việt Nam tập III và Giáo trình Văn học Việt Nam tập
II, thơ trẻ thời chống Mỹ được tách thành một chương (tiêu đề “Thế hệ các nhà thơ trẻ
thời kì chống Mỹ cứu nước”). Có thể coi đó như công trình nghiên cứu dòng thơ này
tương đối trọn vẹn. Các tác giả biên soạn giáo trình tái khẳng định thơ trẻ thời chống
Mỹ có chất giọng riêng, rất đặc trưng: “Họ tạo ra một tiếng thơ rất mới mẻ: trẻ trung,
tươi nhộn, thông minh, rất có ý thức về trách nhiệm lịch sử của mình đồng thời cũng
rất ý thức về tiếng thơ riêng của thế hệ mình... tạo được giọng thơ đặc trưng cho tâm
hồn người lính thời chống Mỹ” [94, tr.53]; và chú ý đến “cái tôi thế hệ” - một thuật
ngữ mới, hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ mà trước 1986
chưa có: “Cái tôi thế hệ là dạng thức tiêu biểu, nổi bật của cái tôi trữ tình trong thơ
các nhà thơ trẻ thời kì chống Mỹ” [79, tr.44]; “Thơ trẻ thời kì chống Mỹ là tiếng nói
của cái tôi thế hệ vừa trẻ trung vừa già dặn, vừa hồn nhiên trong cảm xúc và sâu lắng
suy tư” [94, tr.370]. Ý kiến các tác giả biên soạn hai giáo trình trên đã thuyết phục
trong đánh giá: “Thơ trẻ thời kì chống Mỹ tuy còn có những hạn chế, những non nớt
nhưng đã làm tròn sứ mệnh vinh quang của nó, có những đóng góp đáng ghi nhận,
xứng đáng là một hiện tượng nổi bật trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại” [94,
tr.387]. Ngoài chương nghiên cứu tổng thể dòng thơ này, một số nhà thơ tiêu biểu như
Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa
cũng được các nhà biên soạn dành từng chương riêng để nghiên cứu chuyên sâu từng
tác giả theo hướng tiếp cận mới. Đây là hai công trình được sử dụng làm giáo trình
chính thức trong các trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm, hàm lượng khoa học rất
cao.
21
Tương đồng ý kiến của các nhà biên soạn giáo trình trên, trong tiểu luận “Hệ
thống thể loại trong văn học Việt Nam sau 1945”, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân
phát triển thêm cái tôi trữ tình trong thơ trẻ thời chống Mỹ. Theo ông: “Nếu như lớp
nhà thơ này không mấy khi sử dụng cái tôi ở dạng khái quát nhất (cái “ta”- đại diện
dân tộc, thời đại kiểu Tố Hữu, Chế Lan Viên, tức là dạng thơ sử thi điển hình) thì họ
lại thường thành công trong việc triển khai cái tôi sinh hoạt đời thường” [109,
tr.144]. Quan niệm như vậy, từ góc nhìn thể loại, Lại Nguyên Ân đề xuất: “Với sáng
tác của những nhà thơ xuất hiện giữa những năm 60 như Bằng Việt, Phạm Tiến Duật,
Xuân Quỳnh, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân,v.v...ta không dễ xếp tất cả thơ của họ
vào thể tài trữ tình chính trị” [109, tr.144]. Đến nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, vấn đề
được khẳng định rõ ràng: “Thế hệ các nhà thơ trẻ trong chống Mĩ cứu nước như
Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Quỳnh, Hữu Thỉnh… đã vượt qua được
những trói buộc ban đầu để thơ họ vẫn có phần tuyên truyền chính trị, nhưng không
phải hoàn toàn là thơ chính trị” [144]. Đấy là những ý kiến khả tín giúp chúng tôi có
thêm cơ sở để nghiên cứu cảm hứng đời tư, thế sự; tương ứng với nó là giọng trữ tình
thống thiết và giọng day dứt tự vấn trong trẻ thời chống Mỹ.
Trong chuyên luận Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, tuy nhà nghiên cứu Mã
Giang Lân không đi sâu vào thơ trẻ thời chống Mỹ, nhưng khi khảo sát vấn đề liên
quan, ông đưa ra những nhận xét sắc sảo, khá chuẩn xác. Chẳng hạn về ngôn ngữ:
“Các nhà thơ trẻ có ngôn ngữ tươi mới hơn, góc cạnh hơn, với nhiều màu sắc và khả
năng tạo hình” [73, tr.327], về thể thơ: “Các nhà thơ trẻ vẫn là những tác giả xông
xáo trong trong tự do nhiều hơn, và phần nào đáp ứng được như cầu phản ánh đời
sống phong phú, bề bộn, sôi động” [73, tr.355]; hay về tứ thơ: “Các nhà thơ trẻ từ
thực tế chiến trường đã có nhiều tứ thơ độc đáo, mới mẻ” [73, tr.342].
Nhìn thơ trẻ thời chống Mỹ từ góc độ tư duy nghệ thuật, Nguyễn Bá Thành
nhận thấy một số cây bút trong dòng thơ này đã có sự chuyển dịch từ thiên về cảm xúc
ở chặng đầu sang thiên về trí tuệ ở chặng sau: “Tư duy thơ chống Mỹ đã vượt qua giai
đoạn phong trào mà vươn tới chiều sâu khái quát vào những năm 70. Đó là thời kì
của những Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Đức Mậu,
Anh Ngọc, Lâm Thị Mỹ Dạ...” [160, tr.248].
22
Chuyên luận Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Lê Thị Bích
Hồng là công trình nghiên cứu công phu. Diện mạo và đặc điểm của thơ kháng chiến
chống Mỹ (trong đó có thơ trẻ) được tác giả tìm hiểu và phân tích khá kĩ trên nhiều
phương diện: Cái tôi trữ tình và các hình tượng thơ tiêu biểu, những khuynh hướng
chính trong sự vận động của thơ, xu hướng tự do hóa hình thức thơ,... Riêng cái tôi trữ
tình, ngoài những dạng thức đã được mặc định (cái tôi sử thi, cái tôi thế hệ...), Lê Thị
Bích Hồng phát triển thêm “cái tôi phi sử thi” (thực ra, khái niệm này đã được một
nhà nghiên cứu nhắc đến trong bài viết trước đó). Nội dung của “cái tôi phi sử thi” mà
tác giả triển khai, theo chúng tôi, là sản phẩm của cảm hứng đời tư - thế sự, một dạng
cảm hứng tuy không được khuyến khích, thậm chí bị phê phán trong hoàn cảnh chiến
tranh nhưng vẫn không bị triệt tiêu. Khái niệm “cái tôi phi sử thi” (tức ngoài cái tôi sử
thi), chúng tôi nghĩ, cần phải gắn cho nó một hàm nghĩa cụ thể, không thể gọi tên một
hiện tượng nằm ngoài hiện tượng. “Cái tôi phi sử thi” trong thơ chống Mỹ đích thực là
cái tôi đời tư - thế sự (đời tư nhiều hơn), nó được nhận diện nhờ một số sáng tác từ
thời chiến tranh nhưng phải mấy chục năm sau mới công bố rộng rãi. Những cứ liệu
mà Lê Thị Bích Hồng sử dụng đã làm rõ điều đó.
Mấy năm gần đây, số lượng công trình nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ dưới
dạng luận văn, luận án ngày càng nhiều. Chẳng hạn:
- Một số phong cách tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ chống Mỹ là Luận án
Tiến sĩ của Giang Khắc Bình (Viện Văn học, 2009). Trọng tâm của Luận án này,
ngoài biện giải khái niệm phong cách nghệ thuật và các cấp độ biểu hiện của nó, tác
giả hướng vào làm nổi bật phong cách nghệ thuật của một số nhà thơ: Phạm Tiến
Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh. Phải công nhận rằng, năm
nhà thơ trên là những gương mặt tiêu biểu trong thế hệ thơ trẻ thời chống Mỹ. Những
sáng tác của họ có dấu ấn riêng, giọng điệu khó lẫn. Nhưng vào thời điểm ấy (khi mới
xuất hiện trên thi đàn và một số năm tiếp theo) thơ họ đã hình thành phong cách cá
nhân nổi bật hay chưa (hiểu đầy đủ khái niệm này), vấn đề dễ nảy sinh những ý kiến
khác nhau. Chúng tôi cho rằng, từ tổng thể những dấu ấn, những giọng điệu của
những nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, tìm ra nét tương đồng, cốt lõi (thống nhất trong đa
dạng) làm nên phong cách một thế hệ nhà thơ là khá thuyết phục. Nhìn lại thời chống
23
Mỹ, sáng tác của các nhà thơ trẻ, trên tổng thể, thế hệ họ có phong cách đặc trưng; tuy
có tiếp nối, kế thừa thế hệ nhà thơ lớp trước nhưng cũng dễ phân biệt. Điểm dễ phân
biệt nhất vẫn ở giọng thơ. Tác giả luận án chỉ ra điều đó: “Đến giai đoạn sau này, khi
các tác giả đã thực sự nhập cuộc với ý thức tự xác định cho mình một giọng điệu
riêng, những cách thức riêng, họ đã tạo nên nhiều chất giọng mới. Cũng là ca ngợi,
cổ vũ nhưng thơ của họ dường như đã tách khỏi âm vực cao vút của sử thi để trở nên
trầm lắng hơn, suy tư hơn” (12, tr.123).
- Tiếp đến, Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 là Luận án Tiến
sĩ của Bùi Bích Hạnh (Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh, 2012). Ở công trình khoa
học này, Bùi Bích Hạnh mở rộng đối tượng nghiên cứu đến mảng thơ trẻ vùng đô thị
miền Nam. Theo đó, thơ Trần Quang Long, Ngô Kha, Trần Vàng Sao, Tần Hoài Dạ
Vũ, Đông Trình, Lê Văn Ngăn,... tức sáng tác của những nhà thơ trẻ yêu nước tiến bộ
được tác giả Luận án khảo sát khá kĩ. Trong quá trình phân tích làm rõ sự vận động
của cái tôi trữ tình, các dạng thức và phương thức biểu hiện của nó, Bùi Bích Hạnh
nhận ra sự chuyển đổi chất giọng trong thơ trẻ thời chống Mỹ: “Thơ trẻ dường như có
một sự chuyển đổi chất giọng (NBL nhấn mạnh) trong trẻo, hồn hậu sang bè trầm
của giọng buồn. Dấu ấn đời tư có khi hằn vào thơ viết về dân tộc sự xót xa, hoài nghi
trong tuyệt vọng. Đó là giọng điệu chất vấn trong niềm thổn thức của cái tôi trữ tình”
[45, tr.173]. Có lẽ cơ sở để tác giả luận án khẳng định như vậy, chủ yếu căn cứ vào
thơ trẻ vùng đô thị miền Nam và những sáng tác của Lưu Quang Vũ trong tập Di Cảo
- 2008 (những bài thơ viết từ thời kháng chiến chống Mỹ nhưng hồi ấy chưa được
công bố). Rõ ràng là Di cảo có nhiều bài “gần hệ” với thơ trẻ vùng đô thị miền Nam
(buồn, hoài nghi, oán trách chiến tranh). Tuy đây không phải là giọng chủ đạo của thơ
trẻ thời chống Mỹ nhưng sự hiện hữu của nó là không thể phủ nhận, dẫu nó phải trải
mấy chục năm hậu chiến mới được công khai trước công chúng. Về phương diện này,
dù không nói rõ vị trí thứ yếu của “giọng buồn”, “giọng chất vấn” trong thơ trẻ thời
chống Mỹ, nhưng ý kiến của Bùi Bích Hạnh được coi là mới so với một số công trình
nghiên cứu khác.
- Những đóng góp của thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước đối với nền văn học
Việt Nam hiện đại [116] của Hoàng Kim Ngọc ban đầu là Luận văn Thạc sĩ, sau được
24
tác giả biên soạn thành tài liệu hỗ trợ dạy và học trong trường CĐSP (thuộc “Dự án
Đào tạo giáo viên THCS” - Bộ Giáo dục và Đào tạo). Ở công trình này, Hoàng Kim
Ngọc đặt trọng tâm vào việc khẳng định thành tựu của cả thế hệ nhà thơ từ số lượng,
chất lượng đội ngũ đến giá trị về tư tưởng và nghệ thuật trong toàn bộ sáng tác của họ.
Những đóng góp về cái tôi trữ tình, thể thơ, giọng điệu, ngôn ngữ,... của thơ trẻ thời
chống Mỹ cũng được Hoàng Kim Ngọc tổng hợp khá đầy đủ. Tuy nhiên, phần đánh
giá thì Hoàng Kim Ngọc chưa có ý mới, ý khác so với những người đã nghiên cứu
trước đó. Còn việc coi phản ánh hiện thực là phẩm chất cao nhất của thơ, đánh giá đó
là “hướng đi lớn của thơ trẻ chống Mỹ” (chương II), theo chúng tôi, tác giả công trình
đã lùi về trước đổi mới 1986.
- Luận văn Thạc sĩ của Phạm Thị Hoan (đề tài Đặc điểm thơ nữ thế hệ chống
Mỹ, Đại học Vinh - 2008) khảo sát khá đầy đủ sáng tác của một số nữ nhà thơ tiêu
biểu: Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây,... (dĩ
nhiên, thiếu Lý Phương Liên). Với chúng tôi, điểm đáng chú ý trong luận văn này là,
tác giả đã đưa ra nhận xét khá ấn tượng về giọng điệu đặc trưng của giới nữ: “Thơ nữ
thế hệ chống Mỹ mang đến cho thơ hiện đại một chất giọng riêng, mang đậm dấu ấn
của giới nữ (NBL nhấn mạnh), của thời đại mà các chị cảm nhận được bằng tâm hồn
của người yêu, người vợ, người mẹ...” [46, tr.90].
- Ở cấp độ bài viết về thơ trẻ thời chống Mỹ đăng trên các tờ báo và tạp chí thì
khó tính hết. Tuy nhiên, trước những tranh luận trái chiều xung quanh việc thẩm định
và đánh giá lại nền văn học chống Mỹ, một số nhà thơ trẻ thời ấy đã có bài viết thể
hiện chính kiến của mình. Những bài viết ấy khiến người nghiên cứu không thể không
quan tâm. Bởi đó là ý kiến của những người trong cuộc, họ hiểu thế hệ họ và thời thơ
của họ hơn ai hết. Ấy là Bằng Việt, Thanh Thảo, Vân Long, Vũ Quần Phương, Trần
Nhuận Minh, Bế Kiến Quốc,... Trong bài “Người của một thời, thơ của một người”,
nhà thơ Bằng Việt khẳng định: “Có một điểm, có lẽ là điểm mấu chốt nhất của thế hệ
văn học trưởng thành trong chiến tranh chống Mỹ, đó là phạm trù cái tôi biết tự
nguyện điều tiết thế nào trong cái ta, bản thể của cá nhân mình hòa nhập đến đâu với
cả thế hệ mình và biết đặt mình vào mối quan hệ tương hỗ như thế nào, để sẵn sàng
đóng góp trên ý thức xây dựng chung cho tất cả cộng đồng” [198 tr.52]. Nói về một
25
số sáng tác chưa thể công bố trong những năm tháng chiến tranh, Bằng Việt tỏ ý cảm
thông: “Những bài thơ như “Nghĩ lại về Paustovsky” chẳng hạn, tôi để trong sổ tay
hàng chục năm, trước khi được in. Tuy nhiên, tôi cũng chẳng lấy đó làm lí do trách cứ
gì cơ chế hạn hẹp thời ấy” [198, tr.52]. Như mang “duyên nợ” sâu nặng với một thời
thơ oanh liệt, mới đây (2014), Bằng Việt lại có bài viết về lớp nhà thơ trẻ chống Mỹ,
theo ông, đó là thế hệ nhà thơ có“số phận đặc thù trong hoàn cảnh cũng đặc thù”
[199, tr.35].
Đối với người nghiên cứu, những lời tâm sự như Bằng Việt là rất đáng để ý.
Tức, khảo sát thơ trẻ thời chống Mỹ phải bao gồm cả những sáng tác trong bối cảnh
chiến tranh nhưng mấy chục năm sau mới được in ấn công khai (số lượng không ít);
và cũng cần chú ý đến “số phận đặc thù” của chủ thể đã tạo sinh ra nó.
Thanh Thảo trong bài “Thế hệ chúng tôi không sống bằng kỷ niệm. Nhưng...”
có ý kiến rất sắc sảo: “Chiến tranh không làm nhiệm vụ sàng lọc thơ, nhưng chiến
tranh đẩy sâu thơ về phía con người, dìm thơ vào số phận con người” [166, tr.3]. Đến
bài viết “Số phận, phần thưởng của thơ”, Thanh Thảo phát triển rõ hơn: “Chúng ta đã
có một thế hệ nhà thơ cả hai miền Nam - Bắc mà bây giờ được gọi là “thế hệ những
nhà thơ chống Mỹ”... Chính cuộc chiến tranh tàn khốc ấy đã khiến thơ họ có số phận,
những số phận thơ rất riêng trong số phận chung của nhân dân Việt” [165, tr.13].
Nhà thơ Vân Long thì đặt lại vấn đề cần hiểu cho đúng hai chữ “đồng ca”:
“Thơ chống Mỹ có phải dàn đồng ca ?” [85, tr.55]. Hay trong “Bàn tròn thơ chống
Mỹ” (Tạp chí Thơ số 2 - 2003), nhà thơ Trần Nhuận Minh cảm thấy “tiếc” về việc
“đến tận ngày hôm nay, những giá trị tinh thần to lớn của một thế hệ thơ chủ lực của
cuộc kháng chiến sắp đi qua vẫn không được tổng kết một cách đầy đủ và trí tuệ”
[113, tr.47].
Ngoài ra, nhận xét của Michelle Cahill về thơ Thanh Thảo cũng rất đáng chú ý
khi nghiên cứu cảm hứng và giọng điệu thơ trẻ thời chống Mỹ: “Sự trong sáng của
thơ Thanh Thảo, giọng điệu lạ thường và hấp dẫn của ông có thể được gán cho nhiều
khuôn mặt của chiến tranh mà ông mô tả. Dù là riêng tư và mang tính cá nhân thì thơ
vẫn luôn luôn ám chỉ bối cảnh lịch sử và xã hội của thế giới mà chúng đề cập đến”
[13, tr.30].
26
Riêng mảng thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền Nam, sau 1986, nhất là
từ thập niên đầu thế kỷ XXI, ngày càng được nhiều người tìm hiểu, khám phá. Sản
phẩm là những công trình nghiên cứu ở các tầm độ khác nhau. Trong đó, Khóa luận
tốt nghiệp đại học của Trần Thị Mỹ Hiền, đề tài Thế giới siêu thực trong thơ Ngô Kha
(Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí
Minh, 2011) được đánh giá xuất sắc. Nhìn chung, hướng tiếp cận trong các công trình
nghiên cứu đã có nhiều đổi mới, chủ yếu tập trung sâu vào mặt nghệ thuật; đối tượng
nghiên cứu có khi được mở ra ngoài khuynh hướng yêu nước tiến bộ (chẳng hạn sáng
tác của Nguyễn Bắc Sơn, Thanh Tâm Tuyền). Nghiên cứu thơ họ, theo chúng tôi,
đánh giá cao những đóng góp về hình thức, thi pháp (rõ nhất ở Thanh Tâm Tuyền) thì
đó là bổn phận của khoa học, cần được khuyến khích. Nhưng đánh giá cao nhằm
hướng tới phủ nhận thơ trẻ chống Mỹ theo khuynh hướng cách mạng (thơ “Việt
Cộng”) thì lại là chuyện khác. Nhà thơ Bế Kiến Quốc trong một bài viết đã có ý đề
cập đến vấn đề này: “Biểu dương quá mức một vài hiện tượng (như Thanh Tâm Tuyền
chẳng hạn) rõ ràng là không đúng. Nhưng gạt bỏ tất cả thì cũng lại không công bằng,
không khoa học” [110, tr.279]. Tuy nhiên, số công trình nghiên cứu thơ trẻ vùng đô
thị miền Nam (trong đó có mảng yêu nước tiến bộ), những ý kiến đánh giá thỏa đáng,
thuyết phục vẫn nhiều và nổi trội hơn. Chẳng hạn, trong bài “Nghĩ về tuổi trẻ, nghĩ về
thơ, nghĩ...”, nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá khái quát chất giọng nổi bật của một số nhà
thơ tiêu biểu: “Ta dễ nhận ra giọng thơ hào sảng thấm đẫm nhiệt tình của Trần
Quang Long, cách thể hiện cô đọng và hiện đại trong thơ Ngô Kha. Ta dễ mến tiếng
thơ hồn nhiên chân thật của Hữu Đạo, Võ Quê và lối viết mực thước, tinh tế của Đông
Trình... Quan trọng hơn, xét chung cả đội ngũ, sáng tác của họ thật sự có một sinh khí
dồi dào và một diện mạo mới mẻ” [53, tr.20 - 21]. Về phương diện tư tưởng, đánh giá
sáng tác của những cây bút viết truyện ngắn theo khuynh hướng yêu nước tiến bộ (bên
cạnh mảng thơ trẻ), trong Lời tựa Tuyển tập truyện ngắn Việt (Nhà xuất bản Trẻ, Tp
Hồ Chí Minh, 1997), nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương viết: “Chúng ta không chỉ
đọc tuổi trẻ của họ mà còn đọc số phận nhân dân, số phận những người bị bức hại. Ý
thức nhập cuộc đã đưa các nhà văn đi ra ngoài cái thế giới riêng tư của mình để vươn
27
tới sự cảm thông và chia sẻ thân phận bèo bọt của những người bị thiệt thòi nhất
trong xã hội miền Nam trước 1975”.
Như vậy, nhìn tổng thể, cả hai giai đoạn trước và sau đổi mới (1986), dù tiếp
cận theo những hướng khác nhau nhưng điểm đến của các nhà nghiên cứu là đều
khám phá thơ trẻ về tư tưởng và nghệ thuật. Trong nhiều công trình nghiên cứu, ở
mức này mức khác, vấn đề cảm hứng và giọng điệu của dòng thơ này đã được tiếp
cận. Với chúng tôi, tất cả những công trình ấy đều rất hữu ích, có ý nghĩa khai mở để
chúng tôi tiếp tục nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ từ cảm hứng và giọng điệu bằng
một công trình khoa học hoàn chỉnh, chuyên biệt.
Đó là Thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ: Cảm hứng và giọng
điệu, tức đề tài Luận án của chúng tôi.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Là cảm hứng và giọng điệu trong thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống
Mỹ (gọi tắt “thơ trẻ thời chống Mỹ”) với tư cách là hiện tượng nghệ thuật của một thế
hệ nhà thơ; có so sánh, đối chiếu với thơ chống Mỹ của các thế hệ trước.
- Ở đây, cảm hứng và giọng điệu được chúng tôi tiếp cận theo “loại hình hóa”
(chữ của M. Bakhtin), tức quy về từng dạng cảm hứng, từng kiểu giọng điệu của cả
thế hệ nhà thơ để nghiên cứu, không chuyên sâu một nhà thơ cụ thể nào, càng không
làm phép cộng “cơ học” cảm hứng và giọng điệu của từng nhà thơ gộp lại. Việc khảo
sát cảm hứng, giọng điệu của một số nhà thơ tiêu biểu cũng cốt để làm rõ sự thống
nhất trong đa dạng của dòng thơ trẻ thời chống Mỹ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Trong thể thống nhất “Bắc - Nam một nước, văn nghệ một nhà”, chúng tôi coi
thơ trẻ thời chống Mỹ là hợp lưu ba nguồn: Thơ trẻ miền Bắc, thơ trẻ vùng giải phóng,
thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền Nam. Biên độ của nó tính từ khi hình thành
(đầu thập niên 60) đến kết thúc chiến tranh (1975); có xem xét một số sáng tác trong
thập niên đầu sau chiến tranh. Với dung lượng cho phép của một Luận án (theo quy
định), để tăng chiều sâu, chúng tôi tập trung khảo sát thơ trẻ miền Bắc và thơ trẻ vùng
giải phóng, còn thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền Nam thì chọn một số cây
28
bút tiêu biểu như Trần Quang Long, Đông Trình, Trần Vàng Sao, Ngô Kha, Tần Hoài
Dạ Vũ, Thái Ngọc San, Lê Văn Ngăn,… để nghiên cứu. Ở đây, khái niệm “yêu nước
tiến bộ” được hiểu theo nghĩa chống ngoại xâm, đấu tranh cho độc lập tự do, thể hiện
lòng tự hào, tự tôn dân tộc; phân biệt với mảng thơ trẻ vùng đô thị nằm ngoài “khung
yêu nước” này (và cũng ngoài phạm vi đề tài; tuy nhiên, khi cần có thể so sánh, đối
chiếu).
Riêng ở nguồn 1 (thơ trẻ miền Bắc), những thi phẩm vì lí do nào đó mà thời
chống Mỹ chưa công bố (hoặc đã công bố nhưng phạm vi hẹp), nay được lưu hành
rộng rãi, công khai: như Lưu Quang Vũ - Di cảo; thơ Lý Phương Liên, Lê Huy Quang,
Hoàng Hưng, Lê Xuân Đố,... Và cả Phạm Tiến Duật (bài Những vùng rừng không
dân), Lâm Thị Mỹ Dạ (bài Những ngày không anh), Bằng Việt (bài Nghĩ lại về
Pauxtôpxky),... Hay một số sáng tác mới được sưu tầm (in trong Khúc tráng ca Thành
Cổ [10]): Thơ Trần Lê An, Phạm Đông Hưng, Nguyễn Trọng Định, Nguyễn Văn
Thạc, Nguyễn Hải Nghiêm,... đều nằm trong phạm vi khảo sát của chúng tôi.
- Về ngữ liệu: Chúng tôi khai thác thơ của nhiều thế hệ được sáng tác trong
thời kì chống Mỹ cứu nước. Nguồn chính là thi phẩm của thế hệ nhà thơ trẻ, có mở
rộng đến thơ kháng chiến chống Pháp và thơ chặng đầu sau 1975 nhưng số lượng
không nhiều, chỉ sử dụng khi cần thiết.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phương pháp lịch sử
Nghiên cứu cảm hứng và giọng điệu thơ trẻ thời chống Mỹ, chúng tôi đặt toàn
bộ sáng tác của thế hệ nhà thơ này vào bối cảnh lịch sử cụ thể (cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc) để khảo sát; nghiên cứu trong mối liên hệ biện chứng theo một trình tự
khách quan, khoa học. Đồng thời cảm hứng và giọng điệu của dòng thơ trẻ cũng được
xem xét trong mối quan hệ gắn bó với nền thơ chống Mỹ nói riêng, diễn trình thơ ca
kháng chiến nói chung.
4.2. Phương pháp hệ thống
Mọi yếu tố đều tồn tại trong hệ thống, bất cứ hệ thống nào cũng bao hàm trong
nó những yếu tố hợp thành. Chúng tôi coi cảm hứng và giọng điệu trong thơ trẻ thời
chống Mỹ là một hệ thống. Nghiên cứu hệ thống này tức là đi vào khảo sát phân tích
29
các dạng cảm hứng và các kiểu giọng điệu (tức các yếu tố). Mối quan hệ giữa các yếu
tố thuộc cảm hứng và các yếu tố thuộc giọng điệu là mối quan hệ biện chứng giữa tư
tưởng và nghệ thuật, nội dung và hình thức.
4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Từ kết quả của phương pháp hệ thống, chúng tôi so sánh, đối chiếu cảm hứng
và giọng điệu trong thơ trẻ thời chống Mỹ với cảm hứng và giọng điệu trong thơ
chống Mỹ của các thế hệ trước nhằm làm rõ đặc trưng của thơ trẻ thời chống Mỹ với
tư cách là một hiện tượng nghệ thuật, một thực thể thẩm mỹ. Đồng thời, khi cần thiết
chúng tôi còn so sánh trên các bình diện: giai đoạn (thơ yêu nước trước và trong
chống Mỹ); vùng miền (thơ trẻ chống Mỹ ở miền Bắc - thơ trẻ chống Mỹ ở miền
Nam); giới tính (thơ trẻ chống Mỹ giới Nam - thơ trẻ chống Mỹ giới nữ),...
4.4. Phương pháp loại hình
Nghiên cứu cảm hứng và giọng điệu thơ trẻ thời chống Mỹ, tức đối tượng của
nó thuộc loại hình trữ tình. Bám sát đặc trưng loại hình, trong quá trình khảo sát, phân
tích từng dạng cảm hứng, từng kiểu giọng điệu, chúng tôi luôn chú ý đến các vấn đề
như “cái tôi trữ tình”, “nhân vật trữ tình”, “xúc cảm thẩm mỹ”, “biểu tượng nghệ
thuật”, “thể thơ”, “nhịp thơ”, “thế giới nội cảm”,...
4.5. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Để luận án có tính thuyết phục, chúng tôi vận dụng phương pháp này vào việc
phân tích các tín hiệu nghệ thuật, cấu trúc ngôn từ,...; từ đó tổng hợp, làm nổi bật các
dạng cảm hứng, các kiểu giọng điệu trong thơ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.
- Ngoài phối hợp những phương pháp trên, để khảo sát hình ảnh, màu sắc có ý
nghĩa biểu tượng; khảo sát cách tổ chức lời văn nghệ thuật,… chúng tôi còn sử dụng
phương pháp thi pháp học.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
● Về lí luận:
Góp phần cụ thể hóa cảm hứng và giọng điệu nghệ thuật (qua khảo sát thơ trẻ
thời chống Mỹ); vận dụng vào nghiên cứu một dòng thơ nảy sinh trong giai đoạn lịch
sử đặc biệt.
30
● Về văn học sử: - Làm rõ biên độ thơ chống Mỹ; khái niệm “thơ trẻ”, mốc
hình thành và các chặng vận động của thơ trẻ thời chống Mỹ. Đây là vấn đề hiện đang
có những ý kiến khác nhau.
- Biện luận và chứng minh các dạng cảm hứng, các kiểu giọng điệu trong thơ
trẻ thời chống Mỹ; khẳng định những đóng góp của dòng thơ này vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc và diễn trình thơ Việt Nam hiện đại; chỉ ra một số hạn chế của nó.
● Về thực tiễn: Góp một phần vào việc giảng dạy, học tập thơ chống Mỹ nói
chung, dòng thơ trẻ nói riêng theo định hướng mới, phù hợp thời đất nước hội nhập.
6. CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Ngoài phần Dẫn nhập (30 trang), Kết luận (5 trang), Tài liệu tham khảo (199
đề mục), Các thi phẩm được khảo sát (109 đề mục); cấu trúc Luận án gồm:
- Chương 1. Thơ chống Mỹ và thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ (43
trang): Tổng quan, khái quát thơ chống Mỹ và thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến
chống Mỹ; giải quyết những vấn đề về biên độ thời gian, đặc điểm (thơ chống Mỹ),
khái niệm, diễn trình (thơ trẻ thời chống Mỹ).
- Chương 2. Cảm hứng nghệ thuật trong thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến
chống Mỹ (58 trang): Trình bày giới thuyết khái niệm cảm hứng; phân tích các dạng
cảm hứng (lãng mạn - sử thi, dấn thân - nhập cuộc, bi tráng, đời tư thế sự) và một số
phương thức biểu đạt cảm hứng.
- Chương 3. Giọng điệu thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ (56
trang): Trình bày giới thuyết khái niệm giọng điệu; phân tích các kiểu giọng điệu (hào
sảng lạc quan, trữ tình thống thiết, triết lí suy tưởng, day dứt tự vấn) và một số thủ
pháp kiến tạo giọng điệu.
31
CHƯƠNG 1
THƠ CHỐNG MỸ VÀ THƠ TRẺ VIỆT NAM THỜI KHÁNG CHIẾN CHỐNG
MỸ
1.1. Thơ chống Mỹ: Biên độ thời gian, đặc điểm nổi bật
1.1.1. Biên độ thời gian
Tên gọi “Thơ chống Mỹ” được sử dụng từ thời chiến trường chưa im tiếng
súng. Tuy nhiên, biên độ thời gian của nó thì không phải mọi người, mọi lúc đều đồng
thuận như nhau.
Chúng tôi cho rằng, biên độ cuộc kháng chiến chống Mỹ theo cách định vị của
những nhà biên soạn lịch sử là tương hợp với tư tưởng “Nước Việt Nam là một, dân
tộc Việt Nam là một” (Hồ Chí Minh). Nói rõ hơn, có nghĩa là, kể từ khi Mỹ đưa quân
vào miền Nam (1955) dưới vỏ bọc “cố vấn” để gây dựng thể chế chính trị, chống lại
khát vọng thống nhất nước nhà của người Việt Nam, thì Mỹ đã chính thức xâm lược
Việt Nam. Đồng thời, cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam với nhiều hình thức,
trên tất cả các lĩnh vực (trong đó có thơ ca) đều được coi là thái độ, hành động chống
Mỹ (không phân biệt Bắc - Nam). Còn đến khi bom đạn lan ra cả nước, đế quốc Mỹ
điên cuồng đánh phá miền Bắc, ào ạt đổ quân vào miền Nam (1965) thì cục diện cuộc
chiến đã chuyển sang giai đoạn vô cùng ác liệt (leo thang chiến tranh), chứ không phải
cuộc kháng chiến chống Mỹ mới bắt đầu từ đây. Sự thực hiển nhiên là vậy, ai cũng
hiểu như vậy.
Thế nhưng, xét về phương diện văn học, một số tài liệu lại xác định biên độ
thơ chống Mỹ bắt đầu từ 1964 (hoặc 1965) đến 1975, tức trong khoảng mười năm.
Sách “Lịch sử văn học Việt Nam” tập III viết: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
để giải phóng miền Nam bảo vệ miền Bắc kéo dài hơn 10 năm…” [94, tr.120]. Không
riêng gì sách Lịch sử văn học trên, mà trước đây, hầu hết các nhà văn học sử đều chia
thơ Việt Nam giai đoạn 1955 - 1975 thành hai chặng. Chặng thứ nhất từ 1955 đến
1964, chặng thứ hai từ 1965 đến 1975. Thực ra, các nhà văn học sử có cơ sở của họ là
căn cứ vào hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam sau cuộc kháng chiến
32
chống Pháp (1954) thắng lợi: miền Bắc khôi phục kinh tế xây dựng chủ nghĩa xã hội,
miền Nam đấu tranh thống nhất nước nhà (tiêu chí chính trị).
Tuy nhiên, trong văn học khó có một lát cắt rạch ròi như vậy. Hơn nữa, tên gọi
“Thơ ca đấu tranh thống nhất nước nhà” (chỉ một trong hai nội dung trong thơ 1955 -
1964) với khái niệm “thơ chống Mỹ”, theo chúng tôi cũng chỉ là một. Và càng không
thể đợi đến khi giặc Mỹ ồ ạt tiến hành chiến tranh khắp cả nước thì khi đó mới có thơ
chống Mỹ. Về vấn đề này, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp, trong bài “Thơ chống
Mỹ, thành tựu và những kinh nghiệm nghệ thuật” có đoạn: “Đến nay, khi nghiên cứu
về thơ ca chống Mỹ nhiều người cho rằng thơ chống Mỹ nằm trong khoảng thời gian
từ năm 1965 đến 1975. Tuy nhiên, cần lưu ý thích đáng hơn về biên độ: Sự thực thì
thơ chống Mỹ đã xuất hiện khá nhiều ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết.
Hơn nữa, mặc dù cuộc chiến tranh này khép lại vào năm 1975 nhưng những năm cuối
thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX đã xuất hiện nhiều bài thơ và nhiều tập
trường ca xuất sắc ca ngợi cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc” [29, tr.11].
Cách mở rộng biên độ thơ chống Mỹ, theo Nguyễn Đăng Điệp, nên lùi về trước
1965 hơn mười năm và nên kéo dài sau chiến tranh kết thúc (1975) cũng khoảng mười
năm. Tức là, trên thực tế, thập niên đầu của thời hậu chiến, theo quán tính, cảm hứng
sử thi vẫn chủ đạo, tuy khuynh hướng biểu hiện đã có khác đôi chút so với thời chiến.
Ấy là chưa nói, những năm cuối thập niên 70, khi chiến tranh biên giới Tây - Nam và
chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, thơ ca lại tiếp tục ra trận, khí thế một thời thơ
chống Mỹ lại vọng về, giọng anh hùng ca tái hiện: “Lụt Bắc lụt Nam máu đầm biên
giới / Tay chống trời, tay giữ nước căng gân” (Tố Hữu). Tuy nhiên, theo chúng tôi,
khoảng mười năm sau ngày miền Nam giải phóng, những nhà thơ viết về cuộc kháng
chiến ác liệt mà họ từng trải nghiệm (Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu,
Trần Mạnh Hảo,…), thì nên coi đó là thơ viết về đề tài chiến tranh, viết về một thời để
nhớ, hơn là thơ chống Mỹ như họ đã sáng tác trong những năm tháng chiến tranh. Bởi
vậy, không thể tách thơ chống Mỹ với cuộc kháng chiến chống Mỹ. Theo chúng tôi,
biên độ thơ chống Mỹ trùng với cuộc kháng chiến mà nhân dân ta tiến hành ròng rã
trong hơn hai mươi năm (1955 - 1975). Còn mười năm (1965 - 1975) được coi như
33
chặng cao trào thơ chống Mỹ, hay nói như Nguyễn Hoàng Sơn, đó là chặng ra đời
“Phong trào thơ chống Mỹ” [133, tr.21].
Liên quan đến vấn đề này, nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Thành khẳng định: “Thơ
chống Mỹ bắt đầu từ thơ đấu tranh thống nhất nước nhà nhưng thực sự nở rộ là từ khi
cuộc chiến tranh nổ ra trong phạm vi cả nước” [160, tr.245]. Tương đồng, nhà nghiên
cứu Vũ Tuấn Anh viết: “Thơ chống Mỹ như một dòng sông vọt trào từ năm 1964
nhưng đã có những tiền đề từ trước…. Tiếng thơ chống Mỹ đã cất lên ở miền Nam từ
những năm 1955, 1956, khi những tên cố vấn quân sự Mỹ nghênh ngang nện gót trên
đường phố Sài Gòn, khi âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến nước ta thành
thuộc địa kiểu mới của chúng đã phơi bày” [3, tr.116].
Nếu quan niệm về biên độ thời gian như thế thì tất cả các sáng tác trước 1965
có nội dung thể hiện khát vọng thống nhất nước nhà, lên án tội ác Mỹ - Diệm, ngợi ca
tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân miền Nam, như “Người con gái Việt
Nam”, “Thù muôn đời, muôn kiếp không tan”, “Có thể nào yên” của Tố Hữu, “Mồ
anh hoa nở” của Thanh Hải, “Quê Hương” của Giang Nam, “Bài ca chim chơ rao”
của Thu Bồn, “Nhớ con sông quê hương”, “Tiếng sóng” của Tế Hanh, “Tiếng gà
gáy”, “Những dòng sông anh hùng” của Ca Lê Hiến, Lửa sáng rừng của Thái
Giang,… đều nằm trong dòng chảy của thơ chống Mỹ cứu nước.
Một vấn đề khác nảy sinh từ các công trình nghiên cứu là, hiện đang có những
ý kiến khác nhau về mốc khởi đầu của Phong trào thơ chống Mỹ, tức thơ trong những
năm chiến tranh lan ra cả nước (1965 - 1975). Trong “Văn học Việt Nam chống Mỹ
cứu nước” có đoạn: “Nền thơ chống Mỹ từ năm 1964 là một cao trào với sự phát triển
mới về lượng cũng như về chất” [195, tr.117]. Hay, theo các nhà biên soạn “Lịch sử
văn học Việt Nam tập III”, thì: “1964 - 1975. Văn học trong cao trào chống Mỹ cứu
nước” [94, tr.52]. Thế nhưng đến “Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại tập II”, lại
xác định: “Thơ trong thời kì kháng chiến chống Mỹ (1965 - 1975)” [79, tr.39]. Năm
2005, trong một bài viết của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp xác nhận:“Đến
nay, khi nghiên cứu về thơ ca chống Mỹ nhiều người cho rằng thơ chống Mỹ nằm
trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến 1975” [29, tr.11].
34
Vậy, nên lấy năm nào làm mốc khởi đầu cho phong trào thơ chống Mỹ? 1964
hay 1965? Lấy mốc 1964 cũng có cơ sở của nó. Đó là sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ, bom
đạn của đế quốc Mỹ chính thức vượt vĩ tuyến 17, thách thức sự tồn vong của dân tộc,
miền Bắc trào dâng khí thế đánh giặc; thơ ca chống Mỹ vận động mạnh, tỏ ra “riết
nóng”, khẩn thiết hơn so với trước. Tuy nhiên, theo chúng tôi, biên độ chặng thứ hai
phải bắt đầu từ 1965 đến kết thúc chiến tranh 1975. Tức, kể từ khi lính Mỹ tham chiến
trên chiến trường, đối đầu trực diện với quân dân ta, đồng thời ồ ạt đánh phá miền
Bắc; khi khí thế chống Mỹ được đẩy lên đến đỉnh điểm, nhất là sau Lời kêu gọi của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và khi thơ trên khắp mọi miền đất nước đều rừng rực cảm
hứng sử thi, đều hành quân ra trận; cũng từ đó, thơ chống Mỹ dâng cao như một
phong trào mà tiếng vang của nó vượt ra ngoài bờ cõi.
Ngoài ra, riêng ý kiến của Nguyễn Trọng Tạo, biên độ thơ chống Mỹ lại bắt
đầu từ 1960, kết thúc 1975. Trong bài “Chất trẻ trong thơ trẻ chống Mỹ” có đoạn:
“Điệu nhạc tâm hồn của thơ chống Mỹ (1960 - 1975) là điệu nhạc hành khúc lạc
quan tràn đầy sức sống của một dân tộc dám “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” [149,
tr.117]. Do đây không phải là bài nghiên cứu dưới dạng văn học sử nên Nguyễn Trọng
Tạo không luận giải tại sao lại lấy 1960 làm mốc mở đầu cho nền thơ chống Mỹ.
Chúng tôi phỏng đoán, có thể tác giả bài viết đã căn cứ vào bước ngoặt của cuộc
kháng chiến chống Mỹ diễn ra vào năm 1960: Phong trào Đồng khởi Bến Tre, sự ra
đời của Mặt trận giải phóng miền Nam, để tiếp năm sau là Hội Văn nghệ giải phóng
miền Nam được thành lập. Những sự kiện này dội vào thơ, đẩy thơ sang một giai đoạn
chống Mỹ sôi nổi, quyết liệt hơn, không riêng gì ở miền Nam mà thơ miền Bắc cũng
tham gia đánh Mỹ: “Những năm hòa bình xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, các nhà thơ
của ta vẫn tham gia đánh địch trên các đề tài về chiến trường miền Nam” [193,
tr.482].
Tuy nhiên, đó cũng chỉ là phán đoán của chúng tôi. Dẫu sao đối với các nhà
văn học sử, ý kiến trên của Nguyễn Trọng Tạo có thể được coi như một giả thuyết lạ,
để nghĩ tiếp. Chúng tôi cho rằng, nếu lấy 1960 làm mốc mở đầu của dòng thơ trẻ thời
chống Mỹ thì hoàn toàn có cơ sở (vấn đề sẽ được luận giả trong tiểu mục “Diễn trình
vận động của thơ trẻ”).
35
Như vậy, biên độ thơ chống Mỹ (tên gọi đầy đủ “Thơ Việt Nam thời kháng
chiến chống Mỹ”) bao gồm thời gian, không gian và khuynh hướng tư tưởng. Chúng
tôi cho rằng, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1955 - 1975), không phân
biệt miền Bắc hay miền Nam, vùng Giải phóng hay vùng do chính quyền Sài Gòn
kiểm soát, tất cả những sáng tác hướng về chủ đề yêu nước, chống ngoại xâm, đòi độc
lập, thống nhất cho dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân thì đều nằm trong “đường
viền” chung của nền thơ chống Mỹ (cốt lõi là thơ ca cách mạng). Nền thơ ấy có đỉnh
của nó với tư cách như một phong trào: Phong trào thơ chống Mỹ 1965 - 1975.
1.1.2. Đặc điểm nổi bật
1.1.2.1. Một số đặc điểm về tư tưởng, tình cảm
Như một hiển nhiên, không ai muốn đánh Mỹ, chống Mỹ nếu Mỹ không xâm
lược Việt Nam; lại càng không ai muốn phát động cuộc chiến tranh với một siêu
cường đế quốc để làm thơ và tự hào. Nhưng điều không muốn vẫn xảy ra. Thực tế là,
trên đất nước này đã xuất hiện một nền thơ chống Mỹ. Nền thơ ấy tỏ ra dồi dào sức
sống, có vị trí tỏa sáng trong lịch sử thơ ca dân tộc, vang ra ngoài bờ cõi.
So với những lần chống giặc của ông cha ta trước đây, cuộc kháng chiến lần
này là cuộc đối đầu lịch sử mang tầm nhân loại, kẻ thù là một đế quốc hùng mạnh và
hung bạo nhất thế giới. Để đánh bại kẻ thù như vậy, có thể nói, người Việt Nam đã
huy động tổng lực sức mạnh truyền thống và thời đại. Nổi lên hàng đầu vẫn là sức
mạnh tinh thần, sức mạnh tư tưởng. Sức mạnh này là cội nguồn của mọi sức mạnh, kết
hợp với tiềm lực vật chất để làm nên chiến thắng.
Thơ chống Mỹ đảm nhận nhiệm vụ tuyên truyền về tư tưởng tình cảm, chuyển
tình cảm chính trị thành tình cảm nghệ thuật. Hay nói đúng hơn, tình cảm chính trị
hoà với tình cảm nghệ thuật, một sự hoà hợp hoàn toàn tự nguyện, đương nhiên. Thơ
chống Mỹ nhìn chung là thơ chính trị nhưng chính trị đã được nghệ thuật hoá, thơ
hóa: “Ôi hôm nay lòng ta như họng súng / Diệt Mỹ là cao cả của tình yêu” (Chế Lan
Viên). Khi cả chính trị và nghệ thuật đều hướng về sự tồn vong của dân tộc, hướng về
độc lập, thống nhất của Tổ quốc; khi nghệ thuật đủ sức làm lay động trái tim người,
thì nói như Sóng Hồng: “Thơ chính trị cũng là thơ trăm phần trăm như các thơ khác”
[82, tr.124]. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
36
rất quan tâm đến việc bồi dưỡng tư tưởng chính trị cho văn nghệ sĩ, làm cho họ thấm
nhuần đường lối văn hoá văn nghệ trong giai đoạn mới.
Tiếp nối thành tựu đạt được trong thơ chống Pháp, các nhà thơ chống Mỹ, đủ
mọi thế hệ đã “bay theo đường dân tộc đang bay”. Họ dốc hết tài năng và tâm huyết
của mình góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc. Có thể nói, chưa bao giờ trong
thơ ca Việt Nam lại tập trung thể hiện sâu sắc, sinh động những tư tưởng, tình cảm và
khát vọng lớn lao của dân tộc như thơ ca chống Mỹ.
Trước hết, tư tưởng yêu nước vẫn là nguồn động lực tinh thần lớn nhất, cao
nhất của tất cả mọi người trong cuộc kháng chiến và cũng là nguồn tình cảm lớn lao,
sâu đậm, bao quát toàn bộ sáng tác thơ ca. Phát huy tư tưởng yêu nước trong thơ ca
dân tộc, nhất là thơ kháng chiến chống Pháp, các nhà thơ chống Mỹ đã nâng tình cảm
đất nước lên một tầm cao và chiều sâu mới. Đất nước được cảm nhận với tất cả những
gì thiêng liêng, cao quý nhất:
- Ôi Tổ quốc! Ta yêu như máu thịt
Như mẹ, như cha, như vợ, như chồng
(Sao chiến thắng - Chế Lan Viên)
- Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi, bờ sông
Những lúc tột cùng là dòng huyết chảy
(Hai đợt sóng - Xuân Diệu)
Nhất là đối với những nhà thơ trẻ ngoài mặt trận, nói như Thanh Thảo “nơi cao
nhất thử lòng ta yêu nước” (Thử nói về hạnh phúc), trong trạng huống giằng co quyết
liệt với quân thù, hơn ai hết họ càng thấu hiểu sự hi sinh của mình cho Tổ quốc: “Chết
- hi sinh cho Tổ quốc Hùng ơi / Máu thấm đỏ lời ca bay vào đất / Hi sinh lớn cũng là
hạnh phúc / Một cây xuân thành biển khắc tên Hùng” (Nấm mộ và cây trầm - Nguyễn
Đức Mậu).
Đất nước trong thơ chống Mỹ còn được đặt trong tương quan với nhân loại
và thời đại để khẳng định sứ mệnh của dân tộc, khẳng định vai trò, ý nghĩa và tầm
vóc của cuộc cuộc kháng chiến vĩ đại. Đặc điểm này, thơ kháng chiến trước đây chưa
thể hiện: “Đi trước thời gian, đánh thức buổi bình minh / Thúc thời đại tiến nhanh
37
hơn chút nữa / Ta đứng ở trung tâm của phong trào chống Mỹ / Nhìn bốn phương vẫy
gọi cả loài người” (Quyết thắng - Sóng Hồng).
Điểm mới nữa so với thơ chống Pháp và thơ ca truyền thống là tư tưởng yêu
nước trong thơ chống Mỹ (ở miền Bắc) luôn gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tổ
quốc và chủ nghĩa xã hội là hai đề tài, hai nguồn sáng tạo lớn trong thơ ca giai đoạn
này. Khi giặc Mỹ leo thang chiến tranh, điên cuồng đánh phá miền Bắc thì tình yêu Tổ
quốc lại được nhân lên gấp bội bởi sự gắn bó của mỗi người với những thành quả
bước đầu mà mình gây dựng. Tình yêu Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội đan cài vào nhau
trong mỗi câu thơ: “Hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu và bảo vệ / Mây nước, cửa nhà, văn
học, ngữ ngôn…/ Hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu tất cả / Một chiếc cầu vừa mới bắc qua
sông / Một hợp tác lúa chiêm vàng óng ả / Một nhà ăn cửa sổ sơn hồng” (Chế Lan
Viên). Khi tư tưởng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội (khát vọng hướng tới) được phát
huy thì làn sóng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng lại càng dâng cao, tạo thành một
thời đại “ra ngõ gặp anh hùng”. Sống trong không khí rạo rực, hào sảng như thế, thơ
ca không thể đứng ngoài dòng chảy của thời cuộc; lúc này quyền sống của từng con
người hoàn toàn lệ thuộc vào sự tồn vong của đất nước, của cộng đồng; yêu nước, cứu
nước là tối thượng. Hơn nữa,“Cuộc kháng chiến chống Mỹ mà dân tộc ta tiến hành
với biết bao nhiêu hi sinh tổn thất là vì độc lập, tự do của dân tộc, đồng thời cũng là
vì con người, bởi vậy, nó mang ý nghĩa nhân đạo cao cả” [3, tr.113]. Tư tưởng chủ
đạo trong thơ chống Mỹ trước hết là tập trung thể hiện thật hùng hồn, sinh động chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của toàn quân, toàn dân ta: “Dù mở
rộng, đi xa đến đâu, thơ vẫn xoay quanh một vầng sáng trung tâm, đó là chủ nghĩa
anh hùng cách mạng của dân tộc ta trong những năm đánh Mỹ” [3, tr.108].
Một đặc điểm khác cũng nổi bật, dễ nhận thấy trong thơ chống Mỹ, đó là tình
Bắc Nam ruột thịt (tư tưởng thống nhất nước nhà). Tình cảm cộng đồng đậm sắc thái
sử thi trước hết được hiện thực hoá bằng tình Bắc Nam trong những năm tháng chia
cắt: “Nam Bắc như cội với cành / Anh em ruột thịt đấu tranh một lòng / Rồi đây thống
nhất non sông / Bắc Nam ta lại vui chung một nhà” (Chúc mừng năm mới, Xuân 1964
- Hồ Chí Minh). Có thể nói, chưa bao giờ tình Bắc Nam lại trở thành nguồn xúc cảm
sâu nặng, thiết tha như trong thơ chống Mỹ:
38
Rằng nước ta chung một sơn hà
Rằng Bắc Nam cũng là ruột thịt
Rằng vòng tay hòa bình ta tha thiết
Ôm anh em nghe máu chảy vào tim
(Ta đi tới - Trần Quang Long)
Đó cũng nghĩa của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, nó sẵn có, phổ biến
trong cộng đồng gần như vô thức: “Hạt gạo làng ta / Gửi ra tiền tuyến / Gửi về
phương xa…” (Hạt gạo làng ta - Trần Đăng Khoa).
Bên cạnh tình Bắc Nam ruột thịt, thơ chống Mỹ còn thể hiện sinh động những
tình cảm cao đẹp khác như tình đồng đội, tình quân dân,… Những tình cảm cộng đồng
này vốn đã xuất hiện trong thơ chống Pháp, đến thơ chống Mỹ càng trở nên thiết tha,
sâu nặng và phổ biến hơn. Nhà thơ Chính Hữu rất có “duyên” với tình đồng đội. Nếu
trước đây ông viết bài Đồng chí nổi tiếng thì trong kháng chiến chống Mỹ, tình cảm
đó tiếp tục được khơi sâu và mở rộng thêm: “Sung sướng bao nhiêu tôi là đồng đội /
Của những người đi vô tận hôm nay” (Đường ra mặt trận).
Cùng tình đồng đội là tình quân dân. Nếu thơ chống Pháp mới có bà Bủ, bà
Bầm, cô gái Bắc Giang trong thơ Tố Hữu tham gia kháng chiến thì đến thời chống Mỹ
đã có rất nhiều nhà thơ viết về họ. Vẫn là những người mẹ, người chị tần tảo, hi sinh,
hết lòng thương yêu bộ đội sẵn sàng nuôi dấu, chở che cán bộ cách mạng: “Mẹ chẳng
thế nào nhớ nổi con đâu / bởi con biết hai mươi năm bao đêm rồi, vậy đó / trăm đứa
con / ngàn vạn đứa con / đã qua căn lều nhỏ / để nhận lấy phần mình ngọn lửa / cháy
âm thầm từ lòng mẹ mênh mông” (Mẹ chẳng thế nào nhớ nổi con đâu - Dương Hương
Ly).
Trong vùng đô thị miền Nam, tư tưởng yêu nước được bộc lộ ở lòng tự hào, tự
tôn dân tộc, ở nỗi đau trước cảnh tượng quê hương bị ngoại xâm tàn phá, đồng loại,
giống nòi bị cuốn vào khói lửa chiến tranh: “Đất Tổ quê ai nào sá kể / Mả mồ rên xiết
dưới giày đinh / Giấc mộng tham tàn bao năm tháng / Dập vùi bao kiếp mái đầu
xanh” (Xuân nhân loại - Lê Vĩnh Hòa). Đặc biệt, kể từ khi Hoa Kỳ đổ quân vào miền
Nam (1965), trực tiếp tham chiến trên chiến trường, bản chất xâm lược của họ đã
không che đậy được nữa; hơn lúc nào hết, tư tưởng yêu nước trong thơ vùng đô thị
39
càng thể hiện rõ tính chất quyết liệt chống xâm lăng, thơ “xuống đường” đấu tranh đòi
hòa bình - độc lập cho Tổ quốc, tự do - dân chủ cho nhân dân: “Bằng tất cả hãy về
đây nhận diện / Vạch mặt kẻ thù cướp nước hại dân… / Bằng tất cả hãy đổ về như
thác nước / Cuốn trôi đi những rác rưởi đê hèn” (Vực thẳm và hi vọng - Trần Quang
Long).
Khác những nhà thơ ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa hay những nhà thơ vùng giải
phóng thường xuyên được sáng tác dưới ánh sáng của lí tưởng cách mạng; các nhà thơ
yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền Nam có thể được giác ngộ cách mạng ở một mức
nào đó, nhưng chủ yếu là họ sáng tác theo nhịp đập thôi thúc của trái tim mình. Ấy là
tinh thần dân tộc, là lòng yêu nước thiết tha, là khát vọng tự do và sự tự nguyện
xả thân - cống hiến: “Ta mang trong tim một nguồn lửa cháy / Đáp lại lời quê hương
/ Đáp lại lời Tổ quốc / Vùng dậy / Lên đường!” (Tiếng gọi thanh niên - Thái Ngọc
San). Những lời thơ “lửa cháy”, hừng hực khí thế chống ngoại xâm như vậy, theo
chúng tôi, không thể nói tư tưởng yêu nước ở vùng thơ này cao hơn vùng thơ kia.
Đúng là thời đại đã sản sinh ra con người và thơ ca. Thời chống Mỹ là thời “đất
nước gian lao”, lớp lớp người hành quân ra trận. Tư tưởng, tình cảm trong thơ chống
Mỹ là sự khúc xạ tư tưởng, tình cảm lớn của dân tộc và thời đại. Nó là sản phẩm tinh
thần của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mang tầm vóc quốc tế. Cuộc đối đầu với
một siêu cường đế quốc đã kéo căng toàn bộ sức lực bên trong của đất nước, làm xáo
trộn toàn bộ đời sống của cả cộng đồng. Thơ ca cũng không ngoại lệ. Nếu đánh giá
phong trào Thơ mới, Hoài Thanh cho rằng “Có một thời đại trong thi ca” thì cũng
không phải phân vân khi khẳng định: “Có một thời đại thơ chống Mỹ”.
1.1.2.2. Một số đặc điểm về hình thức nghệ thuật
Sự biến đổi nội dung đòi hỏi phải biến đổi hình thức, hình thức phù hợp nội
dung. Thơ chống Mỹ nằm trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, kế tục các chặng
đường thơ trước đó, nhất là thơ chống Pháp 1946 - 1954. Tuy nhiên, trên nền tảng cái
đã gây dựng, thơ chống Mỹ có một số đặc điểm riêng, tương hợp với bối cảnh lịch sử
và diễn trình vận động của nó. Trong phạm vi một tiểu mục của luận án chúng tôi chỉ
khảo sát một số đặc điểm liên quan đến ngôn ngữ thơ và thể thơ.
40
● Gia tăng chất khẩu ngữ, thu hẹp khoảng cách giữa ngôn ngữ thơ với ngôn
ngữ đời thường
Kì thực, thời Thơ mới 1932 - 1945, cuộc cách tân ngôn ngữ theo hướng này đã
diễn ra quyết liệt: ngôn ngữ thơ chuyển dịch về đời sống thường nhật của con người;
những điển tích, điển cố, lớp từ Hán - Việt trong thơ trung đại giảm hẳn. Tuy nhiên,
do lãng mạn hóa, thi vị hóa cuộc sống theo xu hướng đi sâu vào thế giới riêng tư, nên
giữa ngôn ngữ Thơ mới và ngôn ngữ đời thường vẫn còn một khoảng cách đáng kể.
Lớp từ bóng bẩy, ước lệ như “liễu”, “mai”, “tuyết”, “nguyệt”, “khói hoàng hôn”,
“bóng hồng”, “thiếu nữ”, “kỹ nữ”, “giang hồ”, “lữ khách”, “phong sương”, “biên ải’,
“chinh phu”,… xuất hiện với tần số khá cao. Đến thơ chống Pháp, khoảng cách đó
được thu hẹp dần. Tuy nhiên, thu hẹp cốt để đưa cái bề bộn của hiện thực vào thơ chứ
không đồng nhất ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ đời thường; hay nói khác đi, thu hẹp
nhưng nó vẫn nằm ở bên này ranh giới của thơ, vẫn thuộc về ngôn ngữ hình tượng. Ấy
là chưa nói đến việc gia tăng khẩu ngữ trong thơ, chuyển ngôn ngữ đời thường thành
ngôn ngữ thơ đòi hỏi nhà thơ phải thực sự tinh xảo, đủ khả năng “làm xiếc ngôn từ”
(chữ của Lê Trí Viễn), và đủ khả năng đi vững trên lằn ranh mong manh giữa “thơ” và
“không thơ”, nghệ thuật và ngoài nghệ thuật.
Và đó đích thực là quá trình cách tân, sáng tạo hình thức thơ. Do giới hạn phản
ánh cuộc sống của thơ không thể như văn xuôi, nên muốn tăng chất hiện thực theo yêu
cầu của thơ kháng chiến thì nhà thơ phải sử dụng yếu tố khẩu ngữ, phải đa dạng các
hình thức diễn đạt. Thời chống Pháp, lúc đầu thơ kháng chiến vẫn hiển thị khá đậm
lớp từ thi ca thường gặp trong thơ trung đại: “thây rơi”, “áo bào”, “li khách”, “tống
biệt”, “biên cương”, “viễn xứ”, “hồn mười phương”, “khói kinh thành”, “hồn lau”,
“bụi trường chinh”, “hài vạn dặm”,… tức vẫn phảng phất hơi hướng tráng sĩ, lữ khách
của một thời vang bóng. Dần dần, làn sóng “thơ đội viên”, “thơ báng súng” (dạng thơ
đại chúng) ùa vào thi đàn, số lượng ngày càng nhiều; theo đó, ngôn ngữ thơ tất phải
biến đổi theo hướng xích gần hơn với cuộc sống. Vả lại, chủ trương “Cách mạng -
Khoa học - Đại chúng” từ phía lãnh đạo văn hóa văn nghệ của Đảng, cũng tác động
mạnh đến việc đưa ngôn ngữ đời thường vào thơ. Khi đã sáng tác theo phương châm
“dân tộc hóa”, “đại chúng hóa” thì tất nhiên, nhà thơ phải học ca dao, học cách ăn nói
41
của quần chúng: “Nói làm sao cho hợp với dân mình / Mang sắc thái và tâm hồn dân
tộc” (Gửi một nhà thơ trẻ - Sóng Hồng). Đó là một mặt, mặt khác còn xuất phát từ
bản thể của loại thơ tuyên truyền. Muốn hay không cũng phải công nhận, tuyên truyền
là nhiệm vụ bắt buộc của thơ ca kháng chiến. Thơ tuyên truyền cốt đi nhanh, đi thẳng
vào tâm hồn người đọc, do đó ngôn ngữ cần giản dị, chân chất, hợp “khẩu vị” của số
đông công chúng.
Ngôn ngữ đời thường (khẩu ngữ) được các nhà thơ khai thác là ở lớp từ địa
phương, lớp từ giao tiếp thông dụng (kể cả lớp từ sinh hoạt) và lối biểu đạt hồn
nhiên, tự nhiên trong dân chúng. Từ chỗ chưa thật tinh luyện như ở các bài Ghi
chép (Bảo Định Giang), Tình súng đạn (Minh Bắc), Em tắm (Bạc Văn Ùi), Nhớ vợ
(Cầm Văn Ui); đến những sáng tác đỉnh cao như Nhớ (Hồng Nguyên), Nhớ máu,
(Trần Mai Ninh), Bao giờ trở lại (Hoàng Trung Thông), Bên kia sông Đuống (Hoàng
Cầm), Đất nước (Nguyễn Đình Thi),… thơ chống Pháp đã có bước tiến khá xa về
cách tân ngôn ngữ: “Nó kế thừa thành tựu ngôn ngữ của Thơ mới và tiến xa hơn một
bước, đưa ngôn ngữ thơ từ chỗ của một số tầng lớp trở thành ngôn ngữ của số đông
người dân Việt Nam” [178, tr.120].
Kế thừa cách tân ngôn ngữ trong thơ chống Pháp, thơ chống Mỹ tiếp tục gia
tăng chất khẩu ngữ, đưa thơ về sát cuộc sống thực tại, khoảng cách giữa thơ và lời nói
thường được rút ngắn mà tiên phong là những nhà thơ trẻ: “Sự xuất hiện của ngôn
ngữ đời thường, của khẩu ngữ như là một xu hướng tất yếu của thơ trẻ chống Mỹ cứu
nước. Đây là bằng chứng cụ thể của mối liên hệ mật thiết giữa thơ và cuộc sống” [94,
tr.378]. Về phương diện này, theo chúng tôi, Phạm Tiến Duật là cây bút nổi trội nhất.
Ông vượt các nhà thơ khác, kể cả những nhà thơ lớp trước ở chỗ: Có nhiều khẩu ngữ
tưởng chừng không bao giờ xuất hiện trong thơ, nếu xuất hiện sẽ làm “hỏng” thơ,
nhưng Phạm Tiến Duật đã chứng minh ngược lại: nhiều khẩu ngữ khó thành thơ, qua
sáng tạo của ông vẫn thành thơ, mà lại là thơ hay. Chẳng hạn: “Không có kính không
phải vì xe không có kính /… Không có kính, ừ thì có bụi… / Không có kính, ừ thì ướt
áo” (Bài thơ về tiểu đội xe không kính); “Cái vết thương xoàng mà đưa viện” (Nhớ);
“Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn / Tiếng Hà Tĩnh nghe buồn cười đáo để” (Gửi
em cô gái thanh niên xung phong),... Những câu thơ như nói chơi “Không có kính, ừ
42
thì có bụi”, “Cái vết thương xoàng mà đưa viện”…; những từ và cụm từ thuộc khẩu
ngữ: “xoàng”, “ngoa”, “buồn cười”, “đáo để”, “ừ” được Phạm Tiến Duật “cài cắm”
vào thơ rất tinh xảo. Cái hay của Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm ở chỉnh thể,
câu thơ này đỡ câu thơ kia; những câu thơ như nói chơi không hề lan man, mà tất cả
đều hướng về tiêu điểm nghệ thuật, làm bật nổi một số “nhãn tự” của cả bài: “Ung
dung buồng lái ta ngồi / Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”, “Xe vẫn chạy vì miền Nam
phía trước / Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Trong giao tiếp thông dụng, khẩu ngữ
dễ tan biến sau phát ngôn, nhưng khi nằm trong chỉnh thể nghệ thuật thì nó lại có “độ
bám” khá vững; hơn nữa, nhờ sự nâng đỡ của ngữ cảnh mà nó tạo sắc thái biểu cảm
cao, tính hiện thực rõ nét. Những bài thơ của Phạm Tiến Duật viết trong thời chống
Mỹ đều khai triển theo hướng tư duy này. Và ông đã thành công. Có thể nói, diễn
ngôn thơ Phạm Tiến Duật phải đặt vào bối cảnh chiến tranh, vào không gian Trường
Sơn thì mới cảm nhận được giá trị thẩm mỹ của nó.
Lớp nhà thơ trước phải nói đến Tố Hữu. Ông được coi là “lá cờ đầu” của thơ
trữ tình chính trị. Mặt khác, ông cũng là người làm chính trị bằng thơ rất thành công.
Thơ chính trị đòi hỏi phải kịp thời, phải bám sát tình hình chiến sự, gắn với từng giai
đoạn cách mạng; ưu tiên hàng đầu của nó là cổ vũ toàn quân, toàn dân chiến đấu. Bởi
vậy, thơ Tố Hữu hướng về đại chúng như lẽ đương nhiên. Ngôn ngữ giao tiếp thông
dụng được ông “huy động” tối đa, trong đó, lớp từ “quảng trường” nổi lên khá đậm.
Có lẽ ông là nhà thơ sử dụng lớp từ này nhiều nhất: “Hoan hô anh Giải phóng quân
… / Hoan hô Xuân 68 anh hùng” (Bài ca xuân 68), “Chào cô dân quân tay súng tay
cày /... / Chào các cụ bạch đầu quân trồng cây chống Mỹ / Chào các mẹ già run tay
vá may cho chiến sĩ / Chào các em, những đồng chí của tương lai”… (Chào xuân
1967),... Dấu ấn Tố Hữu rõ nhất là ở những câu thơ mà ông biểu đạt bằng lối xưng hô
dân gian, bằng phương ngữ ngọt ngào xứ Huế, hay bằng những lời thoại thân mật, đời
thường:
Gan chi gan rứa, mẹ nờ ?
Mẹ rằng: cứu nước mình chờ chi ai!
… Ghé tai mẹ, hỏi tò mò
Cớ răng ông cứ ưng cho mẹ chèo ?
43
Mẹ cười: Nói cứng phải xiêu
Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông!
(Mẹ Suốt)
Theo chúng tôi, giọng tâm tình dịu ngọt làm nên phong cách thơ Tố Hữu cũng
từ những diễn ngôn nhẹ nhàng, thủ thỉ như vậy. Ngôn ngữ bung phá, đột biến không
phải thế mạnh của Tố Hữu.
Khác Tố Hữu, Chế Lan Viên thời chống Pháp sáng tác không nhiều nhưng hòa
bình lập lại, nhất là giai đoạn cả nước chống Mỹ, thơ ông nở rộ, có nhiều thi phẩm đặc
sắc. Có thể nói, trong “thế hệ vàng” thời Thơ mới, Chế Lan Viên là một trong số ít nhà
thơ sau khi “lột xác” vẫn giữ được “phong độ” của một cây bút đỉnh cao. Khi đã dứt
khoát chuyển từ “ta là ai” sang “ta vì ai”, Chế Lan Viên không ngần ngại đưa vào thơ
kiểu diễn đạt rất gần khẩu ngữ:
Nhưng có mùi mẽ gì đâu! Đất nước này
“cân” được tuốt
Dù cho có chim mèo kêu, chim cú hót
Vàng vạnh Vầng -Trăng-Nghìn -Năm vẫn
là Gương-Mặt- Việt Nam cười
(Suy nghĩ 1966)
Một biểu hiện khác của việc tăng cường khẩu ngữ, gia tăng tính chiến đấu cho
thơ là việc sử dụng lớp từ thông tục mỗi khi viết về “phía bên kia”. Lớp từ này cũng
xuất hiện trong sáng tác của một số nhà thơ Trung Quốc ủng hộ Việt Nam chống Mỹ
(và có thể đã ảnh hưởng qua lại). Những “mày” , “tao”, “tên”, “thằng”, “lũ”, “bầy”,
“diều hâu”, “lang sói”, “quỷ”, “chó”,... đều đưa vào thơ như phép tu từ biểu cảm.
Chẳng hạn, thơ Trung Quốc: “Mỹ hốt hoảng như chó leo tường chạy trốn /... / Mỹ bất
thình lình nhảy vào cắn trộm” (Tống cổ bọn kẻ cướp Mỹ - Quách Mạt Nhược [101,
tr.19]); “Con diều hâu Mỹ từ đâu ập tới / Hòng che bầu trời, cướp lấy mây xanh”
(Mừng chiến công của các chiến hữu Việt Nam - Kỷ Bằng [101, tr.126]),… Đến thơ
Việt Nam: “Hãy nghe từ miền Nam tiếng rú / Xé trời xanh lũ quỷ phượng hoàng bay /
Bầy chó dữ, những con người thú / ăn gan người, uống máu no say” (Miền Nam - Tố
44
Hữu); “Cổ cồn chạy hiệu, cái chết lau nhau / nhậu nhẹt say no, / Các má, các chị
miền Nam / đánh quần lên đầu nó” (Sự sống chẳng bao giờ chán nản - Xuân Diệu),…
Để củng cố niềm tin vào cuộc kháng chiến, một số nhà thơ còn sử dụng lớp từ
thông tục nhằm “hạ bệ” uy lực đối phương. Chẳng hạn: “Thằng Mỹ vừa ác vừa ngu /
Nó như con cọp mắt mù đó thôi / Thằng ngụy vừa dại vừa tồi / Nó như con rắn theo
đuôi ăn tàn” (Chuyện em - Tố Hữu). Ngay cả thơ trẻ em: “Bắn tàu Mỹ cháy / Là khẩu
súng trường / Người em yêu thương / Là chú bộ đội / Chăm ngoan học giỏi / Là bạn
thiếu nhi / Ngu xuẩn nhất nhì / Là Tổng thống Mỹ” (Trần Đăng Khoa). Thậm chí, có
một số từ thô tục mà trong giao tiếp thường ngày cũng ít sử dụng; thế nhưng, để tăng
tính chiến đấu, một số nhà thơ vẫn đưa vào sáng tác của mình. Chẳng hạn: “Hà Nội có
cầu Long Biên từng thấy bọn thực dân len lén cút / Nhà xí Thụy Khê bắt sống phi
công hạng “Át” Huê Kỳ” (Một mùa thu không biết sớm hay chiều - Việt Phương);
hay: “Thành phố mọc như nấm độc những x-nách-ba / Mỹ và đĩ / Lưỡi dao găm và
đồng đô la / Xe nhà binh trút vào đây hối hả” (Con gà đất, cây kèn và khẩu súng -
Nguyễn Khoa Điềm).
Như chúng tôi nghĩ, viết về kẻ thù thì không ai sử dụng ngôn ngữ trang trọng.
Nhưng đưa quá nhiều lớp từ thô tục vào thơ thì chưa hẳn đã tối ưu, nếu không muốn
nói là làm giảm cái trang nhã, lịch lãm cần thiết của thơ. Có thể coi đó là mặt hạn chế
của việc “lạm dụng” khẩu ngữ trong thơ. Tuy nhiên cũng phải đặt vào trạng huống
chiến tranh để xem xét. Để giữ nước, người Việt Nam phải huy động tất cả vũ khí
đánh giặc, kể cả lớp từ thô tục. Thơ chống Mỹ không loại trừ một thứ ngôn ngữ nào,
miễn là nó có tác dụng tuyên truyền, phục vụ chiến đấu.
Nhìn chung, ngôn ngữ thơ chống Mỹ giàu chất hiện thực, hàm lượng khẩu ngữ
cao, khoảng cách thơ và cuộc sống được thu hẹp. Đây cũng là sự cách tân đáng kể của
nền thơ này. Việc gia tăng khẩu ngữ góp phần làm cho thơ điệu nói thêm khởi sắc,
bên cạnh thơ điệu ngâm song hành tồn tại và vẫn giữ nguyên hấp lực của nó. Nhà thơ
Chế Lan Viên xác nhận: “Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói / Chỉ nói thôi mới nói hết
được đời” (Sổ tay thơ).
● Đa dạng, tự do hóa các thể thơ
45
Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, đa thanh. Đây là lợi thế của người
Việt trong sáng tạo thơ ca. Do mỗi tiếng là một âm tiết rõ ràng, tách rời tiếng khác,
nên người ta lấy số tiếng trong một câu thơ để xác định thể thơ. Nói ngắn gọn, “tiếng”
là căn cứ để xác lập các thể thơ, khi viết, nó được khu biệt bởi một con chữ.
Thơ kháng chiến nói chung, thơ chống Mỹ nói riêng tiếp tục sử dụng các thể
thơ truyền thống nhưng ít nhiều đã biến đổi ở những mức độ khác nhau trong từng
thể. Thơ lục bát vẫn chứng tỏ sức sống bền bỉ của một thể thơ thuần dân tộc, có khả
năng thích ứng với nhiều đối tượng, nhiều nội dung bởi bí quyết sinh tồn của nó nằm
ngay trong những đặc điểm về âm thanh và hình vị tiếng Việt. Tố Hữu, Huy Cận,
Nguyễn Duy và một số nhà thơ khác đã thực sự làm mới thể thơ này. Thơ tứ tuyệt của
Hồ Chí Minh, Chế Lan Viên, mỗi người mỗi vẻ, mực thước nhưng ít nhiều đã được
hiện đại hóa về ngôn ngữ, hình ảnh, về cấu trúc dòng thơ, bài thơ. Đặt vấn đề như vậy
để thấy rằng, đa dạng, tự do hóa thể thơ trong thơ chống Mỹ là tất yếu và nó vận động
theo quy luật biện chứng: cách tân, hiện đại nhưng không đối lập, không loại bỏ
những giá trị truyền thống. Đồng thời cũng không thể quả quyết, hễ cứ đa dạng, tự do
hóa thể thơ thì tất sẽ có thơ đỉnh cao. Vấn đề còn tùy thuộc vào tài năng sáng tạo của
nhà thơ, thể loại dù “linh nghiệm” đến đâu cũng chỉ là phương tiện. Tuy nhiên, phải
thừa nhận rằng, trong những đóng góp của thơ chống Mỹ vào tiến trình cách tân thơ
Việt Nam hiện đại không thể không nói đến việc đa dạng, tự do hóa các thể thơ.
Có ba thể mà chúng tôi nhận thấy cần khảo sát sau đây:
- Thơ tự do:
Trong Từ điển thuật ngữ văn học [38] chưa có mục từ “thơ tự do”. Chúng tôi
nghĩ, không phải các nhà biên soạn bỏ sót mà có lẽ do nghĩa của nó còn mơ hồ nên
chưa thể xác lập thành một thuật ngữ chuyên biệt. Dẫu vậy, trong thực tế người ta vẫn
mặc nhiên thừa nhận “thơ tự do” như một thể riêng, bên cạnh các thể thơ khác. Theo
Vũ Duy Thông: “Thực ra chúng ta buộc phải dùng thuật ngữ thơ tự do bởi chưa tìm
được một thuật ngữ khác”; và đề xuất: “Tạm thời, như đã nói ở trên, thơ tự do là loại
thơ phá vỡ các quy phạm cổ điển để hình thành một quy phạm mới, đó là quy phạm
ngôn ngữ phải tuân theo mạch cảm xúc, gạt bỏ những gì cản trở mạch cảm xúc” [178,
tr.133]. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức cũng lấy tiêu chí “phá vỡ quy phạm” để giải
46
nghĩa thơ tự do: “Khi nói đến thơ tự do là muốn nói đến một thể ít bị ràng buộc nhất
về mặt vần điệu, về sự hạn định câu và cho tác giả điều kiện diễn tả đối tượng một
cách thích hợp nhất, cho tứ thơ thoát lên bay bổng, cho nhịp điệu câu thơ phục vụ đắc
lực nhất việc thể hiện nội dung” [33, tr.339]. Tương tự, nhà nghiên cứu Mã Giang Lân
nhận thấy: “Khả năng biểu hiện của thơ tự do rất lớn. Nó hoàn toàn không bị gò bó
bởi những quy tắc, những luật lệ như các thể thơ dân tộc” [73, tr.346].
Nhìn chung, sự phân chia các thể thơ chỉ mang tính tương đối. Ngay cả tên gọi
“thơ tự do” đã quen sử dụng thì cứ để thế sử dụng, cắt nghĩa cho thật rạch ròi là không
đơn giản. Có điều được nhiều người đồng thuận là, nói “thơ tự do” nhưng vẫn phải
giữ tính hài hòa về hình thức, vẫn “đi bằng nhịp điệu”, tức vẫn là thơ chứ không phải
“cái giống thơ” hay “cái ngoài thơ”. Cũng cần nói thêm, với thế mạnh của lối tư duy
tích hợp, của văn hóa tiếp biến, người Việt Nam rất linh hoạt trong mọi sáng tạo, kể cả
sáng tạo thơ ca. Thơ cách luật quy định chặt chẽ về mặt thi pháp, về tính quy phạm,
nhưng vẫn chấp nhận phá vỡ quy phạm. Chẳng hạn thơ lục bát, thơ song thất lục bát
đều có chính thể và biến thể; ngay cả thơ luật Đường, tính quy phạm rất nghiêm ngặt,
nhưng nhập vào Việt Nam vẫn có thể bị “phá luật” như thường (chẳng hạn bài Tỉnh ra
mới biết - Khuyết danh). Như vậy, thơ tự do bùng phát từ Thơ mới (1932 - 1945)
nhưng nó đã nảy sinh trong thơ truyền thống, nhất là ở sáng tác dân gian - “nền văn
học mẹ” (chữ của Huy Cận).
Trong diễn trình vận động của thơ Việt Nam hiện đại, thơ tự do có vần, không
vần hoặc rất ít vần, nếu ở chặng đầu cuộc kháng chiến chống Pháp còn bị phê phán thì
vào chặng cuối trở nên quen thuộc; đến những năm hòa bình lập lại (1954), nhất là khi
cả nước chống Mỹ thì phát triển mạnh; có nhiều nhà thơ sáng tác chủ yếu bằng thể thơ
này: “Sang thời kháng chiến chống Mỹ, thơ tự do chiếm một vị trí quan trọng đã trở
nên quen thuộc với công chúng yêu thơ, đặc biệt nó là công cụ chính của trường ca”
[54, tr. 252 - 253].
Để làm sáng tỏ vấn đề, chúng tôi khảo sát các tập: Thơ kháng chiến (1945 -
1954), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1986; và Tuyển tập thơ Việt Nam (giai đoạn
chống Mỹ), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1999. Kết quả thu được như sau:
47
Bảng 1: Thơ kháng chiến (1945 - 1954)
Thể Thất Lục Song thất Cộng Tự 4 5 6 7 8 thơ ngôn bát lục bát do
Số 5 20 1 16 3 1 18 66 136 6 bài
4,41 % Tỉ lệ % 3,68 % 14,71 % 0,74 % 11,76 % 2,2 % 0,74 % 13,24 % 48,5 %
Bảng 2: Tuyển tập thơ Việt Nam (Giai đoạn chống Mỹ)
Thể Tứ Lục Cộng
thơ 4 5 6 7 tuyệt bát Tự do
Số bài 5 32 3 16 2 34 267 362
Tỉ lệ 1,38 8,84 0,82 5,25 0,55 9,40 74, 20
% % % % % % %
Nhìn vào số liệu trong hai bảng khảo sát trên, có thể thấy thể thơ tự do phát
triển khá nhanh. Nếu ở tuyển tập Thơ kháng chiến (1945 - 1954) bao gồm 136 bài thơ,
mới có 66 bài viết theo thể tự do, chiếm 48,5 % thì đến Tuyển tập thơ Việt Nam (Giai
đoạn chống Mỹ), số bài viết theo thể tự do là 267 trong tổng số 362 bài, chiếm tỷ lệ
hơn 74 %. Còn đem so sánh với con số 8 bài trong 168 bài thơ sáng tác theo thể tự do
(chiếm 5 %) được Hoài Thanh và Hoài Chân tuyển vào Thi nhân Việt Nam thì càng
thấy rõ hơn sự nở rộ của thể thơ tự do trong vườn thơ chống Mỹ.
Căn cứ vào tỉ lệ phần trăm trong hai bảng thống kê, rõ ràng, chỉ số thơ tự do
giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước. Đó là tính theo tiêu chí thời gian; còn tính theo
tiêu chí thế hệ nhà thơ, chỉ số cũng tương tự. Tức càng về thế hệ sau, thể thơ tự do
càng được sử dụng nhiều hơn. Chứng cứ là, qua khảo sát các tập thơ của từng thế hệ,
nhà nghiên cứu Mã Giang Lân công bố kết quả như sau: “Thơ tự do chiếm tỉ lệ cao
nhất là ở các tập thơ của những cây bút trẻ (từ 60% đến 70%), thứ đến là các nhà thơ
hình thành trong kháng chiến chống Pháp (từ 50% đến 60%). Và cuối cùng là các nhà
48
thơ có quá trình sáng tác trước Cách mạng tháng Tám (từ 30% đến 50%)” [73,
tr.355].
Ở vùng đô thị miền Nam, chúng tôi chưa thấy tài liệu nào tập hợp tất cả các
sáng tác thơ ca giai đoạn 1954 - 1975 dưới dạng một tổng tập, hay tuyển tập. Do vậy,
khó xác định chính xác số liệu cụ thể về sử dụng thể thơ tự do trong thơ đô thị miền
Nam qua các chặng. Tuy nhiên, khảo sát mảng thơ ca này trong sáng tác của một số
tác giả, các nhà nghiên cứu đã có cơ sở để khẳng định sự cách tân quyết liệt của các
nhà thơ vùng đô thị. Nhiều nhà thơ thể nghiệm và đã thành công về sử dụng thể thơ tự
do. Tiêu biểu như Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Nguyên Sa,... họ mạnh dạn đưa thơ
tự do đến với số đông công chúng, thơ họ trút bỏ hết những ràng buộc về vần, luật để
cảm xúc thăng hoa. Những nhà thơ sáng tác theo khuynh hướng yêu nước tiến bộ
(Trần Quang Long, Trần Vàng Sao, Ngô Kha, Tần Hoài Dạ Vũ, Thái Ngọc San,...)
đều nằm trong xu hướng cách tân này. Đặc biệt, trong các tập Tiếng hát những người
đi tới, Hát trên đường tranh đấu của phong trào học sinh, sinh viên đã có nhiều bài
sáng tác theo thể thơ tự do, phá vỡ hoàn toàn quy định về câu chữ. Một số thi phẩm có
khi kéo dài vài trang viết với hàng trăm dòng thơ, kết chứa nhiều hình tượng trữ tình,
chuyển tải nhiều suy cảm từ đời sống riêng tư đến những vấn đề lớn lao của thời đại.
Chẳng hạn, Đi giữa rừng súng máy của Trần Phá Nhạc; Về những con đường khô cây
của Thái Ngọc San; Sóng vẫn đập vào eo biển, Đất của những người bất phục, Vì sao
những vùng quyết liệt của Lê Văn Ngăn,...
Như trên đã đề cập, thơ tự do là thể thơ ít bị ràng buộc về vần điệu, về hạn định
số chữ, số câu; tác giả có điều kiện biểu hiện tâm trạng, cảm xúc và miêu tả đối tượng
một cách tự do và phù hợp nhất. Với yêu cầu mở rộng phạm vi phản ánh, gia tăng chất
trí tuệ, chính luận trong thơ, các thể thơ cách luật tỏ ra khó chuyển tải hết nội dung
cần biểu đạt; việc các nhà thơ chống Mỹ phải tìm đến thể thơ tự do và “canh tác”
nhiều ở thể thơ này như lẽ đương nhiên. Có thể nói, Nguyễn Đình Thi là một trong
những nhà thơ “hết mình” với thể thơ tự do. Hay nói cách khác, chỉ với thơ tự do ông
mới có thể “gài” vào đó nhiều hàm ý sâu xa:
Chào Hà Nội của ta sáng đẹp
Giữa đêm trăng trong biếc mênh mang
49
Thành phố tình yêu thành phố thép
Ta chào trái tim đất nước anh hùng
Em
Anh ôm chặt em và ôm cả khẩu súng trường bên vai em
(Chia tay trong đêm Hà Nội)
Viết như thế thì khó có chỗ để bắt bẻ nhà thơ. Thơ miền Bắc thời ấy, nếu chỉ
“ôm em” thì rất dễ bị quy vào lỗi “ướt át tiểu tư sản” (thơ Nguyễn Đình Thi thường
“vướng” phải “lỗi” này). Nhưng “ôm cả khẩu súng trường bên vai em” (em - đồng chí
- đánh giặc) thì lại “an toàn”; hơn nữa còn được các một số nhà phê bình đánh giá cao.
Đương nhiên, tứ thơ này nếu không tìm đến thể tự do thì khó kết thành nghệ thuật.
Nhìn chung, với bề dày kinh nghiệm, kiến văn sâu rộng nhưng ít vốn sống
chiến trường, các nhà thơ lớp trước sử dụng thể thơ tự do chủ yếu phục vụ cho việc
bình luận chiến tranh (Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tố Hữu,...). Đến các
nhà thơ trẻ, với sức trẻ, sức mới, nhiều trải nghiệm nơi trận mạc, thể thơ tự do đối với
họ tỏ ra phù hợp và rất có lợi thế để mô tả chiến tranh. Về phía công chúng, sang
thời chống Mỹ, thơ tự do đã trở nên quen thuộc; đồng thời, nó còn là “công cụ” chính
để nhà thơ sáng tác trường ca. Trước hiện thực đời sống phong phú, các trạng thái tình
cảm, cảm xúc của con người trở nên đa dạng, đòi hỏi thơ phải có hình thức phù hợp.
Xu hướng tự do hóa hình thức thơ trong thơ chống Mỹ là tất yếu. Ngoài ra, việc dịch
thơ nước ngoài sang tiếng Việt cũng góp phần thúc đẩy sự tự do hóa hình thức thơ giai
đoạn này.
- Thơ văn xuôi
Thơ văn xuôi là thuật ngữ chỉ một thể thơ có hình thức gần văn xuôi. Hay nói
cách khác, do nhu cầu diễn đạt những trạng huống, cảm xúc cụ thể, phức tạp của chủ
thể và xu hướng tăng yếu tố trần thuật nên thơ phải vay mượn hình thức văn xuôi. Rõ
nhất là “vay mượn” ở cấp độ cấu trúc câu thơ. Tức cấu trúc câu thơ rất gần cấu trúc
câu văn xuôi nhưng vẫn giữ được những phẩm chất cốt lõi của thơ (tiết tấu, nhịp điệu,
âm hưởng ngân vang...). Tuy nhiên, khác thơ tự do, thơ văn xuôi “không phân dòng,
không dùng hình thức dòng thơ làm đơn vị nhịp điệu, không có vần” [38, tr.319].
50
Theo nhà nghiên cứu Mã Giang Lân,“Thơ văn xuôi là một nẻo đường phát triển của
thơ tự do” [73, tr.349].
Chúng tôi cho rằng, thực chất thơ văn xuôi chính là thơ không vần, hay nói
cách khác nó là biến cách của thơ tự do, “một nẻo đường phát triển của thơ tự do”
(chữ của Mã Giang Lân). Mà thơ không vần là thơ thoát ra ngoài quy phạm của thơ
cách luật nhưng vẫn chịu sự ràng buộc bởi tiết tấu và âm thanh trầm bổng của thơ, cái
mà người ta thường gọi là nhịp điệu. Nhờ đặc trưng này mà phân biệt được thơ văn
xuôi với văn xuôi có chất thơ. Văn xuôi cũng có nhịp điệu và có thể có chất thơ.
Nhưng yếu tố nhịp điệu, chất thơ trong văn xuôi không tập hợp thành hệ thống, không
tạo chỉnh thể trọn vẹn như thơ văn xuôi. Nhịp điệu, chất thơ không phải “gen trội” của
văn xuôi. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức phân biệt: “Về nhân tố hình thức thì nhân tố
khác nhau cơ bản là ở chỗ sáng tác thơ có nhịp điệu. Nhịp điệu đó không phải là nhịp
điệu thông thường vốn có của ngôn ngữ văn xuôi mà là nhịp điệu được cách điệu hóa,
nhịp điệu được quy định, do đó cú pháp thơ ca khác cú pháp văn xuôi” [33, tr.623].
Cho nên muôn thuở, thơ vẫn là thơ, văn xuôi là văn xuôi, không “sáp nhập” vào nhau
được. Theo các nhà ngôn ngữ học, ngôn ngữ thơ thiên về biểu hiện, còn ngôn ngữ văn
xuôi thiên về tạo hình, giữa chúng có ranh giới: “Tạo hình chủ yếu là vương quốc của
văn xuôi nhưng có một khoảng trời dành cho sử thi và thơ ứng dụng, còn biểu hiện
trước hết là lãnh địa của thơ nhưng lại cắt một phần đất cho văn xuôi trữ tình” [14,
tr.69]. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi căn cứ vào đặc trưng thể loại để phân biệt: “Thơ là
tổng hợp kết tinh. Văn xuôi được phép không mười phần hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn
luôn đòi hỏi toàn bích” [169, tr.59]. Nói gọn lại, thơ văn xuôi là thơ có yếu tố văn
xuôi, có chất văn xuôi nhưng bản thể vẫn là thơ. Thơ văn xuôi và văn xuôi có chất thơ
rõ ràng khác nhau; văn Thạch Lam, Tô Hoài giàu chất thơ nhưng không ai gọi tác
phẩm của họ là thơ.
Ở Việt Nam, thơ văn xuôi xuất hiện muộn hơn so với các thể thơ khác, phải
đến những năm 50, 60 nó mới khẳng định được vị trí trong hệ thống thể loại. Chẳng
hạn, sự xuất hiện Những người trên cửa biển của Văn Cao, Cách mạng tháng Tám của
Trần Dần vào giữa những năm 50 đánh dấu bước phát triển của thể thơ văn xuôi mà
trước đó các nhà thơ khác đã gây dựng. Đến đầu những năm 60, Chế Lan Viên viết
51
chùm thơ về vùng mỏ Quảng Ninh: Cành phong Lan bể, Tàu đến, Tàu đi, ông đặt cho
tên gọi “Văn xuôi về một vùng thơ”. Thơ văn xuôi được sáng tác khá nhiều vào những
năm cả nước chống Mỹ. Những sự kiện nóng hổi, những suy nghĩ, cảm xúc mới mẻ
dội vào thơ, có khi nhà thơ phải mô tả, phải ghi nhanh, ghi nhiều hình ảnh, sự việc,...
Tất cả những điều ấy đòi hỏi hình thức câu thơ phải chuyển biến, nới rộng, kéo dài
mới có thể chứa đựng được nội dung phản ánh. Càng về cuối cuộc chiến, khi xu
hướng tăng chất chính luận cho thơ trở nên phổ biến, thơ không chỉ mô tả chiến tranh
mà còn bình luận chiến tranh, sự nới rộng tiết diện câu thơ, dòng thơ là đòi hỏi cần
thiết. Sự bung phá, bứt tung những ràng buộc về hình thức thơ của thơ văn xuôi thể
hiện ở sự linh hoạt trong tổ chức kết cấu văn bản. Không chỉ dừng lại ở vần hay không
vần, thơ văn xuôi còn phá vỡ cả việc ngắt dòng, xuống dòng; có thể nói, nó là thể tự
do nhất về hình thức thơ. Bài thơ có thể được trình bày tương tự một văn bản của văn
xuôi, hay dưới dạng một truyện ngắn như Cánh rừng nhiều đom đóm bay của Nguyễn
Đức Mậu; hoặc có thể trình bày dưới dạng một màn kịch nhỏ như Đối thoại mới về
câu chuyện cổ của Chế Lan Viên:
“Em ơi! sự chịu đựng cái khát bao giờ cũng lớn hơn cái khát. Và chính lúc này
kẻ thù còn chết khát hơn ta.
- Anh ơi, suối thứ hai này con mụ yêu tinh cũng đánh thuốc độc rồi. Không hóa
hổ nhưng mà anh hóa sói.
Hổ vồ em, còn sói móc trái tim em
- Em ơi! Nhân loại không bao giờ lại chọn cho mình thành hổ tốt hơn, hay tốt
hơn là chó sói.
Những người chết khát xưa nay ư, vẫn chết trong tư thế của người”
Bài thơ khai triển hết cuộc thoại này đến cuộc thoại khác, mỗi cuộc thoại tương
ứng một khổ thơ, vận hành hoàn toàn tự do. Tuy cấu trúc không khác văn xuôi bao
nhiêu nhưng tiết tấu của nó vẫn hài hòa cân đối, vẫn đậm đà chất thơ. Cho nên nó là
văn bản thơ chứ không phải văn xuôi.
Với những nhà thơ trẻ, thơ văn xuôi là phương tiện để họ chuyển tải xúc cảm
da diết, uẩn khúc của mình, rõ nhất là thơ trẻ vùng đô thị miền Nam: “Bấy giờ anh kể
em nghe chuyện những người yêu nhau không ngôn ngữ. Người con trai thường vượt
52
sóng tìm người yêu vì tóc nàng cột chân chàng như sức hút những hành tinh gắn kết
mặt trời mặt trăng từ thuở hồng hoang xa thẳm. Chàng chở đầy thuyền hơi ấm mặt
trời cho người yêu chàng có đôi mắt lạnh buồn như loài rong rêu cổ sử” (Ngoài đề -
Trần Quang Long).
Thơ văn xuôi (hoặc “mấp mé” văn xuôi) được nhân rộng vào chặng cuối cuộc
chiến và mấy năm đầu hậu chiến. Những tác phẩm dài hơi có dung lượng lớn với nhu
cầu muốn nhìn lại cả chặng đường chiến tranh mà dân tộc vừa đi qua, chiêm nghiệm
lịch sử và con người Việt Nam trong những năm tháng khốc liệt nhất, nhiều nhà thơ
đã sử dụng thể thơ văn xuôi làm phương thức biểu đạt và hiệu quả thẩm mỹ của nó là
không thể phủ nhận.
Như vậy, là một thể thơ “trẻ” so với các thể thơ khác, đến giai đoạn chống Mỹ,
thơ văn xuôi đã được khẳng định và ngày càng phổ biến. Trong thực tế, thể thơ văn
xuôi đã được nhà thơ tiếp nhận theo hướng tích hợp, tiếp biến của người Việt Nam,
cho rằng nó đã không “thuần chủng” như thơ văn xuôi phương Tây cũng không có gì
khó hiểu. Đồng thời, điều đó cho thấy, trong diễn trình vận động của văn học nói
chung, thơ chống Mỹ nói riêng, giữa các thể loại đã có sự giao thoa thâm nhập vào
nhau, tương hỗ cho nhau. Thơ văn xuôi là hiện tượng điển hình.
- Trường ca
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, trường ca là: “Tác phẩm thơ có dung lượng
lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình… Tên gọi “trường ca” một thời dùng chỉ
các sử thi dân gian như Đam San, nay thường được dùng để chỉ sáng tác thơ dài của
các tác giả như Bài ca chim chơ rao của Thu Bồn, Theo chân Bác của Tố Hữu” [38,
tr.377]. Hiểu ngắn gọn, trường ca là tác phẩm thơ dài, có hay không có cốt truyện, yếu
tố chủ thể luôn nổi rõ. Tư duy trường ca là tư duy tổng hợp, dài hơi (nghĩa của thành
tố “trường” gợi lên điều đó). Chất thơ và độ dài tác phẩm là những tiêu chí quan trọng
quy định tên gọi “trường ca”, tác phẩm có dung lượng ngắn thì đương nhiên không
phải trường ca.
Trường ca quan tâm đến việc lí giải những vấn đề liên quan đến số phận của dân
tộc, của cộng đồng (có thể của cá nhân như tình yêu, tình bạn, lòng vị tha, đức hi
sinh,… nhưng luôn có ý nghĩa xã hội rộng lớn). Về cấu trúc, trường ca gồm nhiều
53
chương, khúc mang tính chất tổng hợp nhiều yếu tố: tự sự, trữ tình và cả kịch. Nhân vật
của trường ca có thể là một anh hùng, một vị tướng với nhiều chiến công lừng lẫy, mà
cũng có thể là một con người với tất cả cái riêng tư. Tuy nhiên số phận đầy thử thách,
khát vọng lớn lao, niềm tin yêu, lòng quả cảm vô song... là những yếu tố thẩm mĩ hàng
đầu mà trường ca hướng đến. Về lí thuyết, nhà thơ có thể sử dụng một hay nhiều thể
thơ để sáng tác trường ca. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, khi đa dạng hóa, tự do hóa các
thể thơ được đẩy mạnh thì xu hướng phổ biến là kết hợp nhiều thể thơ, ít người chỉ sử
dụng một thể duy nhất. Có thể nói, đặc điểm nổi bật của trường ca là tính phức hợp.
Đặc điểm này mở ra cho trường ca khả năng phản ánh đời sống rộng lớn, chuyển tải
được nhiều trạng thái cảm xúc của chủ thể mà các thể thơ khác khó đáp ứng được.
Ở Việt Nam, trường ca xuất hiện từ thời kháng chiến chống Pháp (Khương
Hữu Dụng với Từ đêm mười chín, Nguyễn Bính với Những thanh gươm báu, Xuân
Hoàng với Trường ca sông Gianh,…). Nhưng phải đến thời kì chống Mỹ, trường ca
mới thực sự khởi sắc (chuẩn bị cho “giai đoạn nở rộ của trường ca trong từ khoảng
1976 - 1985” [79, tr.224]). Ở đây, cùng sự vận động bên trong của văn học là sự tác
động của ngoại cảnh: Chính hiện thực cuộc sống, tầm vóc của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng… đã trực tiếp khơi gợi, thôi
thúc trường ca phát triển. Sự “sinh sôi” của trường ca đáp ứng nhu cầu được lí giải,
thể hiện những nội dung lớn về thời đại, lịch sử, nhân dân, ý chí, sức mạnh của dân
tộc trong sự nghiệp chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc.
Nhìn vào diễn trình thơ chống Mỹ, thể trường ca có sự vận động khá rõ. Ở
chặng đầu của cuộc kháng chiến, dạng thức chủ yếu vẫn là trường ca có cốt truyện.
Cốt truyện giữ vai trò chính trong kết cấu. Do vậy, người đọc phải men theo nhân vật,
lời kể để bước vào thế giới nghệ thuật. Chẳng hạn, Bài ca chim chơ rao của Thu Bồn
dựa trên truyện kể về hai chiến sĩ cách mạng Hùng (người Kinh) và Rin (người
Thượng). Họ kề vai sát cánh chiến đấu, bất khuất hiên ngang trước cái chết, bất chấp
những đòn tra tấn dã man và âm mưu chia rẽ thâm độc của quân thù. Không đồng nhất
với anh hùng ca, song trường ca thường có tính chất anh hùng ca. Trong trường hợp
của Thu Bồn, với cốt truyện có nội dung chiến đấu rõ rệt, với cảm hứng anh hùng nổi
bật, lại có sự “phối cảnh” của không gian Tây Nguyên hùng vĩ, Bài ca chim chơ rao là
54
trường ca lãng mạn - sử thi thành công nhất trong thơ ca thời chống Mỹ ở chặng đầu.
Và đó cũng là lí do tồn tại của bản thân nó.
Hay trường ca Nguyễn Văn Trỗi của Lê Anh Xuân dựa trên cuộc đời có thật
của người công nhân thợ điện Nguyễn Văn Trỗi. “Đường kênh” chính để tác giả lấy tư
liệu là qua lời kể trực tiếp của chị Phan Thị Quyên - vợ người anh hùng. Và Lê Anh
Xuân đã thử sức bằng thể trường ca, dựng cốt truyện theo chiều dọc cuộc đời nhân
vật. Con người và hành động của Nguyễn Văn Trỗi được nhà thơ tái tạo, chuyển hóa
thành hình tượng anh hùng, mang tầm vóc thế kỉ: “Cọc tre nơi giặc hành hình / Trổ
đài kỉ niệm bóng in ngang trời / Như Anh đứng đấy trẻ tươi / Tạc hình thế kỉ muôn đời
không tan”. Nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá nhận xét: “Mặc dù có đoạn còn kể lể, dễ
dãi, còn dàn trải chưa cô đúc, tác phẩm này vẫn là một thành tựu đáng chú ý của thơ
ca chống Mỹ” [50, tr.817].
Tương tự, Giang Nam viết Người anh hùng Đồng Tháp từ nguyên mẫu Nguyễn
Việt Thanh, một anh hùng - liệt sĩ từng chiến đấu dũng cảm, gây cho kẻ thù phải kinh
hoàng, khiếp sợ; Thái Giang viết Khi con người có Tổ quốc từ nguyên mẫu Đào Thị
Bảy (dù ông ghi “truyện thơ” nhưng kì thực là trường ca có cốt truyện). Riêng Theo
chân Bác (Tố Hữu) và Hồ Chí Minh (Lê Huy Quang) vẫn là trường ca có cốt truyện
nhưng đã đan xen khá rõ những suy cảm trữ tình (qua việc tái hiện quá trình hoạt động
của lãnh tụ): “Ai biết ? / Năm một nghìn chín trăm hai mươi tư / thành tiếng khóc /
Lênin / một ngày băng giá Matxcơva / Và mười lăm năm sau / Chủ tịch Hồ Chí Minh /
mở / Việt Nam Dân chủ Cộng hòa / Tám mươi năm sau, tiếng khóc ấy / là niềm tự hào
thế kỉ Hai mươi / ở mọi phần đánh Mỹ” (Hồ Chí Minh - Lê Huy Quang).
Đến chặng cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, Mặt đường khát vọng của
Nguyễn Khoa Điềm thực sự đánh dấu bước tiến mới của thể trường ca theo hướng
tổng hợp tự sự - trữ tình - chính luận. Những yếu tố làm nên sức hấp dẫn của Mặt
đường khát vọng chưa phải những triết lí cao siêu, mà ở sự đan cài giữa thân phận cá
nhân với sự tồn vong của cộng đồng dân tộc. Nổi lên trên hết là vai trò của nhân dân
trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Họ hoàn toàn là “đám đông” vô danh, sống cuộc
đời lam lũ:“Em ơi em / Hãy nhìn rất xa / Vào bốn nghìn năm đất nước / Năm tháng
55
nào cũng người người lớp / Con gái con trai bằng tuổi chúng ta / Cần cù làm lụng /
Khi có giặc người con trai ra trận / Người con gái trở về nuôi cái cùng con”.
Mặt đường khát vọng tái hiện sinh động quá trình chuyển biến nhận thức, tư
tưởng, tình cảm và sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị miền Nam đối với vận mệnh của đất
nước, khơi gợi ở họ lòng tự trọng tự tôn dân tộc. Có thể nói, nếu Bài ca chim chơ rao
ghi dấu sự thành công của dạng trường ca kết cấu theo cốt truyện ở chặng đầu, thì Mặt
đường khát vọng như “đỉnh” của dạng trường ca kết cấu theo chủ đề ở chặng cuối, khi
chiến tranh sắp kết thúc. Nhưng cũng phải đến sau 1975 thể loại này mới hoàn toàn
thoát ra khỏi cách dựng cốt truyện và cách kể chuyện truyền thống; để cùng lúc nó
dung nạp cả sự sự, trữ tình và chính luận, mang tính tổng hợp đúng nghĩa. Đó là
Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh,
Trường ca sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu, Đất nước hình tia chớp của Trần Mạnh
Hảo,... tạo nên sự bùng phát chưa từng thấy của thể loại trong diễn trình thơ Việt Nam
hiện đại.
Đối với thơ vùng đô thị miền Nam, Ngô Kha là nhà thơ duy nhất sáng tác
trường ca theo khuynh hướng siêu thực, đến nay chưa ai vượt qua. Không như một số
tác giả khác khi viết trường ca thường đặt cái tôi nhà thơ ra bên ngoài để ngợi ca
những vấn đề lớn lao của xã hội, Ngô Kha viết trường ca trước hết là để giãi bày thế
giới nội cảm của mình, nhà thơ là chủ thể tác động vào thế giới, gõ vào miền vô thức.
Ngụ ngôn của người đãng trí là cuộc hành trình dài trong mộng ảo. Những vấn đề về
nhân sinh, về thế cuộc cứ chập chờn, va xiết trong cõi hư vô; nó không chỉ ám thị nhà
thơ mà còn ám ảnh chung cho cả thế hệ thanh niên trí thức lúc bấy giờ: “tôi vốn mang
trong người muôn quả tim / như cây trên rừng nhiều lá / sự sống từng giờ lay động
bằng tiếng khóc trẻ thơ / ôi trần thế / lời châm biếm ngọt ngào như trái chín đong đưa
/ thôi còn gì / chuyện của Người Đãng Trí”.
Nhìn tổng thể, trữ tình và anh hùng ca vẫn là hướng chính của nền thơ chống
Mỹ, bao gồm cả những sáng tác theo thể trường ca. Tuy nhiên trữ tình trong trường ca
không thuần khiết, không triển khai theo mạch cảm xúc như bài thơ trữ tình thuần túy.
Cấu trúc của trường ca là tổng phổ nhiều mạch quan trọng được ghép nối, xâu chuỗi
để tạo nên mạch nhất quán. Và không phải trường ca nào cũng chặt chẽ, cũng sinh
56
động như mong muốn. Dẫu vậy, có được Bài ca chim chơ rao, Mặt đường khát vọng
và một số trường ca viết sau chiến tranh vừa kết thúc là những thành tựu rất đáng ghi
nhận của nền thơ chống Mỹ.
1.2. Thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ: Khái niệm, diễn trình
vận động
1.2.1. Khái niệm
Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã làm nảy sinh một nền thơ và thời thơ đánh giặc
giữ nước (thơ ca chống Mỹ). Trong đó, đội ngũ nhà thơ trẻ xứng đáng giữ vai trò tiên
phong, trở thành lực lượng chủ lực. Cụm từ “thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống
Mỹ” (gọi tắt “thơ trẻ thời chống Mỹ”) được dùng để chỉ sáng tác của thế hệ nhà thơ
này.
Do chưa xuất hiện trong bất cứ bộ từ điển nào nên khái niệm “thơ trẻ thời
chống Mỹ” chắc sẽ có những kiến giải khác nhau (hiện chưa thấy tài liệu nào cắt
nghĩa thật đầy đủ, cặn kẽ). Để giải quyết vấn đề, chúng tôi đưa ra một hướng tiếp cận
theo sự hiểu của bản thân:
* Thứ nhất, tên gọi “thơ trẻ” trong “thơ trẻ thời chống Mỹ” là một tổ hợp vừa
định tính vừa định danh, nay đã thành tên gọi quen thuộc, cứ ngỡ không cần lí giải gì
thêm. Kỳ thực lại không phải vậy, xung quanh khái niệm này đã không ít người quan
tâm. Chẳng hạn, Nguyễn Trọng Tạo, trong một bài viết đã đặt vấn đề: “Không rõ từ
bao giờ, chúng ta bỗng dùng từ “thơ trẻ” để gọi chung cho thơ của một lớp người làm
thơ mới xuất hiện trong làng thơ. Trước cách mạng và trong kháng chiến chống Pháp,
hình như chưa có từ “thơ trẻ” với ý nghĩa này, hoặc đã có mà chưa được dùng phổ
biến. Nhưng đến thời chống Mỹ, nó bắt đầu trở thành quen thuộc cho đến nay” (149,
tr.112). Mở rộng thêm, Nguyễn Trọng Tạo viết: “Thực ra khái niệm “thơ trẻ” hay
“nhà thơ trẻ” ở ta mới xuất hiện chưa đầy 40 năm, thuở ấy xuất hiện một lớp người
trẻ làm thơ bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Và để phân biệt đẳng cấp, các nhà
thơ “lão làng” đã gọi lớp làm thơ em út là “bọn trẻ làm thơ” hoặc “nhà thơ trẻ”
[150]. Các tác giả “Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại, tập II” xác định: “Khái
niệm thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ, cứu nước được dùng để chỉ thơ của các cây bút tuổi
đời và đặc biệt là tuổi nghề còn trẻ xuất hiện trong thời kì chống Mỹ. Đây chính là
57
thời kì mà họ có những tác phẩm gây được sự chú ý, khẳng định tài năng và dấu ấn
của mình trên thi đàn” [79, tr. 98].
Theo cách hiểu thông thường, khái niệm “thơ trẻ” dùng để chỉ sáng tác của
những nhà thơ trẻ tuổi, mới xuất hiện trên thi đàn ở thời hiện tại (trẻ trong thời điểm
được xác định; chẳng hạn “thơ trẻ thời chống Mỹ”, “thơ trẻ thời hội nhập”). Hiểu như
thế là mới nhìn vào một tiêu chí. Nếu ai đó cho rằng thơ trẻ đơn thuần chỉ là sự phân
biệt về tuổi tác giữa thế hệ trước và thế hệ kế cận thì độ chuẩn xác của khái niệm chắc
chắn chưa cao. Bởi, thơ trẻ thì người làm thơ có độ tuổi đang trẻ, điều đó hiển nhiên
rồi. Nhưng chất trẻ trong thơ không hoàn toàn chịu sự “chế áp” tuyệt đối của tuổi tác,
nó còn được quy định bởi tâm hồn thi sĩ. Nói cách khác, nó được bộc lộ bởi hồn thơ,
hồn thơ trẻ làm phát lộ cái mới, cái lạ. Trong bài “Thơ trẻ từ ngôn ngữ đến tâm trạng”,
Đoàn Minh Tâm cho đây là khái niệm “đầy cảm tính”, “không thích hợp với công
việc nghiên cứu” [151, tr.6]. Đó là ý kiến chưa hẳn đã thuyết phục, nhưng sẽ có lý,
nếu cứ “nhập nhằng” mãi xung quanh chữ “trẻ” trong tổ hợp “thơ trẻ”.
Theo chúng tôi, khái niệm “thơ trẻ” bao gồm trẻ về tuổi đời, trẻ về “tuổi”
xuất hiện trên thi đàn, và quan trọng hơn, “trẻ” về hồn thơ.
Thơ trẻ thời chống Mỹ, xét về tiêu chí tuổi tác, là thơ của những người mà
bước vào chặng thứ hai của cuộc kháng chiến (1965 - 1975), họ xê dịch ở độ tuổi đôi,
ba mươi hoặc trên đó đôi chút (trường hợp “thần đồng” Trần Đăng Khoa là không phổ
biến). Tức, phần đông, họ sinh vào giữa thập niên ba mươi trở về sau, “mềm” hơn là
lùi về trước khoảng vài ba năm: “Thế hệ chúng tôi nối hàng ra mặt trận / Tuổi hai
mươi, ba mươi cắt ngang vết đạn / Cuộc chia tay không hẹn ngày về” (Trận cuối cùng
- Nguyễn Đức Mậu). Theo tiêu chí này, không phải tất cả nhà thơ trưởng thành trong
kháng chiến chống Mỹ đều thuộc thơ trẻ. Lí do đơn giản, bởi tuổi đời tính đến thời
điểm thơ trẻ xuất hiện với tư cách một thế hệ, một hiện tượng nghệ thuật thì họ đã
không còn trẻ nữa.
Xét về tiêu chí “tuổi” xuất hiện trên thi đàn thì đó là sáng tác của những người
làm thơ mà lần đầu, phải đến cuộc kháng chiến chống Mỹ mới ra mắt công chúng,
được công chúng nồng nhiệt đón nhận. Nhất là khi chiến tranh lan ra cả nước (1965 -
1975), trong khoảng thời gian đó, trên thi đàn, thơ họ tạo nên dáng dấp riêng trong
58
chân dung một thế hệ. Tiêu chí này phân biệt với những nhà thơ xuất hiện trước và
sau cuộc kháng chiến chống Mỹ (từ “xuất hiện” hiểu theo nghĩa “tầm” nhà thơ đã
được khẳng định).
Một tiêu chí nữa, như trên đã nói, đó là trẻ về hồn thơ. Trẻ về hồn thơ được
phát lộ qua thi phẩm bằng các phương thức biểu đạt thẩm mỹ (ngôn từ, thể thơ, giọng
thơ...). Nhưng trước hết là “trẻ” trong cách cảm, cách nhìn, cách nghĩ của cả một thế
hệ nhà thơ. Nó phải được nhận diện và phân biệt bởi những dấu hiệu riêng, khó lẫn:
“Mỗi thế hệ văn học có tiếng nhạc riêng của họ, riêng đến nỗi, nếu họ có muốn bắt
chước nhau cũng không xong” (149, tr.117). Rõ ràng, chỉ có “trẻ” mới đưa vào thơ cái
hồn nhiên, nghịch ngợm, pha chút “ngang tàng” của người lính: “Không có kính, ừ thì
có bụi /…/ chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc / nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật); cũng chỉ có “trẻ” lăn xả giữa
chiến trường mới cảm nhận chiến tranh như là chiến tranh: “Đêm Thành Cổ ngổn
ngang gạch vụn / Đoạn chiến hào đầy tiếng chuột kêu, bầy chuột đói / gặm xương
người” (Đêm Thành Cổ 1972 - Nguyễn Đức Mậu). Và họ thực sự “trẻ” khi họ nghĩ về
thế hệ mình. Đến họ, lần đầu tiên xuất hiện kiểu diễn ngôn vừa lạ vừa mới, dạng như:
“chúng tôi không muốn chết vì hư danh / không thể chết vì tiền bạc / chúng tôi lạ xa
với những tin tưởng điên cuồng / những liều thân vô ích” (Thử nói về hạnh phúc -
Thanh Thảo).
Như vậy, tên gọi “thơ trẻ thời chống Mỹ” nghiêng về chất “trẻ” của nó, cũng
như người ta định danh cho dòng thơ lãng mạn 1932 - 1945 bằng khái niệm “Thơ
mới”. Gọi “Thơ mới” chứ không gọi “thơ trẻ”, bởi “mới” là “gen trội” hàng đầu, trội
hơn cả chất “trẻ”, dù hầu hết chủ thể sáng tạo ra nó đều còn trẻ - rất trẻ. Thông
thường, “trẻ” tương hợp với “mới”, nhạy cảm và thích làm mới. Tuy nhiên, trong sáng
tạo nghệ thuật, bất cứ cách tân nào cũng đều phải mới nhưng không phải mọi cái mới
đều cách tân. Chỉ khi nào cái mới ấy như một bước đột biến trong tư duy nghệ thuật,
thiết lập được khoảng cách thẩm mỹ mà trước đó chưa có. Cách tân là một quá trình
lịch sử, mở ra khả năng xuất hiện những phong cách nghệ thuật mới, khuynh hướng
sáng tác mới của cả một giai đoạn văn học. Hiểu theo nghĩa này, “Thơ mới” là một
59
cách tân chưa từng có trong nền thơ ca nước nhà, thơ trẻ thời chống Mỹ cũng có
những cách tân rất đáng ghi nhận.
Từ lập luận trên, chúng tôi cho rằng, không phải thời nào cũng xuất hiện “thơ
trẻ”, “thơ mới” nếu “gen trội” của nó chưa thực sự trội, nếu “lạ hóa” chưa được phổ
biến. Và, điều quan trọng không kém, bởi người ta không quen gọi như thế. Chẳng
hạn, thời chống Pháp (1946 - 1954), sáng tác của Hoàng Trung Thông, Chính Hữu,
Hoàng Cầm, Quang Dũng, Hữu Loan,... không ai gọi đó là “thơ trẻ”; dù vào thời điểm
ấy, khi họ mới xuất hiện, chưa ai bước qua ngưỡng tuổi ba mươi.
* Thứ hai, chúng tôi tiếp cận khái niệm “thơ trẻ” trong “thơ trẻ thời chống Mỹ”
cả trên bình diện khách thể và chủ thể. Khách thể là thời đại Việt Nam chống Mỹ đã
sản sinh ra một đội ngũ nhà thơ giàu nhiệt huyết cứu nước: cầm bút và cầm súng,
đánh giặc và làm thơ. Về chủ thể, đó là cả một thế hệ. Tên gọi “thế hệ thơ trẻ” chỉ sự
mới xuất hiện của một lớp nhà thơ trong một thời điểm lịch sử, chung một bối cảnh xã
hội mà trước đó họ chưa được khẳng định trên thi đàn. Họ gần như cùng trang lứa, trẻ
tuổi đời, trẻ hồn thơ và có nhiều tương đồng trong sáng tạo nghệ thuật. Ở đây cần chú
ý đến sự xuất hiện đồng thời của đông đảo những cây bút trẻ, đánh dấu một bước
chuyển trong thi ca, tác động rõ ràng đến đời sống thẩm mỹ của công chúng. Thiếu
tiêu chí này, sáng tác của từng nhà thơ trẻ chưa đủ sức tập hợp thành thế hệ, Chế Lan
Viên cũng có ý như thế khi ông viết: “Cây bút trẻ, thời nào, chế độ nào mà chả có.
Cái mới ở đây, họ xuất hiện ra hàng loạt” (193, tr.487).
Thời điểm xuất hiện hàng loạt những cây bút trẻ mà Chế Lan Viên nói ở đây là
vào nửa đầu thập niên 60; tức bước sang chặng thứ hai của nền thơ chống Mỹ. Và đó
cũng là thời điểm có ý nghĩa ghi nhận sự ra đời chính thức một lớp nhà thơ trẻ với tư
cách được tập hợp thành thế hệ. Đáng chú ý là, nếu thời “Thơ mới” có những nhà thơ
tuyên bố: “Là thi sĩ nghĩa ru với gió / Mơ theo trăng và vớ vẩn cùng mây” (Xuân
Diệu), “Tôi chỉ là một khách tình si / Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể” (Thế
Lữ),… Thì mấy chục năm sau, đến thơ trẻ thời chống Mỹ lại xuất hiện kiểu tuyên
ngôn khác: “Không có sách chúng tôi làm ra sách / Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc
đời mình” (Hữu Thỉnh), “Những tráng ca thuở trước / Còn hát trong sách thôi /.../
60
Bài hát của chúng tôi / Là bài ca ống cóng” (Thanh Thảo), “Con sẽ vót nhọn thơ
thành chông / Xuyên vào gan lũ giặc...” (Trần Quang Long).
Ấy là quan niệm của cả một lớp trẻ làm thơ: thơ xáp mặt cuộc sống, là vũ khí
đấu tranh cho độc lập, tự do; là sự tự tin, tự khẳng định chân dung và trách nhiệm của
thế hệ mình trước sự tồn vong của đất nước: “Dù thơ em viết chửa hay hơn / Em đang
tập làm thơ cho có ích /…/ Dòng thơ em đang theo bánh xe lăn / Theo tuổi trẻ trăm
lần ra trận” (Viết trên đường 20 - Xuân Quỳnh).
* Thứ ba, chúng tôi cho rằng, thơ trẻ thời chống Mỹ là hợp lưu ba nguồn: thơ
trẻ miền Bắc (nguồn 1), thơ trẻ vùng giải phóng (nguồn 2), thơ trẻ yêu nước tiến bộ
vùng đô thị miền Nam (nguồn 3). Ba nguồn này, về tính tư tưởng, thơ trẻ thời chống
Mỹ có hai khuynh hướng chính. Đó là khuynh hướng cách mạng (tập trung ở nguồn 1
và nguồn 2) và khuynh hướng yêu nước tiến bộ (tập trung ở nguồn 3). Trước đây, các
giáo trình và sách giáo khoa giảng dạy trong nhà trường từ phổ thông đến đại học,
phần viết về thơ trẻ thời chống Mỹ đã không tính đến nguồn 3. Bởi thế nên, nói đến
thơ trẻ thời chống Mỹ, người ta chỉ biết những Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy,
Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly, Nguyễn Mỹ, Xuân Quỳnh,
Thanh Thảo, Bằng Việt, Lưu Quang Vũ,… tức những nhà thơ thuộc khuynh hướng
cách mạng; còn những Trần Quang Long, Ngô Kha, Đông Trình, Tần Hoài Dạ Vũ,
Thái Ngọc San,... thì ít người biết đến, nhất là học sinh, sinh viên khu vực phía Bắc;
trong khi sáng tác của họ thực sự có giá trị cả về nội dung và hình thức, đóng góp của
họ vào tiến trình thơ Việt Nam hiện đại là không thể phủ nhận.
* Sau cùng cũng cần phân biệt tên gọi “lớp (hay thế hệ) nhà thơ thời chống
Mỹ” và “thế hệ thơ trẻ thời chống Mỹ”. Hai tên gọi khác nhau ở chỗ: Nói đến lớp (thế
hệ) nhà thơ thời chống Mỹ là nói đến đội ngũ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng
chiến ấy (1955 - 1975), bất kể tuổi tác. Họ tiếp nối lớp (hay thế hệ) nhà thơ thời chống
Pháp (1946 - 1954). Còn “thế hệ thơ trẻ thời chống Mỹ” là tên gọi về một đội ngũ nhà
thơ xuất hiện từ đầu thập niên 60 và đồng loạt trưởng thành vào khoảng giữa thập niên
ấy. Họ trẻ về tuổi đời, tuổi thơ và hồn thơ. Đối tượng của tên gọi thứ nhất rộng hơn
đối tượng của tên gọi thứ hai; trong lớp nhà thơ thời chống Mỹ có thế hệ thơ trẻ. Tuy
nhiên, cũng có nhiều tác giả thuộc lớp nhà thơ thời chống Mỹ nhưng không nằm trong
61
thế hệ thơ trẻ do “vượt khung” tuổi tác: Viễn Phương (sinh 1928), Việt Phương (sinh
1928), Giang Nam (sinh 1929), Thanh Hải (sinh 1930),...
Trên đây là cách hiểu của chúng tôi về khái niệm “thơ trẻ thời chống Mỹ” (tên
gọi đầy đủ “Thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ”). Cụm từ “thời chống Mỹ”
định vị biên độ cuộc kháng chiến của dân tộc và sáng tác của những nhà thơ trẻ xuất
hiện trong cuộc kháng chiến ấy. Đó là những vấn đề liên quan đến đề tài mà chúng tôi
nghiên cứu. Và như lẽ đương nhiên, nghiên cứu bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng
phải bắt đầu từ khái niệm.
1.2.2. Diễn trình vận động
Mỗi thế hệ nhà thơ đánh dấu một bước chuyển trong lịch sử văn học dân tộc.
Bước chuyển ấy vừa chịu sự tác động và chi phối của thời đại (lát cắt ngang) vừa có
sự tiếp nối, kế thừa những giá trị tinh hoa của thế hệ trước để lại (lát cắt dọc). Mọi
sáng tạo của nhà thơ trong từng thế hệ đều nằm trong mối liên hoàn, liên thông với
chiều dọc và chiều ngang ấy. Người ta gọi đó là quy luật kế thừa và cách tân mà bất
cứ hiện tượng nghệ thuật nào, trong diễn trình vận động đều phải tuân theo. Thơ trẻ
thời chống Mỹ cũng không ngoại lệ.
Nhìn tổng thể, từ khi xuất hiện sáng tác của nhiều nhà thơ trẻ trên thi đàn
(đầu thập niên 60) đến thời điểm được tập hợp thành một dòng thơ với tư cách là hiện
tượng nghệ thuật nổi bật (giữa thập niên 60) và xuyên suốt cuộc kháng chiến, thơ trẻ
thời chống Mỹ có thể chia thành ba chặng. Mỗi chặng có những nét riêng, gắn với
diễn biến chiến sự và bước chuyển của thơ ca. Tuy nhiên, sự phân chia này cũng chỉ
tương đối. Kỳ thực, thơ trẻ thời chống Mỹ là một thực thể trọn vẹn, một dòng thơ vận
động liên tục. Riêng ở chặng cuối, chúng tôi có xem xét thêm một số trường ca xuất
hiện liền sau 1975 (Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh, Những người đi tới biển -
Thanh Thảo, Trường ca sư đoàn - Nguyễn Đức Mậu,...). Bởi, ngoài sự nối dài đề tài,
cảm hứng, giọng điệu của thơ thời chống Mỹ, những trường ca này như những hồi
quang về chiến tranh, được các nhà thơ ấp ủ, khởi thảo từ khi còn cầm súng trên chiến
trường, họ cần đi hết mạch thơ còn dang dở khi cuộc chiến vừa khép lại.
● Chặng thứ nhất: Từ 1960 đến 1964
Đây là chặng mở đầu có ý nghĩa quyết định để đến giữa thập niên 60, thơ trẻ
62
thời chống Mỹ tập hợp thành đội ngũ, đánh dấu bước trưởng thành, hiện hữu như một
dòng thơ đặc trưng, mang dấu ấn thế hệ. Theo tác giả chuyên luận “Thơ với cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, thì “Đông đảo và sung sức chính là sự góp mặt
của thế hệ trẻ. Thế hệ này xuất hiện đầu những năm 60, hùng hậu trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ” [54, tr.49]. Nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh trong “Văn học Việt Nam
chống Mỹ cứu nước” cũng có ý khẳng định như vậy [195, tr.117].
Tại sao lại là đầu thập niên 60 ? Có hai sự kiện lịch sử lớn dội vào văn học:
- Thứ nhất, năm 1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III vạch kế hoạch 5 năm
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Cuộc sống lao động sản xuất theo mô hình
mới, buổi đầu tỏ ra có hiệu quả, tạo cảm hứng dồi dào, “mời gọi” thơ ca. Dĩ nhiên,
“cầm trịch” trên thi đàn hồi ấy vẫn đang là các nhà thơ lớp trước. Đồng thời, theo quy
luật tiếp nối, sau hơn nửa thập niên cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc
đủ thời gian và điều kiện để hình thành lớp nhà thơ trẻ trong chế độ mới. Được nhà
nước quan tâm, Hội Nhà văn khuyến khích (rõ nhất là cuộc thi thơ của Tạp chí Văn
nghệ 1961), nhiều cây bút trẻ có cơ hội đến với độc giả bằng những sáng tác đầu tay
và bước đầu gây được ấn tượng. Cuối 1962, sự kiện Đại hội văn nghệ toàn quốc lần
thứ III và Thư của Ban chấp hành Trung ương Đảng gửi Đại hội đã tác động tích cực
đến đời sống văn học trong cả nước, tạo chuyển biến cơ bản về mọi mặt, công việc
phát hiện và bồi dưỡng tài năng cho những cây bút trẻ càng được chú ý. Có cơ sở để
nhà nghiên cứu Mã Giang Lân khẳng định: “Các nhà thơ trẻ xuất hiện trong những
năm hòa bình như Nguyễn Bao, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Ngô Văn Phú, Võ Văn Trực,
Ca Lê Hiến,… báo hiệu nhiều hứa hẹn” [73, tr.174].
- Thứ hai, Mỹ xâm lược Việt Nam từ 1955 và cuộc kháng chiến cũng bắt đầu
từ đó. Tuy nhiên, cho đến hết thập niên 50, đường lối cách mạng miền Nam vẫn đang
đấu tranh chính trị, phải bắt đầu từ 1960, khi có Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng,
sau Phong trào Đồng khởi Bến Tre, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam được
thành lập, thì cuộc kháng chiến chống Mỹ mới chuyển sang giai đoạn phát triển toàn
diện, ngày càng quyết liệt; miền Nam thực sự trở thành tiền tuyến lớn (cũng là năm
mở đầu cái gọi là “chiến tranh đặc biệt” của Hoa Kỳ). Diễn biến này chi phối đến đời
sống văn học, trước hết, đó là ra đời của Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam (20-7-
63
1961), nhiều cây bút trẻ xuất hiện, đội ngũ nhà văn ngày càng đông đảo, chất lượng
sáng tác không ngừng nâng lên, nhất là kể từ khi liên tục được bổ sung nguồn lực từ
miền Bắc: “Ở miền Nam, từ 1960, cùng với đà phát triển vũ bão của cách mạng, đội
ngũ những người làm thơ nhanh chóng được tập hợp đông đảo” [195, tr.128]. Trong
bối cảnh lịch sử như vậy, là một thể loại có truyền thống lâu đời, thơ ca nảy nở, và
ngày càng bùng phát khắp mọi miền đất nước là đương nhiên: “Từ 1960, sau những
ngày Đồng khởi Bến Tre đánh dấu sự vùng dậy thần kỳ của cách mạng miền Nam,
phong trào cách mạng miền Nam bước sang một giai đoạn mới. Thơ miền Bắc kịp
thời có tiếng nói hợp đồng chiến đấu” [195, tr.117]. Giải thưởng văn nghệ Nguyễn
Đình Chiểu (1965) của Hội Văn nghệ giải phóng là sự kiện đáng chú ý trong đời sống
văn học nghệ thuật nói chung và thơ trẻ miền Nam vùng giải phóng nói riêng (Bài ca
chim chơ rao của Thu Bồn đạt giải chính thức).
Nhìn vào thực tế, rõ là từ đầu những năm 60, sáng tác của nhiều nhà thơ đã
được công chúng đón nhận, trong đó có không ít thi phẩm đạt giải cao trong các cuộc
thi thơ. Chẳng hạn, cuộc thi thơ của Tạp chí Văn nghệ 1961: giải nhất Lửa sáng rừng -
Thái Giang, giải nhì Nhớ mưa quê hương - Ca Lê Hiến; hay cuộc thi thơ của báo Lao
động 1964: giải nhất Đảo con gián - Nguyễn Xuân Thâm. Một số cây bút trẻ đã có tập
thơ xuất bản, như Vân Long: Tia nắng - 1962, Nguyễn Xuân Thâm: Biển ấm - 1964
(tập thơ in chung), Thái Giang: Lửa sáng rừng - 1964, Ca Lê Hiến: Tiếng gà gáy - đầu
1965,… Và hàng loạt sáng tác của những nhà thơ khác: Bùi Minh Quốc (Lên miền
Tây - 1960), Vũ Quần Phương (Hát ru - 1962), Xuân Quỳnh (Chồi biếc, Thuyền và
biển - 1963), Bằng Việt (Bếp lửa, Tình ca trên đất mới - 1963), Nguyễn Mỹ (Cuộc
chia li màu đỏ, Hoa cúc tím - 1964), Lưu Quang Vũ (Thôn Chung Hưng - 1964),
Phạm Tiến Duật (Nhật ký yêu đương, Cái cầu - 1964),… Ở vùng giải phóng, năm
1963, Thu Bồn đã nổi danh với Bài ca chim chơ rao. Có thể nói, đây là trường ca
đóng một mốc son đầu tiên trong lịch sử trường ca hiện đại Việt Nam; vừa mới ra đời
nó đã tạo được tiếng vang trong cả nước. Bên cạnh Thu Bồn, nhà thơ Chim Trắng
cũng có những sáng tác khá ấn tượng: Đi giữa mùa xuân, Trở lại Đôn Nhơn - 1963,
Cù lao anh hùng, Rừng xanh tuổi đẹp - 1964,… Ấy là chưa nói đến mảng thơ trẻ yêu
nước tiến bộ vùng đô thị: Trần Quang Long, năm 1960 đã có Nghiêng nón”, 1962 có
64
Lời hôn, Lời gọi, 1963 có Các anh ở đâu; Ngô Kha, năm 1961 đã có tập Hoa cô độc,
v.v…
Nhìn chung, ở chặng đầu, khi miền Bắc tạm thời có hòa bình, hòa trong âm
hưởng ngợi ca của nền thơ cách mạng, thơ trẻ một mặt bùng cháy khát vọng lên
đường đến những nơi gian khổ nhất, cống hiến tuổi thanh xuân cho công cuộc dựng
xây đất nước: “Ôi , miền Tây, ở dưới xuôi sao nghe nói ngại ngùng / Mà lúc ra đi, lửa
trong lòng vẫn cháy / Cái tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy / Thì xa xôi biết mấy
cũng lên đường (Lên miền Tây - Bùi Minh Quốc). Mặt khác, có thể nói, chưa bao giờ
nỗi đau đất nước cắt chia lại đau đáu thổn thức như trong thơ trẻ ở chặng đầu, nhất là
sáng tác của những nhà thơ miền Nam tập kết trên đất Bắc. Tình quê hương găm sâu
vào kí ức, trỗi dậy đến nao lòng: “Anh không nằm mơ anh đang thức đấy / Cớ làm sao
nghe tiếng gà vọng gáy / Bỗng tìm em tay chạm phải vách tường / Cứ ngỡ là vách lá
quê hương” (Tiếng gà gáy - Ca Lê Hiến). Mạch xúc cảm này hiện hữu trong sáng tác
của nhiều nhà thơ lớp trước (nổi đậm nhất là Tế Hanh). Nhưng ở Ca Lê Hiến vẫn có
cái hồn nhiên, da diết riêng. Hoài Thanh nhận xét: “Những kí ức trong thơ Ca Lê Hiến
luôn luôn hồn nhiên và trong sáng. Vì đó là kí ức của tuổi thơ” [158, tr.1026].
Đồng thời, như nhiều nhà nghiên cứu khẳng định, thơ miền Bắc 1955 - 1964 đã
xuất hiện cái tôi riêng tư kiểu mới, tức cái tôi đặt trong mối quan hệ thống nhất với
cộng đồng, với đời sống chung của đất nước, của nhân dân: “cái tôi riêng tư đã có
mặt trở lại trong thơ mà trước hết là ở đề tài về tình yêu và hạnh phúc, tình gia đình”
[80, tr.96]. Lớp nhà thơ trẻ tỏ ra nhanh nhạy với cái tôi này, một số sáng tác của họ
gây được sự chú ý trong công chúng, như Xuân Quỳnh với Thuyền và biển, Nguyễn
Mỹ với Hoa cúc tím, Phạm Tiến Duật với Nhật ký yêu đương, Ca Lê Hiến với Em là
mùa xuân,… Những bài thơ nghiêng về tình cảm riêng tư, như trên đã đề cập, phải
theo hướng lạc quan, mọi biểu hiện ủy mị, yếu đuối, hoài nghi rất dễ bị phê phán
“nhiễm bệnh tiểu tư sản”. Nghĩa là, tác giả phải “lồng ghép” vào trong đó yếu tố tích
cực như lao động, chiến đấu, thi đua yêu nước,... Chẳng hạn, đọc bài Nhật ký yêu
đương, Chế Lan Viên phê: “Nhật ký yêu đương của Phạm Tiến Duật dễ rơi vào cái
bẫy cô đơn của những đề tài hiu hắt, nhưng ở đây tình yêu lao động, lòng nô nức thi
đua một người làm việc bằng hai, đã làm cho câu chuyện của hai người quyện với
65
cuộc sống của mọi người” [193, tr.427]. Rõ là viết về đề tài này, theo quan niệm hồi
ấy, độ an toàn hơi mong manh. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng, sự xuất hiện cái tôi
riêng tư dù theo hướng nào thì vẫn có tác dụng tăng hàm lượng trữ tình, làm “lục hóa”
(chữ của Xuân Diệu) tâm hồn và thơ ca của họ.
Điểm lại một số nét như vậy để thấy rằng, ngay từ những năm đầu thập niên
60, cùng bước chuyển của thế cuộc, diễn trình thơ trẻ thời chống Mỹ đã có chặng khởi
động khá đồng đều, chuẩn bị tích cực cho cuộc ra quân hùng hậu ở các chặng sau. Mà
trước hết là vào giữa thập niên 60, khi tuyển tập Sức mới 1, Sức mới 2 được Nhà xuất
bản Văn học ấn hành (cũng là năm chiến tranh lan ra cả nước), thơ trẻ nở rộ đồng loạt,
gây được tiếng vang trên thi đàn; kể từ đó, họ đĩnh đạc bước vào nền thơ ca hiện đại
với tư cách một thế hệ tiên phong, một lực lượng chủ lực trong phong trào thơ chống
Mỹ.
● Chặng thứ hai: Từ 1965 đến 1969
Đây là chặng diễn ra hai sự kiện làm thay đổi cuộc chiến đã tác động mạnh và
chi phối sáng tác thơ ca:
- Sự kiện thứ nhất: Năm 1965 đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, đánh phá ác
liệt miền Bắc (“gây sự” từ 1964), đồng thời đổ quân vào chiến trường miền Nam (cái
gọi là “chiến tranh cục bộ”). Bom đạn của một siêu cường đế quốc đã vượt vĩ tuyến
17, thách thức độc lập chủ quyền của nước Việt Nam nghìn năm văn hiến. Con đường
Trường Sơn được khai mở từ tháng 5 - 1959, nay trở thành con đường huyền thoại,
biểu tượng của ý chí thống nhất nước nhà, và cũng là tâm điểm của cảm hứng thơ ca.
Trên con đường ấy, trùng trùng đoàn quân ra trận, sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước”.
Trong bối cảnh như vậy, thơ ca chống Mỹ chuyển sang chặng bùng phát thành
cao trào. Có thể nói, chưa bao giờ cảm hứng lãng mạn - sử thi lại được đẩy lên đỉnh
điểm như mấy năm đầu cả nước trực diện chống Mỹ: “Nền thơ chống Mỹ từ 1965 là
một cao trào với sự phát triển mới về lượng cũng như về chất. Đó là một nền thơ
chống Mỹ thống nhất của cả nước, một nền thơ chiến đấu mang tính quần chúng sâu
rộng” [195, tr.17]. Thơ trẻ xuất hiện và khởi động trước đó, nay tập hợp thành đội ngũ
đông đảo, sáng tác của họ vừa đăng trên các tờ báo, tạp chí vừa in trong tuyển tập Sức
66
mới 1 và Sức mới 2. Trong đội ngũ nhà thơ trẻ đã thành danh, nhiều người lên đường
vào miền Nam chiến đấu: Ca Lê Hiến (Lê Anh Xuân), Bùi Minh Quốc (Dương Hương
Ly), Phạm Ngọc Cảnh (Vũ Ngàn Chi), Trúc Hà (Nam Hà), Nguyễn Mỹ, Hoàng Cát,…
Công tác phát hiện, bồi dưỡng tài năng trẻ tiếp tục được đẩy mạnh và rất hiệu quả,
nhất là khi có sự chỉ đạo từ Trung ương Đảng: “Các cơ quan lãnh đạo văn học nghệ
thuật và các văn nghệ sĩ cần đặc biệt quan tâm đến lực lượng trẻ đang đóng một vai
trò ngày càng quan trọng trong văn nghệ nước nhà. Những mầm non nảy nở trong
phong trào văn nghệ quần chúng cần được cổ vũ, chăm sóc và rèn luyện một cách chu
đáo” [8, tr.5- 6]. Như vậy, để có cả phong trào thơ chống Mỹ và sự lớn mạnh của
dòng thơ trẻ ở chặng thứ hai này, miền Bắc đã có sự chuẩn bị rất bài bản, xứng tầm
một hậu phương lớn làm điểm tựa vững chắc cho tiền tuyến lớn. Và chặng thơ trẻ
nhập trận với tư cách một lực lượng chủ lực trong phong trào thơ chống Mỹ thực sự
khởi hành đồng loạt.
Ở miền Nam, việc quân viễn chinh Mỹ trực tiếp tham chiến là một thách thức
rất gay go, chiến sự ác liệt hơn gấp bội. Đồng thời bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ
cũng lộ rõ, lòng tự trọng - tự tôn dân tộc của nhân dân miền Nam bị xúc phạm, tinh
thần yêu nước trỗi dậy và dâng cao. Nhiều phong trào yêu nước, chống ngoại xâm cả
về quân sự và văn hóa nổ ra khắp các đô thị miền Nam, kể cả Sài Gòn - trung tâm trực
tiếp điều hành chiến tranh của Mỹ (như Phong trào bảo vệ văn hóa dân tộc 1966 -
1967 chẳng hạn). Được tăng cường nguồn lực từ miền Bắc, đội ngũ thơ trẻ vùng giải
phóng ngày càng lớn mạnh về mọi mặt. Ngay cả đội ngũ thơ trẻ yêu nước tiến bộ
vùng đô thị, trong sáng tác của họ cũng biểu lộ tinh thần chống Mỹ quyết liệt hơn
(Trần Quang Long Thưa mẹ trái tim, Trần Vàng Sao Bài thơ của người yêu nước mình
đều được viết trong năm 1967). Rõ nhất là trong Tiếng hát của những người đi tới -
tập thơ của những cây bút trẻ yêu nước - tiến bộ, xuất bản công khai ở Sài Gòn năm
1967.
- Sự kiện thứ hai: Cuộc Tổng tiến công nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 bẻ gãy
cái gọi là “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, làm sụp đổ hoàn toàn kế hoạch kết thúc chiến
tranh theo “kịch bản” của Johnson - Mc Namara, buộc họ phải thay đổi mưu đồ, từ
“thắng vào thời điểm nào ” (khi mới đổ quân tham chiến) sang “rút bằng cách nào”
67
(sau ba năm sa lầy). Và, ngồi vào bàn đàm phán để “cuốn cờ trong danh dự” là cách
lựa chọn không thể khác của họ. Đó là một mặt. Mặt khác cũng phải thấy rằng, diễn
biến cuộc tổng công kích Mậu Thân 1968, trên thực tế đã phức tạp hơn rất nhiều so
với dự định. Có thể nói, tổn thất của quân dân ta thật khủng khiếp. Gần 20 năm sau,
ngẫm lại, Chế Lan Viên viết: “Mậu Thân 2000 người xuống đồng bằng / Chỉ một
đêm, còn sống có 30 / Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người đó?/ Tôi! Tôi! -
người viết những câu thơ cổ võ / Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc
xung phong” (Ai? Tôi!).
Sự kiện Mậu Thân 1968 tác động mạnh đến thơ chống Mỹ nói chung, thơ trẻ
nói riêng. Chưa bao giờ hình tượng anh Giải phóng quân lại trở thành tâm điểm bừng
sáng, gợi cảm hứng nồng nhiệt cho thơ ca nghệ thuật như lúc này. Trong đó, Dáng
đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân được coi là tượng đài rực rỡ và bi tráng nhất, một
tượng đài sừng sững hiện lên trong những ngày đêm tổng công kích vô cùng khốc liệt.
Để rồi chính tác giả của nó cũng anh dũng hi sinh trên chiến địa, bài thơ thấm máu
một anh hùng. Đồng thời, sau sự kiện Mậu Thân 1968, thực tế cho thấy, chiến tranh
chưa thể kết thúc nhanh gọn như mong muốn; ý chí ngất trời là cần thiết, nhưng để
chiến thắng một đế quốc khổng lồ, chúng ta còn phải tổng hợp nhiều sức mạnh khác
nữa. Rõ rằng, trong thơ trẻ, cái không khí náo nức sôi nổi, giàu cảm hứng lãng mạn
ban đầu - khi mới trực diện đánh Mỹ, sau cuộc tổng công kích này dần dần lắng lại.
Sang chặng thứ hai, đội ngũ những nhà thơ trẻ khá hùng hậu, sáng tác của họ
khá đồng đều. Có thể kể tên những tác giả tiêu biểu: miền Bắc có Bằng Việt, Vũ Quần
Phương, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ (trưởng thành từ chặng trước), Thi Hoàng, Ý
Nhi, Phan Thị Thanh Nhàn, Hoàng Thị Minh Khanh, Quang Huy, Trần Nhật Thu...;
miền Nam vùng giải phóng: Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Vũ Ngàn Chi, Nguyễn Đức
Mậu, Hoàng Cát, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Chim Trắng, Lê Chí,...; vùng đô thị tạm bị
chiếm: Trần Quang Long, Ngô Kha, Trần Vàng Sao, Tần Hoài Dạ Vũ, Thái Ngọc
San, Trần Vạn Giã, Lê Văn Ngăn, Võ Quê,... Riêng Trần Quang Long, sau chiến dịch
Mậu Thân 1968, ông ra vùng giải phóng tiếp tục sáng tác một thời gian ngắn và hi
sinh (tháng 10/1968). Cảm hứng ra trận với các mô típ chia li, hành quân, hoài
niệm, nhớ nhung trở nên phổ biến: Trở về quê nội, Rừng xuân, (Lê Anh Xuân);
68
Đêm hành quân, Qua sông Thương, Gửi các anh, Ngã ba thị xã (Lưu Quang Vũ);
Tiếng gà trưa, Chiến hào (Xuân Quỳnh); Tình yêu và báo động, Trở về trái tim mình
(Bằng Việt); Âm thanh im lặng, Chiều (Vũ Quần Phương),… là những bài thơ có chất
giọng tươi tắn, hồn nhiên của thơ trẻ chặng đầu ra trận: “Mùa xuân đậm lá ngụy trang
/ Đường ra tiền tuyến nở vàng hoa mai / Ba lô nặng, súng cầm tay / Đường xa biết
mấy dặm dài nhớ thương…” (Rừng xuân - Lê Anh Xuân).
Tuy dứt khoát, lạc quan nhưng chất lãng mạn trong hồn thơ thì vẫn đong đầy,
nhớ thương là điều không thể che dấu: “Nào đâu phải người đi không lưu luyến / Mắt
người trong như nước giếng ban đầu / Mảnh trăng liềm nghiêng một nỗi nhớ nhau”
(Đêm hành quân - Lưu Quang Vũ). Trong những năm cuối của chặng thứ hai, đội ngũ
nhà thơ trẻ ra trận ngày càng đông. Nhưng nhập trận mới là cảm hứng chính. Đây
cũng là ưu thế nổi trội của thơ trẻ thời chống Mỹ. Các thế hệ nhà thơ lớp trước không
thể hơn họ về vốn sống chiến trường. Đồng thời, chiến sự ngày càng ác liệt, tiềm lực
quân sự của Hoa Kỳ rất đáng sợ, B.52 không thể coi thường, thơ người lính tăng dần
hiện thực nóng bỏng, nghiệt ngã nơi trận mạc. Chất giọng hào sảng trong thơ họ
hầu hết đều thấm máu xương đồng đội: “Và anh chết trong khi đang đứng bắn / Máu
anh phun theo lửa đạn cầu vồng” (Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân); “Chết - Hy
sinh cho Tổ quốc Hùng ơi / Máu thấm cỏ, lời ca bay vào đất” (Nấm mộ và cây trầm -
Nguyễn Đức Mậu).
Cũng cần nói thêm, ở chặng thứ hai này, Tuần báo Văn nghệ tổ chức hai cuộc
thi thơ, tạo cơ hội để những cây bút trẻ bộc lộ tài năng, tích cực sáng tác. Cuộc thi thơ
năm 1966 có thể coi như cuộc thi mở đầu giai đoạn cả nước chống Mỹ. Chắc rằng đã
có “ưu tiên” cho những sáng tác phản ánh kịp thời cuộc chiến đấu chống không lực
Hoa Kỳ đánh phá miền Bắc, bảo vệ cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, nhất là mạch
máu giao thông, nên bài thơ Vào đêm của Thái Giang được trao giải nhì (không có
giải nhất). Đồng giải nhì còn có bài Đường lên bản Muốn của Văn Thảo Nguyên,
Chuyện một tổ trồng cây của Mai Thành Chương. Nhìn chung, cả ba bài đạt giải, về
chất lượng đã không hơn những thi phẩm đồng giải nhì ở đợt thi của Tạp chí Văn nghệ
1961 (Nhớ mưa quê hương - Ca Lê Hiến, Lửa sáng rừng - Thái Giang); nếu không
muốn nói là đã “thụt lùi” về nghệ thuật.
69
Phải đến cuộc thi thơ 1969 thì những bài đạt giải mới xứng tầm của nó. Lọc
trong hơn 13.000 bài thơ của 2.500 tác giả gửi về dự thi, Ban giám khảo chọn ra chùm
thơ bốn bài của Phạm Tiến Duật để trao giải nhất. Trong số đó, Lửa đèn là bài nổi trội
hơn cả. Tác giả đã khéo sử dụng lối kết cấu điệp khúc để dẫn dắt mạch suy tưởng, nối
kết các hình ảnh theo một trật tự nghệ thuật hoàn hảo. Bài thơ giàu sức ám gợi, góp
phần làm nên “thương hiệu” Phạm Tiến Duật, được đông đảo bạn đọc mến mộ. Có thể
nói, không riêng gì dòng thơ trẻ mà cả nền thơ chống Mỹ, cho đến thời điểm đó,
Phạm Tiến Duật là người xây dựng thành công nhất biểu trưng “lửa” trong
trạng huống chiến tranh; mạch thơ trôi chảy tự nhiên, không câu nệ vần điệu, hơi
thơ khỏe khoắn, dồn dập, lời thơ bình dị nhưng ý thơ lấp lánh trí tuệ: “Bóng tối che
rồi không nhìn thấy gì đâu / Cây trúc làm duyên phải nhờ gió thổi / Cô gái làm duyên
phải nhờ giọng nói / Bông hoa làm duyên phải lụy hương bay”.
Sau giải nhất của Phạm Tiến Duật, cuộc thi 1969 còn có ba giải nhì cho Vững
Anh, Bế Kiến Quốc, Phan Thị Thanh Nhàn. Tiếp đến là sáu giải ba, mười giải khuyến
khích. Những tác giả đạt giải đã góp phần khẳng định chất giọng riêng của một thế hệ
mới - thế hệ thơ trẻ thời chống Mỹ; tạo đà cho dòng thơ này tiếp tục vận động và khởi
sắc ở chặng sau.
● Chặng thứ ba: Từ 1970
Đây là chặng cuối của thơ trẻ thời chống Mỹ. Đội ngũ sáng tác đã đông đảo
vào những năm cuối chặng thứ hai, nay được bổ sung thêm nhiều cây bút mới, trong
đó xuất hiện không ít tài năng: Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Hữu
Thỉnh, Hoàng Nhuận Cầm, Vương Trọng, Nguyễn Trọng Tạo, Lâm Huy Nhuận, Vũ
Đình Văn, Nguyễn Trọng Định, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Lý Phương Liên, Anh
Ngọc, Cảnh Trà, Thúy Bắc, Thanh Tùng, Thái Thăng Long, Nguyễn Chí Hiếu,
Nguyễn Bá,... Thực ra, trong số những nhà thơ trẻ này, nhiều người đã có thơ đăng
báo từ trước (Nguyễn Duy Nhuệ, Vũ Đình Văn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Cảnh Trà,...) nhưng
phải đến đầu những năm 70 họ mới thành danh và nổi danh trên thi đàn. Nét đáng chú
ý là, phần đa những nhà thơ trẻ bổ sung ở chặng cuối đều là những nhà thơ - chiến sĩ.
Họ là những người cầm súng và cầm bút, nếm trải cuộc đời chinh chiến nơi tuyến đầu
chứ không quan sát từ xa như lớp nhà thơ trước. Do vậy trong thơ trẻ thời chống Mỹ ở
70
chặng cuối, hiện thực được khám phá và khái quát hóa với tất cả những gì bề
bộn, nóng bỏng nhất. Nguyễn Bá Thành khẳng định: “Bắt đầu từ những năm 70, thế
hệ trẻ chống Mỹ đã viết một cách tự tin hơn, đều tay hơn. Thơ họ là tiếng nói của
những người trực tiếp xung kích trên mọi mặt trận, là tiếng nói của một thế hệ sinh ra
và lớn lên trong lòng nôi cách mạng” [161, tr.42]. Như chúng tôi nghĩ, bước sang
những năm đầu thập niên 70, thơ trẻ thực sự vạm vỡ, cường tráng, có xu hướng
áp đảo trên thi đàn. Qua độ giãn thời gian, số lượng thi phẩm thời đất nước chiến
tranh, nay còn sống được, phần đa đều thuộc dòng thơ này.
Ý kiến trên của nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Thành là có cơ sở. Từ những năm
đầu thập niên 70, thơ trẻ thời chống Mỹ đã có bước chuyển về nhiều mặt: đội ngũ
sáng tác, điểm nhìn nghệ thuật, thi pháp, giọng điệu,... Trong đó có một số trường hợp
“xé rào”, vượt ra ngoài “khung tư tưởng” thời đó (Vòng trắng - Phạm Tiến Duật, Sẹo
đất - Ngô Văn Phú, Trò chuyện với Thúy Kiều - Lý Phương Liên). Những chuyển biến
này như sự vận động tất yếu của mọi hiện tượng nghệ thuật, điều mà xưa nay vẫn
thường diễn ra.
Nhưng trước hết phải nhận thấy sự dội vào của những sự kiện lớn trong đời
sống xã hội, sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử đối với thơ trẻ ở chặng cuối.
Nhìn chung, chúng tôi thấy một nổi lên một số đặc điểm chính sau đây:
- Thứ nhất, sau sự kiện Mậu Thân 1968 cho đến hết 1969 hầu như không có
trận đánh nào làm rung chuyển thế cuộc. Sang đầu thập niên 70, chiến trường khốc
liệt trở lại, mở rộng trên toàn cõi Đông Dương, nhiều trận đánh lớn diễn ra, mức độ
còn dữ dội hơn trước. Như chiến dịch Đông - Xuân 1971 - 1972, trong đó mặt trận
Đường Chín - Nam Lào, mặt trận Quảng Trị 81 ngày đêm, có thể nói “thây chất thành
núi, máu chảy thành sông”. Cuối 1972, đế quốc Mỹ điên cuồng đánh phá Hà Nội, Hải
Phòng bằng “pháo đài bay” B.52 gây thảm cảnh chết chóc chưa từng thấy: “Khâm
Thiên trắng vành khăn tang đằm nước mắt” (Khâm Thiên - Lê Huy Quang). Đó là sự
thực của chiến tranh, sự thực của lòng người mà thơ trẻ biểu đạt (Tố Hữu thì khác:
“Trắng khăn tang em chẳng khóc đâu / Hỡi em gái mất cha mất mẹ” - Việt Nam máu
và hoa). Có lẽ cũng chỉ sáng tác của những nhà thơ trẻ, nhất là những cây bút trực
diện trên chiến trường mới mô tả chiến tranh như là chiến tranh. Và cũng phải đến
71
chặng cuối, khi cuộc chiến đã đi qua nhiều năm tháng gian khổ, khi nhiều nhà thơ trẻ
đã nếm đủ các cung bậc đau thương, mất mát nơi chiến trường thì mới đưa vào thơ cái
khốc liệt đến tàn nhẫn như vậy.
- Thứ hai, Hiệp định Paris được kí kết, Hoa Kỳ chấp nhận rút quân nhưng vẫn
không từ bỏ học thuyết “Việt Nam hóa chiến tranh”. Nghĩa là, cuộc chiến vẫn tiếp
diễn, người vẫn ra chiến trường, miền Nam vẫn đầu rơi máu đổ. Thế nhưng trong thơ
lại cất lên tiếng reo vui: “Khao khát trăm năm, mãi đợi chờ / Hôm nay vui đến ngỡ
trong mơ /... / Song mùa vui đã mang xuân tới / Đã tắt hôm nay lửa chiến trường”
(Việt Nam máu và hoa - Tố Hữu). Chiến thắng thì vui nhưng vui khi chiến trường
chưa im tiếng súng, theo chúng tôi là hơi sớm và khập khiễng. Thơ trẻ nơi chiến trận
hầu như không có tiếng reo vui nào sớm như vậy. Đưa ra so sánh để thấy rằng, nếu ví
thơ chống Mỹ là “bảo tàng thơ chiến tranh”, thì phải nói rõ thêm: bảo tàng ấy trước
hết thuộc về dòng thơ trẻ, gần hơn nữa là thơ trẻ ở chặng cuối, khi cuộc chiến sắp
bước vào hồi kết. Bởi, tuy chưa tái hiện thật đầy đủ cuộc chiến nhưng thơ họ sát thực,
sinh động. Và ở một chừng mực nào đó, chiến tranh trong thơ trẻ thời chống Mỹ được
mô tả nhiều chiều: có chiến thắng có mất mát hi sinh, có niềm vui có nỗi buồn, có tự
hào có đắng cay,... Còn ý kiến cho thơ trẻ ở chặng cuối đã gia tăng chất trí tuệ, giàu
tính chính luận, coi đó như thành tựu đáng ghi nhận; điều này không phải bàn cãi và
đó cũng là sự tiếp nối thơ của thế hệ trước, chưa thể vượt qua thế hệ trước, nhất là
“đỉnh” Chế Lan Viên. Chỗ mạnh của thơ trẻ thời chống Mỹ, theo chúng tôi là ở
mô tả chiến tranh chứ không phải ở bình luận chiến tranh. Đến chặng cuối, thơ trẻ
nghiêng về tái hiện sự khốc liệt, dữ dội của chiến tranh, tái hiện chân dung thế hệ, hơn
là tập trung cổ vũ toàn quân toàn dân chiến đấu: “Thơ trẻ ở chặng cuối nói tới cái chết
như là sự hi sinh mất mát to lớn trong chiến tranh, phản ánh tính chất ác liệt, dữ dội
của nó” [79, tr.107].
- Thứ ba, cuộc Tổng tiến công nổi dậy xuân 1975 với trận đánh mở màn vào thị
xã Buôn Mê Thuột và trận đánh vào “cánh cửa thép” Xuân Lộc đã nhuốm máu không
biết bao nhiêu chiến sĩ mới có Ngày vĩ đại (bài thơ của Chế Lan Viên), Toàn thắng về
ta, Vui thế hôm nay (thơ Tố Hữu). Mà ngẫm lại, thấy có bao điều xót xa khó nói:
những trận đánh đẫm máu xuân 1975 đã không một bóng ngoại xâm nào trên chiến
72
trường. Gọi đó là cuộc nội chiến “huynh đệ tương tàn” thì không đúng. Nhưng người
Việt bắn giết người Việt (hậu quả của “Việt Nam hóa chiến tranh” do người Mỹ để
lại), thì không thể không đau lòng. Dẫu chưa thể nói hết tâm trạng của “triệu người
vui và triệu người buồn” sau đại thắng 30 tháng 4; nhưng những gì mà Hữu Thỉnh thể
hiện trong Đường tới thành phố, Nguyễn Duy trong Phóng sự 30 - 4 - 75 là rất đáng
ghi nhận. Điều ghi nhận đầu tiên là niềm vui hội tụ nhân dân, không bận tâm đến “bên
này - bên kia”, “địch - ta” khi chiến tranh kết thúc: “ngày mai chúng ta đánh trận cuối
cùng / một nửa nhân dân ngày mai ta nhận mặt / nhân dân trở về từ bên kia mặt trăng
/ lại vằng vặc những bến bờ thương nhớ” (Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh). Trong
cách nhìn của người hôm nay, những câu thơ của Hữu Thỉnh đã thấp thoáng tinh thần
hòa giải - hòa hợp dân tộc; không biết khi sáng tác, nhà thơ có dụng ý đó không ?
Góp phần thúc đẩy sự khởi sắc của thơ trẻ thời chống Mỹ ở chặng cuối, không
thể không nói đến hai cuộc thi của Tuần báo Văn nghệ: “Những cuộc thi thơ của tuần
báo Văn nghệ đã luôn luôn phát hiện thêm những tài năng mới” [195, tr.125]. Cuộc
thi thơ 1972 - 1973 có hơn 28.000 bài thơ của ngót ba nghìn tác giả tham dự [195,
tr.119]. Điều đó chứng tỏ bom đạn Mỹ đã không hủy diệt được thơ ca ở đất nước này.
Bốn giải nhất được trao cho bốn nhà thơ nơi tuyến lửa: Hoàng Nhuận Cầm (Anh bộ
đội và tiếng nhạc la, Thư mùa thu, Nghe chim kể chuyện trên đồi chốt, Nhật ký);
Nguyễn Duy (Bầu trời vuông, Hơi ấm ổ rơm, Tre Việt Nam); Nguyễn Đức Mậu (Ghi
ở chiến trường, Nằm hầm, Đất, Đôi mắt); Lâm Thị Mỹ Dạ (Khoảng trời và hố bom).
Ba giải nhì thuộc về Anh Ngọc, Lâm Huy Nhuận, Cảnh Trà. Nét nổi bật của những
bài thơ đạt giải đợt thi này là chất trẻ trung, tươi mới, hồn nhiên của những tâm hồn
đang độ tuổi đôi mươi; đặc biệt là sự giàu có về chất sống trực tiếp của người lính nơi
chiến trường; chất suy nghĩ, tính khái quát thể hiện khá đậm, sức hấp dẫn cao.
Cuộc thi thơ 1975 - 1976 thu hút 1.600 tác giả với 14.000 bài thơ gửi về tham
dự. So với đợt thi trước thì đợt này số lượng giảm rõ rệt. Những bài thơ đạt giải được
xếp theo thứ tự A - B - C - khuyến khích. Giải A trao cho ba tác giả: Hữu Thỉnh (Sức
bền của đất, Chuyến đò đêm giáp ranh); Văn Lê (Tiếng gọi bò); Anh Ngọc (Sóng Côn
Đảo). Nhìn chung, chất lượng những bài đạt giải đợt thi thơ lần này không hơn đợt thi
1972 - 1973. Nhưng điều đáng chú ý là sự xuất hiện hai sáng tác dài hơi như hai
73
trường ca (Sức bền của đất - Hữu Thỉnh; Sóng Côn Đảo - Anh Ngọc). Có thể coi đây
là sự “trở mình” của thơ trẻ thời chống Mỹ vào chặng cuối, để không lâu sau đó cho ra
đời những trường ca bề thế hơn: Những người đi tới biển (Thanh Thảo), Đường tới
thành phố (Hữu Thỉnh), Đất nước hình tia chớp (Trần Mạnh Hảo), Trường ca sư đoàn
(Nguyễn Đức Mậu).
Các cuộc thi thơ do Tuần báo Văn nghệ tổ chức trong những năm chống Mỹ đã
góp phần nâng cao chất lượng thơ, tạo điều kiện để thử thách những cây bút trẻ, phát
hiện nhân tố mới, khẳng định vị trí của thơ trẻ thời chống Mỹ trên thi đàn.
● Tiểu kết
Thơ chống Mỹ đồng hành với cuộc kháng chiến chống Mỹ hơn hai mươi năm
ròng rã (1955 - 1975). Đó là nền thơ đánh giặc giữ nước, thực hiện sứ mệnh cao cả
trên mặt trận văn hóa văn nghệ. Chuẩn giá trị cao nhất của nền thơ này là đóng góp
của nó vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nếu coi thơ chống Mỹ là dàn đồng ca thì
trước hết, dàn đồng ca ấy hội tụ và giao nhau ở tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm,
ở tình cảm cộng đồng mà không làm “nhòe lẫn” sắc điệu riêng của những nhà thơ tài
năng, giàu sáng tạo.
Tiếp thu thành tựu hiện đại hóa thơ ca từ phong trào Thơ mới và thành tựu nghệ
thuật của thơ chống Pháp (1946 - 1954), thơ chống Mỹ đã tạo được bước cách tân
đáng kể về ngôn ngữ, thể thơ, tạo nên những đặc điểm thi pháp mới, trong đó phải nói
đến đóng góp của đội ngũ nhà thơ trẻ. Qua ba chặng vận động, có thể khẳng định, thơ
trẻ thời chống Mỹ như đường bay của viên đạn thẳng đầu, đủ sức trường tồn trong lịch
sử thơ ca dân tộc.
Tuy nhiên, nhìn một cách khách quan, trong hoàn cảnh phải “ứng chiến” kịp
thời, thơ chống Mỹ nói chung, dòng thơ trẻ nói riêng cũng có mặt hạn chế của nó,
không ít bài “non yếu, sơ lược, công thức, minh họa dễ dãi” [110, tr. 2]. Có khi do
quá lệch về nội dung tư tưởng, nặng mục đích tuyên truyền, chưa quan tâm đúng mức,
thậm chí coi nhẹ hình thức nghệ thuật, nên một số sáng tác rơi vào tình trạng “khẩu
hiệu bắt thành vần”, sống sượng, khô khan. Đó là sự thực không thể né tránh. Nhưng
nhìn đại cục, mặt hạn chế đã không làm “giảm giá” thơ chống Mỹ. Mà suy cho cùng,
thơ hay thì thời nào cũng hiếm. Ấy là chưa nói đến trạng huống chiến tranh: “Chiến
74
tranh ra bài thi nhập môn cũng là nơi thử sức lâu dài của mỗi người. Sự gắn bó tự
thân với cuộc chiến đấu, sống hết mình trong thử thách hi sinh là cử chỉ đầu tiên của
một người cầm bút trung thực” [172, tr.4]. Rõ rằng, thời nào thơ ấy, không thể lấy
“chuẩn” Thơ mới hay thơ thời hội nhập để “đo” thơ chống Mỹ. Hiển nhiên, không ai
làm như vậy. Chế Lan Viên đã thuyết phục khi ông viết:
Trái tim sinh thời nào thì méo tròn theo thời ấy
Chắc hẳn người thời sau sẽ chê tròn, chê méo trái tim ta
Đừng quên những tiếng gầm bom bảy tấn làm tim ta nứt rạn
Và những nỗi buồn không gầm nhưng gặm nhấm trái tim ta
(Tròn và méo)
75
CHƯƠNG 2
CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM THỜI KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ
2.1. Cảm hứng nghệ thuật: Khái niệm, hướng phân loại
2.1.1. Khái niệm:
Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, khó tính hết có bao nhiêu học giả bàn về cảm
hứng trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói, chưa ai đi đến đến tận cùng của sự lí giải;
G.W. Hegel (1770 - 1831) thừa nhận: “Ở đây, trước hết cảm hứng xuất hiện như thế
nào, về mặt này có những quan điểm rất khác nhau” [36, tr.298]. Và rõ ràng, con
người đã tiếp cận nó theo quá trình nhận thức về nghệ thuật. Khi thơ ca thoát ra khỏi
nghi lễ, từ “Hỡi thi thần hãy hát lên” (Homère) đến “Tôi hát ngợi ca” (Lucrèce) thì
cảm hứng cũng chuyển dịch dần về phía con người, cái mà các nhà mỹ học về sau xếp
vào tình cảm thẩm mỹ - một phạm trù của chủ thể. Tuy nhiên, dẫu đã thoát ra khỏi thế
giới thần linh, nhưng tính chất “thiêng” của nó vẫn còn “rơi lại” cho đến ngày nay.
Chẳng thế mà thi thoảng người ta vẫn nói đến “thần hứng”, “thần nhập” trong sáng tạo
nghệ thuật như một thừa nhận sự hiện hữu của nó.
Trong triết học tinh thần, Hegel có lí khi xếp nghệ thuật (cùng tôn giáo, triết
học) vào nhóm “tinh thần tuyệt đối”, phân biệt với nhóm “tinh thần khách quan”
(pháp luật, đạo đức, thể chế…). Do quan niệm cái đẹp trong nghệ thuật là cái đẹp cao
nhất nên Hegel khẳng định thơ ca là sản phẩm của thiên tài, nghệ sĩ đích thực phải là
những thiên tài. Mà thiên tài ở lĩnh vực này, theo ông, trước hết phải nhìn vào cảm
hứng: “Bởi vì thiên tài có những liên hệ chặt chẽ nhất với yếu tố tinh thần cũng như
với yếu tố tự nhiên, cho nên người ta giả thiết rằng có thể gây nên trạng thái cảm
hứng bằng một biện pháp có tính chất cảm quan” [36, tr.298]. Ở Việt Nam, các nhà
theo học thuyết Mác xít trước đây rất ít dùng chữ “thiên tài” (cho là duy tâm) nhưng
không bác bỏ tài năng, năng khiếu trong hoạt động nghệ thuật: “Tôi nghĩ, chúng ta
hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt này, lĩnh vực văn học nghệ thuật, mà không có tài,
có khiếu, thì khó khăn lắm…” [95, tr.401]. Thừa nhận lao động nghệ thuật cần có
“khiếu” có “tài” (kể cả thiên tài), tức thừa nhận cảm hứng đối với nghệ sĩ như là một
76
trong những tố chất bẩm sinh, thiên phú (và Hegel đã đúng). Dĩ nhiên tố chất ấy phải
được nuôi dưỡng và phát triển thông qua quá trình học tập, rèn luyện, trải nghiệm của
nghệ sĩ. Đồng thời, bên cạnh nó, nghệ sĩ còn phải hội đủ nhiều tố chất khác nữa. Có
điều, cảm hứng nghệ thuật (cận nghĩa với cái mà các nhà khoa học gọi là hàm lượng
xúc cảm (EQ); gần hơn là xúc cảm thẩm mỹ (émotion esthétique) vẫn là tố chất hàng
đầu. Ai không được trời phú cho tố chất này thì dù trí tuệ (hàm lượng IQ) có uyên bác
đến đâu cũng không sáng tạo được thơ ca. Mỗi nhà văn đều có cách sáng tạo riêng của
mình nhưng ở họ có một điểm chung, đó là phải dạt dào cảm hứng - cảm hứng nồng
nhiệt, sâu sắc, bền vững, cảm hứng xuyên thấm vào thế giới nghệ thuật, thoát ra thành
thơ. Ở Trung Quốc các triết gia cổ đại cho thơ là sản phẩm của “tình động ư trung”
(tình động ở trong lòng). Thơ là sản phẩm của cảm hứng, cảm hứng làm khởi phát và
nung nấu ra thơ (đương nhiên phải bằng chất liệu ngôn từ, bằng tài năng của chủ thể).
Và cũng phải thấy rằng, cảm hứng không phải độc quyền của nghệ thuật. Hầu
như tất cả các hoạt động của con người đều cần đến cảm hứng (nói đúng hơn là hứng
thú nghề nghiệp). Nhưng đó là cảm hứng thông thường chứ chưa phải cảm hứng nghệ
thuật. Phương Lựu phân biệt: “Cảm hứng có thể có trong tất cả các ngành sản xuất
khi mà con người lao động hoàn toàn tự nguyện theo những mục đích hoàn toàn phù
hợp với lí tưởng và khả năng của mình. Nhưng khác với thành phẩm của tất cả các
ngành lao động khác, tác phẩm văn học nghệ thuật còn chứa đựng tình cảm chủ quan
của chủ thể sáng tạo” [89, tr.209 - 210]. Điều này không có gì lạ, bởi chuyện văn
chương là chuyện tình cảm (tình cảm nghệ thuật); nhà văn không thể sáng tác khi
trong lòng nguội lạnh.
Tuy nhiên, không phải hễ có cảm hứng tuôn trào thì tất sẽ có nghệ thuật. Nhà
thơ Hoàng Trung Thông xác nhận: “Hình như cảm hứng là một sự xúc động ban đầu.
Xúc động đó gieo vào trái tim và tâm hồn của người làm thơ nhưng rồi phải thế nào
nữa mới ra thơ được” [196, tr.232]. Tuy không nói cụ thể nhưng ai cũng hiểu “phải
thế nào nữa” trong câu của Hoàng Trung Thông là gì. Đó là sáng tạo, là tài năng của
nhà thơ trong việc chuyển cảm hứng thành hình tượng nghệ thuật, mã hóa những ấp ủ
trong lòng thành kí hiệu thẩm mỹ, tương tự như men cất thành rượu, gạo nấu thành
cơm. Tóm lại, đó quá trình lao động đầy lao tâm khổ tứ, lắm khi nhà thơ phải “đánh
77
vật” với từng con chữ (“phu chữ” - Lê Đạt) như con tằm rút ruột nhả ra tơ. Xuân Diệu
chia sẻ: “Khi tôi nói xúc cảm, tôi không chỉ nói rung động về tình cảm mà thôi, bởi vì
người ta có thể rung động rất nhiều, thiết tha, chân thành đến ứa lệ, nhưng ra nước
mắt chưa hẳn đã ra thơ. Khi tôi nói xúc cảm là rung động về vần điệu, hình tượng, âm
thanh, một hứng thú sáng tạo vậy” [33, tr.123 -124].
Mặt khác, cảm hứng nghệ thuật không đơn thuần chỉ là sự rung động của trái
tim, sự xao xuyến của tâm hồn. Mà, do tồn tại trong thế giới nghệ thuật nên bao giờ nó
cũng hàm chứa tư tưởng: “Trong những tác phẩm nghệ thuật, tư tưởng là cảm hứng
chủ đạo của chúng” [70, tr.39]. Tư tưởng xuyên thấm vào hình tượng, được bao bọc
bởi tình cảm, đi qua ngõ tình cảm: “Trong tác phẩm cũng có khi nhà văn phát biểu
trực tiếp và công khai tư tưởng của mình, nhưng phổ biến hơn cả vẫn là phát biểu
thông qua con đường của tình cảm, thông qua việc xây dựng thế giới nghệ thuật mang
tính hình tượng của tác phẩm” [44, tr.207]. Nói ngắn gọn, tư tưởng trong tác phẩm
phải được nghệ thuật hóa, thơ hóa, hòa kết nhuần nhụy với tình cảm. Đây là điểm
khác giữa tư tưởng trong nghệ thuật và tư tưởng ngoài nghệ thuật. Còn xét về chủ thể
thì xưa nay không ai xem nhẹ vai trò của cảm hứng trong sáng tạo thẩm mỹ. Nhà phê
bình Hoài Thanh quả quyết “Một yếu tố quan trọng trong sáng tác là cảm hứng”
[157, tr.299]. Tuy nhiên, phải là cảm hứng chân thực, chân thực trong tư tưởng tình
cảm, chân thực nơi cõi lòng nhà thơ; những trường hợp “ngụy cảm hứng” ép cảm
hứng cho ra thơ, theo chúng tôi, dù bất kể nhằm mục đích gì cũng khó được chấp
nhận: “Ở những tác phẩm mang tính tư tưởng giả tạo, cảm hứng chỉ được tạo nên do
ý chí chủ quan của nhà văn và vì vậy cảm hứng sẽ mang tính chất gượng gạo, cố
tình” [128, tr.141].
Vậy, cảm hứng là gì ?
Theo V. Belinski, cảm hứng là: “Trạng thái phấn chấn cao độ của nhà văn do
việc chiếm lĩnh được được bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả”; là “sự thiết tha và
nhiệt tình nồng cháy gợi lên bởi một tư tưởng nào đó” [44, tr.208 - 209]. Đối với
Hegel, cảm hứng “là biểu hiện của tâm hồn người nghệ sĩ say mê thâm nhập vào bản
chất của đối tượng, trở thành tương ứng với nó, gần như là xuyên suốt vào nó”; “là
78
sức mạnh của tâm hồn tự thể hiện trong chính nó, là nội dung chủ yếu của lí tính và ý
chí tự do” [44, tr.208].
Từ điển Larousse (Pháp) gọi cảm hứng là nhiệt tình sáng tạo (enthousiasme
créateur). Từ điển Khang Hy (Trung Quốc) thì nói “hứng” là cảm xúc trước sự vật mà
phát ra. Sự thực thì cảm hứng chính là thời điểm mà sức sống bên trong đã tích tụ, ấp
ủ, lên men sáng tạo. Đó là thời điểm mà ngọn lửa kỳ diệu của thơ ca bùng cháy khiến
nghệ sĩ không thể không nói ra bằng lời.
Ở Việt Nam, từ thế kỷ XVII, Nguyễn Quýnh cho rằng: “Tâm người ta như
chuông, như trống, hứng như chày và dùi. Hai thứ đó gõ, đánh vào chuông, trống,
khiến chúng phát ra tiếng; hứng đến khiến người ta bật ra thơ” [153, tr.103]. Đối với
học giả - nhà thơ Hoàng Trung Thông, “Cảm hứng chính là thời điểm mà sức sống
bên trong đã tích tụ ấp ủ lên men sáng tạo, thời điểm mà ngọn lửa kì diệu của thơ ca
bùng cháy” [196, tr.233]. Gần đây, các tác giả Giáo trình Lí luận văn học xác định:
“Cảm hứng là một trạng thái căng thẳng nhưng say mê khác thường. Sự căng thẳng
của ý chí và trí tuệ, sự dồi dào về cảm xúc, khi đã đạt đến sự hài hoà, kết tinh, sẽ cháy
bùng trong tư duy nghệ thuật của nhà văn, dẫn dắt họ đến những mục tiêu da diết
bằng con đường gần như trực giác, bản năng” [89, tr.210]. Những nhà biên soạn Từ
điển thuật ngữ văn học định nghĩa cảm hứng chủ đạo là: “Trạng thái tình cảm mãnh
liệt, say đắm, xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một
sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận” [38,
tr.38].
Như vậy, về khái niệm và vai trò của cảm hứng, nhìn chung các nhà mỹ học, lí
luận văn học đều có những nhìn nhận tương đồng. Nhưng khi bàn đến nguồn gốc hình
thành ra nó thì lại có nhiều quan niệm khác nhau. Những nhà duy tâm cho rằng cảm
hứng có được là do thần linh đột nhập, văn nghệ sĩ triền miên trong trạng thái bị ám
ảnh (Platon). Ý kiến khác lại quả quyết: Cảm hứng sáng tác là hoàn toàn mang tính
chất trực giác (H. Bergson). Còn S. Freud thì giải thích cảm hứng bắt nguồn từ ức chế
tình dục. Đến các nhà duy vật, cảm hứng được lý giải từ lao động. Chẳng hạn, tác giả
tiểu thuyết Thép đã tôi thế đấy, N. Ostrovsky tâm sự: “Tôi chỉ tin một điều là cảm
hứng sinh ra từ trong lao động… vì lao động đó là thầy thuốc tốt nhất cho mọi cảm
79
hứng” [196, tr.233]. Nhà thơ Chế Lan Viên chia sẻ: “Trong thơ có hứng cảm, nhưng
trong thơ có lao động, cật lực đổ mồ hôi, sức lực mà ra” [193, tr.646].
Nói cảm hứng bắt nguồn từ lao động cũng có cơ sở của nó. Cảm hứng là thành
quả của quá trình lao động cật lực, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí trí và tình cảm.
Sáng tạo thơ ca là lao động, lao động trong trạng thái dạt dào cảm hứng. Nhưng nói
như vậy không có nghĩa phủ nhận năng khiếu bẩm sinh của nhà thơ; không thiếu
người lao động cật lực, vắt óc ra nghĩ mà suốt đời vẫn không sáng tác được một bài
thơ hay. Cho nên ở đây cần nhìn nhận trên hai phương diện khách thể và chủ thể. Cảm
hứng nghệ thuật được hình thành, một mặt do “thiên phú” (chủ thể); mặt khác, do có
sự tác động của thế giới khách thể vào trí não con người. Sáng tạo nghệ thuật là sáng
tạo tinh thần, hình tượng nghệ thuật cũng được hiểu như “một khách thể tinh thần đặc
thù” [89, tr.138]. Thực ra đó là phép biện chứng của mối quan hệ thẩm mỹ đã được
các nhà mỹ học Mác xít kiến giải từ lâu.
Tóm lại, cảm hứng nghệ thuật có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp (pathos - tức tình
cảm sâu sắc, nồng nàn). Từ các triết gia cổ Hy Lạp, Trung Hoa đến Hegel, V. Belinski
và các học giả Việt Nam, dù có những cách lí giải khác nhau nhưng họ đều chung
điểm gặp ở “hạt nhân hợp lí” của nó. Đó là “chỉ trạng thái phấn hứng cao độ của nhà
văn khi chiếm lĩnh bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả” [128, tr.141]. Với các nhà
duy vật, sự chiếm lĩnh ấy bắt nguồn từ lí tưởng xã hội của nhà văn, nhằm phát triển và
cải tạo thực tại. Cảm hứng nghệ thuật bao giờ cũng đậm đà, lắng lọc hơn cảm hứng
thông thường. Đồng thời nó luôn gắn với tư tưởng và mang tính khuynh hướng rõ rệt.
Cảm hứng nghệ thuật cũng là một yếu tố của nội dung tác phẩm, thống nhất với các
yếu tố khác như đề tài, chủ đề, tư tưởng tác phẩm.
2.1.2. Hướng phân loại cảm hứng nghệ thuật
- Theo các tác giả Giáo trình Dẫn luận nghiên cứu văn học (G.N. Pospelov chủ
biên): “Trong sáng tạo nghệ thuật, cảm hứng được biểu hiện ở mọi biến thể”. Theo
đó, có bảy biến thể được xác định: Cảm hứng anh hùng, cảm hứng bi kịch, cảm hứng
kịch tính, cảm hứng châm biếm, cảm hứng hài hước, cảm hứng thương cảm, cảm
hứng lãng mạn [128, tr.141]. Họ lí giải: “Trong thực tế, tính cách, thái độ, hoạt động
của con người vốn đa dạng và biến động. Những mâu thuẫn của chúng có thể gây nên
80
trong ý thức những đặc tính khác nhau của cảm hứng” [128, tr.143]. Bởi cho cảm
hứng nảy sinh trong ý thức con người, gắn với tính cách, thái độ, hoạt động của con
người nên các tác giả Dẫn luận nghiên cứu văn học khẳng định, giữa các “biến thể
cảm hứng” (tức “dạng thức cảm hứng” theo cách gọi của chúng tôi) thường “gắn bó
với nhau, có thể chuyển hóa lẫn nhau, thâm nhập vào nhau” [128, tr.143]. Ý kiến này
hoàn toàn có cơ sở. Ngoài ra, cũng cần nhận thấy, sự thể hiện các dạng thức cảm hứng
một phần chịu sự chi phối của lịch sử, của thời đại, phần khác còn tùy thuộc vào sự
dịch chuyển trong cảm quan thẩm mỹ của chủ thể. Thực tế ít có nhà văn nào xuyên
suốt sự nghiệp sáng tác của mình chỉ thể hiện duy nhất một dạng thức cảm hứng.
Thông thường là, ngoài cảm hứng chủ đạo, họ còn nảy sinh thêm một số dạng thức
khác nữa. Từng nhà văn đã thế, cả một lớp nhà văn lại càng như thế. Cho nên, sự xuất
hiện đan xen nhiều dạng thức cảm hứng của thế hệ thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến
chống Mỹ như là sự đương nhiên, dù âm hưởng chung (cảm hứng chủ đạo) của dòng
thơ ấy có là “đồng ca” chăng nữa.
- Đến Giáo trình lý luận văn học [25], nhà nghiên cứu Lê Tiến Dũng có ý phân
cảm hứng thành hai dạng thức: cảm hứng sáng tạo và cảm hứng tư tưởng. Dạng thức
thứ nhất gắn với chủ thể, thuộc về chủ thể; dạng thức thứ hai thuộc về tác phẩm (sản
phẩm của chủ thể). Hai dạng thức cảm hứng này không tách rời nhau nhưng được
phân biệt: “Cảm hứng tư tưởng của tác phẩm và cảm hứng sáng tạo của nhà văn liên
quan chặt chẽ với nhau nhưng không phải là một. Nói tới cảm hứng sáng tạo của nhà
văn thường nghiêng về nói đến một trạng thái tâm lí sáng tạo. Còn nói tới cảm hứng
tư tưởng của tác phẩm tức là cảm hứng của nhà văn đã được truyền tới hệ thống hình
tượng mà họ miêu tả” [25, tr.71]. Đó là ý kiến thuyết phục. Chúng tôi cho rằng “cảm
hứng tư tưởng” và “cảm hứng nghệ thuật” về bản chất không khác nhau. Bởi nghệ
thuật tồn tại dưới dạng tác phẩm, không có nghệ thuật phi tác phẩm. Cảm hứng sáng
tạo của nhà văn là một bước, một yếu tố để hình thành tác phẩm, chỉ khi nhà văn cho
ra đời tác phẩm thì cảm hứng ấy mới được gọi cảm hứng nghệ thuật. Nếu không, cảm
hứng của nhà văn mới đang ở dạng “thai nghén”, tuy rất cần nhưng chưa là gì cả; và
dĩ nhiên cũng không ai gọi họ là nhà văn nếu không có tác phẩm.
81
Điểm gặp giữa các nhà nghiên cứu là đều tiếp cận cảm hứng từ thế giới nghệ
thuật. Những nhà biên soạn Giáo trình Dẫn luận nghiên cứu văn học đã căn cứ vào
khuynh hướng tư tưởng, tình cảm trong tác phẩm để phân cảm hứng thành các dạng
thức (tức các “biến thể” - chữ của các nhà biên soạn). Đây là định hướng để chúng tôi
vận dụng vào nghiên cứu cảm hứng nghệ thuật trong thơ trẻ thời chống Mỹ. Cụ thể
hơn, vận dụng là vận dụng ở cách tiếp cận (tức căn cứ vào khuynh hướng tư tưởng,
tình cảm trong tác phẩm để chia cảm hứng thành các dạng thức). Còn phân loại cảm
hứng thành bảy biến thể như trong Giáo trình Dẫn luận nghiên cứu văn học, theo
chúng tôi, là có tính bao quát chung cho văn học của mọi dân tộc. Ở đây, vận dụng
vào khảo sát dòng thơ trẻ thời chống Mỹ (một hiện tượng nghệ thuật cụ thể, nảy sinh
trong một thời đại cụ thể; ở một đất nước có bản sắc riêng) thì tất phải có sự linh hoạt
khi quy về các dạng thức cảm hứng. Chẳng hạn, trong “cảm hứng lãng mạn - sử thi”
(theo cách chia của chúng tôi) đã bao hàm cảm hứng lãng mạn và cảm hứng anh hùng;
trong “cảm hứng bi tráng” đã có thương cảm;... Hay, chúng tôi cho rằng, thơ trẻ thời
chống Mỹ tuy đã xuất hiện cảm hứng hài hước (trường hợp Phạm Tiến Duật), cảm
hứng bi kịch (trong sáng tác của một số nhà thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền
Nam). Nhưng nhìn chung, do chúng chưa thực sự phổ biến, chưa nổi trội cho cả dòng
thơ nên chúng tôi đã không tách thành các dạng thức riêng. Nghĩa là, bảy biến thể cảm
hứng theo đề xuất của các nhà biên soạn Giáo trình Dẫn luận nghiên cứu văn học, khi
vận dụng, chúng tôi đã rút gọn, chuyển tên gọi, số lượng cũng ít hơn.
2.2. Những dạng thức cảm hứng trong thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến
chống Mỹ
Từ sự hiểu như trên, chúng tôi quy cảm hứng nghệ thuật trong thơ trẻ Việt Nam
thời kháng chiến chống Mỹ về bốn dạng thức để nghiên cứu. Theo đó, nội dung tư
tưởng của dòng thơ này sẽ được tiếp cận. Tuy nhiên, chúng tôi ý thức rằng, sự phân
chia này cũng chỉ là tương đối.
2.2.1. Cảm hứng lãng mạn - sử thi
“Lãng mạn - sử thi” là ngữ biểu niệm được đính kèm để làm rõ nghĩa cho “cảm
hứng”; hiểu đầy đủ: cảm hứng lãng mạn theo khuynh hướng sử thi, nảy nở trong bối
cảnh sử thi, tô điểm cho sử thi. Mặc định như vậy, “lãng mạn” trong “cảm hứng lãng
82
mạn” không hiểu như một trào lưu văn học, không thuộc chủ nghĩa lãng mạn
(romantism); mà là thái độ tư tưởng - cảm xúc của nhà văn đối với hiện thực, phản
ánh hiện thực như điều cần có, như mong ước. Tiếp đến, khái niệm “sử thi” trong
“cảm hứng lãng mạn - sử thi” đã không còn nguyên nghĩa như tên gọi về một thể loại
văn học thời cổ đại. Ở đây “sử thi” được hiểu là khuynh hướng sáng tác ưu tiên cho
chủ đề dân tộc, cho vẻ đẹp và tầm vóc kì vĩ của đất nước, khí thế hào hùng của một
thời kì lịch sử với nhiều chiến công hiển hách. Hiểu như vậy, có thể khẳng định, văn
học Việt Nam ba mươi năm chiến tranh (1945 - 1975) là nền văn học vận động
theo khuynh hướng lãng mạn - sử thi. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh kết
luận: “Khuynh hướng sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn. Đây cũng là đặc điểm
nổi bật của văn học 1945 - 1975)” [92, tr.45].
Thơ chống Mỹ nói chung, dòng thơ trẻ thời ấy nói riêng nảy sinh trong trạng
huống chiến tranh, cảm hứng lãng mạn - sử thi giữ vai trò chủ đạo; hơn nữa, nó đã
“đưa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn lên tới cao trào” [29, tr.11]. Ứng
với nó là giọng hào sảng lạc quan (chủ âm) và giọng triết lí suy tưởng (phụ trợ). Sẽ
không khó lí giải vấn đề này, bởi cuộc kháng chiến chống Mỹ vốn đã như huyền thoại,
đậm sắc thái sử thi; miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng mang tinh thần sử thi
(“Giặc Mỹ phá thì ta xây lại / Lấp hố bom mà dựng lò cao” - Tố Hữu), rất lãng mạn -
“cái thời lãng mạn ấy” (Nguyễn Khải). Có cơ sở để các tác giả Giáo trình Lịch sử văn
học khẳng định: “Ba mươi năm chiến tranh giải phóng dân tộc, hướng về lí tưởng độc
lập tự do và chủ nghĩa xã hội, cả dân tộc chủ yếu sống với tâm lí lãng mạn - một kiểu
lãng mạn thấm nhuần tinh thần lạc quan chiến thắng” [94, tr.28]. Bối cảnh lịch sử
như vậy đã tạo tiền đề cho cảm hứng lãng mạn - sử thi “lên ngôi”, chi phối các dạng
thức cảm hứng khác. Sản phẩm của nó là cái tôi sử thi tập trung vào ba trung tâm hình
tượng: Tổ quốc - Nhân dân - Đảng và lãnh tụ. Có thể nói, đây là “hồn cốt” của thời
thơ lãng mạn - sử thi, vận động liên tục trong cuộc chiến tranh giữ nước.
● Hình tượng Tổ quốc
Tổ quốc là đề tài vĩnh cửu, là hình tượng trung tâm của thơ ca Việt Nam từ
muôn đời nay. Dẫu mỗi thời nhận thức mỗi khác, nhưng mẫu số chung của các nhà
thơ là đều dành tình cảm thiêng liêng, trân trọng nhất khi viết về Tổ quốc. Chúng ta đã
83
có một Tổ quốc hào sảng trong Nam quốc sơn hà ( ? ), một Tổ quốc văn hiến lâu đời
trong Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), một Tổ quốc “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
trong Đất nước (Nguyễn Đình Thi),… Xuyên suốt hàng ngàn năm lịch sử, bờ cõi, lãnh
thổ, văn hóa, văn vật, tấc đất, thước biển,… tất cả đều thấm máu ông cha.
Thơ trẻ thời chống Mỹ tiếp nối và góp phần tô đậm hình tượng Tổ quốc, bất
luận là sáng tác ở miền Bắc, ở vùng giải phóng hay vùng đô thị miền Nam. Đồng thời,
hình tượng Tổ quốc trong thơ trẻ thời chống Mỹ còn mang thêm “hồn thời đại”, hay
nói rõ hơn, đó là âm hưởng của thời đại chống Mỹ dội vào, in bóng trong thơ. Dĩ
nhiên, dấu ấn của dòng thơ này là khám phá Tổ quốc bằng cái nhìn tươi trẻ, cụ
thể, sát thực với tất cả sự hồn nhiên, nồng thắm, chân tình: “Tươi mát màu lá non
là thơ của anh chị em trẻ” [193, tr.489]. Thơ họ viết về đất nước, trước hết để thể hiện
những rung động trắng trong, những bâng khuâng xao xuyến với quê hương trước khi
nói đến những điều lớn lao về Tổ quốc. Nét đáng ghi nhận là đã có sự đa điệu trong
thơ trẻ thời chống Mỹ: Cùng say đắm yêu quê hương, cùng tâm thế ngợi ca, chiêm
ngưỡng Tổ quốc, nhưng mỹ cảm thì mỗi người mỗi vẻ: Lưu Quang Vũ ngất ngây với
“Lá bưởi lá chanh” “Đi xa lòng vẫn nhớ / Dáng quê hương trong cây lá hiền lành”;
Ca Lê Hiến dào dạt “Nhớ mưa quê hương” “Đã ru hát hồn ta thuở bé”; Bằng Việt
“Giã từ tuổi thơ” nhưng không thôi xao xuyến trước cảnh sắc quê nhà: “Hoa bìm ơi
hoa bìm / Vẫn tròn trặn đơn sơ màu tím thế”; Hoàng Nhuận Cầm nâng niu những
“Chiếc lá đầu tiên”, rộn rã tình quê trong tiếng ve gọi hè: “Chùm phượng hồng yêu
dấu ấy rời tay / Tiếng ve trong veo xé đôi hồ nước”; Thanh Tùng xôn xang đến nao
lòng với “Thời hoa đỏ” “Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi / Như máu ứa một thời trai
trẻ”; Phan Thị Thanh Nhàn dịu dàng, e ấp trong “Hương thầm”; Lê Thị Mây mơ
màng giữa “Màu đồi xa xôi”: “Đưa anh qua vùng đồi / Cành sim chi níu lại / Quả
mộng rơi vào chiều / Biết lòng nhau không nói”; Hoàng Phủ Ngọc Tường rạo rực
“Trái tim hồng”, quyết “lên rừng” tham gia kháng chiến, nhưng trong lòng vẫn vấn
vương kỉ niệm ban đầu: “Khi ta nhớ, hương sầu đông đầy ngõ / Khi ta yêu, phượng
thắm dấu môi son”. Tận miền sông nước Nam Bộ, Chim Trắng quyện tâm hồn với
“Hương cau quê ngoại”, ngẩn ngơ trong hương vị quê nhà: “Hương cau thoang
thoảng / Thơm như tuổi thơ”. Hay trong lòng đô thị, Trần Quang Long mải mê những
84
buổi chiều “Nghiêng nón”: “Bước nhẹ nghe em kẻo động vỡ tơ chiều / Kẻo hoàng hôn
vai ngại ngùng dâng sắc tím”.
Và còn nữa những điệu tâm hồn trong trẻo, hồn nhiên, giàu mỹ cảm trong thơ
trẻ thời chống Mỹ. Họ chẳng cần sử dụng những thán từ quen thuộc để biểu đạt tấm
lòng với đất nước quê hương. Mà yêu đất nước quê hương cũng nên đi từ những cái
gần gũi đơn sơ và ấm áp thân thương như thế: “Thương cái bờ sông thân cò lặn lội /
Yêu tiếng sấm tháng ba gọi lúa chiêm trỗi dậy / Trước khi yêu nước mình, yêu hoa lá
chim muông” (Chúng tôi - Xuân Quỳnh). Đó là đặc điểm đáng quý trong thơ trẻ thời
chống Mỹ khi ngưỡng vọng, ngợi ca Tổ quốc.
Nhưng nét nổi đậm nhất vẫn là hình tượng Tổ quốc được các nhà thơ trẻ khám
phá từ chiều kích thời gian và không gian; thời gian gắn với không gian, không gian
được soi chiếu theo thời gian: Quá khứ là Bạch Đằng, Chi Lăng, là “Những Điện Biên
- vòng đai thép tung ra làm chiến dịch”; hiện tại “lại tiếp trang Ấp Bắc, Plâyme...”
(Phạm Ngọc Cảnh). Tất cả đều là những địa danh mang dấu tích những chiến công
hiển hách, lẫy lừng trong lịch sử. Cái cần hướng tới của thơ chống Mỹ là kích vào
“dây thần kinh” yêu nước, kích vào lòng tự trọng, tự tôn dân tộc, cổ vũ chiến đấu.
Thời gian, không gian hiện tại giữ vị trí trung tâm, nói chuyện xưa cốt để nói nay, để
nâng tầm Tổ quốc vang ra ngoài bờ cõi. Ở hai chiều kích này, hình tượng Tổ quốc
được các nhà thơ trẻ soi ngắm từ nhãn quan lãng mạn - sử thi. Tổ quốc trong trạng
huống sử thi, chiến tranh làm nảy sinh sử thi: “Ơi dòng sông thời gian / Ta nghe tiếng
từ ngàn xa dội thác / Nghe lịch sử đang xoay chiều bão táp / Cơn mưa bừng tương
lai” (Đất nước vào xuân - Vũ Quần Phương).
Khám phá Tổ quốc từ góc nhìn thời gian - không gian, thơ trẻ thời chống Mỹ
đã kết nối “hoàn hảo” giữa truyền thống và hiện đại. Ở họ không phải “nhận
đường”, “lột xác”, “sang bờ tư tưởng ta lìa ta” như nhà thơ lớp trước; càng không
vướng bận, “ăn năn” với quá khứ theo kiểu “xưa phù du nay phù sa” (Chế Lan Viên),
hạ thấp xưa để đề cao nay,... Trong thơ trẻ, các chiều kích của Tổ quốc được cảm
nhận theo một mạch thẳng; quá khứ soi bóng xuống hiện tại, hiện tại kế thừa tinh
hoa quá khứ. Về phương diện này, Lê Anh Xuân là người “phát tiết” tư duy lịch sử
khá đậm trên những trang thơ. Đọc sáng tác của ông ta như bắt gặp một nhà thơ trẻ
85
luôn trầm tư nghe quá khứ. Ông nghe “Tiếng lịch sử cuồn cuộn triều dâng” (Đất miền
Nam), “nghe gió ngàn xưa đang gọi / Xào xạc lá dừa hay tiếng gươm khua” (Dừa ơi),
“Nghe như tiếng cha ông ta thuở trước / Truyền con cháu phải ngẩng cao mà bước”
(Nhớ mưa quê hương). Tương tự, Nguyễn Trọng Định cũng nối hai chiều trên trục dọc
thời gian: “Chào Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Điện Biên / Mỗi tên phố nhắc từng
trang lịch sử” (Trên nóc phố anh hùng). Đến Bằng Việt còn có thêm sắc diện hào hoa:
“Sông Hồng ơi! Giông bão chẳng thay màu / Rùa thần thoại vẫn nhô lưng đội tháp /
Chùa Một Cột đổ trên đầu giặc Pháp / Lại nở xòe trọn vẹn đóa hoa sen” (Trở lại trái
tim mình). Nam Hà khái quát bằng những câu rất ấn tượng:“Đất nước / Bốn ngàn
không nghỉ / Những đạo quân song song cùng lịch sử / Đi suốt thời gian, đi suốt
không gian” (Chúng con chiến đấu).
Trong lòng đô thị miền Nam, trước khi ra chiến khu (1968), Trần Quang Long
vừa dạy học vừa hoạt động tích cực trong các phong trào yêu nước. Đặc biệt, những
sáng tác của ông đã tác động mạnh đến nhận thức của tuổi trẻ, khơi dậy ở họ lòng tự
hào, tự tôn dân tộc. Hình tượng Tổ quốc trở nên lẫm liệt, thiêng liêng: “Tôi muốn tặng
những người ưa cổ vật / Một thanh gươm họ Lý ngang tàng / Một cây súng trường
Cao Thắng hiên ngang / Đang vẹn toàn trong trái tim dân tộc” (Lớn lên không
ngừng). Cùng Trần Quang Long, Thái Ngọc San náo nức, bồi hồi với quá khứ vẻ vang
của đất nước - ánh lửa ngàn xưa soi sáng hôm nay: “Đốt ngọn đèn lịch sử / Nổi trống
dậy khắp Hoàng thành” (Lòng ngưỡng mộ); Đông Trình ngưỡng vọng truyền thống
trong âm thanh thổn thức: “Tôi lắng nghe lịch sử bốn ngàn năm / Thoảng động trên tơ
tiếng hát xa xăm / Có bước chân ta mở đường Nam tiến” (Tiếng đàn bầu).
Hình tượng Tổ quốc trong thơ trẻ thời chống Mỹ là một thực thể trọn vẹn về
không gian. Có một thực tế là, dù bị chia cắt nhưng trong lòng muôn triệu người dân
thì đất nước chỉ một Quốc Tổ Hùng Vương. Có lẽ trên thế giới, hiếm có nước nào
chung một ngày Quốc giỗ như Việt Nam “Hàng năm ăn đâu làm đâu / Cũng biết cúi
đầu nhớ ngày giỗ Tổ” (Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm). Chắc rằng trong
vùng đô thị miền Nam, nhiều nhà thơ trẻ yêu nước tiến bộ đã không hoặc ít biết đến
chủ nghĩa xã hội (quan điểm Tổ quốc gắn với chủ nghĩa xã hội là ở miền Bắc, ngay cả
tôn chỉ của Mặt trận dân tộc giải phóng cũng không có mệnh đề này). Thế nhưng,
86
sáng tác của họ vẫn thể hiện tấm lòng sắt son hướng về nguồn cội, hướng về một đất
nước thống nhất: “đất Trung phần xả thân làm đòn gánh / cuộc trùng phùng tao ngộ /
cho hôn nhân hai miền / đẵn gỗ Trường sơn dựng nền văn hóa / mượn phù sa sông
Hồng bồi đắp ngày đêm” (Trường ca hòa bình - Ngô Kha). Hay: “Tiếng sóng nơi em
bắt nhịp với còi tàu Long Biên / Và những vườn hoa bưởi /…/ tiếng bom nổ ở miền
Bắc / Dù không nói, tôi cũng biết lòng em chấn động” (Sóng vẫn đập vào eo biển - Lê
Văn Ngăn).
Từ phương diện văn hóa (chiều quá khứ - tâm linh), thơ trẻ thời chống Mỹ đã
tập trung ngợi ca, tự hào về một đất nước có nền văn hiến lâu đời, có bề dày chống
ngoại xâm với nhiều anh hùng tuấn kiệt. Trong cách ứng xử đậm tính nhân văn, các
nhà thơ trẻ làm bật nổi Tổ quốc là máu thịt, là hồn thiêng sông núi, là tình cảm cao
đẹp nhất trong mỗi con người. Tuy nhiên, lịch sử cũng có tì vết đáng buồn bởi những
kẻ bán nước cầu vinh, tuy ít nhưng thời nào cũng có. Thơ trẻ vừa tỏ thái độ phẫn nộ
vừa chia sẻ nỗi đau lịch sử: “Những điều sỉ nhục và căm giận / Một đất nước luôn có
kẻ dẫn đường / cho nước ngoài kéo đến xâm lăng / cho những cuộc chiến tranh / đẩy
con em ra trận” (Những điều sỉ nhục và căm giận - Lưu Quang Vũ). Đó cũng là góc
nhìn đa diện: Tổ quốc có vui có buồn, có ánh sáng có bóng tối, có vô số người trung
thành và cũng có kẻ phản bội. Song vế thứ hai không làm lu mờ vế thứ nhất, không
phải “nét trội” của truyền thống bốn ngàn năm. Lịch sử luôn công bằng, công tâm,
không cần tô vẽ.
So với thời chống Pháp, bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam đã
khẳng định được vị thế của mình trên thế giới. Cuộc chiến tranh này như điểm nóng
của thế giới, được lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ. Nhờ thế mà
tầm vóc Tổ quốc trong thơ trẻ thời chống Mỹ được mở rộng, nhân lên. Nhà thơ mới có
thể viết “Em mơ một phiên tòa” (tên bài thơ - Lý Phương Liên) xử tội phạm chiến
tranh của đế quốc Mỹ; mới có “Thư gửi một bạn gái Mỹ” (Lý Phương Liên) chia sẻ
niềm khao khát hòa bình với nhân dân tiến bộ Mỹ; mới có “Khuôn mặt ẩn kín” (Phan
Thị Thanh Nhàn) gửi những người lính Mỹ bị điều động sang tham chiến và chết vô
nghĩa ở Việt Nam; mới có “Bài hát đừng có đợi” (Xuân Quỳnh) nhắn đến những bà
mẹ, người vợ, người yêu có người thân gây tội ác đã vĩnh viễn không về… Từ những
87
thông điệp như vậy mà biểu tượng Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế không chỉ tỏa
sáng ở chủ nghĩa anh hùng mà còn thấm đậm tinh thần nhân văn cao cả; không
chỉ bất khuất kiên cường mà còn hòa hiếu, bao dung. Theo chúng tôi, đó là cái
khác, cái mới trong thơ trẻ thời chống Mỹ khi viết về Tổ quốc. Xa hơn, có thể xem
những sáng tác ấy như những “tín hiệu” bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ
ngay từ khi chiến tranh chưa kết thúc.
Nhìn tổng quan, hình tượng Tổ quốc trong thơ trẻ thời chống Mỹ luôn giữ vị trí
trang trọng, được chiếm lĩnh bằng cảm hứng lãng mạn - sử thi, vút lên âm hưởng lạc
quan - hào sảng: “Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy / Những cuộc
đời đã hóa núi sông ta” (Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm).
● Hình tượng nhân dân
Hình tượng nhân dân trong văn học nói chung, trong thơ ca nói riêng thực chất
là hình tượng con người, nhận thức về nhân dân là nhận thức về con người. Nhiều
công trình nghiên cứu thơ chống Mỹ, khi khảo sát hình tượng nhân dân thường tập
trung phân tích sâu trong mối quan hệ với Tổ quốc, làm bật nổi nhận thức Tổ quốc của
nhân dân, coi đó là bước phát triển vượt bậc của nền thơ ca cách mạng. Điều này hoàn
toàn thỏa đáng. Tuy nhiên, trong diễn trình văn học Việt Nam, sự dịch chuyển nhận
thức từ nước của vua sang nước của dân mà phải đi qua hàng mấy trăm năm thì
không có gì “đột biến”. Vấn đề chúng tôi quan tâm ở đây là nhận thức về nhân dân
trong thơ trẻ thời chống Mỹ có những điểm nào đáng chú ý ? Bởi xây dựng hình
tượng nhân dân còn tùy thuộc vị thế và điểm nhìn của nhà thơ. Tố Hữu, Chế Lan Viên
viết về nhân dân rõ ràng phải khác Thanh Thảo, Nguyễn Duy. Thơ cổ vũ toàn dân
đánh giặc giữ nước và thơ mô tả chiến tranh đối với thân phận người dân, đương
nhiên không thể như nhau. Nghĩa là, trong dòng cảm hứng lãng mạn - sử thi, về “mẫu
số chung”, hình tượng nhân dân là giống nhau (anh hùng, lạc quan, yêu nước, chiến
đấu dũng cảm,…) nhưng giữa các thế hệ nhà thơ vẫn có những nét khác biệt khi cảm
và khắc họa về họ.
Thơ trẻ thời chống Mỹ, xét phương diện chủ thể, dù ở nhiều lĩnh vực, nhiều
thành phần, giới tính, vùng miền,… nhưng tất cả đều được sáng tác từ vị thế người
dân. Hình tượng nhân dân trong thơ họ là một phần chân dung thế hệ họ: “Tất cả
88
chúng tôi đều là bộ đội / Chúng tôi biết bắn súng đâm lê và sống trong những chiến
hào / Võng chúng tôi mắc khắp rừng trẻ rừng già / Bước chân chúng tôi in trên mọi
miền đất nước” (Chúng tôi - Xuân Quỳnh). Nếu những nhà thơ lớp trước có xu hướng
liên tưởng, triết lí về cuộc hành trình đến với nhân dân: “Tôi gặp lại nhân dân như nai
về suối cũ” (Chế Lan Viên), hay triết lí theo hướng “chính trị hóa”: “Nhân dân là bể /
Văn nghệ là thuyền” (Tố Hữu), hoặc phô diễn niềm vui được hòa nhập: “Tôi cùng
xương thịt với nhân dân tôi / Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu” (Xuân Diệu); thì hầu
hết các nhà thơ lớp trẻ lại không luận về nhân dân bằng những triết lí cao xa như vậy.
Họ có cách biểu đạt của họ: Nhân dân là số đông, là những người không tuổi không
tên, bình dị, khiêm nhường mà sáng ngời chân lí. Cái “tôi” nhà thơ và nhân dân hòa
làm một, hình tượng nhân dân thầm lặng, tảo tần như chính cuộc đời lam lũ của họ:
“Ta sống giữa nhân dân chết giữa nhân dân / rất yên ổn mầm cây thở chìm trong đất /
những định nghĩa cao xa xin dành cho người khác...” (Những người đi tới biển -
Thanh Thảo). Nhân dân bao dung độ lượng, nhân dân chở che cả người sống lẫn
người đã khuất: “Họ nằm đấy xanh một khoảng trời / Đất đỏ con đường đắp lên nấm
mộ / Như bàn tay nhân dân ấp ủ / Suối rì rầm bao nhiêu bài ca” (Điệp khúc một con
đường - Nguyễn Đức Mậu). Có thể nói, chỉ nhân dân mới đích thực công bằng và
công tâm, ai sống giữa lòng dân ắt phải là người hi sinh cho công lí chính nghĩa.
Trong Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm triển khai luận điểm “Đất
nước của Nhân dân” trên nhiều phương diện: Nhân dân là chủ nhân sáng tạo và bảo
tồn văn hóa: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng / Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ
hòn than qua con cúi / Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói / Họ gánh theo tên
xã tên làng qua mỗi chuyến di dân”. Nhân dân đánh giặc giữ nước: “Có ngoại xâm thì
chống ngoại xâm / Có nội thù thì vùng lên đánh bại”. Nhân dân trí tuệ và bao dung:
“Nhưng lạ lùng tay nhân dân thông minh / Không hề lừa ta dù ca dao cổ tích”. Nhân
dân là ngọn nguồn sức mạnh của nhà thơ: “Hãy tìm sức mạnh mình từ sức mạnh Nhân
dân / Nhân dân đang đi lên đội ngũ trùng trùng”.
Ở miền Nam thế trận lòng dân có ý nghĩa sống còn, cán bộ bám dân, dân bám
đất, trận địa trong lòng đất: “Mà làng ta vẫn còn đây tất cả / Những túp lều gan góc
dưới rừng sâu / Những con người trầm tĩnh sát kề nhau / Bám chắc vào đất” (Làng
89
trong lòng đất - Dương Hương Ly). Nói Nam Bộ thành đồng là nói đến sức quật khởi
của nhân dân, nói đến văn hóa làng xã, mỗi làng xã là một pháo đài chống giặc: “Mỗi
người là một chiến công / Mỗi làng là một hầm chông pháo đài” (Về Bến Tre - Lê
Anh Xuân). Rõ rằng, đối với các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, nhân dân là điểm tựa
vững chắc, là nguồn cảm hứng thăng hoa, chắp cánh cho hồn thơ bay bổng. Đặc biệt,
những ai cầm bút và cầm súng ở chiến trường miền Nam lại càng thấu hiểu sức mạnh
vô địch của lòng dân. Nhân dân hội tụ cao nhất ánh sáng của lí tưởng và niềm tin;
hướng về họ, nhà thơ sẵn sàng xả thân: “Cuộc đời con sống chết với nhân dân / Ôi
nhân dân, một nhân dân như thế / con nguyện lại hi sinh dẫu được sống hai lần” (Mẹ
chẳng thế nào nhớ nổi con đâu - Dương Hương Ly); đúng như nhà thơ Bằng Việt triết
lí: “Sức sống nhân dân vẫn là cao cả nhất / Dám chà lên mọi bi kịch mà đi / Dân ta
với tấm lòng thiết tha và độ lượng nhường kia / Lại rất dễ hồn nhiên ồn ào như trẻ
nhỏ” (Ý nghĩ bên sông bạc).
Một cuộc chiến tranh tổng lực, sức dân được huy động tối đa. Trong cuộc chiến
tranh nhân dân vĩ đại, tất cả mọi người, đủ các tầng lớp, lứa tuổi, giới tính,... đều tham
gia đánh giặc. Trong đó không thể không nói đến những thành phần mà đúng ra họ
được miễn can dự các trận binh đao. Thế nhưng ở một đất nước “Giặc đến nhà đàn bà
cũng đánh”, tham gia cuộc chiến tranh này bao gồm cả người già, phụ nữ, trẻ em.
Hiện tượng “người mẹ cầm súng” đã không hi hữu, khiến thế giới kinh ngạc. Họ được
tái hiện trong thơ trẻ thời chống Mỹ với tư cách là những hình tượng nghệ thuật sinh
động, đầy ám gợi; chỉ riêng sáng tác của Phạm Tiến Duật đã đủ làm sống dậy chân
dung phụ nữ Trường Sơn một thời oanh liệt: “Em đã qua và em đã sang / Đẹp lắm
đấy, giữa những ngày chống Mỹ / Đất nước mình nhiều điều giản dị / Ai chưa tin rồi
cũng phải tin thôi” (Niềm tin có thật). Họ là nhân dân vô danh, Nguyễn Khoa Điềm
khái quát thật chí lí: “Họ đã sống và chết / Giản dị và bình tâm / Không ai nhớ mặt
đặt tên / Nhưng họ làm ra Đất nước” (Mặt đường khát vọng).
Ở vùng đô thị miền Nam, phong trào “hát cho đồng bào tôi nghe” đã tác động
mạnh đến sáng tác của những nhà thơ trẻ yêu nước. Và chính sự tham gia tích cực của
họ đã góp phần thúc đẩy phong trào, nâng cao chất lượng thơ ca: “Sự tham gia của
hàng loạt người làm thơ trẻ đã làm thay đổi hẳn nội dung lẫn hình thức của thơ ca
90
yêu nước thành thị, nâng vị trí chiến đấu của thơ ca lên một tầm cỡ đáng khích lệ”
[195, tr.425]. Hình tượng nhân dân trong thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị, trước
hết được tiếp cận từ phương diện nạn nhân chiến tranh. Viết về họ, các nhà thơ muốn
gửi thông điệp lên án chiến tranh; chiến tranh dù nhìn phía nào, người dân cũng
bất hạnh: “Lửa cháy làng thôn, lửa đốt trong lòng / Thiếu thuốc, thiếu trường, thiếu
cơm, thiếu áo / Đồng bào tôi chắt chiu từng hạt gạo / Manh áo trọn đời trăm tấm tã
mồ hôi” (Thư gửi Cacmichael - Trần Quang Long). Với Trịnh Công Sơn, phần ca từ
trong nhạc của ông đích thị là thơ đỉnh cao, thái độ phản chiến rất rõ; ông đứng về
nhân dân để phản chiến: “Giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong”, “Ôi
quê hương đã lầm than sao còn chiến tranh, mẹ già hết chờ mong đã ngủ yên” (Du
mục). Trong tập Ca khúc da vàng, Trịnh Công Sơn có những bài chứa chan khát
vọng:“Bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình / trói buộc dân ta / Bao giờ đập
tan xiềng xích gông cùm / trói buộc tự do” (Đi tìm quê hương).
Ở góc độ nghiên cứu, có thể khẳng định, xây dựng thành công hình tượng nhân
dân là một trong những giá trị rất đáng ghi nhận của thơ trẻ thời chống Mỹ. Tiếp nối
thơ thời chống Pháp và thơ của thế hệ trước, thơ trẻ thời chống Mỹ đã phát triển và
làm phong phú hình tượng nhân dân trong vai trò chủ nhân lịch sử, sáng tạo ra lịch sử;
còn nhân dân là còn lịch sử. Nói ý thức về nhân dân là nói đến sức mạnh vô địch của
họ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đồng thời đó cũng là “chìa khóa” để giải ẩn số:
Tại sao Hoa Kỳ đã thảm bại trong chiến tranh Việt Nam.
● Hình tượng Đảng và lãnh tụ
Nhìn lại diễn trình lịch sử và thực tiễn cách mạng, có thể nói, hình tượng Đảng
và lãnh tụ rất tương hợp với cảm hứng lãng mạn - sử thi. Bởi, thứ nhất, sự nghiệp và lí
tưởng của Đảng vốn đã rất phi thường, rất lãng mạn: “Lãng mạn vô cùng là Đảng /
Biến giọt sương thành cả dòng sông” (Hiền - Văn Thảo Nguyên). Thứ hai, Chủ tịch
Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc như huyền thoại: “Bạc phơ râu tóc của
Người như một tiên ông” (Lộc của đời - Chế Lan Viên). Sau Cách mạng tháng Tám,
thơ viết về Đảng và lãnh tụ hầu hết đều theo khuynh hướng lãng mạn - sử thi; hào
sảng - lạc quan là âm hưởng bao quát. Thơ trẻ thời chống Mỹ không ngoại lệ.
* Hình tượng Đảng:
91
Nhiều nhà thơ thế hệ trước đã có những sáng tác tiêu biểu dâng lên Đảng: Tố
Hữu - Ba mươi năm đời ta có Đảng, Chế Lan Viên - Kết nạp Đảng trên quê mẹ, Xuân
Diệu - Gánh, Huy Cận - Tặng Đảng, Tế Hanh - Lời dặn, Hoàng Trung Thông - Bài
thơ tặng Đảng, Anh Thơ - Đảng đã cho tôi, Phạm Hổ - Dọc đường theo Đảng,…
Nhìn chung, tất cả các sáng tác này đều ngợi ca sự vĩ đại của Đảng, xây dựng niềm tin
cao nhất vào Đảng; một số người thiên về cảm xúc mang ơn, có xu hướng tuyệt đối
hóa thiên tài của Đảng. Chẳng hạn: “Đảng ta đó trăm tay ngàn mắt / Đảng ta đây
xương sắt da đồng...” (Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu); hay: “Ta nghĩ chuyện
nghìn năm chưa kịp nghĩ / Và đôi mắt thần của Đảng chiếu tầm xa” (Nghĩ về Đảng -
Chế Lan Viên); hoặc “Dân tộc nghĩ trong những điều Đảng nghĩ” [193, tr.351]. Kì
thực, dù “thiên tài” đến đâu Đảng cũng không tránh khỏi sai lầm và cũng khó thuyết
phục khi cho rằng trí tuệ Đảng cao hơn dân tộc.
Hình tượng Đảng trong thơ trẻ thời chống Mỹ không chệch ra ngoài “khung tư
tưởng” chung. Sáng tác của nhà thơ lớp trước đã ảnh hưởng trực tiếp đến họ, nhưng
thơ họ vẫn có dấu ấn riêng. Chẳng hạn, cũng trong mạch cảm hứng ngợi ca, nhưng
khác nhà thơ lớp trước, thơ trẻ thời chống Mỹ hầu như không ai triết luận về
Đảng, cũng không ngợi ca Đảng theo hướng thần thánh - tuyệt đối hóa. Có lẽ vị thế
của những nhà thơ trẻ thời chống Mỹ đã không cho phép họ viết về Đảng như các nhà
thơ bậc “tiền bối” ở vị thế cấp cao.
Để xây dựng hình tượng Đảng trong lòng nhân dân, trong lòng đất nước, mô típ
Đảng - mẹ, Đảng - quê hương, Đảng tái sinh cuộc đời, dẫn đường chỉ lối,... được các
nhà thơ trẻ sử dụng khá phổ biến, tỏ ra đạt hiệu quả thẩm mỹ. Chẳng hạn, Chim Trắng
viết bài Mới sinh ra trong cơn lốc Đồng khởi Bến Tre (1960); mô típ Đảng - mẹ, Đảng
- quê hương hòa quyện, xuyên thấm vào nhau: “Thuở mẹ sinh ra con / Đau đớn xé
từng thớ thịt /.../ Thuở Đảng sinh ra con / Mớm thép trong tim như sữa mẹ ngọt
dòng”. Mạch tư duy này cũng được thể hiện trong thơ Lâm Huy Nhuận: “Mẹ tập con
đi, Đảng dạy con đi / Đều thẳng hướng nhằm về phía trước” (Mẹ tập con đi, Đảng
dạy con đi).
Nguyễn Khoa Điềm viết Mẹ ra trận có gì, ít nhiều bộc lộ thiên hướng khái quát
hóa. Trong câu: “Mẹ dâng cả hai mùa kháng chiến / Vì thế hôm nay trước đoàn người
92
như sóng biển / Mẹ lại đưa ngực mình che hòm đạn cho con”, mẹ hàm nghĩa là đất
nước, là dân tộc. Nhưng đến: “Dưới bộ ngực thân yêu là trái tim của Đảng / Chia máu
cho con trong mỗi vắt cơm ăn / Chúng nó xăm chỗ con nằm, con không đau mà tim
mẹ thắt”, thì mẹ là nhân dân, là quê hương; mẹ mang trái tim của Đảng, chở che
Đảng. Quan hệ giữa Đảng và mẹ (nhân dân) là quan hệ cá - nước. Đánh giặc xong rồi,
trả nghĩa cho dân, lo cho dân, phục vụ nhân dân là trách nhiệm của Đảng. Ở đây, dân
không phải “ơn Đảng đời đời”, và Đảng cũng không nhận mình làm công việc phát
lộc, ban ơn. Cụm từ “Nghĩa Đảng tình Dân” xem ra tương đối chuẩn nghĩa, nó xuất
hiện khá sớm trong thơ trẻ thời chống Mỹ: “Ta có thể quên đường, nhưng hướng này
phải nhớ / Chỗ ta về là nghĩa Đảng tình Dân (Tiếng hát mùa xuân Trị Thiên - Nguyễn
Khoa Điềm).
Một mô típ khác khá phổ biến trong trong thơ trẻ thời chống Mỹ, đó là Đảng -
ngọn cờ. Hình tượng Đảng gắn với ngọn cờ, ngọn cờ là linh hồn của Đảng, tuyên thệ
dưới cờ Đảng đồng nghĩa sự trung thành, cống hiến, hi sinh: “Hôm nay với đôi chân
rộp lửa diệt đồn / Trước cờ Đảng con đứng nghiêm tuyên thệ” (Gửi mẹ ngày vào
Đảng - Võ Văn Trực). Xây dựng nhân vật anh hùng mang tầm vóc sử thi, Lê Anh
Xuân không quên khắc đậm chi tiết tuyên thệ: “Hôm nay tuyên thệ dưới cờ / Mặt nhìn
ảnh Bác còn ngờ chiêm bao / Từ nay có Đảng trong đầu / Thênh thang cuộc sống ngọt
ngào hương hoa” (Trường ca Nguyễn Văn Trỗi).
Hình tượng Đảng trong thơ trẻ thời chống Mỹ còn được thể hiện qua chân dung
người cộng sản; tức những đảng viên trung dũng kiên cường, sáng ngời phẩm chất
cách mạng. Họ là những người cộng sản tiên phong trong mọi lĩnh vực, trên khắp mọi
miền của Tổ quốc, dù ở vị trí nào cũng dâng hiến trọn đời cho nước cho dân, được
nhân dân tin yêu quý trọng: “Chính ủy của tôi xa quê hương hai mươi sáu năm trời /
Nay trở lại làng mình đuổi giặc” (Giọt nước mắt và nụ cười - Nguyễn Duy). Ở miền
Nam, người cộng sản là đối tượng mà kẻ thù truy lùng gắt gao, khủng bố ráo riết. Có
thể nói, khắp ruộng đồng thôn xóm, kinh rạch miền Nam, nơi nào cũng nhuốm máu
đào người cộng sản. Ca Lê Hiến nhớ về người cộng sản chơn chất, hiền lành, chịu
đựng muôn vàn gian khổ hi sinh, vốn đã in vào kí ức từ thời thơ ấu: “Ngó về trong ấy
93
tràm xanh / Nhớ người cộng sản, người anh dịu hiền /.../ Dù đi trăm chốn nghìn nơi /
Đường anh đã vạch suốt đời em theo” (Nhớ anh).
Đảng trong thơ trẻ thời chống Mỹ là thực thể thẩm mỹ, hiện hữu với tư cách là
hình tượng nghệ thuật. Bằng nhiều dạng thức khác nhau, chung quy lại, tất cả các nhà
thơ đều tập trung khắc họa hình tượng Đảng, tiệm cận bản chất “Đảng ta là đạo đức,
là văn minh” (Hồ Chí Minh). Sự tha hóa của một bộ phận cán bộ đảng viên hiện nay
đã làm tổn hại đến uy tín của Đảng. Tuy nhiên, vai trò của Đảng trong hai cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc là không thể phủ nhận. Bởi đó là sự thật lịch sử, lịch
sử luôn công bằng và công tâm, không đánh sòng tốt xấu.
* Hình tượng lãnh tụ
Một trong những đặc điểm nổi bật của thơ ca sáng tác theo khuynh hướng lãng
mạn - sử thi là ngợi ca, sử thi hóa lãnh tụ. Dẫu nhà thơ có đưa những chi tiết đời
thường vào xây dựng hình tượng lãnh tụ thì những chi tiết ấy cũng nhằm thi vị hóa
hơn là đời thường hóa. Chúng tôi chưa thấy bài thơ chính thống nào viết về đời
thường, đời tư Hồ Chí Minh đúng nghĩa. Cảm hứng lãng mạn - sử thi phôi thai ra hình
tượng, nhà thơ chỉ có thể viết về lãnh tụ như thế chứ không thể khác.
Tuy nhiên, so với một số nhà thơ lớp trước, thơ trẻ thời chống Mỹ khắc họa
hình tượng Bác Hồ nghiêng về biểu cảm hơn triết luận, lấy biểu tượng từ cái cụ
thể, có thực hơn là cái ảo, cái suy diễn. Do vậy, thơ trẻ thời chống Mỹ giảm bớt sự
cực đoan khi viết về Bác. Chẳng hạn, Chế Lan Viên khai thác tối đa giai thoại Bác
hôn nắm đất khi trở về Tổ quốc sau 30 năm xa cách: “Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn
đất” (Người đi tìm hình của nước), “Người đánh thức tương lai đã về kia. Bác hôn
lên hòn đất” (Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi),... Kì thực, đó là chi tiết
ảo, không thấy sử sách nào ghi lại (chuyện kể rằng, Bác cũng không xác nhận chi tiết
ấy). Hay như khi Xuân Diệu viết: “Hồ Chí Minh là đỉnh sáng ngôi sao / Và thân mình
dám ngạo mạn cả trời cao” (Gánh) thì đã không đúng cốt cách Bác. Còn Tố Hữu lại
có ý hạ thấp tiền nhân để đề cao lãnh tụ: “Phan Chu Trinh lạc lối trời Âu / Phan Bội
Châu câu thơ dậy sóng / Cứ bơ vơ nương bóng ngoại hầu” (sau đổi thành “Bạn cùng
ai đất khách dãi dầu” - Theo chân Bác),... Nghĩa là, thơ trẻ thời chống Mỹ, nay đọc
lại, tuy chất lượng không đồng đều nhưng cũng có nét hấp dẫn riêng. Thời ấy, họ
94
không thể viết về Bác như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên; qua thời gian, cái chập
chững ban đầu, trong con mắt người hôm nay, thơ trẻ chưa hẳn đã non nớt.
Nét phổ biến là các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ thường sử dụng những môtíp
tình cảm gia đình khi viết về Bác. Biểu tượng lãnh tụ được chuyển sang biểu tượng
người thân trong gia đình. Cách xưng hô Bác - cháu, Bác - con gợi lên cái gì đó vừa
gần gũi thân thương lại vừa tôn kính, ngưỡng vọng. Vượt lên giới hạn tình cảm trong
một gia đình là cả đại gia đình Việt Nam: “Nghĩ về Người là nghĩ đến một người Cha
/ Người Cha thật hiền lành, dung dị / Trong một mái nhà Việt Nam có cành trúc
nghiêng qua” (Nghĩ về Bác Hồ - Chim Trắng). Bác là biểu tượng của đoàn kết dân
tộc: “Khi đất nước vấn vương tình nghĩa Bác / Là đất nước ta hiểu mình trọn vẹn nhất
/ Súng chắc tay, con cháu Bác lên đường” (Kính dâng lên Bác - Hoài Vũ).
Sau ngày Bác Hồ từ trần (tháng 9 -1969), cảm hứng về lãnh tụ càng nổi đậm.
Nhiều nhà thơ trẻ khắp mọi miền đất nước tập trung cảm hứng để viết về Người.
Trong đó có một số thi phẩm khá thành công: Hồ Chí Minh (trường ca - Lê Huy
Quang), Nơi đâu cũng thấy Bác mỉm cười (Xuân Quỳnh), Đi suốt tình thương (Quang
Huy), Thôn Biển nhớ Bác Hồ (Trần Nhật Thu), Khi nghĩ về Bác Hồ (Chim Trắng),...
Mô típ Bác là dân tộc, Bác mất nhưng sống mãi, Bác nhớ miền Nam, miền Nam mong
Bác,... khá phổ biến. Mẫu đề “mưa - nước mắt” biểu đạt nỗi đau vô hạn được thể
hiện công khai trên thi đàn: “Buổi sáng mất Bác Hồ / tôi đội mưa / dọc đê sông Hồng
/ ròng ròng nước mắt / Dấu chân Người / suốt mùa lụt bão, / còn nguyên / ngăn dòng
nước lũ” (Trường ca Hồ Chí Minh - Lê Huy Quang). Hình tượng Hồ Chí Minh trong
thơ trẻ thời chống Mỹ vẫn tiếp tục biểu hiện qua những hình ảnh ẩn dụ quen thuộc
như “bông sen”, “mặt trời”, “ánh trăng”, “đỉnh núi”,… gắn với không gian Làng Sen,
Pắc Pó, Ba Đình: “Đường Điện Biên như dẫn vào lịch sử / Ôi Ba Đình bóng Bác lộng
trời đêm” (Nguyễn Vũ Tiềm).
Lẽ thường xưa nay là, để được nhân dân ngưỡng vọng, tôn thờ thì sự vĩ đại của
lãnh tụ phải bao gồm lòng bao dung, công tâm, tận tụy, hi sinh trọn đời vì nước vì
dân, anh minh, liêm khiết. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã hội đủ tất cả. Hình tượng Hồ Chí
Minh trong thơ trẻ thời chống Mỹ sáng ngời tấm gương đạo đức, nhân cách. Vũ Quần
Phương, Bằng Việt, Xuân Quỳnh là những nhà thơ thể hiện sinh động hình tượng Bác
95
Hồ ở những phẩm chất cao quý ấy: “Nghĩ việc gì Bác cũng nghĩ từ dân / Nói về Đảng
cũng vì dân mà nói, / Nước còn giặc, dân còn khi lạnh đói / Bác đắng lòng trong mỗi
miếng cơm ăn” (Thấm lời Di chúc - Vũ Quần Phương). Bài thơ sáng tác từ tháng 12 -
1969 mà ngày nay vẫn tươi nguyên giá trị.
Có lẽ trên thế giới, ít có nguyên mẫu nào được nhiều nhà thơ tiếp cận và tái tạo
thành hình tượng sinh động như lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bác Hồ trong thơ trẻ thời chống
Mỹ là hiện thân cái cao cả. Nhìn chung, hầu hết các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ viết về
Bác đều theo khuynh hướng lãng mạn - sử thi, ngợi ca - tôn kính.
Thông điệp của thơ ca là hình tượng, hình tượng khởi nguồn từ cảm hứng, chịu
sự chi phối của cảm hứng. Nghiên cứu cảm hứng lãng mạn - sử thi, theo chúng tôi,
cần phải “giải” cho được ba trung tâm hình tượng: Tổ quốc - Nhân dân - Đảng và lãnh
tụ. Về phương diện này, có thể nói, thơ trẻ thời chống Mỹ đã bắt nhịp và hòa sâu vào
giai điệu chung của bản “đại hợp xướng” thơ cách mạng. Tuy nhiên, cách biểu đạt và
cảm quan thẩm mỹ vẫn có những nét riêng, mang dấu ấn thế hệ.
2.2.2. Cảm hứng dấn thân - nhập cuộc
Dấn thân - nhập cuộc là đặc trưng của tuổi trẻ, thời nào cũng vậy. Chẳng hạn,
người thanh niên trong tập Từ ấy của Tố Hữu trước hết là người thanh niên dấn thân
“Từ thuở ấy, quăng thân vào gió bụi” (Trăng trối); cảm hứng của tập Từ ấy là cảm
hứng dấn thân. Tuy nhiên, đó là sự dấn thân của một thanh niên giác ngộ lí tưởng
cộng sản“Mặt trời chân lí chói qua tim”. Đến thời chống Mỹ, dấn thân - nhập cuộc là
cả một thế hệ nhà thơ “dàn hàng gánh đất nước trên vai”. Đây là hành động tràn đầy
nhiệt huyết của tuổi trẻ trong những năm cả nước sục sôi chống Mỹ. Với nhà thơ, hào
khí ấy chuyển thành nhiệt hứng cháy bỏng, thôi thúc họ sáng tác. Từ sự dấn thân ở
ngoài đời (quan niệm /thái độ sống) đến cảm hứng dấn thân - nhập cuộc trong sáng tạo
nghệ thuật, với họ là hoàn toàn tự nguyện, tự giác. Hữu Thỉnh xác nhận: “Chiến tranh
là hiện tượng xã hội đột xuất. Ở đó lịch sử chảy xiết hơn. Phản ánh cuộc chiến tranh
vừa là trách nhiệm vừa là niềm say mê (NBL nhấn mạnh) của chúng tôi” [172, tr.4].
Bằng Việt khẳng định: “Biểu hiện rõ nét nhất của thơ ca thế hệ chống Mỹ là đã đã
dám dấn thân (NBL nhấn mạnh) để tham dự vào mọi tình huống từ phổ quát đến chi
tiết của đời sống” [199, tr.26].
96
Đội ngũ nhà thơ trẻ xuất hiện, trước hết, họ là những thanh niên ở nhiều lĩnh
vực, nhiều tầng lớp, tự nguyện lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc.
Trong số đó, phần đa là học sinh - sinh viên “xếp bút nghiên” ra trận; với họ, “nhập
cuộc” đồng nghĩa “nhập trận”, “dấn thân” đồng nghĩa “hiến thân”: “Phía trước chiến
trường nổi cơn giông lửa / Hướng bút lên cao, viết tiếp những vần thơ” (Bút nghiên
ra trận - Trần Lê An). Có một điều kì lạ ở dân tộc này là, mỗi khi bị dồn đến giới hạn
cuối cùng của sự tồn vong thì muôn người như một, “khí công” của đất nước được
vận hành quá sức tưởng tượng. Thơ trẻ thời chống Mỹ, theo chúng tôi cũng là hiện
tượng vượt ngưỡng, bất khả dĩ, bởi nếu Mỹ không xâm lược Việt Nam thì chắc rằng
sẽ không có thế hệ nhà thơ dấn thân - nhập cuộc kiểu như thế. Nhìn rộng ra, ở thế kỷ
XX, Mỹ từng can thiệp vào nhiều vùng, nhiều nước nhưng chưa nơi nào, nước nào lại
cùng lúc xuất hiện cả một thế hệ nhà thơ nhập trận với khí thế hào hùng, quyết liệt cả
ngoài đời và trong từng trang viết như ở Việt Nam. Và có lẽ, đó là điều độc đáo của
Việt Nam.
Điểm nổi bật, không thể thay thế thơ trẻ thời chống Mỹ, đó là việc mở rộng
biên độ, tiếp xúc nhiều chiều kích khác nhau về đời sống, đặc biệt là đời sống chiến
trường. Cái “tôi” trong thơ trẻ là cái “tôi” nhập cuộc, cái “tôi” dấn thân, cái “tôi” thấu
hiểu sâu sắc trách nhiệm của mình trước Tổ quốc: “Ta đi hôm nay đã không là sớm /
Đất nước hành quân mấy chục năm rồi / Ta đến hôm nay cũng chưa là muộn / Đất
nước còn đánh giặc chưa thôi” (Phạm Tiến Duật). Nhiều nhà nghiên cứu gọi đó là
“cái tôi thế hệ”. Thế hệ này hào hứng như lửa thốc trong lò, cờ bay trong gió; là đi
như một viên đạn thẳng đầu; là cầm ngay lấy khẩu súng, cây bút để làm ra đời và làm
ra thơ, rất bản lĩnh, tự tin: “Bài hát của chúng tôi / Thô sơ và hực sáng / Mang lẽ đời
đơn giản / Nói được tới ngày mai” (Bài ca ống cóng - Thanh Thảo).
Tất nhiên, lớp nhà thơ trước cũng có cách dấn thân - nhập cuộc phù hợp với thế
hệ họ. Do áp lực tuổi tác, họ không thể dấn thân - nhập cuộc như những nhà thơ trẻ.
Thơ họ thiên về bình luận chiến tranh, cổ vũ chiến đấu, bởi đây là ưu thế nổi trội của
lớp nhà thơ có kiến văn sâu rộng, có bề dày sáng tác. Nhiều nhà thơ bình luận rất
thông minh, sắc sảo về sức mạnh thần kì của cuộc chiến tranh nhân dân, nói tới tầm
vóc thời đại và ý nghĩa nhân loại của nó. Dẫu vậy, theo chúng tôi, cách nhìn, cách
97
nghĩ, cách cảm nhận chiến tranh như thế vẫn chưa thể hiện được bức tranh nhiều mặt
của cuộc kháng chiến anh dũng và bi thương của dân tộc. Nghĩa là cần phải có những
nhà thơ mô tả chiến tranh bằng cái nhìn sát thực, tái hiện chân thực về cuộc chiến
tranh như là chiến tranh. Nhà thơ không chỉ bộc lộ cái tình đối với người đổ máu
ngoài tiền tuyến, làm người chứng kiến những cuộc tiễn đưa hay cắm thêm những
cành lá ngụy trang cho đoàn quân ra trận… Mà còn là người trực tiếp cầm súng, thực
sự xông vào tuyến lửa, từng giờ từng phút đối mặt với cái chết để viết về mình và
đồng đội mình; qua đó có thể thấy được gương mặt tinh thần của một đất nước, chân
dung một thế hệ nhà thơ. Thực tế, không ít nhà thơ trẻ đã “thế chấp” sinh mệnh của
mình để đổi lấy những trang thơ (Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân, Vũ Đình Văn, Nguyễn
Trọng Định,...). Chính vì vậy, với những nhà thơ trẻ, dấn thân - nhập cuộc của thế
hệ họ trở thành cảm hứng sáng tạo trong thơ họ; sản phẩm là những hình tượng
mô tả, tái hiện chiến tranh với tất cả tính khốc liệt, bi thương và hào sảng của nó: “Cả
đoàn quân tôi gặp biết bao người / Một thế hệ trẻ trung cầm súng /... / Họ sẻ chia từng
nắm cơm viên đạn / Biết đổ máu mình cho phút xung phong” (Kỷ niệm về một người
anh hùng - Nguyễn Đức Mậu). Giọng điệu chính ở đây là lạc quan hào hứng nhưng
vẫn không “che lấp” lời trữ tình thống thiết, giọng triết lí suy tư. Bởi chiến tranh và
chiến hào, nói như nhà văn Chu Lai, giống mùi thuốc thử cực nhạy để con người hiện
lên hết màu hết nét. Nơi ấy không dung nạp những toan tính cá nhân, những dối lừa,
hèn nhát: “Trái tim ta bật dậy giữa chiến hào / Trước lửa đạn quân thù không thể nào
dối trá” (Thu Bồn). Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ hiện diện với tư cách nhập cuộc,
xả thân chứ không chỉ ngợi ca, cổ vũ chiến đấu: “Chúng tôi đang đi để tới chính
mình / Dạn dày như đất sẫm / yêu đời như đất xanh” (Ngã ba chân Vạc - Hữu Thỉnh);
chất tráng sĩ, yêng hùng phảng phất trong thơ chống Pháp (rõ nhất chặng đầu), đến thế
hệ này hầu như vắng bóng.
Cảm hứng dấn thân - nhập cuộc khiến thơ trẻ thời chống Mỹ gấp gáp thời gian
như cuộc đời chinh chiến: “Hành quân / Hành quân… / Trùng điệp những sư đoàn /
Đi lên phía Bắc / Tràn về phương Nam” (Sư đoàn - Phạm Ngọc Cảnh). Sự di chuyển
khẩn trương của họ trùng điệp nối nhau, bất kể đêm hay ngày, nắng hay mưa, sau hay
trước: “Đất nước chúng mình còn đạn thù cày xới / Giục giã chúng con nhanh bước
98
trong mưa” (Nước vối quê hương - Nguyễn Trọng Định); “Đất nước rộng ta đi nghe
súng nổ / Những chiến trường nào ai đến trước, đến sau” (Thư mùa thu - Hoàng
Nhuận Cầm). Có điều dễ nhận thấy, tâm hồn lãng mạn yêu đời của những người lính -
thi nhân (cái tôi dấn thân) là nét nổi đậm của thơ trẻ thời chống Mỹ. Ở chặng đầu, khi
cuộc kháng chiến chống Mỹ mới lan ra cả nước, cảm hứng dấn thân gắn với mô típ
lên đường. Ấy là tâm trạng hồ hởi, rạo rực, nhiều rung cảm của người lính trên các
chặng hành quân: Đêm hành quân - Lưu Quang Vũ, Đêm hành quân qua cầu Long
Đại - Vũ Đình Văn, Dọc đường hành quân - Vương Trọng, Mùa đông lên đường -
Nguyễn Đức Mậu,..
Đến Ca Lê Hiến, Nguyễn Khoa Điềm, cảm hứng dấn thân - nhập cuộc được
biểu hiện qua khát vọng trở về quê hương chiến đấu. Và cuộc hành trình trở về của họ
là bước chuyển về không gian và cảm hứng nghệ thuật. Từ cái da diết tuôn chảy trong
Nhớ quê hương, cái nôn nao thổn thức trong Tiếng gà gáy, đến cái náo động, hào sảng
và lắng sâu trong Trở về quê nội, Dừa ơi... là bước chuyển từ Ca Lê Hiến sang Lê Anh
Xuân; và quan trọng hơn, đó là bước chuyển từ quan sát - lắng nghe để viết (viễn
cảnh): “Ôi ta thèm được tay cầm khẩu súng / Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè”
(Gởi Bến Tre), sang lăn xả - dấn thân để kí thác (cận cảnh): “Ta nằm trong lòng đất
chiến hào / Ta nằm trong lòng mẹ ấm biết bao” (Ta lại đi chân đất). Hay, từ một sinh
viên đại học Sư phạm đến tác giả của Đất ngoại ô và Mặt đường khát vọng, Nguyễn
Khoa Điềm thành danh trên thi đàn gắn với cuộc dấn thân cả ngoài đời và trong nghệ
thuật. Thơ ông thâm trầm, dịu nhẹ nhưng không kém phần khốc liệt khi mô tả chiến
tranh: “Cánh rừng này mấy bận B.52 / Cây cụt ngọn dựng bia vào trời xanh căm
giận” (Con chim thời gian); cái tôi dấn thân tập trung ở sự nhận thức về đất nước, về
nhân dân, ở những cuộc xuống đường quyết sinh tử với quân thù: “Ta xông lên chiếm
hết mặt đường / Người người đi... Đi lên như nước cuốn” (Mặt đường khát vọng).
Nhà thơ Bùi Minh Quốc nhập trận vào miền Nam chuyển sang bút danh Dương
Hương Ly. Đó cũng là cuộc hành trình thơ từ Lên miền Tây đến Mảnh đất nuôi ta
thành dũng sĩ. Cảm hứng dấn thân - nhập cuộc trong thơ ông được bộc lộ qua cái tôi
cống hiến hết mình, hi sinh cho lí tưởng: “Thế hệ chúng tôi xin vội vã suốt đời / Cái
vội vã say người của đấu tranh cách mạng / Đấy hạnh phúc của người cộng sản /
99
Nhận phần mình gánh hết mọi lo toan” (Cửa biển). Không chỉ thơ mà là cuộc đời, có
lẽ trong đội ngũ văn nghệ sĩ thời chống Mỹ hiếm có cặp đôi nào cùng hăng hái nhập
trận để rồi kẻ mất người còn như vợ chồng Bùi Minh Quốc - Dương Thị Xuân Quý:
“Thôi em nằm lại với đất lành Duy Xuyên / Trên mồ em có mùa xuân ở mãi / Trời
chiến trường vẫn một sắc xanh nguyên / Trời chiến trường không một phút bình yên”
(Bài thơ về hạnh phúc).
Chiến tranh ngày càng ác liệt, đòi hỏi mỗi nhà thơ cảm nhận hiện thực phải
tăng chiều sâu, phải đề cập được nhiều vấn đề đặt ra từ cuộc sống. Dấn thân, trực diện
nơi chiến trận, thơ trẻ thời chống Mỹ chuyển sang cảm nhận hiện thực chiến đấu
bằng sự điềm tĩnh, suy tư. Thực tế còn dữ dội hơn những gì mà họ đã viết, và không
đơn chiều như nhà thơ lớp trước đang viết (“Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa / Vui gì
hơn bằng người lính đi đầu” - Tố Hữu). Sự mô tả chiến tranh trong thơ trẻ thời chống
Mỹ không dừng lại ở khí thế đánh giặc ngất trời mà còn được tái hiện bằng những trận
đánh ác liệt, những nghĩ suy về thân phận người lính nơi chiến hào. Thơ họ giảm bớt
cái ồn ào, náo nhiệt, thay vào đó là cảm xúc lắng sâu, trăn trở, đối thoại. Về phương
diện này, rõ nhất phải nói đến Thanh Thảo. Sự xuất hiện Thanh Thảo đem đến cho thơ
trẻ một sắc điệu mới, tiếng nói lạ, lạ từ Thử nói về hạnh phúc (1972) đến Một người
lính nói về thế hệ mình (1973): “một thế hệ thức nhiều hơn ngủ / xoay trần đào công
sự / xoay trần trong ý nghĩ / đi con đường người trước đã đi / bằng nhiều lối mới”
(Một người lính nói về thế hệ mình).
Thơ Thanh Thảo phơi trải tất cả những gì thực chất của người lính chiến
trường. Nhân vật trữ tình trong thơ ông nhập trận và ngã xuống một cách hồn nhiên,
thanh thản nhưng lắng đọng trong đó biết bao điều không thể vô tư: “Có những thằng
con trai mười tám tuổi / chưa từng biết nụ hôn người con gái / chưa từng biết những
lo toan phức tạp của đời / câu nói đượm nhiều hơi sách vở / khi nằm xuống / trong
đáy mắt vô tư còn đọng một khoảng trời” (Thử nghĩ về hạnh phúc). Cái tôi dấn thân
trong thơ Thanh Thảo cũng giãi bày công khai, không cần giấu giếm: “Chúng tôi
không muốn chết bằng hư danh / không thể chết vì tiền bạc / chúng tôi lạ xa với những
tin tưởng điên cuồng / những liều thân vô ích / đất nước đẹp mênh mang / đất nước
thấm tự nhiên đến tận cùng máu thịt / chỉ riêng cho Người chúng tôi dám chết” (Thử
100
nghĩ về hạnh phúc). Những ý thơ “gan ruột” như thế, lạ như thế, lẽ đương nhiên sẽ
khó tìm trong sáng tác của những nhà thơ lớp trước.
Hữu Thỉnh, một trong những nhà thơ nhập trận cũng có những diễn ngôn tự tin
về thế hệ mình, rất gần thơ Thanh Thảo. Cái trần trụi trong thơ Hữu Thỉnh xa lạ cái
thô kệch. Ấy là cái trần trụi có tác dụng biểu cảm và diễn đạt khá chuẩn về chân dung
người lính nơi chiến trận: “Chỉ biết bây giờ, trước lân tinh của bảng đồng hồ / và
trước con đường anh vượt qua / những câu văn hoa buột khỏi miệng anh / ý nghĩ hằn
lên theo vết xích” (Ý nghĩ không vần). Về sau, Hữu Thỉnh đúc kết thành thông điệp
của một thế hệ nhà thơ dấn thân: vẫn cái trần trụi, đơn sơ, chân chất như cuộc đời
người lính: “Đừng viết về chúng tôi như cốc chén trên bàn / xin hãy viết như dòng
sông chảy xiết / và chúng tôi với chiếc bi đông bẹp dúm kia là một / cả hòn đá kê nồi
cũng có bao điều ấm lạnh liên quan” (Đường tới thành phố).
Nhiều người cho rằng chính Phạm Tiến Duật mới là đỉnh cao của phong trào
thơ chống Mỹ. Dĩ nhiên, người ta đã có cơ sở khi căn cứ vào sáng tác của ông. Cảm
hứng dấn thân - nhập cuộc được Phạm Tiến Duật đẩy lên đỉnh điểm. Có thể nói, có
được sản phẩm nghệ thuật độc đáo như thế, bên cạnh tài năng còn nhờ sự gắn bó máu
thịt của nhà thơ với không gian Trường Sơn, với số đông con người dấn thân, xả thân
trên con đường huyền thoại ấy. Phạm Tiến Duật nghiêng về mô tả chiến tranh với tất
cả những chi tiết bộn bề, thô ráp của nó. Nhân vật trữ tình chủ yếu là những con người
phơi phới niềm tin, trẻ trung, tinh nghịch, lãng mạn, yêu đời: “Em ở Thạch Kim sao
lại lừa anh Thạch Nhọn /... / Cái miệng em ngoa cho chúng bạn cười giòn” (Gửi em
cô gái thanh niên xung phong). Thơ Phạm Tiến Duật xuất hiện chất giọng đùa tếu, hài
hước theo kiểu lính lái xe một thời máu lửa; cái tôi dấn thân trong thơ ông xem ra ít
suy tư, ít tự thoại, đối thoại như trong thơ Thanh Thảo, Hữu Thỉnh. Tuy nhiên cái
khốc liệt của chiến tranh lại được Phạm Tiến Duật tái hiện khá đầy đủ và sinh động.
Bài thơ dài Những vùng rừng không dân tuy chưa được tập hợp đầy đủ, nhưng chỉ một
khúc (tách thành bài Đi trong rừng) cũng phần nào lưu giữ được sự thật chiến tranh:
“Rằng dân tộc ta trong những năm tháng ấy / Đưa lên rừng mấy chục vạn con người /
Không thể nói là không đói không sốt / Ở giũa rừng sâu mấy chục năm trời / Bằng
cách nào rừng ơi mà vẫn sống ung dung và đánh thắng”.
101
Chiến tranh không chỉ kéo những chàng trai ra trận, mà còn kéo cả hàng vạn nữ
thanh niên dấn thân vào tuyến lửa. Trong đội ngũ nữ nhà thơ trẻ, những Lê Thị Mây,
Hà Phương, Thúy Bắc, Lệ Thu gắn với con đường Trường Sơn ác liệt; Lâm Thị Mỹ
Dạ, Dương Thu Hương bám trụ vùng đất lửa Quảng Bình; Phan Thị Thanh Nhàn, Ý
Nhi xung phong đi thực tế vào vùng khu Bốn, Xuân Quỳnh đến tận giới tuyến Vĩnh
Linh,... Đó là sự dấn thân ở ngoài đời chuyển thành cảm hứng dấn thân - nhập cuộc ở
trong thơ. Thơ họ tự tin, cứng cáp, hòa vào diễn ngôn thế hệ: “Từ mười sáu đến ba
mươi đó là tuổi chúng tôi / Chúng tôi sinh ra trong nhiều năm khác nhau / Nhưng
cùng một thời kháng chiến /.../ Trong mắt chúng tôi ánh lửa đầu tiên có thể là ánh lửa
rừng / Cũng có thể là vết bay của đạn” (Chúng tôi - Xuân Quỳnh). Và dĩ nhiên, nữ
tính trong thơ họ đã góp phần làm dịu bớt cái khốc liệt chiến tranh; nhân vật trữ
tình dấn thân mà không ồn ào, chấp nhận hi sinh mà không cần khẩu khí: “Em đã lấy
tình yêu Tổ quốc mình thắp lên ngọn lửa / Đánh lạc hướng thù. Hứng lấy luồng bom”
(Khoảng trời, hố bom - Lâm Thị Mỹ Dạ).
Đối với các nhà thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị, cảm hứng dấn thân - nhập
cuộc của họ có nét đặc thù riêng. Không như thơ trẻ miền Bắc và thơ trẻ vùng giải
phóng; thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị là hiện tượng nghệ thuật nảy sinh trong
hoàn cảnh bất lợi, đối mặt với bắt bớ tù đày, các nhà thơ chủ yếu tự tập hợp lại với
nhau. Tuyển tập Tiếng hát những người đi tới, Quê hương ta anh hùng, Thơ máu,... là
những sản phẩm nghệ thuật lưu giữ một thời dấn thân của họ. Cảm hứng dấn thân -
nhập cuộc trong thơ họ là tiếng gọi lên đường, tiếng thét đấu tranh, là sự kêu đòi
vùng lên lật đổ cái xã hội tàn ác đang hiện hữu nhờ họng súng “bảo trợ” của ngoại
xâm: “Trước mắt ta chỉ một con đường / Một con đường không kém không hơn / Anh
dũng tiến lên hay âm thầm gục chết ? (Lớn lên không ngừng - Trần Quang Long).
Quan điểm thống nhất của các nhà thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị là, thơ
phải dấn thân, phải đồng hành cùng dân tộc, phải có ích cho đời. Ở Trần Quang Long,
thơ là chông “xuyên vào gan lũ giặc”, là kiếm sắc “chặt đầu văn nghệ tay sai”; ở
Nguyễn Thái Bình, thơ là vũ khí bảo vệ từng “ngọn cỏ, tàn cây, giọt sương, bọt nước”
được tạo dựng bằng “mồ hôi nước mắt, máu đào xương trắng” của cha ông; ở Thái
Ngọc San là khí thế của những cơn “bừng giận sóng xô trời biển dậy”; ở Đam San là
102
“bài học quê hương giữa phố phường giông bão”, là “lưỡi gươm thiêng chém cổ
phường buôn dân bán nước, cắt lưỡi phường nịch hót a dua...”; ở Phạm Thế Mỹ là “lời
ca giữ nước”,... Đông Trình, tác giả của Rừng dậy men mùa tự xác định cho mình bổn
phận “cấy niềm tin trên vùng đất văn hóa trổ đầy trái độc” v.v... Đặt vào bối cảnh đô
thị miền Nam trong những năm tháng đầy biến động, những diễn ngôn trên lại càng
đáng trân trọng. Bởi đó là cuộc dấn thân - nhập cuộc của những nhà thơ trẻ yêu nước
tiến bộ từ cuộc đời đến trang thơ, trong số họ không ít người ngã xuống cho sự lựa
chọn của mình (Ngô Kha, Trần Quang Long).
Rõ là, đã có một khoảng cách đáng kể giữa các thế hệ nhà thơ khi viết về chiến
tranh. Khoảng cách và sự khác nhau ấy có sự “can dự” của cảm hứng dấn thân - nhập
cuộc. Dấn thân - nhập cuộc khác nhau, nhìn chiến tranh cũng khác nhau, điểm nhìn
cận cảnh của người trong cuộc và điểm nhìn viễn cảnh của người quan sát đương
nhiên khác nhau. Điểm mạnh của thế hệ nhà thơ trước là ở tầm khái quát, năng lực
tổng hợp, bình luận chiến tranh. Điểm mạnh của thế hệ thơ trẻ là tái hiện tất cả
những gì thô ráp, trần trụi, tàn khốc như bản chất của cuộc chiến, thiên về mô tả
chiến tranh (“mô tả” ở đây đã qua “màng lọc” của nhà thơ chứ không sao chép máy
móc). Thơ trẻ thời chống Mỹ, nhất là ở chặng cuối rất ít chi tiết hào quang lấp lánh, ít
sử dụng lớp từ ồn ào “phơi phới”, “hăm hở”, “ríu rít”,... Trong khi Chế Lan Viên nâng
người lính lên “Thần chiến thắng”, Tố Hữu gọi giải phóng quân là “Thạch Sanh của
thế kỉ hai mươi”; thì Thanh Thảo lại viết: “Cả thế hệ xoay trần đánh giặc / Mặc quần
đùi khiêng pháo lội qua sông” (Những ngôi sao của mẹ), Hữu Thỉnh: “Trận địa căm
căm gió mùa đông bắc / Chúng tôi nằm úp thìa bên nhau” (Đêm không chăn),
Nguyễn Đức Mậu: “Người ôm súng, súng bên người cảnh giác / Đơn vị ngủ rừng /
Theo đội hình đánh giặc” (Ngủ rừng theo đội hình đánh giặc),... Nếu những nhà thơ
lớp trước dù hòa nhập với cuộc sống đến đâu vẫn không thể xóa bỏ hẳn khoảng
cách giữa họ và đối tượng miêu tả, thì những nhà thơ trẻ nhập trận lại có sự hóa
thân tự nhiên vào đối tượng. Với họ, viết về đồng đội, về nhân dân cũng là viết về
mình, mô tả cuộc chiến là mô tả hoàn cảnh nghiệt ngã mà họ dấn thân, trải nghiệm.
Hữu Thỉnh tuyên ngôn chuẩn xác: “Không có sách chúng tôi làm ra sách / Chúng tôi
làm thơ ghi lấy cuộc đời mình” (Đường tới thành phố). Tuy nhiên, nói như thế không
103
có nghĩa thơ trẻ thời chống Mỹ không bình luận chiến tranh. Vấn đề là, đó không phải
thành công nổi bật trong thơ họ. Vả lại, suy cho cùng, ở đây đã có sự cân bằng “tự
nhiên” giữa các thế hệ nhà thơ. Những gì không (hoặc rất ít) tìm thấy trong thơ thế hệ
này thì đã có ở thơ thế hệ kia; mỗi thế hệ có “sự sinh” riêng của họ. Thơ bình luận
chiến tranh hay mô tả chiến tranh, nếu thực sự là thơ hay, không bị “ô xi hóa” bởi thời
gian thì đều có giá trị như nhau.
Thời chống Mỹ là thời cả nước nhập cuộc. Với thế hệ nhà thơ trẻ, hành động
dấn thân - nhập cuộc của họ cũng là cảm hứng nghệ thuật trong thơ họ. Sản phẩm là
cái tôi dấn thân, cái tôi thế hệ. Ấy là cái tôi chân thực, sâu sắc nhất, để lại dấu ấn
không thể phai mờ về đất nước và con người Việt Nam trong những năm chiến tranh
khốc liệt: “Thực tế họ đã mang đến cho thơ chống Mỹ tiếng nói đặc sắc của riêng tuổi
trẻ mà những thế hệ nhà thơ trước không thể nói thay được” [64, tr 93].
2.2.3. Cảm hứng bi tráng
Nhìn từ góc độ mỹ học, “bi ai” (hay “bi thương) được hiểu như “cái bi”; “hùng
tráng” được hiểu như “cái hùng”; cả hai đều xoay quanh cái đẹp, cái cao cả. Cái bi là
sự mất mát đau thương, nhưng phải là mất mát đau thương của lí tưởng, của cái đẹp,
cái cao cả. Nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà viết: “Cái bi rất gần với cái cao cả. Cái bi
lịch sử không thể thiếu chất anh hùng. Miêu tả cái anh hùng mà bỏ qua những nhân tố
của cái bi thì việc ca ngợi sẽ mang tính một chiều, kém thuyết phục” [89, tr.160].
Về nguyên tắc, văn học cách mạng không từ chối cái bi mà yêu cầu miêu tả cái
bi trên cơ sở tuân theo quy luật vận động của cuộc sống, của lịch sử, không làm mất
lòng tin vào tương lai, điều mà như nhà viết kịch Xô viết V. Vixnhepxki (1900 -1951)
gọi là Bi kịch lạc quan (tên một vở kịch của ông). Tuy nhiên, chiến tranh là hiện tượng
bất thường, để giữ nước, người ta phải huy động tất cả mọi phương tiện làm vũ khí, kể
cả thơ ca. Trong bối ảnh như vậy, thơ phải tránh nói nhiều đến mất mát hi sinh, nếu
nói thì cũng phải nói theo hướng bất tử hóa, lạc quan hóa; tức vẫn chịu “chế áp” của
tinh thần sử thi. Nhìn chung là vậy nhưng trên thực tế chưa hẳn hết thảy người cầm
bút đều “phục tùng” tuyệt đối như vậy. Trong các thế hệ cầm bút thời chống Mỹ, nếu
sáng tác của các nhà thơ lớp trước có xu hướng né tránh bi thương tổn thất, thì thơ trẻ,
nhất là vào chặng cuối lại viết khá nhiều về mất mát, hi sinh: “Mấy mươi năm đã mấy
104
lớp người / Chia lìa gục ngã / Đã tận cùng nỗi khổ / Người ta định làm gì Người nữa
Việt Nam ơi ?” (Việt Nam ơi - Lưu Quang Vũ).
Thơ trẻ thời chống Mỹ có cả bi thương và hùng tráng, có cái được - cái mất, có
tự hào, có nỗi đau. Âm hưởng đặc trưng của nó là cao vút những khúc ca lẫm liệt, đan
xen những giai điệu thống thiết và có cả “phụ âm” trăn trở, day dứt. Cảm hứng bi
tráng trong dòng thơ này vận động theo diễn trình cuộc chiến. Ở chặng đầu, thơ trẻ rạo
rực khí thế ra trận, ít đề cập đến mất mát hi sinh. Nếu có cũng cốt để khẳng định giá
trị của chiến thắng, của sự vẻ vang. Nhà thơ thường kí thác vào nhân vật xả thân để
biểu đạt cái chết lẫm liệt, hào hùng. Mô típ bất tử của hi sinh, cái chết gieo mầm sự
sống, cái chết đồng hành đánh giặc được sử dụng khá phổ biến. Chẳng hạn, trong Lời
người liệt sĩ, Bế Kiến Quốc mượn lời người cha dặn lại con: “Cha vẫn sống trong
lòng mọi người / Cha vẫn sống trong ánh sáng bầu trời”. Thúy Bắc khẳng định tâm
hồn cao đẹp của người đã mất soi sáng cho bước đi của người đang sống: “Mỗi chúng
ta mang hồn anh hoa nở / Đầu súng ba lô trên mọi nẻo đường” (Hoa mười giờ). Thu
Bồn khắc họa sự bất tử của Hùng và Rin theo đúng tinh thần sử thi. Đó là cái chết hiên
ngang đầy dũng khí của người cộng sản, cái chết trong tư thế người chiến thắng:
“Quân thù kia ơi một bầy man rợ / Bay đừng hòng khuất phục được ta / Bay muốn đốt
ta thành hòn than quỳ lạy / Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa” (Bài ca
chim chơ rao).
Theo xu hướng bất tử hóa, cái chết của người anh hùng thường được xây dựng
bằng hình tượng kì vĩ, hoành tráng. Về phương diện này, Lê Anh Xuân đã rất thành
công. Ông thường sử dụng mô típ “dáng đứng” (tư thế), mô típ “thế kỷ” (thời gian) để
tạc tượng đài liệt sĩ. Dưới ngòi bút tạo hình sắc sảo của ông, chân dung người chiến sĩ
hi sinh vì Tổ quốc được hiện lên trong tư thế oai phong lẫm liệt; tư thế ấy tồn tại vĩnh
hằng với thời gian, lưu danh muôn đời trong lịch sử: “Anh đứng giữa Tháp Mười /
Giữa biển cỏ mênh mông màu thế kỷ” (Anh đứng giữa Tháp Mười); “Như anh đứng
đấy trẻ tươi / Tạc hình thế kỷ muôn đời không tan” (Trường ca Nguyễn Văn Trỗi).
Đặc biệt, đến bài Dáng đứng Việt Nam, hình tượng một chiến sĩ “chết trong khi đang
đứng bắn” hóa thành hào khí một dân tộc: “Ơi ! Anh Giải phóng quân! / Từ dáng
đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt / Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.
105
Ấy là bức tượng đài vừa có cái “bình dị, sáng trong” của anh bộ đội Cụ Hồ, vừa có
cái tự nguyện, vô tư, đầy trách nhiệm của nhân vật Ông Gióng trong truyền thuyết dân
gian, lại vừa có cái dũng khí sẵn sàng xả thân của người nghĩa sĩ trong bài Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu. Có thể nói, đến Dáng đứng Việt Nam,
lần đầu tiên trong thơ Việt Nam hiện đại, sừng sững hiện lên một tượng đài bất tử về
người chiến sĩ Giải phóng quân vô danh - biểu tượng cho tinh thần, khí phách của đất
nước anh hùng, nhân dân vĩ đại.
Nguyễn Đức Mậu là nhà thơ nhập sâu vào chiến trận. Cảm hứng bi tráng trong
thơ ông khá nổi đậm, nhiều cung bậc. Nếu Nấm mộ và cây trầm, Đêm Thành Cổ 1972
thiên về bi thương thì Màu hoa đỏ (Thuận Yến phổ nhạc) lại thiên về bi tráng. Bài thơ
ra đời ngay nơi chiến hào đánh giặc, khi cuộc chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn
khốc liệt nhất. Đó là khúc tráng ca trầm hùng, ám ảnh, hàm chứa sâu xa quan niệm về
lẽ sinh - tử của người lính trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc: “Có người lính / Mùa thu
ấy ra đi từ đó không về / Dòng tên anh khắc vào đá núi / Mây ngàn hoá bóng cây
che…”.
Không hoành tráng như Lê Anh Xuân trong Dáng đứng Việt Nam, hay bay
bổng trầm hùng như Nguyễn Đức Mậu trong Màu hoa đỏ, Lâm Thị Mỹ Dạ viết về sự
hi sinh theo cách riêng của mình. Đó là lối biểu đạt dịu nhẹ mà thấm thía, cái chết hóa
thân vào thiên nhiên, vào chiều sâu tâm tưởng: “Em nằm dưới đất sâu / Như mặt trời
đã nằm yên trong đất / Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng / Những vì sao ngời chói lung
linh” (Khoảng trời và hố bom ). Bài thơ, theo Hoài Thanh, “Nó để lại trong lòng ta,
đối với người đã khuất, một niềm kính phục và yêu thương vô hạn. Có thể xem đó là
một đài liệt sĩ bằng thơ. Đẹp như thơ” [156, tr.136].
Trên là hướng biểu đạt cảm hứng bi tráng thiên về “tráng”. Ngay cả cách tiếp
cận của nhà phê bình cũng theo hướng này (“đài liệt sĩ bằng thơ. Đẹp như thơ” - Hoài
Thanh). Cách nghĩ về sự hi sinh như vậy là phù hợp với thơ kháng chiến. Nó không
đối lập sự sống - cái chết, mà là sự tiếp nối, kế thừa giữa các thế hệ cách mạng, giữa
những người đang sống và người đã khuất. Quan điểm này xuất phát từ sự đề cao cái
chết cho cộng đồng, cho dân tộc; khẳng định sự bất tử của hi sinh vì nghĩa lớn. Tuy
nhiên, nếu viết về mát mát hi sinh mà chỉ một chiều ngợi ca, tự hào thì đó là sự phiến
106
diện trong thơ thời chống Mỹ. Bởi, dù nhìn theo hướng nào, chiến tranh cũng đều bất
hạnh đối với đất nước và nhân dân.
Một hướng biểu đạt khác của cảm hứng bi tráng trong thơ trẻ thời chống Mỹ là
nghiêng về mô tả cái bi thương. Tập trung nhiều nhất vẫn trong sáng tác của những
nhà thơ nếm trải, quăng quật với đời, trực diện với chiến tranh. Khi cuộc chiến sắp
bước vào hồi kết, sự khốc liệt càng tăng lên gấp bội. Tính chất thi vị, réo rắt trong thơ
như ở chặng đầu giảm dần, thay vào đó là những suy tư về cuộc chiến, về thân phận
con người. Thơ trẻ không né tránh sự thật, kể cả sự thật đến nghiệt ngã - điều không
dễ viết trong chiến tranh. Những đối cực như còn - mất, sống - chết, chiến đấu - hi
sinh, chiến thắng - thất bại, cao cả - thấp hèn,... đều được một số người cầm bút
bộc lộ đến tận cùng. Trong khi các nhà thơ lớp trước vẫn nhấn mạnh đến sức mạnh
của ý chí, của khí phách, của niềm vui và lòng lạc quan: “Sức trẻ dậy mặt người rạng
rỡ / Nước non này xanh cả mùa đông” (Bài ca xuân 71 - Tố Hữu), “Tên Tổ quốc vang
ngoài ngoài bờ cõi / Ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng” (Thời sự hè 72, Bình
luận - Chế Lan Viên); thì thế hệ thơ trẻ đã chọn cho mình cách nói khác: trầm tĩnh,
lắng đọng thay cho ồn ào, khẩu khí. Cuộc chiến đi vào thơ trẻ với tất cả sự khốc liệt,
nhiều bi thương nhưng được chắt lọc và thể hiện bằng tấm lòng đầy trách nhiệm:
Đắp cho anh nắm đất mặn nơi này
Nơi anh ngã muối ngấm vào vết đạn
Xót thịt, xót thương, xót người nằm xuống
Thuỷ triều lên nấm mộ cũng ngập chìm
(Nấm mộ trong rừng đước - Nguyễn Duy)
Ấy là nỗi đau cả người sống và người chết, Nguyễn Đức Mậu sẻ chia, đồng
cảm sâu sắc với đồng đội của mình: “Thương Hùng không vải nhựa che mưa / Tôi
đào đất sâu cho Hùng khỏi ướt / Lau mặt Hùng vuốt hai tròng mắt / Vuốt khoảng trời
đầu thuốc đạn mưa bay” (Tưởng nhớ số II). Xưa Quang Dũng mô tả cái cái chết của
người lính bằng bút pháp lãng mạn “Áo bào thay chiếu anh về đất / Sông Mã gầm lên
khúc độc hành” (Tây tiến); thơ trẻ thời chống Mỹ lại chủ yếu biểu đạt bằng bút pháp
tả thực, trong đau thương họ càng hiểu ra mình và đồng đội hơn bao giờ hết: “Không
thể đem ý chí đặt lên bàn cân / Không thể đong máu rơi giữa chiến trường bằng đơn
107
vị / Khi Tổ quốc cần ta thành chiến sĩ / Cuộc chiến tranh này nào chọn riêng ai” (Bút
nghiên ra trận - Trần Lê An).
Các nhà thơ trẻ có điều kiện mô tả sự hi sinh một cách chân thật, thấm thía ở cự
li gần. Đối với họ, cái chết bủa vây xung quanh, nếu không muốn nói là kẻ trước
người sau, ai cũng có thể hi sinh. Năng lực của nhà thơ bộc lộ ở sự lựa chọn và cách
triển khai chi tiết. Chẳng hạn, chi tiết “nắm cơm”, “bữa cơm” của người lính nơi
chiến trường như một tín hiệu hiện thực được các nhà thơ cảm nhận và biểu đạt theo
cách riêng. Với Hữu Thỉnh, đó là nắm cơm “cháy thành than” của người lính xe tăng
đầy ám ảnh: “Có nắm cơm đã cháy thành than / đen còn một nửa / có dấu tay in lõm
vào trong / ngón tay to bè của đồng chí lái” (Đường tới thành phố); với Nguyễn Đức
Mậu, “nắm cơm thừa” là tổn thất của đồng đội sau một trận đánh ác liệt “Rồi hôm ấy
mười căn hập sập / Mười nắm cơm thừa / Mười khẩu súng / Một mình anh” (Trường
ca sư đoàn). Thanh Thảo biểu đạt cái bi thương của chiến tranh qua chi tiết “chiếc áo
ngắn”: “Những năm chiếc áo có thể sống lâu hơn một đời người”. Chiến đấu ở chiến
trường Nam Bộ, Thanh Thảo am hiểu sâu sắc sự hi sinh của người dân vùng sông
nước này. Họ ngã xuống để giữ từng tấc đất, thước ruộng của ông cha: “Thôi các anh
nằm cho chúng tôi vuốt mắt / Mình sẽ thức bên nhau tới lúc bật ánh ngày / Sống cồn
đất, chết chôn trên cồn đất / Ôi làm sao bỏ được nơi này” (Đêm trên cồn). Đó là
thông điệp rất đáng để người thời nay suy ngẫm, nhất là đối với những ai đang nắm
quyền “hoạch định” ruộng đất của nông dân.
Chết chóc càng nhiều nỗi đau càng lớn. Cuộc chiến chống Mỹ, có thể nói,
xương chất thành núi, máu chảy thành sông, bi thương khủng khiếp: “Đồng đội tôi
trong chiến dịch bảy hai / Xương thịt nhiều hơn đất đai Thành Cổ” (Khúc bi hùng
Thành Cổ - Nguyễn Hải Nghiêm). Trong thơ trẻ thời chống Mỹ, cảm hứng bi thương
không chỉ tập trung ở người lính, mà còn được mở ra nhiều mặt trong đời sống. Chiến
tranh kéo dài, đất nước gần như kiệt quệ, nghèo đói vây hãm người dân. Hà Nội 12
ngày đêm cuối 1972 đổ nát kinh hoàng. Dấu tích bi thảm ấy, dĩ nhiên khó tìm thấy
trong sáng tác của những nhà thơ lớp trước. Nói chính xác, cái chết trong thơ họ ít
xuất hiện, nếu xuất hiện thì sẽ được biểu đạt theo tinh thần lạc quan, cái chết không
buồn, biến cái buồn thành hành động chiến đấu: “Trắng khăn tang em chẳng khóc đâu
108
/ Hỡi em gái mất cha mất mẹ / Nước mắt rơi, làm nhòa mặt kẻ thù / Em phải bắn,
trúng đầu giặc Mỹ” (Việt Nam máu và hoa - Tố Hữu).
Nhưng một số nhà thơ trẻ lại thể hiện theo hướng khác, cảm hứng bi thương
bao trùm sáng tác của họ: “Tôi thấy em / soi đáy nước hố bom / một cành đào in bàn
tay em nhỏ / nơi quân thù vùi em xuống đó / đã chôn theo một mảnh tim mình” (Khâm
Thiên - Lê Huy Quang). Hay: “Ngõ hồ dài vụn nát dưới bom sâu / Bà con ta, hai trăm
mười lăm người / không còn nữa” (Từ Khâm Thiên - Phan Thị Thanh Nhàn). Đấy mới
là sự thật chiến tranh, cảnh báo chiến tranh; là tận cùng của bi thương, vô số thường
dân bị sát hại. Đối với Lưu Quang Vũ, bước sang thập niên 70, thơ ông “xoay” sang
mô tả cái bi thương; bi thương bao trùm đất nước, cuộc chiến đẩy con người vào bất
hạnh khổ đau: “Cuộc chiến tranh dằng dặc / rừng đầy muỗi độc / chiến hào lở loét
khói bom / những đôi giày thủng đầy bùn / những tấm vải mưa ướt sũng /.../ mộ bạn
đá hoang gió lạnh / chôn bao trìu mến của ta” (Những đứa trẻ buồn). Nỗi đau đất
nước trong thơ Lưu Quang Vũ dồn vào hai chữ Việt Nam. Việt Nam trong thơ Tố
Hữu là tiếng hát ngợi ca: “Trong khổ đau người đẹp hơn nhiều”, trong thơ Lưu
Quang Vũ thì xót xa: “Tất cả sẽ ra sao / Mảnh đất nghèo máu ứa ? / Người sẽ đi đến
đâu / Hả Việt Nam khốn khổ ?”. Câu hỏi mà nhà thơ đặt ra từ thời đất nước chưa dứt
chiến tranh, thế nhưng hàng chục năm sau vẫn còn đó bao điều cần ngẫm nghĩ.
Nhiều nhà thơ trẻ nhìn con người từ phương diện thân phận, số phận hơn là
phương diện chính trị, giai cấp. Cảm hứng bi thương còn mở rộng sang cả “phía
bên kia”, tức những con người chung cội nguồn Lạc Việt; mà suy cho cùng, tất cả
đều là nạn nhân chiến tranh. Theo một số nhà thơ trẻ, cái chết phía bên nào cũng là cái
chết của đồng loại giống nòi, của người dân lương thiện. Vả lại, “nghĩa tử nghĩa tận”,
từ bao đời nay người Việt đã ứng xử với nhau như thế. Thi thể một binh sĩ Việt Nam
Cộng hòa trong thơ Nguyễn Duy thật thảm thương: “Dòng máu anh đất hút khô rồi /
Anh teo quắt, đất vẫn khô không khốc / Bà con thương tình chôn anh xuống đất /
Chưa được nửa ngày bom Mỹ lại đào lên” (Hai lần chết của một người lính Cộng
hòa). Sâu xa hơn, đó còn là bi thương cho dân tộc, tai họa cho đất nước, liên quan đến
cái gọi “Việt Nam hóa chiến tranh” mà người Mỹ gây ra.
109
Riêng mảng thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền Nam, cảm hứng bi
thương được thể hiện đậm nét, với nhiều mức độ và bút pháp khác nhau. Có tác giả
biểu đạt nỗi đau thân phận con người bằng ca từ trong ca khúc phản chiến: “Xác
người nằm trôi sông phơi trên ruộng đồng / Trên nóc nhà thành phố trên những
đường quanh co” (Ca khúc da vàng - Trịnh Công Sơn). Nhìn chung, thơ trẻ yêu nước
tiến bộ vùng đô thị chủ yếu biểu đạt cái bi thương tang tóc, xoáy vào nỗi đau chiến
tranh hơn là lãng mạn, sử thi hóa chết chóc. Đây là “cái khác”, là đặc điểm khá nổi
bật trong thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị. Có thể nói, thơ trẻ yêu nước tiến bộ
vùng đô thị trước hết được viết dưới ánh sáng của tinh thần ái quốc, của lòng tự trọng,
tự tôn dân tộc chứ chưa phải dưới hào quang của một lí tưởng nào khác. Họ là những
trí thức mang nỗi đau của dân tộc nhược tiểu, của dòng giống da vàng bị ngoại bang sỉ
nhục; cái bi thương trong thơ họ đồng nghĩa với oán hận trào dâng, trái tim chảy máu:
“Những tử thi ngổn ngang / Không còn nhìn rõ mặt / Cũng không có áo quần / Nằm
chung một dải đất / Nghèo đói và lầm than / Bà mẹ già chống gậy / Nước mắt chảy
hai hàng” (Hồi kết cuộc - Trần Quang Long).
Những câu được tác giả viết vào năm 1964, viết để phản đối quân đội Sài Gòn
tổ chức cái gọi là “triển lãm xác Việt cộng” gây căm phẫn tột cùng trong dân chúng.
Sáng tác theo trường phái siêu thực, thơ Ngô Kha chập chờn, ám ảnh về cái chết do
chiến tranh: “Trong mỹ từ của người đã chết / người đang chết / và những người sắp
đi vào cõi chết / đoàn tử tù cất nhịp hát hò lơ / tiếng mù đã lên cao / ru bình yên
những linh hồn tuyệt vọng” (Ngụ ngôn của người đãng trí). Có thể nói, thơ trẻ yêu
nước tiến bộ vùng đô thị đã “chạm đáy” bi thương chiến tranh.
Cái bi là hiện tượng phổ biến của mọi cuộc chiến tranh, bất kể thời nào, dân tộc
nào đã lâm vào đều không tránh khỏi. Đối với Việt Nam, cái bi trong thơ trẻ thời
chống Mỹ gắn liền với ý thức và hành động của cả thế hệ dấn thân cứu nước. Trong
họ, không ít người ngã xuống cho độc lập, thống nhất Tổ quốc. Cảm hứng bi tráng
trong thơ trẻ thời chống Mỹ dù biểu đạt theo hướng bất tử hóa, đề cao cái hùng, hay
nghiêng về cái bi thương tổn thất đều rất đáng trân trọng. Đó là một dòng thơ, một
thời thơ, đúng như lời Hữu Thỉnh “được đảm bảo bằng máu” [172, tr.4].
3.2.4. Cảm hứng đời tư, thế sự
110
Cảm hứng đời tư, thế sự là khái niệm ghép của hai thành tố có nghĩa tự thân:
“đời tư” và “thế sự”, giữa chúng liên quan gần chứ không nhập làm một, cũng không
phải thành tố này quy định thành tố kia. Sản phẩm của cảm hứng đời tư là hình tượng
“cái tôi đời tư”; sản phẩm của cảm hứng thế sự là “cái tôi thế sự”; một số nhà nghiên
cứu gộp chung vào trong khái niệm “cái tôi phi sử thi”.
Thực tế cho thấy, thơ trẻ thời chống Mỹ, nhất là vào chặng cuối đã có sự giao
thoa giữa cái nhìn sử thi và yếu tố thế sự, giữa lí tưởng và hiện thực, giữa không gian
công cộng và không gian đời tư. Xét phương diện hưng phấn cao độ (nhiệt hứng),
rung cảm sâu sắc, thống thiết của nhà văn trước những vấn đề về đời sống riêng tư, về
thân phận con người và thực trạng xã hội, nổi lên trong tác phẩm như một khuynh
hướng tư tưởng rõ nét; chúng tôi gọi đó là cảm hứng đời tư, thế sự. Thời chống Mỹ
những sáng tác theo dạng thức cảm hứng này, rõ ràng không hiếm; chỉ có điều, nói
như nhà thơ Bằng Việt: “Phải nén lại thôi! Có nhiều câu thơ khắc khoải nhưng phải
hết thời chống Mỹ mới in ra” [199, tr.34]. Bên cạnh giọng day dứt, tự vấn, cảm hứng
đời tư, thế sự trong thơ trẻ thời chống Mỹ còn có những sắc điệu khác làm đa dạng,
độc đáo cho nó (trữ tình thống thiết, lạc quan, triết lí,…).
● Cảm hứng đời tư
Cảm hứng đời tư được coi là dạng cảm hứng giàu tính nhân bản. Tín hiệu để
nhận diện nó, chủ yếu tập trung ở hình tượng cái tôi đời tư: “Thơ trữ tình đời tư đòi
hỏi thể hiện các cảm xúc tâm trạng cá nhân của cái “tôi” con người bình thường”
[145]. Đời tư được hiểu trên nhiều phương diện: Nó là vũ trụ riêng của một người
trong “tổng hòa các quan hệ xã hội” (lứa đôi, gia đình, bè bạn,…); là ý thức về chủ thể
và tự ý thức về bản chất xã hội của chủ thể; là những mặt khuất lấp của một đời người,
là số phận, thân phận cá nhân,... Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử quan niệm: “Sự ý thức
về đời sống cá nhân, các xúc động riêng tư, nhất là trong tình yêu đôi lứa là cơ sở của
các tác phẩm thuộc thể tài đời tư” [145]. Thơ cách mạng không triệt tiêu cái tôi đời
tư, nếu cái tôi ấy không đối lập cái ta chung. Thơ chống Pháp, theo chúng tôi, cũng
thấp thoáng cái tôi đời tư (chẳng hạn Màu tím hoa sim của Hữu Loan; Không nói của
Nguyễn Đình Thi, Em tắm của Bạc Văn Ùi,...).
111
Chuyển sang thơ sau 1954, Nguyễn Văn Long khẳng định: “cái tôi riêng của
tác giả đã dần dần xuất hiện trở lại và cùng với nó xu thế trữ tình hướng nội đã tăng
lên” [80, tr.96]. Đó là ý kiến xác thực, có cơ sở. Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu mở
rộng biên độ thời gian và không gian thơ chống Mỹ, cùng sự xuất hiện nhiều sáng tác
mà thời ấy chưa công bố, thì vấn đề “cái tôi đời tư” (kể cả “cái tôi thế sự”) đã không
mấy ai phủ nhận, và đang được khảo sát trên nhiều góc độ, nhiều hướng tiếp cận.
Theo chúng tôi, nói đến cái tôi đời tư trong thơ thời chống Mỹ là phải nghĩ ngay đến
sáng tác của thế hệ nhà thơ trẻ lúc bấy giờ.
Trước hết là xét ở bình diện tình yêu lứa đôi - bình diện được coi là điển hình
nhất của thế giới riêng tư đã bao đời nay. Tuy nhiên, như chúng tôi nghĩ, tình yêu lứa
đôi trong thơ không đơn thuần chỉ chuyện riêng của hai người; mà nó phải nằm trong
dòng “cảm ứng” chung của mọi người. Nghĩa là, không có cái tôi đời tư khép kín
tuyệt đối. Tuổi trẻ đồng nghĩa tình yêu và kiếm tìm hạnh phúc. Ngay từ khi mới xuất
hiện trên thi đàn (những năm đầu thập niên 60), nhiều nhà thơ trẻ thời chống Mỹ đã
tạo được dấu ấn của mình qua những sáng tác về tình yêu lứa đôi. Dĩ nhiên, tình yêu
lứa đôi ở đây đã không thoát li hiện thực, không sa vào hưởng lạc cá nhân hay bế tắc,
cuồng loạn. Đồng thời nó cũng chưa bị yếu tố sử thi “xâm lấn” sâu như những năm về
sau. Ấy là cái tình bâng khuâng, xao xuyến trong thơ Ca Lê Hiến: “Mùa xuân cùng
em lên đồi thông / Ta như chim bay trên tầng không” (Em đẹp nhất); cái tình rạo rực
đến cuồng nhiệt, hiến dâng trong thơ Xuân Quỳnh: “Những ngày không gặp nhau /
Biển bạc đầu thương nhớ / Những ngày không gặp nhau lòng thuyền đau rạn vỡ”
(Thuyền và biển); cái tình lặng lẽ, đắm say trong thơ Nguyễn Mỹ: “Em mang chi tiếng
đàn bầu trong mắt / Để nên nỗi đêm thu anh dìu dặt” (Hoa cúc tím); hay cái tình mặn
nồng, thổn thức trong thơ Phạm Tiến Duật: “Anh yêu em, anh đợi anh chờ / ngày chủ
nhật sao em không tới / đồng nông trường đêm về vời vợi / hơi tay em trong đất ẩm
còn thơm / nhớ em, lòng dạ bồn chồn” (Nhật kí yêu đương).
Ở mảng thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị, tình lứa đôi được biểu đạt hoàn
toàn tự do, không có bất kì “định hướng” hay ràng buộc nào ở đề tài này. Nhìn chung,
mấy năm đầu thập niên 60, tình lứa đôi trong thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị có
vẻ còn bình yên, êm ả: “em ở đó mùa thu buồn khép nép / đường em đi, em biết lối
112
quay về ? / Nắng có vàng anh gọi bóng mây che / cho em bước qua những vòng bóng
mát” (Mùa thu ở Huế - Lê Nghiêm Vũ); hay những mối tình mộng mơ, e ấp: “Sao em
biết anh nhìn mà nghiêng nón / Chiều mùa thu mây che có nắng đâu / Nắng sẽ làm
phai mái tóc xanh màu / Sẽ làm khô mái tóc em dịu ướt” (Nghiêng nón - Trần Quang
Long). Có lẽ, bài Nghiêng nón như mối tình đầu của thơ Trần Quang Long trong trái
tim độc giả, nhất là lứa tuổi học sinh, sinh viên.
Cuộc chiến chuyển sang bước ngoặt mới kể từ khi Mỹ đổ quân vào miền Nam,
đánh phá miền Bắc (1965), thế cuộc đổi thay, xã hội biến động dữ dội. Cảm hứng đời
tư mức này mức khác đều nhuốm màu sắc sử thi, tình lứa đôi nhập sâu vào tình đất
nước; cái riêng nối kết cái chung, không lấn át cái chung: “Đời đẹp thế, đời chiều ta
đến thế / Anh yêu đời càng tha thiết yêu em / Còn có gì tách được nỗi chung riêng”
(Cảm ơn tình yêu và cuộc sống - Bằng Việt). Có thể nói, quan hệ giữa cặp hình tượng
em - quê hương, em - đất nước trong thơ trẻ thời chống Mỹ là quan hệ hóa thân, hòa
vào nhau, ở trong nhau: “Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em tắm / Đất nước
là nơi ta hò hẹn / Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” (Mặt
đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm).
Chiến tranh là mất mát hi sinh, đối lập với tình yêu hạnh phúc. Nhưng mặt
khác cũng phải nhận thấy: bom đạn, chết chóc đã không hủy diệt được tình yêu lứa
đôi. Sự hiện hữu của nó trong thơ trẻ thời chống Mỹ như đương nhiên, dẫu cái tôi đời
tư ở đây đã không thuần khiết như trong cuộc đời thường. Nói như thế để khẳng định,
thơ tình thời chiến tranh đã không thoát ra ngoài tinh thần sử thi, nhưng cũng không
hoàn toàn tan biến vào sử thi, mất hết “dấu vết” đời tư trong sáng tạo nghệ thuật. Hơn
nữa, xét ở góc độ phản ánh, cuộc kháng chiến chống Mỹ lớn lao đến mức, đã xen sâu
vào mọi ngóc ngách riêng tư nhất của con người. Có điều, do cảm quan giữa các nhà
thơ khác nhau nên sắc thái sử thi trong thơ đời tư cũng khác nhau. Với Xuân Quỳnh,
dù có qua lửa đạn, tình yêu vẫn là tình yêu của sự hồn nhiên, trong trẻo đến ngỡ
ngàng: “Anh trở về sau những tháng năm xa / Cây đã lớn lớn lòng ta nhiều đổi khác /
Như đất nước vừa qua thời lửa đạn / Lại ngỡ ngàng chim nhỏ, tháng giêng xuân”
(Những con đường tháng giêng). Với Bằng Việt, tình yêu là điểm gặp của lứa đôi ở
những nơi “xung yếu”, đầy thử thách: “Chiều lạ quá, chiều ơi lay động mãi / Giá lại
113
phải băng qua trăm ngả đường phá hoại / Thì hẳn chỗ cuối cùng anh gặp - vẫn là
em” (Những đoạn thơ tình giữa hai cuộc chiến tranh phá hoại). Với Hoàng Nhuận
Cầm, Vũ Đình Văn, Nguyễn Trọng Định,… tình yêu là kỉ niệm đầu đời: “Nếu phải
chia cho người yêu một nửa / Thì em ơi nhận lấy quãng đời đầu / Cái khoảng đầu vời
vợi nhìn nhau…” (Nửa sau cuộc đời - Vũ Đình Văn); là đau đáu nhớ thương giữa hậu
phương và tiền tuyến: “Chiều tạm ngưng bom đạn / Anh nhớ em lắm sao / Phía trước
núi xanh cao / Phía sau là sông biếc / Anh yêu em tha thiết…” (Chiều - Nguyễn Trọng
Định).
Đặc biệt là những mối tình đươm hoa nơi chiến trận, lứa đôi có mặt trên chiến
hào. Đặt vào bối cảnh sử thi, cái tôi riêng tư của họ lại càng ngời lên vẻ đẹp của sự trẻ
trung, kín đáo: “Chưa một lần Trà nói yêu tôi / Tôi yêu Trà với tình yêu nén lại / Khốc
liệt chiến trường, thương nhau thầm kín…” (Trà - Hoàng Cát). Chiến tranh và tình
yêu, thơ trẻ thời chống Mỹ không chọn một trong hai mà là sự nối kết, cái này không
tiêu hủy cái kia. Ấy là nét độc đáo của cái tôi riêng tư trong thơ tình thời chống Mỹ:
“Đánh giặc xong rồi, em cứ lo lo /.../ Anh có giận em không đấy” (Sau trận đánh -
Phan Thị Thanh Nhàn). Chẳng những thế, họ còn “tiếp lửa” cho nhau, luôn hướng về
nhau: “Rợp trời thương / Màu xanh suốt / Em nghiêng hết / Về phương anh” (Sợi nhớ
sợi thương - Thúy Bắc). Kì thực, đó cũng là sự hi sinh mà người đời sau cần cảm
thông, tôn kính hơn là để ngợi ca, tự hào. Bởi không ai muốn xảy ra chiến tranh để
tình yêu phải “sống chung” bom đạn. Nói chính xác, đó là hiện tượng đột xuất, bất
khả kháng: “Đám cưới vừa xong, mùa xuân lại đến / Chưa kịp trao hoa đã trao súng
cho nàng” (Qua cầu tre nghiêng nghiêng - Hoài Vũ).
Không chỉ thơ trẻ miền Bắc hay thơ trẻ miền Nam vùng giải phóng mà thơ trẻ
yêu nước tiến bộ vùng đô thị cũng phải “tự điều chỉnh” trước diễn biến khốc liệt của
chiến tranh: “Làm sao tôi còn bình yên để làm thơ cho em / Để em khoe với bạn bè, để
em ấp nghiêng lên má” (Ám ảnh - Trần Quang Long). Nghĩa là cái thời Nghiêng nón
dần lui, thay vào đó là cái tôi đời tư va đập với thời cuộc, nước mắt nhiều hơn nụ cười.
Nhà thơ Hữu Đạo thấm thía trước tình cảnh ngang trái ấy: “Em ơi, hai đứa rất yêu
nhau / Mà hạnh phúc sao chỉ là đuổi bắt / Cuộc sống nơi đây, tình yêu chân thật / Sao
chưa đầy một giấc mơ” (Đông xuân). Đến Ngô Kha, cái tôi đời tư là thế giới ám thị,
114
hòa trộn giữa vô thức, tiềm thức và ý thức, song hành với trái tim dạt dào tình nhân ái:
“Người say rượu lẩm nhẩm một mình / Mùa hè có tuyết đen tuyệt đẹp / Tôi vụt chạy
bỏ linh hồn ở đó / Không có đứa con gái, đứa con trai, người say rượu / Chỉ có quả
gấc hồng hào rực ánh lửa chiến tranh” (Ngụ ngôn của người đãng trí).
Thời nào cũng vậy, tình yêu luôn đi liền với trăn trở, băn khoăn. Có cái trăn
trở, băn khoăn là do chính nó (tình yêu là quý nhất, thiêng liêng nhất; cái gửi trao, cho
và nhận bao giờ cũng thế). Xuân Quỳnh tỏ ra nhạy cảm ở trạng thái này: “Sóng bắt
đầu từ gió / Gió bắt đầu từ đâu / Em cũng không biết nữa / Khi nào ta yêu nhau?”
(Sóng). Nhưng cũng có cái trăn trở băn khoăn là do tác động của bối cảnh chiến tranh.
Đó là sự trở lại của cái tôi đời tư hướng nội, xuất hiện vào những năm cuối cuộc chiến
- khi khí thế háo hức ra trận dần dần lắng xuống, tinh thần “Xa anh em buồn nhưng
không khóc” (Hoàng Thị Minh Khanh) đến lúc phải khác. Thêm vào đó là những diễn
ngôn đời tư trăn trở, phân tâm. Ấy là khi Thanh Thảo viết: “hạnh phúc nào cho tôi /
hạnh phúc nào cho anh / hạnh phúc nào cho chúng ta / hạnh phúc nào cho đất
nước?” (Thử nói về hạnh phúc); Dương Hương Ly tự vấn: “Hạnh phúc là gì ? / Bao
lần ta lúng túng / Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi chưa ra” (Bài thơ về hạnh phúc).
Những lời thoại hàm nghĩa nhận thức về sự hài hòa giữa chung và riêng, giữa số phận
đất nước và thân phận cá nhân. Đất nước chiến tranh, câu hỏi hạnh phúc thật không dễ
trả lời,“chưa bao giờ nguôi được”; “nghĩ mãi chưa ra”.
Tập trung nhiều nhất vẫn ở thơ Lưu Quang Vũ, tình yêu đắm đuối, trong trẻo
thuở ban đầu nhường chỗ cho những đắng cay, dằn vặt. Thơ Lưu Quang Vũ chạm đến
tận cùng tâm trạng xót xa, hẫng hụt: “Em đừng thương anh nữa / Anh đi lủi thủi trên
đường / Đánh mất lòng tin / Tìm về bếp lửa / Xem trẻ mục đồng / Múa trong tượng gỗ
/ Tôi còn gì mà đau khổ nữa em” (Không đề III). Nỗi buồn trong thơ Lưu Quang Vũ
thoát ra từ tâm trạng cá nhân. Nhưng, nói như Vũ Quần Phương, ý nghĩa của nó còn
lớn lao hơn nhiều: “Điều anh tin không có được trên đời / Điều anh có không giúp gì
ai được / Gương mặt em chỉ còn là kỉ niệm / Mối tình xưa anh cũng đã quen rồi” (Có
những lúc). Cái tôi đời tư trong thơ Lưu Quang Vũ trĩu nặng cảm thức cô đơn, nỗi
buồn thấm thía; có thể nói, đó là “bản năng thi sĩ” ở nơi ông va đập với cuộc đời, với
ngoại cảnh đắng cay, bật lên thành nghệ thuật.
115
Tình lứa đôi có thể coi là “điểm nhấn” của cái tôi đời tư. Nhưng không chỉ có
vậy, bên cạnh nó còn là tình gia đình, tình bè bạn,... Khi nhà thơ viết về người thân
trong gia đình, hầu hết đều xuất phát từ cảm hứng đời tư, chứa chan những lời yêu
thương, chia sẻ: “Anh không ngủ được ư anh / Để em mở quạt quấn mành lên cho”
(Hát ru chồng những đêm khó ngủ - Xuân Quỳnh). Và cảm hứng đời tư còn là sự ý
thức của cái tôi chủ thể. Lâm Thị Mỹ Dạ tự tin, tự khẳng định mình: “Khi em sống
ngang tàng cao thượng / Em thấy mình như trời xanh” (Không đề 2); Xuân Quỳnh
mạnh bạo đề cao vị thế người phụ nữ: “Dẫu là nguyên thủ quốc gia hay là những anh
hùng / Là bác học… hay là gì đi nữa / Vẫn là con của một người phụ nữ / Một người
đàn bà, không ai biết tuổi tên” (Thơ vui phái yếu). Đó là thông điệp bình đẳng giới cất
lên trong năm tháng chiến tranh ác liệt. Thiết nghĩ, nếu không là sáng tác của nữ nhà
thơ trẻ thời ấy, hẳn rằng chẳng ai viết thay cho họ.
Tuy là phụ lưu nhưng cảm hứng đời tư lại có tác dụng gia tăng chất trữ tình cho
thơ trẻ thời chống Mỹ; góp phần làm “lục hóa từng bước chân Trường Sơn của họ”
[79, tr.108].
● Cảm hứng thế sự
Nói đến cảm hứng thế sự là nói đến cảm hứng về thân phận con người trước
“những điều trông thấy”. Cảm hứng thế sự thường hướng tới sinh hoạt hàng ngày của
con người; chú ý khẳng định giá trị thẩm mỹ trong cõi nhân sinh, khám phá mọi phức
tạp, éo le của con người trên hành trình đi tìm tự do, công lí. Sách Từ điển tiếng Việt
giải nghĩa “thế sự” là “Việc đời. Ví dụ: Bàn chuyện thế sự” [194, tr.966]. Trong
nghiên cứu, những khái niệm như “cảm hứng thế sự” “thơ thế sự”,… đang có những
cách hiểu khác nhau. Theo Trần Đình Sử “Dẫu sao thơ thế sự không nên chỉ đóng
khung trong đả kích, châm biếm, trào phúng” [145]. Từ cách hiểu theo hướng mở
rộng như vậy, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng, trong sáng tác của Tố Hữu có
mảng thơ thế sự [145].
Thơ trẻ thời chống Mỹ có hay không có cảm hứng thế sự ? Về nguyên tắc, văn
học hiện thực xã hội chủ nghĩa không cấm đoán “nhiệt tình phê phán” (chủ yếu phê
phán những vấn đề thế sự). Tuy nhiên, trong thực tế, ranh giới giữa “phê phán”, “phản
biện” với “phản động”, “chống đối” là rất mong manh. Có thể nói, sau vụ “Nhân văn
116
giai phẩm”, thể tài thế sự hầu như vắng bóng trên văn đàn miền Bắc và khuynh hướng
cảm hứng này có nguy cơ “nghẽn mạch” từ đó. Chiến tranh đòi hỏi muôn người như
một, thơ không thể chệch ra ngoài “đường dân tộc đang bay”. Tuy nhiên, trạng thái
chiến tranh kéo dài, xã hội nảy sinh nhiều bất cập, những mặt nhiễu nhương trong
cuộc sống dù không muốn vẫn cứ phô ra. Trải nghiệm những năm tháng ấy, nhà
nghiên cứu Vương Trí Nhàn viết: “Từ đầu năm 1970, cuộc sống ở Hà Nội đã bắt đầu
phô ra tất cả cái khó khăn phiền phức mà thời chiến phải có. Thành phố như một
người ngấm bệnh… Đáng sợ hơn nữa, do cuộc sống khó khăn, những thói xấu cố hữu
của con người như nhút nhát tham lam vụ lợi có dịp thức dậy, càng giấu diếm càng đê
tiện” [99, tr.40- 41]. Càng về cuối, sự hủy diệt của chiến tranh càng khủng khiếp, sự
sống của con người càng trở nên mong manh. Đó là sự thực không thể né tránh đối
với những nhà thơ nhạy cảm trước số phận con người và đất nước. Cái tôi thế sự trong
sáng tác theo khuynh hướng cảm hứng này là cái tôi đối diện với xã hội thực tại, nhìn
xã hội như bức tranh đa sắc màu, nhiều chiều kích, trong phối cảnh chưa xong xuôi.
Ấy cũng là cái tôi có trách nhiệm trước hiện thực, góp phần cải tạo hiện thực, chống
cái ác, cái xấu, cái bạo tàn; cái tôi biết cảm thông, chia sẻ, bênh vực những cuộc đời
bất hạnh, những thân phận khổ đau.
Sự thực là, ở mức này mức khác, cảm hứng thế sự đã “ló dạng” trong một số
sáng tác của những nhà thơ trẻ miền Bắc lúc bấy giờ. Dĩ nhiên do chưa “phải thời”
nên ngay khi mới xuất hiện, nó đã gặp phải chỉ trích gay gắt từ phía các nhà phê bình.
Chẳng hạn, Trò chuyện với Thúy Kiều - Lý Phương Liên, Thơ tặng người ăn mày -
Nguyễn Duy,… Nhưng tập trung nhiều nhất vẫn trong sáng tác của Lưu Quang Vũ
(phải sau 1986 mới công bố rộng rãi). Nhà thơ Vũ Quần Phương xác nhận: “Chiến
tranh ngày càng ác liệt, những tiêu cực xã hội bắt đầu phát sinh… những cảm nghĩ
của anh khi ấy có thể ít đại diện cho thời cuộc, nhưng đích thực nó là nỗi lòng của
một người. Nỗi lòng đó được diễn đạt bằng một nghệ thuật thơ nhuần chín. Đây là
giai đoạn sáng tác khá đặc biệt trong đời thơ Lưu Quang Vũ” [175, tr.79]. Có thể nói,
thơ Lưu Quang Vũ vào giai đoạn cuối cuộc chiến đã “chệch” ra ngoài cảm hứng
lãng mạn - sử thi, nghiêng hẳn sang cảm hứng đời tư - thế sự. Ông nhìn và khái
quát chuyện đời trên cảnh ngộ của bản thân, tuy có phần bi quan hơi sớm nhưng hé lộ
117
một số điều như linh cảm trước thời cuộc. Trong mắt ông, cuộc đời lúc đó lộn xộn như
cuốn sách xếp nhầm trang: Chuyện Cầu nguyện đêm Noel 1972, chuyện Đêm Đông
chí uống rượu với bác Lâm, bác Khánh nói về cuộc chia tay thời loạn (tên bài thơ),…
rồi bắt qua Anh đã mất chi, anh đã được gì, Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa, Những đứa trẻ
buồn,v.v… Nghĩa là toàn những chuyện tưởng như “lộn xộn”, “vớ vẩn” nhưng lại rất
liên quan đến bức tranh thế sự. Mùi “lá bưởi lá chanh” nên thơ sẽ không bao giờ quay
trở về tô điểm cho cái hiện thực dữ dằn, phức tạp: “Em ơi có buồn không / Thành phố
đang thời hỗn loạn / Nghèo túng lọc lừa bội phản / Giết người trộm cắp khắp nơi /
Con người nói với con người / Những lời hằn thù sỉ nhục” (Thơ tình về một người đàn
bà không có tên III).
Chiến tranh dai dẳng làm cho đất nước kiệt quệ, nhiều giá trị tốt đẹp bị tàn phá.
Lưu Quang Vũ thương mình, thương bè bạn, thương “một thế hệ cứng đi như thỏi
sắt”, “chưa hết trẻ con đã là người lính”. Nhưng trên hết, ông thương người dân nước
mình khổ đau do chiến tranh giặc giã. Tình cảm thiêng liêng ấy được nhà thơ gửi gắm
từ Đất nước đàn bầu cuồn cuộn dòng máu nóng dân tộc, đến Giấc mộng đêm chập
chờn với bao gương mặt, bóng dáng từ cõi “thập loại chúng sinh” hiện về; hay kí thác
vào bài Cầu nguyện cả tấm lòng dập nát bằng những câu thơ máu ứa: “Sao cho máu
đừng chảy nữa / Sao cho người lính trở về”,... Điều đáng quý là, qua hành trình sáng
tạo đầy nhọc nhằn, vật vã, hồn thơ Lưu Quang Vũ đã có sự biến đổi về chất, gắn bó
thiết tha với cuộc đời. Một số diễn ngôn của ông là những dự cảm trước thời cuộc, rất
hiếm vào thời điểm bấy giờ, cứ ngỡ như mới xuất hiện đâu đây:
Người ta không thể sống bằng niềm tin đẹp
Bằng áp phích trên tường, bằng những lời đanh thép
Phải mang cho mọi người áo mặc cơm ăn
Phải có nhà trường cửa sổ trời xanh
Những bàn tay dám làm những tấm lòng dám thật
Cuộc đời chẳng dừng chân một phút
Những điều hôm qua tưởng tuyệt vời tốt đẹp
Đến nay không đủ nữa rồi
(Viết lại một bài thơ Hà Nội)
118
Những câu thơ có thể lạc lõng trong thời chống Mỹ nhưng lại đánh động mạnh
vào lòng người, lay tỉnh những bộ não giáo điều, những tâm hồn “đóng băng” trước
nỗi đau nhân thế.
Tiếp đến là sáng tác của Xuân Quỳnh trong tập Gió Lào cát trắng (1974). Tuy
cảm hứng thế sự trong tập thơ không “đậm đặc” như sáng tác của Lưu Quang Vũ,
nhưng đặt vào thời điểm bấy giờ là rất đáng chú ý. Nhà thơ Ngô Văn Phú xác nhận:
“Xã hội lúc đó có những biến động trong hoàn cảnh gay gắt của chiến tranh. Đời
thường có những trăn trở phức tạp. Kẻ cơ hội sống lẫn lộn với người chân chính,
“Gió Lào cát trắng” cũng như một số bài thơ khác đã đề cập đến cả những mặt đáng
lo ngại trong tình cảm, trong cuộc sống” [86, tr.117]. So với Hoa dọc chiến hào, cái
tôi trữ tình trong Gió Lào cát trắng tỏ ra trải nghiệm hiện thực, va đập với cuộc đời
nhiều hơn: “Ngọn gió Lào cát trắng của đời tôi / Tôi của cát của gió Lào khắc
nghiệt”. Nhạy cảm với thời cuộc, Xuân Quỳnh bộc lộ cảm hứng thế sự khá kín đáo,
thường xen vào những bài thơ trữ tình ở dạng này hay dạng khác. Chẳng hạn, trong
bài Hát ru chồng những đêm khó ngủ chỉ thấp thoáng hai câu: “Đoàn thương binh mới
trở về / Đánh nhau trước cửa hàng bia lúc chiều” cũng đủ phơi ra cảnh sinh hoạt thời
chiến đã đến hồi nhốn nháo, bất ổn. Những bài thơ Thành phố không có thường dân,
Trời trở rét, Về những thói quen, Năm tháng ấy,… đều liên quan đến đến cái tôi thế
sự. Phụ nữ quan tâm nhiều đến sinh hoạt đời thường, Xuân Quỳnh có những sáng tác
như “bảo tàng thơ” thời bao cấp. Đó thời của chiến tranh và nghèo đói; thời của thiếu
thốn trăm bề, đời sống người dân luôn lo âu thấp thỏm: “Nhiều người mua hàng
nhưng ít cửa hàng / Những vải, gạo, thực phẩm đều bán phiếu / Thì giờ thì ít, xếp
hành lâu phát cáu… / Con người sống trong những ngày căng thẳng / Ít vui buồn,
nhiều những lo toan” (Những năm ấy).
Khác Xuân Quỳnh, Lý Phương Liên bộc lộ cái tôi thế sự theo cách riêng của
mình. Trong khi các nhà thơ lớn lấy nhân vật Thúy Kiều để ngợi ca đất nước:
(“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc” - Chế Lan Viên); thì Lý Phương Liên lại
hướng về chuyện thế thái nhân tình trong xã hội thực tại. Trò chuyện với Thúy Kiều là
lời tâm tình với thân phận con người bị hất hủi; là đối thoại với đất nước và nhân dân
khổ đau bởi chiến tranh dai dẳng: “Thời gian còn nửa ngày là đêm tối / Còn đồng tiền
119
đổi trắng thay đen… / Số phận nhân dân và đất nước / Ai chẳng đã một lần nghe dịu
ngọt / Bốn khúc đàn Kiều gảy từng trang ... / Thời gian đọng lại buồn tênh / Mỗi trang
Kiều một mông mênh cõi người “.
Những diễn ngôn này nếu đặt cạnh: “Miền Bắc thiên đường của các con tôi”
(Tố Hữu), “Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả / Dù mai sau đời
muôn vạn lần hơn” (Chế Lan Viên) thì rõ ràng đã có “cái khác” trong thơ trẻ.
Đối với thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền Nam, cảm hứng thế sự là
vạch trần bản chất thực dân mới của Mỹ, phản đối chính sách tàn bạo của chính quyền
Sài Gòn, phơi bày những bất hạnh khổ đau của đồng loại giống nòi, của người dân
bản địa. Về phương diện này phải nói đến Đông Trình. Ông là nhà thơ đã đưa tất cả
những điều ngụy trá, dã man của cuộc chiến đầy máu và nước mắt vào sáng tác của
mình. Cái tôi trữ tình trong thơ ông có cái nhìn xoáy sâu vào những điều ngang trái,
cảm thông sâu sắc những kiếp đời khổ đau tủi nhục trong lòng đô thị miền Nam:
“Làm thế nào để nói với em / Về thành phô anh đang sống ? / Chiến tranh, rác rưởi
và mộ người / Hàng ngày chen nhau chiếm từng khoảng đất / Làm thế nào nói với em
về những đứa học trò / Ban ngày đến trường ban đêm rước khách” (Vô cùng linh
thiêng như nghe theo tiếng gọi).
Từ khảo sát trên, có thể khẳng định, do áp lực của chiến tranh, cảm hứng đời
tư, thế sự hoặc giao thoa, hòa kết với cảm hứng lãng mạn - sử thi (nhưng không tan
biến); hoặc tạm ẩn mình, lui ra ngoài trung tâm để sau 1975, nhất là sau 1986, trở
thành dòng chủ đạo, áp đảo trên thi đàn. Đó là đặc điểm nổi bật của thơ trẻ thời chống
Mỹ xét về phương diện cảm hứng nghệ thuật.
2.3. Một số phương thức biểu đạt cảm hứng nghệ thuật trong thơ trẻ Việt
Nam thời kháng chiến chống Mỹ
Thuộc phương diện nội dung, cảm hứng nghệ thuật phải tìm đến các phương
thức biểu đạt phù hợp. Có nhiều phương thức được các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ sử
dụng; ở đây chúng tôi chỉ khảo sát một số phương thức được coi là nổi bật, biểu đạt
hiệu quả cảm hứng, nhất là cảm hứng lãng mạn - sử thi, giữ vai trò chủ đạo.
120
2.3.1. Sáng tạo hình ảnh giàu nghĩa biểu tượng
Sáng tạo nghệ thuật là sáng tạo giá trị biểu tượng. Biểu tượng nghệ thuật là kí
hiệu thẩm mĩ đa nghĩa. Nó chính là sự mã hoá cảm xúc, ý tưởng, quan niệm của nhà
văn về đời sống. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Biểu tượng là phương thức
chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền
cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một
quan niệm, một tư tưởng hay một triết lí sâu xa về con người và cuộc đời” [38, tr.24].
Biểu tượng trở thành phương tiện diễn đạt cô đọng, hàm súc, phù hợp với sáng tạo thơ
ca - loại hình được coi là “ý tại ngôn ngoại”, hạn chế tối đa tiết diện ngôn từ trên văn
bản.
Nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ chúng tôi thấy nổi lên một số biểu tượng
được coi là độc đáo, sinh động, góp phần làm tăng sức hút cho cả dòng thơ.
● Màn đêm, con đường
- Vũ trụ có đêm và ngày, bóng tối và ánh sáng. Lẽ thường, đêm đồng nghĩa
bóng tối, mọi hoạt động trong bóng tối đều bất đắc dĩ, dễ tai họa: “Con cò mà đi ăn
đêm / Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao” (Ca dao). Trong thơ truyền thống phương
Đông và phương Tây, màn đêm thường là biểu tượng của khổ đau, bất hạnh: “Ôi đâu
hết những người thủy thủ / Chìm trong đêm, bi thảm đời người” (Đêm đại dương - V.
Huygô). Thế nhưng ở Việt Nam thời chống Mỹ, chiến tranh đã làm đảo ngược tất cả
những ý niệm thông thường, điều nghịch lí trở thành triết lí: “Nơi hầm tối lại là nơi
sáng nhất / Nơi con nhìn ra sức mạnh Việt Nam” (Đất quê ta mênh mông - Dương
Hương Ly). Cảm quan lãng mạn - sử thi trong thơ trẻ thời chống Mỹ không thiếu vắng
màn đêm. Màn đêm như biểu tượng của ẩn số Việt Nam, Tổ quốc trở mình, vươn
dậy trong đêm, lớn mạnh trong đêm. Hồn thiêng sông núi của “Đêm đêm rì rầm
trong tiếng đất” trong thơ Nguyễn Đình Thi được hóa thân vào tiếng cuốc đào hầm
vang động trong thơ trẻ thời chống Mỹ: “Đất nước mình hai mươi năm chiến tranh /
Tiếng cuốc năm canh nặng tình đất nước” (Đất quê ta mênh mông - Dương Hương
Ly). Như thế, màn đêm đã không yên tĩnh như thông lệ, biểu tượng của nó cũng
không còn nguyên nghĩa như khởi phát ban đầu. Phạm Tiến Duật phát hiện ra: “Bóng
121
đêm ở Việt Nam / Là khoảng tối giữa hai màn kịch / Chứa bao điều thay đổi lớn lao”
(Lửa đèn).
Cái bất thường trở thành cái bình thường; sự sống nẩy sinh trong màn đêm, sức
mạnh ẩn mình vào bóng tối: “Nơi tắt lửa là nơi vang rền xe xích…/ Là tiếng của
những đoàn quân xung kích” (Lửa đèn - Phạm Tiến Duật). Không chỉ vậy, sức sống
của dân tộc, “bao điều thay đổi lớn lao” của đất nước còn hóa thân vào những mối
tình, những tiếng cười giọng hát trong đêm: “Nơi tắt lửa là nơi dài tiếng hát” (Lửa
đèn), “Có lẽ nào anh lại mê em / Một cô gái chưa nhìn rõ mặt” (Phạm Tiến Duật). Có
thể nói, thời chống Mỹ là thời cả nước vào đêm, tiền đồ, lí tưởng tỏa sáng trong đêm:
“Từ trong bóng tối đêm qua / Ta trồng hy vọng chói lòa tương lai” (Cấy đêm - Lê
Anh Xuân); sử thi - lãng mạn hóa màn đêm: “Ta nghe tiếng trăm đêm thân thuộc /
Như sóng vỗ lòng ta, đáy phà lửa đốt / Ôi, tiếng đôi bờ, tiếng đôi bờ / Vít cong sào
chống cả bão mưa” (Vào đêm - Thái Giang); đến cái chết cũng lấp lánh phẩm chất
trong đêm: “Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng / Những vì sao ngời chói, lung linh”
(Khoảng trời, hố bom - Lâm Thị Mỹ Dạ).
Còn trong thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền Nam, màn đêm vẫn là biểu
tượng của bất hạnh, khổ đau: “đại lộ dòng sông đêm / mặt trời vô hình tan vỡ / suối
đau thương đường phố / nhớ nhung bơ vơ…” (Đêm 30 - Ngô Kha); của chiến tranh
chết chóc: “Đại bác ru đêm dội về thành phố” (Trịnh Công Sơn); của thác loạn, quay
cuồng: “Con nghe tiếng quay cuồng của vũ điệu về khuya / Từng tràng cười ré lên
như địa ngục” (Thưa mẹ trái tim - Trần Quang Long). Sự khác nhau về biểu tượng
màn đêm giữa các vùng thơ trẻ thời chống Mỹ là hiển nhiên, bởi bối cảnh sản sinh ra
nó vốn dĩ đã khác nhau, quan niệm của nhà thơ về màn đêm cũng không giống nhau.
Tuy vậy, giữa chúng đã không loại trừ, ngược lại còn bổ sung cho nhau, tạo cho thơ
trẻ thêm phong phú đa dạng về biểu tượng nghệ thuật.
- Nếu màn đêm là hình ảnh thời gian trở thành ẩn số Việt Nam thì con đường
lại là hình ảnh không gian, biểu tượng của hướng đi, của những cuộc biến
chuyển mình xã hội đầy hào hứng và cao cả. Thực tế chứng minh, thơ kháng chiến
chưa bao giờ thiếu vắng con đường: “Đường cách mạng dài theo kháng chiến” (Ta đi
tới - Tố Hữu). Có thể nói, thời chống Mỹ là thời cả nước đổ ra đường: “Đất nước đổ
122
ra đường / Tiềm lực lớn những binh đoàn chiến lược” (Đường tới thành phố - Hữu
Thỉnh). Con đường như chứng nhân của những cuộc chuyển xoay lịch sử: “Ba mươi
triệu tấm lòng xông ra tuyến lửa / Vạch lối điều quân / Vai quảy xe thồ” (Sư đoàn -
Phạm Ngọc Cảnh). Iu. Lotman cho rằng: “Muốn trở thành cao cả thì không gian
không phải chỉ bao la (hoặc vô bờ bến), mà còn phải có phương hướng và con người
ở trong đó cũng phải vận động về một mục đích. Không gian ấy phải trở thành con
đường” [141, tr.101].
Đúng vậy, không gian con đường trở thành biểu tượng đáng chú ý trong thơ trẻ
thời chống Mỹ - một dòng thơ vận động trên “đại lộ” chung của dân tộc, đích hướng
tới là hòa bình, độc lập, thống nhất nước nhà. Con đường và người đi là hai mặt của
không gian, con đường trong tư tưởng dẫn dắt cuộc hành trình trên con đường vũ trụ:
“Con đường tôi đi từ những bước đầu tiên / Con đường đi đến tuổi thanh niên / Cùng
đồng chí, bạn bè thân thuộc” (Cơn mưa không phải của mình - Xuân Quỳnh); con
đường của những bước đi không nghỉ, những dấu chân không phai: “Ai đi gần ai đi xa
/ Những gì gửi lại chỉ là dấu chân” (Dấu chân qua trảng cỏ - Thanh Thảo); con
đường nối từ thế hệ trước đến thế hệ sau; con đường của tỉnh thức và khát vọng đi tới:
Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm.
Biểu tượng con đường trong thơ trẻ thời chống Mỹ góp phần lưu lại chân
dung một thế hệ vận động không ngừng, tất cả đều náo nức, hối hả, tiếp nối truyền
thống cha ông: “Đường Trường Sơn chúng cháu dồn chân bước / Con đường Bác mới
đi qua” (Đêm Trường Sơn nhớ Bác - Nguyễn Trung Thu). Trong thơ trẻ yêu nước tiến
bộ vùng đô thị miền Nam, con đường là biểu tượng của khát vọng hòa bình, lòng
người tụ họp: “Mùa đổ lá thu mơ trời tháng tám / Nhớ nhau thì về chẳng quản đường
đi” (Mai có hòa bình - Ngô Kha); là sự lựa chọn và xác định dứt khoát hướng đi của
tuổi trẻ: “Chúng ta đi về hướng mặt trời / Bằng trái tim và ngòi viết trên tay / Chúng
ta đi không kể đêm ngày / Những dãy núi là bước chân trùng điệp” (Chúng ta bước đi
- Trần Quang Long).
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã rất thuyết phục khi đưa ra nhận xét: “Cảm
thức con đường là cảm thức có thật của người Việt Nam từ sau 1945, nó là cảm thức
điển hình nhất, phổ biến nhất. Cuộc cách mạng đã lôi kéo mọi người ra khỏi gia đình,
123
ngôi nhà riêng tư để hành quân đi vào đội ngũ mới, thời đại mới, đến những miền đất
mới” [141, tr.103].
● Lửa, dòng sông và đất
Đây là những hình ảnh xuất hiện với tần số cao trong thơ trẻ thời chống Mỹ.
Không ngẫu nhiên mà các nhà thơ định danh cho tác phẩm của mình những Vầng
trăng và quầng lửa, Lửa đèn (Phạm Tiến Duật), Lửa sáng rừng (Thái Giang), Ánh lửa
trên sông (Lê Anh Xuân), Bếp lửa (Bằng Việt)…; hay Tình yêu sông Hồng (Thanh
Thảo), Những dòng sông (Bế Kiến Quốc), Gửi mẹ dòng sông (Chim Trắng), Thơ dọc
triền sông (Xuân Quỳnh)…; hoặc Đất quê ta mênh mông, Làng trong lòng đất
(Dương Hương Ly), Đất miền Nam, Ta lại đi chân đất (Lê Anh Xuân), Đất ngoại ô
(Nguyễn Khoa Điềm), Đất, Sức bền của đất (Hữu Thỉnh), Nghe đất (Bằng Việt),
Tiếng đất (Vương Trọng);…
* Trước hết là biểu tượng của lửa: Đây là biểu tượng đã được mặc định lâu đời
trong văn hóa nhân loại, nghĩa cũng nó cũng đa dạng, nhiều cách hiểu. Thơ kháng
chiến sáng tác theo khuynh hướng sử thi nên không bao giờ thiếu lửa. Thời chống
Pháp, lửa thường biểu tượng của chiến tranh hủy diệt, của biến động kinh hoàng:
“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp / Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn” (Bên kia
sông Đuống - Hoàng Cầm). Đến thơ thời chống Mỹ nói chung, dòng thơ trẻ nói riêng,
hình ảnh ngọn lửa được nhiều tác giả chuyển thành biểu tượng sinh động, ám ảnh,
phong phú về nghĩa. Thơ trẻ thời chống Mỹ nảy sinh trong lửa, dồi dào ngọn lửa, “đi
theo ánh lửa từ trái tim mình”. Biểu tượng ngọn lửa trong thơ họ gắn với sáng tạo của
từng chủ thể, mang dấu ấn thế hệ. Đầu tiên phải nói đến Phạm Tiến Duật “đỉnh cao
của thơ ca chống Mỹ” (Ngọc Đỗ). Có cơ sở để cho rằng, bài thơ Lửa đèn như mốc son
đầu tiên đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Phạm Tiến Duật trên thi đàn hồi ấy.
Ông là nhà thơ xây dựng rất thành công biểu tượng “lửa” trong trạng huống chiến
tranh: Ngọn lửa truyền thống, ngọn lửa sức sống, ngọn lửa bất khuất. Đó là những
hướng khai thác chính để nhà thơ nâng lên thành biểu tượng của tâm hồn, cốt cách
và bản lĩnh Việt Nam: “Trên đất nước đêm đêm / Sáng những ngọn đèn / Mang lửa
từ nghìn năm về trước… / Ôi ngọn lửa đèn / Có nửa cuộc đời ta trong ấy”.
124
Đối với Nguyễn Xuân Thâm, lửa vừa là hình ảnh chuyển tải cảm hứng vừa là
“khung văn hóa” nâng tầm tác phẩm; lửa biểu tượng của tinh thần cách mạng sục sôi,
của đoàn kết cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên vùng lên chống giặc: “Trống giục
lửa, lửa vào buôn, người Ê-đê cầm ná / Lửa vào làng, người Gia-lai vót chông / Lửa
lên nương sáng ngọn mác Mơ-nông / Nghe tiếng trống người Hơ-nê băng rừng về như
thác lũ” (Rông chiêng). Trong thơ Thanh Thảo, lửa trở thành biểu tượng của thế hệ,
lửa tôi luyện ý chí, lửa đo phẩm giá con người, làm “phép thử” lòng yêu nước: “Thế
hệ chúng tôi bừng ngọn lửa chính mình / soi sáng đường đi tới…/ Vì ngọn lửa chịu
sình là lửa thực / đã bùng lên / dám cháy tận sức mình” (Một người lính nói về thế hệ
mình). Bằng Việt biểu đạt ngọn lửa theo cách riêng. Bếp lửa trong thơ ông không chỉ
ấm tình bà cháu mà còn tỏa ấm tình đất nước quê hương. Nó là biểu tượng của cái
đơn sơ, khiêm nhường, của tấm lòng nhân hậu, thủy chung: “Giờ cháu đã đi xa /
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả / Những vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở / Sớm
mai này bà nhóm bếp lên chưa ?”.
Ở mảng thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị, Trần Quang Long là người đưa
lửa vào thơ nhiều hơn cả. Trong thơ ông, lửa biểu tượng của chiến tranh tàn khốc,
lửa gieo tai họa cho con người: “Lửa từ đâu xông lên / Vây loài người ở giữa / Trời
đã hết màu đêm / Chỉ còn màu đỏ lửa” (Thực tại và ước mơ). Không lạc quan như thơ
trẻ miền Bắc hay thơ trẻ vùng giải phóng, lửa trong thơ Trần Quang Long nhuốm khổ
đau và hoài nghi cuộc chiến: “Đất nước lầm than mẹ khóc bên đèn / Ánh lửa tương lai
vẫn còn xa ngái” (Chúng ta bước đi).
* Biểu tượng của dòng sông và đất:
- Dòng sông, bến nước, con đò… từ bao đời đã gắn bó mật thiết với người dân
lao động, gắn với làng quê Việt Nam. Khó kể hết có bao nhiêu con sông trong thơ ca
và có bao nhiêu nhà thơ viết về con sông. Chỉ biết rằng, ở mỗi miền quê, mỗi thời kỳ
lịch sử, khi đi vào thơ ca, con sông lại được các thi nhân thổi vào đó những “linh
hồn”, “tính khí”, những vẻ đẹp riêng. Con sông thời chống Mỹ được các nhà thơ trẻ
xây dựng thành biểu tượng về vẻ đẹp tiềm ẩn, vĩnh hằng của dân tộc: “Mang lịch
sử qua trăm nghìn thử thách / Đất nước này còn tiềm ẩn những dòng sông” (Thanh
Thảo). Và cũng từ con sông mà tỏa sáng những anh hùng, chói ngời sắc diện quê
125
hương: “Sinh ra ở đâu mà ai cũng anh hùng / Tất cả trả lời sinh bên một dòng sông”
(Bế Kiến Quốc).
Người ta thường ví đời người như dòng sông. Trong thơ trẻ thời chống Mỹ,
dòng sông còn mang nghĩa biểu tượng cho cả một thế hệ dấn thân: Chúng con đi
như những dòng sông chảy xiết” (Thanh Thảo); “đừng viết về chúng tôi như cốc chén
đứng trên bàn; xin hãy viết như dòng sông chảy xiết” (Hữu Thỉnh); “chúng tôi là
dòng sông hối hả” (Phan Đức Chính). Trong thơ Lê Anh Xuân, hình ảnh con sông trữ
tình mà quật khởi. Đó là sông Hàm Luông “máu giặc còn pha”, nơi có người mẹ hi
sinh cả cuộc đời chở che cho cán bộ cách mạng (Người mẹ trồng bông); là con sông
Cổ Chiên in bóng em Trì ôm thủ pháo lao vào tàu giặc (Ánh lửa trên sông); là dòng
sông An Hóa gắn với những chuyến đò của em gái đưa “lực lượng” vượt qua vùng
kiểm soát của quân thù nhờ mưu trí và lòng dũng cảm (Em gái đưa đò). Đối với
Nguyễn Khoa Điềm, dòng sông là biểu tượng của mạch nguồn văn hóa, là dòng chảy
thời gian và không gian vô tận, làm nên đất nước muôn đời: “Ôi những dòng sông bắt
nước từ đâu / Mà khi khi về Đất Nước mình bắt lên câu hát / Người đến hát khi cheo
đò, kéo thuyền vượt thác / Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” (Mặt đường khát
vọng). Như vậy, sông trong thơ trẻ thời chống Mỹ không chỉ là dòng sông tự
nhiên mà còn là dòng sông tinh thần, mang dáng vóc sử thi và sức mạnh thời đại.
- Cùng dòng sông là biểu tượng của đất. Đối với người dân Việt Nam, đất là
vấn đề cốt tử, giữ nước là giữ đất, mất đất là mất tất cả, mọi cuộc quật khởi cũng từ
đất nổ ra: “Người của đất lại bật lên từ đất” (Vương Trọng). Đất nước lớn lên từ bùn
đất, tầm vóc của dân tộc cũng từ bùn đất mà “đứng dậy sáng lòa”. Nhà thơ Chính Hữu
xác định chuẩn xác: Khi bạn ta / lấy thân mình / đo bước / Chiến hào đi / Ta mới hiểu
/ giá từng thước đất” (Giá từng thước đất). Trong thơ trẻ thời chống Mỹ, đất trở thành
biểu tượng đậm nét, nói lên nhiều ý nghĩa. Nhiều nhà thơ đã dành tình cảm thiết tha
sâu nặng khi viết về đất: “Ta cầm nắm đất cha ông / Nghe thiêng liêng ngọn lửa hồng
trong tay” (Về Bến Tre - Lê Anh Xuân); “Sống cồn đất, chết chôn trên cồn đất / Ôi
làm sao bỏ được nơi này” (Đêm trên cồn - Thanh Thảo). Xét ở phương diện nào đó,
thơ chống Mỹ là thơ giữ đất: “Quyết giữ lành mảnh đất của ta! / Đất và ta nuôi nhau
126
thủy chung vất vả / Còn đất - còn người - còn cả / Mãi mãi hôm nay đất sẽ đền bồi”
(Khẩu súng trên tay ta - Nguyễn Duy).
Dân gian có câu “hiền như đất”, đất tái sinh sự sống cho con người và vạn vật.
Có lẽ vậy nên nhiều nhà thơ trẻ thời chống Mỹ đã chọn đất làm biểu tượng cho
cho sức sống và tinh thần quật khởi của nhân dân. Với Thanh Thảo, đất tỏa ánh
sáng chân lí - chính nghĩa: “Vùi trong đất và lấm đầy bùn đất / Sáng thâu đêm - sáng
suốt ban ngày” (Nguồn sáng); đất vững bền, bất tử: “Đất nằm im như chết / Có bao
giờ đất chết đâu anh” (Những người đi tới biển). Với Lê Anh Xuân, đất là tiếng vọng
của lịch sử, sức mạnh của cha ông từ ngàn xưa truyền lại; đất sôi động, rộn ràng khí
thế tiến công: “Ta đang nghe tiếng lịch sử cuồn cuộn triều dâng / Như tiếng ngựa phi
trong lòng đất” (Đất miền Nam). Trong thơ Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn
Duy, Chim Trắng,… đất rát bỏng khói lửa chiến trường, đất biểu tượng của lòng mẹ
chở che, chịu đựng: “Màu ngụy trang cuối cùng là màu của đất /…/ Ta chưa một lần
thư thả đất ơi / Ta chưa một lần nói được nên lời / Lòng của ta với mẹ!” (Sức bền của
đất - Hữu Thỉnh); đất khoan dung độ lượng, hóa giải những bất hòa: “Chúng tôi đánh
quân thù như xẻ cỏ làm mùa, như phát lau tra hạt / Xóa đi phiên hiệu một sư đoàn /
Đất lại bao dung nhận những mảnh cờ hàng / Đất lấn tới / Và chúng tôi lấn tới” (Đất
- Hữu Thỉnh). Đất là biểu tượng của hành động xả thân cứu nước, biểu tượng của sự
tự tin, tự khẳng định thế hệ mình; đất chính là quê hương, là đồng đội, là ủ ấp sáng
tạo, là niềm tin ở tương lai: “Đất nghìn năm sáng tạo của tôi / Quen đánh giặc: áo
khét mùi thuốc súng / Vẫn cất dấu trong lòng bao hạt giống / Bao ngôi sao gieo sáng
mùa màng” (Mùa cày - Nguyễn Đức Mậu).
Trong thơ Ngô Kha đất thấm nỗi đau chinh chiến, đất là quê mẹ tang thương:
“Đất mở rộng cơn đau / Đường gai chạy qua đồng chảy máu” (Hành trình);…
Những diễn ngôn trên gợi ta nhớ đến câu thơ nổi tiếng của nhà thơ người Mỹ
Walt. Whitman: “Tôi kí thác tôi cho bùn đất để tái sinh từ ngọn cỏ tôi yêu” (Lá cỏ).
2.3.2. Đa dạng các màu sắc nghệ thuật
Hegel cho rằng: “Nghệ thuật biến hình tượng với tất cả các điểm bề ngoài nhìn
thấy được của nó thành con mắt, tạo kho chứa tâm hồn” [138, tr.103]. Với tư cách là
một loại chi tiết nghệ thuật, màu sắc góp phần thể hiện cái nhìn và quan niệm của nhà
127
văn về đối tượng. Trong sáng tạo thơ ca, màu sắc là phương thức “mã hóa” cảm hứng
(thi trung hữu họa). Thực chất đây cũng là những tín hiệu hàm nghĩa biểu tượng.
Nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ, chúng tôi thấy các nhà thơ sử dụng đa dạng các
màu sắc; tất cả đều nhằm mục đích thẩm mỹ, gắn với cảm hứng nghệ thuật, trong đó
nổi lên hàng đầu vẫn là cảm hứng lãng mạn - sử thi.
Khảo sát những màu sắc nổi đậm trong thơ trẻ thời chống Mỹ, chúng tôi thấy
nổi lên một số nghĩa biểu tượng sau đây:
● Màu của sự sống, sức sống, tình yêu và khát vọng
Trong thơ trẻ thời chống Mỹ, màu xanh xuất hiện với tần số cao nhất. Nhiều
tác giả tỏ ra ưa sử dụng màu sắc này (Hoa cúc xanh - Xuân Quỳnh, Kỉ niệm màu xanh
- Quang Huy, Tháng năm xanh - Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đêm tình xanh - Trần
Quang Long,...). Trong nghệ thuật, màu xanh được coi là màu của sự sống, màu của
cuộc đời bình yên, êm ả: “Xanh xanh bãi mía bờ dâu / Ngô khoai biêng biếc” (Hoàng
Cầm). Đối với thơ trẻ thời chống Mỹ, màu xanh còn là màu của tình yêu và khát vọng,
của sự trẻ trung hào hứng: “Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu”, (Lưu Quang
Vũ); “Nỗi nhớ lên xanh cả cánh đồng” (Xuân Quỳnh). Khi khắc họa vẻ đẹp người
con gái, nhiều nhà thơ thường sử dụng mô típ màu xanh trên mái tóc: “Màu xanh sinh
sôi theo tóc em gái” (Làng - Trần Nhật Thu); “Tóc xanh em vẫn thướt tha lá dừa”
(Cô xã đội - Lê Anh Xuân). Và cả cái chết của em cũng “xanh khoảng trời con gái”
(Lâm Thị Mỹ Dạ). Theo lẽ thường, màu xanh tương hợp tuổi trẻ “đầu xanh có tội tình
gì” (Kiều - Nguyễn Du); trong thơ trẻ thời chống Mỹ, màu xanh còn là biểu tượng của
thế hệ dấn thân nhập trận: “Thế hệ chúng con đi như gió thổi / Quân phục xanh đồng
sắc với chân trời” (Trần Mạnh Hảo); “Lớp tuổi hai mươi, ba mươi điệp trùng áo lính
/ xanh màu áo lính” (Thanh Thảo).
Trong bối cảnh chiến tranh tàn khốc, màu xanh biểu tượng cho sự bất diệt của
con người Việt Nam, sự tái sinh của quê hương đất nước: “Hàng dừa vẫn trổ lá xanh /
Vết thương cũ đã lại lành thịt da” (Về Bến Tre - Lê Anh Xuân); “Đất bom đạn tỏa
màu xanh gan góc” (Áo cỏ ngụy trang - Nguyễn Đức Mậu). Đến bài “Những khẩu
pháo màu xanh” (Lê Anh Xuân), “Nòng súng xanh da trời” (Quang Huy) thì màu
xanh đã không đơn thuần là màu ngụy trang thời chiến, mà là màu của khát vọng hòa
128
bình, khẩu pháo bảo vệ sự sống tươi xanh, bảo vệ bầu trời hòa bình: “Đẹp biết bao
những khẩu pháo màu xanh / Màu của mùa xuân, màu của hòa bình” (Lê Anh Xuân).
Riêng Ngô Kha, nhà thơ sáng tác theo khuynh hướng siêu thực, màu xanh vẫn là biểu
tượng của tuổi trẻ, nhưng là tuổi trẻ đổ máu, tuổi trẻ bị cuốn vào cơn lốc chiến tranh:
“gió có về linh thiêng / như lòng ta hằng réo gọi / như tuổi đời ta chảy giọt máu
xanh” (Gió).
● Màu của niềm lạc quan, tin tưởng, tự hào
Trong thơ kháng chiến, màu hồng là sắc màu tươi sáng, thể hiện lòng lạc quan
cách mạng: “Thuyền về trời đã rạng đông / Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi”
(Hồ Chí Minh). Các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ sử dụng màu hồng cũng mang nét
nghĩa tương tự: “Nghẹn ngào bao chuyện buồn vui / Nhìn nhau đã thấy ngày mai rực
hồng (Về Bến Tre - Lê Anh Xuân), “Ngày mai thức giấc trời hồng” (Ru con - Trần
Quang Long). Và nó được cảm nhận với nhiều sắc độ khác nhau: “hồng”, “hồng
tươi”, “hồng đào”, “hồng hồng”, “rực hồng”,… Nét chung của các thơ trẻ là đều lấy
màu hồng làm biểu tượng cho niềm tin yêu cuộc đời, ấm nồng sự sống: “Hạnh phúc
nhen theo mỗi bếp lửa hồng” (Chiều - Vũ Quần Phương) “Khi nỗi chết còn in trên
dòng máu / thì bài thơ thế hệ vẫn hồng tươi” (Hoa cô độc - Ngô Kha); màu của tuổi
xuân khát khao giao cảm: Ta lớn lên bối rối một sắc hồng / Phượng cứ nở hoài hoài
như đếm tuổi” (Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm).
Màu hồng còn mang nghĩa biểu tượng về lòng tự hào của tuổi trẻ đối với đất
nước và thế hệ mình. Thơ trẻ thời chống Mỹ là thơ nhập cuộc, nhập cuộc có mục đích,
có lí tưởng rõ ràng. Nhà thơ tự hào, tự tin vào hướng đi của mình: “Trước sau vẫn một
màu hồng / Một lần ta đã nhốm cùng nước non” (Thay áo - Phạm Tiến Duật); “Ánh
lửa hồng lên, chiếu ngời thực tại / Rằng Tự Do là của con người” (Ta đi tới - Trần
Quang Long). Màu hồng cũng thường được sử dụng để chỉ sự mạnh mẽ, khỏe khoắn,
tin tưởng: “Chân vững bước qua muôn nghìn đêm tối / Có trái tim hồng nghĩa nặng
tình sâu” (Hôn mảnh đất quê hương - Thu Bồn); khi kết hợp với màu xanh nó sẽ ngời
lên sức sống dâng tràn, đầy hứa hẹn: “Ôi miền Nam có em đi trước / Như lửa hồng
trên ngọn cỏ màu xanh / Và màu xanh trên lửa hồng em hỡi / Là trời xanh én gọi chim
về (Em đi trước - Lê Anh Xuân). Xung quanh nghĩa biểu tượng này, nhiều tổ hợp màu
129
hồng được xác lập: “mùi tóc hồng” (Nguyễn Khoa Điềm), “trái tim hồng” (Thu
Bồn), “buổi trưa hồng” (Quang Huy), “máu hồng” (Chim Trắng), “ấm hồng trong
hơi thở” (Hoàng Phủ Ngọc Tường), “hồng tuổi thơ” (Xuân Quỳnh), “nước mắt hồng”
(Trần Quang Long), “mùi tóc hồng” (Ngô Kha),... Đó là dấu ấn sáng tạo đáng ghi
nhận của các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ.
Bên cạnh màu hồng, màu vàng cũng thuộc về màu tươi sáng, lộng lẫy. Trong
thơ cổ, màu vàng được coi là màu quý phái, sang trọng, màu của quyền uy thế lực.
Trong thơ trẻ thời chống Mỹ, màu vàng vẫn là màu tươi sáng nhưng không phân biệt
đẳng cấp như quan niệm trước đây. Màu vàng gợi sự tươi vui, rộn rã, hào hứng:
“Chiều Ba Tri vàng mơ / Trăng nhô lên sáng rực” (Nhìn về An Đức - Lê Anh Xuân),
“Vàng mơ nắng sớm đỏ hoàng hôn” (Vườn thơm - Chim Trắng). “Vàng mơ” là cách
nói của người dân Nam Bộ. Đó là sắc màu tươi tắn, óng ả nhưng không chói chang,
không choáng ngợp. Còn trong thơ trẻ miền Bắc, màu vàng thường gắn với mô típ ra
đi, sắc độ thường là “vàng rực”, “vàng hoe”: “Cả cánh đồng vàng rực buổi chiều đi”
(Bằng Việt); “Chiều ấy các anh đi / Nắng vàng hoe gốc rạ” (Gửi tới các anh - Lưu
Quang Vũ). Buổi chiều trong thơ trẻ thời chống Mỹ thường đẹp và sáng. Ấy là những
buổi chiều “vàng mơ”, “vàng rực”, “vàng hoe”, khác buổi chiều u buồn, biệt ly trong
thơ lãng mạn: “Bóng chiều không thắm không vàng vọt / Sao đầy hoàng hôn trong
mắt trong” (Tống biệt hành - Thâm Tâm).
● Màu của lí tưởng, lòng thủy chung và phẩm chất cao đẹp
Như một “quy ước” hiển nhiên, màu đỏ được coi là màu của lý tưởng, màu của
đấu tranh cách mạng. Thơ ca cách mạng thường được gọi là “thơ ca đỏ”. Trong thơ trẻ
thời chống Mỹ, màu đỏ xuất hiện với tần số khá cao, chỉ đứng sau màu xanh. Màu đỏ
cũng được cảm nhận với nhiều sắc độ: “đỏ”, “đỏ bừng”, “đỏ rực”, “đỏ thắm”, “đỏ như
son”,“đỏ tươi”, “đỏ chát”, “chói đỏ”,… Có thể nói, chưa bao giờ màu đỏ lại trở thành
biểu tượng nghệ thuật sinh động, ấn tượng như trong thơ trẻ thời chống Mỹ. Những
bài thơ mang sắc đỏ một thời như Cuộc chia li màu đỏ - Nguyễn Mỹ, Thời hoa đỏ -
Thanh Tùng, Màu hoa đỏ - Nguyễn Đức Mậu, đã đi qua gần nửa thế kỉ mà vẫn không
nguôi ám ảnh. Tất cả đều là sắc đỏ, biểu tượng cho lí tưởng giải phóng dân tộc,
đậm chất trữ tình và bi tráng.
130
Trước hết phải nói đến Cuộc chia li màu đỏ, một sáng tác nổi tiếng của nhà thơ
Nguyễn Mỹ. Bài thơ như dấu son đầu tiên về sự cách tân màu sắc nghệ thuật trong
nền thơ chống Mỹ. Một cuộc chia li lứa đôi thắm sắc màu lí tưởng, cái riêng hòa nhập
cái chung, tô điểm cho cái chung: “Đó là cuộc chia li chói ngời sắc đỏ / Tươi như
cánh nhạn lai hồng”. Xưa nay trong thơ ca, mô típ chia li thường buồn, chia li thời
chiến lại càng buồn. Bài thơ cũng thấp thoáng nỗi buồn nhưng là nỗi buồn đan xen
nhiều tâm trạng khác nhau. Gam màu đỏ hòa trộn với gam màu xanh, màu trắng, biểu
đạt sự đa điệu trong tâm hồn lứa đôi trước thời khắc xa nhau: “Vườn cây xanh và
chiếc nón trắng kia / Không giấu nổi tâm hồn cô rực cháy / Không che được nước mắt
cố đã chảy”. Kì thực, nhà thơ đã đề cập đến hạnh phúc riêng tư trong chiến tranh, nó
vừa gợi lên cái bi của thân phận, lại vừa mang sắc màu cao cả của thời đại. Và tác giả
đã thuyết phục về mối quan hệ riêng - chung: “Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa
nhau”. Chính màu đỏ, biểu tượng của lí tưởng đã tạo ra sự mơ hồ giữa chia li và
không chia li: “Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi / Như không hề có cuộc chia li”. Câu kết
thúc như một mệnh đề sâu sắc, ý vị.
Nếu Cuộc chia li màu đỏ làm nên đỉnh thơ Nguyễn Mỹ thì Thời hoa đỏ là sáng
tác khẳng định tên tuổi Thanh Tùng. Bài thơ mang sắc đỏ đặc sắc của thơ ca thời
chống Mỹ, tích đọng kỉ niệm yêu đương trong những năm tháng đất nước chiến tranh:
“Dưới màu hoa như màu đỏ khát khao / Anh nắm tay em bước vào đường vắng”. Màu
đỏ ở đây không đơn thuần là sắc màu của một loài hoa đặc trưng nơi đất cảng Hải
Phòng (quê hương nhà thơ), mà nó là biểu tượng của một thời tuổi trẻ, một thời cả dân
tộc đỏ lửa chiến tranh, rất hào hùng nhưng cũng không ít tang thương mất mát; và
cũng là cái thời tuổi trẻ không yên, tình yêu không trọn vẹn. Thời hoa đỏ có sự giao
thoa hài hòa giữa thơ và nhạc, sắc đỏ thấm sâu trong từng con chữ, lan tỏa vào tâm
thức người đọc: “Mỗi mùa hoa đỏ về / Hoa như mửa rơi rơi / Cánh mỏng manh tan
tác đỏ tươi / Như máu ứa một thời trai trẻ”. Bài thơ ngân lên âm điệu réo rắt của một
thời bi hùng, một thời náo nức, đắm say của tuổi trẻ.
Màu đỏ còn là biểu tượng về sự bất tử của hi sinh; hi sinh cho lí tưởng giải
phóng dân tộc. Màu hoa đỏ của Nguyễn Đức Mậu là bài thơ tiếp cận theo hướng này.
Đây là khúc tráng ca hào sảng nhất về người lính ngã xuống trong cuộc chiến tranh vệ
131
quốc vĩ đại. Chính sắc đỏ đã tạo nền cho khúc tráng ca ấy vút lên: “Ngọn núi nơi anh
ngã xuống / Rực cháy lên màu hoa đỏ phía rừng xa / Rực cháy lên màu hoa đỏ phía
hoàng hôn”. Đối với thơ trẻ sáng tác ở chiến trường, màu đỏ thường biểu thị tính căng
thẳng, khốc liệt: “Đất mở ra mạch đỏ tựa máu người / Địa đạo sâu - tình yêu dữ dội /
Người kiên trung bám trụ chẳng rời” (Củ Chi mùa khô 1973 - Thái Thăng Long), và
khẳng định phẩm chất cao quý của hi sinh: “Máu đỏ không ồn ào / máu lặng lẽ ướt
đầy ngực áo” (Thử nghĩ về hạnh phúc - Thanh Thảo).
Để thể hiện lòng thủy chung, son sắt với cách mạng, khắc họa phẩm chất cao
đẹp của tuổi trẻ đấu tranh, nhiều nhà thơ chọn màu trắng làm biểu tượng nghệ thuật.
Đó là Lê Anh Xuân ngợi ca vẻ đẹp tinh khiết, thánh thiện của Nguyễn Văn Trỗi trên
đường ra pháp trường: “Anh đi chân đất đầu trần / Mặt mùa xuân, áo thiên thần trắng
tươi” (Trường ca Nguyễn Văn Trỗi). Hay nữ sinh Nguyễn Thị Châu kí thác phẩm chất
của mình vào bài thơ Áo trắng viết trong nhà tù: “Áo trắng em chưa vướng bụi đời /
Chưa từng mơ tưởng chuyện xa xôi / Nhưng nay gặp cảnh đời chua xót / Áo trắng này
nguyện trắng mãi thôi”. Với Nguyễn Khoa Điềm, áo trắng là biểu tượng của tuổi trẻ
học đường hòa vào dòng thác đấu tranh: “Với cả trái tim đầy / Ta ra trận bằng màu áo
trắng / Lựu đạn cay không xóa được sắc màu” (Mặt đường khát vọng). Về cuối cuộc
chiến, màu trắng xuất hiện trong thơ trẻ mang hàm nghĩa tang thương (như Vòng
trắng của Phạm Tiến Duật), nhưng không phổ biến.
Không ngẫu nhiên mà trong thơ trẻ thời chống Mỹ lại xuất hiện đa dạng các
màu sắc và được cảm nhận với nhiều cung bậc khác nhau như thế. Đó là màu sắc
mang nghĩa biểu tượng, nằm trong dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Qua màu sắc có thể
khẳng định, thơ trẻ thời chống Mỹ là dòng thơ của sự sống, sức sống, tình yêu và
khát vọng hòa bình; dòng thơ đau thương nhưng tỏa sáng niềm tin và chói ngời
phẩm chất cao đẹp. Như vậy, biểu tượng nghệ thuật là phương thức thể hiện cảm
hứng rất hiệu quả. Nhận xét “công dụng” của nó, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiếu
viết: “Nhìn chung, biểu tượng có giá trị làm tăng khả năng biểu đạt của tác phẩm
nghệ thuật, có thể nói được những điều mà ngôn ngữ không đủ sức diễn tả” [108,
tr.127].
132
● Tiểu kết
- Theo V. Belinski: “Công việc đầu tiên, nhiệm vụ đầu tiên của người phê bình
là phải giải đoán cảm hứng chủ đạo của tác phẩm” [44, tr.209]. Căn cứ khuynh
hướng tư tưởng, tình cảm trong sáng tác của thế hệ thơ trẻ thời chống Mỹ; đặt vào bối
cảnh lịch sử cụ thể nảy sinh một hiện tượng nghệ thuật đặc thù; chúng tôi “giải đoán”
cảm hứng nghệ thuật của dòng thơ này qua bốn dạng thức của nó. Và dĩ nhiên, giữa
các dạng thức đã có sự gắn bó, đan cài, thâm nhập vào nhau.
- Do hoàn cảnh chiến tranh nên thơ phải ưu tiên cho nhiệm vụ đánh giặc, cổ vũ
chiến đấu. Đó là tiền đề khiến cảm hứng lãng mạn - sử thi giữ vai trò chủ đạo, chi
phối toàn bộ thơ ca thời chống Mỹ (bao gồm thơ trẻ). Tuy nhiên, thơ là tiếng lòng, là
thế giới nội cảm, nhà thơ không thể bị “quốc hữu hóa” tất cả mọi ngóc ngách của trái
tim, mọi sắc điệu của tâm hồn. Hơn nữa, cảm hứng lãng mạn - sử thi áp đảo nhưng
không duy nhất, xung quanh nó vẫn xuất hiện một số dạng thức cảm hứng khác; có
dạng thức gần như biến thể gần của cảm hứng lãng mạn - sử thi, lưu dấu đậm nét chân
dung một thế hệ (cảm hứng dấn thân - nhập cuộc, cảm hứng bi tráng); có dạng thức
tồn tại như những phụ lưu, những mạch ngầm tuy không bùng phát nhưng vẫn âm ỉ
“chưng cất” thành thơ (cảm hứng đời tư, thế sự). Những sáng tác theo dạng thức cảm
hứng này, nếu thời bấy giờ chưa được công khai (hay hạn chế công khai), thì nhiều
chục năm sau, khi chiến tranh lùi xa, nó đã được lưu hành rộng rãi (như sáng tác của
Lưu Quang Vũ, Lý Phương Liên, Lê Huy Quang, Lê Xuân Đố,... chẳng hạn). Bởi thế,
theo chúng tôi, bước sang thế kỉ XXI mà vẫn khẳng định thơ trẻ thời chống Mỹ không
có cảm hứng đời tư, thế sự là chưa thỏa đáng, thậm chí khó thuyết phục. Ấy là chưa
nói đến, mọi sự vật hiện tượng đều có hai mặt, để tồn tại, nó phải tự cân bằng. Cảm
hứng lãng mạn - sử thi khiến thơ chống Mỹ giàu âm hưởng lạc quan - hào sảng, nhưng
cũng dễ làm lu mờ những góc khuất của cuộc đời, những nỗi buồn nhân thế; dễ làm
“nhạt” những mất mát, tổn thất khôn xiết của dân tộc do chiến tranh. Tuy nhiên “cái
thiếu” của dạng thức cảm hứng này thì đã có ở dạng thức cảm hứng khác; để nhìn toàn
cục, thơ chống Mỹ vẫn tái hiện khá chân thực và sinh động về đất nước và con người
Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử lẫm liệt, hào hùng, đầy bi thương nhưng không
133
bi lụy. Với góc nhìn của người trong cuộc, trực diện ở những nơi xung yếu nhất, sáng
tác của các nhà thơ trẻ đã góp vào chống Mỹ sự cân bằng cần thiết.
- Cảm hứng nghệ thuật được biểu đạt bằng nhiều phương thức, trong đó có xây
dựng biểu tượng. Mỗi thời đại thường nảy sinh khuynh hướng xây dựng biểu tượng
riêng, phù hợp với cảm hứng chủ đạo của thời đại đó. Nếu biểu tượng trong Thơ mới
thiên về những cái riêng tư, cô đơn thì biểu tượng trong thơ trẻ thời chống Mỹ lại
thiên về cái cao cả, hào hùng. Xác lập được hệ thống biểu tượng từ những hình ảnh và
màu sắc đặc trưng, đủ “sức tải” các dạng thức cảm hứng, nhất là cảm hứng lãng mạn -
sử thi, thơ trẻ thời chống Mỹ đã góp vào lịch sử thơ ca dân tộc dấu ấn sáng tạo rất
đáng ghi nhận.
Gắn kết với cảm hứng là giọng điệu; nghiên cứu cảm hứng không thể tách rời
giọng điệu. Thơ trẻ thời chống Mỹ là dòng thơ thống nhất trong đa dạng về cảm hứng
và giọng điệu. Khảo sát vấn đề này càng có cơ sở để khẳng định: Đó là dòng thơ đỉnh
cao, được sáng tạo bởi một thế hệ nhà thơ ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm của người
cầm bút trước vận mệnh đất nước, dấn thân cứu nước:
Thơ không phải những dây bìm trang trí
kéo nhòe đi những rễ cây tứa nhựa
bão động rừng sao thơ chỉ rung rinh ?
(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Chúng tôi sẽ phân tích kĩ giọng điệu thơ trẻ Viêt Nam thời kháng chiến chống
Mỹ trong chương 3 sau đây.
134
CHƯƠNG 3
GIỌNG ĐIỆU THƠ TRẺ VIỆT NAM THỜI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
3.1. Giọng điệu và giọng điệu nghệ thuật
3.1.1. Giọng điệu trong đời sống
Trong đời sống con người, ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp vừa là công
cụ của nhận thức tư duy. Về bản thể, ngôn ngữ (tiếng Pháp: langue) thuộc tín hiệu đặc
biệt, cấu trúc theo hệ thống đa cấp độ. Khi tham gia giao tiếp, nó tồn tại ở dạng nói và
dạng viết; tức ngôn ngữ được hiện thực hóa, cá thể hóa (khái niệm parole: ngôn từ,
diễn ngôn). Tuy nhiên, dù tồn tại ở dạng nào (nói hay viết), thì ngoài việc truyền đạt,
lưu trữ thông tin, nó còn mang theo giọng điệu. Nói giọng điệu trong đời sống là nói
giọng điệu được thể hiện qua diễn ngôn hàng ngày, ngoài nghệ thuật (quen gọi là
“giọng”). Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) giải nghĩa “giọng” như sau: 1- Độ
cao thấp, mạnh yếu của lời nói, tiếng hát; 2- Cách phát âm của một địa phương; 3-
Cách diễn đạt bằng ngôn ngữ, biểu thị một thái độ, tình cảm nhất định; 4- Gam đã xác
định âm chủ [194, tr.424].
Theo nét nghĩa thứ nhất, “giọng” là sản phẩm của bộ phận cấu âm, có âm sắc,
trường độ, cao độ,… Do bộ phận cấu âm của mỗi người, mỗi giới có sự khác nhau,
nên giọng nói không ai giống ai, giọng nam khác giọng nữ. Ngoài ra, giọng còn chịu
ảnh hưởng của phát âm địa phương (thổ âm). Như vậy, về mặt sinh học, “giọng” là vỏ
âm thanh (vật chất) của ngôn ngữ, là “cái biểu đạt” chuyển tải “cái được biểu đạt”
(nghĩa). Tuy nhiên, khác âm thanh ngoài ngôn ngữ (“vượn hót, chim kêu”…), “giọng”
của con người là tín hiệu đặc biệt, giàu tiềm năng tạo nghĩa, nhất là nghĩa biểu thái.
Về phương diện này, “giọng” như hiện tượng “siêu nghĩa”, chỉ nảy sinh trong giao
tiếp ngôn ngữ. Chính ở đây người ta thường nói đến “giọng điệu”. Các nhà biên soạn
Từ điển tiếng Việt định nghĩa giọng điệu là: “giọng nói, lối nói biểu thị một thái độ
nhất định” [194, tr.424]. Kì thực, đó là nét nghĩa thứ ba của “giọng” (theo từ điển
trên). Có lẽ đó cũng là cơ sở giải thích tại sao trong giao tiếp hàng ngày, giọng điệu
thường được hiểu là giọng.
135
Thứ nữa, xét cấu tạo từ tiếng Việt (dạng tĩnh), “giọng điệu” là từ ghép đẳng
lập bao gồm hai thành tố “giọng” và “điệu”. Theo Nguyễn Đăng Điệp, “Nếu giọng
chủ yếu biểu thị mặt âm thanh “khí lực” của người nói thì điệu chủ yếu biểu thị
đường nét, màu sắc của giọng” [30, tr.34]. Mặt khác, do hai thành tố “giọng” và
“điệu” đều tự thân có nghĩa nên khi hành chức (dạng động), chúng rất dễ được tách ra
với tư cách là hai từ đơn trong một tổ hợp lớn hơn; chẳng hạn: “Đem giọng ca điệu
nhạc đến với công chúng”. Và cũng có thể chỉ biểu nghĩa ở thành tố “giọng”, còn
thành tố “điệu” có tác dụng đệm thêm (tương tự hiện tượng “iếc” hóa trong “cơm
kiếc”, “lúa liếc”, uống iếc ...”). Chẳng hạn: “Anh ta nói với giọng điệu khôi hài, nghe
là nhận ra ngay” → được hiểu là “giọng”. Với tiếng Việt, từ ghép đẳng lập trong giao
tiếp thường chỉ biểu nghĩa ở một thành tố như thế. Tương tự, trong các tổ hợp: “tóc tai
gọn gàng” → biểu nghĩa “tóc”, “ăn mặc chỉnh tề” → biểu nghĩa “mặc”, “đi đứng cẩn
thận” → biểu nghĩa “đi”..., “giọng điệu rõ ràng” → biểu nghĩa “giọng” (“Bao giờ nói
với con, anh Hoàng cũng có cái giọng dậm dọa buồn cười ấy” - Nam Cao). Cách hiểu
này đôi khi còn “lây lan” sang cả địa hạt nghệ thuật (chẳng hạn, người ta “thuận” nói:
“giọng văn, điệu nhạc” hơn “giọng nhạc, điệu văn”). Dẫu rằng cách hiểu và nói như
vậy là theo “lẽ thường” của ngôn ngữ thông dụng, theo thói quen giao tiếp, chưa hẳn
đã chuẩn xác về học thuật.
Cũng cần bàn thêm, trong giao tiếp hàng ngày, giọng điệu không chỉ hàm chứa
cảm xúc, thái độ... mà nó còn thể hiện qua cách nói, thói quen nói, in dấu ấn nghề
nghiệp, tuổi tác, học vấn, tầng nền văn hóa của chủ thể phát ngôn. Đặc điểm này hiện
hữu cả trong văn học. Tuy nhiên, tính bền vững của giọng điệu văn học bao giờ cũng
cao hơn giọng điệu trong đời sống; nghĩa là, nó khó bị tan biến sau phát ngôn. Về cấu
trúc, cơ chế vận hành, giọng điệu văn học phức tạp hơn nhiều so với giọng điệu hàng
ngày, bởi nó là hiện tượng thẩm mỹ, thuộc sáng tạo tinh thần không dễ có được.
3.1.2. Giọng điệu nghệ thuật
Giọng điệu nghệ thuật tồn tại trong thế giới nghệ thuật, một thế giới được đan
kết bằng chất liệu phi vật thể. Nó là một phương diện cấu thành hình thức nghệ thuật.
Văn học trước hết là nghệ thuật ngôn từ, biểu đạt bằng ngôn từ. Ở loại hình này, gắn
với cách nói là thái độ, giọng điệu của nhà văn ẩn sau các kí hiệu, các “mã” nghệ
136
thuật. Nghiên cứu giọng điệu, các nhà khoa học thường đề cập đến thuật ngữ voice
(giọng) và tone (giọng điệu). Bách khoa toàn thư Mỹ định nghĩa: “Voice là âm thanh
được sinh vật phát ra”; “tone là âm thanh được xét trong sự can thiệp của trường độ,
cường độ, âm sắc và âm lượng của nó” [11, tr.66]. Còn M. Bakhtin khi nói về giọng
điệu lại sử dụng thuật ngữ “golos” với ý nghĩa “giọng” - phát ngôn âm thanh mang
tính cảm xúc, thái độ, lập trường của chủ thể. Nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc thừa nhận:
“Đi vào phê bình văn học, tone và voice được xác định theo nhiều cách hiểu khác
nhau”; “Bởi đây là hai thuật ngữ trừu tượng của văn bản nghệ thuật nên sự phân biệt
giữa chúng là khó rành rẽ” [11, tr.66]. Chúng tôi cho rằng, trong nghiên cứu văn học,
“giọng” được hiểu là giọng điệu - một yếu tố của tác phẩm; tiếp cận giọng điệu là tiếp
cận theo hướng thi pháp học: “Giọng văn hay giọng thơ là phạm trù của thi pháp học,
nghiên cứu một trong những hình thức bộc lộ chủ quan của nhà văn trong tác phẩm”
[181, tr.152]. Giọng điệu toát ra từ lời văn nghệ thuật (cách diễn đạt, cú pháp, âm
thanh, nhịp điệu, ngắt đoạn, xuống dòng,...) nhưng không phải phép cộng giản đơn các
phương tiện ngôn ngữ. Nó bao giờ cũng thống nhất trong chỉnh thể tác phẩm, gắn với
sắc thái biểu cảm, quan niệm thẩm mỹ của nhà văn. Thực tế cho thấy giọng điệu là
yếu tố thiết yếu trong việc tạo dựng và triển khai tư tưởng nghệ thuật, xác lập phong
cách. Ở một phương diện khác, nó còn chịu áp lực của thể loại (giọng điệu trữ tình
khác giọng điệu tự sự),...
Xét theo chiều lịch đại, từ xa xưa các nhà thẩm văn, bình thơ đã đề cập và quan
tâm đến giọng điệu qua các khái niệm “hơi văn”, “văn khí”, “tình điệu”, “điệu thơ”,
“âm hưởng”,… như Tào Phi, Lưu Hiệp, Viên Mai (Trung Quốc); Phùng Khắc Khoan,
Hoàng Đức Lương, Lê Hữu Kiều (Việt Nam).
Nhận ra giọng điệu sớm như vậy nhưng nghiên cứu về nó thực sự có hệ thống
trong các công trình khoa học thì phải đến những năm đầu thế kỉ XX. Những nhà
nghiên cứu uy tín trên thế giới như M. Bakhtin, M.B. Khrapchenko, Katie Wales, X.J.
Kennedy,… đều có những nhận định xác tín về giọng điệu nghệ thuật. Ở Việt Nam, có
lẽ Trần Đình Sử là nhà nghiên cứu “tiên phong” khám phá giọng điệu từ nhãn quan thi
pháp, coi giọng điệu là phương diện cấu thành hình thức văn học. Phần lớn các công
trình nghiên cứu giọng điệu ở nước ta đều xuất hiện sau đổi mới (1986) - khi hướng
137
tiếp cận văn học được cân bằng giữa nội dung và hình thức, và do có sự mở cửa đón
nhận nhiều dòng lí thuyết phê bình đến từ phương Tây: Đỗ Đức Hiểu, Hoàng Ngọc
Hiến, Lê Ngọc Trà, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Trần Hữu Tá, Huỳnh Như
Phương, La Khắc Hòa, Phùng Quý Nhâm, Đỗ Lai Thúy, Trịnh Bá Đĩnh,… Đến
Nguyễn Đăng Điệp, vấn đề giọng điệu thơ trữ tình được ông nghiên cứu tường tận,
thấu đáo, thuyết phục. Riêng giới thuyết thuật ngữ giọng điệu, như chúng tôi nghĩ, ở
Việt Nam, khó có tài liệu nào đầy đủ và sâu sắc hơn Nguyễn Đăng Điệp trong Giọng
điệu trong thơ trữ tình (2002) - một công trình khoa học uy tín, được chọn làm tài liệu
tham khảo cần có đối với giảng viên và sinh viên chuyên ngành Ngữ văn trong các
trường đại học.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước tiếp cận giọng điệu nghệ
thuật từ nhiều góc độ: thể loại, văn bản ngôn từ, tâm lí sáng tạo của nhà văn,… Trong
đó có một số luận điểm khá tương đồng. Chẳng hạn, coi giọng điệu là một phương
diện biểu hiện quan trọng của chủ thể (thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng nhà văn):
“bất cứ cái gì khiến ta luận ra thái độ của tác giả thường được gọi là giọng điệu”
(X.J.Kenedy); “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu
thẩm mĩ của tác giả” (Trần Đình Sử); giọng điệu chịu áp lực của thể loại (M. Bakhtin,
Lê Ngọc Trà, Nguyễn Đăng Điệp…); giọng điệu là một yếu tố cơ bản của phong cách
nghệ thuật (M.B. Khrapchenko, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Đăng Mạnh…); giọng điệu
làm nên giá trị tác phẩm, sự đa dạng của giọng điệu trong văn học (Lê Ngọc Trà,
Hoàng Ngọc Hiến, Trần Hữu Tá, Phùng Quý Nhâm…);… Tóm lại, hầu hết các nhà
nghiên cứu đều khẳng định tính thiết yếu của giọng điệu trong sáng tạo thẩm mỹ, nhất
là đối với loại hình trữ tình: “Đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một
môi trường và giọng điệu nhất định, trong phạm vi của một thái độ cảm xúc nhất định
đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau của nó” [70, tr.167]. Giọng
điệu trữ tình luôn có sự tương hợp nội tại giữa ý thức có tính độc lập và sự lựa chọn
phù hợp loại hình của chủ thể. Bởi thơ trữ tình được coi như một “bản tự thuật tâm
trạng”, những lát cắt của dòng cảm xúc mãnh liệt, tiếng nói biểu hiện của cái tôi
nghiêng về độc thoại, vang lên “giọng đơn” (chữ của M. Bakhtin).
138
Xung quanh những vấn đề về giọng điệu, liên quan đến đề tài Luận án, chúng
tôi đặc biệt chú ý đến một số khía cạnh mà các nhà nghiên cứu đã khảo sát, đồng thời
tham gia một số ý sau đây:
- Thứ nhất, về khái niệm, giọng điệu nghệ thuật được hiểu là: “Thái độ, tình
cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể
hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách
cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm… Giọng
điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả”
[38, tr.134]. Theo tinh thần định nghĩa này, giọng điệu (xét về cấu trúc) là một tổ hợp
thống nhất (không phải phép cộng giản đơn giữa “giọng” và “điệu”). Nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Điệp nói rõ: “Sự kết kết hợp giữa hai yếu tố này không phải là sự kết
hợp mang tính “cộng sinh” mà là sự kết hợp để mang một nội dung khác, hoàn
chỉnh” [30, tr.34]. Tiếp đến, giọng điệu thuộc chủ thể sáng tạo thẩm mỹ. Với loại hình
trữ tình (tập trung vào thơ) thì đó là giọng của nhà thơ, của chủ thể trữ tình, bộc lộ
trong thế giới nghệ thuật. M. Bakhtin quả quyết:“Mỗi từ ngữ phải thể hiện trực tiếp
và trực diện ý đồ của nhà thơ; không thể có một khoảng cách nào giữa nhà thơ và lời
của anh ta” [6, tr.110]. Tuy nhiên, không ai hiểu đến thế là hết nghĩa. Giọng điệu thể
hiện thái độ, tình cảm, lập trường của chủ thể và bao giờ cũng gắn với cảm hứng và
kiểu sáng tác. Vấn đề này được M. Bakhtin giải quyết thấu đáo trong các công trình
nghiên cứu về tiểu thuyết. Ông nêu vấn đề “loại hình hoá giọng điệu, đặt giọng điệu
trong bối cảnh văn hoá” [137, tr.8]. Theo đó, nghiên cứu giọng điệu có xu hướng mở
rộng chứ không dừng lại ở một nhà văn cụ thể.
Là một biểu hiện trong nghệ thuật phi vật thể (văn chương, âm nhạc), thuộc
hiện tượng xã hội - thẩm mỹ, sự hình thành giọng điệu của nhà văn tất phải chịu sự tác
động, chi phối của không gian văn hóa (gia đình, quê hương, nhà trường, tập quán
vùng miền...), và sự chi phối của thời đại (trong thơ có âm hưởng thời đại, có sắc điệu,
dấu ấn một thời kì lịch sử): “Mỗi thời đại nhìn chung có một giọng điệu riêng, thể
hiện cách thức chiếm lĩnh hiện thực và lí giải hiện thực riêng. Gắn với điều này là
quan niệm nghệ thuật của thời ấy” [30, tr.104 -105]. Còn vai trò của nó trong sáng tạo
văn chương, nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà cắt nghĩa rõ ràng, thuyết phục: “Giọng vừa
139
liên kết các yếu tố hình thức khác nhau, làm cho chúng cùng mang một âm hưởng nào
đó, cùng có chung một khuynh hướng nhất định, vừa là chỗ dựa chính để các yếu tố
của tác phẩm quy tụ lại và định hình, thống nhất với nhau theo một kiểu nào đó, trong
chỉnh thể giọng ấy, mỗi yếu tố hiện ra rõ hơn, đầy chất thơ hơn, thậm chí có khi mới
mẻ hơn” [181, tr.152].
- Thứ hai, về quan hệ giữa cảm hứng và giọng điệu, để ý, chúng tôi thấy, từ xa
xưa, Tào Phi (187 - 226) đã nhận biết rất sớm. Đặc biệt, ông vừa nêu lên mối quan hệ
giữa cảm hứng và giọng điệu, vừa khẳng định tính bền vững của giọng điệu. Trong
Điển luận có đoạn: “Khí là khí của người tạo ra văn, còn thể thì thường dùng để nói
về tác phẩm văn học. Những câu thơ được sáng tạo trong các xung động của cảm
hứng sáng tác qua hàng trăm năm cái giọng (NBL nhấn mạnh) của người nói” [78,
tr.73-74]. Ở thế kỉ hai mươi, M.B. Khrapchenko là một trong trong những nhà nghiên
cứu “có cái nhìn đầy đủ và xác đáng về vấn đề giọng điệu trong tác phẩm văn học”
[30, tr.18]. Theo ông, giọng điệu gắn với cảm hứng chủ đạo, giọng điệu góp phần tăng
hay giảm hiệu suất cảm xúc của tác phẩm: “Hiệu suất cảm xúc của lối kể chuyện, của
hành động kịch, của lời lẽ trữ tình trước hết thể hiện ở giọng điệu chủ yếu vốn là đặc
trưng của tác phẩm văn học với tư cách là một chỉnh thể thống nhất” [70, tr.167].
Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức cũng có cái nhìn tương tự, điểm khác là ông chú trọng
đến cái tôi trữ tình, cho cái tôi trữ tình tạo nên các chất giọng khác nhau: “Từ cảm
hứng đến giọng điệu thi ca, nhà thơ luôn cần phải hiển diện. Chính cái khác nhau của
những cái tôi trữ tình góp phần quyết định tạo nên những tiếng nói thơ ca khác nhau”
[33, tr.74-75]. Đến nhà nghiên cứu Trần Đình Sử: “Giọng điệu tác phẩm phụ thuộc
vào cảm hứng chủ đạo và các dạng cảm hứng như cao cả, bi kịch, hài kịch, lãng mạn,
cảm thương…” [139, tr.356]. Còn nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến trong bài “Giọng
điệu trong văn chương” thì cho rằng: “Cảm hứng nào, giọng điệu ấy nhưng có thể
ngược lại, giọng điệu định hướng sự hình thành cảm hứng” [49, tr.163].
Những ý kiến trên khai mở, gợi cho chúng tôi tiếp cận vấn đề. Thực chất đây là
mối quan hệ nội dung và hình thức, tư tưởng và nghệ thuật, giữa chúng xuyên thấm,
gắn kết với nhau như hai mặt của tờ giấy. Là thành tố cấu thành hình thức tác phẩm,
giọng điệu chủ đạo luôn thống nhất với cảm hứng chủ đạo, cảm hứng chủ đạo thay đổi
140
tất giọng điệu thay đổi. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, khi giọng điệu như “thiên
phú”, “thiên bẩm” làm nên cái “tạng” đặc thù của nhà văn, thì sự thay đổi đối với họ
là cả vấn đề không đơn giản. Hoặc họ vẫn bảo lưu giọng điệu nhưng điều chỉnh sao
cho “hợp thời hợp thế”. Chẳng hạn Nguyễn Tuân; với ông, trước sau vẫn là giọng tài
hoa, tài tử, đậm chất khinh bạc (Nguyễn Đăng Mạnh khái quát trong chữ “ngông”).
Có điều, trước cách mạng “ngông” là “ngông” với xã hội, thách thức chế độ (Chữ
người tử tù); sau cách mạng thì chuyển sang “ngông” với thiên nhiên, thách thức sông
cuồng thác dữ (Người lái đò trên sông Đà). Hoặc họ có thể sa sút bút lực, thậm chí
“gác bút” nếu phải thay đổi giọng điệu. Chẳng hạn, giọng hài hước, mỉa mai đạt đến
mức tinh xảo, độc đáo trong văn Nguyễn Công Hoan, thơ Tú Mỡ đã không thể phát
huy trong văn học cách mạng - một nền văn học mà âm hưởng chủ đạo của nó là phải
hào sảng, lạc quan, đầy dũng khí. Rõ rằng, đối với giọng điệu đặc trưng, làm nên “hồn
cốt” của nhà văn, tính bền vững của nó rất cao.
Và cũng cần biện giải rõ hơn; nói “cảm hứng nào giọng điệu ấy” (Hoàng Ngọc
Hiến) là nói ở bình diện cảm hứng chủ đạo và giọng điệu chủ đạo (hay giọng điệu
chính), chứ không phải “cảm hứng” và “giọng điệu” của mọi cấp độ. Thực tế sáng tác
của nhà văn và đời sống văn học cho thấy tính đa dạng và phức tạp của nó: hầu như
không có nhà văn nào chỉ “chuyên tâm” một dạng thức cảm hứng, ứng với một kiểu
giọng điệu duy nhất trong sáng tác của mình; phổ biến là, bên cạnh giọng điệu chính
còn có những giọng điệu khác nữa. Nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà viết: “Giọng tác
phẩm thường bao gồm giọng chính và những giọng khác. Giọng chính tạo thành âm
hưởng chung, bảo đảm cho tác phẩm có tính thống nhất. Các giọng khác có thể chia
làm hai loại: a) những giọng phụ họa hoặc tương phản với giọng chính để làm nổi bật
nó; b) những giọng không liên quan gì đến giọng chính nằm tản mát khắp nơi trong
tác phẩm” [181, tr.152]. Rộng hơn, trong một thời đại thơ ca (chẳng hạn thơ ca thời
chống Mỹ), hiện tượng phổ biến là, các dạng thức cảm hứng thường đan xen, thâm
nhập vào nhau, dẫn đến giọng điệu cũng có sự “pha trộn” nhau, thống nhất trong đa
dạng, bên cạnh giọng điệu chính còn có nhiều giọng điệu khác. Nhà nghiên cứu
Huỳnh Như Phương khẳng định: “Khi cảm hứng đan cài với nhau, thì giọng điệu tác
141
phẩm cũng có thể pha lẫn với nhau (NBL nhấn mạnh); nhưng giọng điệu chủ đạo
thường thống nhất với cảm hứng chủ đạo” [44, tr.210].
Tóm lại, từ một dạng thức cảm hứng vẫn có thể nảy sinh nhiều kiểu giọng điệu
(dĩ nhiên “giọng điệu chủ đạo thường thống nhất với cảm hứng chủ đạo” - Huỳnh
Như Phương). Điều đó lí giải vì sao cảm hứng trữ tình đời tư trong thơ Xuân Diệu
trước Cách mạng tháng Tám lại có hai kiểu giọng điệu trái ngược: một giọng sôi nổi,
tha thiết, đắm say “Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm / Ta muốn ôm / Cả sự sống
mới bắt đầu mơn mởn...” (Vội vàng); và một giọng chán nản, hoài nghi, cô đơn:
“chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề” (Nguyệt cầm). Hay trong thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên,
Huy Cận, Tế Hanh,... thời chống Mỹ, bên cạnh giọng hào sảng - lạc quan (giọng
chính) ứng với cảm hứng lãng mạn - sử thi (chủ đạo) còn có giọng triết lí suy tưởng,
giọng trữ tình thống thiết,...
- Từ cơ sở lí luận trên, coi giọng điệu tự nó là một hệ thống bao gồm nhiều yếu
tố; dựa vào tiêu chí “cùng mang một âm hưởng, chung một khuynh hướng” (Lê Ngọc
Trà), chúng tôi nghiên cứu giọng điệu thơ trẻ thời chống Mỹ theo từng kiểu giọng,
đồng thời không làm “nhòe lẫn” chất giọng của một số nhà thơ tiêu biểu.
3.2. Những kiểu giọng điệu trong thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống
Mỹ
Thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ lấy cảm hứng lãng mạn - sử thi
làm chủ đạo. Nó là sản phẩm tất yếu của thời đại cả nước ra trận. Ứng với khuynh
hướng cảm hứng này là giọng điệu lạc quan hào sảng, giàu âm hưởng hùng ca. Có thể
nói, đây là giọng chủ âm trong dàn đồng ca thơ chống Mỹ mà thơ trẻ là bộ phận hợp
thành. Tuy nhiên, trên cái giọng nền giữ vị trí trung tâm ấy, thơ thời chống Mỹ nói
chung, dòng thơ trẻ nói riêng còn xuất hiện một số kiểu giọng khác nữa; tức các sắc
thái khác nhau của nó: “Thơ ca chống Mỹ có những đóng góp đáng chú ý về phương
diện thi pháp… Các sắc thái giọng điệu thơ khá phong phú, đa dạng” [29, tr.11]. Tuy
nhiên dù đa dạng đến đâu vẫn có thể quy về một số kiểu giọng tiêu biểu.
Nhìn tổng thể, chúng tôi thấy thơ trẻ thời chống Mỹ nổi lên một số kiểu giọng
sau đây:
142
3.2.1. Giọng hào sảng, lạc quan
Hào sảng, lạc quan là âm hưởng chủ đạo, bao quát toàn bộ nền thơ ca cách
mạng. Có thể nói, ở mức này mức khác, hầu hết các sáng tác trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ đều là những tráng ca về sức sống vĩ đại của dân tộc.
Tâm thế các nhà thơ là tâm thế những ca sĩ cất lên những giai điệu hào hùng, hướng
về xứ sở quê hương: “Thơ ta ơi hãy cất cao tiếng hát / Ca ngợi trăm lần Tổ quốc
chúng ta” (Tố Hữu). Để ngợi ca đất nước một cách say sưa, bản thân nhà thơ tự cảm
thấy phải nâng mình ngang tầm thời đại “Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy”
(Chế Lan Viên). Chất giọng hào sảng vang lên ngay ở sự lựa chọn tiêu đề thi phẩm.
Chỉ riêng dòng thơ trẻ, từ những tập Hoa dọc chiến hào (Xuân Quỳnh), Đất ngoại ô
(Nguyễn Khoa Điềm), Vầng trăng và quầng lửa (Phạm Tiến Duật), Gió từ cánh rừng
(Thái Giang), Áo trận (Nguyễn Đức Mậu), Người ra trận (Nguyễn Đức Mậu - Vương
Trọng), Âm vang chiến hào (Hữu Thỉnh - Lâm Huy Nhuận), Mảnh đất nuôi ta thành
dũng sĩ (Dương Hương Ly), Tên em rực rỡ vô cùng (Chim Trắng),… đến những bài
Dáng đứng Việt Nam, (Lê Anh Xuân), Sư đoàn (Phạm Ngọc Cảnh), Chúng con đi
chiến đấu cho Người sống mãi, Việt Nam ơi (Nam Hà), Đêm Trường Sơn nhớ Bác (Đỗ
Trung Thu), Bài ca Trường Sơn (Gia Dũng), Khúc hát người anh hùng (Trần Đăng
Khoa), Thưa mẹ trái tim, Lớn lên không ngừng (Trần Quang Long), Tiếng gọi thanh
niên (Thái Ngọc San), Ta lớn lên (Hữu Đạo),… các nhà thơ như đều muốn vươn tới
không gian bao quát, cao rộng để ngợi ca vẻ đẹp hào hùng, tầm vóc lớn lao của Tổ
quốc và con người Việt Nam bằng cái nhìn chiêm ngưỡng say mê, bằng chiều kích
hoành tráng.
Giọng hào sảng lạc quan trong thơ trẻ thời chống Mỹ vừa có sự dội vào của
âm hưởng thời đại, vừa là sự tiếp nối và chịu ảnh hưởng từ giọng điệu của các nhà thơ
lớp trước. Khởi đầu là âm hưởng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc vào cuối thập niên 50, đầu thập niên 60, thời mà trên thi đàn vút lên những Trên
miền Bắc mùa xuân, Bài ca mùa xuân 1961 (Tố Hữu), Đôi mắt xanh non, Ngói mới
(Xuân Diệu), Tiếng hát con tàu, Vàng của lòng tin (Chế Lan Viên), Đoàn thuyền đánh
cá, Đất nở hoa (Huy Cận),… Trong thực tế, có thể nói, nửa cuối thập niên 50, đất
nước ta đã xảy ra những sự kiện kinh hoàng, đầy đau thương. Đó là chủ trương “tố
143
cộng”, “diệt cộng” của chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam và cuộc cải cách
ruộng đất ở miền Bắc. Sai lầm cải cách ruộng đất kịp thời chỉnh sửa, biểu tượng Liên
Xô, Trung Quốc lúc bấy giờ đang đỉnh cao, hấp lực rất lớn, miền Bắc rạo rực khí thế
xây dựng chủ nghĩa xã hội để đổi đời theo mô hình làm ăn tập thể. Sự thực, mức sống
của người dân từng bước được cải thiện, xã hội khá ổn định, tạo tâm lí phấn khởi, tự
hào. Về văn học nghệ thuật, sau vụ Nhân văn giai phẩm, thơ ca miền Bắc càng vút
cao giọng hào sảng, lạc quan, tập trung ngợi ca cuộc sống mới, chế độ mới: “Đời rực
rỡ phù sa ta kiến thiết / Những phố phường da thịt ửng hồng lên” (Vàng của lòng tin -
Chế Lan Viên); “Muốn trùm hạnh phúc dưới trời xanh / Có lẽ lòng tôi cũng hóa thành
ngói mới” (Xuân Diệu), v.v...
Sáng tác của các nhà thơ trẻ miền Bắc, dĩ nhiên, không chệnh ra ngoài âm
hưởng chủ đạo này. Ngay từ khi mới có thơ trên thi đàn, Bùi Minh Quốc đã hào hứng
Lên miền Tây (tên bài thơ): “Ôi, miền Tây, ở dưới xuôi sao nghe nói ngại ngùng / Mà
lúc ra đi, lửa trong lòng vẫn cháy”; Ca Lê Hiến da diết Nhớ mưa quê hương nhưng
không lấn qua giọng tươi tắn, lạc quan trong Đêm Uông Bí: “Đêm Uông bí buổi đầu
anh đến / Nhà máy vừa xây lớp lớp sáng bừng / Ơi có phải anh ngỡ ngàng ánh điện /
Hay vì đâu mà mắt bỗng rưng rưng”; thơ Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt,
Vũ Quần Phương,… đều phơi phới niềm vui, đắm say, tin tưởng: “Thôn Chu Hưng
trăng sao rơi đầy giếng.../ Cọ xanh rờn lấp loáng nước sông Thao” (Thôn Chu Hưng
- Lưu Quang Vũ). Với Thái Giang, hào sảng, lạc quan gần như là giọng điệu duy nhất.
Nhà thơ ngợi ca rất nhiệt thành, hồn nhiên, vô tư: “Đời ta đó ngực cài hoa đỏ / Yêu
Trung Hoa yêu cả Việt Nam” (Gió từ phương Bắc). Về sau, khi âm hưởng hào sảng,
lạc quan hạ bớt độ cao, thêm vào đó là kiểu giọng lắng dịu, nghiệm suy thì tác giả hai
lần “thủ khoa”, tuy vẫn tiếp tục sáng tác nhưng không mấy thành công, tên tuổi ông
cũng mờ dần, ít ai nhắc đến.
Đối với thơ trẻ vùng giải phóng và thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền
Nam, ở chặng đầu (khi chiến tranh chưa lan ra cả nước), hầu như không có giọng ngợi
ca chủ nghĩa xã hội như thơ trẻ miền Bắc. Trong những năm tháng đen tối, trước sự
đàn áp đẫm máu của chính quyền Sài Gòn, âm hưởng chính trong thơ họ là hào sảng
khí thế đấu tranh, ngợi ca những tấm lòng kiên trung với đất nước, ngợi ca quê hương
144
xứ sở. Ấy là Đi giữa mùa xuân, Tên em rực rỡ vô cùng của Chim Trắng, Bài ca chim
chơ rao của Thu Bồn, Hãy để tôi yêu quê hương tôi, Thực tại và ước mơ của Trần
Quang Long,…
Giọng hào sảng lạc quan được đẩy đến đỉnh điểm, thực sự trở thành “hồn cốt”
của thời thơ sử thi thì phải kể từ khi đế quốc Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam, đánh
phá ác liệt miền Bắc, thách thức nền độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam
(1965). Cũng từ đây, thơ trẻ với tư cách là hiện tượng nghệ thuật nổi bật, ngày càng tỏ
ra già dặn, dồi dào tính chiến đấu. Giọng hào sảng, lạc quan trong thơ họ hòa vào âm
hưởng chung của cả thời thơ ra trận. Nhìn chung, kiểu giọng này thường tìm đến âm
vực cao, bè cao kết hợp với nhịp điệu nhanh, mạnh, gấp gáp, tràn đầy nhiệt
hứng: “Này đây / Doi đất Cửu Long xanh / Sư đoàn châu thổ / Giữa bãi sú, rừng
tràm / Vụt đứng dậy sư đoàn Nam Bộ / Sư đoàn Tây Nguyên / Từ hầm chông, bẫy đá,
cung tên” (Sư đoàn - Phạm Ngọc Cảnh).
Vẫn là sự dội vào của khí thế đánh giặc ngất trời đang lan tỏa khắp mọi miền
Tổ quốc và sự tác động mạnh từ chất giọng của các nhà thơ lớp trước, thơ trẻ nổi đậm
âm hưởng hào hùng, rạo rực tinh thần dấn thân - nhập cuộc. Có thể nói, đây là giọng
áp đảo trong thơ trẻ, ngay từ khi cả nước trực diện chống Mỹ. Nhiều nhà thơ thuộc
“tốp đầu”, bước sang chặng này đã có sự “tăng cấp” chất giọng hào sảng trong sáng
tác của mình. Chẳng hạn, Phạm Ngọc Cảnh vốn chắc, khỏe, dũng mãnh đến Vũ Ngàn
Chi (bút danh Phạm Ngọc Cảnh kể từ khi vào miền Nam chiến đấu) càng sục sôi khí
thế tiến công: “xốc đội hình truy kích / Quảng Trị chào bình Long / chào Nam Bộ diệt
địch / sóng đẩy chín thân rồng / chào Tây Nguyên chiến công / Gạt mây trời Tân
Cảnh” (Quảng Trị). Bùi Minh Quốc hào hứng, sôi nổi trong Lên miền Tây đến Dương
Hương Ly dõng dạc những lời thơ đánh giặc (Đất quê ta mênh mông, Mảnh đất nuôi
ta thành dũng sĩ, Cầm súng, Mẹ chẳng thế nào nhớ nổi con đâu…); phơi phới niềm
tin yêu cuộc đời (Bài thơ tình yêu, Giấc ngủ của nàng tiên dũng sĩ, Vì mùa xuân). Ca
Lê Hiến phấn khởi, lạc quan, xen tiếng thơ đau đáu nhớ quê hương trong Tiếng gà
gáy, đến một Lê Anh Xuân hào khí, ngân vang giọng điệu tin tưởng, tự hào (Chào Hà
Nội chào Thăng Long, Việt Nam ! Ôi Việt Nam, Mùa xuân Sài Gòn mùa xuân chiến
thắng, Dáng đứng Việt Nam).
145
Có một sự thực ở Việt Nam hồi ấy khiến thế giới phải ngạc nhiên và ngưỡng
vọng, đó là đã hiện hữu một dân tộc vừa đánh giặc vừa làm thơ đúng nghĩa. Khi đế
quốc Mỹ điên cuồng leo thang chiến tranh thì thơ ca ở đây không những không “tắt
tiếng” mà ngược lại, chất giọng của nó lại càng hào sảng, lạc quan hơn. Nữ nhà thơ
Blaga Đimôtrôva cảm nhận: “Không biết trong những cuộc chiến tranh trước đây,
mặt đất, bầu trời, không gian và biển cả có chao đảo ngã nghiêng như Việt Nam đang
bị phủ đầy những chùm bom từ pháo đài bay B-52 hay chăng? Chỉ biết ở đây, tiếng
thơ vẫn ngân lên không tắt” [82, tr.150].
Chất giọng hào sảng, lạc quan khiến những nhà thơ trẻ thích tìm đến những
gam màu sáng, những âm thanh mạnh, những biểu tượng kỳ vĩ:
Trường Sơn - Đèo vút cao vượt lên mây gió
Đạp nát đá tai bèo bằng sức pháo ngàn cân
Đi ta, ta đi - Những trai làng Phù Đổng
Gì đẹp hơn đường ra trận mùa xuân
(Bài ca Trường Sơn - Gia Dũng)
Đồng thời cũng cần thấy rằng, thơ trẻ, nhất là vào chặng cuối cuộc chiến, khi
họ đã nhập sâu vào chiến trận, đã ý thức được chân dung một thế hệ nhà thơ cầm
súng, tự xác định cho mình dấu ấn riêng; thì giọng thơ họ, nhìn chung dễ phân biệt với
giọng của những nhà thơ lớp trước. Ấy là khi Thanh Thảo “tuyên ngôn”: “Những
tráng ca thuở trước / Còn hát trong sách thôi / Những thanh gươm yên ngựa / Giờ đã
cũ mèm rồi / Bài ca của chúng tôi / Là bài ca ống cóng” (Bài ca ống cóng); là Hữu
Thỉnh tự tin: “muốn tươi mát hãy là dòng suối / hát về rừng đừng bắt chước tiếng
chim” (Trước mặt là Tổ quốc). Cũng giọng hào sảng, lạc quan nhưng thơ trẻ dường
như đã giảm bớt âm vực cao vút của sắc thái sử thi để trở nên sát thực, trầm lắng và
thấm thía hơn. Thơ họ, nhìn chung ít sử dụng cung bậc cao để kêu gọi, giục giã như
giọng của các nhà thơ lớp trước. Tố Hữu: “Hãy gầm lên như sấm sét đùng đùng / Tất
cả pháo ! / Và xông lên dũng sĩ !” (Bài ca xuân 68). Chế Lan Viên: “Việt Nam ! Việt
Nam ! / Tên Tổ quốc đã thành ra tiếng hát / Là lệnh truyền là lịch thét xung phong”
(Xuân 68 gửi miền Nam Tổ quốc). Nói thơ chống Mỹ là giọng cổ vũ tuyên truyền thì
146
trước hết phải nói đến giọng điệu của những nhà thơ lớp trước. Chính Chế Lan Viên
trong bài Ai? Tôi! đã tự thừa nhận điều đó.
Thơ trẻ cũng phải làm nhiệm vụ tuyên truyền, cổ vũ theo định hướng “văn
hóa văn nghệ cũng là mặt trận”. Nhưng họ có cách biểu đạt của họ, nhất là những nhà
thơ trực diện cầm súng trên chiến trường, từng ngày từng giờ phải đối mặt với bom
đạn, chết chóc: “người chiến đấu hiểu máu mình hơn hết / ngôn ngữ mới vụt lên từ
ngột ngạt hầm sâu / trước sức nóng những vết thương của đất...” (Gửi con, năm con
chưa ra đời - Thanh Thảo). Giọng hào sảng, lạc quan trong thơ trẻ xuất phát từ
hiện thực mà họ trải nghiệm, ít khi phải khuyếch đại, khoa trương; cũng không
cần “huy động” đến lực lượng siêu nhiên để tăng thêm nhuệ khí. Chẳng hạn, cùng
ngợi ca chiến sĩ giải phóng quân, với Chế Lan Viên là “thần chiến thắng”, với Tố Hữu
là “Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi”... âm hưởng ngất trời, đằng đằng dũng khí; với
họ, giải phóng quân chỉ có tiến công, chỉ có chiến thắng “Một dây ná, một cây chông
cũng tiến công giặc Mỹ”. Trong khi, với Lê Anh Xuân, trước lời bình là sự tái hiện
người lính xông trận bằng bút pháp tạo hình tả thực; giải phóng quân là con người
bằng xương bằng thịt, chiến đấu và hi sinh, trong tay là vũ khí hiện đại chống kẻ thù
hiện đại chứ không đánh giặc chỉ bằng ý chí, lấy tinh thần thắng vật chất: “Anh ngã
xuống đường băng Tân Sơn Nhứt / Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực
thăng / Và anh chết trong khi đang đứng bắn / Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
(Dáng đứng Việt Nam).
Cái hào sảng trong thơ trẻ thiên về tái hiện sự dữ dội của chiến tranh; cái hào
sảng trong sáng tác của nhà thơ lớp trước thiên về khái quát, nâng tầm cuộc chiến. Rõ
ràng giữa hai thế hệ đã có sự bổ sung cho nhau. Hữu Thỉnh hào sảng, dũng mãnh ở bài
Trên chiếc xe tăng và nhiều sáng tác khác; hầu hết đều không tưởng tượng ra để viết,
không xem người khác đánh giặc để ghi chép mà chủ yếu là mô tả hiện thực, bộc lộ
những gì bản thân trải nghiệm. Giọng thơ ở đây vui nhộn, sảng khoái, đầy âm vang
mà không cần “gầm lên”, gào thét: “Năm anh em trên một chiếc xe tăng / Như năm
bông hoa nở cùng một cội / Như năm ngón tay trên một bàn tay / Đã ra trận cả năm
người như một...”. Hay, ngợi ca Tổ quốc, Tố Hữu: “Ôi Tổ quốc giang sơn hùng vĩ /
Đất anh hùng của thế kỉ hai mươi” (Miền Nam); Chế Lan Viên “Ôi Tổ quốc ta yêu
147
như máu thịt… Ôi Tổ quốc nếu ta cần chết…” (Sao chiến thắng); Xuân Diệu: “Tình
yêu Tổ quốc là đỉnh núi, bờ sông / Những lúc tột cùng là dòng huyết chảy (Hai đợt
sóng),… tất cả đều giọng cao, dồi dào khẩu khí. Đến Bằng Việt, Nguyễn Khoa Điềm,
Thanh Thảo,… giọng thơ giảm âm hưởng réo rắt mà vẫn ấm nồng tình yêu Tổ quốc,
vẫn tự ý thức bổn phận của mình và thế hệ mình với đất nước, non sông: “Đất nước
gian lao hơn / Mọi điều tôi đã nghĩ / Đất nước sâu xa hơn / Mọi điều tôi đã kể”
(Những câu thơ trên đường - Bằng Việt); “đất nước đẹp mênh mang / đất nước thấm
tự nhiên đến tận cùng máu thịt / chỉ riêng cho Người chúng tôi dám chết !” (Một
người lính nói về thế hệ mình - Thanh Thảo).
Giọng hào sảng gắn với niềm lạc quan tin tưởng. Niềm lạc quan trong thơ trẻ
chính là sự hồn nhiên, lãng mạn, cụ thể, sát thực của người lính nơi chiến trường:
“Đuổi giặc xong chầm vập lấy nhau / Hương trong ngực ngạt ngào tình bạn / Cười
vằng vặc, mặt còn khói sạm / Đã bước sang năm mười chín / Tóc xuân ơi ! (Trên điểm
cao mùa xuân - Hữu Thỉnh). Ấy là niềm lạc quan xuất phát từ nhận thức sâu sắc của
người lính cầm súng chiến đấu cho lí tưởng giải phóng dân tộc. Mẫu đề “ngày mai”,
“mai sau” được sử dụng khá phổ biến trong thơ trẻ, gợi niềm tin vào tương lai chiến
thắng: “Ngày mai. Ngày mai hoàn toàn chiến thắng / Anh dắt tay em, trời chi chít sao
giăng” (Lửa đèn - Phạm Tiến Duật), “Ngày mai sẽ là ngày sum họp / Đã tỏa sáng
những tâm hồn cao đẹp” (Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ), “Tôi nghe từ lửa đỏ
hôm nay / Đang trỗi dậy những ngày mai ca hát” (Bản giao hưởng một ngày đang tới
- Hoàng Phủ Ngọc Tường),… Lạc quan tin tưởng còn biểu hiện ở khát vọng tự do,
thơ trẻ thời chống Mỹ nói nhiều đến tự do trong tương lai: “Mai sau con lớn làm
người tự do” (Khúc hát ru những em bé lớn lên trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm);
“Chúng ta về làm cơn mưa tự do” (Đêm chuẩn bị - Hữu Thỉnh); “hé trời hồng bác ái
tự do” (Hãy để tôi yêu quê hương tôi - Trần Quang Long). Điều này hoàn toàn đối lập
với giọng thơ trẻ của “phía bên kia”. Chẳng hạn, Nguyễn Bắc Sơn bi quan, bế tắc:
“Các bạn cũ những thằng nào vô phước / Mồ đang xanh vì cuộc chiến hôm qua / Hãy
về đây mà say khướt cùng ta / Này bóng mây cao này vòm lá thấp” (Chiến tranh và
tôi); Lê Vương Linh thất vọng, chán chường: “Súng vai, gió núi, hương rừng / Nửa
khuya gục mặt rưng rưng mà buồn” (Giao thừa ai đốt trầm hương). Còn Tô Thùy
148
Yên thì hoài nghi đến mù quáng: “Hỡi gã Cộng quân sốt rét, đói / Xích lời nguyền
sinh Bắc, tử Nam /... / Ngươi cùng ta ai thật sự hi sinh / Cho Tổ quốc Việt Nam - một
Tổ quốc / Các việc ngươi làm, ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm / Các việc ta làm / Ta
xét thấy chẳng ra chi” (Chiều trên phá Tam Giang).
Ở mảng thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền Nam, từ giữa thập niên 60
(khi Mỹ trực tiếp tham chiến) đến đầu thập niên 70 đã có sự bùng nổ khá rộng trong
tầng lớp học sinh sinh viên (nổi bật nhất là những sáng tác được tập hợp trong tập
Tiếng hát của những người đi tới - 1967). Thơ họ tràn đầy âm hưởng hùng ca,
thúc dục, vẫy gọi tuổi trẻ vùng lên tranh đấu. Có nhiều bài thơ như lời hiệu lệnh,
truyền nhiệt hứng đến những người cùng thế hệ trong những đêm không ngủ, náo
nhiệt khí thế lên đường, cứu nguy dân tộc:
- Anh em ơi ! Tiến tới ! Tiến nhanh
Chân bước rộn đường hoa khởi nghĩa
Thanh niên ơi kiên gan bền vững
Tiếp nối nhau đi hát khúc lên đường
(Tiếng gọi thanh niên - Thái Ngọc San)
- Tổ quốc ơi. Hãy thắp đời tôi thành đốm lửa
(Hi vọng bên cõi chết - Tần Hoài Dạ Vũ)
- Hỡi những người vai rộng tóc xanh
Đời như hoa thắm nở trên cành
Tầm vông chuyển động mùa sông núi
Giục lớp người đi phá xích xiềng
(Ta đã lớn lên - Hữu đạo)
Điểm gặp của giọng hào sảng, lạc quan là lời thơ chắc, khỏe, chứa chan nhuệ
khí. Bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ hiện lên trong từng con chữ, từng nhịp thơ; chủ thể
thường tìm đến các hô ngữ, thán từ như “ơi”, “hỡi”, “hãy”,… vang lên âm hưởng
hùng ca. Ở đây, lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và sự tự ý thức về bổn
phận của người cầm bút trước vận mệnh sống còn của Tổ quốc đã thôi thúc nhà thơ
cất lên thành lời. Về phương diện này, thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền Nam
hòa chung vào nền thơ chống Mỹ của cả nước. Điều đó càng khẳng định rằng, trong
149
bối cảnh đất nước chiến tranh, thơ ca chân chính, bất kể có cùng ý thức hệ hay không,
đều không thể đứng ngoài thời cuộc, càng không thể né tránh trách nhiệm với non
sông. Trước thách thức, đe dọa của ngoại xâm, thơ ca trên hết phải là vũ khí: “Con sẽ
vót nhọn thơ thành chông / Xuyên vào gan lũ giặc…/ Trả thù cho cha, rửa hờn cho
nước / Cho con ngẩng đầu nhìn thẳng tương lai” (Thưa mẹ trái tim - Trần Quang
Long).
Giọng điệu hào sảng lạc quan có xu hướng mở rộng cảm xúc trữ tình đến
những vấn đề lịch sử. Âm hưởng hùng ca được cất lên từ chiều sâu ý nghĩa của cuộc
kháng chiến chống Mỹ để khắc họa thế đứng vững chãi của dân tộc: “Việt Nam ! Ôi
Việt Nam! / Cả hai miền đang xốc tới / Lưng dựa vào lịch sử bốn ngàn năm / Không
có kẻ thù nào thắng nổi” (Việt Nam ! Ôi Việt Nam - Lê Anh Xuân). Và chính tuổi trẻ
tự nguyện dấn thân, kết nối truyền thống cha ông, viết tiếp lịch sử, góp phần làm nên
lịch sử. Trong lòng đô thị miền Nam, trước khi ra vùng giải phóng và hi sinh (1968),
Trần Quang Long là nhà thơ thể hiện rất rõ tâm niệm này: “Trái tim con là Con Người
/ Viết lịch sử mình trên mặt đất / Bằng từng nét chữ thắm tươi” (Thưa mẹ trái tim).
Chúng tôi cho rằng, Trần Quang Long là hiện tượng đặc biệt. Chưa thấy tài liệu chính
thức nào công bố ông là người của cách mạng hoạt động trong lòng đô thị, nhưng thơ
ông lại rất gần thơ kháng chiến cả về cảm hứng và giọng điệu. Tính chiến đấu trong
thơ Trần Quang Long nổi đậm, chất giọng hào sảng, dập dồn nhiệt huyết cứu nước
(trong khi bản thân là viên chức hành nghề dạy học, được “Quốc gia” trả lương cao,
lại kết duyên với con một gia đình “danh gia vọng tộc” giữa trung tâm Sài Gòn).
Trong nhiều bài thơ của Trần Quang Long, âm hưởng không chỉ rạo rực nhuệ khí dấn
thân mà còn rắn rỏi, quyết liệt, rất “thép”: “Nếu thơ con bất lực / Con xin nguyện trọn
đời / Dùng chính quả tim làm trái phá / Sống chết một lần thôi” (Thưa mẹ trái tim).
Về thể loại, bên cạnh những bài thơ trữ tình là các trường ca. Trường ca thuộc
sáng tác dài hơi, có sự tổng hợp nhiều giọng điệu. Nhưng nổi lên hàng đầu vẫn là
giọng hào sảng lạc quan. Từ Lửa sáng rừng (Thái Giang), Bài ca chim chơ rao (Thu
Bồn), Trường ca Nguyễn Văn Trỗi (Lê Anh Xuân) đến Mặt đường khát vọng (Nguyễn
Khoa Điềm), Khúc hát người anh hùng (Trần Đăng Khoa),... đều gặp nhau ở âm
hưởng chủ đạo này. Tuy nhiên, về thể thơ, ngôn từ, thủ pháp nghệ thuật thì mỗi nhà
150
thơ đều có sáng tạo riêng. Có thể nói, những biến cố lịch sử lớn lao của dân tộc và
thời đại được tái hiện “hoàng tráng” hơn trong thơ trẻ thời chống Mỹ một phần cũng
nhờ giọng điệu hào sảng, lạc quan ấy.
Bên cạnh giọng hào sảng lạc quan làm chủ âm, thơ trẻ thời chống Mỹ còn hiện
hữu một số kiểu giọng khác, khá phổ biến.
3.2.2. Giọng trữ tình, thống thiết
Giọng hào sảng lạc quan không làm tan biến âm hưởng trữ tình thống thiết, mà
giữa chúng luôn bổ sung cho nhau, đan xen, phối kết với nhau. Nếu giọng hào sảng
lạc quan như sản phẩm của tư duy sử thi, thổi bùng nhiệt hứng, thì giọng trữ tình
thống thiết lại được sản sinh từ bản chất loại hình và thế giới nội cảm của nhà thơ, làm
“lục hóa” tâm hồn nhà thơ, tạo khí sắc dịu êm, đi vào chiều sâu hướng nội. Thơ thời
chống Mỹ (bao gồm dòng thơ trẻ) là tiếng nói tình cảm của một dân tộc đứng ở đỉnh
cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chất trữ tình hoà quyện tự nhiên, nhuần nhụy
với chất anh hùng ca: “Chất trữ tình và anh hùng vẫn là hai thành phần, hai phẩm
chất, hai giọng điệu quen thuộc của thơ ca yêu nước truyền thống. Nhưng trong thơ
ca chống Mỹ, những phẩm chất trên được thể hiện một cách phong phú và nhất quán
hơn” [3, tr.173].
Giọng trữ tình thống thiết trước hết được xuất phát từ tâm trạng “rưng rưng”
của nhà thơ trước cảnh vật và con người Việt Nam trong những năm tháng gian khổ,
đầy đau thương nhưng cũng rất hào hùng, vang dội. Một Việt Nam lẫm liệt trên trận
tuyến chống ngoại xâm được cất lên bằng giọng tráng ca, ngân vang bên cạnh một
Việt Nam trầm tĩnh, bao dung thường được ví như người mẹ nhân hậu, vị tha; giọng
thơ trở về dịu êm, đằm thắm, chan chứa ân tình: “Mẹ Việt Nam ơi ! / Đêm nay con về
gối đầu trên cánh tay của Mẹ / Ôi cánh tay rắn rỏi dịu hiền / Lấm láp bùn lầy nhưng
ấm áp niềm tin” (Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm). Tình yêu quê hương
đất nước là tình cảm mang sắc thái sử thi nhưng khi đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm đã
được trữ tình hóa bằng tiếng nói vừa truyền thống vừa hiện đại, vừa hào sảng vừa ngọt
ngào. Khi thì nhà thơ nói với người yêu bằng giọng tâm tình tha thiết: “Em ơi em Đất
Nước là máu xương của mình / Phải biết gắn bó và san sẻ / Phải biết hóa thân cho
dáng hình xứ sở / Làm nên đất nước muôn đời” (Mặt đường khát vọng); khi thì nói
151
bằng giọng trìu mến, ngọt ngào qua lời ru của mẹ: “Ngủ ngoan Akay ơi, ngủ ngoan
Akay hỡi / Mẹ thương Akay mẹ thương bộ đội / Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần /
Mai sau khôn lớn vung chày lún sân” (Khúc hát ru những em bé lớn lên trên lưng
mẹ).
Và có cả cái trĩu nặng ân tình, thẳm sâu ân nghĩa đối với một đất nước lam lũ
mà yêu thương, tần tảo nhọc nhằn mà thủy chung son sắt. Giọng thơ Trần Vàng Sao
dung dị, hồn hậu, dễ làm xao xuyến lòng người: “Tôi yêu đất nước này rau cháo / Bốn
ngàn năm cuốc bẫm đào sâu / Áo đứt nút qua cầu gió bay... / Tôi yêu đất nước này
lầm than / Mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển / ăn rau rìu rau có rau trai /
nuôi lớn người từ ngày mở đất” (Bài thơ của người yêu nước mình).
Nguyễn Duy góp vào thơ trẻ thời chống Mỹ một giọng thơ rất riêng, đậm đà,
nhuần nhụy màu sắc dân gian. Đất nước trong thơ ông gắn với cảnh vật bình dị, gần
gũi trong cuộc sống đời thường, biểu trưng cho vẻ đẹp tâm hồn và cốt cách Việt Nam.
Ấy là “những cọng rơm xơ xác gây gò”, là cây tre “thân gầy guộc lá mỏng manh”, là
gốc sim “hiền như sắc tím”,... Những sự vật ngỡ như vô tri vô giác nhưng khi vào thơ
Nguyễn Duy lại trở nên sinh động, lay cảm nhờ biệt tài quan sát và trí tưởng tượng
phong phú của ông. Hầu hết đều được nhà thơ biểu đạt bằng giọng trữ tình nhẹ nhàng,
tha thiết: “Tre xanh / Xanh tự bao giờ ? / Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh / Thân
gầy guộc lá mảnh manh / Mà sao nên lũy nên thành tre ơi ?” (Tre Việt Nam).
Chất giọng trữ tình nhiều khi được đẩy đến mức thống thiết. Đó là những bài
thơ viết về nỗi đau đất nước chia cắt trong hơn thập niên đầu của cuộc kháng chiến.
Địa danh Quảng Trị với sông Bến Hải, cầu Hiền Lương thực sự trở thành tiêu điểm
của nỗi đau này: “Đau Quảng Trị là nỗi đau đất nước / Xé lòng ta đấy hỡi Hiền
Lương / Mười mấy năm trời không một chuyến đò ngang” (Khúc khải hoàn của đất
đai - Anh Ngọc). Ở đây có nỗi đau đất nước chia cắt và có nỗi buồn đôi lứa chia li. Nó
không phải không gian huyền thoại như con đường Trường Sơn mà là không gian trữ
tình da diết: “Cách một con sông mà đó thương đây nhớ / Chung một nhịp cầu mà
duyên nợ cách xa” (Khuyết danh). Nếu trong sáng tác của các nhà thơ lớp trước, Tế
Hanh là người kí thác nỗi niềm day dứt, ám ảnh nhất về sông Bến Hải, biển Cửa Tùng
- biểu tượng đất nước cắt chia: “Tôi chảy ngày đêm không nghỉ / Hai bờ Nam Bắc
152
nhìn đau / Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị / Tận chân trời mây núi có chia
đâu” (Nói chuyện với Hiền Lương); thì trong thơ trẻ thời chống Mỹ phải nói đến Cảnh
Trà. Theo chúng tôi, thơ Cảnh Trà thành công hơn cả vẫn ở giọng nhớ nhung thống
thiết: “Bờ Nam ơi ! Nhức nhói mấy năm ròng / Dân đôi bờ như cau nhớ trầu không /
Như mạ nhớ trưa, như cờ nhớ gió / Mười mấy năm mà bên ni bên nớ / Bến đò ngang
chưa ấm dấu chân người (Người dân quân đất tuyến).
Đất nước bị phân đôi, nỗi đau chung của dân tộc đồng thời cũng là nỗi đau của
từng con người, nhất là với những ai sống trong cảnh “ngày Bắc đêm Nam”, gia đình
đôi ngả. Trong cái chung có cái riêng, trong nghĩa nước có tình nhà, nỗi đau riêng hoà
với nỗi đau chung của dân tộc. Nói cách khác, nỗi đau dân tộc được hiện thực hoá
trong nỗi đau của mỗi người, mỗi lứa đôi cụ thể. Kí thác tâm trạng này, có lẽ xúc
động, da diết nhất vẫn là những nhà thơ quê Nam. Họ đã đem vào đó một phần cái tôi
riêng của mình với những kỉ niệm tuổi thơ, nỗi nhớ người thân đang bên kia giới
tuyến:
Quê hương ơi,
Mấy năm trời xa cách
Đêm nay ta nằm nghe mưa rơi
Nghe tiếng trời gầm xa lắc...
Cớ sao làng lại xót đau ?
Ta muốn về quê nội
Ta muốn trở lại tuổi thơ
Ta muốn nằm trên mảnh đất ông cha
Nghe mưa đập cành tre, nghe mưa rơi tàu lá...
(Nhớ mưa quê hương - Ca Lê Hiến)
Thật khó biểu đạt được tình cảm thiết tha đến thống thiết hơn thế. Cũng cần nói
thêm, thơ Ca Lê Hiến khởi nguyên là giọng nhỏ nhẹ, tươi tắn, tin yêu cuộc đời. Đồng
thời, trong tập Tiếng gà gáy còn có giọng đau đáu, thổn thức nhớ quê hương. Thơ Ca
Lê Hiến tăng thêm chất giọng hào sảng kể từ khi trở về quê hương chiến đấu (1964 -
bút danh Lê Anh Xuân). Nhưng nhìn chung, sắc diện nổi bật lưu lại trong thơ ông vẫn
là giọng trong trẻo, thiết tha, nồng hậu và chân tình: “Em ơi ! Sao tóc em thơm vậy /
153
Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng / Ta yêu em giọng cười trong trẻo / Ngọt ngào như
nước dừa xiêm ” (Trở về quê nội ); hay: “Em về đâu mà em chèo nước ngược / Trời
lại mưa to, áo em đã ướt / Sao không chờ nước lớn em ơi” (Anh là con sông chảy
trước nhà em).
Không chỉ thơ trẻ miền Bắc hay thơ trẻ vùng giải phóng mà ngay trong thơ trẻ
yêu nước tiến bộ vùng đô thị cũng thấm nỗi đau đất nước cắt chia; giọng thơ không
kém phần trữ tình thống thiết: “Trời quê hương hôm nay mưa sụt sùi / Mùa xuân về
che mặt đứng sầu bi / Mỗi thân thể hằn vết thương chia cắt / Mỗi linh hồn đau nhức
chuyện phân li” (Giấc ngủ xuân - Tần Hoài Dạ Vũ).
Sau nỗi đau đất nước chia cắt là những cuộc tiễn đưa. Trong kháng chiến chống
Mỹ có vô số những cuộc tiễn đưa: mẹ tiễn đưa con, vợ tiễn đưa chồng, người yêu đưa
tiễn người yêu,… Họ chúc tụng, động viên, hẹn hò và hết thảy đều lưu luyến, nhớ
nhung. Những cuộc tiễn đưa như thế không chỉ là nụ cười, câu hát mà còn có cả nỗi
buồn và nước mắt. Ở đây đã có sự khác nhau giữa các thế hệ nhà thơ khi mô tả những
cuộc tiễn đưa của một thời bi tráng. Chẳng hạn, thơ thế hệ trước: “Tiễn con lên
đường, nụ cười nghìn bà mẹ như nhau” (Chế Lan Viên); thơ trẻ: “Mẹ nén nỗi đau /
dấu tờ báo tử / sáng mai lại tiễn con nhập ngũ” (Hữu Thỉnh). Rõ ràng, cả hai đều là
thơ hiện thực, thơ cách mạng; khác chăng là khác ở điểm nhìn: một nhìn từ tầm xa -
ngoại quan, và một nhìn ở tầm gần - nội quan. Hữu Thỉnh làm thơ cốt “ghi lấy đời
mình”, cốt bộc lộ tâm trạng người lính thấu nỗi đau của mẹ (chứ chưa hẳn đã nhằm
mục đích tuyên truyền). Cho nên giọng thơ nghiêng vào chiều sâu hướng nội. Về sau
Tạ Hữu Yên tiếp nối ý thơ bằng những lời gan ruột: “Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc
thầm lặng lẽ / Các con không về lòng mẹ lặng yên...” (Đất nước).
Như vậy, đối với thơ trẻ thời chống Mỹ, viết về những cuộc tiễn đưa, nhà thơ
thường bộc lộ bằng giọng nghẹn ngào, đầy xúc cảm. Thơ họ có xu hướng mô tả tâm
trạng kẻ ở người đi hơn là cổ vũ mọi người xung phong ra trận: “Chiếc áo đỏ rực như
than lửa / Cháy không nguôi trước cảnh chia li / Vườn cây xanh và chiếc nón trắng
kia / Không dấu nổi tình yêu cô rực cháy, / Không che được nước mắt cô đã chảy”
(Cuộc chia li màu đỏ - Nguyễn Mỹ).
154
Điều dễ nhận thấy, khá phổ biến trong thơ trữ tình là mô típ chia li, hầu hết thơ
tình yêu đều phải có chia li. Nhưng chia li của lứa đôi vào thời binh lửa lại có nét đặc
thù riêng: giọng ngậm ngùi, lưu luyến quyện với không khí thiêng liêng. Thiêng liêng
bởi, người ra đi vì nghĩa lớn, sống chết khó lường, rất dễ mất nhau. Người ở lại có thể
“như chùm hoa lặng lẽ”, da diết nhớ thương: “Em nhớ anh không chỉ trong giấc ngủ /
Em nhớ anh không chỉ lúc dạo chơi / Em nhớ anh không chỉ đêm trăng tỏ / Em nhớ
anh không chỉ đêm mưa rơi” (Nhớ - Hoàng Thị Minh Khanh). Nhưng đó mới là mối
tình chớm nở, thề thốt, hẹn hò,... dẫu có nôn nao, thổn thức song vẫn đang dừng lại ở
cung bậc “nhớ”. Cao hơn, còn là nước mắt, là nỗi buồn se thắt của lứa đôi; giọng thơ
trĩu nặng yêu thương, gợi cảm giác nôn nao khó tả. Tâm trạng này, tác giả Nhật kí
Mãi mãi tuổi hai mươi nói đúng: “Chẳng dấu lòng, chẳng phải dấu lòng ta / Tôi biết
cô gái nào cũng khóc / Khi đưa tiễn người con trai thân nhất / Hoa tím chín chiều nói
hộ với lòng mình” (Màu tím hoa mua - Nguyễn Văn Thạc). Hay thơ Lưu Quang Vũ
sau Hương cây cũng xuất hiện nhiều bài viết về cảnh chia li tái tê, chứa chan lời trữ
tình thống thiết: “Anh ôm chặt thân em bé nhỏ / Biết nói gì lát nữa xa nhau rồi / Thù
hận mênh mông mặt đất bùn lầy / Em chập chờn đi trong đổ nát” (Em).
Sự thật là, đã có vô số những cuộc tiễn đưa đong đầy nước mắt. Và cũng có
những cuộc hội ngộ bất ngờ, dâng trào cảm xúc rưng rưng. Thơ Lê Thị Mây mô tả khá
ấn tượng tâm trạng người vợ gặp lại chồng sau “những mùa trăng mong chờ” vò võ ở
quê nhà. Giọng điệu bài thơ da diết, tràn ngập mà dịu nhẹ, lắng sâu: “Anh khoác ba lô
về / Đất trời dồn chật lại / Em tái nhợt niềm vui / Như trăng mọc ban ngày / Gặp nhau
trong mùa trăng / Em trẻ như bầu trời / Vòng tay anh đằm thắm / Giấu lời ru trên
môi” (Những mùa trăng mong chờ).
Lẽ thường của chiến tranh, nói như Hữu Loan “mấy người đi mà trở lại” (Màu
tím hoa sim). Cuộc tái ngộ trên đây có thể ngoài tưởng tượng của nhân vật trữ tình,
giọng thơ như nghẹn ngào, chứa chan niềm vui sướng, trào dâng nước mắt.
Trái với trạng huống này là nỗi đau tiễn biệt trong hạnh phúc lứa đôi. Nỗi đau
ấy không hề nhỏ, không dễ dàng bỏ qua. Điều đáng khâm phục ở họ chính là sức chịu
đựng và ý chí vươn lên. Họ chấp nhận mất cái riêng để được cái chung, đặt cái riêng
155
trong cái chung, thấu hiểu cuộc kháng chiến chống Mỹ là ác liệt vô cùng, tổn thất khó
tránh khỏi và không thể tính hết:
Anh mất em như mất nửa cuộc đời
Nỗi đau anh không thể nói bằng lời
Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy
Những viên đạn quân thù bắn em trong lòng anh sâu xoáy
Bên những vết đạn xưa chúng giết bao người
Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi
Như bỗng tắt vừng mặt trời hạnh phúc
(Bài thơ về hạnh phúc - Dương Hương Ly)
Bài thơ về hạnh phúc nhưng ở đây họ đã không có hạnh phúc. Dương Hương
Ly viết những câu thơ trên trong tâm trạng tột cùng đau thương khi biết tin người vợ
yêu quý vừa hi sinh, giọng thơ thống thiết, se thắt đến tận cùng gan ruột. Và đó không
chỉ nỗi đau của một người, một cá nhân mà là nỗi đau chung của muôn người, nỗi đau
của dân tộc. Đồng thời cũng cần nhận thấy rằng, tuổi trẻ ra trận không chỉ “Vui gì hơn
làm người lính đi đầu” như diễn ngôn của Tố Hữu, mà lắm khi họ còn đau đáu với
khoảng khắc riêng tư. Ấy là tương lai, là tình yêu và tổ ấm... Trong thơ trẻ thời chống
Mỹ có chất giọng khát khao, thiết tha kiếm tìm hạnh phúc ngay cả lúc cuộc chiến
đang diễn ra ác liệt: “Anh sẽ nói với em thế nào về hạnh phúc / mùi thuốc súng bay
qua số phận chúng mình” (Thử nói về hạnh phúc - Thanh Thảo). Thơ Nguyễn Đức
Mậu ám mùi khói súng, chất giọng ngân vang như điệu kèn xông trận nhưng cũng
không khỏi xao xuyến khi nghĩ về hạnh phúc riêng tư, giọng thơ như nghẹn lại: “Anh
nói gì về hạnh phúc cùng em / Ngày hôm nay có bao người ngã xuống / Ngày hôm nay
có bao tờ thiệp mời / Gõ cửa báo tin vui...” (Trận cuối cùng). Một nhà thơ trẻ khác lại
tìm cho mình định nghĩa hạnh phúc tương hợp bối cảnh chiến tranh nhưng không kém
phần thống thiết: “Cái ô trống toạc trời bom nổ / Hạnh phúc là cuộc chiến bốc đi sót
lại đời” (Đoàn Xuân Hòa).
Trong nhóm chất giọng trữ tình thống thiết có một mảng thể hiện âm hưởng bi
thương ở mức độ cao, biểu đạt nỗi đau chiến tranh mà con người Việt Nam phải chịu
đựng. Chất gọng này chủ yếu xuất hiện vào những năm đầu thập niên 70, khi cuộc
156
chiến sắp bước vào hồi kết, thắng lợi vẻ vang nhưng tổn thất cũng không hề nhỏ.
Ngay cả một số nhà thơ nổi danh với những sáng tác giàu âm hưởng hùng ca trước
đây, đến chặng cuối cũng phát ra “giọng lạ” (như Ngô Văn Phú, Phạm Tiến Duật
chẳng hạn). Còn Lưu Quang Vũ thì hoàn toàn chuyển giọng, thơ ông không mộng mơ,
dịu ngọt mùi lá bưởi lá chanh như thuở ban đầu, thay vào đó là điệu thơ thống thiết
đến chơi vơi: “Thời bạo loạn tàn lửa cháy khắp nơi / Những thây người gục ngã /
Những nhịp cầu sụp đổ / Những toa tàu rỗng không” (Những bông hoa không chết).
Đối với thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền Nam, giọng trữ tình thống
thiết nổi lên đậm nét, đa sắc thái: Có cái thống thiết buồn, cô đơn và có cả bế tắc,
tuyệt vọng; nó liên quan đến chiến tranh, thể chế chính trị, tiếp xúc văn hóa,... Chẳng
hạn, Trần Quang Long cảm thấy lạc lõng, tha hương ngay trên đất nước mình. Với
ông, tuổi trẻ đang phải sống trong cảnh loạn lạc, mọi thứ bỗng trở nên xa lạ, chua xót
và nhục:
Khi tôi mặc quần áo đẹp để ra đường
Một góc phố, một bao thuốc và một li cà phê đen
Tôi thấy như mình ngồi giữa một thế giới lạ
Và nhìn quanh chỉ tôi là Việt Nam
...
Tôi mất tôi rồi, tôi là ai đây
Là Mỹ, là Đại Hàn, là Tây Tây Lan, là Úc
Là đàn ông, là đàn bà, là trẻ con, là người lớn
Hay đúng là thằng Việt Nam nhục nhằn
đang lảo đảo say?
(Ám ảnh)
Giọng thơ đúng như tiêu đề của thi phẩm, ấy là giọng buồn thê thiết, là nỗi ám
ảnh trước họa xâm lăng của phương Tây, mà trước hết là xâm lăng văn hóa. Cái “tôi”
nhà thơ bí bức, đi tìm chính mình, sợ mất mình và “lảo đảo say”, say như một liệu
pháp tạm thời để nguôi quên nỗi nhục (khác kiểu say của Vũ Hoàng Chương thời Thơ
mới). Bối cảnh vùng đô thị miền Nam thời bấy giờ làm xuất hiện khá phổ biến giọng
thơ buồn, cô đơn, có xu hướng nổi loạn:
157
tôi chẳng phải là chim
sao biết đường bay mỏi
đôi cánh này ngông cuồng và rồ dại
gió đã đến rồi
xin một bàn tay đắp lên vết thương
sao gió không ru nỗi buồn tôi đi ngủ
bây giờ gió là đứa trẻ hoang tàn
đem cuộc đời tôi làm hát dạo
(Gió - Ngô Kha)
Chúng tôi thấy kiểu giọng trữ tình thống thiết hiển diện trong thơ trẻ thời chống
Mỹ không hề thưa vắng. Chất giọng này góp phần gia tăng tính hướng nội, đưa thơ
vào chiều sâu nhân bản, tạo thêm hấp lực cho cả nền thơ, thời thơ nảy nở trong những
năm tháng đất nước không yên, tuổi trẻ dấn thân ra trận. Tuy nhiên, đặt vào bối cảnh
bấy giờ, kiểu giọng trữ tình thống thiết, trong một số trường hợp, rất dễ bị xếp vào loại
thơ “yếu đuối ủy mị”, thậm chí còn bị phê phán gay gắt. Tư duy chiến tranh khiến
nhiều người quen nhìn đời, nhìn thơ chỉ một chiều niềm vui và chiến thắng. Khi cuộc
chiến đi qua, đương nhiên người ta phải cân bằng trở lại “Ai chưa quen rồi cũng phải
quen thôi”.
3.2.3. Giọng triết lý, suy tưởng
Thơ khởi phát từ tình cảm nhưng không duy cảm mà loại trừ lí trí, “thơ là tình
cảm và lý trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật” [82, tr.124]. Tình cảm
và lí trí trong thơ luôn gắn bó mật thiết, bổ sung cho nhau. Sự hàm súc và chiều sâu
được coi là tiêu chuẩn cần thiết đối với thơ đỉnh cao, mà điều đó chỉ có thể đạt được
bằng cách huy động sức mạnh của lí trí, thông qua suy tưởng, triết lý, tăng tính chính
luận. Hơn nữa, ở nước ta, sự gia tăng chất giọng triết lý, suy tưởng một phần còn do
xuất phát từ đòi hỏi của thời đại chống Mỹ. Thời ấy, Việt Nam trở thành tâm điểm của
phong trào cách mạng thế giới, các nhà thơ không chỉ dừng lại ở việc mô tả, ngợi ca
mà còn phải khám phá, phát hiện, bộc lộ những suy nghĩ sâu sắc của mình về con
người và cuộc sống, dân tộc và thời đại: “Một nền thơ thoát thai trong hoàn cảnh lịch
sử đặc biệt không chỉ bằng lòng với việc thể hiện cảm xúc, tình cảm của con tim, mà
158
còn hướng tới tiếng nói trí tuệ của bộ óc căng thẳng những suy tư” [79, tr.110]. Và
chính cảm hứng lãng mạn - sử thi, ngoài giọng điệu hào sảng lạc quan tất phải
nảy sinh giọng triết lí suy tưởng, có như vậy thì mới đưa thơ vào chiều sâu, nâng thơ
lên tầm khái quát. Giọng triết lý, suy tưởng đậm tính chính luận thường được thể hiện
bằng thể thơ tự do, ít gieo vần, chủ yếu là thơ điệu nói; cấu trúc câu thơ thường theo
hướng mở rộng. Nhờ tăng số lượng âm tiết trong câu thơ mà nhà thơ có khả năng diễn
tả nhiều cảm nhận, nhiều ý tưởng của mình về cuộc sống. Tuy nhiên mở rộng không
có nghĩa dài dòng, vô vị mà nó vẫn giữ được tính hàm súc của thơ, vẫn giữ cho thơ đi
bằng nhịp điệu.
Đó là xu hướng vận động chung của cả nền thơ thời chống Mỹ mà tiên phong
là những nhà thơ lớp trước. Thơ họ có vai trò khai mở, dẫn dắt dòng thơ trẻ. Trong đó,
có thể nói, tiếng gọi đàn của kiểu giọng này chính là Chế Lan Viên. Chất suy tưởng,
triết lí trong thơ chế Lan Viên bắt nguồn từ sự tinh nhạy trước những vấn đề xã hội
lớn lao. Với trí tuệ sắc sảo bẩm sinh, ông có thế mạnh trong việc đánh giá, khái quát
những vấn đề lịch sử, dân tộc, nhân dân và thời đại, về Đảng và lãnh tụ. Chẳng hạn,
xây dựng hình tượng Tổ quốc trong những năm chống Mỹ, Chế Lan Viên vừa say mê
vừa tỉnh táo để soi ngắm từ nhiều phía: Tổ quốc lẫy lừng toả sáng nhưng cũng đẫm
nước mắt đau thương; giọng thơ trầm lắng, giàu suy tưởng: “Cha ông xưa từng đấm
nát tay trước cửa cuộc đời / Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khoá / Những pho tượng chùa
Tây Phương không biết cách trả lời / Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ / Văn chiêu
hồn từng thấm giọt mưa rơi” (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?).
Không đúc kết thành những châm ngôn như Chế Lan Viên, Huy Cận triết lí
theo cách riêng của mình, ông đi từ những hình ảnh, vật thể mà khám phá ra ý nghĩa
sâu xa, những mối tương quan về thời gian và không gian (con người, tạo vật, vũ trụ).
Chẳng hạn, quan sát các vị La Hán chùa Tây Phương qua những nét chạm khắc tạo
hình về một quần thể tượng đầy khổ hạnh, nhà thơ mượn chuyện phật để nói chuyện
đời, hướng người đọc suy tưởng đến một thời cha ông ta sống trong xã hội tối tăm, vật
vã, không tìm được lối ra: “Mỗi người mỗi vẻ mặt con người / Cuồn cuộn đau thương
chảy dưới trời / Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã / Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi”
(Các vị La Hán chùa Tây Phương).
159
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình - chính trị, trước sau thơ ông vẫn là những lời tâm
tình da diết, kể cả khi ông đưa chất chính luận vào thơ. Càng về cuối cuộc kháng
chiến chống Mỹ, thơ Tố Hữu càng gia tăng chất suy tư, chiêm nghiệm nhằm nhận
thức và lý giải ở tầng sâu về dân tộc, lịch sử, con người, về cuộc chiến đấu của nhân
dân ta. Nhờ vậy, giọng thơ trở nên lắng đọng, có sức nặng bên trong: “Chúng muốn
đốt ta thành tro bụi / Ta hoá vàng nhân phẩm lương tâm / Chúng muốn ta bán mình ô
nhục / Ta làm sen thơm ngát giữa đầm” (Việt Nam máu và hoa).
Nhìn chung, các nhà thơ lớp trước với bề dày kinh nghiệm, kiến văn sâu rộng
đã rất có lợi thế để gia tăng chất giọng triết lí, suy tưởng trong sáng tác của mình. Tuy
nhiên, do không còn ở độ tuổi ra trận, phần đa lại giữ những vị trí lãnh đạo, quản lí
văn hóa văn nghệ, nên họ nhìn đời sống, nhất là đời sống chiến trường chủ yếu từ bề
trên, bề cao. Sở trường triết lí của họ là hướng tới những vấn đề thuộc tầm vĩ mô, khai
thác đời sống ở bề sâu, bề xa, bề suy tưởng; hầu hết đều xuất phát từ quan điểm lập
trường chính trị, “Nghĩ trong những điều Đảng nghĩ” (Chế Lan Viên). Nhiều tầng thức
về lịch sử, văn hóa, triết học,... đều được họ tích hợp, làm “bệ đỡ” cho cảm hứng, tạo
thế đối xứng để nhà thơ khái quát, triết luận. Nhờ vậy, giọng triết lí trong thơ họ có
sức nặng tư tưởng, hàm lượng trí tuệ cao, ảnh hưởng đến sáng tác của nhiều nhà thơ
trẻ. Theo nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh: “Nguyễn Khoa Điềm phần nào gần gũi với
Chế Lan Viên trong phương thức diễn đạt và giọng thơ... Lê Anh Xuân và Tế Hanh,
hai nhà thơ miền Nam thuộc hai thế hệ cầm bút, sống và sáng tác trong hai hoàn cảnh
khác nhau nhưng cũng có những nét gần gũi trong những bài thơ về quê hương, về
người em gái miền Nam” [195, tr.200]. Nhận xét của Vũ Tuấn Anh có cơ sở. Bởi sự
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các thế hệ nhà thơ nằm trong quy luật vận động của văn học.
Ảnh hưởng không có nghĩa là mô phỏng, bắt chước lẫn nhau để viết những bài thơ,
câu thơ giống nhau; mà là sự tiếp nhận, kế thừa theo tinh thần sáng tạo. Thế hệ nhà
thơ trẻ thời chống Mỹ rất ý thức điều đó: “muốn tươi mát hãy là dòng suối / hát về
rừng đừng bắt chước tiếng chim” (Hữu Thỉnh). Và cũng không loại trừ sự gặp gỡ
tương đồng ở những “tạng” thơ của các tác giả sống cùng thời đại.
Mặt khác, qua màng lọc thời gian cho chúng ta thấy, có thể do các nhà thơ lớp
trước rất chú trọng khái quát những vấn đề lớn, mang tầm vóc sử thi, nên giọng triết
160
luận trong thơ họ ít đề cập đến số phận đất nước, thân phận con người trong trạng
huống chiến tranh. Không ít diễn ngôn thời ấy được coi là thông minh, sắc sảo, nhưng
mấy chục năm sau lại lộ rõ tính cực đoan của nó. Chẳng hạn, Chế Lan Viên: “Cái
hầm chông là điều nhân đạo nhất” (Đế quốc Mỹ là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta);
Tố Hữu: “Việt Nam, ôi Tổ quốc thương yêu! / Trong khổ đau, Người đẹp hơn nhiều”
(Chào xuân 67); hay: “Ta đánh Mỹ, vậy thì ta tồn tại” (Cửa mở - Việt Phương),... Kì
thực, chiến tranh, dù theo hướng nào cũng là điều khổ đau và đáng sợ nhất; nói chính
xác, đó là tình thế bất khả kháng, không còn sự lựa chọn nào khác. Một đất nước hàng
chục năm đạn bom không dứt, cuốn theo nó là chết chóc, đói nghèo, đổ nát, tha
hương. Nghĩa là mặt trái, mặt bất hạnh của chiến tranh đối với thân phận của đất
nước, nhân dân thì rất ít nhà thơ lớp trước, lớp trên thời ấy triết lí. Điều này phải tìm
đến thơ trẻ, dẫu rằng thời chống Mỹ những sáng tác của họ phần nhiều chưa được
công bố, hay đã công bố nhưng bị phê phán gay gắt.
Các nhà thơ trẻ, đại diện cho cái tôi dấn thân - nhập cuộc đã chọn cho mình
một cách nói khác. Giọng triết lí của họ tuy có phần “thô nhám, trần trụi” nhưng sát
thực và chân thực trong cách cảm, cách nghĩ. Bởi đó là thứ thơ giáp trận, thơ của
những người đối mặt với hiện thực gian lao, tắm mình trong cuộc chiến khốc liệt; nói
như Hữu Thỉnh, một thứ thơ “được bảo đảm bằng máu” [173, tr.3]. Lấy thực tế chiến
tranh làm nền tảng, nhưng thơ trẻ thời chống Mỹ không dừng lại “tường thuật” thực tế
một cách giản đơn như mảng “thơ đội viên” thời chống Pháp. Trong thơ trẻ, hiện thực
chiến tranh vừa được tái hiện chân thực như nó vốn có, vừa liên tưởng, khái quát hóa,
mở ra nhiều chiều kích khác nhau. Giọng triết lí ít khi đanh thép, hùng hồn mà
thường tự nhiên, dịu nhẹ; chất suy luận không nghiêng về tư duy phân tích mà chủ
yếu được liên tưởng từ những sự vật, hiện tượng nảy sinh trong thực tế đời sống.
Chẳng hạn, từ những hình ảnh quen thuộc nơi đồng quê dân dã, từ chi tiết “Rơm vàng
bọc tôi như kén bọc tằm”, Nguyễn Duy đem đến cho người đọc những suy nghĩ sâu
sắc, bất ngờ, thú vị: “Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no / Riêng cái ấm nồng nàn như
lửa / Cái mộc mạc lên hương của lúa / Đâu dễ chia cho tất cả mọi người” (Hơi ấm ổ
rơm).
161
Đến bài Tre Việt Nam, tác giả hướng người đọc khám phá sức sống dẻo dai và
bản chất tốt đẹp của dân tộc. Đó là tinh thần chịu đựng gian khổ, ý chí vượt lên mọi
gian lao thử thách: “Rễ siêng không ngại đất nghèo / Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần
cù / Vươn mình trong gió tre đu / cây kham khổ vẫn ru lá cành”; là phẩm chất ngay
thẳng kiên cường: “Nòi tre đâu chịu mọc cong / Chưa lên đã nhọn như chông lạ
thường”; là sự đùm bọc, sẻ chia, nhường nhịn: “Bão bùng thân bọc lấy thân / Tay ôm
tay níu tre gần nhau thêm ... Lưng trần phơi nắng phơi sương / Còn manh áo cộc tre
nhường cho con”. Từ cây tre gắn với không gian làng quê đã bao đời, Nguyễn Duy
nâng lên thành hình tượng khái quát bằng chất giọng triết lí, suy tưởng, đậm sắc điệu
dân gian. Nếu Hơi ấm ổ rơm gợi về ân nghĩa quê hương vốn được gửi gắm trong ca
dao: “Ai ơi bưng bát cơm đầy / Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”, thì Tre Việt
Nam đã mở rộng thêm không gian liên tưởng, từ một loại thực vật vô tri nghĩ đến tâm
hồn cốt cách dân tộc.
Triết lí, theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), là “Quan niệm chung
của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội” [194, tr.1069]. Triết lí trong thơ
khác triết lí trong triết học ở khuynh hướng tư duy và phương thức biểu đạt. Thuộc
sản phẩm của tư duy hình tượng - cảm tính, triết lí trong thơ chỉ thuyết phục khi có sự
phối hợp hài hòa với xúc cảm thẩm mỹ, gợi trí tưởng tượng và suy tưởng sâu xa. Nhà
thơ có thể tích hợp tri thức sách vở từ nhiều tầng nền văn hóa để khái quát thành các
mệnh đề vừa mang nghĩa biểu niệm vừa nghĩa biểu thái. Và cũng có thể sử dụng
những lẽ thường, đương nhiên trong đời sống để triết lí. Thơ Nguyễn Duy và thơ của
nhiều nhà thơ trẻ khác thời chống Mỹ thường chọn cách thứ hai. Bởi thế, giọng thơ
tuy không đanh chắc nhưng vẫn có sức hấp dẫn đặc trưng của nó.
Trở về quê hương chiến đấu, Nguyễn Khoa Điềm mang đến tiếng nói mới mẻ,
nặng ưu tư, nhiều suy tưởng. Thơ ông có chất giọng trầm mặc, trữ tình của đất kinh kì
xứ Huế. Trường ca Mặt đường khát vọng là một trong những tiếng nói tiêu biểu của
tuổi trẻ đô thị miền Nam thức tỉnh và tự ý thức về trách nhiệm, bổn phận của thế hệ
mình đối với đất nước, nhân dân. Ấy là những năm tháng “tuổi trẻ không yên”, quê
hương đầy bóng giặc. Nhà thơ hóa thân vào tuổi trẻ, đối thoại với tuổi trẻ bằng những
lời tâm giao, đằm sâu trong suy nghĩ: “Hãy ngã vào tay Nhân dân, dừng vãi đừng rơi /
162
Đừng do dự, dừng hoài nghi nữa / Hãy yêu Nhân dân và nghe Người nhắn nhủ / Hãy
tìm sức mạnh mình trên cơ thể Nhân dân” (Mặt đường khát vọng). Có lúc tác giả thể
hiện trong giọng đối thoại với những thanh niên vì lầm lạc, ngộ nhận nên đã tham gia
vào “Đại hội Hippy Giao Chỉ” của “phía bên kia” (tức Đại hội nhạc trẻ ở sân Hoa Lư
- Sài Gòn, tháng 5 - 1971):
- Các anh đi về đâu hỡi người qua đường ?
- Chúng tôi đến Hoa Lư
- Chúng tôi về đại hội
- Đại hội các anh là đại hội Hippi Giao Chỉ
...
- Sao các anh đến Hoa Lư
Không đem đến mỗi người một cành lau
Để làm cờ tập trận
Như Bộ Lĩnh ngày xưa từng nuôi chí lớn
(Mặt đường khát vọng)
Nếu đem đối thoại này đặt cạnh sáng tác của Chế Lan Viên thì sẽ thấy hai cách
triết lí khác nhau: một triết lí về tiếp nối truyền thống và một triết lí về tầm vóc thời
đại vượt qua truyền thống: “Thời đại khác rồi Đinh Bộ Lĩnh ơi / Không thể đánh giặc
bằng cờ lau được nữa / Cũng không thể như cha ông cắm cọc Bạch Đằng” (Thời sự
hè 72, Bình luận). Kì thực, thời nào giặc ấy, không thể lấy nay mà đo xưa; vả lại, nay
chưa hẳn đã hơn xưa về kế sách giữ nước, nhất là một đất nước phải ở cạnh quốc gia
khổng lồ luôn mưu toan thôn tính. Thông minh, sắc sảo thích tận cùng triết lí đến cực
đoan, đó là Chế Lan Viên cả trong thơ và văn xuôi.
Nguyễn Khoa Điềm chưa vươn tới tầm Chế Lan Viên, nhưng theo Vũ Tuấn
Anh, thơ ông đã có “hơi hướng” Chế Lan Viên [195, tr.200]. Đó là chất suy tư, chiêm
nghiệm, giàu triết lí về đất nước, nhân dân. Giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm uyển
chuyển đa cung bậc, khi sôi nổi viết về những cuộc xuống đường trong Mặt đường
khát vọng, khi cô đúc sắc bén trong Nghĩ về một nhãn hiệu; lúc thì nhiều suy tưởng
trong Con chim thời gian và nhiều khi thiết tha, giàu nhạc điệu trong Khúc hát ru
những em bé lớn lên trên lưng mẹ. Bài thơ Con gà đất, cây kèn và khẩu súng mang
163
giọng điệu chiêm nghiệm, bừng tỉnh, phác họa một quá trình đi từ nhận thức đến hành
động.
Bằng Việt tạo dấu ấn bởi hồn thơ sắc sảo, tỉnh táo, nhiều liên tưởng, có phong
thái lịch lãm của một trí thức Bắc Hà. Những năm tháng du học ở Liên Xô (cũ) đã
giúp ông tiếp xúc với sáng tác của nhiều nghệ sĩ lớn trên thế giới (cả thơ và nhạc),
điều đó ít nhiều ảnh hưởng đến thơ ông. Bằng Việt có hướng mở rộng biên độ cảm
xúc để hòa nhập thế giới (Thư gửi một người bạn xa đất nước, Lời chào từ Việt Nam,
Bettoven và âm vang thế kỉ...). Giọng triết lí trong thơ ông trầm tĩnh, điềm đạm, có
chiều sâu: “Côpécníc và Niutơn đã cùng các em xuống đây / Ơcơrít và Pitago đã cùng
các em xuống đấy / Bên bãi tha ma một ngọn đèn dầu rực cháy / Bên bãi tha ma đang
bắt đầu tương lai” (Học trò Hà Tĩnh).
Phạm Tiến Duật sở hữu“một giọng điệu tinh nghịch mà sâu lắng, vừa trẻ trung
vừa dân dã” [140, tr.398]. Nhờ chất giọng này mà ông đã thành công khi đưa vào thơ
lối nói tự nhiên, giàu chất phóng sự. Nét độc đáo của Phạm Tiến Duật là chọn những
chi tiết giàu nghĩa biểu trưng để triết lí, khái quát hóa. Đó là ngọn lửa tượng trưng cho
ý chí, sức sống dân tộc Việt Nam “Mang từ nghìn năm về trước /.../ Giữ qua đời này
đời khác / Vùi trong tro, trong trấu nhà ta”; là ngọn đèn tỏa sáng như tâm hồn người
dân đánh giặc “Những ngọn đèn vẫn cứ thắp lên /... / Nơi ngày đêm giặc điên cuồng
bắn phá” (Lửa đèn).
Thơ Hữu Thỉnh mang nhiều tâm sự về cuộc đời chiến sĩ, về gian khổ hi sinh
của người lính chiến trường. Không tinh nghịch, “nói chơi” như Phạm Tiến Duật,
cũng ít mượt mà, ngân vang như Hoàng Nhuận Cầm, thơ Hữu Thỉnh ngổn ngang âm
hưởng sục sôi, bề bộn của chiến tranh: “Anh viết cho em những ý nghĩ không vần /
đường Trường Sơn khúc khuỷu / xích xe tăng quay không êm ả chút nào” (Ý nghĩ
không vần). Từ điểm nhìn hiện tại, hồn điệu đậm chất dân gian, thơ Hữu Thỉnh góp
vào dòng thơ trẻ thời chống Mỹ tiếng nói nhân hậu, sáng trong, ấm áp tình người:
“Nhạc trong rừng em hát giữa Trường Sơn / Người sốt rét hát cho người sốt rét /
Đường ngổn ngang đường đất còn cháy khét / Cây mát cho người người mát cho
nhau” (Tiếng hát trong rừng). Câu “Cây mát cho người người mát cho nhau” là cách
164
triết lí của Hữu Thỉnh. Ở đây có ứng xử với thiên nhiên và ứng xử giữa con người với
con người, không chỉ thời chiến mới đặt ra mà thời nào cũng khẩn thiết.
Thanh Thảo khi mới xuất hiện trên thi đàn đã phát lộ chất giọng trầm tư, sâu
lắng, bộc trực và hơi “ngang” (chính thơ Thanh Thảo “ngang” chứ chưa phải Phạm
Tiến Duật). Ông đến với bạn đọc khi cuộc chiến sắp bước vào hồi kết, bạn đọc đón
nhận thơ ông bởi giọng điệu “hơi ngang” mà giàu triết lí. Thử nói về hạnh phúc, Một
người lính nói về thế hệ mình là hai bài thơ chạm đến thân phận con người trong chiến
tranh. Thơ Thanh Thảo không ồn ào, bởi đó là quan niệm của ông“máu đỏ thật không
ồn ào / máu lặng lẽ ướt đầm ngực áo” (Thử nói về hạnh phúc). Trong khi nhiều nhà
thơ ngợi ca sự hi sinh của người lính bằng những ngôn từ lẫm liệt, hoành tráng thì
Thanh Thảo lại lặng lẽ nghĩ suy trước vấn đề sống - chết, được - mất của cuộc đời.
Nhà thơ đặt thân phận con người vào trạng huống nghiệt ngã, đầy thử thách để triết lí
về nhân cách và phẩm giá của họ. Đó là chiến hào máu lửa, đối mặt với quân thù, nơi
ấy, nói như nhà văn Chu Lai: “không có chỗ cho sự giả trá nương náu, cái gì ra cái
ấy, chẳng thể lập lờ đánh lận con đen. Cái cao cả, cái thấp hèn, cái trung thực, điều
vị tha và sự độc ác... bao giờ cũng được bộc lộ đến tận cùng” [110, tr.178]. Dân gian
có câu “Lửa thử vàng gian nan thử sức”, Thanh Thảo cụ thể hóa bằng thực tại chiến
trường (lửa chiến trường); chiến trường như thước đo phẩm giá có độ xác tín rất cao.
Theo nhà thơ: “nơi máu đổ phải sống bằng thực chất / nơi cao nhất thử lòng ta yêu
đất nước / thử lòng ta chung thuỷ vô tư / nơi vỡ vụn dưới chân ta những mảng đêm
hèn nhát / những gương mặt ngẩng lên lấp lánh chất người” (Thử nói về hạnh phúc).
Kế tiếp là những câu thơ như lời tuyên ngôn thế hệ (một dạng triết lí): “Thế hệ
chúng tôi không sống bằng kỉ niệm / không dựa dẫm vào hào quang có sẵn / lòng vô
tư như gió chướng trong lành / như sắc trời ngày nắng tự nhiên xanh” (Một người
lính nói về thế hệ mình). Thơ Thanh Thảo ẩn chứa tâm trạng sâu kín mà dữ dội,
cái dữ dội bùng nổ ở bên trong. Đặt vào bối cảnh những năm đầu thập niên 70 của
thế kỉ trước, kiểu triết lí như Thanh Thảo, dĩ nhiên là rất hiếm trên diễn đàn chính
thống. Và đích thị, đó là giọng thơ bộc trực, “hơi ngang”, đầy nghĩa khí của con người
xứ Quảng, không phải ai cũng viết được như thế. Theo chúng tôi, có thể chọn triết lí
này làm châm ngôn cho tuổi trẻ mọi thời đại chứ không riêng gì thời chống Mỹ. Câu
165
“như sắc trời ngày nắng tự nhiên xanh” là biến thể của minh triết “Hữu xạ tự nhiên
hương” mà hầu như người dân nào cũng biết.
Chất nghĩ trong thơ Thanh Thảo thể hiện bằng giọng thơ trầm lắng của một
người hay suy tưởng. Nếu suy tưởng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm thường đi từ trừu
tượng đến cụ thể: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn / Đất nước lớn lên
khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” (Mặt đường khát vọng), thì Thanh Thảo lại
đi từ cụ thể đến trừu tượng. Quan sát dấu chân trên trảng cỏ, nhà thơ nghĩ đến sự tiếp
bước truyền thống đánh giặc của thế hệ đi trước, nghĩ đến gian khổ hi sinh của người
lính trên đường ra trận: “Những người sốt rét đang cơn / Dấu chân bấm xuống đường
trơn, có nhòe ?... / Ai đi gần ai đi xa / Những gì gửi lại chỉ là dấu chân” (Dấu chân
trên trảng cỏ). Ở đây, thay cho giọng ào ạt ngút trời, khá phổ biến trong thơ thời
chống Mỹ: “Đêm hành quân thả tâm hồn đi trước / Yêu với căm, hai đợt sóng căm
hơn / Vỗ bên lòng dội mãi tới trăng sao” (Những đêm hành quân - Xuân Diệu), Thanh
thảo lại chọn cách nói khác: nhẹ nhàng, thấm thía, giàu suy tưởng: “Vùi trong trảng
cỏ thời gian / Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta / Vẫn đằm hơi ấm thiết tha / Cho
người sau biết đường ra chiến trường” (Dấu chân trên trảng cỏ). Đúng như nhận xét
của một nhà thơ cùng thời tác giả: “Điệu thơ thông minh một cách thâm trầm, và sắc
sảo một cách ngọt ngào là bước tiến vượt bậc trong thơ Thanh Thảo. Đó cũng là một
bước tiến mới trong thơ trẻ thời chống Mỹ” [149, tr.124]. Sự thực, Thanh Thảo là một
trong số ít nhà thơ có vị trí tỏa sáng trên thi đàn cả trong và sau chiến tranh chống Mỹ.
Trong đội ngũ nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, Xuân Quỳnh là người giữ ngôi vị
“quán quân” của giới nữ. Có thể nói, Xuân Quỳnh đến với thơ và thơ đến với Xuân
Quỳnh như duyên tiền định. Chị đã sớm “thiết lập” được chất giọng riêng của mình:
chân tình, hồn nhiên, cháy bỏng khát khao của trái tim dâng hiến, của tâm hồn đôn
hậu, đằm thắm và đầy dự cảm, lo âu. Trong chất giọng da diết, nồng hậu, nhiều trăn
trở ấy, Xuân Quỳnh kí thác vào đó những triết lí sâu sắc về tình yêu: “Làm sao được
tan ra / Thành trăm con sóng nhỏ / Giữa biển lớn tình yêu / Để ngàn năm còn vỗ”
(Sóng). Ấy là khát vọng và cũng là quan niệm về tình yêu “đúng nghĩa trái tim em”,
một tình yêu rộng mở, kết nối với cuộc đời rộng lớn, vĩnh hằng. Triết lí như vậy, theo
166
nhà nghiên cứu Phan Ngọc, “là tiếng nói mới của thơ dân tộc, tiếng nói phản ánh
chiều sâu của văn hóa” [119, tr. 47].
Một mảng thơ khác được coi là tâm điểm “nóng” của thời đại chống Mỹ. Đó là
triết lí chiến tranh. Như trên đã đề cập, trong khi phần lớn các nhà thơ lớp trước tập
trung nâng cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta lên tầm nhân loại: “Tên Tổ
quốc vang xa ngoài bờ cõi / Ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng” (Thời sự hè
72, Bình luận - Chế Lan Viên); “Ta đứng ở trung tâm phong trào chống Mỹ / Nhìn
bốn phương vẫy gọi cả loài người” (Quyết thắng - Sóng Hồng);... thì thơ trẻ lại xuất
hiện một số giọng “trái chiều”. Thực ra, đó là quan niệm về sự tàn phá, tàn nhẫn và
bất hạnh của chiến tranh. Xuất hiện cùng thời nhưng không thuộc dòng thơ trẻ (do
“vượt khung” tuổi tác), nhà thơ Việt Phương như hiện tượng “đột phá” ở hướng này.
Ấy là khi ông viết: “Một phần tư thế kỉ đi qua và bây giờ ta đã biết / Thế nào là yêu
thương thế nào là chém giết / Ta đã thấy chỗ lõm chỗ lồi trên mặt trăng sao / Những
vết bùn trên tận đỉnh chín tầng cao” (Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi). Thơ trẻ thời
chống Mỹ, nhất là thơ của những người cầm súng đã không bằng lòng triết lí
chiến tranh duy chỉ giọng ngợi ca - cổ vũ một chiều, cho dù đó là cuộc chiến tranh
chính nghĩa, chiến tranh giải phóng dân tộc. Bởi suy cho cùng, cuộc chiến nào cũng
vậy, không thể “bổ đôi” rạch ròi một phía anh hùng và một phía bi thương. Mà cái
hùng luôn luôn gắn liền cái bi, trong cái hùng đã chứa cái bi. Lúc đầu cái bi chưa được
ý thức đầy đủ, nhưng về sau thơ trẻ đã bày tỏ thẳng thắn, đề cập một cách sâu sắc,
sòng phẳng, thấm thía. Thực tế, chiến tranh là gánh nặng khủng khiếp đối với nhân
dân, nhân dân là lực lượng hứng chịu nhiều mất mát, thiệt thòi nhất, kể cả khi cuộc
chiến đi qua:
Người mài mực cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô
người cùng Quang Trung đi đánh giặc
Quang Trung ngồi trên bành voi,
người cầm giáo xông lên phía trước
Quang Trung lên làm vua, người về nhà cày ruộng
Bị lão trương tuần quát nạt cũng run
Nhưng mỗi lần đất nước sắp suy vong
167
Người đều cứu cỗ xe ra khỏi vực
(Người cùng tôi - Lưu Quang Vũ)
Chiến tranh là chém giết, là hủy diệt đối phương, là tiến công để dành chiến
thắng. Chế Lan Viên dõng dạc: “Đảng bảo: Nhìn chiến tranh không được he hé mắt
nhìn / Hãy trông thẳng quân thù cầm gươm lên, giết nó!” (Con mắt Bạch Đằng - con
mắt Đống Đa), và “Giết quân thù không cần phải phân vân” (Sao chiến thắng). Tinh
thần chung là thế. Tuy nhiên, đến thơ trẻ (trường hợp Nguyễn Duy), giết hay không
giết một người lính Việt Nam Cộng hòa trong một lần truy đuổi, lại là vấn đề cần cân
nhắc. Nhà thơ triết lí theo cách riêng của mình: “Giết chết hắn dễ thôi / Cứu hắn sống
đời người mới khó” (Đứng lại). Có lẽ, cái lí của Nguyễn Duy là tha chết cho đối
phương khi đối phương thua trận, bắt làm tù binh là ứng xử mà nhà thơ lựa chọn. Và ở
đây còn có cả sự trắc ẩn về đồng loại giống nòi, về cội nguồn Lạc Việt. Kiểu triết lí
như Nguyễn Duy, đặt vào bối cảnh những năm chống Mỹ là lạc lõng, thậm chí đi
ngược thơ chính thống, khó được chấp nhận. Dĩ nhiên, ngày nay nhìn lại thì không ai
phủ nhận giá trị nhân văn và tinh thần hòa giải của nó.
Đối những nhà thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị, giọng triết lí của họ
thường hướng về thân phận con người, về chiến tranh và hòa bình, về cội nguồn
và hòa giải - hòa hợp dân tộc. Nhiều nhà thơ mượn hình tượng “Mẹ” để nói về đất
nước, đất nước từ một lòng mẹ (truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ). Mẹ muốn
những đứa con hợp lại chống ngoại xâm và hòa giải, đoàn kết; mẹ độ lượng, vị tha,
nhân hậu; nhà thơ đối thoại với mẹ bằng chất giọng tự thoại: “Vì Mẹ ơi, con biết / Trái
tim con là thơ / Trái tim con là rừng, là núi / Là lúa ngô, là cam, là bưởi / Là quá khứ,
là tương lai / Là khổ đau, là hạnh phúc / Là đấu tranh, là bất khuất...” (Thưa mẹ trái
tim - Trần Quang Long).
Ngô Kha sáng tác theo khuynh hướng siêu thực, thế giới siêu thực bắt đầu bằng
chiêm cảm. Trong thế giới ấy, dường như tất cả mọi vật, từ cỏ cây đến vũ trụ và
những sinh thể nhỏ bé nhất đều có linh hồn, đều mang theo hơi thở hồn nhiên, nguyên
sơ của tạo hóa. Giọng thơ Ngô Kha ám ảnh, va xiết trong bi kịch chiến tranh, triền
miên với vấn đề sống - chết, nỗi cô đơn: “tôi chẳng phải là chim / sao biết đường bay
mỏi / đôi cánh này ngông cuồng và rồ dại / gió đã đến rồi / xin một bàn tay đắp lên
168
vết thương / sao gió không ru nỗi buồn tôi đi ngủ / bây giờ gió là đứa trẻ hoang tàn /
đem cuộc đời tôi làm hát dạo...” (Gió).
Nhìn chung, thơ trẻ thời chống Mỹ đã phát lộ nhiều sáng tạo độc đáo ở giọng
triết lý, suy tưởng. Họ có lợi thế là sống sâu với cuộc kháng chiến, được tôi luyện
trong lửa đạn và nếm trải những gian lao thử thách nơi trận mạc nên thơ họ thường
triết lí từ những hình ảnh cụ thể, chân thực, sát thực, sức lay cảm và tính thuyết phục
cao. Phần nào tách khỏi âm hưởng cao vút trong dàn đồng ca thơ chống Mỹ, nhiều
cây bút trẻ tìm đến kiểu giọng thâm trầm, sâu lắng, gia tăng chất nghĩ, phát huy
sức mạnh của trí tuệ, vươn tới sự nhận thức, khám phá thực tại, khái quát những vấn
đề lớn lao của dân tộc và thời đại, suy ngẫm về chiến tranh và số phận con người.
Giọng triết lí suy tưởng kết hợp giọng trữ tình thống thiết tạo sự hài hòa giữa tình cảm
và lí trí, giúp thơ trẻ thời chống Mỹ thoát ra khỏi sự đơn điệu, tẻ nhạt, tăng hấp lực
cho cả dòng thơ.
3.2.4. Giọng day dứt, tự vấn
Giọng day dứt, tự vấn như “bè đệm” nhỏ, khuất lấp trong dàn “đại hợp xướng”
thơ ca thời chống Mỹ. Là sản phẩm của cảm hứng đời tư thế sự, kiểu giọng này xuất
hiện trong sáng tác của một số nhà thơ trẻ, chủ yếu là từ đầu thập niên 70, khi chiến
tranh sắp bước vào hồi kết. Tức, cuộc chiến kéo dài, tự nó phơi ra tất cả bộ mặt tàn
bạo và khủng khiếp nhất, xã hội phát sinh nhiều điều bất ổn, cơ chế bao cấp bắt đầu lộ
diện những bất cập. Sức dân lớn lao nhưng không vô tận, sự tồn vong của đất nước là
đại sự, nhưng quyền mưu cầu hạnh phúc của từng con người cũng không phải chuyện
nhỏ. Đau thương, tang tóc chồng chất, đã đến lúc nhà thơ phải tự vấn, day dứt trước
những vấn đề liên quan đến thế cuộc, đến số phận nhân dân và đất nước, họ có quyền
hoài nghi, oán trách chiến tranh:
Mấy mươi năm đã mấy lớp người
Chia lìa gục ngã / Đã tận cùng nỗi khổ
Người ta còn muốn gì Người nữa
Việt Nam ơi ?
(Việt Nam ơi - Lưu Quang Vũ)
169
Thực tế chứng minh, chiến tranh không phải “trò đùa”, đánh Mỹ không đơn
thuần là “cao cả của tình yêu” như thơ ca từng cổ vũ. Cái chặng “Đường ra trận mùa
này đẹp lắm” không thể duy trì mãi, khi vô số con người nằm lại nơi rừng sâu núi
thẳm,“ra đi từ đó không về”. Nói gọn lại, chiến tranh là hiện tượng bất bình thường,
rất đáng sợ. Dẫu rằng, xã hội thời chiến, con người thời chiến, tư duy thời chiến, sinh
hoạt thời chiến,... có nhiều điểm không thể đưa ra so sánh với đời sống dân sự sau
chiến tranh. Nhưng nói thế không có nghĩa tất cả những gì thuộc về cuộc sống đời
thường của mỗi cá nhân đều xóa bỏ, nhất những nhu cầu tối thiểu để sinh tồn. Hơn
nữa, phàm là con người thì không thể trống vắng đời sống nội tâm như vui, buồn, yêu,
ghét, ngẫm nghĩ, suy tư,... Dẫu xã hội thời chiến đã thiết lập chuẩn mực “mình vì mọi
người” để cộng đồng tin vào đó, lấy đó làm điểm tựa tinh thần, gần như vô thức.
Nhưng rồi ai cũng phải có khoảng khắc tự lo cho mình, nghĩ về mình, tìm kiếm và tự
vấn chính mình: “Tôi cứ đi tìm mãi bản thân mình / Cũng có thể suốt đời chưa thấy
hết / Cuộc đời chẳng hệt như lời diễn thuyết / Nhọc nhằn hơn và cũng đáng yêu hơn”
(Hoa dọc chiến hào - Xuân Quỳnh). Giọng day dứt, tự vấn có xu hướng nghiêng về
chủ thể hóa khách thể, hướng nội nhiều hơn hướng ngoại.
Trong đội ngũ nhà thơ trẻ, Lâm Thị Mỹ Dạ và Ngô Văn Phú viết về hố bom ở
hai góc nhìn khác nhau: Một, ngời lên vẻ đẹp “Em nằm dưới đất sâu / Như khoảng
trời đã nằm yên trong lòng đất” (Khoảng trời, hố bom); và một, nhức nhói nỗi đau:
“Cái hố bom - sẹo đất / Có làm đất nhức không, đất ơi ?” (Sẹo đất). Theo chúng tôi,
hai bài thơ tuy khác nhau giọng điệu nhưng chúng có tác dụng bổ sung, “làm đầy” cho
nhau, cân bằng lại nhau. Với Ngô Văn Phú, hố bom là thương tích chiến tranh hằn sâu
trong tâm thức con người, xoáy vào nỗi đau đất nước. Giọng điệu ở đây không bay
bổng, không lãng mạn hóa như Khoảng trời, hố bom, mà nó lắng đọng, gợi nhiều trăn
trở, suy tư: “Trong chiến tranh đạn cắm tay tôi / Trong chiến tranh hố bom dày đất
/…/ Đất có màu xanh, / Tôi có cuộc đời / Những vết sẹo kia còn nhắc nhở / Những
điều cần nói với ngày mai...” (Sẹo đất).
Xung quanh hố bom, tiếng bom, khói bom,... biểu tượng của cuộc chiến hủy
diệt, Phạm Tiến Duật là nhà thơ có nhiều diễn ngôn ấn tượng. Trước đây ông phát
hiện ra “Giữa chiến trường nghe tiếng bom rất nhỏ” (Tiếng bom Seng Phan); về cuối
170
cuộc chiến ông cũng là người “phát tiết” cách nhìn mới: “Khói bom lên trời thành một
cái vòng đen / Trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng”. Giọng thơ thay đổi, nghiêng
sang nỗi đau chiến tranh, day dứt trước thảm cảnh chết chóc mà người dân gánh chịu:
“Có mất mát nào lớn bằng cái chết / Khăn tang, vòng tròn như một số không” (Vòng
trắng). Cũng như Ngô Văn Phú, tuy đây không phải là giọng điệu chính của Phạm
Tiến Duật, nhưng sự xuất hiện “tín hiệu lạ” như thế, chúng tỏ nhà thơ đã hạ bớt “độ
cao” âm hưởng sử thi trong sáng tác của mình.
Bằng Việt vốn là nhà thơ điềm tĩnh, chín chắn, hào hoa cả ngoài đời và trong
thơ. Sáng tác của ông nhìn chung tinh tế, lạc quan. Tuy vậy, trong thơ ông vẫn tàng ẩn
không ít những suy tư, trăn trở về thế cuộc, về lí tưởng và hiện thực, hiện tại và tương
lai: “Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu / Cuộc đời không phải thế / Giọt
nước soi trên tay không cùng màu sóng bể” (Nghĩ lại về Pauxtôpxky). Viết về những
năm tháng ấy, Bằng Việt xác nhận: “các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ hay có cảm nhận
ngậm ngùi về số phận nghiệt ngã (NBL nhấn mạnh) của thời mình. Ngậm ngùi
nhưng không bị lụy” [199, tr.33]. Chúng tôi bổ sung thêm: “ngậm ngùi về số phận”
nhưng thời ấy không dễ viết ra; viết ra chưa hẳn đã được công bố, nhiều thi phẩm
đành tạm thời “gác lại” (bài Nghĩ lại về Pauxtôpxky cũng nằm trong số đó).
Trở lại Thanh Thảo, như phần trước chúng tôi đã đề cập, giọng thơ Thanh Thảo
có đặc điểm là trầm lắng bên ngoài, dữ dội bên trong, giàu chất nghĩ, hay trăn trở,
thích tự vấn. Chính ông là người đặt vấn đề: “đêm nay ai cầm tay nhau vào tiệc cưới /
ai thức trắng lội sình / ai trầm ngâm viết những câu thơ thông minh / ai trả nghĩa đời
mình bằng máu ?” (Thử nói về hạnh phúc). Rõ ràng không ngẫu nhiên mà trong bài
thơ, điệp khúc “hạnh phúc nào cho tôi / hạnh phúc nào cho anh / hạnh phúc nào cho
chúng ta / hạnh phúc nào cho đất nước” cứ lặp đi lặp lại, xoáy vào tâm can người
đọc, khiến họ phải ngẫm nghĩ, suy tư. Những câu thơ “lạ” và “hơi ngang” như thế đã
được đăng tải trên thi đàn chính thống hồi ấy (báo Văn nghệ), như chúng tôi nghĩ, có
lẽ nó đã được “bảo đảm” từ cuộc chiến đấu sinh tử của chính tác giả nơi chiến trường
chăng ?
Nữ nhà thơ Lý Phương Liên cũng là một hiện tượng “lạ”, xuất hiện ở vùng thơ
trẻ miền Bắc vào đầu thập niên 70. Ngay khi mới có thơ trên thi đàn, Lý Phương Liên
171
đã khiến đông đảo người đọc ngạc nhiên bởi chất giọng trìu mến, trẻ trung trong bài
Ca bình minh. Tuy nhiên, cách không bao lâu, cây bút trẻ hồn nhiên, lạc quan này lại
cho ra mắt độc giả sáng tác khác, giọng điệu cũng rất khác: buồn, trăn trở đến hoài
nghi, xót xa: “Cuộc đời này có số phận thật chăng ? / Từ mộ huyệt cõi âm vọng đáp /
Hãy sống đi rồi biết / Vời vợi cao xanh chỉ thấy mây cười” (Trò chuyện với Thúy
Kiều).
Nổi lên trong thơ trẻ thời chống Mỹ vẫn là hiện tượng Lưu Quang Vũ. Khác
Phạm Tiến Duật, Ngô Văn Phú, Bằng Việt, Xuân Quỳnh,... Lưu Quang Vũ không
“phát tiết” giọng mới, giọng lạ theo kiểu “xen ngang” trong một vài sáng tác, mà ông
đổi hẳn sang kiểu giọng trĩu nặng ưu tư, dập dồn những day dứt, oán trách, hoài nghi
đến cô đơn. Thơ ông nói nhiều đến mất mát, chia lìa - điều không dễ viết trong những
năm chống Mỹ (dĩ nhiên phải mấy chục năm sau mới công bố rộng rãi). Đó là bi kịch
chiến tranh với “Những đứa bé nằm ngủ trong mồ”, với người mẹ “bới gạch vụn tìm
con” (Cầu nguyện) và bao người chết “vùi thân dưới hố bom”, là “Khăn tang trắng
xoá” (Khâm Thiên),... Đi dọc con đường dân tộc từ thuở hồng hoang cho đến ngày
chiến thắng, bài thơ Đất nước đàn bầu hiện lên một Tổ quốc đau thương, nhọc nhằn,
nghèo khó “Dân tộc tôi bốn ngàn năm áo rách... Dân tộc trải xót xa nhiều nỗi khổ”,
nhưng thấm đượm giá trị nhân văn “Phải thương nhau mới sống được trên đời”. Thơ
ông thoát ra khỏi ràng buộc của những quan niệm vốn định hình, nói bằng giọng điệu
khác, không ồn ã như nhiều nhà thơ cùng thời viết về chiến tranh. Lưu Quang Vũ
chiêm cảm, khám phá những miền khuất lấp, ở sự khốc liệt, tàn phá của chiến
tranh, ở số phận dân tộc, nhân dân từ nhiều góc nhìn hết sức nhân bản và cũng
bằng chính trái tim nghệ sĩ rất mực khắc khoải, day dứt. Có khi nhà thơ tự vấn với tư
cách thế hệ: “Tuổi trẻ chúng tôi tìm gặp nhau / đặt lại những câu hỏi / về cuộc chiến
tranh này / về mọi giá trị trên đời / nguồn gốc những nguyên nhân / của chém giết và
thù hằn / bất công và đói rét” (Nói với con cuối năm).
Khi khác ông không ngần ngại bày tỏ chính kiến của mình bằng giọng trách
oán: “Khi mặt đất mênh mông đầy biến loạn / Khi bước chân lầm lạc / Khi con người
giết nhau / Những lá thư không biết gửi vào đâu / Những hải cảng không con tàu cập
bến / Quen thất vọng tôi hồ nghi mọi chuyện / Tìm trong mắt em náo động những chân
172
trời” (Lá thu); và trĩu nặng đau buồn trước bão lụt, thiên tai: “Những cánh đồng nằm
trong lũ lụt / Những xóm làng tan hoang / Những người chết đuối / Những con đê cứ
tưởng không gì phá nổi / Bây giờ tan vỡ trong đêm” (Mấy đoạn thơ). Có thể nói, đã có
“độ vênh” giữa niềm tin có sẵn trong sách vở, trong diễn ngôn tuyên truyền với
“những điều trông thấy” diễn ra hàng ngày trong xã hội thời chiến. Giọng thơ Lưu
Quang Vũ không chỉ tự vấn, trăn trở mà còn hoài nghi, cô đơn:
Sao tôi muốn em tin
Khi chính tôi cũng chẳng tin ai cả...
Nỗi cô đơn hoàn toàn
nỗi cô đơn khủng khiếp
Trước và sau trong và ngoài
cuộc đời và trang sách
(Mấy đoạn thơ)
Tuy vậy, thơ Lưu Quang Vũ vẫn ở bên này làn ranh của sự tuyệt vọng. Bạn
ông, nhà phê bình Vũ Từ Trang trong bài “Nhà thơ Lưu Quang Vũ những năm lận đận
ấy” nhận xét: “Buồn chán, cô đơn, bi quan, nhưng không bao giờ Vũ bi lụy, không
chút hằn học và xỉa xói cuộc sống. Đây là thời kì Vũ viết thơ với giọng điệu, với nỗi
niềm riêng nhất” [175, tr.133].
Cắt nghĩa sự thay đổi kiểu giọng trong thơ Lưu Quang Vũ, theo chúng tôi, phải
nhìn vào cả khách thể lẫn chủ thể. Về khách thể, điều dễ thấy là, bước sang chặng cuối
cuộc kháng chiến chống Mỹ (đầu thập niên 70), âm hưởng sử thi trong thơ có xu
hướng nhạt dần. Bên cạnh sự nhấn mạnh tinh thần hi sinh cao cả, phi thường, những
hào quang chiến thắng, thơ chống Mỹ còn ẩn chứa muôn mặt của cuộc sống đời
thường (cảnh nghèo đói, sự thương đau, những thói xấu, các hiện tượng tiêu cực trong
xã hội,...). Và ở mức này mức khác, bức tranh hiện thực đa dạng và tâm trạng đa chiều
dần dần được hé lộ trong sáng tác của những nhà thơ có cuộc đời hòa lẫn trong dân
chúng, trải nghiệm và thấu hiểu sâu xa những sự thật ở đời. Về phương diện này, tiên
phong vẫn là những nhà thơ trẻ, trong đó có Lưu Quang Vũ: “Chiến tranh càng qua
đi thì Vũ càng hiện lên như một trong những người đầu tiên của thế hệ, biết gọi chiến
tranh là chiến tranh, và biết ghi lấy những đau xót cùng những ước ao mà ai người
173
hồi ấy còn đang trẻ tuổi đều trải nghiệm” [99, tr.45]. Đó là đánh giá của Vương Trí
Nhàn, nhà nghiên cứu cùng thế hệ thơ trẻ thời chống Mỹ.
Về phương diện chủ thể, những ẩn ức riêng tư của Lưu Quang Vũ trong những
tháng năm “lận đận” đã được nhà thơ kí thác vào sáng tác của mình: “Anh là con ong
bay giữa trời lận đận / Trời đêm dài chẳng có một ngôi sao” (Bầy ong trong đêm
sâu); hay: “Có những lúc tâm hồn tôi rách nát / Tôi biết làm gì, tôi biết đi đâu” (Có
những lúc). Có căn cứ để cho rằng, một số sáng tác mang tính giải tỏa những ấn ức
riêng tư của nhà thơ tuy không đại diện cho thời đại hay thế hệ, nhưng đó là giọng thơ
có chiều sâu nhân bản, hiếm gặp trong thơ ca miền Bắc thời chống Mỹ, nó như dấu
hiệu chuẩn bị cho sự bùng nổ sau này, nhất là khi đất nước bước sang kỉ nguyên đổi
mới (1986).
Ở mảng thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền Nam, nét đặc thù là đội ngũ
sáng tác chủ yếu thuộc tầng lớp trí thức, học sinh - sinh viên, họ được tiếp nhận nhiều
khuynh hướng thơ ca đến từ phương Tây hiện đại. So với thơ trẻ miền Bắc, các hình
thức thể hiện trong thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị phong phú, đa dạng hơn
nhiều, bên cạnh thơ hiện thực còn có thơ siêu thực (chẳng hạn Ngô Kha). Về mặt tư
tưởng cũng cần thấy thêm, các nhà thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị tuy phải chịu
sự “giáo huấn” của chính quyền Sài Gòn (chống cộng) nhưng nhìn chung, quan niệm
của họ là một Việt Nam độc lập, chung dòng dõi Lạc Hồng, cùng đất Tổ Hùng
Vương: “Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật / một tấc lòng cùng trứng Âu Cơ / một tiếng
nói cũng đầy hồn Thánh Gióng” (Bài thơ của một người yêu nước mình - Trần Vàng
Sao).
Với họ (các nhà thơ trẻ vùng đô thị), chiến tranh đồng nghĩa hủy diệt, “huynh
đệ tương tàn”, đầu rơi máu chảy, cần lên án. Đặc biệt, sự hiển diện của quân đội ngoại
bang tham chiến, tức đất nước bị xâm lăng, cần đấu tranh quyết liệt. Còn ý thức hệ,
thể chế chính trị đối với họ chưa thành vấn đề cấp thiết. Bằng chứng là, trong bài
“Tâm tình một người thanh niên 24 tuổi” đăng trên tạp chí Văn học Sài Gòn số 11 -
1964 có đoạn: “Tôi làm gì có đủ khả năng để phân biệt một cách tế nhị cộng sản và
kháng chiến, cộng sản và quốc gia” [88, tr.36]. Trong nhãn quan của nhiều trí thức
vùng đô thị, thời đất nước chiến tranh được coi là thời “biến loạn”. Không ít nhà thơ
174
trẻ trăn trở, băn khoăn tìm hướng đi, tìm sự thật trong cái thời “biến loạn” ấy: “Đâu
khu vườn sự thật / Sao sương mù nơi nơi / Hai mươi mùa xuân chết / Đi tìm định
nghĩa đời” (Còn đi - Tần Hoài Dạ Vũ). Tự vấn, trách oán, hoài nghi đến cô độc, bi
quan là giọng điệu phổ biến trong thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị. Thời biến
loạn làm nảy sinh kiểu giọng như thế. Nỗi đau lớn nhất, day dứt nhiều nhất vẫn là sự
tàn khốc của chiến tranh: “Hỏa châu rớt thành muôn vàn ánh sáng / Em lặng nhìn
nhức nhói cả tim gan / Ai đã gây nên chiến cuộc điêu tàn / Đem xương máu đắp xây
thành xương núi” (Đêm hỏa châu - Hoàng Anh Bằng). Trong thế giới siêu thực, giọng
thơ Ngô Kha ám ảnh, hoài nghi, phủ nhận thực tại: “thôi nhân danh trá ngụy / các lực
lượng vô hình / với bàn chân bạo lực / còn những gì mai sau / quá khứ đã đào vong /
chứng nhân và ngụy tín / với bao năm xiềng xích / trên số phận con người / những bất
lực hàng giờ / trên lời ghi cáo trạng” (Trường ca hòa bình).
Là giai điệu phụ trong dàn đồng ca thơ chống Mỹ, giọng day dứt, tự vấn như
âm sắc ngân rung những nỗi niềm trắc ẩn, thấm đượm chất nhân văn, góp vào
dòng thơ trẻ chiều sâu nội cảm và phần nào cân bằng lại trạng thái hưng phấn, bay
bổng của kiểu giọng hào sảng, lạc quan. Xa hơn, nó làm thông điệp hòa bình trong
một thế giới lấy đối thoại thay đối đầu, phản đối chiến tranh và bạo lực. Theo chúng
tôi, đó là tính nhân loại của dòng thơ trẻ thời chống Mỹ, nghiên cứu nó cũng cần thiết
như nghiên cứu các kiểu giọng điệu khác, nhất là khi cuộc chiến đã lùi xa, suy nghĩ
của con người dần dần lắng lại.
3.3. Một số thủ pháp kiến tạo giọng điệu thơ trẻ Việt Nam thời kháng
chiến chống Mỹ
Muốn xác lập được giọng điệu, nhà văn phải sử dụng nhiều thủ pháp nghệ
thuật, gắn với chất liệu ngôn từ - yếu tố hàng đầu của văn học: “Giọng điệu của chủ
thể được thể hiện qua lời văn nghệ thuật và cách tổ chức ngữ lưu trong tác phẩm”
[30, tr.80]. Khảo sát thơ trẻ thời chống Mỹ, chúng tôi thấy các nhà thơ đã sử dụng
thành công một số thủ pháp để kiến tạo giọng điệu; chủ yếu tập trung vào giọng chính,
tiếp đến là các kiểu giọng khác, phụ họa xung quanh nó.
175
3.3.1. Tích hợp nhiều phong cách ngôn ngữ, mở rộng lớp từ thi ca
Phong cách ngôn ngữ văn chương có hệ thống từ ngữ đặc trưng của nó. Hệ
thống từ ngữ ấy được hòa đúc, chắt lọc trong tất cả các phong cách của ngôn ngữ toàn
dân; hay nói như các nhà ngôn ngữ học, đó là “lớp từ thi ca”, thực hiện “chức năng thi
ca” của ngôn ngữ. Lớp từ này luôn giãn nở theo hướng đa dạng, vừa vận động theo
quy luật chung của ngôn ngữ vừa theo quy luật đặc thù của nghệ thuật.
Từ ngữ thơ ca thường đa nghĩa, giàu tính biểu tượng và tính tổ chức cao. Là
đơn vị nền tảng của ngôn từ nghệ thuật, nó có khả năng gợi ra nhiều sắc thái cảm xúc
khác nhau. Nhờ đặc tính này mà người đọc phán đoán ra “Thái độ, tình cảm, lập
trường, tư tưởng của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả” [38, tr.134]. Có cơ sở
để tác giả chuyên luận “Giọng điệu trong thơ trữ tình” khẳng định: “Từ ngữ có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc biểu hiện giọng điệu” [30, tr.104].
Để phản ánh hiện thực cuộc kháng chiến đầy gian khổ, ác liệt, giải đáp những
vấn đề về tư tưởng, tình cảm của con người trong giai đoạn đất nước nhiều biến động;
đồng thời phát hiện, khẳng định sức mạnh và phẩm chất của dân tộc, tầm vóc của thời
đại, các nhà thơ thời chống Mỹ tất phải tích hợp nhiều phong cách ngôn ngữ, phải mở
rộng lớp từ thi ca. Đi đầu là những nhà thơ lớp trước (Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy
Cận, Hoàng Trung Thông,...). Tuy nhiên, tính đa dạng, sát thực, nóng bỏng chất đời,
cập nhật chiến tranh lại là ưu thế của những cây bút trẻ.
Trong thơ trẻ thời chống Mỹ, bên cạnh lớp từ xưng hô biểu thị thái độ ngưỡng
vọng, tôn kính nhân vật anh hùng mang tầm vóc sử thi, tạo âm hưởng hùng tráng:
“Anh tên gì hỡi anh yêu quý...” (Lê Anh Xuân), hay những từ ngữ biểu thị giọng
suồng sã, thân thương của người lính chiến trường: “Khi ánh sáng rừng chỉ vệt lân
tinh / Mày lặng lẽ mang dùm tao bao gạo” (Thanh Thảo), hoặc lớp từ nguyền rủa
quân thù: “Quân giặc kia ơi, một bầy man rợ” (Thu Bồn) là lớp từ thuộc các lĩnh vực
chính trị, lịch sử, quân sự, tôn giáo, kinh tế, triết học, địa lí, khoa học tự nhiên,…
Chúng được tích hợp khá phổ biến trong thơ, số lượng nhiều, hầu hết được sáng tạo
lại, chuyển thành tín hiệu nghệ thuật. Những từ và tổ hợp từ như “Đảng”, “đồng chí”,
“đồng đội”, “cách mạng”, “chính ủy”, “chi bộ”, “chiến dịch”, “chiến hào”, “mặt trận”,
“tư lệnh”, “giải phóng quân”, “hành quân”, “tác chiến”, “oanh tạc”, “xe tăng”, “B.52”,
176
“napan”, “pháo chụp”, pháo chùm”,… xuất hiện với tần số cao trong thơ trẻ thời
chống Mỹ. Gộp chung, có thể gọi đó là “lớp từ chiến tranh chống Mỹ”, tất cả đã được
nghệ thuật hoá, thơ hóa, tương hợp với cảm hứng sử thi, với giọng điệu hào sảng, lạc
quan và một số kiểu giọng phụ trợ khác. Thời ấy hầu như nhà thơ nào cũng sử dụng
lớp từ này để sáng tác. Thật khó tin những câu thơ sau lại của Trần Đăng Khoa viết ra
khi chưa qua ngưỡng tuổi vị thành niên: “Các đồng chí ở nhà / Có tiếp tục được
không ? / Công việc mình đang dang dở / Ai mất ai còn trong chi bộ / Bao đảng viên
lặng lẽ hi sinh (Khúc hát người anh hùng). Người anh hùng là mô típ quen thuộc, viết
về họ, các nhà thơ thường gắn với Đảng, giai cấp, cách mạng; lời thơ, ý thơ nhốm màu
sắc chính trị: “Đảng thân yêu con biết nói điều chi / Xưa con khổ, không có trời có đất
/ Giờ có nước - con trở thành người của giai cấp / Con là đảng viên, con xin đi trước
mọi người” (Khi con người có Tổ quốc - Thái Giang). Hay, Bằng Việt viết “Chuyện
một đồng chí chính ủy quân giải phóng”, Nguyễn Duy viết “Chính ủy của tôi xa quê
hương hai mươi sáu năm trời” (Giọt nước mắt và nụ cười) đều huy động tối đa lớp từ
chính trị, đậm dấu ấn thời đại. Đúng như diễn ngôn của Chế Lan Viên: “Cách làm thơ
72 giống với cách trồng rau năm 72, đánh Mỹ năm 72, / Dân tộc chung một phong
cách năm 72 khi yêu và khi tìm từ ngữ” (Sổ tay thơ).
Sở dĩ lớp từ chính trị, quân sự, lịch sử,... được các nhà thơ sử dụng với tần cao
như thế, theo chúng tôi, một phần do “làn sóng” dùng từ mới, biểu đạt tư tưởng và
tình cảm mới, thích ứng giọng điệu thời đại; phần khác, chủ trương tăng cường tính
đảng, coi tính đảng là nguyên tắc sáng tác nghệ thuật đã tác động không nhỏ đến
người cầm bút, khiến họ tự thấy cần phải gia tăng lớp từ chính trị trong thơ.
Thơ trẻ thời chống Mỹ tích hợp nhiều lớp từ, nhiều kiểu diễn đạt của nhiều
phong cách ngôn ngữ khác nhau, trong đó có phong cách báo chí, phong cách khoa
học. Ngôn ngữ báo chí cần số liệu cụ thể, ngôn ngữ khoa học cần thông tin chính xác.
Lớp từ và kiểu diễn đạt “liên phong cách” này tỏ ra hiệu quả trong việc tạo dựng chất
giọng triết lí, chính luận. Thơ những năm chống Mỹ ngoài cập nhật diễn biến chiến
sự, phản ánh kịp thời sự kiện vừa diễn ra, nó còn cung cấp những con số đáng tin cậy
về đối tượng hay sự kiện nào đó trong giới hạn cho phép. Nghĩa là, có khi nhà thơ
cũng làm công việc ghi chép, đưa tin như báo chí, chỉ khác ở chỗ, thông điệp của nhà
177
thơ là văn bản nghệ thuật. Một số nhà thơ ghi rõ dụng ý này ngay ở tiêu đề tác phẩm.
Như Đường Trường Sơn cảnh và người, Kí sự - Thơ (Bằng Việt); Phóng sự 30 - 4- 75
(Nguyễn Duy); Công việc hôm nay (Phạm Tiến Duật),... Khảo sát sơ bộ, chúng tôi
thấy, số từ định lượng xuất hiện trong thơ trẻ thời chống Mỹ khá dày; phần lớn trong
đó là con số cụ thể, chính xác. Chẳng hạn: “Đài quan sát cao năm trăm mét / Nhô lên
từ đỉnh đá vôi... / Trên đầu mút sợ giây căng thẳng đó / Chỉ rộng có mười mét vuông”
(Đường Trường Sơn, cảnh và người - Bằng Việt); “Vì lợi ích của 400 ông vua, 200
triệu người Mỹ phải góp tiền, góp máu / Vì tinh thần một tên lính Mỹ phải nói có
2.000 Việt cộng bị giết mỗi tuần trên mặt báo...” (Mặt đường khát vọng - Nguyễn
Khoa Điềm),...
Những con số trong khoa học là kí hiệu đơn nghĩa nhưng khi đi vào thơ lại có
khả năng tạo nghĩa, tạo giọng. Các nhà thơ ngoài mặt trận có lợi thế về thu thập số
liệu, ghi chép kịp thời tình hình chiến sự và xác tín khá cao. Trong nhiều bài thơ, từ
ngữ tuy đang ở dạng thô mộc, tươi ròng, nhưng lại có sức truyền cảm riêng. Giọng
truyền cảm ấy trước hết nhờ ở tính nóng hổi của từng con chữ và nhờ sự tích hợp vốn
từ ở đủ các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực quân sự. Chưa bao giờ trên tiết diện khổ thơ,
bài thơ mà “mật độ” lớp từ quân sự lại xuất hiện “dày” như thơ trẻ thời chống Mỹ:
“Trên đầu AK / Vẫn sẵn sàng / Thước ngắm một / Những ánh mắt điềm nhiên sau
chốt / Vẫn hướng vào ngày, vẫn hướng vào đêm” (Thước ngắm một - Anh Ngọc);
“A.R.15 xả đạn liên hồi / Cối cá nhân kêu đóng một / Pháo tầm xa cố tình thay quy
luật / B.52 bay nhè trước mỗi bữa ăn” (Sức bền của đất - Hữu Thỉnh). Đặc biệt, lại
phải nói đến Phạm Tiến Duật, ông có cái tài đưa tin tức thời sự bằng thơ khó ai sánh
được:
Cục tác chiến báo sang tin cuối cùng
Về số máy bay rơi trong ngày và tàu chiến
Nha khí tượng báo tin cơn bão tan,
Bộ Nông nghiệp báo tình hình vụ cấy
Trong những Tờ trình Thủ tướng đọc trong đêm
Còn có việc hoàn thành Bộ thông sử đầu tiên...
(Công việc hôm nay)
178
Sáu câu thơ dày đặc những tin tức thời sự, rất gần phong cách báo chí nhưng
không phải thông điệp báo chí mà nó là một đoạn thơ, một giọng thơ rất Phạm Tiến
Duật, rất “thơ trẻ”: hào sảng, hồn nhiên, giàu “dữ liệu”, sát giọng điệu chiến trường.
Như vậy, tích hợp nhiều phong cách ngôn ngữ, mở rộng lớp từ thi ca như một
thủ pháp hữu hiệu để kiến tạo giọng điệu nghệ thuật. Về phương diện này, có thể nói,
thơ trẻ thời chống Mỹ đã đóng góp không nhỏ vào “bảo tàng ngôn ngữ chiến
tranh”. Nhiều tổ hợp từ không chỉ có hiệu năng biểu thị giọng điệu mà qua lắng lọc
thời gian, nay trở thành những diễn ngôn mang dấu tích một thời đánh giặc: “Dáng
đứng Việt Nam” (Lê Anh Xuân), “Như chưa hề có cuộc chia ly” (Nguyễn Mỹ), “Bầu
trời vuông” (Nguyễn Duy), “Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây (Phạm Tiến Duật),
“Nghe chim kể chuyện trên đồi chốt” (Hoàng Nhuận Cầm), “Ngủ rừng theo đội hình
đánh giặc” (Nguyễn Đức Mậu), “Sắt thép vô danh như cuộc đời chiến sĩ” (Hữu
Thỉnh)... Hay những câu thơ tự nó đã dồn nén giọng da diết bâng khuâng, như chỉ dấu
“xuất thần” của dòng thơ yêu nước, hào hoa: “Chúng tôi bơi trong thương nhớ riêng
mình” (Hữu Thỉnh), “Bìm bịp kêu trắng hàng bông sua đũa” (Thanh Thảo), “Trời
không xanh trong đáy mắt em xanh” (Xuân Quỳnh), “Mảnh trăng liềm nghiêng một
nỗi nhớ nhau” (Lưu Quang Vũ), “Tin em trao về hồng như nụ chín” (Ngô Kha),
“Nắng trong vườn xanh những lối đi” (Chim Trắng),...
3.3.2. Khai thác lợi thế của phép điệp và so sánh tu từ
Sáng tạo thơ là sáng tạo thẩm mỹ, nói như Valéry: “Thơ đi giữa nhạc và ý”.
Để đạt được điều đó, nhà thơ tất phải sử dụng thành thục, hiệu quả các thủ pháp nghệ
thuật, trong đó có phép điệp và so sánh tu từ
* Điệp là luân phiên, lặp lại một số đơn vị ngôn từ nhằm mục đích nghệ thuật.
Gieo vần, luyến láy, phối thanh đều sinh ra từ phép điệp. Cùng các thể thơ, phép điệp
có tác dụng tạo nhịp, gia tăng nhạc tính - yếu tố không thể thiếu trong thơ. Hay nói
cách khác, điệp, ngắt nhịp, luyến láy, phối thanh,... như những thủ pháp làm nên vỏ
vật chất giọng điệu.
Các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ tỏ ra tinh xảo, độc đáo trong việc tạo dựng
những câu thơ, đoạn thơ điệp thanh, điệp vần, điệp từ ngữ,... gây độ rung cảm xúc,
179
ngân lên nhiều âm hưởng. Đây là sự “khai phá” tiềm năng dồi dào của tiếng Việt, một
loại hình ngôn ngữ đơn lập đa thanh điệu.
- Điệp thanh: Điệp thanh là biện pháp tu từ ngữ âm trong đó người ta cố ý tạo
ra trùng điệp âm hưởng bằng cách lặp lại thanh điệu cùng nhóm bằng (thanh ngang,
thanh huyền) hay cùng nhóm trắc (thanh hỏi, thanh ngã, thanh nặng) nhằm tăng nhạc
tính và điệu cảm xúc của nhà thơ. Nếu Thơ mới có những diễn ngôn điệp thanh bằng,
diễn tả cái mênh mang, buồn, cô đơn: “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời /
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” (Xuân Diệu); thì thơ trẻ thời chống Mỹ cũng có
những sáng tạo tương tự, chỉ khác ở điệu bay bổng, lạc quan, tin yêu cuộc đời: “Mùa
xuân cùng em lên đồi thông / Ta như chim bay trên tầng không” (Em đẹp nhất - Lê
Anh Xuân).
- Điệp vần: Điệp vần là sự lặp lại phần vần của âm tiết. Có điệp vần trong nội
bộ dòng thơ và điệp vần giữa các dòng thơ. Trong nội bộ dòng thơ, các nhà thơ trẻ
thường điệp vần bằng, kết thúc là phụ âm vang. Cách điệp này gợi cảm giác ngân
nga, lan tỏa, phù hợp chất giọng lạc quan: “Hôm nay đồn giặc không còn nữa / Trời
thênh thang đồng lúa chín vàng” (Người mẹ trồng bông - Lê Anh Xuân); “Xanh điệp
trùng, xanh như khóa như bưng / Bỗng chói chang, nắng lòa ngang trước ngực”
(Phăng Xi Păng ta lên đến đỉnh - Vũ Quần Phương).
Điệp vần giữa các dòng thơ (còn gọi gieo vần) vừa để tạo nhạc tính vừa có tác
dụng liên kết văn bản. Thơ trẻ thời chống Mỹ kế thừa nhiều thể, có vần hoặc không
vần. Trong những bài thơ có vần, cách điệp cũng đa dạng, nhiều biến hoá. Có khi nhà
thơ sử dụng lối điệp vần liên tiếp (aabb) thể hiện mạch cảm xúc tuôn trào, tha thiết:
“Đất nước / Của những câu chuyện làm ta rưng nước mắt (a) / Đã trở thành những
bài ca không bao giờ tắt (a) / Trên những con đường mỗi xóm ta qua (b) / Từ non
ngàn cho tới biển xa (b)...” (Chúng con đi chiến đấu cho Người sống mãi, Việt Nam
ơi - Nam Hà); và cũng có khi điệp xoay vòng (aaba) gợi cảm giác êm ái, du dương
đầy ấn tượng. Bằng thủ pháp này, Dương Hương Ly sáng tạo ra khổ thơ giàu nhạc
tính, biểu đạt giọng trữ tình bay bổng ngân nga:
Em ngủ - vườn trưa xanh nắng thưa (a)
Gió êm êm hát mát thân dừa (a)
180
Tấm dù em đắp vương vương nắng (b)
Như bướm vờn theo nhịp võng đưa (a)
(Giấc ngủ của nàng tiên dũng sĩ)
Nhạc tính trong thơ còn được thể hiện ở hiện tượng láy. Láy là lặp lại phụ âm
đầu (láy phụ âm đầu), lặp lại phần vần (láy vần) hoặc lặp lại hoàn toàn (láy hoàn toàn)
- tính trên đơn vị âm tiết. Từ láy có khả năng gợi hình, gợi cảm cao. Theo đó âm sắc
lời thơ cũng biến đổi, góp phần kiến tạo vỏ vật chất giọng điệu. Mật độ từ láy trong
thơ trẻ thời chống Mỹ khá dày. Để thể hiện khí thế cách mạng sục sôi, nhà thơ thường
sử dụng các từ “rộn ràng”, “cuồn cuộn”, “rầm rập”, “bừng bừng”,… Ví dụ: “Vui
cái rộn ràng của tiếng súng, tiếng bàn chân / Tất cả xuống đường cuồn cuộn”,
“Người với người rầm rập ngày đêm / Đường chiến dịch tưởng như dài vô tận” (Hoa
dừa - Lê Anh Xuân); hay: “Ngoại ô bừng bừng tiếng hát / Ngực căng phồng người
trấn cửa Thuận An” (Đất ngoại ô - Nguyễn Khoa Điềm),... Vũ Quần Phương tả đêm
chiến tranh bằng hai câu thơ đặc sắc mà điểm nhấn là hai từ láy không thể thay thế:
“Mưa vẫn rơi rì rầm không tắt / Một chuyến phà óc ách sang ngang” (Những câu thơ
trong đêm). Thơ trẻ thời chống Mỹ đọng lại nhiều diễn ngôn bằng từ láy ấn tượng:
“Tiếng bìm bịp bập bềnh trong đêm nước lên” (Chuyến đò trong đêm giáp ranh -
Hữu Thỉnh); “Hoa lục bình mênh mang màu mực tím” (Mặt đường khát vọng -
Nguyễn Khoa Điềm). Còn Phạm Tiến Duật, giọng “đùa tếu” bộc lộ ngay trong từ láy
mà ông sử dụng: “Bấy lâu mũ sắt đội quen / Bây giờ cái nón toòng teng trên đầu”
(Cái chao đèn),...
- Điệp từ ngữ: Trong thơ, điệp từ ngữ là thủ pháp sáng tạo thẩm mỹ, hình thức
của nó là sự nhấn giọng. Khi những con chữ trùng lặp mà không thừa; ngược lại, nó
được cấu thành hệ thống, nổi lên như những kí mã sinh động, ám ảnh, thì đương nhiên
đó là những tín hiệu nghệ thuật, là “kênh” biểu thị giọng điệu nhà thơ. Chẳng hạn,
Nguyễn Duy viết: “Cát tím bầm - lở loét vết giày đinh / Mồ hôi chảy thấm vào trong
cát / Nước mắt chảy thấm vào trong cát / Máu người chảy thấm vào trong cát” (Cát
trắng). Điệp từ “cát” một mặt đã chuyển sang nghĩa tu từ, mặt khác mang sắc giọng
tác giả: nhấn vào sự hi sinh thầm lặng, sức chịu đựng vô bờ của đất nước và nhân dân
trong chiến tranh. Giọng này tương đồng Thanh Thảo và Nguyễn Khoa Điềm, hơi
181
khác giọng trăn trở, dự cảm của Xuân Quỳnh: “Ngọn gió Lào cát trắng của đời tôi /
Tôi của cát, của gió Lào khắc nghiệt” (Gió Lào cát trắng). Thơ trẻ thời chống Mỹ dồi
dào “cát” và “gió”, không ngẫu nhiên mà Ngô Kha viết trường ca Gió. Gió ám thị
trong thế giới siêu thực, nhà thơ hóa thân vào gió, đối thoại với gió: “gió hôn lên vết
thương / gió săn sóc cho những lần đau giấc ngủ / gió thánh thần / gió đọc kinh cầu
cho tuổi trẻ / gió viết tình yêu ta / như một lần vết chim / gió khắc lên bia đời ta / như
một lần chối bỏ”. Đến Nguyễn Khoa Điềm, “gió” cuộn trào điệp khúc sử thi, mang
âm hưởng thời đại: “Độc lập, Tự do... Gió thổi hào hùng / Gió quét địch suốt chiều
dài mặt phố / Gió xốc dậy những mặt đồng mặt phá / Gió lộng tâm hồn... Ôi gió vinh
quang” (Mặt đường khát vọng).
* Cùng phép điệp là so sánh tu từ. So sánh tu từ là phương thức diễn đạt ngữ
nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai hay nhiều đối tượng khác loại nhưng giống
nhau ở một thuộc tính nào đó, gợi xúc cảm mới về đối tượng. So sánh tu từ bao giờ
cũng có hai vế. Vế 1: hình ảnh so sánh; vế 2: cái đưa ra so sánh. Hai vế liên kết bằng
quan hệ từ “như”, “là”, “hay”. Căn cứ vào thuộc tính của cái đưa ra so sánh (vế 2)
mà người ta có thể nhận dạng giọng điệu. Chẳng hạn, đọc câu ca dao “Thân em như
hạt mưa sa”, “Thân em như giếng giữa đàng”... thì đấy là giọng than thân chứ không
phải giọng nào khác. Hay khi Xuân Diệu viết: “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới”
(Khi chiều giăng lưới), người ta sẽ nhận ra giọng buồn, cô đơn của ông thời Thơ
mới,...
Đối với thơ trẻ thời chống Mỹ, để thể hiện các cung bậc trữ tình, nhất là tạo
dựng khúc tráng ca thời đại, các nhà thơ luôn phải tìm tòi, vận dụng nhiều kiểu so
sánh khác nhau. Với giọng hào sảng lạc quan, đối tượng đưa ra so sánh thường mang
tầm vóc kỳ vĩ, oai hùng; hình ảnh so sánh luôn gắn với hiện thực cuộc kháng chiến
oanh liệt, đầy bi tráng: “Anh tên gì hỡi anh yêu quý / Anh vẫn đứng lặng im như bức
thành đồng” (Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân). Để tăng độ vang âm hưởng,
ngoài so sánh trong nội bộ dòng thơ, các nhà thơ trẻ còn sử dụng kiểu so sánh trùng
điệp. So sánh trùng điệp thực chất là mở rộng vế 2 nhằm khuếch đại vế 1 (tức hình
ảnh so sánh), đẩy nhanh nhịp điệu câu thơ. Đây là kiểu so sánh tỏ ra hữu hiệu trong
việc giúp nhà thơ bày tỏ mạch cảm xúc sôi nổi, nồng nhiệt trước con người và thời đại
182
anh hùng: “Ôi kể làm sao hết được / Những anh hùng đánh Mỹ hôm nay / Như Cửu
Long mênh mông sông nước / Như Trường Sơn đông đặc rừng cây (Gặp những anh
hùng - Lê Anh Xuân). Thuộc tốp đầu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mỹ, theo Hoài
Thanh,“Có thể nói Lê Anh Xuân đã đạt tới cái nhìn anh hùng ca và tìm đúng cái
giọng anh hùng ca” [158, tr.1233]. Còn khi biểu lộ giọng trữ tình tha thiết, Lê Anh
Xuân có kiểu so sánh tách dòng khá độc đáo:
Dấu chân em đẹp quá
Như hoa
Nở trên bến phù sa
(Dòng sông tuổi thơ)
Giọng hào sảng trong thơ Trần Quang Long cũng được kiến tạo bằng so sánh
trùng điệp. Tương tự Lê Anh Xuân và nhiều nhà thơ trẻ khác, hình ảnh đưa ra so sánh
trong thơ ông thường biểu tượng cho sự trường tồn, vĩnh cửu, gắn với đất nước và con
người Việt Nam hào khí: “Chúng ta vẫn đi / Như dãy Trường Sơn không hề mệt mỏi /
Như nước sông Hồng vút cao vòi vọi / Như đồng ruộng Cửu Long em gái vẫn trông
chờ” (Chúng ta vẫn đi).
Đến Xuân Quỳnh, người ta không khó nhận ra nét sắc sảo, đầy nữ tính qua lối
so sánh đặc trưng của nhà thơ; cũng thủ pháp so sánh nhưng không phải âm hưởng
tráng ca: “Tình yêu như tháng năm / Mang gió nồng nắng lửa / Lòng anh là đầm sen /
Hay là nhành cỏ úa ?” (Tháng năm). Với lối so sánh này, khó mà cho rằng Xuân
Quỳnh luôn sôi nổi, hồn nhiên trong tình yêu. Mà đó là giọng nồng hậu, trăn trở đến
hoài nghi: “Lòng anh là đầm sen / hay là nhành cỏ úa ?”. Từ “hay” thay dấu hỏi xoáy
vào vế so sánh thứ nhất: “Lòng anh”. Hơn một lần Xuân Quỳnh “đặt vấn đề” như thế:
“Khi nào ta yêu nhau ?” (Sóng); “Yêu em nhiều không anh ?” (Mùa hoa doi). Đúng
như các tác giả “Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại tập II” nhận xét: “đặc điểm
nổi bật trong giọng điệu thơ Xuân Quỳnh là giọng giãi bày, bộc bạch, bàng bạc lo âu
day dứt” [79, tr.260].
Riêng Thanh Tùng, thủ pháp so sánh đã giúp ông kiến tạo giọng trữ tình da
diết, âm hưởng réo rắt đến nao lòng: “Hoa như mưa rơi rơi / Cánh mỏng manh tan tác
183
đỏ tươi / Như máu ứa một thời trai trẻ / Hoa như mưa rơi rơi / Như tháng ngày qua ta
dại khờ / Ta nhìn sâu vào đôi mắt nhau / Mà thấy lòng đau xót” (Thời hoa đỏ).
Đa dạng các phép điệp và so sánh tu từ như thủ pháp hữu hiệu để kiến tạo
giọng điệu. Năng lực sáng tạo của nhà thơ một phần được “phát lộ” ở đây. Nhà ngôn
ngữ học Đinh Trọng Lạc khẳng định: “Tìm được một so sánh đâu phải dễ dàng, vì đó
là tâm hồn, là tài năng nghệ thuật” [71, tr.193].
3.3.3. Biến đổi cấu trúc câu thơ, gia tăng nhịp điệu
* Biến đổi cấu trúc câu thơ: Để kiến tạo giọng điệu nghệ thuật, nhà thơ tất phải
biến đổi linh hoạt cấu trúc câu thơ, làm cho nó “co duỗi” uyển chuyển, gần với câu
văn xuôi nhưng vẫn là thơ. Cấu trúc câu văn xuôi thường đi với thể loại tự sự; giọng
văn xuôi phổ biến là giọng kể, câu văn xuôi cũng chủ yếu là câu kể. Khi chất văn xuôi
trong thơ được tăng cường, dạng câu kể được các nhà thơ sử dụng ở tần suất cao thì số
tiếng trong câu thơ có xu hướng kéo dài ra, nhất là đối với những bài nghiêng về
giọng triết lí - suy tưởng:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi
Vọng phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn trống mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao hồ để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
(Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)
Cấu trúc câu thơ theo hướng xích gần câu văn xuôi vốn đã “đắc dụng” từ thời
Thơ mới và khởi sắc trong thơ chống Pháp. Đến thơ trẻ thời chống Mỹ, yếu tố văn
xuôi trở nên phổ biến, câu thơ chủ yếu đi bằng nhịp bên trong hòa kết với điệu tâm
hồn và mạch xúc cảm của nhà thơ. Sự “giãn nở” câu thơ tỏ ra ăn nhịp với giọng trữ
tình hướng nội: “tôi yêu đất nước này xót xa / mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không
lấy chồng / thương tôi nên ở góa nuôi tôi / những đứa bà con nhà giàu hằng ngày
chửi bới / chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc,/ như cho một đứa hủi / ngày kị cha
họ hàng thân thích không ai tới / thắp ba cây hương” (Bài thơ của một người yêu
nước mình - Trần Vàng Sao).
184
Theo M. Bakhtin, thơ ca là loại hình nghệ thuật đơn thanh, ngôn ngữ thơ thuộc
ngôn ngữ độc thoại. Nhưng khi cấu trúc câu thơ và kiểu diễn đạt xích gần văn xuôi thì
rõ ràng, khả năng đối thoại sẽ được hé mở, câu thơ “mấp mé” câu văn xuôi mà vẫn
giữ được giọng trữ tình thống thiết: “Thưa mẹ / Năm nay con đã hai mươi lăm tuổi
đầu / Công danh gì chẳng có / Cuộc sống lại cơ cầu / Bữa đói bữa no cậy nhờ bè
bạn... / Bây giờ con sống đây / Bên những người đã chết / Bên những người đang chết
/ Cuộc sống mù lòa giữa mặt trời đen” (Thưa mẹ trái tim - Trần Quang Long).
* Gia tăng nhịp điệu: Người ta có thể tranh cãi về định nghĩa thơ nhưng không
ai nghi ngờ “thơ đi bằng nhịp điệu”. Theo Nguyễn Đăng Điệp, “trong chỉnh thể văn
học, nhịp điệu là một phương diện bộc lộ giọng điệu” [30, tr.43]. Các thủ pháp như
điệp, so sánh tu từ, biến đổi cấu trúc câu thơ (như trình bày trên đây) đều góp phần tạo
sinh nhịp điệu. Tuy nhiên, khi quy định số tiếng, số dòng, gieo vần, phối thanh không
còn nghiêm ngặt như trước (thơ cách luật), thậm chí bị phá vỡ thì thơ phải tìm đến
nhịp điệu bên trong: “Nhịp điệu của thơ không những là nhịp điệu bằng bằng, trắc
trắc, lên bổng xuống trầm... thơ còn có một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu
của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn...” [169, tr.59]. Nói như thế đồng
nghĩa với việc mở rộng cách hiểu nhạc tính trong thơ. Kì thực thơ thường đi cả nhịp
bên ngoài và nhịp bên trong, mất nhịp bên ngoài đã có nhịp bên trong. Mất cả hai thì
không thành thơ: “Vần hay không, tôi vẫn cho là thứ yếu / Nhưng vắng âm thanh réo
rắt đố thành thơ” (Gửi một nhà thơ trẻ - Sóng Hồng). Sự phối hợp nhịp thơ trên từng
dòng và ngắt dòng sẽ tạo sinh nhịp điệu. Khi nhà thơ lựa chọn một thể thơ nào đó tức
là sẽ chọn luôn cả nhịp điệu của nó. Nhưng nhịp điệu không phải nhất thành bất biến
trong mọi thể thơ. Cũng có những thể thơ bao gồm nhiều nhịp ngắt khác nhau (ví dụ
thể lục bát). Bởi vậy việc chọn và tạo nhịp cho thơ bao giờ cũng gắn với điệu thức tâm
hồn nhà thơ. Các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ “canh tác” ở nhiều thể thơ (hầu như
không có ai chỉ “chuyên canh” một thể), theo đó nhịp điệu khá phong phú.
Để biểu đạt các kiểu giọng điệu, nhất là giọng hào sảng lạc quan (chủ âm), các
nhà thơ trẻ thời chống Mỹ đã gia tăng nhịp điệu bằng nhiều cách. Chúng tôi thấy nổi
lên một số cách đáng chú ý sau đây :
185
- Phối xen các thể thơ, tạo điểm dừng bài thơ. Phối xen các thể thơ trong một
bài thơ thường được gọi là thơ hợp thể, một dạng của thơ tự do. Sự xuất hiện thơ hợp
thể, một mặt tuân theo quy luật hình thức chuyển hóa nội dung, mặt khác nó phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể ở nước ta lúc bấy giờ: “Ở trình độ phát triển của thơ ca ta hiện
nay, dùng một lèo thể thơ cũ hoặc chỉ dùng thơ tự do cả cũng không hợp... Cho nên,
tất nhiên phải có một thời kỳ thơ cũ và thơ mới xen kẽ nhau [82, tr.124]. Các nhà thơ
trẻ thời chống Mỹ tỏ ra nhuần nhuyễn trong việc phối xen các thể thơ, sáng tạo những
thi phẩm sinh động, giàu nhạc tính, hòa kết nhịp cuộc sống với điệu tâm hồn. Chẳng
hạn, Lê Anh Xuân “một trong những nhà thơ xuất sắc nhất” (Hoài Thanh) đã thành
công ở những bài thơ sáng tác theo dạng phối xen này: “Nơi đây lúc dịu êm / Đất hiền
như tuổi thơ / Cánh cò bay trong sắc trời lá mạ / Cá quẫy đầm sen thiết tha / Xôn xao
bông súng nở xòa” (Anh đứng giữa Tháp Mười). Bài thơ viết theo thể tự do, đến đoạn
cuối tác giả dành một một khổ năm dòng, trong đó đan xen hai dòng bằng thể thơ sáu
tiếng: “Cá quẫy đầm sen thiết tha / Xôn xao bông súng nở xòa”. Sự xuất hiện hai câu
thơ thể sáu tiếng đã nâng đỡ cho tứ thơ cả đoạn bay bổng hẳn lên. Âm hưởng hùng ca
của những đoạn thơ trước đó, đến đây lại được đan quyện với âm hưởng tình ca, hợp
thành một bản giao hưởng trữ tình - sử thi rất đặc trưng cho hồn thơ tác giả.
Bài Cho người bạn tù sơ sinh của Võ Quê được kết thúc bằng hai câu lục bát
khá ấn tượng. Nhịp thơ thư thái, khoan thai (nhịp 2/2) mà hào sảng, lạc quan: “Bé thơ
ơi, / Đừng khóc để lòng vui / Vắt cơm tù không đủ mặn bờ môi / Ta ngậm đỡ / Ngày
mai ta trả lại / Giặc cùng đường, giặc giam ta đói / Nhưng sợ chi lòng ái quốc ta no /
Đêm nay mẹ cất tiếng hò / Vẳng trong lời mẹ con đò đưa quân”. Trong những thi
phẩm có kiểu kết thúc bằng một hoặc hai câu theo dạng “mở” đã gây được độ dôi dư
về ngữ âm và ngữ nghĩa. Bài thơ dừng lại nhưng âm hưởng vẫn còn ngân nga, lan toả;
hình tượng thơ cứ chập chờn trong tâm trí người đọc: “Cho lòng nổi sóng dập dồn /
Để buồn tím cả nụ hôn giữa dòng / Trời mênh mông, nước mênh mông” (Trời mênh
mông, nước mênh mông - Hoài Vũ). Bài thơ khép lại bằng một dòng lục: “Trời mênh
mông, nước mênh mông” gợi cảm giác chưa dứt nhạc tính, nhịp điệu vọng ra ngoài
con chữ. Tương tự, Phạm Tiến Duật (Cô bộ đội ấy đã đi rồi, Nhớ về lũ trẻ,...), Nguyễn
Mỹ (Cuộc chia ly màu đỏ),... đều tạo điểm dừng bài thơ theo dạng mở như thế.
186
- Đa dạng các nhịp ngắt: Như trên đã đề cập, thơ trẻ thời chống Mỹ kế thừa các
thể thơ truyền thống và thơ tự do đã được thiết lập trước đó. Điểm khác là thể thơ tự
do được sử dụng phổ biến hơn. Theo nhà nghiên cứu Mã Giang Lân, “Thơ tự do
chiếm tỷ lệ cao nhất ở các tập thơ những cây bút trẻ (từ 60 đến 70%)” [73, tr.355]. Xu
hướng chung là càng về cuối cuộc chiến, thể thơ tự do càng gia tăng. Chẳng hạn, Lưu
Quang Vũ, nếu tập Hương cây thơ tự do chiếm 85,5% (17/20 bài), thì đến tập Bầy ong
trong đêm sâu, thơ tự do chiếm 100% (40/40 bài); Xuân Quỳnh, thơ tự do trong Hoa
dọc chiến hào 18/28 (64,3%), đến Gió Lào cát trắng tăng lên 30/36 bài (83,3%). Ở
đây nảy sinh vấn đề sáng tạo của các cây bút trẻ thời chống Mỹ khi kế thừa các thể thơ
mà thế hệ trước để lại. Chúng tôi coi đa dạng các nhịp ngắt như thủ pháp để nhà thơ
“thiết kế” nhịp điệu, hướng tới biểu đạt giọng điệu. Thực ra trong Thơ mới và thơ
kháng chiến chống Pháp đã có sự sáng tạo này. Đến thời chống Mỹ, các nhà thơ trẻ
tiếp tục phát triển thêm, nảy ra những dấu ấn cách tân đáng ghi nhận.
Dấu hiệu dễ nhận thấy là ở thể lục bát. Được coi là thể thơ thuần dân tộc, thơ
lục bát chủ yếu ngắt nhịp chẵn (lấy nhịp 2/2 làm nền tảng). Nhưng đó là trong ca dao,
còn thơ ca bác học thì dĩ nhiên đã có nhiều biến hóa. Chẳng hạn, nhịp 2/1/3 và
2/1/3/2: “Hỏi tên rằng: Mã Giám sinh - Hỏi quê rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”
(Kiều - Nguyễn Du). Đến thơ trẻ thời chống Mỹ, thơ lục bát có xu hướng bớt cái mượt
mà, chải chuốt, tăng chất trẻ trung, khỏe khoắn. Nhịp nhanh hơn, phù hợp với nhịp
cuộc sống hiện đại mà vẫn biểu đạt được cảm xúc đa dạng, phong phú của thể thơ dân
tộc. Sự biến đổi nhịp điệu được thể hiện ở nhịp ngắt trong dòng thơ:
Mộc nhĩ / là tai của rừng (nhịp 2/4)
Cái đập / tai của một vùng / con đê (nhịp 2/4/2)
(Cái tai - Phạm Tiến Duật)
Và cũng có thể biến đổi nhịp điệu bằng thủ pháp vắt dòng; tức câu thơ được
ngắt ra nhiều dòng - điều mà lục bát truyền thống không hề xảy ra (kể cả Nguyễn Du).
Vắt dòng là ngắt giọng, chuyển nhịp, sắc thái biểu cảm rung theo nhịp ngắt. Về thủ
pháp này phải nói đến Nguyễn Duy. Để khẳng định sức sống dẻo dai, trường tồn của
đất nước và con người Việt Nam qua biểu tượng cây tre, để ngân lên âm hưởng ngợi
187
ca phẩm chất và bản lĩnh dân tộc, mở đầu bài Tre Việt Nam, tác giả ngắt ở dòng lục
(nhịp 2/4):
Tre xanh /
Xanh tự bao giờ ?/
Chuyện ngày xưa... /đã có bờ tre xanh (nhịp 3/5)
Kết thúc cũng ngắt ở dòng lục, điệp từ “mai sau” như lớp sóng ngôn từ thấm
vào lòng người, lan tỏa vào thời gian vĩnh viễn:
Mai sau,
Mai sau,
Mai sau...
Đất xanh tre / mãi xanh màu / tre xanh (nhịp 3/3/2)
Đối với thơ tự do, ngắt nhịp và vắt dòng lại càng đa dạng hơn. Nếu thơ cách
luật, câu thơ trùng khít dòng thơ, nhịp ngắt được quy định chặt chẽ (nhịp 4/3 đối với
thơ luật Đường thất ngôn, nhịp 3/4 đối với hai câu thất trong thơ song thất lục bát); thì
thơ tự do lại rất linh hoạt, nhiều biến hóa. Thơ tự do phân biệt với thơ cách luật ở đặc
tính “tự do” của nó. Tuy nhiên dù tự do đến đâu, đã là thơ thì không thể thiếu tiết tấu,
nhịp điệu. Có điều, do phá vỡ “chế ước” về số tiếng, số dòng, gieo vần, phối thanh
nên thơ tự do rất chú ý đến ngắt nhịp sao cho có nhạc tính, tránh trúc trắc, khó đọc.
Nhịp ngắt trong thơ tự do phóng khoáng, biến đổi linh hoạt theo dòng suy cảm của
nhà thơ. Hiện thực chiến tranh vốn sôi động, khẩn trương, đầy căng thẳng. Nhìn
chung, nhịp điệu trong thơ trẻ thời chống Mỹ là nhịp điệu của hiện thực cuộc sống
đang diễn ra:
Sau những loạt B.52 / mặt đất lặng im /
Chỉ có tiếng bàn tay / là rõ nhất /
Tiếng xẻng cuốc / cứu người thân / hầm sập /
Tiếng nước / dội vào lửa /
Tiếng mười đầu ngón tay / buốt nhức /
Bới tìm người chết /
Tiếng chổi vén vun, / tiếng lên đạn súng trường /
(Tin ở bàn tay - Lâm Thị Mỹ Dạ)
188
Thơ Ngô Kha chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng siêu thực (giọng
buồn, oán trách, cô đơn). Nhưng cũng có một số bài được sáng tác theo khuynh hướng
hiện thực. Ở những bài như thế, Ngô Kha ngắt nhịp, vắt dòng rất uyển chuyển, giọng
thơ tươi tắn, lạc quan, không thua kém thơ ca cách mạng:
ta cũng sẽ không còn /
ở mãi trong vòng đai / ngục tù thành phố /
vì ta phải thấy /
và / nhất định thấy /
ngày kia /
một đô thị vàng / trên đồi Lao Bảo /
một thị trấn yêu kiều / qua ngõ làng Vây /
(Cho những người nằm xuống)
Đúng như ý kiến của Valéry: “Thơ là sự phân vân kéo dài giữa âm thanh và ý
nghĩa”. Dư vị thơ bao gồm cả âm và nghĩa. Gia tăng nhịp điệu là yêu cầu tự thân của
thơ trẻ thời chống Mỹ. Có nhiều thủ pháp để gia tăng, trong đó có phối xen các thể
thơ, đa dạng các nhịp ngắt. Tất cả đều nhằm mục đích kiến tạo giọng điệu. Nhà nghiên
cứu Nguyễn Đăng Điệp khẳng định: “nhịp điệu chịu sự chi phối của giọng điệu, giọng
điệu được bộc lộ qua nhịp điệu” [30, tr.44]. Thơ trẻ thời chống Mỹ đã góp phần làm
mới nhịp điệu, làm mới thể thơ, đủ “năng lượng” chuyển tải các kiểu giọng nghệ
thuật.
● Tiểu kết
Một tác phẩm có hồn phải là tác phẩm có giọng; một dòng thơ đỉnh cao phải là
dòng thơ đa giọng. Giọng điệu giữ vai trò thiết yếu trong việc xác lập giá trị tác phẩm,
lớn hơn là xác lập giá trị cho cả dòng thơ. Đồng thời, giọng điệu còn chi phối các
phương diện hình thức khác như cách xây dựng nhịp điệu, kết cấu, khả năng điều phối
kĩ thuật sử dụng hình ảnh, thể thơ, gieo vần, dùng từ,…tạo thành mối quan hệ bên
trong, góp phần làm nên sự thống nhất của tác phẩm. Việc xuất hiện nhiều kiểu giọng
điệu trong thơ trẻ thời chống Mỹ là nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của thời đại đầy
biến động, tạo nên một dàn “đại hợp xướng” hào hùng, giàu sắc thái trữ tình với nhiều
bè đệm khác nhau. Thơ trẻ thời chống Mỹ là sự thống nhất của nhiều kiểu giọng:
189
giọng hào sảng lạc quan, giọng trữ tình thống thiết, giọng triết lí suy tưởng, giọng day
dứt tự vấn. Song tất cả hầu như đều xoay quanh một trục chính, một âm hưởng bao
quát của cả dòng thơ. Đó là giọng hào sảng, lạc quan - sản phẩm của cảm hứng lãng
mạn - sử thi lưu dấu một thời đất nước đau thương và hùng tráng. Mặt khác, cũng phải
thấy rằng, nhiều kiểu giọng điệu đã không làm lu mờ hay “nhòe lẫn” giọng riêng của
từng nhà thơ tài năng. Trong thực tế, qua “kiểm định” của thời gian, những cây bút
tiêu biểu của dòng thơ trẻ thời chống Mỹ khi đã “thiết lập” được sắc giọng riêng của
mình thì “bản quyền” của họ vẫn luôn thuộc về họ. Và đó là cơ sở để khẳng định dòng
thơ này đủ “sinh khí” để trường tồn trong lịch sử thơ ca dân tộc, neo đậu mãi trong
tâm thức người đọc. Đúng như lời của nhà thơ lớn người Đức Friedrich Schiller: “Ai
đã dám sống hết mình với thời đại của mình thì cũng sẽ còn để lại giá trị có ý nghĩa
cho cả mọi thời đại sau đó nữa” [199, tr.2].
190
KẾT LUẬN
1. Gần 40 năm cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, 20 năm Việt Nam và Hoa
Kì bình thường hóa quan hệ, chuyển đối thủ thành đối tác - hợp tác, lịch sử sang trang,
hận thù khép lại. Xuôi dòng thời gian, hầu như mọi dấu tích chiến tranh trên mặt đất,
nay đã dần xóa mờ, sự sống hồi sinh. Tuy vậy, trong thơ ca nghệ thuật, “di tích” tâm
trạng, “di tích” sự kiện thì vẫn tươi nguyên, vẫn tiềm ẩn nhiều vấn đề cần tiếp tục
được nghiên cứu và lí giải. Về thơ thời chống Mỹ, theo chúng tôi, biên độ thời gian
của nó trùng với cuộc chiến tranh đã được ghi trong lịch sử (1955 - 1975); còn chặng
1965 - 1975 có thể coi là phong trào thơ chống Mỹ (chứ không phải thơ chống Mỹ chỉ
trên dưới 10 năm như một số tài liệu trước đây xác định).
Nhìn vào thực tế càng thấy rõ, ở tầm nhân loại, một trong những sự kiện nổi
bật của thế kỉ XX là cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam thắng lợi.
Còn miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm tháng ấy, thành tựu đáng
ghi nhận nhất (như chúng tôi nghĩ) là xây dựng được một hậu phương lớn cho tiền
tuyến lớn, mà trên hết là tinh thần, ý chí “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Thực tế mọi cơ sở hạ tầng đều đổ nát bởi bom đạn khủng khiếp của không lực Hoa
Kỳ. Về văn học cũng vậy; ngoảnh lại, mảng thơ ca viết về đề tài lao động sản xuất,
xây dựng chủ nghĩa xã hội, qua năm tháng, hầu hết đều phai nhạt, không mấy khi
được nhắc đến - kể cả người đã sản sinh ra nó. Riêng mảng “Thơ ca đấu tranh thống
nhất nước nhà” (đề tài thứ 2 - tên gọi quen thuộc thời ấy) thì, bất chấp thời gian, nay
vẫn neo đậu mãi trong tâm thức người đọc, tỏ ra dồi dào sức sống. Nếu lấy 1955 làm
mốc khởi đầu nền thơ ca chống Mỹ, thì tên gọi “Thơ đấu tranh thống nhất nước nhà”
(chặng 1955 - 1964) nay đã không còn phù hợp (kì thực, đó là chặng thứ nhất của thơ
kháng chiến chống Mỹ 1955 - 1975).
2. Khởi phát từ những năm đầu thập niên 60, lớn mạnh nhanh chóng, trở thành
lực lượng chủ lực, thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ (gọi tắt “Thơ trẻ thời
chống Mỹ”) là hiện tượng nghệ thuật tỏa sáng trong nền thơ Việt Nam hiện đại, góp
phần không nhỏ vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà.
Bằng tài năng, lòng nhiệt tình, ý thức trách nhiệm với Đất nước, Nhân dân cùng
nguồn tri thức mới, với điểm nhìn cận cảnh, sát thực, các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ
191
đã tạo dựng được một dòng thơ đa dạng mà thống nhất về cảm hứng và giọng điệu,
đậm dấu ấn thế hệ.
- Là một bộ phận hợp thành nền thơ ca chống Mỹ, thơ trẻ lấy cảm hứng lãng
mạn - sử thi làm chủ đạo. Đây là sự lựa chọn tất yếu, thống nhất, xuất phát từ cuộc
kháng chiến vốn đã như huyền thoại, đậm đặc sắc thái sử thi. Sản phẩm của cảm hứng
lãng mạn - sử thi được thể hiện qua hệ thống hình tượng: Hình tượng Tổ quốc, hình
tượng Nhân dân, hình tượng Đảng và Lãnh tụ. Mỗi hình tượng lại được soi chiếu từ
nhiều góc độ, mở ra lớp nghĩa mới. Chiêm ngưỡng Tổ quốc từ chiều sâu văn hóa, các
nhà thơ trẻ có xu hướng tiếp nối, kế thừa hơn là hạ thấp xưa để đề cao nay, không ca
ngợi Tổ quốc trong thời đại chống Mỹ bằng so sánh thấp - cao với những cuộc kháng
chiến của ông cha trong lịch sử. Hình tượng Nhân dân trong thơ trẻ là số đông vô
danh, anh hùng nhưng cũng gánh trên mình nỗi đau lịch sử. Hình tượng Đảng và Lãnh
tụ được các nhà thơ trẻ chiêm ngưỡng, ngợi ca nhưng chưa đến mức cực đoan, thần
thánh hóa. Đó là những nét riêng, là “cái khác” của thơ trẻ thời chống Mỹ nhìn từ tổng
thể.
Cảm hứng lãng mạn - sử thi áp đảo nhưng không duy nhất, xung quanh nó vẫn
xuất hiện một số dạng cảm hứng khác, tồn tại như những phụ lưu. Có phụ lưu thống
nhất với dòng chủ lưu, có phụ lưu tạm thời gặp trở ngại (như cảm hứng đời tư thế sự)
nhưng vẫn âm ỉ như mạch nước ngầm để mấy chục năm sau được hồi sinh, chứng tỏ
sự đa dạng về cảm hứng nghệ thuật trong thơ trẻ thời chống Mỹ.
Cảm hứng dấn thân - nhập cuộc, biến thể gần của cảm hứng lãng mạn - sử thi
đã làm xuất hiện cái tôi thế hệ. Đây là một trong những đặc điểm nổi bật của thơ trẻ
thời chống Mỹ. Cái tôi thế hệ là sự tổng hợp, thẩm thấu, thống nhất giữa cái tôi sử thi
với cái tôi người lính và cái tôi tuổi trẻ, thể hiện khát vọng của thế hệ nhà thơ cống
hiến, tự khẳng định mình, với cách nhìn, cách cảm mới trước cuộc đời: “Bài hát của
chúng tôi / Thô sơ và hực sáng / Mang lẽ đời đơn giản / Nói được tới ngày mai” (Bài
ca ống cóng - Thanh Thảo). Từ cái tôi thế hệ, các nhà thơ trẻ đã nâng mình lên, đưa tư
duy nghệ thuật đến tầm mức cao hơn, tạo nên kiểu tư duy thơ hướng ngoại, đan xen và
gia tăng chất triết lí, suy tư.
192
Thơ trẻ thời chống Mỹ, nhất là vào chặng cuối cuộc chiến đã có sự giao thoa
giữa cái nhìn sử thi và yếu tố thế sự, giữa lí tưởng với hiện thực, giữa không gian công
cộng với không gian đời tư. Mối quan tâm về số phận cộng đồng có xu hướng dung
nạp thêm mối quan tâm về số phận cá nhân, quyền tự do của con người. Cảm hứng
đời tư - thế sự xuất hiện trong thơ trẻ thời chống Mỹ tuy chưa đậm nét nhưng rất đáng
ghi nhận, nó góp phần đưa thơ vào chiều sâu hướng nội.
- Thuộc phương diện hình thức chuyển tải cảm hứng, giọng điệu thơ trẻ thời
chống Mỹ là sản phẩm của một quá trình sáng tạo, tự nó là một hệ thống trong hệ
thống lớn hơn. Các yếu tố trong hệ thống ấy (kiểu giọng, thủ pháp kiến tạo giọng) có
tác động qua lại, liên quan mật thiết nhằm bộc lộ cái nhìn và thái độ của một thế hệ
nhà thơ về đất nước và con người trong những năm tháng khốc liệt của chiến tranh.
Nhìn tổng quan, có thể khẳng định, đó là dòng thơ phong phú, đa dạng về sắc thái
giọng điệu: Phạm Tiến Duật tinh nghịch, hóm hỉnh; Bằng Việt tinh tế, lịch lãm; Thanh
Thảo đằm thắm, sâu sắc; Hữu Thỉnh sôi nổi, chân tình; Lưu Quang Vũ tài hoa, đa
đoan; Dương Hương Ly da diết; Nguyễn Khoa Điềm trầm lắng, suy tư; Lê Anh Xuân
tươi tắn; Xuân Quỳnh khát khao đầy dự cảm; Lâm Thị Mỹ Dạ dịu dàng; Phan Thị
Thanh Nhàn duyên thầm, kín đáo; Nguyễn Duy chân chất, dân dã mà sâu xa; Trần
Quang Long nhiệt thành, nhiều thổn thức; Ngô Kha ám ảnh những bi kịch chiến tranh;
Chim Trắng thủ thỉ; Trần Vàng Sao mạnh mẽ; Vũ Ngàn Chi hào hùng;... Mỗi nhà thơ
tài năng đều có giọng điệu cá thể và mỗi giai đoạn văn học lại có giọng điệu “siêu cá
thể”, cả hai kết thành giọng điệu chung của thời đại. Thơ trẻ thời chống Mỹ nằm trong
“giàn đồng ca” thơ chống Mỹ nhưng vẫn có những giai điệu riêng khó lẫn. Ngoài
giọng hào sảng lạc quan (sản phẩm của cảm hứng lãng mạn - sử thi) làm chủ âm;
giọng trữ tình thống thiết và giọng day dứt tự vấn là hai kiểu giọng khá đặc trưng của
thơ trẻ thời chống Mỹ. Trong đó, một số âm sắc đã vượt ra ngoài quỹ đạo chung để có
cách nhìn và cách cảm nhận khác: trăn trở trước thân phận con người, sẻ chia với nỗi
đau đất nước. Riêng giọng triết lí suy tưởng, các nhà thơ trẻ đã mở rộng biên độ, kể cả
triết lí chiến tranh từ tổn thất đau thương. Rõ ràng giọng điệu nghệ thuật góp phần làm
nên nét độc đáo, trường tồn của thơ trẻ thời chống Mỹ.
193
3. Trên phương diện nghệ thuật, thơ trẻ thời chống Mỹ có những đóng góp khá
nổi bật trong việc cách tân, hiện đại hóa các thể thơ. Táo bạo và sẵn sàng trải nghiệm,
thơ trẻ không chỉ góp phần giải đáp những vấn đề về thi pháp, về lí luận thơ, mà còn
phát triển thành những khuynh hướng thực tiễn, làm tăng chất đời và sức hấp dẫn của
dòng thơ mô tả chiến tranh từ góc nhìn của người trong cuộc. Về ngôn ngữ, bằng việc
tăng cường yếu tố khẩu ngữ, yếu tố văn xuôi, các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ đã đưa
ngôn ngữ thơ về gần hơn với ngôn ngữ đời thường; câu thơ trở nên tươi mới và giàu
sức sống. Việc xây dựng hàng loạt biểu tượng nghệ thuật từ các hình ảnh quen thuộc
như màn đêm, con đường, lửa, dòng sông và đất, cùng những màu sắc có ý nghĩa biểu
trưng đã giúp thơ trẻ thời chống Mỹ có thêm chiều sâu suy cảm, tăng hiệu năng khám
phá hiện thực, biểu hiện tâm tư con người trong thế đa diện, đa chiều.
4. Bên cạnh những thành tựu đạt được, thơ trẻ thời chống Mỹ cũng gặp phải
một số hạn chế. Nhìn tổng quát, thơ thời chống Mỹ nói chung, thơ trẻ nói riêng phản
ánh cuộc sống và thể hiện con người chưa thật toàn diện. Điều này liên quan đến hoàn
cảnh chiến tranh. Trong chiến tranh, nhiều đối tượng cần được ưu tiên, nhiều sự thật
phải kiêng kị và dè dặt, không phải mọi vấn đề của hiện thực và tâm trạng nhà thơ đều
được phơi trải trên trang viết. Sự phiến diện, đơn chiều trong thơ là khó tránh khỏi. Do
tập trung vào sự tồn vong của cộng đồng nên nhiều khi nhu cầu, khát vọng của mỗi cá
nhân chưa được nhà thơ đặt ra như mối quan tâm hàng đầu. Một số bài thơ nặng mục
đích tuyên truyền, chất lượng nghệ thuật chưa cao.
Tuy nhiên, những hạn chế trên đã không làm phai mờ giá trị của thơ trẻ thời
chống Mỹ. Mang khát vọng chân chính, mãnh liệt của nhân dân, của toàn dân tộc,
bằng giọng điệu riêng của thế hệ mình, vượt qua sàng lọc nghiệt ngã của thời gian, thơ
trẻ thời chống Mỹ ngày càng khẳng định được vị trí tỏa sáng trong lịch sử thơ ca dân
tộc. Bốn mươi năm cuộc chiến kết thúc, dòng thơ này đủ độ lắng để kết thành giá trị
văn hóa. Lịch sử sang trang, nhiều vấn đề cần được nhìn nhận lại: có cái bất biến có
cái khả biến, có tinh hoa có đào thải, có cái quá khứ để lại quá khứ, có cái quá khứ để
lại cho hôm nay và mai sau; phủ nhận hay bảo thủ đều không công bằng, thiếu khoa
học.
194
5. Tóm lại, thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ là hiện tượng nghệ
thuật độc đáo, đa phong cách, nhiều giọng điệu. Ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt,
khi sự sống còn của dân tộc bị thách thức, vận mệnh của đất nước được đưa lên hàng
đầu, cảm hứng nghệ thuật dồn vào tâm điểm chống ngoại xâm, cứu Tổ quốc cũng là
tất yếu, không thể khác được. Nhà thơ, trước hết là một công dân, họ không thể mải
mê với lạc thú của riêng mình mà lảng tránh trách nhiệm với quê hương xứ sở. Vả lại,
không thể nói thơ đánh giặc kém hấp dẫn, ít giá trị so với thơ đời thường, thơ tình dục
- tình yêu. Thơ nào giúp con người sống đẹp, sống tử tế, lành mạnh, có trách niệm với
đất nước, với cộng đồng thì đều có giá trị như nhau. Thơ trẻ thời chống Mỹ, bỏ ra một
số sáng tác mắc “lỗi kĩ thuật”, lỗi “minh họa dễ dãi”; còn lại đích thực là dòng thơ
đỉnh cao, đạt được thành tựu cả nội dung và hình thức. Thời gian là thước đo chuẩn
xác để khẳng định điều đó.
Sau cùng, muốn khám phá thơ trẻ thời chống Mỹ (trong đó có cảm hứng và
giọng điệu) thì phải đặt nó vào bối cảnh mà nó sinh thành, tức trạng huống sử thi,
không thể đọc thơ kháng chiến bằng tư duy kinh tế thị trường, bằng cái nhìn đời tư
thuần túy như thơ thời hội nhập. Và chừng nào nền độc lập chủ quyền của đất nước,
sự toàn vẹn lãnh thổ đang bị đe dọa thì thơ chống Mỹ nói chung, dòng thơ trẻ thời ấy
nói riêng vẫn còn phát huy hiệu năng của nó. Bài thơ Tổ quốc nhìn từ biển của
Nguyễn Việt Chiến làm “bùng nổ” thơ năm 2011, khơi dậy lòng yêu nước của muôn
người trước trạng huống biển đảo bị xâm phạm là minh chứng về điều đó:
Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc
Các con nằm thao thức phía Trường Sơn
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả ...
Trong hồn người có ngọn sóng nào không ?
195
CÁC CÔNG TRÌNH, BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN
1.
2.
3.
4.
5.
Cái tôi trữ tình trong thơ chống Mỹ, Tạp chí Khoa học Xã hội, Viện Khoa học Xã hội Vùng Nam Bộ, số 9 - 2009, tr. 45 - 54. Biên độ thơ chống Mỹ, Tạp chí Khoa học Xã hội, Viện Khoa học Xã hội Vùng Nam Bộ, số 5 - 2012, tr. 32 - 38. Giọng điệu thơ chống Mỹ, Tạp chí Đại học Sài Gòn, chuyên đề Bình luận văn học, niên giám 2012, tr. 82 - 90. Thơ trẻ thời chống Mỹ: tiếp cận khái niệm, Tạp chí Khoa học Xã hội, Viện Khoa học Xã hội Vùng Nam Bộ, số 5 - 2014, tr. 33 - 42. Giọng thơ Lê Anh Xuân, Tạp chí Khoa học Xã hội, Viện Khoa học Xã hội Vùng Nam Bộ, số 1 - 2011, tr. 43 - 47.
7.
6. Biểu trưng nghệ thuật trong thơ Lê Anh Xuân qua hình ảnh cây dừa, dòng sông và đất, Lí luận phê bình Văn học Nghệ thuật, Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương, số 22 - 2011, tr. 42 - 47. Thơ Lê Anh Xuân, ánh lửa của lòng yêu quê hương đất nước, báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam, số 18 + 19 - 2010, tr.17.
9.
8. Màu sắc trong thơ Lê Anh Xuân nhìn phương diện thi pháp học, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam, số tháng 4- 2010, tr. 44 - 46 Lê Vĩnh Hòa, nhà văn - nhà báo xuất sắc thời chống Mỹ, báo Văn nghệ, Liên hiệp các Hội VHNT Tp Hồ Chí Minh, số 72 - 2009, tr. 14.
10. Tấm lòng một nhà thơ miền Nam nhớ Bác, báo Văn nghệ, Liên hiệp các
Hội VHNT Tp Hồ Chí Minh, số xuân Tân Mão 2011, tr.12.
11. Ngôn ngữ thơ như tôi biết, báo Văn nghệ, Liên hiệp các Hội VHNT Tp Hồ
Chí Minh, số 80 - 2009, tr. 17 - 18.
12. Tản mạn chuyện thơ, Văn nghệ Cần Thơ, Liên hiệp các Hội VHNT Tp
Cần Thơ, số 46 - 2009, tr. 83 - 85.
13. Thơ Kiên Giang đương đại cảm và luận, Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, số 156 - 2008, tr. 34 - 36. 14. Phê bình văn học xưa và nay, Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, Ủy ban toàn
quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, số 171 - 2009, tr. 44 - 47.
15. Văn chương, cận văn chương nghĩ và viết (Tiểu luận, phê bình), Nxb
Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 2014.
196
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aristôte (1999), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn học, Hà Nội.
2. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945 - 1995 (Nhìn từ phương
diện sự vận động của cái tôi trữ tình), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm định,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (1986), “Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám - một
nền sử thi hiện đại”, Tạp chí Văn học (2), tr. 34 - 42.
5. Mai Bá Ấn (2008), “Trường ca Thu Bồn, thể loại và cấu trúc”, Tạp chí Văn
học, (2), tr. 54 - 72.
6. M. Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển
chọn, dịch và giới thiệu), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
7. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đostoevski (Trần Đình Sử, Lại
Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1968), “Thư gửi Đại hội Văn nghệ toàn
quốc lần thứ IV”, Tạp chí Văn học (2 và 3), tr. 2 - 6.
9. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), Tài liệu nghiên cứu, quán triệt Nghị
quyết 23-NQTW của Bộ Chính trị, khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Ban Biên soạn bạn chiến đấu bảo vệ thị xã - Thành Cổ Quảng Trị 1972
(2008), Khúc tráng ca Thành Cổ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
11. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí
Văn học (9), tr. 66 - 73.
12. Giang Khắc Bình (2008), Một số phong cách tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ
trẻ chống Mỹ (Luận án tiến sĩ), Viện Văn học, Hà Nội.
13. Miselle Cahill (2008), “Thái độ khiêm nhường trong tác phẩm của Thanh
Thảo” (Lương Lê Giang dịch), Tạp chí Thơ (4), tr. 24 - 35.
14. Nguyễn Phan Cảnh (2000), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
15. Hoàng Cầm (2008), “Nghĩ về thơ Lê Huy Quang”, báo Văn nghệ (11), tr.9.
197
16. Anh Chi (2008), “Thơ viết dọc đường đời”, báo Văn nghệ (17 + 18), tr. 7.
17. Anh Chi (2009), “Bằng Việt một chặng đường thơ”, báo Văn nghệ (17+18),
tr. 26.
18. Đỗ Chu (2009), “Một người của Trường Sơn”, Tạp chí Thơ (5), tr. 30 - 46.
19. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học lí luận và ứng dụng, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
20. Xuân Diệu (1976), “Vài suy nghĩ về 30 năm thơ Việt Nam”, báo Văn nghệ
(36), tr.6.
21. Xuân Diệu (1978), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy, Nxb Tác
phẩm mới, Hà Nội.
22. Phạm Tiến Duật (1995), “Nửa thế kỷ thơ Việt Nam (1945 - 1995), sự bùng
sáng của cảm hứng dân tộc”, báo Văn nghệ, (36), tr.7.
23. Phạm Tiến Duật (2009), “Vừa làm vừa nghĩ”, Tạp chí Thơ (5), tr. 73 - 84.
24. Đinh Xuân Dũng (2003), Hiện thực chiến tranh và sáng tạo văn học, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
25. Lê Tiến Dũng (2004), Giáo trình lí luận văn học, Đại học Quốc gia Tp Hồ
Chí Minh.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
27. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975 (tập1),
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
29. Nguyễn Đăng Điệp (2005), “Thơ chống Mỹ thành tựu và những kinh nghiệm
nghệ thuật”, báo Thơ, (23), tr.11.
30. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà
Nội.
31. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
32. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học - Trung
tâm nghiên cứu Quốc học, TP Hồ Chí Minh.
198
33. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại (tái
bản lần thứ nhất), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34. Bảo Định Giang (1966), “Từ Tuyên ngôn của Hội Văn nghệ giải phóng đến
Giải thưởng văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu”, Tạp chí Văn học (7), tr. 31- 36.
35. Nguyễn Giang (2008), “Lòng mến yêu dành cho các nhà thơ”, Tạp chí Thơ
(2), tr.107 - 111.
36. G.W.Ph. Hegel, (2005), Mỹ học (Phan Ngọc dịch và giới thiệu), Nxb Văn
học, Hà Nội.
37. Hồ Thế Hà (2005), “Nghĩ về triết lí trong thơ”, Nghiên cứu Văn học (9), tr.34
- 42.
38. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn
học (Bổ sung, chỉnh lí), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
39. Tế Hanh, Khái Vinh (1971), “Thơ miền Nam, tiếng hát của quê hương”, Tạp
chí Văn học (5), tr. 29 - 36.
40. Tế Hanh (2002), “Nhớ lại những chặng đường thơ”, Tạp chí Văn học (9),
tr.74 - 79.
41. Nguyễn Văn Hạnh (1970), “Vầng trăng và quầng lửa, tập thơ đầu tay của
Phạm Tiến Duật”, báo Văn nghệ (363), tr. 7.
42. Nguyễn Văn Hạnh, (2002), Văn học, văn hóa vấn đề và suy nghĩ, Nxb Khoa
học Xã hội.
43. Nguyễn Văn Hạnh (2006), “Quan hệ giữa tôn giáo và thơ ca trong thế giới
biểu tượng”, Nghiên cứu Văn học (9), tr. 55 - 64.
44. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học, vấn đề và
suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Bùi Bích Hạnh (2012), Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975
(Luận án tiến sĩ), Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh.
46. Phạm Thị Hoan (2008), Đặc điểm thơ nữ thế hệ chống Mỹ (Luận văn thạc sĩ),
Đại học Vinh.
47. Lưu Hiệp (1977), Văn tâm điêu long (Phan Ngọc dịch), Nxb Văn học, Hà
Nội.
199
48. Trần Thị Mỹ Hiền (2013), Thế giới siêu thực trong thơ Ngô Kha (Khóa luận
tốt nghiệp đại học), Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học
xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh.
49. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội.
50. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (Đồng chủ
biên) (2004), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.
51. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp học hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
52. Nguyễn Trọng Hoàn (tuyển chọn và biên soạn) (1999), Nhà văn và tác phẩm
trong nhà trường: Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Lê Hoàng - Nguyễn Công Khế - Lê Văn Nuôi (Đồng chủ biên) (1993), Tiếng
hát những người đi tới, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
54. Lê Thị Bích Hồng (2010), Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
55. Lê Thị Bích Hồng (2010), “Chuyển biến nhận thức của đội ngũ nhà thơ trẻ
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam
(184), tr.13 - 15.
56. Denis Huisman (2001), Mỹ học (Huyền Giang dịch), Nxb Thế giới, Hà Nội.
57. Bùi Công Hùng (1974), “Sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ trẻ ở miền
Nam”, Tạp chí Văn học (2), tr. 15 - 23.
58. Bùi Công Hùng (1983), Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
59. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
60. Bùi Công Hùng (2000), Sự cách tân của thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
61. Châu Minh Hùng (2010), “Nhạc điệu thơ Việt trên nền của luật hòa thanh”,
Nghiên cứu Văn học (2), tr. 81 - 95.
62. Đoàn Hương (2004), Văn luận, Nxb Văn học, Hà Nội.
200
63. Đoàn Hương (2004), “Thơ phải chạm đến trái tim con người”, Tạp chí Nhà
văn (2), tr.46 - 54.
64. Mai Hương (1981), “Nghĩ về đóng góp của đội ngũ trẻ trong thơ chống Mỹ”,
Tạp chí Văn học (1), tr. 92 - 98.
65. Trần Thiện Khanh (2008), “Nguyên lí cấu trúc nhịp thơ”, Tạp chí Thơ (4),
tr.54 - 68.
66. Nguyễn Huy Khánh (1976), “Hai mươi năm văn học yêu nước tại các thành
thị miền Nam (1954 - 1975)”, Tạp chí Văn học (6), tr. 32 - 46.
67. Ma Văn Kháng, (2012), “Phác thảo chân dung nhà văn thế hệ 3X, 4X”, báo
Văn nghệ (41), tr. 8.
68. Trần Đăng Khoa (2011), “Đọc thơ Lâm Thị Mỹ Dạ” (trong Lâm Thị Mỹ Dạ
tuyển tập), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
69. M.B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lí luận và phương pháp luận
nghiên cứu văn học (Lại Nguyên Ân- Duy Lập- Lê Sơn- Trần Đình Sử dịch),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
70. M.B. Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
văn học (Lê Sơn - Nguyễn Minh dịch), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
71. Đinh Trọng Lạc (1997), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
72. Tôn Phương Lan (2011), “Nữ tính trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ”, Tạp chí Thơ
(11), tr. 46 - 54.
73. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
74. Mã Giang Lân (1995), “Tìm một định nghĩa cho thơ”, Tạp chí Văn học, (12),
tr. 30 - 33.
75. Mã Giang Lân (1992), “Nhìn lại thơ 30 năm chiến tranh”, Tạp chí Văn học
(2), tr. 41 - 52.
76. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam hiện
đại (Phê bình - Tiểu luận), Nxb Lao động, Hà Nội.
77. I.P. Lin và E.A.Tzurganova (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các
trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX (Đào Tuấn
201
Ảnh - Trần Hồng Vân - Lại Nguyên Ân dịch), Nxb Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
78. L.S. Lisevich (1993), Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa (Trần Đình Sử
dịch), Trường ĐHSP Tp Hồ Chí Minh ấn hành.
79. Nguyễn Văn Long (chủ biên) (2007), Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại
tập II, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
80. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
81. Nguyễn Văn Long (2001), Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
82. Nguyễn Văn Long (chủ biên), Lê Mai, Phạm Khánh Cao (1983), Tư liệu thơ
hiện đại Việt Nam (sách ĐHSP), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
83. Nguyễn Văn Long (1974), “Hướng đi của một số người làm thơ trẻ”, báo Văn
nghệ (559), tr. 7.
84. Nguyễn Văn Long (2005), “Thơ kháng chiến chống Mỹ trong tiến trình thơ
Việt Nam hiện đại”, báo Thơ (22), tr. 6.
85. Vân Long (2004), “Thơ chống Mỹ có phải là dàn đồng ca ?”, Tạp chí Nhà
văn (2), tr. 55 - 56.
86. Vân Long (Tuyển chọn) (2008), Nét độc đáo trong thơ Xuân Quỳnh, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
87. Iu. Lotman (2012), “Biểu tượng trong hệ thống văn hóa” (Trần Đình Sử
dịch), Nghiên cứu Văn học (10), tr. 18 - 31.
88. Trường Lưu (1967), “Đề tài chiến tranh trong văn học miền Nam vùng tạm bị
chiếm”, Tạp chí Văn học (2), tr. 30- 39.
89. Phương Lựu (chủ biên), (2002), Lý luận văn học (tái bản lần thứ hai), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
90. Viên Mai (2002) Tùy Viên thi thoại (Trương Đình Chi dịch), Nxb Văn nghệ
Tp Hồ Chí Minh.
91. Thiếu Mai (1982), “Đường Trường Sơn - Đường thơ Phạm Tiến Duật”, báo
Văn nghệ (6), tr. 7.
202
92. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1992), Văn 12 tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
93. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
94. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (2002), Lịch sử văn học Việt Nam tập III,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
95. Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng (1972), Về văn hóa
văn nghệ, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
96. Hoài Nam (2010), “Lưu Quang Vũ yêu nước và thương nước”, Văn nghệ
quân đội (713), tr.109 - 113.
97. Nguyễn Xuân Nam (1980), Thơ tìm hiểu và thưởng thức, Nxb Tác phẩm mới,
Hà Nội.
98. Vương Trí Nhàn (1968), “Mấy suy nghĩ về thành tựu của thơ qua 4 năm
chống Mỹ”, Văn nghệ quân đội (10), tr.128 - 132.
99. Vương Trí Nhàn (2008), “Lưu Quang Vũ và những câu thơ viển vông, cay
đắng, u buồn viết trong những năm chiến tranh”, Tạp chí Thơ (4), tr.36 - 46.
100. Phùng Quý Nhâm (2003), Văn học và văn hóa từ một góc nhìn, Nxb Văn học
- Trung tâm nghiên cứu Quốc học TP Hồ Chí Minh.
101. Nhiều tác giả (1965), Bên bờ Bến Hải, Nxb Văn học, Hà Nội.
102. Nhiều tác giả (1972), Mười năm văn học chống Mỹ, Nxb Giải phóng
103. Nhiều tác giả (1982), Chiến trường sống và viết, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội
104. Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
105. Nhiều tác giả (1985), Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ cứu nước, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
106. Nhiều tác giả (1987), Văn học Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
107. Nhiều tác giả (1990), Văn học Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Đại học và Giáo
dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
108. Nhiều tác giả (1993), Thơ - Nghiên cứu, lí luận, phê bình, Nxb ĐH Quốc gia
Tp Hồ Chí Minh.
109. Nhiều tác giả (1995), Một thời đại mới trong văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
203
110. Nhiều tác giả (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
111. Nhiều tác giả (1998), Phê bình bình luận văn học Lê Anh Xuân - Thu Bồn -
Thanh Hải - Giang Nam - Viễn Phương, Nxb Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh.
112. Nhiều tác giả (2003), Tố Hữu thơ và đời, Nxb Văn học, Hà Nội.
113. Nhiều tác giả (2003), “Bàn tròn thơ chống Mỹ”, Tạp chí Thơ (2), tr 46 - 54.
114. Trang Nghị (1972), “Một tác giả trẻ trên chiến trường Trị - Thiên - Huế”, báo
Văn nghệ (tháng 6), tr. 4.
115. Đỗ Ngọc (2012), “Phạm Tiến Duật - đỉnh cao của thơ ca chống Mỹ”, Giáo
dục & Thời đại (số ra 27/4), tr. 37.
116. Hoàng Kim Ngọc (2007), Những đóng góp của thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu
nước đối với nền văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
117. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều”,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
118. Phan Ngọc (2000), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Trẻ, Tp
Hồ Chí Minh.
119. Phan Ngọc (2008), “Thơ Xuân Quỳnh, tiếng nói mới của thơ dân tộc”, Tạp
chí Thơ, (8), tr. 47 - 52.
120. Nguyễn Hữu Ngô (2005), (sưu tầm và biên soạn), Trần Quang Long - Cuộc
đời và tác phẩm, Nxb Thuận Hóa, Huế.
121. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1999), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể
loại, Nxb Tp Hồ Chí Minh.
122. Phạm Xuân Nguyên (2008), “Đọc thơ Di cảo mới của Lưu Quang Vũ”,
Nghiên cứu Văn học, (9), tr. 37 - 42.
123. Phan Diễm Phương (1995), “Thể thơ dân tộc và sự lựa chọn của nền văn học
mới”, Tạp chí Văn học (11), tr. 22 - 24.
124. Thạch Phương (1974), Một chặng đường khởi sắc của thơ yêu nước tiến bộ ở
các đô thị miền Nam”, Tạp chí Văn học (4), tr. 43 - 51.
125. Vũ Quần Phương (1970), “Quá trình phát triển nội tâm trong một bài thơ”,
báo Văn nghệ (tháng 11), tr. 4.
204
126. Vũ Quần Phương (1978), “Đôi nét về lớp nhà thơ chống Mỹ 1965 - 1975”,
báo Văn nghệ (tháng 11), tr. 6.
127. Vũ Quần Phương (1984), “Kháng chiến chống Mỹ và một thế hệ nhà thơ”,
Văn nghệ quân đội (7), tr. 114 - 117.
128. G.N. Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học (Bản dịch
của Trần Đình Sử), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
129. Nguyễn Hữu Quý (2010), “Trường Sơn nhìn lại những chặng đường thơ”,
Văn nghệ Trẻ (18 + 19), tr. 23.
130. Roman Jakobson (1966), “Thơ là gì”, Tạp chí Văn học (12), tr. 55 - 64.
131. Roman Jakobson (2001), “Chủ âm”, Nghệ thuật như là thủ pháp (Trương
Đăng Dung- Huyền Giang- Nguyễn Văn Quảng- Phạm Nguyên Phẩm - Đỗ
Lai Thúy- Ngân Xuyên dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.196 - 204.
132. Phạm Văn Sĩ (1976), Văn học giải phóng miền Nam, Nxb Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
133. Nguyễn Hoàng Sơn (2005), “Một cái nhìn công bằng về thơ trẻ chống Mỹ”,
báo Văn nghệ, (17 + 18), tr. 21.
134. Nguyễn Khắc Sính (2006), Phong cách thời đại nhìn từ một thể loại, Nxb
Văn học, Hà Nội.
135. Trần Đăng Suyền (2003), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo,
Nxb Văn học, Hà Nội.
136. Trần Đình Sử, (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Giáo dục, Hà Nội
137. Trần Đình Sử, (1999), “Giọng điệu nghệ thuật và chủ nghĩa cảm thương trong
Truyện Kiều”, Tạp chí Văn học (2), tr. 8 - 12.
138. Trần Đình Sử (1999), Văn học tập II (Giáo trình đào tạo giáo viên tiểu học
hệ CĐSP và Sư phạm 12 +2), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
139. Trần Đình Sử (2000), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
140. Trần Đình Sử (2001), Đọc văn học văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
141. Trần Đình Sử (2003), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
205
142. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2004), Giáo trình Lí luận văn học tập I, Nxb Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
143. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2005), Giáo trình Lí luận văn học tập II, Nxb Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
144. Trần Đình Sử (2013), “Những chặng đường tiếp nhận thơ Tố Hữu của tôi”,
http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=38
88%3Anhng-chng-ng-tip-nhn-th-t-hu-ca-toi&catid=63%3Avn-hc-vit-
nam&Itemid=106&lang=vi, Thứ năm, 21 Tháng 2 2013 02:07
145. Trần Đình Sử (2011), “Sự phát triển thể tài của thơ Tố Hữu”,
http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c7/n7485/Su-phat-trien-the-tai-cua-
tho-To-Huu.html, 14:28 | 04/03/2011
146. Vũ Văn Sỹ (1999), Về một đặc trưng thi pháp thơ kháng chiến Việt Nam
1945 - 1975, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
147. Vũ Văn Sỹ (2002), “Thơ Nguyễn Khoa Điềm - Một giọng trữ tình giàu chất
sử thi”, Tạp chí Văn học (11), tr. 39 - 44.
148. Hà Công Tài (2005), “Chiếm lĩnh sự thật và con đường đổi mới thơ”, Nghiên
cứu Văn học (11), tr. 67 - 73.
149. Nguyễn Trọng Tạo (1998), Văn chương cảm và luận, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
150. Nguyễn Trọng Tạo (2008), “Mấy suy nghĩ về thơ và thơ trẻ”,
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c126/n1160/May-suy-nghi-ve-tho-va-
tho-tre.html, 10:54 | 27/11/2008
151. Đoàn Minh Tâm (2006), “Thơ trẻ từ ngôn ngữ đến tâm trạng”, Văn nghệ Trẻ
(34), tr. 6.
152. Nguyễn Thị Thanh Tâm (2013), “Xúc cảm trữ tình trong thơ đương đại từ sự
thâm nhập của chất văn xuôi”, Nghiên cứu Văn học (2), tr. 85 - 96.
153. Nguyễn Minh Tấn (chủ biên) (1981), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới,
Hà Nội.
206
154. Hoài Thanh (1966), “Một cây bút trẻ nhiều triển vọng”, Tạp chí Văn học
(12), tr. 39 - 47.
155. Hoài Thanh (1972), “Đọc một số bài thơ của Nguyễn Duy”, báo Văn nghệ
(14/4), tr. 4.
156. Hoài Thanh (1978), Chuyện thơ, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
157. Hoài Thanh (1999), Hoài Thanh toàn tập (tập III), Nxb Văn học, Hà Nội.
158. Hoài Thanh (2007), Tác phẩm văn học được Giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Văn học, Hà Nội.
159. Hoài Thanh (2009), “Đôi điều tâm sự trên câu chuyện bình thơ”, Tạp chí
Thơ, (7), tr. 24 - 35.
160. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy và tư duy thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Văn
học, Hà Nội.
161. Nguyễn Bá Thành, Bùi Việt Thắng (1990), “Văn học Việt Nam 1965 - 1975”,
Văn học Việt Nam hiện đại 1945 - 1975, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên
nghiệp, Hà Nội.
162. Ngô Thảo (2003), Văn học về người lính, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
163. Thanh Thảo (2012), “Thơ thời chiến tranh”, Tuổi trẻ chủ nhật (số ra ngày
07/05), tr. 3.
164. Thanh Thảo (2011), “Về một thế hệ nhà thơ chống Mỹ”,
http://suckhoedoisong.vn/20110430120020799p15c77/ve-mot-the-he-nha-
tho-chong-my.htm, Chủ nhật, 01/5/2011 07:30
165. Thanh Thảo (2007), “Số phận phần thưởng của thơ”, Tạp chí Thơ, (2), tr.11 -
13.
166. Thanh Thảo (2005), “Thế hệ chúng tôi không sống bằng kỷ niệm. Nhưng...”,
báo Thơ (22), tr. 3.
167. Bùi Việt Thắng (2002), Văn học Việt Nam 1945 - 1954 (Văn tuyển), Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
168. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
169. Nguyễn Đình Thi (2001), “Mấy ý nghĩ về thơ”, Ngữ văn 12 tập một, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, tr. 55 - 60.
207
170. Nguyễn Đình Thi (2003), “Những chặng đường văn nghệ cách mạng”, Tạp
chí Văn học (5), tr. 71 - 75.
171. Nguyễn Đình Thi (2011), “Nhận đường”, Tạp chí Thơ (12), tr. 24 - 31.
172. Hữu Thỉnh (1981), “Sự chuẩn bị của người viết trẻ”, Văn nghệ (50), tr. 4.
173. Hữu Thỉnh (2007), “Một giọt nước trong cơn mưa lớn”, Tạp chí Thơ (7),
tr.51 - 57.
174. Phùng Quang Thịnh, Phạm Quang Long (2013), “Cảm hứng thời đại như âm
hưởng chủ đạo của tác phẩm”, Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật (13), tr.
25 - 29.
175. Lưu Khánh Thơ (Tuyển chọn) (2007), Lưu Quang Vũ về tác giả và tác phẩm,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
176. Hoàng Trung Thông (1984) (chủ biên), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
177. Hoàng Trung Thông (1979), Cuộc sống thơ và thơ cuộc sống, Nxb Văn học,
Hà Nội.
178. Vũ Duy Thông (2000), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 - 1975,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
179. Phan Trọng Thưởng (2001), Văn chương tiến trình tác giả - tác phẩm, Nxb
Khoa học Xã hội.
180. Nguyễn Lam Thủy (2011), “Kỷ niệm với tác giả cuộc chia ly màu đỏ”, Tạp
chí Thơ (9), tr. 71 - 76.
181. Lê Ngọc Trà (1990), Lí luận và văn học, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
182. Lê Ngọc Trà (2007), “Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới”, Nghiên
cứu Văn học (1), tr. 35 - 51.
183. Lê Ngọc Trà (2013), “Hình thức và ý nghĩa của hình thức trong sáng tạo nghệ
thuật”, Nghiên cứu Văn học (2), tr. 12 - 27.
184. Trần Phương Trà (2008), “Nguyễn Xuân Thâm trên đường dài với thơ”,
http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p4/c18/n296/Nguyen-Xuan-Tham-
tren-duong-dai-voi-tho.html,16:49 | 02/06/2008.
208
185. Lê Quang Trang (2001), “Văn học giải phóng, nét độc đáo của một tiến trình
văn học”, Tạp chí Văn học, (8), tr. 45 - 52.
186. Vũ Từ Trang (2011), “Nguyễn Xuân Thâm lặng lẽ tìm trầm”, báo Văn nghệ
(43), tr. 8.
187. Võ Gia Trị (2005), “Người lính làm thơ thời chống Mỹ”, báo Văn nghệ Trẻ
(48 và 50), tr. 8 - 9.
188. Phạm Quang Trung (2003), “Quan niệm thơ của Hữu Thỉnh”, Văn nghệ quân
đội (587), tr. 98 - 102.
189. Võ Văn Trực (2004), Gương mặt những nhà thơ (chân dung văn học), Nxb
Thanh Hóa.
190. Bùi Quang Tú (2013), “Tác giả Hòn Đất và các nhà văn đàn anh”,
http://vnca.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=58160, 20/06/2013-8:00
AM
191. Đào Đức Tuấn (2010), “Độc đáo Nhật Lai - Nguyễn Mỹ”, báo Văn nghệ (18
+19), tr. 11.
192. Nguyễn Đức Tùng (2008), “Vô thức và cảm hứng”,
http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c7/n1213/Vo-thuc-va-cam-
hung.html, 16:12/5/12/2008.
193. Chế Lan Viên (2006), Tác phẩm được Giải thưởng Hồ Chí Minh (Quyển 2),
Nxb Văn học, Hà Nội.
194. Viện Ngôn ngữ (1988), Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
195. Viện Văn học (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước (Hoàng Trung
Thông chủ biên), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
196. Viện Văn học (1999), Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học (tập3), Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
197. Bằng Việt (1973), “Chất trẻ, chất mới và sự từng trải”, Văn nghệ quân đội
(9), tr. 68 - 74.
198. Bằng Việt (2010), “Người của một thời, thơ của một người”, báo Văn nghệ
(18 +19), tr. 52.
209
199. Bằng Việt (2014), “Một thế hệ sống hết mình vì tồn vong đất nước, một thời
đại đủ tầm cao và tầm sâu cho giá trị thơ ca đích thực”, Tạp chí Thơ (4), tr. 24
- 47.
____________________
TÀI LIỆU TIẾNG PHÁP
1. R. Fayolle (1964), La Critique littéraire, Colin, Pris.
2. O. Revault d’Allonnes (1973), La Création artstique et le promesses de la
biberté, Klincksieck, Paris.
3. J. P.Satre (1967), Qu’est ce que la littérature, Gallimard, Paris. 4. J. Y.Tadié (1987), La Critique littéraire au XXe siècle, Les Dossieres
Belfond, Paris.
5. T. Todorov (1977), Théorie du symbole, Edution du Seuil, Paris.
210
NHỮNG THI PHẨM ĐƯỢC KHẢO SÁT
1. Nguyễn Bá - Lê Chí (1971), Bên bờ sông Hậu, Nxb Giải phóng.
2. Ngô Vĩnh Bình (Tuyển chọn và biên soạn) (2009), 65 bài thơ, nhà thơ
quân đội, một thời đánh giặc, một thời làm thơ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
3. Thu Bồn (1970), Tre xanh, Nxb Giải phóng.
4. Thu Bồn (1999), Bài ca chim chơ rao (trường ca), Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Hoàng Cát (2009), Tuyển tập thơ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
6. Huy Cận (1973), Chiến trường gần đến chiến trường xa, Nxb Văn học, Hà
Nội.
7. Lâm Thị Mỹ Dạ - Ý Nhi (1974), Trái tim nỗi nhớ (tập thơ), Nxb Văn học, Hà
Nội.
8. Lâm Thị Mỹ Dạ (2011), Lâm Thị Mỹ Dạ tuyển tập, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
9. Xuân Diệu (1983), Tuyển tập Xuân Diệu, Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Phạm Tiến Duật (2009), Toàn tập Phạm Tiến Duật, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
11. Gia Dũng (Sưu tầm, biên soạn) (1998), Chúng tôi đánh giặc và làm thơ,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
12. Nguyễn Duy (1973), Cát trắng (tập thơ), Nxb Quân đôi nhân dân, Hà Nội.
13. Nguyễn Duy (1981), Phóng sự 30/4/1975 (thơ), Nxb Văn nghệ Tp Hồ Chí
Minh.
14. Nguyễn Khoa Điềm (1972), Đất ngoại ô, Nxb Giải phóng.
15. Nguyễn Khoa Điềm (1974), Mặt đường khát vọng, Nxb Văn nghệ giải
phóng.
16. Thái Giang (1964), Gió từ cánh rừng (tập thơ), Nxb Văn học, Hà Nội.
17. Thái Giang (1974), Khi con người có Tổ quốc (truyện thơ), Nxb Phụ nữ.
18. Tế Hanh (1987), Tuyển tập Tế Hanh, Nxb Văn học, Hà Nội.
19. Thanh Hải (1970), Huế mùa xuân, Nxb Giải phóng.
211
20. Trần Mạnh Hảo (1984), Đất nước hình tia chớp, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội.
21. Ca Lê Hiến (1965), Tiếng gà gáy, Nxb Văn học, Hà Nội.
22. Ca Lê Hiến (2012) Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân toàn tập, Nxb Văn hóa -
Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh.
23. Lê Vĩnh Hòa (1975), Người tị nạn, văn xuôi và thơ (in lần thứ 2 có bổ
sung), Nxb Giải phóng.
24. Sóng Hồng (1983), Thơ Sóng Hồng, Nxb Văn học, Hà Nội.
25. Dương Thu Hương - Lê Thị Mây (1980), Mùa thu mùa trăng (tập thơ),
Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
26. Chính Hữu (1996), Đầu súng trăng treo, Nxb Văn học, Hà Nội.
27. Tố Hữu (1998), Thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội
28. Ngô Kha (2005), Ngụ ngôn của một thế hệ, Nxb Thuận Hóa, Huế.
29. Trần Đăng Khoa (1974), Khúc hát người anh hùng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
30. Trần Đăng Khoa (2005), Thơ tuổi học trò, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Trần Quang Long (1975), Thưa mẹ - trái tim, Nxb Văn nghệ giải phóng.
32. Trần Quang Long (2005), Trần Quang Long - Cuộc đời và tác phẩm (Hữu
Ngô sưu tầm và biên soạn), Nxb Thuận Hóa, Huế.
33. Lý Phương Liên (2011), Thơ Lý Phương Liên, Nxb Văn học, Hà Nội.
34. Dương Hương Ly (1971), Mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ, Nxb Giải
phóng.
35. Nguyễn Đức Mậu - Vương Trọng (1972), Thơ người ra trận, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
36. Nguyễn Đức Mậu (1973), Cây xanh đất lửa, Nxb Văn học, Hà Nội.
37. Nguyễn Đức Mậu (1975), Áo trận, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
38. Nguyễn Đức Mậu (1976), Mưa trong rừng cháy, Nxb Văn học giải phóng.
39. Nguyễn Đức Mậu (1980), Trường ca sư đoàn, Nxb Quân đội nhân dân.
40. Lê Thị Mây (2009), Thơ và trường ca, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
41. Giang Nam (1965), Quê hương, Nxb Văn học, Hà Nội.
212
42. Phan Thị Thanh Nhàn - Hoàng Thị Minh Khanh - Thúy Bắc (1969), Tháng
giêng hai, Nxb Văn học, Hà Nội.
43. Phan Thị Thanh Nhàn (1973), Hương thầm, Nxb Văn học, Hà Nội.
44. Ý Nhi (1978), Đến với dòng sông thơ, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
45. Nhiều tác giả (1964), Sức mới 1 (thơ tuyển), Nxb Văn học, Hà Nội.
46. Nhiều tác giả (1965), Sức mới 2 (thơ tuyển), Nxb Văn học, Hà Nội.
47. Nhiều tác giả (1968), Thơ chống Mỹ cứu nước 1965 - 1967, Nxb Văn học,
Hà Nội
48. Nhiều tác giả (1970), Thơ chọn lọc 1960 - 1970, Nxb Giải phóng.
49. Nhiều tác giả (1968), Hà Nội thơ, Chi hội Văn nghệ Hà Nội.
50. Nhiều tác giả (1968), Thơ chống Mỹ 1965 - 1967, Nxb Văn học, Hà Nội.
51. Nhiều tác giả (1970), Thơ chọn lọc 1960 - 1970, Nxb Giải phóng.
52. Nhiều tác giả (1971), Ca dao miền Nam chống Mỹ, Nxb Giải phóng.
53. Nhiều tác giả (1972), Bài ca giải phóng (tập thơ), Nxb Giải phóng.
54. Nhiều tác giả (1973), Từ ấy các anh đi, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
55. Nhiều tác giả (1985), Thơ Việt Nam 1945 - 1985, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
56. Nhiều tác giả (1986), Thơ kháng chiến (1945 - 1954), Nxb Tác phẩm mới,
Hà Nội.
57. Nhiều tác giả (1974), Bài thơ báng súng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
58. Nhiều tác giả (1974), Thơ giải thưởng báo Văn nghệ 1972 - 1973, Nxb Văn
học, Hà Nội.
59. Nhiều tác giả (1975), Hai tiếng Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
60. Nhiều tác giả (1977), Sức bền của đất, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
61. Nhiều tác giả (1979), Trường Sơn - Thơ văn chọn lọc (1959 - 1979), Nxb
Văn học, Hà Nội.
62. Nhiều tác giả (1983), Tiếng hát những người đi tới (Giới thiệu thơ - văn -
nhạc - họa - báo chí của Phong trào sinh viên học sinh miền Nam chống Mỹ
1960 - 1975), Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
63. Nhiều tác giả (1985), Mùa trăng mong chờ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
213
64. Nhiều tác giả (1997), Tuyển tập trường ca, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội.
65. Nhiều tác giả (1999), Tuyển tập thơ Việt Nam (giai đoạn chống Mỹ), Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
66. Nhiều tác giả (2002), Tinh hoa thơ Việt, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
67. Nhiều tác giả (2004), Thơ tình người lính, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
68. Nhiều tác giả (2005), Viết ở chiến trường, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
69. Nhiều tác giả (2007), Âm vang dòng sông Thạch Hãn, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
70. Anh Ngọc (1977), Hương đất màu cờ, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
71. Anh Ngọc (2001), Gửi lại thời gian, Nxb Văn học, Hà Nội.
72. Viễn Phương (1970), Mắt sáng học trò, Nxb Giải phóng.
73. Việt Phương (1970), Cửa mở, Nxb Văn học, Hà Nội.
74. Vũ Quần Phương -Văn Thảo Nguyên (1969), Cỏ mùa xuân, Nxb Văn học,
Hà Nội.
75. Lê Huy Quang (2007), Hồ Chí Minh (trường ca), Nxb Văn học, Hà Nội.
76. Xuân Quỳnh (1968), Hoa dọc chiến hào, Nxb Văn học, Hà Nội.
77. Xuân Quỳnh (1974), Gió Lào cát trắng, Nxb Văn học, Hà Nội.
78. Xuân Quỳnh (1978), Lời ru trên mặt đất, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
79. Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ (1994), Thơ tình Xuân Quỳnh Lưu Quang Vũ,
Nxb Văn học, Hà Nội.
80. Nguyên Sa (1967), Một bông hồng cho văn nghệ, Nxb Trình bày, Sài Gòn.
81. Thái Ngọc San (1985), Khát vọng, Nxb Thuận Hóa, Huế.
82. Thanh Thảo (1977), Những người đi tới biển (trường ca), Nxb quân đội
nhân dân, Hà Nội.
83. Thanh Thảo (1978) Dấu chân qua trảng cỏ, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
84. Nguyễn Đình Thi (2011), Tuyển tập, tập III, Nxb Văn học Hà Nội.
85. Hữu Thỉnh - Lâm Huy Nhuận (1975) Âm vang chiến hào, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
86. Hữu Thỉnh (1985), Từ chiến hào tới thành phố, Nxb Văn học, Hà Nội.
214
87. Hoàng Trung Thông (1994), Tuyển tập Hoàng Trung Thông, Nxb Văn học,
Hà Nội.
88. Trần thức (2002), Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, tập IV (thơ), Nxb
Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
89. Nguyễn Vũ Tiềm (sưu tầm, tuyển, dịch) (2007), Nghìn câu thơ tài hoa,
Nxb Văn học, Hà Nội.
90. Cảnh Trà - Trần Nhật Thu - Quang Huy (1971), Nơi giáp mặt (thơ), Nxb
Văn học, Hà Nội.
91. Chim Trắng (1970), Tên em rực rỡ vô cùng, Nxb Giải phóng.
92. Chim Trắng (1974), Một góc quê hương, Nxb Giải phóng.
93. Vương Trọng (1979), Khoảng trời quê hương (tập thơ), Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
94. Vương Trọng - Nguyễn Đức Mậu - Trần Đăng Khoa (tuyển chọn) (1995),
Tuyển tập nửa thế kỉ thơ về người lính, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
95. Vương Trọng (2002), Về thôi nàng vọng phu, Nxb Quân đội nhân dan, Hà
Nội.
96. Võ văn Trực (1983), Trăng phù sa, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
97. Thanh Tùng - Thi Hoàng - Tùng Linh, (1979), Cửa sóng, Nxb Tác phẩm
mới, Hà Nội.
98. Vũ Đình Văn - Hoàng Nhuận Cầm (1974), Thơ tuổi hai mươi, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
99. Bằng Việt (1973), Những gương mặt, những khoảng trời, Nxb Văn học, Hà
Nội.
100. Bằng Việt (2003), Thơ (Tuyển 1961 - 2001), Nxb Văn học, Hà Nội.
101. Chế Lan Viên (2006), Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh,
quyển I (Thơ), Nxb Văn học, Hà Nội.
102. Lưu Quang Vũ - Bằng Việt (1968), Hương cây bếp lửa, Nxb Văn học, Hà
Nội.
103. Lưu Quang Vũ (1989), Mây trắng của đời tôi, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
104. Lưu Quang Vũ (1993), Bầy ong trong đêm sâu, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
215
105. Lưu Quang Vũ (2008), Lưu Quang Vũ - Di cảo, Nxb Lao động, Hà Nội.
106. Lưu Quang Vũ (2010), Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi (tuyển thơ),
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
107. Tần Hoài Dạ Vũ (1997), Tình yêu và vầng trăng lửa, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí
Minh.
108. Lê Anh Xuân (1969), Nguyễn Văn Trỗi (trường ca), Nxb Giải phóng.
109. Lê Anh Xuân (1971), Hoa dừa, Nxb Giải phóng.
PHỤ LỤC
MỘT SỐ VĂN BẢN BẢO VỆ LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CẤP TRƯỜNG
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM -----------------------
DỰ THI TÌM HIỂU HIẾN PHÁP NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
NHÓM VIẾT BÀI:
1. Nguyễn Bá Long (Nam). Sinh ngày 19 tháng 12 năm 1961
2. Lê Thị Hạnh (Nữ). Sinh ngày 15 tháng 4 năm 1961
3. Đinh Thị Thanh Mai (Nữ). Sinh ngày 15 tháng 5 năm 1978
● Nơi công tác: Nhóm viết bài công tác tại Khoa Xã hội, Trường
CĐSP Kiên Giang, 449, Nguyễn Chí Thanh, Tp Rạch Giá, KG