T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2017<br />
<br />
Th«ng b¸o ca l©m sµng: HOẠI TỬ HỖNG TRÀNG DO<br />
NHỒI MÁU MẠC TREO<br />
Nguy n Trung Kiên*; Đ ng Vi t Dũng*<br />
Nguy n Vi t Trung*; Nguy n Th Minh Tâm*<br />
TÓM TẮT<br />
Nhồi máu mạc treo (NMMT) là tình trạng bệnh lý ít gặp, đây là một cấp cứu bụng ngoại khoa<br />
không trì hoãn, việc chẩn đoán và điều trị sớm trước khi ruột bị hoại tử mang ý nghĩa hết sức<br />
quan trọng. Tuy nhiên, do triệu chứng lâm sàng không điển hình và các xét nghiệm cận lâm<br />
sàng không đặc hiệu gây khó khăn cho quá trình chẩn đoán và cấp cứu điều trị. Hơn nữa,<br />
khả năng chịu đựng thiếu máu của ruột kém nên NMMT có tiên lượng nặng nếu không được<br />
điều trị sớm dẫn đến hoại tử ruột, đe dọa tính mạng người bệnh và tỷ lệ tử vong cao. NMMT có<br />
nguyên nhân do tắc động mạch hoặc tĩnh mạch, tuy nhiên phần lớn BN có nguyên nhân thứ<br />
phát từ động mạch. Chúng tôi giới thiệu về một trường hợp hoại tử hỗng tràng do nhồi máu<br />
động mạch mạc treo trên BN hẹp van hai lá rung nhĩ điều trị bằng thuốc chống đông, được<br />
chẩn đoán trước mổ là vỡ khối u nang buồng trứng xoắn. Qua đó rút ra một số kinh nghiệm về<br />
chẩn đoán sớm và điều trị NMMT.<br />
* Từ khóa: Nhồi máu mạc treo; Rung nhĩ; Vỡ u nang buồng trứng.<br />
<br />
Case Report: Bowel Necrosis Due To Mesenteric Infarction<br />
Summary<br />
Mesenteric infarction is a rare disease, which is an abdominal emergency without delay.<br />
The diagnosis and early treatment before bowel necrosis play a very important implications.<br />
However, because of atypical clinical symptoms and nonspecific preclinical tests to make difficulty in<br />
diagnosis and treatment. Further more, tolerance of intestinal ischemia is bad, so mesenteric<br />
infarction usually has a worse prognosis, and a high mortality rate if it is not treat early, will lead<br />
to intestinal necrosis and threat patient’s life. Mesenteric infarction may be caused by mesenteric<br />
artery or vein, however the majority of cases have secondary causes of artery. We reported a<br />
case of jejunal necrosis because of mesenteric artery infarction in patients with mitral stenosis,<br />
atrial fibrillation who had been treated with anticoagulants which was diagnosed ruptured ovarian<br />
cysts before surgery. Through this case to find out some experiences in order to have an early<br />
diagnosis and treatment for mesenteric ischemia.<br />
* Key words: Mesenteric infarction; Arterial fibrillation; Ruptured ovarian cysts.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Việc chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời<br />
NMMT đến nay vẫn còn gặp nhiều khó<br />
khăn trong lâm sàng. Từ khi Elliott báo<br />
cáo trường hợp cắt ruột điều trị NMMT<br />
<br />
thành công đầu tiên năm 1895, đến nay<br />
đã hơn một thế kỷ, dù đã có nhiều tiến bộ<br />
trong việc hiểu biết về cơ chế bệnh sinh,<br />
trong chẩn đoán bằng các phương tiện<br />
chẩn đoán hiện đại như chụp động mạch,<br />
<br />
* Bệnh viện Quân y 103<br />
Ngư i ph n h i (Corresponding): Nguy n Trung Kiên (drkien103@gmail.com)<br />
Ngày nh n bài: 23/08/2016; Ngày ph n bi n đánh giá bài báo: 09/12/2016<br />
Ngày bài báo đư c đăng: 20/12/2016<br />
<br />
174<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2017<br />
siêu âm Doppler… nhưng tỷ lệ biến chứng<br />
và tử vong do tắc mạch mạc treo cấp vẫn<br />
từ 70 - 90% [5, 6]. Chúng tôi thông báo<br />
1 ca lâm sàng hoại tử hỗng tràng do nhồi<br />
máu động mạch mạc treo tràng ở BN có<br />
tiền sử bệnh lý tim mạch, được chẩn<br />
đoán trước mổ là vỡ khối u nang buồng<br />
trứng xoắn đã được phẫu thuật thành<br />
công tại Bệnh viện Quân y 103 ngày 08 06 - 2016.<br />
GIỚI THIỆU CA BỆNH<br />
BN Nguyễn Thị M, 56 tuổi, nữ, cao<br />
1,54 m, nặng 47 kg, có tiền sử điều trị nội<br />
khoa hẹp van hai lá, rung nhĩ bằng digoxin<br />
0,25 mg x 1/2 viên/ngày và sintrom 4 mg<br />
x 1/2 viên/ngày. 1 ngày trước khi vào viện,<br />
BN xuất hiện đau bụng đột ngột vùng<br />
thượng vị, sau đó đau lan xuống vùng<br />
hạ vị, đau lan khắp ổ bụng; đau liên tục<br />
với cường độ tăng dần kèm theo sốt nhẹ,<br />
hoa mắt, buồn nôn. Nhập viện lúc 9 giờ 30<br />
ngày 08 - 06 - 2016 trong tình trạng mạch<br />
86 lần/phút, huyết áp 110/70 mmHg, nhiệt<br />
độ 37,5ºC, có phản ứng cơ thành bụng và<br />
chọc dò ổ bụng có máu không đông.<br />
* Một số xét nghiệm cận lâm sàng<br />
trước mổ:<br />
- Điện tim: rung nhĩ tần số thất 99 chu<br />
kỳ/phút.<br />
- Siêu âm tim: hẹp nhẹ, hở nhẹ van 2 lá,<br />
Wilkin 6 - 7 điểm, giãn nhĩ trái, nhiều âm<br />
cuộn nhĩ trái, dày thất trái, chức năng tâm<br />
thu thất trái bình thường, không có máu<br />
cục trong nhĩ trái và trong tiểu nhĩ trái.<br />
- Siêu âm ổ bụng: túi cùng Douglas có<br />
dịch, không thấy hình ảnh ruột thừa viêm.<br />
- X quang ổ bụng không chuẩn bị tư<br />
thế đứng: không thấy hình ảnh liềm hơi<br />
<br />
dưới cơ hoành, không có hình ảnh mức<br />
nước mức hơi.<br />
- Công thức máu: xét nghiệm lần 1 lúc<br />
13 giờ ngày 08 - 08 - 2016: hồng cầu:<br />
4,624 T/l, hemoglobin: 137 g/l, HCT:<br />
0,4375 L/L, TC: 268,7 G/L, BC: 13,74 G/L.<br />
Xét nghiệm lần 2: hồng cầu: 2,118 T/l,<br />
hemoglobin: 101 g/l, HCT: 0,2043 L/l, TC:<br />
143,2 GL, BC: 11,87 G/L.<br />
- Sinh hóa máu: glucose: 7,7 mmol/l;<br />
ure: 6,4 mmol/l; creatinin: 77 mcg/l; natri:<br />
138 mmol/l; kali: 3,6 mmol/l; clo: 101 mmol/l;<br />
canxi toàn phần: 2,17 mmol/l.<br />
- Xét nghiệm đông máu: INR 1,91; tỷ lệ<br />
prothromin 34,8%, thời gian mẫu 11,6 (giây);<br />
thời gian Quick 23,5 (giây).<br />
BN được bệnh viện hội chẩn với chẩn<br />
đoán trước mổ là vỡ u nang buồng trứng<br />
xoắn do tính chất đau ở hạ vị, chọc dò ổ<br />
bụng có máu không đông, hội chứng mất<br />
máu cấp do số lượng hồng cầu và huyết<br />
sắc tố giảm nhiều giữa hai lần xét nghiệm<br />
(hồng cầu giảm từ 4,624 T/l xuống 2,118<br />
T/l; huyết sắc tố giảm từ 137 g/l xuống<br />
143,2 g/l). BN được chỉ định phẫu thuật<br />
nội soi thăm dò xử trí tổn thương.<br />
* Quá trình vô cảm và phẫu thuật:<br />
- BN lên phòng mổ trong tình trạng<br />
tỉnh táo, tiếp xúc tốt, mạch 123 lần/phút,<br />
huyết áp 145/80 mmHg, rung nhĩ trên ECG,<br />
tự thở tốt, tần số 14 lần/phút, không khó thở,<br />
rì rào phế nang hai bên rõ, SpO2 98%<br />
(thở khí trời), nước tiểu qua sonde 50 ml.<br />
- Chuẩn bị BN: cho thở oxy qua mask<br />
3 lít/phút. Theo dõi điện tim, huyết áp<br />
động mạch (HAĐM) xâm lấn, độ bão hòa<br />
oxy mao mạch (SpO2), đặt catheter tĩnh<br />
mạch cảnh sâu, đặt đường truyền tĩnh<br />
mạch ngoại vi kim 14G.<br />
175<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2017<br />
- Tiền mê bằng fentanyl 2 µg/kg trước<br />
mê gây mê.<br />
- Khởi mê bằng etomidat 0,2 mg/kg,<br />
đặt ống nội khí quản cỡ số 7,0 dưới giãn<br />
cơ rocuronium 1 mg/kg thuận lợi, thông<br />
khí kiểm soát thể tích tần số 10 - 12<br />
lần/phút, Vt: 8 ml/kg, FiO2 100%, SpO2:<br />
100%, duy trì EtCO2: 35 - 40 mmHg.<br />
- Duy trì mê bằng sevofluran kết hợp<br />
propofol điều chỉnh theo huyết động và độ<br />
mê theo thang điểm PRST, giảm đau<br />
bằng fentanyl, giãn cơ bằng rocuronium.<br />
- Đặt trocar 10 mm trên rốn, kiểm tra<br />
thấy ổ bụng nhiều máu, một đoạn hỗng<br />
tràng hoại tử tím đen, các cơ quan khác<br />
chưa thấy bất thường. Chuyển mổ mở,<br />
rạch da đường trắng giữa trên và dưới<br />
rốn dài 20 cm, vào ổ bụng kiểm tra thấy<br />
nhiều máu không đông hút ra khoảng<br />
1.200 ml, đoạn hỗng tràng hoại tử khoảng<br />
40 cm cách góc Treitz 60 cm do nhồi máu<br />
mạc treo, trong lòng ruột có nhiều dịch<br />
máu. Tiến hành cắt đoạn hỗng tràng hoại<br />
tử cho đến phần ruột lành khoảng 60 cm<br />
bằng stapler, khâu tăng cường mỏm cắt<br />
bằng 1 lớp chỉ sail 3/0, nối hỗng tràng<br />
bên-bên, kiểm tra lưu thông tốt, nuôi dưỡng<br />
tốt, khâu kín mạc treo tiểu tràng. Lau rửa<br />
ổ bụng, đặt dẫn lưu Douglas, đóng bụng<br />
2 lớp.<br />
- Trong quá trình phẫu thuật huyết áp<br />
tâm thu dao động từ 130 - 140 mmHg, áp<br />
lực tĩnh mạch trung tâm từ 13 - 15 mmHg.<br />
- Phẫu thuật kéo dài 3 giờ, kết thúc<br />
phẫu thuật thông khí bóp bóng chuyển<br />
BN về Khoa Hồi sức Tích cực điều trị tiếp.<br />
- BN được rút ống nội khí quản sau 12<br />
giờ, tình trạng huyết động và hô hấp ổn<br />
định, ra viện sau 10 ngày.<br />
176<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
1. Về nguyên nhân NMMT.<br />
Nhồi máu mạc treo là tình trạng bệnh<br />
lý, trong đó tổn thương ruột gây ra do<br />
giảm hoặc mất cung cấp máu từ hệ mạch<br />
mạc treo và bệnh thường gặp ở người<br />
già hoặc BN có rung nhĩ. Nghiên cứu của<br />
Nguyễn Tuấn (2014) [1] gặp độ tuổi trung<br />
bình 56, nghiên cứu của Endean và CS<br />
[3] là 61 tuổi, tuy nhiên cũng có trường<br />
hợp bệnh xảy ra ở độ tuổi còn khá trẻ. BN<br />
của chúng tôi là nữ, 56 tuổi, có tiền sử<br />
hẹp van hai lá có rung nhĩ đang điều trị<br />
thuốc chống đông.<br />
Về kinh điển, thiếu máu mạc treo được<br />
phân loại theo 4 nhóm nguyên nhân: thuyên<br />
tắc (embolus) động mạch mạc treo, huyết<br />
khối (thrombosis) động mạch mạc treo,<br />
thiếu máu mạc treo không do tắc nghẽn<br />
(non-occlusive mesenteric ischaemia) và<br />
huyết khối tĩnh mạch mạc treo. Với BN<br />
này chúng tôi xác định nguyên nhân là do<br />
thuyên tắc động mạch mạc treo tràng trên<br />
do cục máu đông hình thành và di chuyển<br />
từ nhĩ trái. BN có tiền sử hẹp van hai lá,<br />
rung nhĩ, đây là yếu tố nguy cơ rất lớn<br />
hình thành cục máu đông, di chuyển và<br />
gây tắc các mạch ngoại vi, trong đó động<br />
mạch mạc treo ruột hay gặp.<br />
2. Về chẩn đoán.<br />
Trường hợp này, BN được chẩn đoán<br />
trước mổ vỡ u nang buồng trứng xoắn<br />
trước khi nội soi ổ bụng. Theo Boley [2]<br />
và Endean [3], các triệu chứng lâm sàng<br />
để chẩn đoán NMMT thường không đặc<br />
hiệu, nhất là khi bệnh ở giai đoạn sớm.<br />
Đau bụng là triệu chứng lâm sàng thường<br />
gặp nhất, xuất hiện đầu tiên ở BN nhồi máu<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2017<br />
mạc treo, gặp 92 - 100% trường hợp [1, 3].<br />
Tuy nhiên, tính chất đau bụng có khác nhau,<br />
tùy thuộc từng nguyên nhân: trong thuyên<br />
tắc động mạch mạc treo, đau bụng thường<br />
xuất hiện đột ngột và cường độ đau cũng<br />
dữ dội hơn so với huyết khối động mạch<br />
và huyết khối tĩnh mạch. Ngoài ra, đau bụng<br />
không tương xứng với dấu hiệu khi thăm<br />
khám, có thể đau bụng dữ dội nhưng các<br />
phát hiện ở bụng rất ít. Đến giai đoạn muộn,<br />
khi đoạn ruột đã hoại tử thường xuất hiện<br />
sốt, bí trung đại tiện, liệt ruột và biểu hiện<br />
của viêm phúc mạc toàn thể. Như vậy, đau<br />
bụng là triệu chứng sớm, thường gặp nhất<br />
của NMMT, tuy nhiên ®©y không phải là<br />
đặc hiệu để chẩn đoán.<br />
Điểm đặc biệt trên BN này là đau bụng<br />
vùng hạ vị, đau liên tục tăng dần. Tuy<br />
nhiên, mức độ đau không dữ dội và kèm<br />
theo hội chứng chảy máu trong: hoa mắt,<br />
chóng mặt, xét nghiệm máu: hồng cầu<br />
giảm nhanh từ 4,624 T/l xuống 2,118 T/l;<br />
huyết sắc tố giảm từ 137 g/l xuống còn<br />
101,2 g/l; siêu âm có dịch Douglas và chọc<br />
dò ổ bụng có máu không đông. Trên một BN<br />
nữ với triệu chứng như vậy thường được<br />
nghĩ tới bệnh lý sản phụ khoa, cụ thể ở<br />
trường hợp này vỡ u nang buồng trứng.<br />
Thêm vào đó trên siêu âm không thấy có<br />
cục máu đông trong nhĩ trái và BN đang<br />
điều trị bằng thuốc chống đông, điều đó<br />
càng nghĩ tới NMMT. Chính vì vậy, BN được<br />
chẩn đoán trước mổ là vỡ u nang buồng<br />
trứng mặc dù BN có tiền sử hẹp van hai<br />
lá và rung nhĩ là những yếu tố nguy cơ cao.<br />
Các xét nghiệm cận lâm sàng thường<br />
quy ít có ý nghĩa trong chẩn đoán NMMT<br />
do độ nhạy và độ đặc hiệu thấp, không giúp<br />
phát hiện thiếu máu ruột ở giai đoạn sớm,<br />
<br />
lúc ruột còn khả năng hồi phục hoàn toàn<br />
khi điều trị kịp thời. Trong giai đoạn sớm,<br />
hình ảnh trên X quang bụng không chuẩn<br />
bị và siêu âm thường không đặc hiệu.<br />
Tuy nhiên, có thể giúp phân biệt với trường<br />
hợp thủng tạng rỗng hay tắc ruột. Ở giai<br />
đoạn muộn, trên X quang bụng có mức<br />
hơi - dịch trong ruột non hoặc đại tràng, các<br />
quai ruột giãn, trên siêu âm thấy quai<br />
ruột giãn, dày thành ruột non và dịch tự<br />
do ổ bụng.<br />
Siêu âm Doppler là phương tiện chẩn<br />
đoán không xâm lấn, khả năng khảo sát<br />
nhanh và có thể thực hiện tại giường bệnh,<br />
đặc biệt khi thực hiện trong giai đoạn sớm<br />
trước khi có liệt ruột toàn bộ có thể giúp<br />
phát hiện tắc nghẽn đoạn gần của động<br />
mạch mạc treo tràng trên. Nhược điểm<br />
của siêu âm là kết quả phụ thuộc nhiều<br />
vào trình độ, kỹ năng của người thực hiện.<br />
BN này đã ở giai đoạn muộn, có dấu hiệu<br />
liệt ruột, bụng chướng hơi, làm hạn chế<br />
việc khảo sát ổ bụng và cho kết quả không<br />
đáng tin cậy.<br />
Chụp mạch máu là tiêu chuẩn vàng<br />
chẩn đoán xác định NMMT, có thể cho<br />
hình ảnh giải phẫu hệ mạch máu và<br />
nguyên nhân gây nhồi máu, nó không chỉ<br />
cho phép chẩn đoán mà còn giúp điều trị<br />
kịp thời bằng cách truyền thuốc giãn mạch<br />
vào động mạch chọn lọc hoặc thuốc kháng<br />
đông kịp thời cho một số trường hợp.<br />
Mặc dù vậy, đây là phương pháp xâm lấn,<br />
tốn thời gian và có thể gây chẩn đoán<br />
chậm không đóng góp nhiều cho xử trí.<br />
Trường hợp BN của chúng tôi đã có<br />
biểu hiện viêm phúc mạc kèm theo những<br />
rối loạn đông máu và bệnh lý tim mạch,<br />
nên chúng tôi đã không tiến hành chụp<br />
mạch máu.<br />
177<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2017<br />
Chụp cắt lớp vi tính là phương tiện<br />
chẩn đoán có thể cung cấp toàn bộ tình<br />
trạng trong ổ bụng nhanh chóng và không<br />
xâm lấn. Các dấu hiệu đặc hiệu của cắt<br />
lớp điện toán trong chẩn đoán thiếu máu<br />
mạc treo bao gồm: huyết khối động mạch<br />
mạc treo tràng trên hoặc tĩnh mạch mạc<br />
treo tràng trên, hơi trong thành ruột, thành<br />
ruột không bắt cản quang và dấu hiệu<br />
thiếu máu tạng đặc [7]. Những dấu hiệu<br />
này gặp ở giai đoạn muộn, khi đã có tổn<br />
thương ruột nặng như nhồi máu và hoại<br />
tử. Hiện nay, việc áp dụng chụp cắt lớp<br />
điện toán đa lát cắt với tốc độ chụp<br />
nhanh, độ phân giải, kết hợp với các kỹ<br />
thuật tái tạo hình ảnh ba chiều giúp phát<br />
hiện nhanh chóng huyết khối trong lòng<br />
mạch máu cũng như tổn thương sớm của<br />
niêm mạc ruột trong giai đoạn sớm của<br />
bệnh. BN của chúng tôi được chỉ định<br />
chụp cắt lớp điện toán ổ bụng, nhưng chỉ<br />
thấy ruột giãn, có dịch giữa quai ruột và<br />
không xác định được tổn thương.<br />
Biện pháp khác để chẩn đoán NMMT<br />
là nội soi ổ bụng. Đây là phương pháp<br />
khá an toàn, hiệu quả trong chẩn đoán<br />
tình trạng cấp cứu bụng ngoại khoa nói<br />
chung và NMMT nói riêng, trong tr−êng<br />
hîp triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng<br />
không rõ ràng khó xác chẩn, khó khẳng<br />
định được chẩn đoán. BN của chúng tôi<br />
được chẩn đoán trước mổ vỡ u nang buồng<br />
trứng, nhưng khi nội soi ổ bụng mới có cơ<br />
sở chẩn đoán xác định là NMMT.<br />
3. Về điều trị.<br />
Cho đến nay có nhiều phương pháp<br />
điều trị NMMT như: phẫu thuật mạch máu,<br />
cắt đoạn ruột hoại tử, can thiệp mạch,<br />
điều trị thuốc tiêu huyết khối, thuốc kháng<br />
178<br />
<br />
đông, thuốc giãn mạch, hồi sức tích cực…<br />
Việc lựa chọn phương pháp điều trị nào<br />
phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.<br />
Tuy nhiên, phẫu thuật cắt đoạn ruột hoại<br />
tử vẫn là phương pháp áp dụng cho phần<br />
lớn các trường hợp [1, 4] khi đoạn ruột<br />
thiếu máu đã hoại tử, nguyên nhân do đa<br />
số BN đến viện muộn, việc chẩn đoán<br />
sớm NMMT khá khó khăn. Ngay khi nội<br />
soi và xác định tình trạng hoại tử ruột do<br />
NMMT, chúng tôi thực hiện cắt đoạn ruột<br />
hoại tử, đây là lựa chọn duy nhất và cần<br />
tiến hành ngay. Điều trị phẫu thuật tắc<br />
mạch mạc treo nhằm hai mục đích: cắt bỏ<br />
những phần ruột đã hoại tử và phục hồi<br />
lưu thông dòng máu nuôi ruột. Tuy nhiên,<br />
để xác định chính xác đoạn ruột có khả<br />
năng phục hồi hay cần cắt bỏ và ranh giới<br />
giữa phần ruột lành và ruột đã hoại tử rất<br />
khó, chủ yếu dựa vào màu sắc, nhu động<br />
ruột và mạch đập. Ngoài ra, có thể sử<br />
dụng siêu âm Doppler màu hoặc dùng<br />
chất huỳnh quang chích vào tĩnh mạch và<br />
quan sát ruột dưới đèn Wood. Việc quyết<br />
định nối ruột ngay hoặc đưa hai đầu ruột<br />
ra ngoài sau khi cắt phần ruột hoại tử dựa<br />
trên đánh giá tình trạng chung của BN,<br />
phần ruột còn lại lành. Trường hợp này,<br />
do BN có tình trạng lâm sàng ổn định,<br />
ruột non được tưới máu tốt nên chúng tôi<br />
tiến hành khâu nối phục hồi lưu thông ngay.<br />
Cần lưu ý một số điểm khi vô cảm cắt<br />
đoạn ruột hoại tử trong trường hợp này.<br />
Trước hết, do BN đến muộn trong tình<br />
trạng đã có viêm phúc mạc và hoại tử<br />
ruột nên việc hồi sức tích cực trước và<br />
trong mổ là yếu tố quan trọng nhằm đảm<br />
bảo an toàn cho vô cảm và phẫu thuật.<br />
<br />