intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thông báo ca lâm sàng: Hoại tử hỗng tràng do nhồi máu mạc treo

Chia sẻ: Ni Ni | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

40
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này giới thiệu về một trường hợp hoại tử hỗng tràng do nhồi máu động mạch mạc treo trên BN hẹp van hai lá rung nhĩ điều trị bằng thuốc chống đông, được chẩn đoán trước mổ là vỡ khối u nang buồng trứng xoắn. Qua đó rút ra một số kinh nghiệm về chẩn đoán sớm và điều trị NMMT.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thông báo ca lâm sàng: Hoại tử hỗng tràng do nhồi máu mạc treo

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2017<br /> <br /> Th«ng b¸o ca l©m sµng: HOẠI TỬ HỖNG TRÀNG DO<br /> NHỒI MÁU MẠC TREO<br /> Nguy n Trung Kiên*; Đ ng Vi t Dũng*<br /> Nguy n Vi t Trung*; Nguy n Th Minh Tâm*<br /> TÓM TẮT<br /> Nhồi máu mạc treo (NMMT) là tình trạng bệnh lý ít gặp, đây là một cấp cứu bụng ngoại khoa<br /> không trì hoãn, việc chẩn đoán và điều trị sớm trước khi ruột bị hoại tử mang ý nghĩa hết sức<br /> quan trọng. Tuy nhiên, do triệu chứng lâm sàng không điển hình và các xét nghiệm cận lâm<br /> sàng không đặc hiệu gây khó khăn cho quá trình chẩn đoán và cấp cứu điều trị. Hơn nữa,<br /> khả năng chịu đựng thiếu máu của ruột kém nên NMMT có tiên lượng nặng nếu không được<br /> điều trị sớm dẫn đến hoại tử ruột, đe dọa tính mạng người bệnh và tỷ lệ tử vong cao. NMMT có<br /> nguyên nhân do tắc động mạch hoặc tĩnh mạch, tuy nhiên phần lớn BN có nguyên nhân thứ<br /> phát từ động mạch. Chúng tôi giới thiệu về một trường hợp hoại tử hỗng tràng do nhồi máu<br /> động mạch mạc treo trên BN hẹp van hai lá rung nhĩ điều trị bằng thuốc chống đông, được<br /> chẩn đoán trước mổ là vỡ khối u nang buồng trứng xoắn. Qua đó rút ra một số kinh nghiệm về<br /> chẩn đoán sớm và điều trị NMMT.<br /> * Từ khóa: Nhồi máu mạc treo; Rung nhĩ; Vỡ u nang buồng trứng.<br /> <br /> Case Report: Bowel Necrosis Due To Mesenteric Infarction<br /> Summary<br /> Mesenteric infarction is a rare disease, which is an abdominal emergency without delay.<br /> The diagnosis and early treatment before bowel necrosis play a very important implications.<br /> However, because of atypical clinical symptoms and nonspecific preclinical tests to make difficulty in<br /> diagnosis and treatment. Further more, tolerance of intestinal ischemia is bad, so mesenteric<br /> infarction usually has a worse prognosis, and a high mortality rate if it is not treat early, will lead<br /> to intestinal necrosis and threat patient’s life. Mesenteric infarction may be caused by mesenteric<br /> artery or vein, however the majority of cases have secondary causes of artery. We reported a<br /> case of jejunal necrosis because of mesenteric artery infarction in patients with mitral stenosis,<br /> atrial fibrillation who had been treated with anticoagulants which was diagnosed ruptured ovarian<br /> cysts before surgery. Through this case to find out some experiences in order to have an early<br /> diagnosis and treatment for mesenteric ischemia.<br /> * Key words: Mesenteric infarction; Arterial fibrillation; Ruptured ovarian cysts.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Việc chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời<br /> NMMT đến nay vẫn còn gặp nhiều khó<br /> khăn trong lâm sàng. Từ khi Elliott báo<br /> cáo trường hợp cắt ruột điều trị NMMT<br /> <br /> thành công đầu tiên năm 1895, đến nay<br /> đã hơn một thế kỷ, dù đã có nhiều tiến bộ<br /> trong việc hiểu biết về cơ chế bệnh sinh,<br /> trong chẩn đoán bằng các phương tiện<br /> chẩn đoán hiện đại như chụp động mạch,<br /> <br /> * Bệnh viện Quân y 103<br /> Ngư i ph n h i (Corresponding): Nguy n Trung Kiên (drkien103@gmail.com)<br /> Ngày nh n bài: 23/08/2016; Ngày ph n bi n đánh giá bài báo: 09/12/2016<br /> Ngày bài báo đư c đăng: 20/12/2016<br /> <br /> 174<br /> <br /> T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2017<br /> siêu âm Doppler… nhưng tỷ lệ biến chứng<br /> và tử vong do tắc mạch mạc treo cấp vẫn<br /> từ 70 - 90% [5, 6]. Chúng tôi thông báo<br /> 1 ca lâm sàng hoại tử hỗng tràng do nhồi<br /> máu động mạch mạc treo tràng ở BN có<br /> tiền sử bệnh lý tim mạch, được chẩn<br /> đoán trước mổ là vỡ khối u nang buồng<br /> trứng xoắn đã được phẫu thuật thành<br /> công tại Bệnh viện Quân y 103 ngày 08 06 - 2016.<br /> GIỚI THIỆU CA BỆNH<br /> BN Nguyễn Thị M, 56 tuổi, nữ, cao<br /> 1,54 m, nặng 47 kg, có tiền sử điều trị nội<br /> khoa hẹp van hai lá, rung nhĩ bằng digoxin<br /> 0,25 mg x 1/2 viên/ngày và sintrom 4 mg<br /> x 1/2 viên/ngày. 1 ngày trước khi vào viện,<br /> BN xuất hiện đau bụng đột ngột vùng<br /> thượng vị, sau đó đau lan xuống vùng<br /> hạ vị, đau lan khắp ổ bụng; đau liên tục<br /> với cường độ tăng dần kèm theo sốt nhẹ,<br /> hoa mắt, buồn nôn. Nhập viện lúc 9 giờ 30<br /> ngày 08 - 06 - 2016 trong tình trạng mạch<br /> 86 lần/phút, huyết áp 110/70 mmHg, nhiệt<br /> độ 37,5ºC, có phản ứng cơ thành bụng và<br /> chọc dò ổ bụng có máu không đông.<br /> * Một số xét nghiệm cận lâm sàng<br /> trước mổ:<br /> - Điện tim: rung nhĩ tần số thất 99 chu<br /> kỳ/phút.<br /> - Siêu âm tim: hẹp nhẹ, hở nhẹ van 2 lá,<br /> Wilkin 6 - 7 điểm, giãn nhĩ trái, nhiều âm<br /> cuộn nhĩ trái, dày thất trái, chức năng tâm<br /> thu thất trái bình thường, không có máu<br /> cục trong nhĩ trái và trong tiểu nhĩ trái.<br /> - Siêu âm ổ bụng: túi cùng Douglas có<br /> dịch, không thấy hình ảnh ruột thừa viêm.<br /> - X quang ổ bụng không chuẩn bị tư<br /> thế đứng: không thấy hình ảnh liềm hơi<br /> <br /> dưới cơ hoành, không có hình ảnh mức<br /> nước mức hơi.<br /> - Công thức máu: xét nghiệm lần 1 lúc<br /> 13 giờ ngày 08 - 08 - 2016: hồng cầu:<br /> 4,624 T/l, hemoglobin: 137 g/l, HCT:<br /> 0,4375 L/L, TC: 268,7 G/L, BC: 13,74 G/L.<br /> Xét nghiệm lần 2: hồng cầu: 2,118 T/l,<br /> hemoglobin: 101 g/l, HCT: 0,2043 L/l, TC:<br /> 143,2 GL, BC: 11,87 G/L.<br /> - Sinh hóa máu: glucose: 7,7 mmol/l;<br /> ure: 6,4 mmol/l; creatinin: 77 mcg/l; natri:<br /> 138 mmol/l; kali: 3,6 mmol/l; clo: 101 mmol/l;<br /> canxi toàn phần: 2,17 mmol/l.<br /> - Xét nghiệm đông máu: INR 1,91; tỷ lệ<br /> prothromin 34,8%, thời gian mẫu 11,6 (giây);<br /> thời gian Quick 23,5 (giây).<br /> BN được bệnh viện hội chẩn với chẩn<br /> đoán trước mổ là vỡ u nang buồng trứng<br /> xoắn do tính chất đau ở hạ vị, chọc dò ổ<br /> bụng có máu không đông, hội chứng mất<br /> máu cấp do số lượng hồng cầu và huyết<br /> sắc tố giảm nhiều giữa hai lần xét nghiệm<br /> (hồng cầu giảm từ 4,624 T/l xuống 2,118<br /> T/l; huyết sắc tố giảm từ 137 g/l xuống<br /> 143,2 g/l). BN được chỉ định phẫu thuật<br /> nội soi thăm dò xử trí tổn thương.<br /> * Quá trình vô cảm và phẫu thuật:<br /> - BN lên phòng mổ trong tình trạng<br /> tỉnh táo, tiếp xúc tốt, mạch 123 lần/phút,<br /> huyết áp 145/80 mmHg, rung nhĩ trên ECG,<br /> tự thở tốt, tần số 14 lần/phút, không khó thở,<br /> rì rào phế nang hai bên rõ, SpO2 98%<br /> (thở khí trời), nước tiểu qua sonde 50 ml.<br /> - Chuẩn bị BN: cho thở oxy qua mask<br /> 3 lít/phút. Theo dõi điện tim, huyết áp<br /> động mạch (HAĐM) xâm lấn, độ bão hòa<br /> oxy mao mạch (SpO2), đặt catheter tĩnh<br /> mạch cảnh sâu, đặt đường truyền tĩnh<br /> mạch ngoại vi kim 14G.<br /> 175<br /> <br /> T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2017<br /> - Tiền mê bằng fentanyl 2 µg/kg trước<br /> mê gây mê.<br /> - Khởi mê bằng etomidat 0,2 mg/kg,<br /> đặt ống nội khí quản cỡ số 7,0 dưới giãn<br /> cơ rocuronium 1 mg/kg thuận lợi, thông<br /> khí kiểm soát thể tích tần số 10 - 12<br /> lần/phút, Vt: 8 ml/kg, FiO2 100%, SpO2:<br /> 100%, duy trì EtCO2: 35 - 40 mmHg.<br /> - Duy trì mê bằng sevofluran kết hợp<br /> propofol điều chỉnh theo huyết động và độ<br /> mê theo thang điểm PRST, giảm đau<br /> bằng fentanyl, giãn cơ bằng rocuronium.<br /> - Đặt trocar 10 mm trên rốn, kiểm tra<br /> thấy ổ bụng nhiều máu, một đoạn hỗng<br /> tràng hoại tử tím đen, các cơ quan khác<br /> chưa thấy bất thường. Chuyển mổ mở,<br /> rạch da đường trắng giữa trên và dưới<br /> rốn dài 20 cm, vào ổ bụng kiểm tra thấy<br /> nhiều máu không đông hút ra khoảng<br /> 1.200 ml, đoạn hỗng tràng hoại tử khoảng<br /> 40 cm cách góc Treitz 60 cm do nhồi máu<br /> mạc treo, trong lòng ruột có nhiều dịch<br /> máu. Tiến hành cắt đoạn hỗng tràng hoại<br /> tử cho đến phần ruột lành khoảng 60 cm<br /> bằng stapler, khâu tăng cường mỏm cắt<br /> bằng 1 lớp chỉ sail 3/0, nối hỗng tràng<br /> bên-bên, kiểm tra lưu thông tốt, nuôi dưỡng<br /> tốt, khâu kín mạc treo tiểu tràng. Lau rửa<br /> ổ bụng, đặt dẫn lưu Douglas, đóng bụng<br /> 2 lớp.<br /> - Trong quá trình phẫu thuật huyết áp<br /> tâm thu dao động từ 130 - 140 mmHg, áp<br /> lực tĩnh mạch trung tâm từ 13 - 15 mmHg.<br /> - Phẫu thuật kéo dài 3 giờ, kết thúc<br /> phẫu thuật thông khí bóp bóng chuyển<br /> BN về Khoa Hồi sức Tích cực điều trị tiếp.<br /> - BN được rút ống nội khí quản sau 12<br /> giờ, tình trạng huyết động và hô hấp ổn<br /> định, ra viện sau 10 ngày.<br /> 176<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> 1. Về nguyên nhân NMMT.<br /> Nhồi máu mạc treo là tình trạng bệnh<br /> lý, trong đó tổn thương ruột gây ra do<br /> giảm hoặc mất cung cấp máu từ hệ mạch<br /> mạc treo và bệnh thường gặp ở người<br /> già hoặc BN có rung nhĩ. Nghiên cứu của<br /> Nguyễn Tuấn (2014) [1] gặp độ tuổi trung<br /> bình 56, nghiên cứu của Endean và CS<br /> [3] là 61 tuổi, tuy nhiên cũng có trường<br /> hợp bệnh xảy ra ở độ tuổi còn khá trẻ. BN<br /> của chúng tôi là nữ, 56 tuổi, có tiền sử<br /> hẹp van hai lá có rung nhĩ đang điều trị<br /> thuốc chống đông.<br /> Về kinh điển, thiếu máu mạc treo được<br /> phân loại theo 4 nhóm nguyên nhân: thuyên<br /> tắc (embolus) động mạch mạc treo, huyết<br /> khối (thrombosis) động mạch mạc treo,<br /> thiếu máu mạc treo không do tắc nghẽn<br /> (non-occlusive mesenteric ischaemia) và<br /> huyết khối tĩnh mạch mạc treo. Với BN<br /> này chúng tôi xác định nguyên nhân là do<br /> thuyên tắc động mạch mạc treo tràng trên<br /> do cục máu đông hình thành và di chuyển<br /> từ nhĩ trái. BN có tiền sử hẹp van hai lá,<br /> rung nhĩ, đây là yếu tố nguy cơ rất lớn<br /> hình thành cục máu đông, di chuyển và<br /> gây tắc các mạch ngoại vi, trong đó động<br /> mạch mạc treo ruột hay gặp.<br /> 2. Về chẩn đoán.<br /> Trường hợp này, BN được chẩn đoán<br /> trước mổ vỡ u nang buồng trứng xoắn<br /> trước khi nội soi ổ bụng. Theo Boley [2]<br /> và Endean [3], các triệu chứng lâm sàng<br /> để chẩn đoán NMMT thường không đặc<br /> hiệu, nhất là khi bệnh ở giai đoạn sớm.<br /> Đau bụng là triệu chứng lâm sàng thường<br /> gặp nhất, xuất hiện đầu tiên ở BN nhồi máu<br /> <br /> T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2017<br /> mạc treo, gặp 92 - 100% trường hợp [1, 3].<br /> Tuy nhiên, tính chất đau bụng có khác nhau,<br /> tùy thuộc từng nguyên nhân: trong thuyên<br /> tắc động mạch mạc treo, đau bụng thường<br /> xuất hiện đột ngột và cường độ đau cũng<br /> dữ dội hơn so với huyết khối động mạch<br /> và huyết khối tĩnh mạch. Ngoài ra, đau bụng<br /> không tương xứng với dấu hiệu khi thăm<br /> khám, có thể đau bụng dữ dội nhưng các<br /> phát hiện ở bụng rất ít. Đến giai đoạn muộn,<br /> khi đoạn ruột đã hoại tử thường xuất hiện<br /> sốt, bí trung đại tiện, liệt ruột và biểu hiện<br /> của viêm phúc mạc toàn thể. Như vậy, đau<br /> bụng là triệu chứng sớm, thường gặp nhất<br /> của NMMT, tuy nhiên ®©y không phải là<br /> đặc hiệu để chẩn đoán.<br /> Điểm đặc biệt trên BN này là đau bụng<br /> vùng hạ vị, đau liên tục tăng dần. Tuy<br /> nhiên, mức độ đau không dữ dội và kèm<br /> theo hội chứng chảy máu trong: hoa mắt,<br /> chóng mặt, xét nghiệm máu: hồng cầu<br /> giảm nhanh từ 4,624 T/l xuống 2,118 T/l;<br /> huyết sắc tố giảm từ 137 g/l xuống còn<br /> 101,2 g/l; siêu âm có dịch Douglas và chọc<br /> dò ổ bụng có máu không đông. Trên một BN<br /> nữ với triệu chứng như vậy thường được<br /> nghĩ tới bệnh lý sản phụ khoa, cụ thể ở<br /> trường hợp này vỡ u nang buồng trứng.<br /> Thêm vào đó trên siêu âm không thấy có<br /> cục máu đông trong nhĩ trái và BN đang<br /> điều trị bằng thuốc chống đông, điều đó<br /> càng nghĩ tới NMMT. Chính vì vậy, BN được<br /> chẩn đoán trước mổ là vỡ u nang buồng<br /> trứng mặc dù BN có tiền sử hẹp van hai<br /> lá và rung nhĩ là những yếu tố nguy cơ cao.<br /> Các xét nghiệm cận lâm sàng thường<br /> quy ít có ý nghĩa trong chẩn đoán NMMT<br /> do độ nhạy và độ đặc hiệu thấp, không giúp<br /> phát hiện thiếu máu ruột ở giai đoạn sớm,<br /> <br /> lúc ruột còn khả năng hồi phục hoàn toàn<br /> khi điều trị kịp thời. Trong giai đoạn sớm,<br /> hình ảnh trên X quang bụng không chuẩn<br /> bị và siêu âm thường không đặc hiệu.<br /> Tuy nhiên, có thể giúp phân biệt với trường<br /> hợp thủng tạng rỗng hay tắc ruột. Ở giai<br /> đoạn muộn, trên X quang bụng có mức<br /> hơi - dịch trong ruột non hoặc đại tràng, các<br /> quai ruột giãn, trên siêu âm thấy quai<br /> ruột giãn, dày thành ruột non và dịch tự<br /> do ổ bụng.<br /> Siêu âm Doppler là phương tiện chẩn<br /> đoán không xâm lấn, khả năng khảo sát<br /> nhanh và có thể thực hiện tại giường bệnh,<br /> đặc biệt khi thực hiện trong giai đoạn sớm<br /> trước khi có liệt ruột toàn bộ có thể giúp<br /> phát hiện tắc nghẽn đoạn gần của động<br /> mạch mạc treo tràng trên. Nhược điểm<br /> của siêu âm là kết quả phụ thuộc nhiều<br /> vào trình độ, kỹ năng của người thực hiện.<br /> BN này đã ở giai đoạn muộn, có dấu hiệu<br /> liệt ruột, bụng chướng hơi, làm hạn chế<br /> việc khảo sát ổ bụng và cho kết quả không<br /> đáng tin cậy.<br /> Chụp mạch máu là tiêu chuẩn vàng<br /> chẩn đoán xác định NMMT, có thể cho<br /> hình ảnh giải phẫu hệ mạch máu và<br /> nguyên nhân gây nhồi máu, nó không chỉ<br /> cho phép chẩn đoán mà còn giúp điều trị<br /> kịp thời bằng cách truyền thuốc giãn mạch<br /> vào động mạch chọn lọc hoặc thuốc kháng<br /> đông kịp thời cho một số trường hợp.<br /> Mặc dù vậy, đây là phương pháp xâm lấn,<br /> tốn thời gian và có thể gây chẩn đoán<br /> chậm không đóng góp nhiều cho xử trí.<br /> Trường hợp BN của chúng tôi đã có<br /> biểu hiện viêm phúc mạc kèm theo những<br /> rối loạn đông máu và bệnh lý tim mạch,<br /> nên chúng tôi đã không tiến hành chụp<br /> mạch máu.<br /> 177<br /> <br /> T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2017<br /> Chụp cắt lớp vi tính là phương tiện<br /> chẩn đoán có thể cung cấp toàn bộ tình<br /> trạng trong ổ bụng nhanh chóng và không<br /> xâm lấn. Các dấu hiệu đặc hiệu của cắt<br /> lớp điện toán trong chẩn đoán thiếu máu<br /> mạc treo bao gồm: huyết khối động mạch<br /> mạc treo tràng trên hoặc tĩnh mạch mạc<br /> treo tràng trên, hơi trong thành ruột, thành<br /> ruột không bắt cản quang và dấu hiệu<br /> thiếu máu tạng đặc [7]. Những dấu hiệu<br /> này gặp ở giai đoạn muộn, khi đã có tổn<br /> thương ruột nặng như nhồi máu và hoại<br /> tử. Hiện nay, việc áp dụng chụp cắt lớp<br /> điện toán đa lát cắt với tốc độ chụp<br /> nhanh, độ phân giải, kết hợp với các kỹ<br /> thuật tái tạo hình ảnh ba chiều giúp phát<br /> hiện nhanh chóng huyết khối trong lòng<br /> mạch máu cũng như tổn thương sớm của<br /> niêm mạc ruột trong giai đoạn sớm của<br /> bệnh. BN của chúng tôi được chỉ định<br /> chụp cắt lớp điện toán ổ bụng, nhưng chỉ<br /> thấy ruột giãn, có dịch giữa quai ruột và<br /> không xác định được tổn thương.<br /> Biện pháp khác để chẩn đoán NMMT<br /> là nội soi ổ bụng. Đây là phương pháp<br /> khá an toàn, hiệu quả trong chẩn đoán<br /> tình trạng cấp cứu bụng ngoại khoa nói<br /> chung và NMMT nói riêng, trong tr−êng<br /> hîp triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng<br /> không rõ ràng khó xác chẩn, khó khẳng<br /> định được chẩn đoán. BN của chúng tôi<br /> được chẩn đoán trước mổ vỡ u nang buồng<br /> trứng, nhưng khi nội soi ổ bụng mới có cơ<br /> sở chẩn đoán xác định là NMMT.<br /> 3. Về điều trị.<br /> Cho đến nay có nhiều phương pháp<br /> điều trị NMMT như: phẫu thuật mạch máu,<br /> cắt đoạn ruột hoại tử, can thiệp mạch,<br /> điều trị thuốc tiêu huyết khối, thuốc kháng<br /> 178<br /> <br /> đông, thuốc giãn mạch, hồi sức tích cực…<br /> Việc lựa chọn phương pháp điều trị nào<br /> phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.<br /> Tuy nhiên, phẫu thuật cắt đoạn ruột hoại<br /> tử vẫn là phương pháp áp dụng cho phần<br /> lớn các trường hợp [1, 4] khi đoạn ruột<br /> thiếu máu đã hoại tử, nguyên nhân do đa<br /> số BN đến viện muộn, việc chẩn đoán<br /> sớm NMMT khá khó khăn. Ngay khi nội<br /> soi và xác định tình trạng hoại tử ruột do<br /> NMMT, chúng tôi thực hiện cắt đoạn ruột<br /> hoại tử, đây là lựa chọn duy nhất và cần<br /> tiến hành ngay. Điều trị phẫu thuật tắc<br /> mạch mạc treo nhằm hai mục đích: cắt bỏ<br /> những phần ruột đã hoại tử và phục hồi<br /> lưu thông dòng máu nuôi ruột. Tuy nhiên,<br /> để xác định chính xác đoạn ruột có khả<br /> năng phục hồi hay cần cắt bỏ và ranh giới<br /> giữa phần ruột lành và ruột đã hoại tử rất<br /> khó, chủ yếu dựa vào màu sắc, nhu động<br /> ruột và mạch đập. Ngoài ra, có thể sử<br /> dụng siêu âm Doppler màu hoặc dùng<br /> chất huỳnh quang chích vào tĩnh mạch và<br /> quan sát ruột dưới đèn Wood. Việc quyết<br /> định nối ruột ngay hoặc đưa hai đầu ruột<br /> ra ngoài sau khi cắt phần ruột hoại tử dựa<br /> trên đánh giá tình trạng chung của BN,<br /> phần ruột còn lại lành. Trường hợp này,<br /> do BN có tình trạng lâm sàng ổn định,<br /> ruột non được tưới máu tốt nên chúng tôi<br /> tiến hành khâu nối phục hồi lưu thông ngay.<br /> Cần lưu ý một số điểm khi vô cảm cắt<br /> đoạn ruột hoại tử trong trường hợp này.<br /> Trước hết, do BN đến muộn trong tình<br /> trạng đã có viêm phúc mạc và hoại tử<br /> ruột nên việc hồi sức tích cực trước và<br /> trong mổ là yếu tố quan trọng nhằm đảm<br /> bảo an toàn cho vô cảm và phẫu thuật.<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2