intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thông tin chung về công ươc khí hậu

Chia sẻ: Van Trung | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:34

212
lượt xem
97
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu đã được tiến hành tại Pô-dơ-nan, Ba Lan từ ngày 01 đến 12 tháng 12 năm 2008. Nội dung chính gồm hai phần: Hội nghị lần thứ 14 các Bên tham gia Công ước khí hậu (COP 14) và Hội nghị lần thứ 4 các Bên tham gia Nghị định thư Kyoto (COP/CMP). Cùng với hai hoạt động chính nêu trên, còn diễn ra khóa họp của các Nhóm công tác và Ban Bổ trợ của Công ước và Nghị định thư:...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thông tin chung về công ươc khí hậu

  1. BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG Ban Chỉ đạo thực hiện Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto THÔNG TIN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Số 1/2009 Hà Nội, tháng 5 năm 2009
  2. NỘI DUNG THÔNG TIN CHUNG VỀ CÔNG ƯỚC KHÍ HẬU VÀ NGHỊ ĐỊNH THƯ KYOTO Đánh giá kết quả COP 14 và COP/CMP Các nước giàu “keo kiệt” trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu Khóa họp AWG-LCA 5 của Công ước khí hậu và khóa họp AWG-KP 7 của Nghị định thư Kyoto tại Bonn, CHLB Đức HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN CÔNG ƯỚC KHÍ HẬU VÀ NGHỊ ĐỊNH THƯ KYOTO TRÊN THẾ GIỚI Số liệu thống kê các dự án CDM trên thế giới (tính đến 31/03/2009) Kế hoạch mới của EU nhằm hạn chế biến đổi khí hậu Trung Quốc mở rộng thị trường buôn bán quyền phát thải Trung Quốc chi 60 tỷ bảng Anh cho ngành năng lượng HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN CÔNG ƯỚC KHÍ HẬU VÀ NGHỊ ĐỊNH THƯ KYOTO Ở VIỆT NAM Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu Hoạt động của Ban Chỉ đạo thực hiện UNFCCC và Nghị định thư Kyoto Phê duyệt dự án CDM (PDD) Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Đan Mạch về Chương trình thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu giai đoạn 2009-2013 Kỷ niệm Ngày Nước thế giới (22/3) và Ngày Khí tượng thế giới (23/3) Hội thảo "Kết quả các kịch bản biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cho Việt Nam" Thực hiện dự án trồng rừng Cao Phong theo CDM TIN KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ Khí hậu trái đất vẫn tiếp tục biến đổi theo hướng xấu đi. Khoa học biến đổi khí hậu chuyển từ tìm bằng chứng sang ngăn ngừa thảm họa Băng tan trên Bắc cực đã vượt quá khả năng hồi phục Khí mê tan - quả bom nổ chậm Năm 2030 công nghệ thu hồi và lưu trữ các-bon sẽ tự chủ về tài chính CÁC TIN KHÁC Khí hậu thế giới năm 2008 Bản tin WMO về khí nhà kính trong năm 2007 Biến đổi khí hậu tiếp sức cho biển lửa Ô-xtrây-li-a ĐBSCL sẽ có nhiều bất ổn về khí hậu
  3. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÔNG ƯỚC KHÍ HẬU VÀ NGHỊ ĐỊNH THƯ KYOTO Đánh giá kết quả COP 14 và COP/CMP Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu đã được tiến hành tại Pô-dơ-nan, Ba Lan từ ngày 01 đến 12 tháng 12 năm 2008. Nội dung chính gồm hai phần: Hội nghị lần thứ 14 các Bên tham gia Công ước khí hậu (COP 14) và Hội nghị lần Toàn cảnh COP 14 thứ 4 các Bên tham gia Nghị định thư Kyoto (COP/CMP). Cùng với hai hoạt động chính nêu trên, còn diễn ra khóa họp của các Nhóm công tác và Ban Bổ trợ của Công ước và Nghị định thư:  Khóa họp lần thứ 4 Nhóm công tác đặc biệt về hành động hợp tác dài hạn trong khuôn khổ Công ước (AWG –LCA 4);  Khóa họp lần thứ 6 Nhóm công tác đặc biệt về các cam kết tiếp theo đối với các Bên thuộc Phụ lục I, Nghị định thư Kyoto (AWG-KP 6);  Khóa họp lần thứ 29 Ban Bổ trợ về thực hiện Công ước và Nghị định thư (SBI 29) và  Khóa họp lần thứ 29 Ban Bổ trợ về tư vấn khoa học, công nghệ (SBSTA 29). Tham gia hội nghị và các khoá họp nêu trên có gần 9.300 đại biểu, trong đó khoảng gần 4.000 quan chức Chính phủ, 4.500 đại diện các cơ quan, tổ chức thuộc Liên hợp quốc, cơ quan liên Chính phủ, phi Chính phủ và hơn 800 nhà báo. Kết quả các hoạt động trên được thể hiện qua các Nghị quyết của COP, COP/CMP và các quyết định của các Ban bổ trợ, liên quan đến nhiều vấn đề quan trọng như Quỹ Thích ứng thuộc Nghị định thư; Chương trình làm việc năm 2009 của AWG-LCA và AWG-KP; Chuyển giao công nghệ; Cơ chế phát triển sạch (CDM); Tăng cường năng lực; Thông báo quốc gia; các vấn đề về tài chính, hành chính và phương pháp luận. Trọng tâm chính của Hội nghị Pô-dơ-nan là vấn đề hợp tác dài hạn và giai đoạn sau 2012, khi giai đoạn cam kết đầu tiên của Nghị định thư Kyoto hết hạn thực hiện. Tháng 12/2007, Hội nghị Bali (COP 13) đã thông qua Lộ trình và Kế hoạch hành động Bali với mục tiêu COP 15 vào tháng 12/2009 sẽ là thời hạn cuối cùng để các Bên thỏa thuận về một khung hành động sau 2012. Như vậy Hội nghị Pô-dơ-nan kết thúc nửa quãng đường phải đi, nhưng nhìn chung các
  4. kết quả đạt được chưa có tính đột phá và các nhà đàm phán chỉ còn lại 7 tháng với những nhiệm vụ hết sức nặng nề và khó khăn trước khi đến COP 15 tại Cô- pen-ha-gen, Đan Mạch. Không khí chính trị cuối năm 2008 Bối cảnh chính trị trước thềm Hội nghị Pô-dơ-nan có khác so với trước Hội nghị Bali, tháng 12/2007. Tại Bali, không khí Hội nghị bị chi phối mạnh bởi Báo cáo đánh giá lần thứ tư (AR4) của Ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) và cảm nhận về tính cấp thiết của cuộc chiến chống lại biến đổi khí hậu. Ngược lại, tại Pô-dơ-nan các cuộc đàm phán diễn ra trong tâm trạng lo lắng về tình trạng nền tài chính toàn cầu đang xấu đi nhanh chóng. Nhiều đại biểu quan tâm đến khả năng chính sách khí hậu sẽ trở thành nạn nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ngay những người lạc quan nhất cũng cho rằng khủng hoảng tài chính sẽ gây những tác động nhất định đến quá trình đàm phán. Tại Hội nghị, Liên minh châu Âu và một số quốc gia khác cố gắng nhấn mạnh việc họ tiếp tục cam kết theo đuổi cuộc chiến chống lại biến đổi khí hậu với lập luận rằng việc chuyển đổi qua nền kinh tế các-bon thấp mặc dù tốn kém nhưng cũng mang lại nhiều cơ hội kinh tế quan trọng. Tuy nhiên, đồng thời với Hội nghị Pô-dơ-nan, đã diễn ra các cuộc đàm phán kéo dài về chính sách của EU về năng lượng và khí hậu nhằm thực hiện mục tiêu giảm 20% phát thải vào năm 2020, đặt ra vấn đề liệu các nhà lãnh đạo EU có chùn bước trong chính sách khí hậu. Trong những ngày cuối cùng của Hội nghị Pô-dơ-nan, các đại biểu đều cảm thấy nhẹ nhõm khi được tin một thỏa thuận đã đạt được tại Bơ-ruc-xen về chính sách của EU. Chính sách, bao trùm giai đoạn từ 2013 đến 2020, đặt ra các quy tắc cho giai đoạn 3 của Cơ chế buôn bán phát thải của EU (ETS), chỉ tiêu phát thải chi tiết cho từng quốc gia thành viên và các mục tiêu đạt 20% năng lượng tái tạo, 10% năng lượng sinh học trong hệ thống năng lượng và tăng 20% hiệu suất sử dụng năng lượng. Chiến thắng của ông Barack Obama trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ cũng tạo được không khí lạc quan tại Pô-dơ-nan. Ông Obama đã hứa sẽ dành ưu tiên cao cho vấn đề biến đổi khí hậu và nhấn mạnh đến nền kinh tế năng lượng xanh như một phương thuốc cho cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra. Tại Pô- dơ-nan, đoàn Mỹ vẫn là các đại diện của chính quyền Bush với thái độ tương đối thờ ơ trong các cuộc đàm phán. Một số đại biểu cho rằng lập trường không rõ ràng của Mỹ trong năm 2009 đã kiềm chế các nước khác đưa ra những chính sách tiến bộ tại Pô-dơ-nan và khó mong đợi các nước đang phát triển thực hiện những bước đi đáng kể trước khi các nước phát triển xác định rõ lập trường của họ về giảm phát thải và cung cấp tài chính. Nói chung hầu hết các đại biểu đều cảm nhận rằng tình thế chính trị bao quanh Hội nghị Pô-dơ-nan không phải là lý tưởng cho những đột phá quan trọng về chính sách. Hy vọng và kết quả
  5. Hội nghị Pô-dơ-nan đã có một chương trình nghị sự dầy đặc. Với 6 hoạt động chính (COP 14, COP/CMP, AWG-LCA 4, AWG-KP 6, SBI 29 và SBSTA 29) đã có tới hơn 90 đề mục và tiểu đề mục được đặt trên bàn các cuộc họp. Điều đó gây căng thẳng cho nhiều đoàn và bắt buộc phải chọn lựa những nội dung ưu tiên. Nói cách khác một số đề mục trong chương trình nghị sự đã không được quan tâm đầy đủ mà tập trung vào những vấn đề liên quan đến Lộ trình Bali: Nhóm công tác đặc biệt về hành động hợp tác dài hạn trong khuôn khổ Công ước (AWG-LCA 4); Nhóm công tác đặc biệt về các cam kết tiếp theo đối với các Bên thuộc Phụ lục I, Nghị định thư Kyoto (AWG-KP 6) và lần thứ 2 xem xét lại Nghị định thư Kyoto theo quy định trong Điều 9 của Nghị định thư (lần thứ nhất được tiến hành tại COP/CMP 2). Các đoàn cũng tập trung thảo luận vài đề mục khác trong chương trình nghị sự trong đó có việc đưa Quỹ Thích ứng vào hoạt động nghiệp vụ và tăng cường Cơ chế phát triển sạch (CDM). Về hoạt động của AWG-LCA Tại kỳ họp thứ 4 này, AWG-LCA đã dành nhiều thời gian xem xét “chia sẻ tầm nhìn đối với hoạt động hợp tác dài hạn”, là chủ đề của một hội thảo tiến hành ngay tại khóa họp, của nhóm tiếp xúc và của hội nghị bàn tròn cấp Bộ trưởng. Theo Kế hoạch hành động Bali, “chia sẻ tầm nhìn” có bao gồm mục tiêu giảm phát thải. Trong khi một số người lạc quan hy vọng vào một thỏa thuận tại Pô-dơ-nan về mục tiêu giảm phát thải dài hạn nhằm dẫn dắt các cuộc đàm phán trong năm 2009, nhưng đã không có những nỗ lực nghiêm túc để đạt được một kết quả như vậy. Vì vấn đề này có nhiều khả năng trở thành phần chủ yếu trong một thỏa thuận trọn gói đạt được, nhiều đại biểu kỳ cựu dự đoán rằng nó sẽ không thể được giải quyết cho đến Hội nghị Cô-pen-ha-gen. Tuy nhiên họ coi đó là dấu hiệu tích cực cho thấy tại Pô-dơ-nan đã xuất hiện một sự hiểu biết chung rằng “chia sẻ tầm nhìn” bao trùm tất cả các mảng chủ yếu tạo nên Kế hoạch hành động, đó là giảm nhẹ, thích ứng, công nghệ và tài chính. Nhiều đại biểu cũng cảm thấy đã đạt được tiến bộ về khái niệm giám sát, lập báo cáo và kiểm tra (MRV) và ý tưởng về đăng ký các hành động giảm nhẹ thích hợp cấp quốc gia ở các nước đang phát triển. Ngược lại, những kiến nghị về sự phân biệt giữa các nước đang phát triển do nhiều nước công nghiệp hóa thông qua, đã bị một số nhóm trong Khối G-77 và Trung Quốc kiên quyết phản đối. Một số đề xuất về thích ứng cũng được làm chi tiết hơn, bao gồm cả cơ chế bảo hiểm theo đề xuất của Nhóm liên minh các quốc gia đang phát triển đảo nhỏ (AOSIS). Những ý tưởng đó cùng nhiều ý tưởng khác đã được đưa vào “văn kiện cuộc họp”, một tập hợp các kiến nghị, đề xuất và là một trong những kết quả chủ yếu của AWG-LCA 4 và hy vọng sẽ được đưa vào văn bản đàm phán chính thức trong nửa đầu năm 2009. Về hoạt động của AWG-KP Đối với AWG-KP, trọng tâm là cuộc thảo luận có tính chiến lược về tất cả những đề mục chủ yếu trong chương trình nghị sự và về chương trình làm việc
  6. năm 2009, với mục tiêu đạt được thỏa thuận về những hành động trong tương lai nhằm hoàn chỉnh tại Cô-pen-ha-gen các cam kết sau 2012 của các nước Phụ lục I. Một số quan sát viên và các nước đang phát triển hy vọng có một quyết định rõ ràng về giới hạn tổng thể các giảm phát thải trung hạn đối với các nước công nghiệp hóa. Tuy nhiên, trong khi giới hạn giảm phát thải từ 25 đến 40%, đã nêu trong Báo cáo đánh giá lần thứ 4 của IPCC (AR4), xuất hiện trở lại trong các kết luận của AWG-KP, ngôn ngữ được dùng cũng tương tự như trong các kết luận trước đây và thiếu vắng một cam kết xác định. Theo một số nhà đàm phán, lý do chủ yếu là một số nước thuộc khối Bảo hộ không tự nguyện cam kết giảm phát thải trung hạn tại thời điểm này. Tuy nhiên nhiều đại biểu cũng cho rằng còn thiếu những nỗ lực nghiêm túc nhằm đạt được một thỏa thuận về vấn đề đó ngay tại Pô-dơ-nan, có thể vì các đại biểu nhận thức rằng không khí chính trị chưa đủ chín muồi cho những cuộc thảo luận như vậy. Nhìn chung hầu hết các đại biểu đều cảm thấy những kết quả có được của AWG-KP là khiêm tốn, mới chỉ giới hạn trong chương trình công tác năm 2009 và thỏa thuận rằng các cam kết tương lai của các nước Phụ lục I “về nguyên tắc” nên là những mục tiêu giảm và giảm nhẹ phát thải định lượng (QELROs). Những đại biểu đặt ít kỳ vọng vào hội nghị cho rằng có thể trông đợi kết quả ít hơn thế nhiều vì các nước còn chờ thời điểm thị trường sụt giảm tới đáy và nước Mỹ có chính quyền mới. Về Quỹ Thích ứng Ngoài chương trình làm việc Pô-dơ-nan về chuyển giao công nghệ, còn có một kết quả cụ thể của Hội nghị Pô-dơ-nan là đưa Quỹ Thích ứng vào hoạt động nghiệp vụ. COP/CMP4 đã thông qua một số quyết định về vấn đề này, trong đó có việc sắp xếp để Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) và Ngân hàng Thế giới (WB) quản lý Quỹ Thích ứng. Điều quan trọng là cả ba phương thức tiếp cận Quỹ đều có thể được sử dụng, đó là: thông qua các tổ chức thực hiện, các tổ chức quốc gia được chỉ định, và các Bên tiếp cận trực tiếp. Vì vậy hy vọng từ năm 2009 Quỹ bắt đầu cung cấp tài chính cho các chương trình và dự án thích ứng tại các nước đang phát triển. Thắng lợi liên quan đến Quỹ Thích ứng mới chỉ tạm thời do thiếu nguồn bổ sung an toàn cho Quỹ. Hiện chưa đạt được thỏa thuận về mở rộng tỷ lệ chia sẻ lợi nhuận (hoặc “thuế thích ứng”) đối với Cơ chế Cùng thực hiện và Cơ chế Buôn bán phát thải trong lần thứ hai xem xét lại Nghị định thư như quy định trong Điều 9. Như nhiều đại biểu dự đoán, những cuộc tham vấn về vấn đề này đều khó khăn và không thể đạt được thỏa thuận, dẫn đến việc COP/CMP 4 kết thúc xem xét lại lần hai Nghị định thư mà không đạt được bất kỳ kết quả quan trọng nào. Hầu hết các nước đang phát triển thể hiện sự thất vọng sâu sắc về thất bại trong việc tăng kinh phí cho Quỹ Thích ứng. Trong khi nhiều Bên và nhiều đại diện khối tư nhân đặt hy vọng vào việc tăng cường CDM khi xem xét lại Nghị định thư theo quy định trong Điều 9, nhưng điều đó đã không đạt được. Tuy nhiên AWG-KP đã nhất trí là tại khóa
  7. họp tháng 3 hoặc tháng 4/2009 sẽ xem xét những vấn đề liên quan đến các Cơ chế Nghị định thư cho giai đoạn sau 2012. Từ Pô-dơ-nan đến Cô-pen-ha-gen: Những nhiệm vụ chủ yếu trong năm tới Trong năm 2009, nhiệm vụ chủ yếu của hai nhóm AWG-KP và AWG- LCA là hình thành văn kiện đàm phán chính thức để có thể gửi cho các Bên ít nhất 06 tháng trước khi khai mạc COP 15 tại Cô-pen-ha-gen vào tháng 12/2009 theo đúng các thủ tục pháp lý. Hội nghị Pô-dơ-nan được dư luận rộng rãi coi là một bước đi thắng lợi trên phương diện thủ tục vì đã trao quyền cho Trưởng các Nhóm công tác chuẩn bị văn kiện cho cuộc gặp vào tháng 3 hoặc tháng 4 năm 2009 tại Bon. Nhiệm vụ trao cho Nhóm AWG-LCA trong năm 2009 sẽ không dễ dàng. Nhóm sẽ phải đi tới thỏa thuận về cả bốn mảng cấu thành Kế hoạch hành động (giảm nhẹ, thích ứng, công nghệ và tài chính) và chia sẻ tầm nhìn. Đây là Nhóm công tác duy nhất có đại diện của tất cả các Bên, kể cả Mỹ, các nước đang phát triển, cùng tham gia thảo luận vấn đề giảm nhẹ phát thải. Chính vì vậy, các cuộc đàm phán về mục tiêu dài hạn toàn cầu, có thể được so sánh với những nỗ lực giảm phát thải của các nước phát triển và hoạt động giám sát, báo cáo và kiểm tra (MRV) trong bối cảnh những hoạt động giảm nhẹ phát thải của nước đang phát triển thích hợp về mặt quốc gia trở thành vấn đề trung tâm. Điều quan trọng là MRV cũng áp dụng cho sự hỗ trợ của nước phát triển cho các nước đang phát triển thông qua công nghệ, tài chính và tăng cường năng lực và do vậy các phương thức thực hiện những việc đó sẽ phải được xác định. Về mặt cung cấp tài chính và chuyển giao công nghệ, Nhóm AWG-LCA sẽ đối mặt với thách thức phải đạt được thỏa thuận về cách thức tài trợ cho cả hoạt động giảm nhẹ và thích ứng, và tạo thuận lợi cho việc phát triển và chuyển giao công nghệ. Việc đánh giá các đề xuất nêu trong văn kiện tổng hợp cũng sẽ là một phần của nhiệm vụ này. Nhóm AWG-KP lại có mục tiêu rõ ràng cho năm 2009 đạt được thỏa thuận về những cam kết trong tương lai của các nước Phụ lục I cho giai đoạn sau 2012. Vì vậy một số nước đang phát triển có phần thất vọng khi thấy thiếu sự sắp xếp nhiệm vụ rõ ràng trong chương trình làm việc năm 2009 của Nhóm AWG-KP. Tuy nhiên nhiều nước phát triển cảm thấy hài lòng với văn bản xác nhận một lần nữa bản chất lặp đi lặp lại của chương trình và việc thỏa thuận “duy trì cách tiếp cận chặt chẽ” giữa Công ước và Nghị định thư liên quan đến những cam kết của các Bên thuộc Phụ lục I. Dựa theo vài tín hiệu ở Pô-dơ-nan, một số đại biểu dự đoán mối quan hệ giữa cách đi của Công ước và của Nghị định thư có thể sẽ trở nên tương ứng hơn trong năm 2009. Nhiều nước phát triển duy trì quan điểm là công việc của hai Nhóm công tác nên được điều phối sao cho trong cả hai Nhóm, ví dụ vấn đề giảm nhẹ phát thải, đều do các nước phát triển xử lý. Tại Pô-dơ-nan, Na Uy, EU và những nước khác cũng ám chỉ đến một “thỏa thuận trọn gói” hoặc “thỏa
  8. thuận toàn diện” tại Cô-pen-ha-gen và Niu-di-lân đề xuất hình thành một Ủy ban toàn thể và tiến đến cơ sở cho một văn kiện đàm phán đơn giản vào tháng 6 năm 2009. Tuy nhiên nhiều nước đang phát triển và Mỹ kiên quyết phản đối mọi ý đồ kết nối cách đi của Công ước và của Nghị định thư. Các nước đang phát triển lo ngại rằng điều đó có thể đánh lạc hướng sự chú ý đến các mục tiêu giảm phát thải mới đối với các nước công nghiệp hóa quy định trong Nghị định thư. Còn Mỹ lại tìm cách loại bỏ mọi đề xuất có thể dẫn đến việc đưa vấn đề đó ra thảo luận liên quan đến Nghị định thư. Vì vậy vấn đề còn phải quyết định trong năm 2009 là làm thế nào loại bỏ được sự trùng lặp công việc theo các cách đi khác nhau của Lộ trình Bali và cuối cùng thì các cuộc đàm phán sẽ đạt được kết quả pháp lý gì. Điều quan trọng là các nhà đàm phán tại Cô-pen-ha-gen sẽ phải giải quyết những vấn đề về thủ tục và pháp lý. Mọi con đường đều dẫn đến Cô-pen-ha-gen Trong khi nhiều người cho rằng Hội nghị Pô-dơ-nan đã đạt được một số tiến bộ và bước đi tích cực, cảm nhận chung là các nhà đàm phán đã không đạt được bước đột phá nào. Những người đặt hy vọng vào một hành động dứt khoát, đổ lỗi cho việc thiếu sự lãnh đạo về chính sách và sự quyết định mà theo họ sẽ báo hiệu một thắng lợi trước mắt trong năm tới. Nhiều người dự đoán thỏa thuận về những vấn đề cấp bách nhất, trong đó có mục tiêu giảm phát thải dài hạn và trung hạn và tài chính, sẽ không thể đạt được trước thềm hội nghị Cô-pen-ha- gen. Điều này làm cho một số người phải xem xét lại kỳ vọng của họ về việc điều gì sẽ tạo nên thành công tại Cô-pen-ha-gen và sẽ có bao nhiêu chi tiết của thỏa thuận khí hậu mới cần phải hoàn thành sau 2009. Điều có thể hiểu là một số đại biểu rời Pô-dơ-nan với những lo lắng khi cảm thấy rằng trong khi bằng chứng khoa học về sự biến đổi của khí hậu đang mạnh lên, “tinh thần Bali” lại yếu đi cùng với lập trường của các nước trong cuộc chiến với biến đổi khí hậu do khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Tuy nhiên, một số khác vẫn không từ bỏ sự lạc quan của mình. Họ dựa vào những tuyên bố từ cả hai phái EU và Mỹ về những biện pháp khắc phục khủng hoảng kinh tế có thể đóng góp cho nỗ lực giảm nhẹ biến đổi khí hậu và chuyển dịch sang nền kinh tế các-bon thấp. Một số đại biểu kỳ cựu, những người trải qua nhiều thăng trầm của quá trình đàm phán quốc tế cũng cho rằng kết quả khiêm tốn của hội nghị Pô-dơ-nan có thể là một điểm tích cực trong một kế hoạch lớn hơn các công việc cần làm. Theo lời một quan sát viên “Cần lưu ý các đại biểu là thành công không phải là chắc chắn và việc thiếu ý chí chính trị mạnh mẽ hoàn toàn có thể dẫn đến thất bại trong nỗ lực tạo ra đột phá lịch sử cần có tại Cô-pen-ha-gen”. Nguồn: The Earth Negotiations Bulletin Các nước giàu “keo kiệt” trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu
  9. Hãng tin Bloomberg cho biết sau hai tuần thảo luận đầy căng thẳng, đại diện 189 nước đã đồng ý khởi động đàm phán chính thức về một thỏa thuận chống biến đổi khí hậu. Thỏa thuận này có thể sẽ được ký kết nghị tại Cô-pen- ha-gen, Đan Mạch (COP 15) vào cuối năm 2009. “Thành công lớn nhất” của Hội nghị Pô-dơ-nan, như tuyên bố của nước chủ nhà Ba Lan, là việc mở Quỹ Cơ chế phát triển sạch (CDM) hỗ trợ các nước nghèo xây đê chống lũ, phát triển các loại ngũ cốc chịu hạn hán và thiết lập các hệ thống cảnh báo bão. Tuy nhiên, Quỹ CDM hiện tại chỉ có vẻn vẹn 80 triệu USD. Quá ít ỏi Bộ trưởng môi trường Cô-lôm-bi-a Juan Lozano nói “Đây là dấu hiệu tồi tệ trên con đường đến Cô-pen-ha-gen”. Đại diện Ấn Độ Prodipto Ghosh thì than thở: "Đây có lẽ là một trong những thời điểm đáng buồn nhất mà tôi từng chứng kiến”. Giám đốc Quỹ Đời sống hoang dã thế giới Kim Carstensen còn nặng lời hơn: “Cuộc họp là sự phí phạm thời gian”. Nguồn tài chính của Quỹ CDM lấy từ khoản 2% thu nhập của các dự án cắt giảm khí nhà kính thông qua Cơ chế phát triển sạch (CDM). Reuters cho biết tại hội nghị, các nước đang phát triển đề xuất đặt mức thuế 2% đối với mọi giao dịch của thị trường các-bon, trong đó có các dự án thuộc các cơ chế khác của Nghị định thư Kyoto là Cơ chế cùng thực hiện và Cơ chế buôn bán phát thải. Nếu thành công, nguồn tài chính thu được có thể lên đến 2 tỉ USD/năm. Tuy nhiên, Liên minh châu Âu và các nước giàu khác đã thẳng thừng từ chối với lý do đề nghị này là “quá vội vã”. Vấn đề này sẽ được xem xét lại trong năm 2009. Quỹ CDM sẽ chính thức giải ngân vào đầu năm 2009. Đến năm 2012, nguồn tài chính của quỹ có thể đạt đến 300 triệu USD/năm. Tuy nhiên, con số này vẫn là quá nhỏ bé so với yêu cầu thực tế. Theo dự báo của LHQ, đến năm 2030 các nước nghèo cần tới hàng chục tỉ USD mỗi năm để chống lại thảm họa biến đổi khí hậu. Cao ủy LHQ về người tị nạn (UNHCR) cho biết tác động của biến đổi khí hậu - chủ yếu là lũ lụt và bão tố - mỗi năm đẩy khoảng 6 triệu người lâm vào cảnh mất nhà cửa. Gập ghềnh đường đến Cô-pen-ha-gen Tại hội nghị, các nước đang phát triển đề nghị phương Tây đưa ra cam kết cụ thể về tỉ lệ cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính, tuy nhiên vấp phải sự phản đối gay gắt của Mỹ, Canada và Nhật. Trung Quốc và Nam Phi đưa ra đề nghị các nước phát triển chia sẻ công nghệ năng lượng sạch, nhưng không nhận được bất cứ sự ủng hộ nào từ phía các đối tác giàu có. “Người ta giả điếc với rất nhiều đề xuất - Bloomberg dẫn lời đại diện WWF Keya Chatterjee bình luận - Những gì đạt được chỉ là tối thiểu, trong khi kế hoạch cho năm tới lại đầy tham vọng”. Ông Yvo de Boer, quan chức hàng đầu LHQ về chống biến đổi khí hậu, thừa nhận một nửa công việc chuẩn bị cho Cô-pen-ha-gen vẫn chưa hoàn thành. Các chuyên gia cho rằng đà tiến của cuộc
  10. chiến chống biến đổi khí hậu đã mất khi năm 2008 trôi qua lãng phí và các nước rất khó có thể đạt được một thành tựu thật sự trong năm 2009. Bất chấp sự bất hợp tác của các nước giàu, nhiều quốc gia đang phát triển vẫn tự đề ra các mục tiêu cụ thể cho riêng mình. Bloomberg cho biết Bra-din tuyên bố sẽ giảm nạn phá rừng Amazon tới 70% trong vòng 10 năm, Pê-ru đặt chỉ tiêu không còn phá rừng vào năm 2020. Trung Quốc cam kết giảm tiêu thụ năng lượng khoảng 20% vào năm 2010 so với mức 2005, trong khi một số nước cam kết cắt giảm lượng khí nhà kính đáng kể. Các nước cũng bày tỏ hy vọng tân Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ thúc đẩy các chính sách môi trường mạnh mẽ như đã cam kết trong giai đoạn tranh cử. Khóa họp AWG-LCA 5 của Công ước khí hậu và khoá họp AWG-KP 7 của Nghị định thư Kyoto tại Bonn, CHLB Đức ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu - (AWG-KP 7)" do Ban thư ký Công ước khung về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto tổ chức tại Bonn, CHLB Đức từ ngày 29 tháng 3 đến ngày 08 tháng 4 năm 2009. - - T . - - -íc khung cña Liªn hîp quèc vÒ biÕn ®æi khÝ hËu (COP 15) Cô-pen-ha-gen 12 năm 2009. Nội dung chính của AWG-LCA 5 - . khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (Công ước ) . Nội dung chính của AWG – KP7
  11. khí nhà kính (KNK) . - KNK ột số vấn đề trong lĩnh vực LULUCF. - - . : triển khai các hoạt động . ản 2050. : /cam kết 2050, tuy nhiên năm cơ ăn cứ thực hiện òn . KNK dưới mức hoạt động kinh tế thông thường (BAU) . - - . HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN CÔNG ƯỚC KHÍ HẬU VÀ NGHỊ ĐỊNH THƯ KYOTO TRÊN THẾ GIỚI Số liệu thống kê các dự án CDM trên thế giới (tính đến 31/3/2009)
  12. Theo số liệu thống kê của Ban Thư ký Công ước khí hậu, tính đến ngày 31/3/2009, đã có 1.539 dự án CDM được Ban Chấp hành quốc tế về CDM đăng ký cho thực hiện. Trung bình mỗi năm các dự án tạo ra gần 279 triệu đơn vị giảm phát thải được chứng nhận (CER), tức là gần 279 triệu tấn CO 2 tương đương. Nếu tính đến 2012, năm kết thúc giai đoạn đầu thực hiện các cam kết trong Nghị định thư Kyoto, tổng số CER do các dự án đã được đăng ký tạo ra sẽ là hơn 1 tỷ 520 triệu. Nếu tính cho toàn bộ số dự án có trong danh mục, số CERs dự tính đến 2012 là hơn 2 tỷ 900 triệu đơn vị. Thông tin chi tiết trong bảng dưới đây. Số lượng dự án Số CER trung bình Số CER dự tính thu thu được hang năm được tính đến cuối 2012 Số dự án có trong danh > 2.900.000.000 mục: > 4200, trong số đó: 1539 Dự án đã được đăng 278.676.396 > 1.520.000.000 ký 42 Dự án đang xin đăng 7.829.200 > 20.000.000 ký Nếu tính cho từng nước chủ trì, số dự án được Ban chấp hành quốc tế về CDM cho đăng ký thực hiện và tổng CER dự kiến thu được hàng năm, được thể hiện trên Hình 1 và Hình 2. Có thể thấy ba nước đứng đầu về số dự án được thực hiện và số CER thu được hàng năm vẫn là Trung Quốc, Ấn Độ và Bra-din. Trong số đó Trung Quốc có 501 dự án chiếm 32,55% tổng số dự án với số CER thu được hàng năm là hơn 158 triệu đơn vị, chiếm 56,80%; Ấn Độ có 411 dự án chiếm 26,71% với số CER thu được hàng năm là gần 34 triệu đơn vị, chiếm 12,18%; Bra-din có 156 dự án chiếm 10,14% với hơn 20 triệu đơn vị CER thu được hàng năm chiếm 7,2%. Trong nhóm ASEAN, In-đô-nê-xi-a đứng hàng đầu với 23 dự án CDM được đăng ký thực hiện với số CER thu được hàng năm là hơn 3 triệu đơn vị; Thái Lan có 15 dự án, mỗi năm thu hơn 1 triệu CER. Tổng số CERs đã được Ban chấp hành quốc tế về CDM phát hành cho các nước chủ trì dự án (tính đến 30/3/2009) là hơn 272 triệu đơn vị, trong đó Trung Quốc nhận được hơn 119 triệu đơn vị, chiếm 43,87%; Ấn Độ được gần 61 triệu đơn vị chiếm 22,31%; Hàn Quốc được hơn 37 triệu đơn vị chiếm 13,73% và Bra-din được gần 30 triệu đơn vị chiếm 11,02%. Việt Nam có 3 dự án được đăng ký với số CER đã được phát hành đợt đầu là 4.486.500 đơn vị, chiếm 1,65% (Hình 3). Trong số 15 nhóm lĩnh vực có dự án CDM, công nghiệp năng lượng có nhiều nhất với 1133 dự án, chiếm 59,66%, tiếp sau là lĩnh vực xử lý và chôn lấp rác thải có 336 dự án, chiếm 17,69%. Lĩnh vực nông nghiệp có 100 dự án, chiếm 5,27%. Riêng lĩnh vực trồng rừng và tái trồng rừng (dự án LULUCEP) mới chỉ có 3 dự án CDM được đăng ký cho thực hiện.
  13. Hình 1: Số dự án CDM được đăng ký, tính theo nước chủ trì Hình 2: Số CER dự kiến thu được hang năm, tính theo nước chủ trì
  14. Hình 3: Số CER đã được phát hành cho nước chủ trì Kế hoạch mới của EU nhằm hạn chế biến đổi khí hậu Liên minh châu Âu (EU) vừa công bố một kế hoạch quốc tế nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, trong đó có lời hứa dành hàng tỷ USD viện trợ cho các nước nghèo nhất thế giới để chống lại tình trạng tăng nhiệt độ toàn cầu. Được công bố ở Bơ-ruc-xen ngày 28/01/2009, kế hoạch có tác dụng như giải pháp của EU cho thế giới nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, với kế hoạch tổ chức các cuộc đàm phán về vấn đề này dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc vào tháng 12/2009 tại Cô-pen-ha-gen. Đề nghị của EU kêu gọi một thỏa thuận mới về khí hậu. Kế hoạch của EU đề nghị đến năm 2020, cắt giảm 20% khí thải có hiệu ứng nhà kính gây sự tăng nhiệt độ, so với mức năm 1990, đồng thời tuyên bố họ sẽ cắt giảm đến 30% nếu các nước khác đồng ý tham gia. Nhưng để thực hiện việc đó, cần khoản kinh phí rất lớn. Các ước tính của EU cho biết thế giới sẽ cần đầu tư tới 71,1 tỷ đôla mỗi năm để đáp ứng các cam kết về giảm phát thải toàn cầu trước năm 2030. EU kêu gọi các nước giầu hơn trợ giúp kinh phí và chuyển giao công nghệ cho các nước nghèo trong các chương trình về biến đổi khí hậu, mặc dù không đưa ra con số cụ thể. EU cũng đề nghị Trung Quốc, Bra-din và Ấn Độ tham gia cùng các quốc gia giầu có nhất thế giới thực hiện việc bắt buộc cắt giảm khí thải các-bon và đăng ký vào một chương trình trao đổi khí thải mà châu Âu đã bắt đầu thi hành. Ủy viên về Môi trường của EU Stavros Dimas nói với các phóng viên rằng điều cấp thiết là thế giới phải hành động nhanh. Dimas nói: "Thỏa thuận
  15. này phải được kết thúc vào cuối Hội nghị của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu tại Cô-pen-ha-gen cuối năm nay. Tôi không thể nhấn mạnh đủ về tầm quan trọng của việc đạt được một thỏa thuận mạnh và có hiệu quả. Với tình trạng tăng nhiệt độ toàn cầu ngày càng nhanh, đây gần như là cơ hội cuối cùng của chúng ta để đưa vấn đề biến đổi khí hậu vào tầm kiểm soát trước khi nó đi đến mức mà tác động không thể đảo ngược được nữa". Một số các tổ chức môi trường cho rằng cần phải có các cam kết cụ thể về tài chính để giúp các nước nghèo hơn. Nguồn: www.monre.gov.vn Trung Quốc mở rộng thị trường buôn bán quyền phát thải Sau nhiều năm thử nghiệm trong quy mô nhỏ, Trung Quốc đã tiến hành các bước thiết lập hệ thống toàn quốc buôn bán quyền phát thải nhằm giảm ô nhiễm. Trong năm qua, ba thành phố là Thượng Hải, Bắc Kinh và Thiên Tân đã bắt đầu tạo lập cơ chế trao đổi phát thải để giảm các khí gây hiện tượng mưa a xít. Với tên gọi giới hạn-và-buôn bán (cap-and-trade), hệ thống này đặt ra giới hạn thải chất ô nhiễm cho ngành công nghiệp. Từng công ty được nhận giấy phép phát thải và giấy phép này có thể buôn bán được. Công ty nào đầu tư để giảm lượng phát thải dưới mức được phép, có thể bán tín dụng phát thải dư thừa của mình cho công ty khác phát thải nhiều hơn mức được phép. Các nhà buôn có thể đầu cơ chờ tăng giá tín dụng trong tương lai, vì sản xuất càng tăng, ô nhiễm càng nhiều và giấy phép phát thải sẽ có giá. Cách tiếp cận tương tự đang được sử dụng trên thị trường các-bon châu Âu, tại đó giới hạn quốc gia phát thải khí nhà kính được thiết lập và các công ty có quyền mua bán tín dụng phát thải có được thông qua việc thực hiện các cơ chế Nghị định thư Kyoto. Ở Trung Quốc, hình thức trao đổi này còn nhỏ lẻ, nhưng các nhà đầu tư lớn đã sẵn sàng đổ tiền vào thị trường mới mẻ này. Một trong những công ty lớn nhất Trung Quốc - Tập đoàn Dầu Khí Quốc gia (CNPC) đã liên doanh với Công ty trao đổi khí hậu Chi-ca-gô (Chicago Climate Exchange) thuộc sở hữu của Công ty Climate Exchange PLC, là Công ty cũng sở hữu thị trường các-bon lớn nhất thế giới mang tên European Climate Exchange, để thành lập Công ty Trao đổi Khí hậu Thiên Tân (Tianjin Climate Exchange). Trung Quốc nằm trong số những quốc gia ô nhiễm nhất thế giới và lợi nhuận trên thị trường cắt giảm ô nhiễm có thể sẽ rất lớn. Nguồn tín dụng các- bon được mua bán ở châu Âu hiện đứng đầu thế giới và theo một số đánh giá, thậm chí đã vượt Mỹ là nước có nguồn khí nhà kính đứng số một toàn cầu. Trung Quốc cũng là nguồn ô nhiễm khí suyn-phua đi-ô-xít lớn nhất thế giới do nước này sử dụng hơn 70% than đá làm nhiên liệu đáp ứng nhu cầu năng lượng.
  16. Cho đến nay, để giảm ô nhiễm, Trung Quốc vẫn chủ yếu áp dụng các biện pháp hành chính nhiều hơn là biện pháp thị trường. Tuy nhiên các tổ chức kiểm soát môi trường không có thẩm quyền hoặc thiếu cơ sở pháp lý để bắt buộc tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường. Từ những năm 1990, Trung Quốc đã thử nghiệm trong quy mô nhỏ việc trao đổi ở cấp địa phương để mua bán phát thải khí suyn-phua đi-ô-xit. Trong giai đoạn thử nghiệm, một số nhà máy điện đã thỏa thuận về giới hạn phát thải tuyệt đối và mua bán quyền phát thải giữa họ với nhau. Việc thử nghiệm đã không thể được mở rộng cho toàn quốc vì lo sợ rằng nếu thiết lập giới hạn ô nhiễm tuyệt đối có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế và vì những khó khăn kỹ thuật trong đo đạc và kiểm soát lượng giảm phát thải. Các nhà khoa học và một số quan chức Chính phủ tin rằng nếu kết hợp giảm phát thải với lợi ích kinh tế, sẽ có thể tạo được sự đồng thuận trong xã hội. Những người sáng lập hoạt động trao đổi (tín dụng các-bon) ở Trung Quốc cho biết Chính phủ đang khuyến khích họ bắt đầu phát triển cơ sở hạ tầng và bí quyết kỹ thuật để giảm ô nhiễm. Họ tin rằng Chính phủ Trung Quốc đang cố gắng thiết lập giới hạn tuyệt đối quốc gia đối với một số chất ô nhiễm, ví như suyn-phua đi-ô-xít và sẽ sử dụng cơ chế thị trường để đạt được những mục tiêu đó. Các nhà điều hành thị trường cho biết họ có kế hoạch bắt đầu cung cấp các công cụ tài chính, có thể được mua bán rộng rãi, nhằm giúp các công ty đáp ứng mục tiêu giảm ô nhiễm và nâng cao hiệu quả sản xuất. Tín dụng các-bon cũng có thể được cấp cho các công ty như hàng không dân dụng nếu họ tìm cách giảm phát thải thông qua đầu tư vào các dự án giảm phát thải khí nhà kính ở Trung Quốc. Những hoạt động này có thể vận hành ngoài khuôn khổ Nghị định thư Kyoto. Nhiều nhà quan sát tin rằng Trung Quốc cần ít nhất một thập kỷ nữa để chấp nhận giới hạn phát thải các-bon, mặc dầu có khả năng giới hạn phát thải suyn-phua đi-ô-xít sẽ được vận hành sớm hơn nhiều. Trong khi Trung Quốc có mục tiêu rộng lớn giảm 10% chất ô nhiễm chính trong kế hoạch 5 năm, kết thúc vào 2010, và nâng cao hiệu quả sản xuất, nước này vẫn chưa có khuôn khổ pháp lý cho việc mua bán thực tế quyền phát thải. Nguồn: The Wall Street Journal, by SHAI OSTER, Beijing. Trung Quốc chi 60 tỷ bảng Anh cho ngành năng lượng Trong năm 2009, Trung Quốc sẽ chi 580 tỷ nhân dân tệ (59,9 tỷ bảng) để mở rộng ngành năng lượng của họ, với kế hoạch phát triển mới các nhà máy điện mặt trời, gió và cả điện hạt nhân, điện than. Ông Zhang Guobao, Giám đốc Cơ quan năng lượng quốc gia Trung Quốc cho biết, các công ty thuộc sở hữu nhà nước đã có bước tiến trong việc đầu tư để
  17. đáp ứng nhu cầu năng lượng đang tăng lên và tăng trưởng nhanh về kinh tế, như một phần trong kế hoạch kích thích của Chính phủ. Ông Zhang cũng kêu gọi các Bộ trưởng bảo đảm thực thi những biện pháp thích hợp nhằm tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng. Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào nguồn than rẻ để đáp ứng phần lớn nhu cầu năng lượng nhưng cũng nỗ lực giảm các-bon và ô nhiễm khác trong các thành phố đang ngập tràn khói bụi. Số liệu thống kê cho thấy, trong năm 2008 Trung Quốc tiêu thụ 2,74 tỷ tấn than, tăng 4,5% so với năm 2007, nhưng tốc độ tăng trưởng lại thấp hơn 1,6% so với 2007. Trung Quốc là một trong những thị trường năng lượng gió tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Một nghiên cứu mới đây của Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu dự đoán đến năm 2020 Trung Quốc có thể có công suất điện gió được lắp đặt đạt 122 giga oat, tương đương với công suất của 5 nhà máy thủy điện Tam Hợp. Ông Zhang không cho biết thêm chi tiết về các kế hoạch lớn hơn nhằm mở rộng sản xuất năng lượng, nhưng tờ nhật báo China Daily cho biết Bắc Kinh đang xem xét xây dựng thêm 8 nhà máy điện nguyên tử, với tổng cộng 16 lò phản ứng sẽ vận hành trong phạm vi 3 năm. Hiện tại Trung Quốc có 11 lò phản ứng điện hạt nhân, cung cấp khoảng 1% nhu cầu năng lượng, nhưng mong muốn nâng tỷ lệ đóng góp lên ít nhất 5%. Nguồn: The Guadian, 5 February 2009 HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN CÔNG ƯỚC KHÍ HẬU VÀ NGHỊ ĐỊNH THƯ KYOTO Ở VIỆT NAM Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu Ngày 02/12/2008, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 158/QĐ-TTg phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu" với 9 nhiệm vụ và giải pháp. Chương trình được thực hiện trên phạm vi toàn quốc theo 3 giai đoạn: giai đoạn khởi động (2009-2010); giai đoạn triển khai (2011-2015) và giai đoạn phát triển (sau 2015). Tổng kinh phí thực hiện ước tính khoảng 1.965 tỷ đồng (không bao gồm kinh phí cho việc triển khai các kế hoạch hành động của các Bộ, ngành, địa phương). Quyết định 158 chỉ rõ ứng phó với biến đổi khí hậu được tiến hành trên nguyên tắc phát triển bền vững, đảm bảo tính hệ thống, tổng hợp, ngành, liên ngành, vùng, liên vùng, bình đẳng về giới, xóa đói giảm nghèo. Theo Quyết định này, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố thuộc trung ương chịu trách nhiệm xây dựng, thực hiện kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu cho Bộ, ngành, địa phương mình. Các Bộ, ngành, địa phương sẽ thực hiện việc đánh giá mức độ của biến đổi khí hậu ở Việt Nam đối với các lĩnh vực, các ngành, các địa phương
  18. trong từng giai đoạn, lồng ghép vấn đề này vào các chiến lược, chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành và các địa phương. Những nỗ lực ứng phó của nước ta sẽ là động thái tích cực trong công cuộc thích ứng, giảm nhẹ biến đổi khí hậu, bảo vệ hệ thống khí hậu toàn cầu. Ban Chỉ đạo quốc gia về Chương trình do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban; Bộ trưởng Bộ TN&MT làm Phó Trưởng ban thường trực; Bộ trưởng các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính làm Phó Trưởng ban; các ủy viên là Bộ trưởng các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngoại giao. Ban Chủ nhiệm Chương trình do Bộ trưởng Bộ TN&MT làm Chủ nhiệm. Tham gia Ban Chủ nhiệm có lãnh đạo, đại diện một số Bộ có liên quan. Văn phòng Chương trình do Cục trưởng Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, Bộ TN&MT làm Chánh Văn phòng. Với tư cách là cơ quan đầu mối của Chính phủ về ứng phó với biến đổi khí hậu, Bộ TN&MT được giao trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng cơ chế, chính sách quản lý, điều hành, hướng dẫn thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia và tổ chức thanh tra, kiểm tra, định kỳ sơ kết đánh giá việc thực hiện Chương trình. Nguồn: Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu Hoạt động của Ban Chỉ đạo thực hiện UNFCCC và Nghị định thư Kyoto Ngày 08/11/2008 và ngày 08/3/2009 đã diễn ra cuộc họp lần thứ 7 và cuộc họp lần thứ 8 của Ban Chỉ đạo thực hiện UNFCCC và Nghị định thư Kyoto. Nội dung chính của các cuộc họp này là: - Thông báo các hoạt động thực hiện UNFCCC, Nghị định thư Kyoto và CDM tại Việt Nam; - Xem xét và phê duyệt 20 PDD theo CDM: (1) Thủy điện Sông Miện; (2) Thủy điện Sông Tranh 3; (3) Thủy điện Ia Grai I; (4) Thủy điện kiểu dòng chảy quy mô nhỏ Suối Tân; (5) Thủy điện kiểu dòng chảy quy mô nhỏ Mường Sang; (6) Thủy điện kiểu dòng chảy quy mô nhỏ So Lo; (7) Thủy điện kiểu dòng chảy quy mô nhỏ Phú Mậu; (8) Tái trồng rừng Cao Phong; (9) Trích và sử dụng khí sinh học từ nước thải sản xuất tinh bột sắn tại Công ty Vedan Việt Nam tại Phước Long; (10) Xử lý nước thải bằng phương pháp kỵ khí tại Nhà máy chế biến tinh bột sắn Việt Mã; (11) Xử lý nước thải bằng phương pháp kỵ khí tại Nhà máy chế biến tinh bột sắn Trường Thịnh; (12) Trạm phát điện 15 MW từ nhiệt dư lò coke; (13) Thủy điện Đăk Nông 2; (14) Thủy điện Đăk Rung; (15) Thủy điện Đăk Ne; (16) Thủy điện Buôn Kuốp; (17) Thủy điện Srêpok 3; (18) Thủy điện Nậm Pông; (19) Thủy điện Sông Bung 4; (20) Thủy điện Đăk Rung 1. - Chuẩn bị kế hoạch và một số nội dung liên quan đến hoạt động của
  19. Đoàn Việt Nam tại COP15/CMP5. - Thảo luận kế hoạch hoạt động của Ban trong thời gian tới. Nguồn: Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu Phê duyệt dự án CDM (PDD) Trong tháng 11/2008 và tháng 4/2009, Bộ TN&MT, Cơ quan đầu mối của Chính phủ Việt Nam tham gia và thực hiện UNFCCC và Nghị định thư Kyoto, đã phê duyệt 19 PDD theo CDM, bao gồm: Tổng tiềm năng giảm phát thải Thủy điện Sông Miện 88.452 tCO2/ 07 năm Thủy điện Sông Tranh 3 920.584 tCO2/10 năm Thủy điện Ia Grai I 187.642 tCO2/10 năm Thủy điện kiểu dòng chảy quy mô nhỏ Suối Tân 102.487 tCO2/10 năm Thủy điện kiểu dòng chảy quy mô nhỏ Mường Sang 34.440 tCO2/10 năm Thủy điện kiểu dòng chảy quy mô nhỏ So Lo 123.032 tCO2/ 07 năm Thủy điện kiểu dòng chảy quy mô nhỏ Phú Mậu 93.765 tCO2/ 10 năm Tái trồng rừng Cao Phong 42.645 tCO2/ 16 năm Xử lý nước thải bằng phương pháp kỵ khí tại Nhà 398.140 tCO2/ 10 năm máy chế biến tinh bột sắn Việt Mã Xử lý nước thải bằng phương pháp kỵ khí tại Nhà 423.890 tCO2/ 10 năm máy chế biến tinh bột sắn Trường Thịnh Thủy điện Sông Bung 4 1.545.194 tCO2/ 07 năm Thủy điện Đăk Rung 1 101.178 tCO2/ 07 năm Thủy điện Đăk Rung 125.545 tCO2/ 07 năm Thủy điện Đăk Nông 2 223.727 tCO2/ 07 năm Thủy điện Đăk Ne 149.814 tCO2/ 07 năm Trạm phát điện nhiệt dư lò coke 15 MW Hiệp Sơn 631.460 tCO2/ 10 năm Thủy điện Buôn Kuốp 5.756.562 tCO2/ 07 năm Thủy điện Srêpok 3 4.113.970 tCO2/ 07 năm Thủy điện Nậm Pông 477.855 tCO2/ 07 năm Theo PDD, các Dự án này sẽ khuyến khích, thúc đẩy quá trình phát triển công nghệ năng lượng tái tạo và đáp ứng một phần nhu cầu điện đang gia tăng ở các tỉnh, thành phố trên. Các Dự án sẽ góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường ở địa phương và giảm phát thải khí nhà kính. Các cơ quan, tổ chức có liên quan đến dự án đang triển khai tiếp các bước cần thiết theo chu trình dự án CDM.
  20. Ngày 20/4/2009, Bộ trưởng Bộ TN&MT đã ban hành Quyết định số 743/QĐ-BTNMT về kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện UNFCCC và Nghị định thư Kyoto. Nguồn: Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Đan Mạch về Chương trình thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu giai đoạn 2009-2013 Ngày 30/12/2008 tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ TN&MT Phạm Khôi Nguyên thay mặt Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Đại sứ quán Đan Mạch tại Việt Nam Peter Lysholt Hansen thay mặt Chính phủ Vương quốc Đan Mạch đã ký Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Đan Mạch về Chương trình thích Lễ ký kết Hiệp định ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu ở Việt Nam giai đoạn 2009-2013. Thông qua Chương trình này, Chính phủ Vương quốc Đan Mạch viện trợ không hoàn lại 200 triệu cua-ron (tương đương 40 triệu đôla Mỹ) để góp phần hỗ trợ Việt Nam thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu. Nguồn: Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu Kỷ niệm Ngày Nước thế giới (22/3) và Ngày Khí tượng thế giới (23/3) Sáng 19/3 tại Hà Nội, Bộ TN&MT đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm Ngày Nước thế giới (22/3) và Ngày Khí tượng thế giới (23/3) và hội thảo khoa học với sự tham dự của Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên, đại diện khối Liên hiệp quốc tại Việt Nam và đại diện một số tổ chức quốc tế, Bộ, ngành, đoàn thể. Bảo vệ nguồn nước và bảo vệ bầu không khí là các vấn đề được cả đại biểu trong nước và quốc tế quan tâm. Tại Lễ kỷ niệm, Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên kêu gọi cộng đồng quốc tế, các cấp chính quyền, các cơ quan, tổ chức, xã hội công dân, các doanh nghiệp và các phương tiện thông tin đại chúng cùng nhau phối hợp hành động để góp phần hoàn thành mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Đặc biệt là trong các lĩnh vực sức khỏe, lương thực, nước sạch và xóa đói giảm nghèo, đồng thời tăng cường hiệu quả trong phòng chống và giảm nhẹ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2