YOMEDIA
ADSENSE
Thông tin cơ sở về các loài bị đe dọa và các loài ngoại lai tại Việt Nam và các đề xuất cho nội dung của luật đa dạng sinh học
132
lượt xem 21
download
lượt xem 21
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Việt Nam là một trong những nước có tính đa dạng sinh học cao nhất thế giới với nhiều yếu tố đặc sắc không thể phát hiện ở bất cứ nơi nào khác. Tuy nhiên, Việt Nam cũng được xếp hạng vào một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học bị đe dọa nặng nề nhất
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thông tin cơ sở về các loài bị đe dọa và các loài ngoại lai tại Việt Nam và các đề xuất cho nội dung của luật đa dạng sinh học
- Thông tin cơ sở về các loài bị đe dọa và các loài ngoại lai tại Việt Nam và các đề xuất cho nội dung của Luật Đa dạng Sinh học Do Chương trình BirdLife Quốc tế tại Việt Nam thực hiện theo yêu cầu của Vụ Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam Dự thảo, ngày 3 tháng 7 năm 2006
- Mục lục 1. Tóm tắt...............................................................................................................................................................1 2. Giới thiệu ..........................................................................................................................................................2 3. Tổng quan về tình trạng các loài bị đe dọa ở Việt Nam......................................................................3 3.1 Danh lục các loài bị đe dọa ...................................................................................................................3 3.2 Các loài bị đe dọa ở Việt Nam .............................................................................................................4 3.3 Các mối đe dọa đối với các loài ...........................................................................................................5 3.4 Các hành động để bảo tồn các loài bị đe dọa...................................................................................5 3.5 Các cam kết chính sách quốc tế liên quan đến các loài bị đe dọa ..............................................6 4. Tổng quan về tình trạng các loài ngoại lai ở Việt Nam .......................................................................7 4.1 Các loài ngoại lai ở Việt Nam...............................................................................................................7 4.2 Các hoạt động để giải quyết vấn đề sinh vật ngoại lai ...............................................................10 4.3 Các cam kết quốc tế về sinh vật ngoại lai........................................................................................11 5. Tổng quan các kinh nghiệm quốc tế về các điều luật quản lý và bảo tồn các loài bị đe dọa....................................................................................................................................................................13 6. Tổng quan các kinh nghiệm quốc tế về quản lý bảo tồn đối với các sinh vật ngoại lai............14 7. Các văn bản pháp quy ở Việt Nam liên quan đến các loài bị đe dọa............................................16 7.1 Các văn bản hiện có ..............................................................................................................................16 7.2 Những thiếu hụt và bất hợp lý trong hệ thống pháp lý hiện tại về các loài bị đe dọa.......21 8. Các văn bản pháp quy về các loài ngoại lai ở Việt Nam...................................................................24 8.1 Các văn bản hiện có về các loài ngoại lai ........................................................................................24 8.2 Những thiếu hụt và bất hợp lý trong hệ thống pháp lý hiện tại về các loài ngoại lai........26 9. Đề xuất những điều khoản về quản lý và bảo tồn các loài bị đe dọa có thể đưa vào Luật Đa dạng Sinh học.........................................................................................................................................26 11. Tài liệu tham khảo .....................................................................................................................................28 12. Các phụ chương .........................................................................................................................................33 Phụ chương 1. Ma trận phân tích các loài bị đe dọa toàn cầu, loài bị đe dọa ở cấp quốc gia, và các loài được bảo vệ ở Việt Nam................................................................................................33 Phụ chương 2. Các loài của Việt Nam có trong danh lục các loài của Công ước về loài di cư .................................................................................................................................................................75 Phụ chương 3. Ma trận các loài ngoại lai đe dọa tính đa dạng sinh học thực vật ở Việt Nam.................................................................................................................................................................76 Phụ chương 4. Danh lục các loài thực vật thủy sinh lạ xâm nhập thủy vực Việt Nam...........77 Phụ chương 5. Phân loại khả năng xâm lấn.........................................................................................79 Trích dẫn: Chương trình BirdLife Quốc tế tại Việt Nam (2006) Thông tin cơ sở về các loài bị đe dọa và các loài ngoại lai tại Việt Nam và các đề xuất cho nội dung của Luật Đa dạng Sinh học. Dự thảo báo cáo trình Vụ Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam, ngày 3 tháng 7 năm 2006.
- 1. Tóm tắt Việt Nam là một trong những nước có tính đa dạng sinh học cao nhất thế giới với nhiều yếu tố đặc sắc không thể phát hiện ở bất cứ nơi nào khác. Tuy nhiên, Việt Nam cũng được xếp hạng vào một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học bị đe dọa nặng nề nhất. Hệ thống văn bản pháp quy hiện tại của Việt Nam cũng đã được ban hành nhằm bảo vệ tính đa dạng sinh học của đất nước và giải quyết các mối đe dọa đối với đa dạng sinh học, nhưng vẫn chưa đầy đủ và còn phân tán. Điều này dẫn đến yêu cầu cần xây dựng mới một bộ Luật Đa dạng Sinh học có tính thống nhất. Theo yêu cầu của Vụ Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam, tài liệu này được thực hiện nhằm phân tích tình trạng hiện tại của các loài bị đe dọa và loài ngoại lai tại Việt Nam, các văn bản pháp quy liên quan đến các loài này, các khoảng thiếu hụt và không nhất quán trong các văn bản, và các kinh nghiệm quốc tế có thể áp dụng để giúp Việt Nam xây dựng bộ Luật Đa dạng Sinh học mới. Cuối cùng, báo cáo sẽ đưa ra các kiến nghị về các loài bị đe dọa và loài ngoại lai có thể đưa vào Luật Đa dạng Sinh học. Nhìn chung, những yêu cầu chính được xác định (chi tiết trình bày trong phần 9 và 10) gồm: Loài bị đe dọa 1. Xác định tình trạng pháp lý của Sách Đỏ Việt Nam; 2. Phạm vi và tiêu chuẩn hóa cho danh lục loài được bảo vệ (“quý hiếm”); 3. Các văn bản pháp quy cần bổ sung để có thể thực hiện được các quy định hiện có về bảo vệ sinh cảnh của các loài bị đe dọa trên cạn; 4. Ủy quyền cho một cơ quan đầu mối quốc gia chịu trách nhiệm về bảo tồn các vùng biển và nước nội địa, cùng với đó là những quy định mới làm cơ sở cho việc thành lập các hệ thống khu bảo vệ ở các vùng nước nội địa, ven biển và biển. 5. Đề xuất cộng nhận và bảo vệ các khu Ramsar; 6. Tăng các khung hình phạt cho các tội danh vi phạm các điều luật liên quan đến đa dạng sinh học, đặc biệt những điều luật liên quan đến khai thác và kinh doanh các loài được bảo vệ. Các loài ngoại lai 1. Ủy quyền cho một cơ quan đầu mối quốc gia chịu trách nhiệm về vấn đề các loài ngoại lai xâm hại, bao gồm cả tránh nhiệm xây dựng một chiến lược tổng thể về vấn đề này; 2. Các biện pháp nghiêm khắc và xử phạt hành chính để ngăn chặn việc cố ý nhập các loài ngoại lai xâm hại; 3. Các quy chế kiểm dịch nghiêm ngặt và hạn ngạch buôn bán động vật cảnh và cây cảnh để ngăn chặn việc vô tình đưa các loài xâm hại vào Việt Nam; 1
- 4. Các quy định về tiêu hủy, hoặc ít nhất là kiểm soát và ngăn ngừa các loài ngoại lai xâm hại khi chúng đã xuất hiện, đặc biệt chú trọng ưu tiên các vùng rừng đặc dụng và các sinh cảnh tự nhiên quan trọng của các loài bị đe dọa như các Vùng Chim Quan trọng hay các Vùng Đa dạng Sinh học Trọng Yếu. 2. Giới thiệu Việt Nam luôn được xếp vào nhóm hai mươi quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới. Đối với một số nhóm sinh vật, ví dụ như linh trưởng, Việt Nam đứng trong năm quốc gia hàng đầu về sự đa dạng. Chỉ tính riêng trên cạn đã có hơn 13.700 loài thực vật (Bộ TNMT et al. 2005), khoảng 870 loài cá có phân bố thường xuyên (Bộ TNMT et al. 2005), 310 loài thú (Bộ TNMT et al. 2005), 822 loài chim (BirdLife International 2006), 286 loài bò sát (Bộ TNMT et al. 2005) và 145 loài lưỡng cư (IUCN et al. 2006) được xác định và mô tả tại Việt Nam. Môi trường biển cũng chứa đựng tính đa dạng sinh học không kém với hơn 11.000 loài sinh vật biển đã được ghi nhận (Bộ TNMT et al. 2005). Việt Nam cũng là nơi mà sự đa dạng sinh học vẫn chưa được khám phá đầy đủ ‐ rất nhiều loài thực vật, bò sát, lưỡng cư, và thậm chí có năm loài thú lớn và ba loài chim mới được mô tả cho khoa học trong ba thập kỷ qua. Giá trị bảo tồn đa dạng sinh học cao nhất của Việt Nam chính là các loài đặc hữu của quốc gia ‐ những loài không được ghi nhận ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Các loài phân bố hẹp này cũng chính là các loài bị đe dọa nặng nề nhất. Khoảng 10% các loài thực vật của Việt Nam được cho là các loài đặc hữu (UNEP 2001), tám loài chim đặc hữu (trong đó sáu loài là loài bị đe dọa ở cấp độ toàn cầu), năm loài thú và một loài bò sát đặc hữu là loài bị đe dọa toàn cầu, cuối cùng là 39 loài lưỡng cư đặc hữu trong đó có bốn loài bị đe dọa toàn cầu (IUCN et al. 2006). Xác định rõ tầm quan trọng về đa dạng sinh học của quốc gia và các mối đe dọa mà tính đa dạng sinh học này đang phải gánh chịu, Chính phủ Việt Nam đã ra Quyết định số 35/2003/QĐ‐TTg ngày 06/03/2003 chỉ định Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TNMT) chịu trách nhiệm chủ trì xây dựng Luật Đa dạng Sinh học. Luật Đa dạng Sinh học lần đầu tiên sẽ được xây dựng trên tinh thần tham khảo rộng rãi để mọi công dân và các tổ chức đều có thể đóng góp ý kiến. Luật này cũng giúp Việt Nam thực hiện các cam kết theo các thỏa thuận quốc tế và thể hiện vai trò của Việt Nam như một thành viên của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Bản dự thảo Luật Đa dạng Sinh học sẽ được đưa ra trình Quốc hội cho ý kiến vào đầu năm 2007 và bản thảo lần thứ nhất sẽ phải hoàn tất trong tháng Bảy năm 2006. Ghi nhận trình độ chuyên môn của BirdLife International về lĩnh vực các loài bị đe dọa cả ở quy mô toàn cầu (là cơ quan ủy quyền chính thức của IUCN trong việc xác định danh lục đỏ các loài chim bị đe dọa) cũng như quy mô vùng (tại Việt Nam và các quốc gia lân cận), Vụ Môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đề nghị BirdLife 2
- International thực hiện một nghiên cứu lấy thông tin cơ sở về các loài bị đe dọa và loài ngoại lai và các kiến nghị cho nội dung của Luật Đa dạng Sinh học. 3. Tổng quan về tình trạng các loài bị đe dọa ở Việt Nam 3.1 Danh lục các loài bị đe dọa Tuy việc đánh giá toàn diện tình trạng bị đe dọa của tất cả các loài đã được ghi nhận ở Việt Nam là hết sức khó khăn do thông tin còn rất thiếu, nhưng cũng đã có nhiều nỗ lực được thực hiện để xác định danh lục và xếp hạng các loài. Danh lục đỏ các loài bị đe dọa của IUCN (www.iucnredlist.org) là nguồn thông tin có tính tổng thể nhất về các loài bị đe dọa, và Danh lục Đỏ IUCN ngày càng được các tổ chức chính phủ và liên chính phủ thừa nhận như “chuẩn toàn cầu về các loài bị đe dọa” (Rodrigues et al. 2006). Là một thành viên IUCN, Chính phủ Việt Nam cần phải có “một trong các mục tiêu chính của mình là thực hiện sứ mạng của IUCN” và, do vậy, có trách nhiệm chấp thuận Danh lục Đỏ IUCN và lồng ghép vấn đề các loài trong Danh lục Đỏ IUCN vào các quy chế bảo vệ loài của quốc gia. Các tiêu chí định lượng được sử dụng để đánh giá và xếp các loài theo thứ bậc trong bộ phân hạng tình trạng bị đe dọa (Hình 1). Trong đó các loài bị đe dọa là các loài được xếp vào các phân hạng Tối nguy cấp (Critically Endangered ‐ CR), Nguy cấp (Endangered ‐ EN), hoặc Sắp Nguy cấp (Vulnerable ‐ VU). Hình 1: Các phân hạng trong danh lục đỏ IUCN và sơ bộ về các tiêu chí Tuyệt chủng (EX) Khi rõ ràng là cá thể cuối cùng đã chết Nguy cơ tuyệt chủng tăng dần Tuyệt chủng ngoài tự Khi loài chỉ còn tồn tại trong môi trường nuôi nhân tạo, nuôi nhốt hoặc các nhiên (EW) quần thể bán hoang dã bên ngoài vùng phân bố quá khứ của loài Cực kỳ Nguy cấp (CR) (Đủ (Bị Khi loài xếp vào các phân hạng này theo các tiêu chí và được cho là đang Nguy cấp (EN) đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng ngoài tự nhiên cao hoặc rất cao. dẫn liệu) đe dọa) Sắp nguy cấp (VU) (Đã Khi một loài không phù hợp với các tiêu chí xếp hạng, tuy nhiên gần đáp ứng Gần bị đe dọa (NT) đánh giá) hoặc có vẻ đáp ứng tiêu chí của các phân hạng bị đe dọa trong tương lai gần Ít bị đe dọa (LC) Khi một loài không phù hợp để xếp vào các tiêu chí bị đe dọa (các loài hoặc dưới loài có số lượng lớn hoặc phân bố rộng) Khi không đủ thông tin để đánh giá trực tiếp hoặc gián tiếp nguy cơ bị đe dọa Không đủ dẫn liệu (DD) Chưa rõ của một loài dựa trên vùng phân bố và tình trạng quần thể của chúng nguy cơ Không được đánh giá (NE) tuyệt chủng Khi một loài chưa thể đánh giá theo các tiêu chí Tiêu chí Cực kỳ nguy cấp Nguy cấp Sắp nguy cấp Chỉ số đáp ứng và tiêu chí c A1: Giảm kích cỡ ≥ 90% ≥ 70% ≥ 50% Trong 10 năm hoặc 3 thế hệ đã qua, khi nguyên nhân của sự suy giảm này rõ quần thể ràng là có thể đảo ngược được VÀ đã được hiểu VÀ đã ngừng A2-4: Giảm kích cỡ ≥ 80% ≥ 50% ≥ 30% Trong 10 năm hoặc 3 thế hệc đã qua, trong tương lai hoặc cả hai quần thể B1: Vùng phân bố hẹp
- a Điều chỉnh, với sự chấp thuận, từ IUCN (2001) b Điều chỉnh, với sự chấp thuận, từ Butchart et al. (2005) c Nếu thời gian nào dài hơn Các danh lục đỏ và sách đỏ đã được xây dựng ở cấp quốc gia cho các khu hệ động vật vào năm 1992 (Bộ KHCNMT 1992), cập nhật năm 2000 (Bộ KHCNMT 2000), tiếp theo đó là sách đỏ thực vật năm 1996 (Bộ KHCNMT 1996). Do đây là giai đoạn đầu của việc liệt kê các loài bị đe dọa, các tài liệu này được xây dựng theo mô hình của Sách đỏ Ấn Độ. Các lần tái bản Sách Đỏ tiếp theo (Bộ TNMT và Viện Khoa học Việt Nam in prep. a và b) sẽ đáp ứng theo các chỉ dẫn đã có của IUCN (IUCN 1994). Hiện đã có một hệ thổng chuẩn hóa toàn cầu nghiêm ngặt hơn (IUCN 2001) và có thể áp dụng ở cấp quốc gia (IUCN 2003) mà các lần xây dựng Sách Đỏ tiếp theo có thể sử dụng. 3.2 Các loài bị đe dọa ở Việt Nam Danh lục đỏ IUCN bản mới nhất (IUCN 2006) đã liệt kê 303 loài ở Việt Nam ở các cấp độ đe dọa toàn cầu, trong khi Sách Đỏ Việt Nam (Bộ KHCNMT 1996, 2000) đã xếp hạng 522 loài (526 đơn vị phân loại) ở các cấp độ đe dọa của quốc gia (i.e., Nguy cấp, Sắp nguy cấp, hay Hiếm: Bảng 1, Phụ lục 1). Tuy nhiên, Sách Đỏ Việt Nam ‐ một phần nào đó sử dụng các tiêu chí cũ ‐ bỏ qua rất nhiều các loài bị đe dọa toàn cầu; chỉ 115 (38%) số loài có ở Việt Nam được liệt kê trong Danh lục Đỏ IUCN đã không được liệt kê trong các bản Sách Đỏ Việt Nam gần đây. Ngược lại, Sách Đỏ Việt Nam đã đánh giá nhiều nhóm sinh vật không được đánh giá ở mức độ toàn cầu theo IUCN, và do đó Sách Đỏ Việt Nam đã liệt kê thêm 330 loài (trong đó có một số nhóm thực vật, nhuyễn thể và cá) có thể đang bị đe dọa ở mức toàn cầu. Hai hệ thống danh lục này phục vụ cho những mục tiêu khác nhau do vậy cũng có phương pháp đánh giá hơi khác nhau (IUCN 2003), nhưng rõ ràng có lý do để đồng bộ hóa giữa chúng tốt hơn. Một trong những hành động cần thiết ở Việt Nam là cần đảm bảo các đánh giá trong Sách Đỏ tiếp cận gần hơn với các chỉ dẫn và đánh giá của IUCN, tối thiểu thì cũng phải liệt kê đầy đủ tất cả các loài của Việt Nam được tất cả các loài bị đe dọa hoặc gần bị đe dọa theo IUCN. Số lượng lớn các loài bị đe dọa toàn cầu đã đặt Việt Nam vào quốc gia đứng thứ 19 thế giới về số loài bị đe dọa, cao nhất tại Đông Dương. Việt Nam được xếp vào nhóm 15 nước hàng đầu về số loài thú bị đe dọa, nhóm 20 nước hàng đầu về số loài chim, nhóm 30 nước hàng đầu về số loài thực vật và lưỡng cư (IUCN 2006). Tất nhiên, các loài được liệt kê là bị đe dọa mới là các loài đã có đủ thông tin và được đánh giá ‐ rất nhiều loài khác ở Việt Nam rất có thể cũng đang bị đe dọa tuyệt chủng. 4
- Bảng 1: Các loài bị đe dọa được ghi nhận ở Việt Nam Loài bị đe dọa toàn cầu Loài bị đe dọa ở quốc gia CR EN VU Tổng E V R Tổng Thực vật 25 38 85 148 25 61 156 242 Thú 11 11 23 45 31 25 21 77 Chim 4 13 21 38 15 6 28 49 Bò sát 7 141 8 29 9 16 7 32 Lưỡng cư 0 3 12 15 1 2 3 6 Cá 4 6 20 30 6 21 28 55 Các loài khác 0 0 0 0 11 22 28 61 Tổng số 51 85 169 305 98 153 271 522 3.3 Các mối đe dọa đối với các loài Ở cấp độ toàn cầu, sức ép chính lên các loài bị đe dọa được xác định ở khắp nơi là mất và chia cắt sinh cảnh. Các mối đe dọa chính khác đến từ khai thác quá mức, các loài xâm lấn, ô nhiễm và bệnh dịch (Baillie et al. 2004). Điều này cũng phản ánh mối đe dọa đối với các loài của Việt Nam ‐ ví dụ, tất cả các loài lưỡng cư bị đe dọa toàn cầu ở Việt Nam đều bị ảnh hưởng bởi sinh cảnh bị mất và bị chia cắt, 47% bị đe dọa bởi ô nhiễm, và 20% do khai thác quá mức (IUCN et al. 2006). Tương tự, 57% số loài chim bị đe dọa ở Việt Nam đang bị ảnh hưởng bởi sinh cảnh bị mất và bị chia cắt, 44% bị đe dọa bởi khai thác quá mức, và 25% do ô nhiễm (BirdLife International 2006). Do hầu hết sinh cảnh của Việt nam là rừng, ảnh hưởng lớn nhất do mất sinh cảnh được cho là do rừng bị mất và chia cắt. Tuy thống kê chính thức cho thấy độ phủ rừng đã tăng lên trong mười năm vừa qua đến mức 37% vào năm 2004, nhưng chưa đến một phần ba trong số đó là rừng tự nhiên và chỉ một phần rất nhỏ (
- quan, (iv) các giải pháp tài chính, và (v) sự tham gia của cộng đồng (Bộ TNMT et al. 2005). Các phân tích sớm đã chỉ ra rất nhiều thiếu hụt đặc biệt nghiêm trọng (Bộ TNMT et al. 2005). Phân tích về hệ thống rừng đặc dụng đã chỉ ra rằng các sinh cảnh đất ngập nước, nhất là các sông ở vùng thấp và đất ngập nước ven biển chưa được đại diện đầy đủ trong hệ thống hiện tại, rừng thường xanh đất thấp cũng như vậy (Bộ TNMT et al. 2005). Thêm vào đó, quy mô các khu bảo vệ cũng không đủ đáp ứng đối với một số loài sinh vật (Bộ TNMT et al. 2005). Cải thiện hệ thống các khu bảo vệ hoặc các hành động bảo tồn cảnh quan rất cần ưu tiên để bù đắp thiếu hụt này. IUCN hiện đã thu thập một số thông tin cần thiết về các biện pháp bảo tồn đã có đối với các loài bị đe dọa toàn cầu. Ví dụ, BirdLife International ‐ cơ quan ủy quyền chính thức chịu trách nhiệm xây dựng Danh lục Đỏ các loài chim, đã liệt kê hơn 200 biện pháp bảo tồn cụ thể cần thiết đối với các loài chim của Việt Nam; trong đó 37% là các hành động liên quan đến sinh cảnh, 34% là hành động nghiên cứu, và 13% là hành động chính sách (BirdLife International 2006). Cũng như vậy, các hành động bảo tồn cần thiết do IUCN liệt kê cho các loài lưỡng cư Việt Nam có 39% là hành động nghiên cứu, 38% hành động liên quan đến sinh cảnh, và 6% là các hành động chính sách (IUCN et al. 2006). Phần lớn các biệt pháp bảo tồn hiện có ở Việt Nam là các hành động liên quan đến sinh cảnh (ví dụ, 79% hành động bảo tồn lưỡng cư được đề xuất liên quan đến sinh cảnh), đầu tiên là qua hệ thống rừng đặc dụng hiện có của quốc gia gồm các vườn quốc gia, khu bảo tồn và các khu bảo vệ cảnh quan. Nhìn chung, các hành động chính sách, ví dụ như hệ thống văn bản pháp quy, rất ít, trong khi đây rõ ràng là phần cốt lõi trong các yêu cầu của bảo tồn tổng thể. 3.5 Các cam kết chính sách quốc tế liên quan đến các loài bị đe dọa Việt Nam đã tham gia ký kết rất nhiều thỏa thuận quốc tế liên quan đến bảo tồn các loài bị đe dọa: Công ước Đa dạng Sinh học (www.biodiv.org) Theo Điều 8, Việt Nam cam kết “xây dựng và duy trì hệ thống pháp chế và các điều khoản pháp chế khác để bảo vệ các loài và các quần thể loài bị đe dọa”. Trong Nghị quyết VI/26, Việt Nam là một bên ký kết, cam kết thêm “đến năm 2010 sẽ thực hiện được việc giảm đáng kể tốc độ mất sinh cảnh ở cấp độ toàn cầu, vùng và quốc gia”. Một trong những chỉ số chính thức được đề xuất để đánh giá mục tiêu này là Danh mục Đỏ, dựa trên tình trạng của các loài bị đe dọa toàn cầu (Butchart et al. 2005). Tuân thủ theo cam kết này,Việt Nam cần đảm bảo tất cả các loài được liệt kê trong Danh lục Đỏ IUCN và Sách Đỏ Việt nam được liệt kê là các loài được bảo vệ theo luật pháp quốc gia. Công ước về buôn bán các loài bị đe dọa (www.cites.org) Theo Công ước này, Việt Nam cam kết quy định và giám sát việc buôn bán quốc tế đối với các loài trong các phụ lục CITES, nghĩa là các loài được xác định là đang bị đe dọa do buôn bán quốc tế. Do tất cả các loài này cần được liệt kê là các loài bị đe dọa ở 6
- cấp độ toàn cầu, và phần lớn các loài là bị đe dọa ở cấp độ khu vực, việc đưa tất cả các loài bị đe dọa trong Danh lục Đỏ IUCN và Sách Đỏ Việt Nam vào luật như các loài được bảo vệ sẽ là một đóng góp đáng kể cho Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết với CITES. IUCN (www.iucn.org) Là một thành viên, Chính phủ Việt Nam cần có “một trong các mục tiêu trọng tâm là thực hiện sứ mạng của IUCN” và, do vậy, có trách nhiệm chấp thuận Danh lục Đỏ IUCN và lồng ghép các loài liệt kê trong Danh lục Đỏ IUCN vào hệ thống quy chế bảo vệ loài. Công ước Ramsar về các vùng Đất ngập nước (www.ramsar.org) Theo Điều 2 của Công ước, Việt Nam cam kết “đề xuất các vùng đất ngập nước phù hợp trong lãnh thổ của mình vào Danh sách các Vùng Đất ngập nước có Tầm Quan trọng Quốc tế... đầu tiên là tất cả các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng đối với các loài chim nước vào bất cứ mùa nào cần được đưa vào danh sách”. Và, theo Điều 3, “thúc đẩy việc bảo tồn các vùng đất ngập nước và các loài chim nước qua việc thiết lập các khu bảo tồn đất ngập nước”. Tuân thủ cam kết này, Việt Nam cần đảm bảo tối thiểu là tất cả các khu đáp ứng tiêu chí Ramsar sẽ được đề cử thành Khu Ramsar và được đưa vào hệ thống các khu bảo vệ ở cấp quốc gia. Có 27 khu ở Việt Nam đã được BirdLife International xác định là đáp ứng các tiêu chí Ramsar (BirdLife International 2005) nhưng đến nay mới chỉ có hai khu được công nhận. Công ước về các loài di cư (www.cms.int) Ngoài ra, Việt Nam đang cân nhắc tham gia Công ước về các Loài Di cư. Nếu là một thành viên, Việt Nam sẽ cam kết “có các biện pháp bảo vệ ngay lập tức đối với các loài di cư trong Phụ lục I” và “hoàn tất các thỏa thuận đảm bảo bảo tồn và quản lý các loài di cư trong Phụ lục II”. Các bên tham gia cam kết cấm đánh bắt các loài trong Phụ lục I, đồng thời thực hiện các biện pháp khác để bảo vệ sinh cảnh và giảm các mối đe dọa. Các loài liên quan đến Việt Nam được liệt kê trong Phụ chương 2 của báo cáo này. Tuân thủ theo cam kết này, Việt Nam cần đảm bảo là ít nhất là toàn bộ các loài được liệt kê trong Phụ lục I của Công ước về các loài di cư cũng được liệt kê là các loài được bảo vệ theo luật pháp quốc gia. 4. Tổng quan về tình trạng các loài ngoại lai ở Việt Nam 4.1 Các loài ngoại lai ở Việt Nam Loài ngoại lai trong tài liệu này sẽ chỉ đề cập đến các loài có nguồn gốc bên ngoài Việt Nam đã xâm hại hoặc có tiềm năng xâm hại. Nhiều loài ngoại lai nhập nội rất phổ biến trong nông nghiệp và làm vườn, nhưng chưa chắc đã tạo ra mối đe dọa đáng kể nào đối với môi trường của Việt Nam. Các loài sinh vật ngoại lai xâm hại hoàn toàn không được để ý đến tại Việt Nam cho đến tận nửa đầu của thập kỷ 1990, khi dịch Ốc bươu vàng Pomacea canaliculata bùng phát ở Đồng bằng sông Cửu Long 7
- và sau đó là Đồng bằng Bắc Bộ. Sau đó, các loài ngoại lai xâm hại mới từng bước được nhìn nhận như một vấn đề thực sự đối với Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu về sinh vật sinh vật ngoại lai xâm hại đến nay rất rải rác và chưa đầy đủ. Những nghiên cứu đáng kể nhất có thể liệt kê là về Mai dương Mimosa pigra và một số thực vật ngoại lai xâm hại khác ở Đồng bằng sông Cửu Long (Trần Triết et al. 2001, 2004, Trần Triết 2005), về Ốc bươu vàng Pomacea canaliculata (Cục Bảo vệ Thực vật 2000), và một số công trình về động vật thủy sinh nhập nội chủ yếu là về các loài cá (Phạm Anh Tuấn 2002, Lê Khiết Bình 2005). Về rà soát tình trạng của các loài sinh vật ngoại lai xâm hại ở Việt Nam có thể kể đến hai nghiên cứu. Đầu tiên là một hoạt động nhỏ của IUCN (Nguyễn Công Minh 2005) về các loài trên cạn. Nghiên cứu này đã sử dụng tiếp cận ma trận để phân tích 23 loài ngoại lai gây ra các đe dọa đối với tính đa dạng thực vật (Phụ chương 3). Đa số trong số này là các loài thực vật, điều đó phản ảnh các nghiên cứu tại Việt Nam đã tập trung vào thực vật nhiều hơn so với các nhóm sinh vật khác. Công trình thứ hai là một đề tài cấp Nhà nước do Bộ Thủy sản chủ trì (Lê Khiết Bình 2005) đã đưa ra danh lục 41 loài thủy sinh nhập nội ở Việt Nam (Phụ chương 4). Trong số này chỉ có chín loài được xác định là hoàn toàn không có hại theo hệ thống phân loại khả năng xâm hại (Phụ chương 5). Ở Việt Nam hiện chỉ có thông tin về một số loài sinh vật ngoại lai xâm hại gây ra hậu quả nặng nề nhất, hay được nghiên cứu kỹ nhất. Tất cả các loài này đề được liệt kê trong danh sách “100 loài sinh vật ngoại lai xâm hại nguy hiểm nhất trên thế giới” (ISSG 2001). Hiện tại, các loài sinh vật ngoại lai xâm hại chưa có vẻ xuất hiện với số lượng lớn, bùng phát trên diện rộng và gây hại nghiêm trọng như chúng đã gây ra ở nhiều quốc gia, nhất là các quốc đảo. Tuy nhiên, thực tế là hầu hết các loài xâm hại, hoặc có tiềm năng xâm hại còn chưa được xác định hoặc nghiên cứu ở Việt Nam. Nếu không có những nghiên cứu đầy đủ và các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn, những ảnh hưởng nghiêm trọng có thể sẽ đến trong tương lai. Mai dương Mimosa pigra Hầu hết các nghiên cứu đến nay đều thống nhất là Mai dương Mimosa pigra là sinh vật ngoại lai gây hại lớn nhất ở Việt Nam (Dương Minh Tú và Phạm Đinh Việt Hồng 2003, Nguyễn Công Minh 2005). Loài này đã được nghiên cứu khá kỹ ở Việt Nam (Storrs et al. 2001, Trần Triết et al. 2004, Trần Triết 2000, 2005). Chúng phân bố ở hầu hết các sinh cảnh tự nhiên và sinh cảnh nông nghiệp trên nội địa, các vùng nước ngọt và vùng ven biển, và chủ yếu là ở các khu vực gần nước ngọt. Đây là loài gốc Nhiệt đới châu Mỹ và được du nhập vào châu Á vào cuối thế kỷ XIX. Đầu tiên chúng phát tán chậm và lần đầu được ghi nhận ở Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam vào năm 1979 (tại huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An; Trần Triết et al. 2004), nhưng đến nay đã xuất hiện khắp trong cả nước. Loài này được xác định là cỏ dại nguy hiểm tại Thái Lan vào đầu những năm 1980 (Napompeth 1983; in Trần Triết 2005) và mới trở nên một loài gây hại nguy hiểm ở vùng hạ Mê Kông trong thời gian gần đây. Loài này rất phổ biến ở các vùng đất sở hữu chung, như các khu bảo vệ, dọc đường, ven kênh 8
- rạch, sông suối, nhưng không phát triển mạnh được ở các vùng đất do tư nhân sở hữu, có thể là do chủ sử dụng đất kiểm soát chặt (Trần Triết 2005). Loài này đã trở thành một loài gây hại nghiêm trọng (xem Hộp 1) ở các vùng đất ngập nước như các Vườn Quốc gia Tràm Chim, Cát Tiên và Yôk Đôn, ở hồ Biển Lạc, và các hồ chứa Trị An và Đồng Mô‐Ngải Sơn v.v... Hộp 1: Nghiên cứu về tác động của Mimosa pigra lên tính đa dạng sinh học của VQG Tràm Chim, tỉnh Đồng Tháp Tràm Chim, một Vườn Quốc gia Đất ngập nước có diện tích 7.600 ha ở phía đông bắc của Đồng bằng sông Cửu Long cách sông tiền, nhánh chính của sông Mê Kông khoảng 20 km, và là nơi có hàng loạt các sinh cảnh đồng cỏ ngập nước theo mùa, đầm lầy có rừng Tràm Melaleuca, các đầm lầy ngập nước thường xuyên và các nền phù sa cổ. Các vùng đất ngập nước của Tràm Chim là nơi chứa đựng tính đa dạng sinh học nước ngọt rất cao đặc trưng cho Đồng bằng sông Cửu Long và rất nổi tiếng là nơi phân bố trong mùa khô của một quần thể lớn của phân loài Sếu cổ trụi phương đông (Grus antigone sharpii). Tuy nhiên, Tràm Chim hiện đang bị nhiễm Mai dương M. pigra rất nặng gây ra những mối đe dọa nghiêm trọng đối với tính đa dạng sinh học đất ngập nước của vườn. M. pigra lần đầu được ghi nhận ở Tràm Chim trong những năm 1984‐1985. Đến tháng Năm năm 2000, diện tích bị xâm lấn đã lên đến 490 ha, và tăng đến 1.846 ha vào tháng Năm năm 2002 (Trần Triết et al. 2004). Tiếp theo đó, từ 2000 đến 2002, diện tích bị xâm lấn tăng gấp đôi mỗi năm. Các vùng đồng cỏ ngập nước theo mùa của Tràm Chim bị xâm lấn nặng nề nhất khi mai dương phát tán theo các bờ kênh rạch và sau đó xâm lấn vào đồng cỏ. M. pigra còn được phát hiện cả dưới tán rừng Tràm trong đầm lầy, tuy nhiên ở mật độ thưa hơn. Các diện tích M. pigra dày đặc hiện chiếm lĩnh hầu hết các vùng đồng cỏ ngập nông ở vùng lõi của Tràm Chim. Diện tích đồng cỏ còn lại ở Tiểu khu A1 ‐ diện tích đất ngập nước rộng nhất ở vùng lõi của Tràm Chim ‐ hiện đang bị đe dọa nặng nề bởi sự xâm lấn, nhất là từ khi các khi một dòng kênh mới được xây dựng xuyên qua vùng lõi với mục đích phòng chống cháy rừng vào năm 2003. M. pigra ở Tràm Chim có sức chịu lũ rất mạnh; chúng thậm chí ra hoa kết quả cả khu hầu hết thân cây đã ngập trong nước lũ. Quỹ hạt ở các bờ đất ở Tràm Chim có khoảng 300 hạt/km² với khoảng 75% số hạt có khả năng mọc mầm (Trần Triết et al. 2004). Mối đe dọa lớn nhất mà M. pigra gây ra cho các vùng đất ngập nước ở Vườn Quốc gia Tràm Chim là do khả năng xâm lấn nhanh và chiếm lĩnh thay thế dần các thảm thực vật tự nhiên. Tiếp đó, việc mất thảm thực vật tự nhiên gây ra các tác động tiêu cực đến các quần thể động vật tại chỗ, đáng chú ý nhất là đối với khu hệ chim. Điều này càng trở nên đặc biệt nghiêm trọng do các vùng đồng cỏ ở Tràm Chim là nơi sống của những loài chim bị đe dọa toàn cầu trong đó có Sếu cổ trụ và Ô tác Houbaropsis bengalensis. Nhiều vùng trảng cỏ năng Eleocharis ở Tràm Chim là vùng kiếm ăn chính của Sếu cổ trụi nay đã bị xâm lấn bởi M. pigra với mật độ dày đặc và không còn thấy Sếu nữa. Đó cũng là một trong những nguyên nhân chính gây ra hậu quả là số lượng Sếu ở Tràm Chim giảm mạnh từ 600‐800 cá thể vào giữa những năm 1990 đến ít hơn 100 cá thể vào năm 2003 (Trần Triết và Nguyễn Phúc Bảo Hòa 2002, 2003). Nguồn: Trần Triết (2005) 9
- Ốc bươu vàng Pomacea canaliculata Ốc bươu vàng P. canaliculata cũng được nhiều nghiên cứu xác định là một trong những loài gây hại mạnh nhất ở Việt Nam (Dương Minh Tú và Phạm Đinh Việt Hồng 2003, Nguyễn Công Minh 2005). Loài này đã được nhập vào Việt Nam từ trước năm 1975 với mục đích làm cảnh. Đến năm 1989, hai trang trại nuôi Ốc bươu vàng được thành lập (tại Củ Chi, Tp Hồ Chí Minh) để nhân nuôi và xuất khẩu Ốc bươu vàng và đến năm 1990, việc nuôi thử nghiệm Ốc bươu vàng được bắt đầu ở miền bắc Việt Nam. Do có vòng đời ngắn, dưới các điều kiện phù hợp, Ốc bươu vàng có thể phát tán nhanh chóng dọc theo các thủy vực và hiện đã được ghi nhận ở hầu hết các vùng tại Việt Nam (Cục Bảo vệ Thực vật 2000). Do có thể ăn được hầu hết các loài thực vật, Ốc bươu vàng gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với cả tính đa dạng sinh học cũng như đối với sản xuất nông nghiệp. Lục bình (bèo nhật bản, bèo tây) Eichhornia crassipes E. crassipes được nhập vào Việt Nam từ Nhật Bản vào năm 1902 với mục đích làm cảnh. Trong điều kiện thuận lợi loài này có thể phát triển gấp đôi diện tích trong khoảng mười ngày và hiện đã phát triển phân bố rộng khắp các thủy vực nước ngọt ở Việt Nam. Lục bình che phủ mặt nước, thối mục làm giảm ô‐xy hòa tan trong nước, dẫn đến làm chết cá và các loài thủy sinh khác. Cũng như các loài sinh vật ngoại lai xâm hại khác, nó còn gây ra những hậu quả xấu đối với nền kinh tế. Chúng không chỉ cản trở hoạt động giao thông đường thủy mà còn làm chậm dòng chảy làm giảm khả năng phát điện, sức tưới tiêu và làm tăng kinh phí bảo trì các hồ chứa. Cây bông ổi (cây ngũ sắc, cây cứt lợn) Lantana camara Bông ổi L. camara được đưa vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX với mục đích làm cảnh và hiện đang được trồng khắp nơi trong cả nước. IUCN (2003) đã cảnh báo đây cũng là một loài có khả năng xâm lấn mạnh. Chuột hải ly Myocastor coypus Chuột hải ly M. coypus được nhập vào Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XX với mục đích làm loài vật nuôi tạo thu nhập thay thế do nó cung cấp thịt để ăn, da và lông để xuất khẩu và ruột để sản xuất chỉ tự tiêu. Rất may là là do được các nhà khoa học cảnh báo sớm, Cục Khuyến nông Khuyến Lâm và Cục Thú y đã hành động kịp thời để ngăn chặn việc nhập loài này vào Việt Nam và đã thành lập một tổ công tác để giải quyết các vấn đề liên quan đến Chuột hải ly. Tính đến cuối năm 2002, khoảng 4.000 con Chuột hải ly đã được tịch thu và tiêu hủy. 4.2 Các hoạt động để giải quyết vấn đề sinh vật ngoại lai Tuy một số loài sinh vật ngoại lai xâm hại đã được xác định tại Việt Nam và gây ra một số tác động tiêu cực đối với đa dạng sinh học và những tổn thất khá nặng nề về kinh tế, mới có rất ít các hành động nhằm kiểm soát chúng. Mới chỉ có một vài thử nghiệm được thực hiện để tìm phương pháp kiểm soát phù hợp đối với Mai dương M. pigra (Nguyễn Hồng Sơn et al. 2004, Nguyễn Thị Lan Thi et al. 2004). Nhưng trong 10
- mọi trường hợp, việc ngăn chặn sự xuất hiện của các loài sinh vật ngoại lai xâm hại luôn rẻ và hiệu quả hơn nhiều so với khi chúng đã được du nhập và phát triển. Trong trường hợp không thể ngăn chặn, các biện pháp can thiệp sớm sẽ phải là bước tiếp theo (vdụ, đối với M. pigra; Trần Triết et al. 2001). Đối với những vùng đã bị thực vật ngoại lai xâm hại xâm lấn mạnh, khuyến khích việc sử dụng các loài này có thể là một lựa chọn phù hợp. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, thân của Mai dương được dùng làm củi, và các thử nghiệm cho thấy Mai dương non có thể làm thức ăn cho dê hoặc làm giá thể để trồng nấm với tốc độ sinh trưởng tương đối tốt. Tương tự, trong vài năm gần đây, Lục bình Eichhornia crassipes đã bắt đầu được sử dụng với một số công dụng như làm phân xanh, nấu cồn và làm vật liệu đan thủ công mỹ nghệ. Với các loài không có công dụng kinh tế gì, đôi khi Nhà nước còn phải huy động mọi lực lượng quần chúng để kiểm soát và diệt trừ chúng. Một chương trình đã được thực hiện vào những năm 1990 đã thu gom được hàng trăm tấn Ốc bươu vàng và trứng của chúng, sau đó cung cấp các đào tạo về quản lý tổng hợp để kiểm soát loài này. Trên thế giới, hiện đã có khá nhiều nghiên cứu chuyên đề về một số loài đang, hoặc có nguy cơ, trở thành loài xâm hại ở Việt Nam, và các biện pháp quản lý tổng hợp thường bao gồm sử dụng hóa chất, kiểm soát sinh học bằng các loài thiên địch (tuy nhiên, đáng tiếc là trong một số trường hợp ở nhiều nơi trên thế giới, áp dụng không tốt đã trực tiếp đưa thêm các loài xâm hại vào lãnh thổ) và, đối với Ốc bươu vàng, sử dụng các loài thực vật thu hút để tập trung cá thể lại tiêu hủy. Hầu hết các sáng kiến địa phương đề cập ở trên đều có những tác dụng nhất định, tuy nhiên các diện tích bị xâm hại thường không cô lập, và do đó, các chương trình quản lý thành công sẽ đòi hỏi một tiếp cận ở cấp độ quốc gia và tất nhiên là cả cấp độ khu vực. Các ưu tiên cần phải đặt cho các vùng có tầm quan trọng về bảo tồn như các khu bảo tồn và các Vườn Quốc gia và các vùng được xác định là có giá trị đa dạng sinh học cao khác như các Vùng Chim Quan trọng (VCQT; Tordoff et al. 2002) hay các Khu Đa dạng Sinh học Trọng yếu (KĐDSH; Eken et al. 2004)2. 4.3 Các cam kết quốc tế về sinh vật ngoại lai Việt Nam đã tham gia ký kết hai thỏa thuận quốc tế quan trọng có liên quan đến vấn đề sinh vật ngoại lai: Công ước Đa dạng Sinh học (www.biodiv.org) Theo Điều 8, Việt Nam cam kết “ngăn chặn việc du nhập, kiểm soát hoặc tiêu hủy các loài sinh vật ngoại lai đe dọa đến các hệ sinh thái, các sinh cảnh và các loài”. Thêm vào đó, trong Nghị quyết VI/23 (Các nguyên tắc định hướng cho việc thực hiện Điều 8, được thông qua vào tháng Tư năm 2002 tại Đại hội các Bên Tham gia Công 2 VCQT và KĐDSH là các khu vực đạt chuẩn quốc tế là có giá trị đa dạng sinh học cao được xác định dựa trên các tiêu chí định lượng dựa trên sự có mặt của các loài mà do đó việc bảo tồn ở cấp độ khu là cần thiết: (1) các loài bị đe dọa toàn cầu; (2) các loài phân bố hẹp; (3) các loài tập trung với số lượng lớn; và (4) tập hợp của các loài giới hạn phân bố trong các đơn vị địa sinh học. 11
- ước Đa dạng Sinh học), Việt Nam cam kết có các biện pháp ngăn chặn sự lây lan của các loài sinh vật ngoại lai xâm hại với các trọng tâm là kiểm soát biên giới, các biện pháp kiểm dịch, trao đổi thông tin và xây dựng năng lực (các biện pháp ít tốn kém và hiệu quả nhất). Đặc biệt, các Nguyên tắc được nêu trong Nghị quyết VI/23 ‐ được bổ sung bởi các kiến nghị của Nghị quyết VII/13 và Nghị quyết VIII/27 ‐ đề xuất là Việt Nam, cũng như các Bên tham gia CBD khác: • rà soát... xác định các thiếu hụt, mâu thuẫn trong các chính sách, quy định và thể chế, và nếu có thể, điều chỉnh để xây dựng chính sách quy định và thể chế”. (tài liệu này phần nào thỏa mãn yêu cầu trên nếu nó được chấp nhận và các khuyến nghị nó đưa ra có thể được cho vào Luật Đa dạng Sinh học) • khuyến khích và triển khai, nếu có thể, các nghiên cứu và đánh giá ở cấp quốc gia về các loài xâm hại, sự mong manh của các hệ sinh thái trước sức xâm lấn của các loài này, “...phát triển các biện pháp thân thiện với môi trường để kiểm soát và loại bỏ các loài sinh vật ngoại lai xâm hại, bao gồm cả các biệt pháp kiểm dịch và kiểm soát các loài bám vỏ tàu”, và “chi phí và lợi ích của việc sử dụng các tác nhân sinh học nhằm kiểm soát và loại bỏ các loài sinh vật ngoại lai xâm hại”. • “...có cơ hội để đưa ra các biện pháp quản lý kịp thời (cấp phép) trước khi các loài sinh vật ngoại lai xâm hại được du nhập có chủ định vào lãnh thổ”. (kiến nghị này rất quan trọng về mặt sức ép từ một số Bên tham gia để đám bảo những quan tâm về thương mại được ưu tiên hơn những quan tâm về sinh vật ngoại lai xâm hại) • “...thực hiện việc kiểm soát biên giới và các biện pháp kiểm dịch đối với các loài ngoai lại đã xâm lấn hoặc có nguy cơ xâm lấn để đảm bảo: a) Việc nhập nội chủ động các loài ngoại lai phải được kiểm soát qua hệ thống cấp phép...; (b) Việc nhập nội các loài bị đe dọa một cách vô tình do thiếu kiểm soát phải được giảm thiểu”. Các nguyên tắc hướng dẫn chung cũng tập trung vào các nguyên tắc phòng ngừa ‐ “khi có các nguy cơ phá hoại nghiêm trọng, việc thiếu dẫn liệu đủ tin cậy về khoa học sẽ không được coi là lý do cho việc ngừng các biện pháp ít tốn kém để ngăn ngừa sự xuống cấp của môi trường” ‐ và trên thực tế là “các biện pháp phòng ngừa nói chung ít tốn kém và phù hợp về mặt môi trường hơn nhiều so với các biện pháp được tiến hành sau khi các loài ngoại lai xâm hại đã du nhập và có hình thành quần thể”. Công ước Ramsar về các vùng đất ngập nước (www.ramsar.org) Theo Nghị quyết VII.14, Việt Nam được yêu cầu tiến hành hàng loạt các hoạt động liên quan đến các loài sinh vật ngoại lai xâm hại. Một số điểm cụ thể như sau: 12
- • “kiểm kê các loài ngoại lai ở các vùng đất ngập nước và đánh giá chúng để xác định loại các xác lập ưu tiên đối với các loài đe dọa các vùng đất ngập nước và sinh vật đất ngập nước (“đánh giá rủi ro”), và các loài trong số đó có thể kiểm soát hoặc loại trừ”. • “xây dựng các chương trình nhằm giải quyết các loài ưu tiên với quan điểm kiểm soát hoặc loại trừ...” • “xác định tác động về môi trường, kinh tế và xã hội của việc di chuyển và lưu thông các loài ngoại lai” • “...đưa ra khung pháp chế và các chương trình để ngăn chặn việc du nhập các loài ngoại lai mới nguy hiểm đối với môi trường và việc di chuyển và lưu thông các loài này” • “xây dựng năng lực để xác định các loài ngoại lai mới nguy hiểm đối với môi trường” và “nâng cao nhận thức để xác định và kiểm soát các loài ngoại lai mới nguy hiểm đối với môi trường” 5. Tổng quan các kinh nghiệm quốc tế về các điều luật quản lý và bảo tồn các loài bị đe dọa Ở rất nhiều quốc gia, các văn bản pháp quy về quản lý và bảo tồn các loài bị đe dọa hầu như chỉ giới hạn trong việc cấm hay hạn chế sử dụng các loài cụ thể được liệt kê trong “danh lục bảo vệ”. Như vậy, hệ thống pháp lý này hầu như chỉ đáp ứng việc ngăn chặn khai thác hay buôn bán các loài động thực vật cụ thể, và thường là chỉ đối với một số rất ít các loài được xác định. Tuy nhiên, điều rõ ràng là việc bảo vệ một loài đòi hỏi việc duy trì hoặc phục hồi toàn bộ các điều kiện cần cho sự tồn tại của loài đó, đặc biệt là sinh cảnh của loài. Trong một số trường hợp, việc khai thác hoặc buôn bán một loài cụ thể lại không hoặc rất ít quan trọng đối với việc bảo tồn nó. Do đó, tính hiệu quả của việc liệt kê một danh sách dài các loài dự định sẽ cấm hoàn toàn việc khai thác hoặc buôn bán còn phải cân nhắc. Tuy nhiên, mọi mối đe dọa ví dụ như khai thác, dù là nhỏ, đối với các loài bị đe dọa vốn đã phải chịu sức ép nặng nề cũng cần được giải quyết. Nhất là, ở một thời điểm cụ thể, việc khai thác hoặc buôn bán một loài tuy chưa nghiêm trọng, các đạo luật cấm như vậy có tác dụng như các biện pháp cảnh báo sớm đề phòng trường hợp nhu cầu đối với những loài cần quan tâm tăng đột biến. Tất nhiên, các biện pháp pháp lý nhằm giải quyết các mối đe dọa đối với loài sẽ đạt kết quả tốt nhất với những phân tích cụ thể, nhưng cho đến lúc đủ năng lực để phân tích, ra quy định, và thực thi hệ thống pháp lý phức tạp như vậy, thì cấm triệt để việc chiếm hữu và buôn bán các loài bị đe dọa có lẽ vẫn là biện pháp pháp lý tốt nhất. Về lâu dài, các kế hoạch phục hồi hoặc quản lý loài cần được xây dựng và sử dụng để xác định các mối đe dọa cụ thể và các sinh cảnh quan trọng đối với các loài bị đe dọa (de Klemm and Shine 1993). Những nguyên tắc này cũng đã được thừa nhận, ví dụ, trong yêu cầu của một số nhà tài trợ cho Việt Nam như Ngân hàng Thế giới, theo đó “không hỗ trợ các dự án mà theo quan điểm của Ngân hàng Thế giới, có những hoạt động 13
- chuyển đổi hoặc làm xuống cấp những diện tích đáng kể các sinh cảnh tự nhiên quan trọng” (World Bank 2004). Do mất và xuống cấp sinh cảnh tự nhiên luôn là mối đe dọa đến loài, bảo tồn sinh cảnh cho các loài bị đe dọa ‐ cho dù chúng có là loài bị cấm khai thác hay không ‐ đang trở thành một biện pháp lý phổ biến trên toàn cầu thông qua hệ thống các khu bảo vệ tương tự như hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam. Tuy nhiên, cách thức bảo vệ sinh cảnh này không chỉ tốn kém mà còn khó hoặc không khả thi do xung đột về nhu cầu sử dụng đất. Trong các trường hợp này, kiểm soát sử dụng đất hay áp đặt một một yêu cầu quản lý nào đó có thể là một giải pháp. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy rằng những biện pháp hạn chế như vậy thường không được chấp nhận một cách tự nguyện do mục tiêu vì một loài bị đe dọa chẳng liên quan nhiều đến người quản lý đất, nhất là trên đất tư. Do đó, việc hạn chế này cần phải đi cùng với những bồi thường thỏa đáng cho các bên liên quan (de Klemm and Shine 1993). Một cách tiếp cận tốt hơn là xây dựng các thỏa thuận quản lý mà trong đó, nếu có thể, ràng buộc những người thừa kế đất. Các thỏa thuận như vậy có thể được bổ trợ bởi khả năng cưỡng chế hay thu hồi các vùng đất có vấn đề là phương thức cuối cùng nếu người quản lý đất từ chối ký thỏa thuận hay không tuân thủ các cam kết bảo tồn đưa ra trong thỏa thuận. Tuy nhiên, các điều kiện trong thỏa thuận cũng cần xác đáng để đảm bảo người quản lý đất coi sự có mặt của một loài bị đe dọa như một tài sản chứ không phải là một gánh nặng pháp lý (de Klemm and Shine 1993). Sự thất bại trong việc đáp ứng yêu cầu này được coi là tư tưởng chủ Đạo luật về Các loài bị đe dọa của Mỹ. Hướng dẫn vê Các Sinh cảnh Cộng đồng thậm chí có thể còn thành công hơn thể hiện trong việc liệt kê các loài mà hệ thông các Vùng Bảo tồn Đặc biệt cần phải thiết lập để bảo vệ các sinh cảnh của chúng (European Community 1992). 6. Tổng quan các kinh nghiệm quốc tế về quản lý bảo tồn đối với các sinh vật ngoại lai Các nghiên cứu chuyên đề được thực hiện gần đây trong khuôn khổ Chương trình Loài Xâm hại Toàn cầu (www.gisp.org), cùng với kết quả rà soát tài liệu và các văn bản pháp lý đã ghi nhận là trên bình diện toàn cầu, mức độ xử lý các loài sinh vật ngoại lai xâm hại ở các quốc gia là rất khác nhau. Ở hầu hết các quốc gia, các điều luật liên quan đến các loài ngoại lai xuất hiện rải rác trong các văn bản pháp quy về bảo tồn thiên nhiên, nguồn nước, nông lâm nghiệp, đánh bắt thủy sản, kiểm dịch, và đôi khi các văn bản ra đời trong thời gian gần đây còn đề cập đến các sinh vật biến đổi gen. Một số các điều khoản liên quan còn có thể thấy trong các quy chế về săn bắn động vật hoang dã và đánh bắt thủy sản trong đó đề cập đến việc du nhập hoặc phóng thích các loài với mục đích tái tạo quần thể. Lý lẽ cho việc thực hiện các tiếp cận đơn ngành này thường có tính lịch sử hay có mục 14
- đích hành chính hơn là cân nhắc đến yếu tố khoa học hay kỹ thuật (Shine et al. 2000). Do vậy, nhiều vấn đề nảy sinh và có thể sơ bộ phân vào các nhóm như sau Khung chính sách và thể chế chưa hoàn thiện • Thiếu một tiếp cận chiến lược, các vấn đề liên quan đến loài ngoại lai thường ít hoặc không được nhắc đến trong các văn bản pháp quy. • Thiếu sự điều phối và trao đổi giữa các cơ quan chịu trách nhiệm về các vấn đề kiểm dịch thực vật, buôn bán sinh vật, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và các ngành khác. • Các điều luật hiện có rải rác và cách thức xử lý không nhất quán mà tùy thuộc cách thức bố trí thể chế, các định nghĩa, tiêu chí, tiêu chuẩn và thủ tục của các ngành khác nhau Phạm vi điều chỉnh không đầy đủ và các thuật ngữ sử dụng không rõ ràng • Phân loại học: các khung chính sách thường không tuân thủ theo những hệ thống phân loại chuẩn, hoặc nêu rõ chúng được áp dụng đến mức loài hay dưới loài. • Phạm vi điều chỉnh: thường bỏ qua các loài cá và vi sinh vật ngoại lai được du nhập vào các kiểu hệ sinh thái cụ thể nào đó. • Mục tiêu hẹp: một số quốc gia không có cơ sở pháp lý để ngăn chặn việc du nhập các loài ngoại lai ngoại trừ trường hợp chúng gây hại đến sản xuất nông nghiệp và thủy sản. • Định nghĩa về các điều khoản quan trọng không có hoặc không thống nhất. • Việc phân tích rủi ro và các thủ tục cấp phép cồng kềnh, tốn thời gian và chi phí cao. Các vấn đề về thỏa thuận, thực thi pháp luật và quản lý • Thiếu yêu cầu hỗ trợ về pháp lý để giám sát sinh vật ngoại lai. • Các tiếp cận bằng pháp chế không đủ mạnh, hầu như không có các biện pháp khuyến khích bằng kinh tế để ngăn chặn việc du nhập không mong muốn các loài ngoại lai hay khuyến khích việc kiểm soát và loại bỏ chúng. Mô hình thực hiện của các nước Một số Chiến lược và Kế hoạch Hành động của các quốc gia đã có những kiểm kê về các loài sinh vật ngoại lai. Ví dụ ở Ba Lan, các nguồn vốn cụ thể đã được phân bổ cho việc giám sát sinh vật ngoại lai và nhiệm vụ này được giao cho các viện nghiên cứu và các vườn thực vật (Krzywkowska 1999; in Shine et al. 2000). Tương tự, dự thảo chiến lược đa dạng sinh học của Argentina cũng đề xuất việc lập cơ sở dữ liệu về các loài sinh vật bản địa và ngoại lai, bao gồm cả thông tin cũ và các số liệu hiện có về các tác động gây hại (Di Paola and Kravetz 1999; in Shine et al. 2000). Ở Australia, Đạo luật Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Bảo vệ Môi trường 1999 đã tiến một bước xa hơn khi chính thức đưa ra các yêu cầu về xác định và giám sát đa dạng sinh học, liên kết với Phụ chương I của Công ước Đa dạng Sinh học. Các yêu cầu về quy hoạch và quản lý cụ thể áp dụng đối với các hoạt động được xác định là đe dọa sự tồn tại, sự 15
- phong phú hay quá trình tiến hóa của một loài bản địa hay một quần xã sinh thái. Rõ ràng là những loài sinh vật ngoại lai xâm hại sẽ nằm trong loại đối tượng này. 7. Các văn bản pháp quy ở Việt Nam liên quan đến các loài bị đe dọa 7.1 Các văn bản hiện có Văn bản pháp lý đầu tiên về các loài bị đe dọa ở Việt Nam có thể kể đến là Chỉ thị 134‐TTg ngày 21/06/1960 của Thủ tướng chính phủ về cấm săn bắn Voi. Sau đó không lâu là Nghị định 39‐CP ngày 05/04/1963 ban hành điều lệ tạm thời về săn, bắt chim, thú rừng. Nghị định này không chỉ đưa ra một danh sách các loài cần bảo vệ mà còn quy định về phương pháp và mùa săn bắn. Danh lục các loài “quý hiếm” được bảo vệ dần được hoàn thiện thêm nhất là trong thời gian gần đây qua Nghị định 18‐HDBT năm 1992, được điều chỉnh sau đó mười năm bằng Nghị định 48/2002/NĐ‐CP. Mới đây nhất, danh lục các loài cần bảo vệ đã được điều chỉnh theo Nghị định 32/2006/NĐ‐CP ngày 30/03/2006. Tất cả các Nghị định nói trên đều chia các loài vào hai phân hạng chính, theo đó nghiêm cấm khai thác, sử dụng các loài trong Phụ lục I và hạn chế khai thác, sử dụng các loài trong Phụ lục II. Danh sách đầy đủ được đưa vào Phụ chương 1 của báo cáo này. Yêu cầu về bảo tồn sinh cảnh cho các loài bị đe dọa cũng được đề cập trong các Nghị định: Nghị định 32/2006/NĐ‐CP quy định: Chương I. Những quy định chung Điều 3: Chính sách của Nhà nước về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm. 1. “Nhà nước đầu tư để quản lý, bảo vệ thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm tại các khu rừng đặc dụng, các hoạt động cứu hộ đối với thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm bị xử lý tịch thu.” Chương II. Quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Điều 5: Bảo vệ thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm. 1. “Những khu rừng có thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm phân bố tập trung thì được đưa vào xem xét thành lập khu rừng đặc dụng theo quy định của pháp luật”. 2. “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất, xây dựng công trình, điều tra, thăm dò, nghiên cứu, tham quan, du lịch và các hoạt động khác trong khu rừng có thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm phải thực hiện các quy định tại Nghị định này và pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, pháp luật về bảo vệ môi trường”. Điều 12: Quyền, nghĩa vụ của chủ rừng: 16
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn