intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thông tin cơ sở về các loài bị đe dọa  và các loài ngoại lai tại Việt Nam và các đề xuất cho nội dung  của luật đa dạng sinh học

Chia sẻ: Asdfcs Fsdfd | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

126
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việt Nam là một trong những nước có tính đa dạng sinh học cao nhất thế giới với nhiều yếu tố đặc sắc không thể phát hiện ở bất cứ nơi nào khác. Tuy nhiên, Việt Nam cũng được xếp hạng vào một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học bị đe dọa nặng nề nhất

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thông tin cơ sở về các loài bị đe dọa  và các loài ngoại lai tại Việt Nam và các đề xuất cho nội dung  của luật đa dạng sinh học

  1.         Thông tin cơ sở về các loài bị đe dọa  và các loài ngoại lai tại Việt Nam  và các đề xuất cho nội dung  của Luật Đa dạng Sinh học        Do Chương trình BirdLife Quốc tế tại Việt Nam thực hiện theo yêu cầu của  Vụ Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam        Dự thảo, ngày 3 tháng 7 năm 2006 
  2. Mục lục  1. Tóm tắt...............................................................................................................................................................1  2. Giới thiệu ..........................................................................................................................................................2  3. Tổng quan về tình trạng các loài bị đe dọa ở Việt Nam......................................................................3  3.1 Danh lục các loài bị đe dọa ...................................................................................................................3  3.2 Các loài bị đe dọa ở Việt Nam .............................................................................................................4  3.3 Các mối đe dọa đối với các loài ...........................................................................................................5  3.4 Các hành động để bảo tồn các loài bị đe dọa...................................................................................5  3.5 Các cam kết chính sách quốc tế liên quan đến các loài bị đe dọa ..............................................6  4. Tổng quan về tình trạng các loài ngoại lai ở Việt Nam .......................................................................7  4.1 Các loài ngoại lai ở Việt Nam...............................................................................................................7  4.2 Các hoạt động để giải quyết vấn đề sinh vật ngoại lai ...............................................................10  4.3 Các cam kết quốc tế về sinh vật ngoại lai........................................................................................11  5. Tổng quan các kinh nghiệm quốc tế về các điều luật quản lý và bảo tồn các loài bị đe  dọa....................................................................................................................................................................13  6. Tổng quan các kinh nghiệm quốc tế về quản lý bảo tồn đối với các sinh vật ngoại lai............14  7. Các văn bản pháp quy ở Việt Nam liên quan đến các loài bị đe dọa............................................16  7.1 Các văn bản hiện có ..............................................................................................................................16  7.2 Những thiếu hụt và bất hợp lý trong hệ thống pháp lý hiện tại về các loài bị đe dọa.......21  8. Các văn bản pháp quy về các loài ngoại lai ở Việt Nam...................................................................24  8.1 Các văn bản hiện có về các loài ngoại lai ........................................................................................24  8.2 Những thiếu hụt và bất hợp lý trong hệ thống pháp lý hiện tại về các loài ngoại lai........26  9. Đề xuất những điều khoản về quản lý và bảo tồn các loài bị đe dọa có thể đưa vào Luật  Đa dạng Sinh học.........................................................................................................................................26  11. Tài liệu tham khảo .....................................................................................................................................28  12. Các phụ chương .........................................................................................................................................33  Phụ chương 1. Ma trận phân tích các loài bị đe dọa toàn cầu, loài bị đe dọa ở cấp quốc  gia, và các loài được bảo vệ ở Việt Nam................................................................................................33  Phụ chương 2. Các loài của Việt Nam có trong danh lục các loài của Công ước về loài  di cư .................................................................................................................................................................75  Phụ chương 3. Ma trận các loài ngoại lai đe dọa tính đa dạng sinh học thực vật ở Việt  Nam.................................................................................................................................................................76  Phụ chương 4. Danh lục các loài thực vật thủy sinh lạ xâm nhập thủy vực Việt Nam...........77  Phụ chương 5. Phân loại khả năng xâm lấn.........................................................................................79    Trích dẫn:  Chương trình BirdLife Quốc tế tại Việt Nam (2006) Thông tin cơ sở về các loài bị đe  dọa và các loài ngoại lai tại Việt Nam và các đề xuất cho nội dung của Luật Đa dạng  Sinh học. Dự thảo báo cáo trình Vụ Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt  Nam, ngày 3 tháng 7 năm 2006. 
  3. 1. Tóm tắt  Việt  Nam  là  một  trong  những  nước  có  tính  đa  dạng  sinh  học  cao  nhất  thế  giới  với  nhiều yếu tố đặc sắc không thể phát hiện ở bất cứ nơi nào khác. Tuy nhiên, Việt Nam  cũng được xếp hạng vào một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học bị đe  dọa nặng nề nhất. Hệ thống văn bản pháp quy hiện tại của Việt Nam cũng đã được  ban hành nhằm bảo vệ tính đa dạng sinh học của đất nước và giải quyết các mối đe  dọa đối với đa dạng sinh học, nhưng vẫn chưa đầy đủ và còn phân tán. Điều này dẫn  đến  yêu  cầu  cần  xây  dựng  mới  một  bộ  Luật  Đa  dạng  Sinh  học  có  tính  thống  nhất.  Theo yêu cầu của Vụ Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam, tài liệu  này được thực hiện nhằm phân tích tình trạng hiện tại của các loài bị đe dọa và loài  ngoại lai tại Việt Nam, các văn bản pháp quy liên quan đến các loài này, các khoảng  thiếu hụt và không nhất quán trong các văn bản, và các kinh nghiệm quốc tế có thể  áp dụng để giúp Việt Nam xây dựng bộ Luật Đa dạng Sinh học mới. Cuối cùng, báo  cáo sẽ đưa ra các kiến nghị về các loài bị đe dọa và loài ngoại lai có thể đưa vào Luật  Đa dạng Sinh học.  Nhìn chung, những yêu cầu chính được xác định (chi tiết trình bày trong phần 9 và  10) gồm:  Loài bị đe dọa  1. Xác định tình trạng pháp lý của Sách Đỏ Việt Nam;  2. Phạm vi và tiêu chuẩn hóa cho danh lục loài được bảo vệ (“quý hiếm”);  3. Các văn bản pháp quy cần bổ sung để có thể thực hiện được các quy định hiện  có về bảo vệ sinh cảnh của các loài bị đe dọa trên cạn;  4. Ủy quyền cho một cơ quan đầu mối quốc gia chịu trách nhiệm về bảo tồn các  vùng biển và nước nội địa, cùng với đó là những quy định mới làm cơ sở cho  việc thành lập các hệ thống khu bảo vệ ở các vùng nước nội địa, ven biển và  biển.  5. Đề xuất cộng nhận và bảo vệ các khu Ramsar;  6. Tăng  các  khung  hình  phạt  cho  các  tội  danh  vi  phạm  các  điều  luật  liên  quan  đến  đa  dạng  sinh  học,  đặc  biệt  những  điều  luật  liên  quan  đến  khai  thác  và  kinh doanh các loài được bảo vệ.  Các loài ngoại lai  1. Ủy quyền cho một cơ quan đầu mối quốc gia chịu trách nhiệm về vấn đề các  loài ngoại lai xâm hại, bao gồm cả tránh nhiệm xây dựng một chiến lược tổng  thể về vấn đề này;  2. Các  biện  pháp  nghiêm  khắc  và  xử  phạt  hành  chính  để  ngăn  chặn  việc  cố  ý  nhập các loài ngoại lai xâm hại;  3. Các quy chế kiểm dịch nghiêm ngặt và hạn ngạch buôn bán động vật cảnh và  cây cảnh để ngăn chặn việc vô tình đưa các loài xâm hại vào Việt Nam;  1 
  4. 4. Các  quy  định  về  tiêu  hủy,  hoặc  ít  nhất  là  kiểm  soát  và  ngăn  ngừa  các  loài  ngoại lai xâm hại khi chúng đã xuất hiện, đặc biệt chú trọng ưu tiên các vùng  rừng  đặc  dụng  và  các  sinh  cảnh  tự  nhiên  quan  trọng  của  các  loài  bị  đe  dọa  như các Vùng Chim Quan trọng hay các Vùng Đa dạng Sinh học Trọng Yếu.  2. Giới thiệu  Việt Nam luôn được xếp vào nhóm hai mươi quốc gia có tính đa dạng sinh học cao  nhất trên thế giới. Đối với một số nhóm sinh vật, ví dụ như linh trưởng, Việt Nam  đứng trong năm quốc gia hàng đầu về sự đa dạng. Chỉ tính riêng trên cạn đã có hơn  13.700  loài  thực  vật  (Bộ  TNMT  et  al.  2005),  khoảng  870  loài  cá  có  phân  bố  thường  xuyên  (Bộ  TNMT  et  al.  2005),  310  loài  thú  (Bộ  TNMT  et  al.  2005),  822  loài  chim  (BirdLife International 2006), 286 loài bò sát (Bộ TNMT et al. 2005) và 145 loài lưỡng  cư  (IUCN  et  al.  2006)  được  xác  định  và  mô  tả  tại  Việt  Nam.  Môi  trường  biển  cũng  chứa  đựng  tính  đa  dạng  sinh  học  không  kém  với  hơn  11.000  loài  sinh  vật  biển  đã  được ghi nhận (Bộ TNMT et al. 2005). Việt Nam cũng là nơi mà sự đa dạng sinh học  vẫn chưa được khám phá đầy đủ ‐ rất nhiều loài thực vật, bò sát, lưỡng cư, và thậm  chí có năm loài thú lớn và ba loài chim mới được mô tả cho khoa học trong ba thập  kỷ qua.  Giá trị bảo tồn đa dạng sinh học cao nhất của Việt Nam chính là các loài đặc hữu của  quốc gia ‐ những loài không được ghi nhận ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Các  loài phân bố hẹp này cũng chính là các loài bị đe dọa nặng nề nhất. Khoảng 10% các  loài thực vật của Việt Nam được cho là các loài đặc hữu (UNEP 2001), tám loài chim  đặc hữu (trong đó sáu loài là loài bị đe dọa ở cấp độ toàn cầu), năm loài thú và một  loài bò sát đặc hữu là loài bị đe dọa toàn cầu, cuối cùng là 39 loài lưỡng cư đặc hữu  trong đó có bốn loài bị đe dọa toàn cầu (IUCN et al. 2006).  Xác định rõ tầm quan trọng về đa dạng sinh học của quốc gia và các mối đe dọa mà  tính  đa  dạng  sinh  học  này  đang  phải  gánh  chịu,  Chính  phủ  Việt  Nam đã  ra Quyết  định số 35/2003/QĐ‐TTg ngày 06/03/2003 chỉ định Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ  TNMT)  chịu  trách  nhiệm  chủ  trì  xây  dựng  Luật  Đa  dạng  Sinh  học.  Luật  Đa  dạng  Sinh  học  lần  đầu  tiên  sẽ  được  xây  dựng  trên  tinh  thần  tham  khảo  rộng  rãi  để  mọi  công dân và các tổ chức đều có thể đóng góp ý kiến. Luật này cũng giúp Việt Nam  thực hiện các cam kết theo các thỏa thuận quốc tế và thể hiện vai trò của Việt Nam  như một thành viên của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Bản dự thảo  Luật Đa dạng Sinh học sẽ được đưa ra trình Quốc hội cho ý kiến vào đầu năm 2007  và bản thảo lần thứ nhất sẽ phải hoàn tất trong tháng Bảy năm 2006. Ghi nhận trình  độ chuyên môn của BirdLife International về lĩnh vực các loài bị đe dọa cả ở quy mô  toàn cầu (là cơ quan ủy quyền chính thức của IUCN trong việc xác định danh lục đỏ  các  loài  chim  bị  đe  dọa)  cũng  như  quy  mô  vùng  (tại  Việt  Nam  và  các  quốc  gia  lân  cận),  Vụ  Môi  trường  của  Bộ  Tài  nguyên  và  Môi  trường  đã  đề  nghị  BirdLife  2 
  5. International thực hiện một nghiên cứu lấy thông tin cơ sở về các loài bị đe dọa và  loài ngoại lai và các kiến nghị cho nội dung của Luật Đa dạng Sinh học.  3. Tổng quan về tình trạng các loài bị đe dọa ở Việt Nam  3.1 Danh lục các loài bị đe dọa  Tuy việc đánh giá toàn diện tình trạng bị đe dọa của tất cả các loài đã được ghi nhận  ở Việt Nam là hết sức khó khăn do thông tin còn rất thiếu, nhưng cũng đã có nhiều  nỗ lực được thực hiện để xác định danh lục và xếp hạng các loài. Danh lục đỏ các loài  bị đe dọa của IUCN (www.iucnredlist.org) là nguồn thông tin có tính tổng thể nhất về  các loài bị đe dọa, và Danh lục Đỏ IUCN ngày càng được các tổ chức chính phủ và  liên chính phủ thừa nhận như “chuẩn toàn cầu về các loài bị đe dọa” (Rodrigues et al.  2006).  Là  một  thành  viên  IUCN,  Chính  phủ  Việt  Nam  cần  phải  có  “một  trong  các  mục tiêu chính của mình là thực hiện sứ mạng của IUCN” và, do vậy, có trách nhiệm  chấp  thuận  Danh  lục  Đỏ  IUCN  và  lồng  ghép  vấn  đề  các  loài  trong  Danh  lục  Đỏ  IUCN  vào  các  quy  chế  bảo  vệ  loài  của  quốc  gia.  Các  tiêu  chí  định  lượng  được  sử  dụng để đánh giá và xếp các loài theo thứ bậc trong bộ phân hạng tình trạng bị đe  dọa (Hình 1). Trong đó các loài bị đe dọa là các loài được xếp vào các phân hạng Tối  nguy cấp (Critically Endangered ‐ CR), Nguy cấp (Endangered ‐ EN), hoặc Sắp Nguy  cấp (Vulnerable ‐ VU).   Hình 1: Các phân hạng trong danh lục đỏ IUCN và sơ bộ về các tiêu chí  Tuyệt chủng (EX) Khi rõ ràng là cá thể cuối cùng đã chết Nguy cơ tuyệt chủng tăng dần Tuyệt chủng ngoài tự Khi loài chỉ còn tồn tại trong môi trường nuôi nhân tạo, nuôi nhốt hoặc các nhiên (EW) quần thể bán hoang dã bên ngoài vùng phân bố quá khứ của loài Cực kỳ Nguy cấp (CR) (Đủ (Bị Khi loài xếp vào các phân hạng này theo các tiêu chí và được cho là đang Nguy cấp (EN) đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng ngoài tự nhiên cao hoặc rất cao. dẫn liệu) đe dọa) Sắp nguy cấp (VU) (Đã Khi một loài không phù hợp với các tiêu chí xếp hạng, tuy nhiên gần đáp ứng Gần bị đe dọa (NT) đánh giá) hoặc có vẻ đáp ứng tiêu chí của các phân hạng bị đe dọa trong tương lai gần Ít bị đe dọa (LC) Khi một loài không phù hợp để xếp vào các tiêu chí bị đe dọa (các loài hoặc dưới loài có số lượng lớn hoặc phân bố rộng) Khi không đủ thông tin để đánh giá trực tiếp hoặc gián tiếp nguy cơ bị đe dọa Không đủ dẫn liệu (DD) Chưa rõ của một loài dựa trên vùng phân bố và tình trạng quần thể của chúng nguy cơ Không được đánh giá (NE) tuyệt chủng Khi một loài chưa thể đánh giá theo các tiêu chí Tiêu chí Cực kỳ nguy cấp Nguy cấp Sắp nguy cấp Chỉ số đáp ứng và tiêu chí c A1: Giảm kích cỡ ≥ 90% ≥ 70% ≥ 50% Trong 10 năm hoặc 3 thế hệ đã qua, khi nguyên nhân của sự suy giảm này rõ quần thể ràng là có thể đảo ngược được VÀ đã được hiểu VÀ đã ngừng A2-4: Giảm kích cỡ ≥ 80% ≥ 50% ≥ 30% Trong 10 năm hoặc 3 thế hệc đã qua, trong tương lai hoặc cả hai quần thể B1: Vùng phân bố hẹp
  6. a Điều chỉnh, với sự chấp thuận, từ IUCN (2001)  b Điều chỉnh, với sự chấp thuận, từ Butchart et al. (2005)  c Nếu thời gian nào dài hơn  Các danh lục đỏ và sách đỏ đã được xây dựng ở cấp quốc gia cho các khu hệ động  vật vào năm 1992 (Bộ KHCNMT 1992), cập nhật năm 2000 (Bộ KHCNMT 2000), tiếp  theo đó là sách đỏ thực vật năm 1996 (Bộ KHCNMT 1996). Do đây là giai đoạn đầu  của việc liệt kê các loài bị đe dọa, các tài liệu này được xây dựng theo mô hình của  Sách đỏ Ấn Độ. Các lần tái bản Sách Đỏ tiếp theo (Bộ TNMT và Viện Khoa học Việt  Nam in prep. a và b) sẽ đáp ứng theo các chỉ dẫn đã có của IUCN (IUCN 1994). Hiện  đã có một hệ thổng chuẩn hóa toàn cầu nghiêm ngặt hơn (IUCN 2001) và có thể áp  dụng ở cấp quốc gia (IUCN 2003) mà các lần xây dựng Sách Đỏ tiếp theo có thể sử  dụng.   3.2 Các loài bị đe dọa ở Việt Nam  Danh  lục  đỏ  IUCN  bản  mới  nhất  (IUCN 2006)  đã  liệt kê  303 loài  ở  Việt  Nam  ở  các  cấp độ đe  dọa toàn  cầu, trong khi Sách Đỏ Việt Nam (Bộ KHCNMT 1996, 2000) đã  xếp hạng 522 loài (526 đơn vị phân loại) ở các cấp độ đe dọa của quốc gia (i.e., Nguy  cấp, Sắp nguy cấp, hay Hiếm: Bảng 1, Phụ lục 1). Tuy nhiên, Sách Đỏ Việt Nam ‐ một  phần nào đó sử dụng các tiêu chí cũ ‐ bỏ qua rất nhiều các loài bị đe dọa toàn cầu; chỉ  115 (38%) số loài có ở Việt Nam được liệt kê trong Danh lục Đỏ IUCN đã không được  liệt  kê  trong  các  bản  Sách  Đỏ  Việt  Nam  gần  đây.  Ngược  lại,  Sách  Đỏ  Việt  Nam  đã  đánh giá nhiều nhóm sinh vật không được đánh giá ở mức độ toàn cầu theo IUCN,  và do đó Sách Đỏ Việt Nam đã liệt kê thêm 330 loài (trong đó có một số nhóm thực  vật, nhuyễn thể và cá) có thể đang bị đe dọa ở mức toàn cầu. Hai hệ thống danh lục  này phục vụ cho những mục tiêu khác nhau do vậy cũng có phương pháp đánh giá  hơi khác nhau (IUCN 2003), nhưng rõ ràng có lý do để đồng bộ hóa giữa chúng tốt  hơn. Một trong những hành động cần thiết ở Việt Nam là cần đảm bảo các đánh giá  trong Sách Đỏ tiếp cận gần hơn với các chỉ dẫn và đánh giá của IUCN, tối thiểu thì  cũng phải liệt kê đầy đủ tất cả các loài của Việt Nam được tất cả các loài bị đe dọa  hoặc gần bị đe dọa theo IUCN.  Số lượng lớn các loài bị đe dọa toàn cầu đã đặt Việt Nam vào quốc gia đứng thứ 19  thế giới về số loài bị đe dọa, cao nhất tại Đông Dương. Việt Nam được xếp vào nhóm  15 nước hàng đầu về số loài thú bị đe dọa, nhóm 20 nước hàng đầu về số loài chim,  nhóm 30 nước hàng đầu về số loài thực vật và lưỡng cư (IUCN 2006). Tất nhiên, các  loài được liệt kê là bị đe dọa mới là các loài đã có đủ thông tin và được đánh giá ‐ rất  nhiều loài khác ở Việt Nam rất có thể cũng đang bị đe dọa tuyệt chủng.  4 
  7. Bảng 1: Các loài bị đe dọa được ghi nhận ở Việt Nam    Loài bị đe dọa toàn cầu  Loài bị đe dọa ở quốc gia  CR  EN  VU  Tổng  E  V  R  Tổng  Thực vật  25  38 85 148 25 61  156  242 Thú  11  11 23 45 31 25  21  77 Chim  4  13 21 38 15 6  28  49 Bò sát  7  141 8 29 9 16  7  32 Lưỡng cư  0  3 12 15 1 2  3  6 Cá  4  6 20 30 6 21  28  55 Các loài khác  0  0 0 0 11 22  28  61 Tổng số  51  85 169 305 98 153  271  522   3.3 Các mối đe dọa đối với các loài  Ở cấp độ toàn cầu, sức ép chính lên các loài bị đe dọa được xác định ở khắp nơi là  mất và chia cắt sinh cảnh. Các mối đe dọa chính khác đến từ khai thác quá mức, các  loài xâm lấn, ô nhiễm và bệnh dịch (Baillie et al. 2004). Điều này cũng phản ánh mối  đe dọa đối với các loài của Việt Nam ‐ ví dụ, tất cả các loài lưỡng cư bị đe dọa toàn  cầu ở Việt Nam đều bị ảnh hưởng bởi sinh cảnh bị mất và bị chia cắt, 47% bị đe dọa  bởi ô nhiễm, và 20% do khai thác quá mức (IUCN et al. 2006). Tương tự, 57% số loài  chim bị đe dọa ở Việt Nam đang bị ảnh hưởng bởi sinh cảnh bị mất và bị chia cắt,  44%  bị  đe  dọa  bởi  khai  thác  quá  mức,  và  25%  do  ô  nhiễm  (BirdLife  International  2006).  Do  hầu  hết  sinh  cảnh  của  Việt  nam  là  rừng,  ảnh  hưởng lớn  nhất  do  mất  sinh  cảnh  được  cho  là  do  rừng  bị  mất  và  chia  cắt.  Tuy  thống  kê  chính  thức  cho  thấy  độ  phủ  rừng đã tăng lên trong mười năm vừa qua đến mức 37% vào năm 2004, nhưng chưa  đến một phần ba trong số đó là rừng tự nhiên và chỉ một phần rất nhỏ (
  8. quan, (iv) các giải pháp tài chính, và (v) sự tham gia của cộng đồng (Bộ TNMT et al.  2005).  Các  phân  tích  sớm  đã  chỉ  ra  rất  nhiều  thiếu  hụt  đặc  biệt  nghiêm  trọng  (Bộ  TNMT et al. 2005). Phân tích về hệ thống rừng đặc dụng đã chỉ ra rằng các sinh cảnh  đất ngập nước, nhất là các sông ở vùng thấp và đất ngập nước ven biển chưa được  đại diện đầy đủ trong hệ thống hiện tại, rừng thường xanh đất thấp cũng như vậy  (Bộ TNMT et al. 2005). Thêm vào đó, quy mô các khu bảo vệ cũng không đủ đáp ứng  đối với một số loài sinh vật (Bộ TNMT et al. 2005). Cải thiện hệ thống các khu bảo vệ  hoặc các hành động bảo tồn cảnh quan rất cần ưu tiên để bù đắp thiếu hụt này.  IUCN hiện đã thu thập một số thông tin cần thiết về các biện pháp bảo tồn đã có đối  với  các  loài  bị  đe  dọa  toàn  cầu.  Ví  dụ,  BirdLife  International  ‐  cơ  quan  ủy  quyền  chính thức chịu trách nhiệm xây dựng Danh lục Đỏ các loài chim, đã liệt kê hơn 200  biện pháp bảo tồn cụ thể cần thiết đối với các loài chim của Việt Nam; trong đó 37%  là các hành động liên quan đến sinh cảnh, 34% là hành động nghiên cứu, và 13% là  hành  động  chính  sách  (BirdLife  International  2006).  Cũng  như  vậy,  các  hành  động  bảo  tồn  cần  thiết  do  IUCN  liệt  kê  cho  các  loài  lưỡng  cư  Việt  Nam  có  39%  là  hành  động nghiên cứu, 38% hành động liên quan đến sinh cảnh, và 6% là các hành động  chính sách (IUCN et al. 2006). Phần lớn các biệt pháp bảo tồn hiện có ở Việt Nam là  các  hành  động  liên  quan  đến  sinh  cảnh  (ví  dụ,  79%  hành  động  bảo  tồn  lưỡng  cư  được đề xuất liên quan đến sinh cảnh), đầu tiên là qua hệ thống rừng đặc dụng hiện  có của quốc gia gồm các vườn quốc gia, khu bảo tồn và các khu bảo vệ cảnh quan.  Nhìn chung, các hành động chính sách, ví dụ như hệ thống văn bản pháp quy, rất ít,  trong khi đây rõ ràng là phần cốt lõi trong các yêu cầu của bảo tồn tổng thể.  3.5 Các cam kết chính sách quốc tế liên quan đến các loài bị đe dọa  Việt Nam đã tham gia ký kết rất nhiều thỏa thuận quốc tế liên quan đến bảo tồn các  loài bị đe dọa:  Công ước Đa dạng Sinh học (www.biodiv.org)  Theo Điều 8, Việt Nam cam kết “xây dựng và duy trì hệ thống pháp chế và các điều  khoản pháp chế khác để bảo vệ các loài và các quần thể loài bị đe dọa”. Trong Nghị  quyết VI/26, Việt Nam là một bên ký kết, cam kết thêm “đến năm 2010 sẽ thực hiện  được việc giảm đáng kể tốc độ mất sinh cảnh ở cấp độ toàn cầu, vùng và quốc gia”.  Một trong những chỉ số chính thức được đề xuất để đánh giá mục tiêu này là Danh  mục  Đỏ,  dựa  trên  tình  trạng  của  các  loài  bị  đe  dọa  toàn  cầu  (Butchart  et  al.  2005).  Tuân thủ theo cam kết này,Việt Nam cần đảm bảo tất cả các loài được liệt kê trong  Danh lục Đỏ IUCN và Sách Đỏ Việt nam được liệt kê là các loài được bảo vệ theo luật  pháp quốc gia.  Công ước về buôn bán các loài bị đe dọa (www.cites.org)  Theo Công ước này, Việt Nam cam kết quy định và giám sát việc buôn bán quốc tế  đối với các loài trong các phụ lục CITES, nghĩa là các loài được xác định là đang bị đe  dọa do buôn bán quốc tế. Do tất cả các loài này cần được liệt kê là các loài bị đe dọa ở  6 
  9. cấp độ toàn cầu, và phần lớn các loài là bị đe dọa ở cấp độ khu vực, việc đưa tất cả  các loài bị đe dọa trong Danh lục Đỏ IUCN và Sách Đỏ Việt Nam vào luật như các  loài được bảo vệ sẽ là một đóng góp đáng kể cho Việt Nam trong việc thực hiện các  cam kết với CITES.  IUCN (www.iucn.org)  Là một thành viên, Chính phủ Việt Nam cần có “một trong các mục tiêu trọng tâm là  thực hiện sứ mạng của IUCN” và, do vậy, có trách nhiệm chấp thuận Danh lục Đỏ  IUCN và lồng ghép các loài liệt kê trong Danh lục Đỏ IUCN vào hệ thống quy chế  bảo vệ loài.  Công ước Ramsar về các vùng Đất ngập nước (www.ramsar.org)  Theo Điều 2 của Công ước, Việt Nam cam kết “đề xuất các vùng đất ngập nước phù  hợp trong lãnh thổ của mình vào Danh sách các Vùng Đất ngập nước có Tầm Quan  trọng Quốc tế... đầu tiên là tất cả các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng đối với  các loài chim nước vào bất cứ mùa nào cần được đưa vào danh sách”. Và, theo Điều  3, “thúc đẩy việc bảo tồn các vùng đất ngập nước và các loài chim nước qua việc thiết  lập các khu bảo tồn đất ngập nước”. Tuân thủ cam kết này, Việt Nam cần đảm bảo  tối thiểu là tất cả các khu đáp ứng tiêu chí Ramsar sẽ được đề cử thành Khu Ramsar  và được đưa vào hệ thống các khu bảo vệ ở cấp quốc gia. Có 27 khu ở Việt Nam đã  được  BirdLife  International  xác  định  là  đáp  ứng  các  tiêu  chí  Ramsar  (BirdLife  International 2005) nhưng đến nay mới chỉ có hai khu được công nhận.  Công ước về các loài di cư (www.cms.int)  Ngoài ra, Việt Nam đang cân nhắc tham gia Công ước về  các Loài Di cư. Nếu là một  thành viên, Việt Nam sẽ cam kết “có các biện pháp bảo vệ ngay lập tức đối với các  loài di cư trong Phụ lục I” và “hoàn tất các thỏa thuận đảm bảo bảo tồn và quản lý  các loài di cư trong Phụ lục II”. Các bên tham gia cam kết cấm đánh bắt các loài trong  Phụ lục I, đồng thời thực hiện các biện pháp khác để bảo vệ sinh cảnh và giảm các  mối đe  dọa. Các loài  liên quan  đến Việt Nam được  liệt kê trong Phụ  chương 2 của  báo cáo này. Tuân thủ theo cam kết này, Việt Nam cần đảm bảo là ít nhất là toàn bộ  các loài được liệt kê trong Phụ lục I của Công ước về các loài di cư cũng được liệt kê  là các loài được bảo vệ theo luật pháp quốc gia.  4. Tổng quan về tình trạng các loài ngoại lai ở Việt Nam  4.1 Các loài ngoại lai ở Việt Nam  Loài  ngoại  lai  trong  tài  liệu  này  sẽ  chỉ  đề  cập  đến  các  loài  có  nguồn  gốc  bên  ngoài  Việt Nam đã xâm hại hoặc có tiềm năng xâm hại. Nhiều loài ngoại lai nhập nội rất  phổ  biến  trong  nông  nghiệp  và  làm  vườn,  nhưng  chưa  chắc  đã  tạo  ra  mối  đe  dọa  đáng  kể  nào  đối  với  môi  trường  của  Việt  Nam.  Các  loài  sinh  vật  ngoại  lai  xâm  hại  hoàn toàn không được để ý đến tại Việt Nam cho đến tận nửa đầu của thập kỷ 1990,  khi dịch Ốc bươu vàng Pomacea canaliculata bùng phát ở Đồng bằng sông Cửu Long  7 
  10. và  sau  đó  là  Đồng  bằng  Bắc  Bộ.  Sau  đó,  các  loài  ngoại  lai  xâm  hại  mới  từng  bước  được  nhìn  nhận  như  một  vấn  đề  thực  sự  đối  với  Việt  Nam.  Tuy  nhiên,  các  nghiên  cứu về sinh vật sinh vật ngoại lai xâm hại đến nay rất rải rác và chưa đầy đủ. Những  nghiên cứu đáng kể nhất có thể liệt kê là về Mai dương Mimosa pigra và một số thực  vật ngoại lai xâm hại khác ở Đồng bằng sông Cửu Long (Trần Triết et al. 2001, 2004,  Trần Triết 2005), về Ốc bươu vàng Pomacea canaliculata (Cục Bảo vệ Thực vật 2000),  và một số công trình về động vật thủy sinh nhập nội chủ yếu là về các loài cá (Phạm  Anh Tuấn 2002, Lê Khiết Bình 2005).  Về rà soát tình trạng của các loài sinh vật ngoại lai xâm hại ở Việt Nam có thể kể đến  hai nghiên cứu. Đầu tiên là một hoạt động nhỏ của IUCN (Nguyễn Công Minh 2005)  về các loài trên cạn. Nghiên cứu này đã sử dụng tiếp cận ma trận để phân tích 23 loài  ngoại lai gây ra các đe dọa đối với tính đa dạng thực vật (Phụ chương 3). Đa số trong  số  này  là  các  loài  thực  vật,  điều  đó  phản  ảnh  các  nghiên  cứu  tại  Việt  Nam  đã  tập  trung vào thực vật  nhiều hơn so với các nhóm sinh vật khác. Công trình thứ hai là  một đề tài cấp Nhà nước do Bộ Thủy sản chủ trì (Lê Khiết Bình 2005) đã đưa ra danh  lục 41 loài thủy sinh nhập nội ở Việt Nam (Phụ chương 4). Trong số này chỉ có chín  loài được xác định là hoàn toàn không có hại theo hệ thống phân loại khả năng xâm  hại (Phụ chương 5). Ở Việt Nam hiện chỉ có thông tin về một số loài sinh vật ngoại  lai  xâm  hại  gây  ra  hậu  quả nặng  nề  nhất,  hay  được  nghiên  cứu  kỹ  nhất.  Tất  cả  các  loài  này  đề  được  liệt  kê  trong  danh  sách  “100  loài  sinh  vật  ngoại  lai  xâm  hại  nguy  hiểm nhất trên thế giới” (ISSG 2001). Hiện tại, các loài sinh vật ngoại lai xâm hại chưa  có vẻ xuất hiện với số lượng lớn, bùng phát trên diện rộng và gây hại nghiêm trọng  như  chúng  đã  gây  ra  ở  nhiều  quốc  gia,  nhất  là  các  quốc  đảo.  Tuy  nhiên,  thực  tế  là  hầu  hết  các  loài  xâm  hại,  hoặc  có  tiềm  năng  xâm  hại  còn  chưa  được  xác  định  hoặc  nghiên cứu ở Việt Nam. Nếu không có những nghiên cứu đầy đủ và các biện pháp  kiểm soát chặt chẽ hơn, những ảnh hưởng nghiêm trọng có thể sẽ đến trong tương  lai.  Mai dương Mimosa pigra  Hầu hết các nghiên cứu đến nay đều thống nhất là Mai dương Mimosa pigra là sinh  vật ngoại lai gây hại lớn nhất ở Việt Nam (Dương Minh Tú và Phạm Đinh Việt Hồng  2003,  Nguyễn  Công  Minh  2005).  Loài  này  đã  được  nghiên  cứu  khá  kỹ  ở  Việt  Nam  (Storrs et al. 2001, Trần Triết et al. 2004, Trần Triết 2000, 2005). Chúng phân bố ở hầu  hết các sinh cảnh tự nhiên và sinh cảnh nông nghiệp trên nội địa, các vùng nước ngọt  và vùng ven biển, và chủ yếu là ở các khu vực gần nước ngọt. Đây là loài gốc Nhiệt  đới châu Mỹ và được du nhập vào châu Á vào cuối thế kỷ XIX. Đầu tiên chúng phát  tán chậm và lần đầu được ghi nhận ở Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam vào  năm 1979 (tại huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An; Trần Triết et al. 2004), nhưng đến nay  đã xuất hiện khắp trong cả nước. Loài này được xác định là cỏ dại nguy hiểm tại Thái  Lan vào đầu những năm 1980 (Napompeth 1983; in Trần Triết 2005) và mới trở nên  một loài gây hại nguy hiểm ở vùng hạ Mê Kông trong thời gian gần đây. Loài này rất  phổ  biến  ở  các  vùng  đất  sở  hữu  chung,  như  các  khu  bảo  vệ,  dọc  đường,  ven  kênh  8 
  11. rạch,  sông  suối,  nhưng  không  phát  triển  mạnh  được  ở  các  vùng  đất  do  tư  nhân  sở  hữu, có thể là do chủ sử dụng đất kiểm soát chặt (Trần Triết 2005). Loài này đã trở  thành một loài gây hại nghiêm trọng (xem Hộp 1) ở các vùng đất ngập nước như các  Vườn Quốc gia Tràm Chim, Cát Tiên và Yôk Đôn, ở hồ Biển Lạc, và các hồ chứa Trị  An và Đồng Mô‐Ngải Sơn v.v...  Hộp  1:  Nghiên  cứu  về  tác  động  của  Mimosa  pigra  lên  tính  đa  dạng  sinh  học  của  VQG  Tràm Chim, tỉnh Đồng Tháp  Tràm Chim, một Vườn Quốc gia Đất ngập nước có diện tích 7.600 ha ở phía đông  bắc của  Đồng bằng sông Cửu Long cách sông tiền, nhánh chính của sông Mê Kông khoảng 20 km, và  là  nơi  có  hàng  loạt  các  sinh  cảnh  đồng  cỏ  ngập  nước  theo  mùa,  đầm  lầy  có  rừng  Tràm  Melaleuca, các đầm  lầy  ngập  nước thường xuyên  và các  nền  phù sa  cổ. Các  vùng  đất ngập  nước của Tràm Chim  là nơi chứa đựng tính đa dạng sinh học nước ngọt rất cao  đặc trưng  cho Đồng bằng sông Cửu Long và rất nổi tiếng là nơi phân bố trong mùa khô của một quần  thể lớn của phân loài Sếu cổ trụi phương đông (Grus antigone sharpii). Tuy nhiên, Tràm Chim  hiện đang bị nhiễm Mai dương M. pigra rất nặng gây ra những mối đe dọa nghiêm trọng đối  với tính đa dạng sinh học đất ngập nước của vườn.   M. pigra lần đầu được ghi nhận ở Tràm Chim trong những năm 1984‐1985. Đến tháng Năm  năm 2000, diện tích bị xâm lấn đã lên đến 490 ha, và tăng đến 1.846 ha vào tháng Năm năm  2002 (Trần Triết et al. 2004). Tiếp theo đó, từ 2000 đến 2002, diện tích bị xâm lấn tăng gấp đôi  mỗi năm. Các vùng đồng cỏ ngập nước theo mùa của Tràm Chim bị xâm lấn nặng nề nhất  khi mai dương phát tán theo các bờ kênh rạch và sau đó xâm lấn vào đồng cỏ. M. pigra còn  được phát hiện cả dưới tán rừng Tràm trong đầm lầy, tuy nhiên ở mật độ thưa hơn. Các diện  tích  M. pigra dày đặc hiện chiếm lĩnh  hầu hết  các  vùng đồng cỏ ngập nông  ở  vùng  lõi  của  Tràm Chim. Diện tích đồng cỏ còn lại ở Tiểu khu A1 ‐ diện tích đất ngập nước rộng nhất ở  vùng lõi của Tràm Chim ‐ hiện đang bị đe dọa nặng nề bởi sự xâm lấn, nhất là từ khi các khi  một  dòng  kênh  mới  được  xây  dựng  xuyên  qua  vùng  lõi  với  mục  đích  phòng  chống  cháy  rừng vào năm 2003.  M. pigra ở Tràm Chim có sức chịu lũ rất mạnh; chúng thậm chí ra hoa kết quả cả khu hầu hết  thân cây đã ngập trong nước lũ. Quỹ hạt ở các bờ đất ở Tràm Chim có khoảng 300 hạt/km²  với khoảng 75% số hạt có khả năng mọc mầm (Trần Triết et al. 2004).  Mối đe dọa lớn nhất mà M. pigra gây ra cho các vùng đất ngập nước ở Vườn Quốc gia Tràm  Chim là do khả năng xâm lấn nhanh và chiếm lĩnh thay thế dần các thảm thực vật tự nhiên.  Tiếp đó, việc mất thảm thực vật tự nhiên gây ra các tác động tiêu cực đến các quần thể động  vật tại chỗ, đáng chú ý nhất là đối với khu hệ chim. Điều này càng trở nên đặc biệt nghiêm  trọng do các vùng đồng cỏ ở Tràm Chim là nơi sống của những loài chim bị đe dọa toàn cầu  trong đó có Sếu cổ trụ và Ô tác Houbaropsis bengalensis. Nhiều vùng trảng cỏ năng Eleocharis ở  Tràm Chim là vùng kiếm ăn chính của Sếu cổ trụi nay đã bị xâm lấn bởi M. pigra với mật độ  dày đặc và không còn thấy Sếu nữa. Đó cũng là một trong những nguyên nhân chính gây ra  hậu  quả  là  số  lượng  Sếu  ở  Tràm  Chim  giảm  mạnh  từ  600‐800  cá  thể  vào  giữa  những  năm  1990 đến ít hơn 100 cá thể vào năm 2003 (Trần Triết và Nguyễn Phúc Bảo Hòa 2002, 2003).  Nguồn: Trần Triết (2005)  9 
  12. Ốc bươu vàng Pomacea canaliculata  Ốc  bươu  vàng  P.  canaliculata  cũng  được  nhiều  nghiên  cứu  xác  định  là  một  trong  những  loài  gây  hại  mạnh  nhất  ở  Việt  Nam  (Dương  Minh  Tú  và  Phạm  Đinh  Việt  Hồng 2003, Nguyễn Công Minh 2005). Loài này đã được nhập vào Việt Nam từ trước  năm 1975 với mục đích làm cảnh. Đến năm 1989, hai trang trại nuôi Ốc bươu vàng  được thành lập (tại Củ  Chi, Tp Hồ Chí Minh) để nhân nuôi và xuất khẩu Ốc bươu  vàng và đến năm 1990, việc nuôi thử nghiệm Ốc bươu vàng được bắt đầu ở miền bắc  Việt Nam. Do có vòng đời ngắn, dưới các điều kiện phù hợp, Ốc bươu vàng có thể  phát tán nhanh chóng dọc theo các thủy vực và hiện đã được ghi nhận ở hầu hết các  vùng tại Việt Nam (Cục Bảo vệ Thực vật 2000). Do có thể ăn được hầu hết các loài  thực vật, Ốc bươu vàng gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với cả tính đa dạng sinh  học cũng như đối với sản xuất nông nghiệp.  Lục bình (bèo nhật bản, bèo tây) Eichhornia crassipes  E.  crassipes  được  nhập  vào  Việt  Nam  từ  Nhật  Bản  vào  năm  1902  với  mục  đích  làm  cảnh.  Trong  điều  kiện  thuận  lợi  loài  này  có  thể  phát  triển  gấp  đôi  diện  tích  trong  khoảng mười ngày và hiện đã phát triển phân bố rộng khắp các thủy vực nước ngọt  ở Việt Nam. Lục bình che phủ mặt nước, thối mục làm giảm ô‐xy hòa tan trong nước,  dẫn đến làm chết cá và các loài thủy sinh khác. Cũng như các loài sinh vật ngoại lai  xâm hại khác, nó còn gây ra những hậu quả xấu đối với nền kinh tế. Chúng không  chỉ cản trở hoạt động giao thông đường thủy mà còn làm chậm dòng chảy làm giảm  khả năng phát điện, sức tưới tiêu và làm tăng kinh phí bảo trì các hồ chứa.  Cây bông ổi (cây ngũ sắc, cây cứt lợn) Lantana camara  Bông ổi L. camara được đưa vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX với mục đích làm cảnh  và hiện đang được trồng khắp nơi trong cả nước. IUCN (2003) đã cảnh báo đây cũng  là một loài có khả năng xâm lấn mạnh.  Chuột hải ly Myocastor coypus  Chuột  hải  ly  M. coypus  được  nhập  vào  Việt  Nam  trong  những  năm  cuối  thế  kỷ  XX  với mục đích làm loài vật nuôi tạo thu nhập thay thế do nó cung cấp thịt để ăn, da và  lông để xuất khẩu và ruột để sản xuất chỉ tự tiêu. Rất may là là do được các nhà khoa  học cảnh báo sớm, Cục Khuyến nông Khuyến Lâm và Cục Thú y đã hành động kịp  thời để ngăn chặn việc nhập loài này vào Việt Nam và đã thành lập một tổ công tác  để giải quyết các vấn đề liên quan đến Chuột hải ly. Tính đến cuối năm 2002, khoảng  4.000 con Chuột hải ly đã được tịch thu và tiêu hủy.  4.2 Các hoạt động để giải quyết vấn đề sinh vật ngoại lai   Tuy một số loài sinh vật ngoại lai xâm hại đã được xác định tại Việt Nam và gây ra  một số tác động tiêu cực đối với đa dạng sinh học và những tổn thất khá nặng nề về  kinh tế, mới có rất ít các hành động nhằm kiểm soát chúng. Mới chỉ có một vài thử  nghiệm được thực hiện để tìm phương pháp kiểm soát phù hợp đối với Mai dương  M. pigra (Nguyễn Hồng Sơn et al. 2004, Nguyễn Thị Lan Thi et al. 2004). Nhưng trong  10 
  13. mọi trường hợp, việc ngăn chặn sự xuất hiện của các loài sinh vật ngoại lai xâm hại  luôn  rẻ  và  hiệu  quả  hơn  nhiều  so  với  khi  chúng  đã  được  du  nhập  và  phát  triển.  Trong trường hợp không thể ngăn chặn, các biện pháp can thiệp sớm sẽ phải là bước  tiếp theo (vdụ, đối với M. pigra; Trần Triết et al. 2001). Đối với những vùng đã bị thực  vật ngoại lai xâm hại xâm lấn mạnh, khuyến khích việc sử dụng các loài này có thể là  một  lựa  chọn  phù  hợp.  Ở  Đồng  bằng  sông  Cửu  Long,  thân  của  Mai  dương  được  dùng làm củi, và các thử nghiệm cho thấy Mai dương non có thể làm thức ăn cho dê  hoặc làm giá thể để trồng nấm với tốc độ sinh trưởng tương đối tốt. Tương tự, trong  vài năm gần đây, Lục bình Eichhornia crassipes đã bắt đầu được sử dụng với một số  công dụng như làm phân xanh, nấu cồn và làm vật liệu đan thủ công mỹ nghệ. Với  các loài không có công dụng kinh tế gì, đôi khi Nhà nước còn phải huy động mọi lực  lượng quần chúng để kiểm soát và diệt trừ chúng. Một chương trình đã được thực  hiện vào những năm 1990 đã thu gom được hàng trăm tấn Ốc bươu vàng và trứng  của chúng, sau đó cung cấp các đào tạo về quản lý tổng hợp để kiểm soát loài này.  Trên thế giới, hiện đã có khá nhiều nghiên cứu chuyên đề về một số loài đang, hoặc  có nguy cơ, trở thành loài xâm hại ở Việt Nam, và các biện pháp quản lý tổng hợp  thường bao gồm sử dụng hóa chất, kiểm soát sinh học bằng các loài thiên địch (tuy  nhiên, đáng tiếc là trong một số trường hợp ở nhiều nơi trên thế giới, áp dụng không  tốt đã trực tiếp đưa thêm các loài xâm hại vào lãnh thổ) và, đối với Ốc bươu vàng, sử  dụng các loài thực vật thu hút để tập trung cá thể lại tiêu hủy.   Hầu hết các sáng kiến địa phương đề cập ở trên đều có những tác dụng nhất định,  tuy nhiên các diện tích bị xâm hại thường không cô lập, và do đó, các chương trình  quản lý thành công sẽ đòi hỏi một tiếp cận ở cấp độ quốc gia và tất nhiên là cả cấp độ  khu vực. Các ưu tiên cần phải đặt cho các vùng có tầm quan trọng về bảo tồn như  các  khu  bảo  tồn  và  các  Vườn  Quốc  gia  và  các  vùng  được  xác  định  là  có  giá  trị  đa  dạng sinh học cao khác như các Vùng Chim Quan trọng (VCQT; Tordoff et al. 2002)  hay các Khu Đa dạng Sinh học Trọng yếu (KĐDSH; Eken et al. 2004)2.  4.3 Các cam kết quốc tế về sinh vật ngoại lai  Việt Nam đã tham gia ký kết hai thỏa thuận quốc tế quan trọng có liên quan đến vấn  đề sinh vật ngoại lai:  Công ước Đa dạng Sinh học (www.biodiv.org)  Theo  Điều  8,  Việt Nam  cam kết  “ngăn  chặn  việc  du  nhập,  kiểm  soát hoặc  tiêu  hủy  các  loài  sinh  vật  ngoại  lai  đe  dọa  đến  các  hệ  sinh  thái,  các  sinh  cảnh  và  các  loài”.  Thêm vào đó, trong Nghị quyết VI/23 (Các nguyên tắc định hướng cho việc thực hiện  Điều 8, được thông qua vào tháng Tư năm 2002 tại Đại hội các Bên Tham gia Công                                                    2 VCQT và KĐDSH là các khu vực đạt chuẩn quốc tế là có giá trị đa dạng sinh học cao được xác định  dựa trên các tiêu chí định lượng dựa trên sự có mặt của các loài mà do đó việc bảo tồn ở cấp độ khu là  cần thiết: (1) các loài bị đe dọa toàn cầu; (2) các loài phân bố hẹp; (3) các loài tập trung với số lượng  lớn; và (4) tập hợp của các loài giới hạn phân bố trong các đơn vị địa sinh học.  11 
  14. ước Đa dạng Sinh học), Việt Nam cam kết có các biện pháp ngăn chặn sự lây lan của  các loài sinh vật ngoại lai xâm hại với các trọng tâm là kiểm soát biên giới, các biện  pháp kiểm dịch, trao đổi thông tin và xây dựng năng lực (các biện pháp ít tốn kém và  hiệu quả nhất).  Đặc  biệt,  các  Nguyên  tắc  được  nêu  trong  Nghị  quyết  VI/23  ‐  được  bổ  sung  bởi  các  kiến nghị của Nghị quyết VII/13 và Nghị quyết VIII/27 ‐ đề xuất là Việt Nam, cũng  như các Bên tham gia CBD khác:  • rà soát... xác định các thiếu hụt, mâu thuẫn trong các chính sách, quy định và  thể  chế,  và  nếu  có  thể,  điều  chỉnh  để  xây  dựng  chính  sách  quy  định  và  thể  chế”.  (tài liệu này phần nào thỏa mãn yêu cầu trên nếu nó được chấp nhận và các  khuyến nghị nó đưa ra có thể được cho vào Luật Đa dạng Sinh học)   • khuyến khích và triển khai, nếu có thể, các nghiên cứu và đánh giá ở cấp quốc  gia về các loài xâm hại, sự mong manh của các hệ sinh thái trước sức xâm lấn  của  các  loài  này,  “...phát  triển  các  biện  pháp  thân  thiện  với  môi  trường  để  kiểm  soát  và  loại  bỏ  các  loài  sinh  vật  ngoại  lai  xâm  hại,  bao  gồm  cả  các  biệt  pháp kiểm dịch và kiểm soát các loài bám vỏ tàu”, và “chi phí và lợi ích của  việc sử dụng các tác nhân sinh học nhằm kiểm soát và loại bỏ các loài sinh vật  ngoại lai xâm hại”.  • “...có cơ hội để đưa ra các biện pháp quản lý kịp thời (cấp phép) trước khi các  loài sinh vật ngoại lai xâm hại được du nhập có chủ định vào lãnh thổ”.  (kiến nghị này rất quan trọng về mặt sức ép từ một số Bên tham gia để đám  bảo  những  quan  tâm  về  thương  mại  được  ưu  tiên  hơn  những  quan  tâm  về  sinh vật ngoại lai xâm hại)  • “...thực hiện việc kiểm soát biên giới và các biện pháp kiểm dịch đối với  các  loài ngoai lại đã xâm lấn hoặc có nguy cơ xâm lấn để đảm bảo: a) Việc nhập  nội chủ động các loài ngoại lai phải được kiểm soát qua hệ thống cấp phép...;  (b) Việc nhập nội các loài bị đe dọa một cách vô tình do thiếu kiểm soát phải  được giảm thiểu”.   Các nguyên tắc hướng dẫn chung cũng tập trung vào các nguyên tắc phòng ngừa ‐  “khi  có  các  nguy  cơ  phá  hoại  nghiêm  trọng, việc  thiếu  dẫn  liệu  đủ  tin  cậy  về  khoa  học  sẽ  không  được  coi  là  lý  do  cho  việc  ngừng  các  biện  pháp  ít  tốn  kém  để  ngăn  ngừa sự xuống cấp của môi trường” ‐ và trên thực tế là “các biện pháp phòng ngừa  nói chung ít tốn kém và phù hợp về mặt môi trường hơn nhiều so với các biện pháp  được tiến hành sau khi các loài ngoại lai xâm hại đã du nhập và có hình thành quần  thể”.  Công ước Ramsar về các vùng đất ngập nước (www.ramsar.org)  Theo Nghị quyết VII.14, Việt Nam được yêu cầu tiến hành hàng loạt các hoạt động  liên quan đến các loài sinh vật ngoại lai xâm hại. Một số điểm cụ thể như sau:  12 
  15. • “kiểm kê các loài ngoại lai ở các vùng đất ngập nước và đánh giá chúng để xác  định loại các xác lập ưu tiên đối với các loài đe dọa các vùng đất ngập nước và  sinh vật đất ngập nước (“đánh giá rủi ro”), và các loài trong số đó có thể kiểm  soát hoặc loại trừ”.  • “xây dựng các chương trình nhằm giải quyết các loài  ưu tiên với quan điểm  kiểm soát hoặc loại trừ...”  • “xác định tác động về môi trường, kinh tế và xã hội của việc di chuyển và lưu  thông các loài ngoại lai”  • “...đưa ra khung pháp chế và các chương trình để ngăn chặn việc du nhập các  loài  ngoại  lai  mới  nguy  hiểm  đối  với  môi  trường  và  việc  di  chuyển  và  lưu  thông các loài này”   • “xây dựng năng lực để xác định các loài ngoại lai mới nguy hiểm đối với môi  trường”  và  “nâng  cao  nhận  thức  để  xác  định  và  kiểm  soát  các  loài  ngoại  lai  mới nguy hiểm đối với môi trường”  5. Tổng quan các kinh nghiệm quốc tế về các điều luật quản lý  và bảo tồn các loài bị đe dọa   Ở rất nhiều quốc gia, các văn bản pháp quy về quản lý và bảo tồn các loài bị đe dọa  hầu như chỉ giới hạn trong việc cấm hay hạn chế sử dụng các loài cụ thể được liệt kê  trong “danh lục bảo vệ”. Như vậy, hệ thống pháp lý này hầu như chỉ đáp ứng việc  ngăn chặn khai thác hay buôn bán các loài động thực vật cụ thể, và thường là chỉ đối  với một số rất ít các loài được xác định. Tuy nhiên, điều rõ ràng là việc bảo vệ một  loài đòi hỏi việc duy trì hoặc phục hồi toàn bộ các điều kiện cần cho sự tồn tại của  loài đó, đặc biệt là sinh cảnh của loài.  Trong  một  số  trường  hợp,  việc  khai  thác  hoặc  buôn  bán  một  loài  cụ  thể  lại  không  hoặc rất ít quan trọng đối với việc bảo tồn nó. Do đó, tính hiệu quả của việc liệt kê  một danh sách dài các loài dự định sẽ cấm hoàn toàn việc khai thác hoặc buôn bán  còn phải cân nhắc. Tuy nhiên, mọi mối đe dọa ví dụ như khai thác, dù là nhỏ, đối với  các loài bị đe dọa vốn đã phải chịu sức ép nặng nề cũng cần được giải quyết. Nhất là,  ở  một  thời  điểm  cụ  thể,  việc  khai  thác  hoặc  buôn  bán  một  loài  tuy  chưa  nghiêm  trọng,  các  đạo  luật  cấm  như  vậy  có  tác  dụng  như  các  biện  pháp  cảnh  báo  sớm  đề  phòng trường hợp nhu cầu đối với những loài cần quan tâm tăng đột biến. Tất nhiên,  các biện pháp pháp lý nhằm giải quyết các mối đe dọa đối với loài sẽ đạt kết quả tốt  nhất với những phân tích cụ thể, nhưng cho đến lúc đủ năng lực để phân tích, ra quy  định, và thực thi hệ thống pháp lý phức tạp như vậy, thì cấm triệt để việc chiếm hữu  và buôn bán các loài bị đe dọa có lẽ vẫn là biện pháp pháp lý tốt nhất. Về lâu dài, các  kế hoạch phục hồi hoặc quản lý loài cần được xây dựng và sử dụng để xác định các  mối đe dọa cụ thể và các sinh cảnh quan trọng đối với các loài bị đe dọa (de Klemm  and Shine 1993). Những nguyên tắc này cũng đã được thừa nhận, ví dụ, trong yêu  cầu của một số nhà tài trợ cho Việt Nam như Ngân hàng Thế giới, theo đó “không hỗ  trợ  các  dự  án  mà  theo  quan  điểm  của  Ngân  hàng  Thế  giới,  có  những  hoạt  động  13 
  16. chuyển đổi hoặc làm xuống cấp những diện tích đáng kể các sinh cảnh tự nhiên quan  trọng” (World Bank 2004).  Do mất và xuống cấp sinh cảnh tự nhiên luôn là mối đe dọa đến loài, bảo tồn sinh  cảnh  cho  các  loài bị  đe  dọa  ‐ cho  dù  chúng có  là  loài  bị  cấm  khai  thác  hay không  ‐  đang trở thành một biện pháp lý phổ biến trên toàn cầu thông qua hệ thống các khu  bảo  vệ  tương  tự  như  hệ  thống  rừng  đặc dụng của  Việt  Nam.  Tuy  nhiên,  cách thức  bảo vệ sinh cảnh này không chỉ tốn kém mà còn khó hoặc không khả thi do xung đột  về  nhu  cầu  sử dụng đất.  Trong các  trường  hợp này,  kiểm  soát  sử  dụng  đất hay  áp  đặt một một yêu cầu quản lý nào đó có thể là một giải pháp. Tuy nhiên, kinh nghiệm  cho thấy rằng những biện pháp hạn chế như vậy thường không được chấp nhận một  cách tự nguyện do mục tiêu vì một loài bị đe dọa chẳng liên quan nhiều đến người  quản lý đất, nhất là trên đất tư. Do đó, việc hạn chế này cần phải đi cùng với những  bồi thường thỏa đáng cho các bên liên quan (de Klemm and Shine 1993).   Một cách tiếp cận  tốt  hơn là xây dựng các  thỏa thuận quản lý mà trong đó, nếu có  thể, ràng buộc những người thừa kế đất. Các thỏa thuận như vậy có thể được bổ trợ  bởi  khả  năng  cưỡng  chế  hay  thu  hồi  các  vùng  đất  có  vấn  đề  là  phương  thức  cuối  cùng nếu người quản lý đất từ chối ký thỏa thuận hay không tuân thủ các cam kết  bảo tồn đưa ra trong thỏa thuận. Tuy nhiên, các điều kiện trong thỏa thuận cũng cần  xác đáng để đảm bảo người quản lý đất coi sự có mặt của một loài bị đe dọa như một  tài sản chứ không phải là một gánh nặng pháp lý (de Klemm and Shine 1993). Sự thất  bại trong việc đáp ứng yêu cầu này được coi là tư tưởng chủ Đạo luật về Các loài bị  đe dọa của Mỹ. Hướng dẫn vê Các Sinh cảnh Cộng đồng thậm chí có thể còn thành  công hơn thể hiện trong việc liệt kê các loài mà hệ thông các Vùng Bảo tồn Đặc biệt  cần phải thiết lập để bảo vệ các sinh cảnh của chúng (European Community 1992).   6. Tổng quan các kinh nghiệm quốc tế về quản lý bảo tồn đối  với các sinh vật ngoại lai  Các nghiên cứu chuyên đề được thực hiện gần đây trong khuôn khổ Chương trình  Loài Xâm hại Toàn cầu (www.gisp.org), cùng với kết quả rà soát tài liệu và các văn  bản pháp lý đã ghi nhận là trên bình diện  toàn cầu,  mức độ xử lý các loài sinh vật  ngoại lai xâm hại ở các quốc gia là rất khác nhau.  Ở hầu hết các quốc gia, các điều luật liên quan đến các loài ngoại lai xuất hiện rải rác  trong các văn bản pháp quy về bảo tồn thiên nhiên, nguồn nước, nông lâm nghiệp,  đánh bắt thủy sản, kiểm dịch, và đôi khi các văn bản ra đời trong thời gian gần đây  còn đề cập đến các sinh vật biến đổi gen. Một số các điều khoản liên quan còn có thể  thấy trong các quy chế về săn bắn động vật hoang dã và đánh bắt thủy sản trong đó  đề cập đến việc du nhập hoặc phóng thích các loài với mục đích tái tạo quần thể. Lý  lẽ cho việc thực hiện các tiếp cận đơn ngành này thường có tính lịch sử hay có mục  14 
  17. đích hành chính hơn là cân nhắc đến yếu tố khoa học hay kỹ thuật (Shine et al. 2000).  Do vậy, nhiều vấn đề nảy sinh và có thể sơ bộ phân vào các nhóm như sau  Khung chính sách và thể chế chưa hoàn thiện  • Thiếu một tiếp cận chiến lược, các vấn đề liên quan đến loài ngoại lai thường  ít hoặc không được nhắc đến trong các văn bản pháp quy.  • Thiếu sự điều phối và trao đổi giữa các cơ quan chịu trách nhiệm về các vấn  đề kiểm dịch thực vật, buôn bán sinh vật, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và  các ngành khác.  • Các điều luật hiện có rải rác và cách thức xử lý không nhất quán mà tùy thuộc  cách thức bố trí thể chế, các định nghĩa, tiêu chí, tiêu chuẩn và thủ tục của các  ngành khác nhau  Phạm vi điều chỉnh không đầy đủ và các thuật ngữ sử dụng không rõ ràng  • Phân  loại  học:  các  khung  chính  sách  thường  không  tuân  thủ  theo  những  hệ  thống  phân  loại  chuẩn,  hoặc  nêu  rõ  chúng  được  áp  dụng  đến  mức  loài  hay  dưới loài.  • Phạm vi điều chỉnh: thường bỏ qua các loài cá và vi sinh vật ngoại lai được du  nhập vào các kiểu hệ sinh thái cụ thể nào đó.  • Mục tiêu hẹp: một số quốc gia không có cơ sở pháp lý để ngăn chặn việc du  nhập các loài ngoại lai ngoại trừ trường hợp chúng gây hại đến sản xuất nông  nghiệp và thủy sản.  • Định nghĩa về các điều khoản quan trọng không có hoặc không thống nhất.  • Việc phân tích rủi ro và các thủ tục cấp phép cồng kềnh, tốn thời gian và chi  phí cao.  Các vấn đề về thỏa thuận, thực thi pháp luật và quản lý  • Thiếu yêu cầu hỗ trợ về pháp lý để giám sát sinh vật ngoại lai.  • Các tiếp cận bằng pháp chế không đủ mạnh, hầu như không có các biện pháp  khuyến khích bằng kinh tế để ngăn chặn việc du nhập không mong muốn các  loài ngoại lai hay khuyến khích việc kiểm soát và loại bỏ chúng.  Mô hình thực hiện của các nước  Một số Chiến lược và Kế hoạch Hành động của các quốc gia đã có những kiểm kê về  các loài sinh vật ngoại lai. Ví dụ ở Ba Lan, các nguồn vốn cụ thể đã được phân bổ cho  việc giám sát sinh vật ngoại lai và nhiệm vụ này được giao cho các viện nghiên cứu  và  các  vườn  thực  vật  (Krzywkowska  1999;  in  Shine  et  al.  2000).  Tương  tự,  dự  thảo  chiến lược đa dạng sinh học của Argentina cũng đề xuất việc lập cơ sở dữ liệu về các  loài sinh vật bản địa và ngoại lai, bao gồm cả thông tin cũ và các số liệu hiện có về  các  tác  động  gây  hại  (Di  Paola  and  Kravetz  1999;  in  Shine  et  al.  2000).  Ở  Australia,  Đạo luật Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Bảo vệ Môi trường 1999 đã tiến một bước xa  hơn khi chính thức đưa ra các yêu cầu về xác định và giám sát đa dạng sinh học, liên  kết với Phụ chương I của Công ước Đa dạng Sinh học. Các yêu cầu về quy hoạch và  quản lý cụ thể áp dụng đối với các hoạt động được xác định là đe dọa sự tồn tại, sự  15 
  18. phong phú hay quá trình tiến hóa của một loài bản địa hay một quần xã sinh thái. Rõ  ràng là những loài sinh vật ngoại lai xâm hại sẽ nằm trong loại đối tượng này.  7. Các văn bản pháp quy ở Việt Nam liên quan đến các loài bị đe  dọa  7.1 Các văn bản hiện có  Văn bản pháp lý đầu tiên về các loài bị đe dọa ở Việt Nam có thể kể đến là Chỉ thị  134‐TTg  ngày  21/06/1960  của  Thủ  tướng  chính  phủ  về  cấm  săn  bắn  Voi.  Sau  đó  không lâu là Nghị định 39‐CP ngày 05/04/1963 ban hành điều lệ tạm thời về săn, bắt  chim, thú rừng. Nghị định này không chỉ đưa ra một danh sách các loài cần bảo vệ  mà  còn  quy  định  về  phương  pháp  và  mùa  săn  bắn.  Danh  lục  các  loài  “quý  hiếm”  được  bảo  vệ  dần  được  hoàn  thiện  thêm  nhất  là  trong  thời  gian  gần  đây  qua  Nghị  định  18‐HDBT  năm  1992,  được  điều  chỉnh  sau  đó  mười  năm  bằng  Nghị  định  48/2002/NĐ‐CP. Mới đây nhất, danh lục các loài cần bảo vệ đã được điều chỉnh theo  Nghị  định  32/2006/NĐ‐CP  ngày  30/03/2006.  Tất  cả  các  Nghị  định  nói  trên  đều  chia  các  loài  vào  hai  phân  hạng  chính,  theo  đó  nghiêm  cấm  khai  thác,  sử  dụng  các  loài  trong  Phụ  lục  I  và  hạn  chế  khai  thác,  sử  dụng  các  loài  trong  Phụ  lục  II.  Danh  sách  đầy đủ được đưa vào Phụ chương 1 của báo cáo này.  Yêu cầu về bảo tồn sinh cảnh cho các loài bị đe dọa cũng được đề cập trong các Nghị  định:  Nghị định 32/2006/NĐ‐CP quy định:  Chương I. Những quy định chung  Điều  3:  Chính  sách  của  Nhà  nước  về  quản  lý  thực  vật  rừng,  động  vật  rừng  nguy cấp, quý, hiếm.  1.  “Nhà  nước  đầu  tư  để  quản  lý,  bảo  vệ  thực  vật  rừng,  động  vật  rừng  nguy  cấp, quý, hiếm tại các khu rừng đặc dụng, các hoạt động cứu hộ đối với thực  vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm bị xử lý tịch thu.”  Chương II. Quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm  Điều 5: Bảo vệ thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm.  1.  “Những  khu  rừng  có  thực  vật  rừng,  động  vật  rừng  nguy  cấp,  quý,  hiếm  phân  bố  tập  trung  thì  được  đưa  vào  xem  xét  thành  lập  khu  rừng  đặc  dụng  theo quy định của pháp luật”.  2. “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất, xây dựng công  trình, điều tra, thăm dò, nghiên cứu, tham quan, du lịch và các hoạt động khác  trong  khu  rừng  có  thực  vật  rừng,  động  vật  rừng  nguy  cấp,  quý,  hiếm  phải  thực hiện các quy định tại Nghị định này và pháp luật về bảo vệ và phát triển  rừng, pháp luật về bảo vệ môi trường”.  Điều 12: Quyền, nghĩa vụ của chủ rừng:  16 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1