THỬ BÀN V"LÝ" V
À "KHÍ"
TRONG NGHỆ THUẬT
NGUYỄN SÁNG
Những vấn đề của mỹ thuật Việt Nam hiện
nay, có vẻ có nhiều hơn bao giờ hết. Nhưng
trên thực tế, những vấn đề “thực”, “bên
trong”,
những vấn đề chìa khóa, thayđư
ợc xác định,
nghiên cứu, giải quyết, ngõ hu tạo sức thúc
đẩy - thường lại bị các vấn đề mang tính “thời
trang”, “bên ngoài” che lấp. Và trước mắt
chúng ta, vn là c một “trận đồ bát quái
những vấn đề.
Chúng ta hay nhắc đến “toàn c
ầu hóa”?! Trong
lịch sử nghệ thuật, theo Paul Johnson (sách
“Art: a new history”, Harper Collins xuất bản
2003) - “toàn cầu hóa thực sự đã bắt đầu từ thế
k 15”, cùng vi các nhà du lịch lữ hành thế
giới đầu tiên người Bồ Đào Nha.
Chúng ta hay nhắc đến “hiện đại”?! Khái niệm “hiện đại”, mà về căn
NGUYỄN SÁNG -
chân dung tự họa- sơn
dầu, 1962, 56x45cm
(Bảo tàng Đức Minh)
bản, giống như cách hiểu ngày nay, đã có thậm chí đến ba thế kỷ.
Baudelaire (1821-1867), mt nhà thơ lớn của nước Pháp, người có
nhiều suy tư về “tính hiện đại”, thông qua các tác phẩm của ông - “đã
nhìn thấy trong cuộc sống hiện đại, trong kiểu thức và nghệ thuật của
nó - sự hiện hữu của cái vĩnh hằng trong thoáng chốc”.
Gần đây, chúng ta lại hay nhắc đến chữ “đương đại”, với vô số nội
hàm?! Nói theo cách của Wislawa Szymborska - nhà thơ Ba Lan, giải
Nobel văn học 1996, thì:
Khi tôi phát âm từ “đương đại” (nguyên văn là từ “tương lai”)
âm tiết đầu tiên đã bắt đầu đi vào quá khứ.
Marcel Duchamp đã biu đạt, vào năm 1946: “Trừu tượng hay mô
phỏng tự nhiên chỉ là một cách nói quá đỗi thời thượng của thời nay.
Vấn đề chẳng phải ở chỗ: một bức tranh ‘trừu tượng’, trong vòng 50
năm, có thể không còn hoàn toàn là ‘trừu tượng’ nữa”.
Mọi khái niệm sinh ra từ chủ nghĩa duy lý, nhất là về mặt lịch sử, đều
có vẻ mong manh như thường thấy, và không có khái niệm nào là bất
biến.
Sự thực là, ở nước ta hiện nay, có rất nhiều nghệ sĩ trẻ đang cố gắng để
thích nghi với xu hướng lấy phương Tây làm trung tâm -hầu như
không có bất cứ sự suy xét, phê phán nào.
Theo Nguyễn Tư Nghiêm: “Nghệ thuật phương Tây, về thực chất, chỉ
nở rộ trong một số thời kỳ”.
Alain Touraine, trong cun “Phê phán tính hiện đại” (Critique de la
modernité), đã viết: “Quan niệm mạnh nhất của phương Tây về tính
hiện đại (modernité), một quan niệm đã từng có những hậu quả sâu sắc
nhất, chyếu khẳng định rằng hợp lý hóa đòi hỏi phải phá hủy những
liên hxã hội, những tình cảm, những tập quán và nhng tín ngưỡng
gọi là truyền thống, và tác nhân của hiện đại hóa không phải là một
hạng người hay một giai cấp xã hi đặc biệt, mà chính là bản thân trí
và tính tất yếu lịch sử chuẩn bị cho nó chiến thắng. Như vậy là hợp lý
hóa, phần hợp thành cần thiết của tính hiện đại, cũng trở thành một cơ
chế tự phát và cần thiết của hiện đại hóa. Quan niệm phương Tây về
tính hin đại bị lẫn lộn với một quan niệm thuần túy nội sinh về hiện
đại hóa”. Và cái này được gọi là “Tabula rasa” (phá sạch).
Trong một cuộc trao đổi về chữ “hiện đại”, đặc biệt về nghệ thuật trừu
tượng, một họa sĩ Việt Nam đã trả lời: “Nghệ thuật ấy, theo tôi,
nguồn gốc sâu xa từ những quan niệm triết học của Descartes, của
Kant, của Bergson, của Niezsche, của Freud, của Jean Paul Sartre, v.v.
Có lẽ vì người họa sĩ lúc vẽ đã nhằm diễn tả phần nội tâm, phần bên
trong, theo thuyết chủ bản thể của Descartes, hoặc của le moi (cái tôi),
le surmoi (cái siêu tôi) của Freud v.v., nên tác phẩm mang tính triết lý
xa cách vi người xem. Những nét tư duy ấy phát sinh từ thế kỷ
16,17... tức là từ những khung cảnh xã hi có nhiều điều cần phải xem
xét lại ở ngày hôm nay”.
Sinh thi, Nguyễn Sáng hay nói vui: người Việt Nam không có triết
học. Nhưng thực ra, ông rất am hiểu về “đạo lý” và về cái bây giờ gọi
là “văn hóa chính trị”, biết phân biệt rõ ràng thế nào là “con đường
sống” và thế nào là “con đường chết”. Quá trình phát triển nghệ thuật
của cá nhân ông hoàn toàn tương ứng với nội dung của “tam đoạn
thức” trong triết học (có chính đề, phản đề và hợp đề).
Là một mẫu nghệ sĩ điển hình cho những mục tiêu nghệ thuật có tính
cam kết cao nhất, “mỗi một bức tranh là một lít máu - ông nói”, thư
ng
trực trong con người Nguyễn Sáng là cả một cuộc đấu tranh giữa ý đồ
cách tân và sự cảm nhận sâu sắc về đề tài, hay nói cách khác, gi
a quan
niệm về nghệ thuật và thái độ trước cuộc sống.
“Tôi là người kháng chiến nhất - ông nói - bởi vì tôi bỏ tất, bỏ lối vẽ bô
-da”. Và ông cũng từng viết: “Đất nước ta thật tươi đẹp, nhân dân ta
thật đáng yêu, tôi thấy cần phải vẽ nhiều, họa nhiều để ca ngợi đất
nước, ca ngợi nhân dân ta đấu tranh giữ gìn hòa bình và thực hiện
thng nhất”.
Đi tìm cái mới, cái hiện đại, cái “tht”, nhưng th
ực ra, bao giờ Nguyễn
Sáng cũng tìm thấy ở trong chính bản thân mình, tâm hồn mình, cảm
xúc và tình yêu của mình, s trải nghiệm của mình - nhiều hơn là ở
“bên ngoài”. Ông dứt khoát không thích tranh Míro, bởi tính thiên v
trang trí, cũng vì lẽ đó. Đối với ông, Picasso gần như là một thần
tượng: người họa sĩ phải tìm tòi tsự quan sát thiên nhiên và cuộc
sống.
Điều đáng lạ: Nguyễn Sáng, thuở đi học Trường Mỹ thuật, từng bị
“deux beaux zeros” (hai điểm không to tướng), tức khí tới mức buộc
ông phải xé sổ điểm trước mặt vị giáo người Pháp Inguimberty.
“Anh ta có thể đi được bằng hai chân - về Nguyễn Sáng, ông
Inguimberty nói - nhưng anh ta lại thích đi bằng hai tay”. Chính
Nguyễn Sáng cũng đã tng phải thừa nhận: trong con ngư
i ông đôi khi
vẫn có chất “sến” Gia Định.
Về sau, Nguyễn Sáng cũng không bao giờ nhận được giải thưởng cao
tại các k Triển lãm M thuật Toàn quc, kể cả với bức tranh nổi tiếng
Giặc đốt làng tôi, tại kỳ Triển lãm M thuật Toàn quốc 1954.
Tác phẩm Kết nạp Đảng trên chiến trường Điện Biên Phủ (1963), bản
tuyên ngôn nghệ thuật của ông, thể hiện niềm kỳ vọng của ông trước
Tổ quốc, trước Đảng, trước nhân dân và dân tộc - cũng đã tng bị từ
chối. Trường hợp của ông, có lẽ giống như Courbet đã tng nói: “Nếu
tư tưởng của tôi có thể ở vị trí thắng thế, thì mọi người sẽ không chậm
để thấy rõ”. Nguyễn Sáng, về căn bản, thuộc lớp người có tố chất tiên
phong, dòng giống “mãnh sư” - như ông nói, chỉ làm theo mình, không
làm theo thời. Ông đã sớm nhận thấy ở trong hiện thực cuộc chiến
tranh nhân dân, những đau thương, mất mát và những sức mạnh đối
lập, cái bi, cái hùng, mà tinh thần lạc quan, niềm tin phải được đánh
thức ở tầm sâu, trong tiếng vang động như của những pho sử thi.
Mặt khác, có thể xem: Nguyễn Sáng là họa sĩ Việt Nam đầu tiên đã v
những bức chân dung, nhất là chân dung t họa, mang đầy tính triết