70
NGUYỄN NGỌC HIỆP


LÉOPOLD CADIERE VỚI VĂN HOÁ
DÂN GIAN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XX
NGUYỄN NGỌC HIỆP

uộc gặp gỡ với phương Tây cuối thế
kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã gây nên những biến động không dễ øì quên trong lòng mỗi người dân đất Việt, song, dưới gsuồng quay sục sôi điên đảo của thời cuộc, còn có những mạch nước mát âm thầm chảy qua nền văn hoá Việt Nam như một may mắn tình cờ của lịch sử - chúng tôi muốn nói đến những học giả phương Tây đã dồn hết tâm huyết của mình nhằm nghiên cứu văn hoá Việt Nam như một đối tượng mới mẻ và thú vị, bằng tất cả sự trân trọng, tình yêu và niềm say mê, mà người đầu tiên phải kế đến là Léopold Cadière.
Ông đến Việt Nam với vai trò một nhà truyền giáo, nhưng trong lòng bè bạn và tất cả những ai quan tâm đến văn hoá Việt Nam đều nhớ đến ông không phải với ấn tượng về một nhà thuyết giáo tài ba mà là một nhà văn hoá đích thực. Ông đã dành gần như toàn bộ tài năng, sức lực và tâm huyết của đời mình cho những nghiên cứu về văn hoá dân gian Việt
CJCán bộ nghiên cứu, Viện Văn học.
Nam, đất nước của những con người mà ông tha thiết yêu thương.
Binh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân tỉnh lẻ nghèo ở Provenece nước Pháp năm 1869, ông thấu hiểu hết những nỗi nhọc nhằn mà những người nông dân Việt Nam phải chịu đựng trong cuộc sống thường nhật. Ông cho rằng người nông dân ở Pháp cũng như ở Việt Nam có một sự giống nhau đến bỳ lạ từ đức tính cần cù chăm chỉ, tình yêu gia đình sâu sắc đến sự giúp đỡ tương trợ nhau trong đời sống hàng ngày. Sau khi tốt nghiệp Trường Đào tạo Linh mục ở Provence, ông được cử đến Việt Nam làm việc trong Hội Truyền giáo Huế vào tháng 10 năm 1899, khi ông mới tròn 23 tuổi. Nhưng từ khi đặt chân lên đất nước Việt Nam, điều ông quan tâm hàng đầu là nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá của người bản địa. Mục đích của ông không phải để phục vụ chính trị, cũng không phải để giúp cho những người Pháp hiểu về văn hoá, phong tục của người Việt Nam nhằm dễ bề cai trị như khá nhiều nhà nghiên cứu Pháp đã làm trong thởời kì này, mà đơn giản chỉ vì Léopold Cadière thấy rằng đất nước Việt Nam là một vùng văn hoá rất đặc biệt và mới mẻ. Sau 5O năm sống và làm việc ở Việt Nam, năm 1942, trong một buổi liên hoan gặp gỡ bạn bè, ông tâm sự: “Tôi hiểu người An Nam vì tôi nghiên cứu những vấn đề liên quan đến họ. Tôi nghiên cứu ngôn ngữ của họ từ khi mới đặt chân đến đây và hiện giờ tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu. Tôi nhận ra rằng ngôn ngữ của người An Nam là một thứ ngôn ngữ khá tỉnh tế về mặt cấu trúc và đặc biệt phong phú về mặt từ ngữ, TƯ LIỆU FOLKLORE
T71
=—————————————————————————————
không phải với thái độ coi thường như một số người Pháp vẫn làm phổ biến hiện nay. Tôi nghiên cứu tín ngưỡng, các lễ nghỉ tôn giáo, phong tục, tập quán... nghiên cứu lịch sử của họ và nhận thức được tỉnh thần dũng cảm lớn lao của người An Nam cũng như sự thích nghỉ linh hoạt với những điều kiện phong phú mà họ phải đương đầu dọc suốt hành trình lịch sử... Tôi yêu họ vì đầu óc thông minh và đầy sáng tạo của họ. Tôi là một giáo viên lâu năm và tôi dễ dàng khảo chứng điều này qua các bài kiểm tra của các học trò An Nam...Tôi yêu họ vì tỉnh thần đạo đức, bởi tính cách chăm chỉ, cần cù, chịu khó và đặc biệt là tỉnh thần lạc quan của họ. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, họ vẫn vui vẻ, tươi cười...Và cuối cùng, tôi yêu họ bởi những nỗi bất hạnh mà cả dân tộc họ đang phải chịu đựng”... Tình cảm của Léopold Cadière đối với văn hoá và con người Việt nam thiết nghĩ không cần phải nói gì thêm. Ông từng ví văn hoá Việt Nam như một khu rừng nguyên sinh đầy hoa thơm cỏ lạ, đầy những cây gỗ quý và lớp đất mùn màu mỡ do cây cối phủ lên qua năm tháng mà chưa ai đặt chân vào khai phá một cách nghiêm túc và thực sự khoa học.
Nhận thức được tầm quan trọng và sự khách quan trong những công trình nghiên cứu về văn hoá Việt Nam của Léopold Cadière, gần đây, một số định kiến cố hữu trước đây đã bị gạt bỏ, thay vào đó là những nhận định mới đúng đắn và công bằng hơn về các công trình nghiên cứu của ông dù còn chung chung,
khái quát, chủ yếu là định hình vị trí của ông trong cả tiến trình nghiên cứu văn hoá dân gian Việt Nam dọc suốt chiều dài thế kỷ. Trong một bài nghiên cứu gần đây trên tạp chí Văn hoá dân gian, Nguyễn Xuân Kính có nêu một ý mà chúng tôi cho là rất xác đáng về Léopold Cadière: “Không phải người Pháp nào cũng kì thị văn hoá Việt Nam. Xin nêu một trường hợp là Cadière...ông đã dạy tiếng Việt và chữ Hán cho người Pháp, nghiên cứu văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam” Cũng vậy, khi nhìn lại một thế kỷ nghiên cứu tín ngưỡng dân gian, Ngô Đức Thịnh khẳng định: “người viết tương đối nhiều hơn cả về tín ngưỡng dân gian Việt Nam là linh mục Léopold Cadière... ông đã để lại khá nhiều nghiên cứu nghiêm túc về ngôn ngữ, lịch sử và dân tộc học Việt Nam, trong đó đáng chú ý nhất là những bài viết về dân tộc học tôn giáo. Có thể coi ông là người mở đường cho những người nghiên cứu Việt Nam đầu thế kỷ này. Những bài nghiên cứu của ông khá sâu sắc và tỉ mỉ, dựa trên những quan sát điển dã ở những nơi ông sống và làm việc”,
Chính tình yêu và niềm say mê đã tiếp sức cho tài năng khiến Léopold Cadière làm nên được những thành công khá nổi bật. Ông đã sáng lập ra Tạp chí Những người bạn của cố đô Huế. Tạp chí này đã thu hút được nhiều nhà văn hoá lịch sử có tài năng tham gia và đã có những đóng góp quan trọng trong các T12
NGUYỄN NGỌC HIỆP

nghiên cứu lịch sử của về cố đô Huế. Ông cũng đã cho công bố những chuyên luận có giá trị về ngôn ngữ Việt Nam như Nguyên âm uà bán nguyên âm môi, phương ngữ ở các 0uùng núi uà các 0uùng sâu An Nam... ông còn cung cấp một số phương pháp dạy chữ quốc ngữ rất hữu hiệu cho trẻ em và một số lí giải về mạo từ trong chữ quốc ngữ. Ông là một trong những cộng tác viên đắc lực đầu tiên cho Tạp chí Viễn đông Bác cổ Pháp, một trong những tờ tạp chí danh giá nhất Đông Dương thời bấy giờ. Đây là một diễn đàn cho các nhà khoa học có uy tín của Pháp, Việt Nam công bố, trao đổi những kiến thức khoa học có giá trị về đân tộc học, ngôn ngữ học, khảo cổ học, văn học, văn hoá... (ông trở thành phóng viên của báo từ năm 1903, và được bầu làm thành viên danh dự của Trường Viễn Đông Bác cổ năm 1918). Léopold Cadière đã cho công bố nhiều bài viết có giá trị về văn hoá dân gian Việt Nam, về lịch sử, khảo cổ, dân tộc học...Chỉ từ năm 1901 đến năm 1920, ông đã có khoảng 90 bài nghiên cứu trên các tạp chí Viễn đông Bác cổ, Đông dương Tạp chí, Tụp chí khảo cổ học Đông dương... và đã từng vinh dự được Tợạp chí Viễn Đông Bác cổ đành riêng một số để đăng trọn bộ về một nghiên cứu Tín ngưỡng uà uiệc thực hành tôn giáo của người An Nam ở các 0uùng gần Huế*° (như Quảng Trị, Quảng Bình, thừa Thiên, Bình Định). Trong số này ông cho công bố một phần chuyên luận về tục thờ thần đá của các vùng gần Huế rất
độc đáo, tỉ mỉ kèm theo những kiến giải
sâu sắc và chính xác. Chẳng hạn ông chia hệ thống thờ đá của người Việt Nam thành bốn loại: những núi đá nguy hiểm (Rochers dangereux), những tảng đá Bụt appelées Bụt), những hòn đá bùa hộ
thiêng gọi là (Plerres sacrées mệnh (Les pierres-fếétitches) và các vị thần đá (Les génles-plerres). Mỗi vùng có một tập te thờ đá khác nhau gắn với nghề nghiệp, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lịch sử của từng vùng. Việc thờ cúng cũng được tiến hành rất khác nhau. Các thần đá có thể được thờ cúng rất trang trọng ở các đền miếu, có thể chỉ là một tảng đá vô danh bên đường, có người dâng lên các thần những đồ cúng sang trọng mong nhận được nhiều phước lộc như chính lòng thành của họ, có người chỉ có đồng quà tấm bánh thô sơ...cứ thế, ông đi tìm hiểu khắp nơi, đưa ra những tư liệu đáng quý và những kiến giải đầy sức thuyết phục. Ông còn đưa ra hệ thống những hình vẽ, bản đồ về các loại đá, về các địa danh thờ thần đá và giải thích tên gọi các địa đanh liên quan đến tôn giáo thờ thần đá, đến các giai thoại hoặc các nhân vật, các địa danh lịch sử rất thuyết phục như Hòn Mệ, Chùa Bụt Mọc (Quảng Tr), Quán Bụt (Quảng Bình), Cổ Thành (Huế),.. Năm 1999, Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp đã cho tái bản toàn bộ những nghiên cứu về phần văn hoá dân gian Việt Nam của Léopold Cadière có bổ sung sửa chữa, nhờ đó, chúng ta có được ba tập sách hoàn hảo và có giá trị nhất của ông trong những nghiên cứu về văn hoá Việt Nam: Tín TƯ LIỆU FOLKLORE


ngưởng uà uiệc thực hành tôn giáo của người Việt Nam. Trong công trình nghiên cứu này Léopold Cadière khảo sát và phân tích khá toàn diện về các tôn giáo lâu đời của người Việt Nam như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, tôn giáo thờ các nhiên thần, nhân thần, tục thờ cúng ông bà tổ tiên, kiến trúc lăng mộ ở Huế, văn hoá gia đình của người Việt Nam, ... Mỗi phần đều có những kiến giải đúng đắn về lịch sử, quá trình phát triển, thịnh suy qua mỗi thời đại, và ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống hàng ngày cũng như hiện tượng tam giáo đồng nguyên trong đời sống của người Việt Nam, so sánh việc thờ cúng giữa các vùng khác nhau để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt, sau đó lí giải nguyên nhân. Ông phân tích những biến thái của các tôn giáo trên khi du nhập vào Việt Nam, khảo sát việc thờ cúng trong gia đình và ở các đền, miếu, chùa của nhân dân ở nhiều vùng trên đất nước ta. Điều thú vị nhất ở đây là sau khi phân tích những đặc điểm của các tôn giáo lớn, Léopold Cadière đi đến một kết luận rằng tôn giáo đích thực của người Việt Nam không phải là các tôn giáo ngoại lai mà chính là tôn giáo thờ các nhiên thần và nhân thần xuất phát từ quan niệm nguyên thuỷ “vạn vật hữu linh”. Theo ông, tôn giáo này ảnh hưởng đến tất cả mọi tầng lớp xã hội và đi sâu vào tâm thức của mỗi con người Việt Nam. “Người An Nam tin rằng các thần ngự trị khắp mọi nơi. Các ngài có thể bay trên không trung, đến từ một luồng gió, rong ruổi trên đường hay sà
LỆ
xuống một bông hoa. Họ có thể lặn sâu dưới đáy nước, bơi trong các vực thẳm hay nấp mình trong những khóm cây... Các thần quyết định số phận của con người. Mỗi con người thành công hay thất bại, ốm đau hay khoẻ mạnh, hạnh phúc hay khổ đau đều do các thần định đoạt...””), Và con người muốn có một cuộc sống bình yên hạnh phúc thì phải thờ cúng các thần. Léopold Cadière coi văn hoá gia đình Việt Nam là một đối tượng nghiên cứu có tính chất đặc thù và ông đã dày công tìm hiểu. Ông yêu thích tập tục thờ cúng ông bà tổ tiên trong các gia đình Việt Nam qua các dịp lễ, tết, giỗ chạp và coi đó là một nét văn hoá độc đáo chứa đựng tình cảm hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ và lòng biết ơn sâu sắc đối với những thế hệ đi trước. Ngoài ra, ông còn có những nghiên cứu rất tỉ mi và khoa học về kiến trúc quần thể lăng mộ ở Huế, các tháp Chàm ở Thừa Thiên, Quảng Bình, Quảng Trị... Cống hiến của Léopold Cadière cho văn hoá Việt Nam đầu thế kỉ XX là rất phong phú và có giá trị. Tiếc răng đến nay chúng chưa được giới thiệu rộng rãi và nghiên cứu một cách thấu đáo, có chăng chỉ là một số trích dẫn sơ lược mà thôi. Điều này một phần cũng do những khó khăn về mặt văn bản, bởi các nghiên cứu của ông toàn bộ được viết bằng tiếng Pháp, và theo chỗ chúng tôi được biết thì chưa có công trình nào của ông được dịch ra tiếng Việt.
Có thể nói rằng, sự tiếp xúc với những nghiên cứu có tính chất mở đường về văn hoá dân gian Việt Nam của 74
NGUYỄN NGỌC HIỆP
=———====ễễễễ--_-
Léopold Cadière đã chứng mìỉnh rằng tín ngưỡng dân gian là một bộ phận không thể thiếu được, nó góp một phần rất quan trọng làm nên diện mạo văn hoá dân tộc, đóng vai trò hàng đầu trong việc biểu hiện chiều sâu triết lý, tư tưởng, tâm lĩnh của con người Việt Nam qua việc thực hành tôn giáo trong đời sống hàng ngày. Hơn thế nữa, nó còn góp phần mở rộng phạm vi nghiên cứu văn hoá dân gian trong điều kiện lịch sử mới.
Ngành nghiên cứu văn hoá dân gian đã đạt được những thành tựu đáng kể, chúng ta không thể chỉ bó hẹp phạm vi nghiên cứu của mình trong việc sưu tầm, biên soạn, chỉnh lí, bình giải những câu ca dao, những tác phẩm sẵn có như trước đây các nhà Nho đã làm. Việc làm ấy dĩ nhiên rất đáng trân trọng, song, nó chỉ là bộ phận văn học trong tổng thể văn hoá dân gian. Một số nghiên cứu của các học giả Pháp trong đó có Léopold Cadière đã gợi mở cho ta một hướng nghiên cứu mới, tức nghiên cứu văn hoá dân gian trên mọi lĩnh vực của đời sống văn hoá như văn học dân gian, tín ngưỡng, phong tục, tập quán...thuật ngữ mà giới nghiên cứu văn hoá dân gian trên thế giới gọi là folblore phải bao gồm được những yếu tố như vậy. Thực tế ở nước ta, từ những năm ðO của thế kỉ XX trở về trước, văn hoá dân gian Việt Nam chưa được nghiên cứu toàn diện mà chỉ dừng lại ở việc sưu tâm, khảo cứu hoặc nghiên cứu các tấc phẩm văn học dân gian và sắp xếp chúng theo thể loại. Cũng có một số tác giả
nghiên cứu về phong tục tập quán của người Việt Nam nhưng không nhiều. Hướng nghiên cứu folklore trong cái nhìn tổng thể có thể nói chỉ bắt nguồn từ cuộc øiao lưu tiếp biến với văn hoá phương Tây mà người đạt được những bước tiến đầu tiên là Nguyễn Văn Huyên, một học gia đã được đào tạo rất bài bản ở Pháp. Ông đã vận dụng rất thành công những phương pháp mới để nghiên cứu văn hoá Việt Nam và thu được những thành tựu rất nổi bật. Trong tình hình chung như vậy, có thể xem các công trình nghiên cứu của Léopold Cadière là một trong những khám phá đầu tiên có tính chất mới mẻ với những phân tích khái quát, khoa học, công phu và cẩn trọng về những điều tưởng rất quen thuộc trong đời sống tâm linh hàng ngày của nhân dân ta mà không phải ai cũng có thể nhận biết được giá trị của nó trong thời điểm lịch sử phức tạp đầu thế kỉ. Qua những công trình nghiên cứu ấy, ta nhận ra những nét đặc thù về tâm lí, lối sống, cách tư duy, quan niệm thẩm mĩ của con người Việt Nam, quá trình phát triển và những biến thái đa màu sắc của nó trên hành trình lịch sử.
Vốn là một nhà truyền giáo của đạo Cơ đốc, không được đào tạo để nghiên cứu văn hoá dân gian, song, những công trình của Léopold Cadière chứng tổ một sự mãn cảm khoa học đáng kinh ngạc. Và điều chúng tôi muốn nói thêm ở đây là, không giống như một số nhà truyền giáo khác, khi muốn để cao tôn giáo của mình, TƯ LIỆU FOLKLORE
T5


họ thường tìm ra những điểm yếu của các tôn giáo khác để phê phán nhằm nâng cao giá trị của đạo mình.Léopold Cadière không làm như vậy. Những trang viết của ông luôn thể hiện sự tìm tòi khám phá những cái hay cái đẹp của tôn giáo dân gian người Việt, khăng định và ngợi ca những truyền thống tốt đẹp của người dân bản địa như nhắc nhở họ giữ lấy những truyền thống quý báu ấy. Đó là cái nhìn khách quan, khoa học và đầy thiện chí đối với văn hoá dân gian Việt Nam.
Có một điều mà Léopold Cadière luôn nuối tiếc suốt những năm tháng còn lại của đời mình, đó là do điều kiện lịch sử hạn chế lúc bấy giờ nên ông đã không có cơ hội tiếp xúc và nghiên cứu về các vùng văn hoá miền Bắc mà ông tin rằng nó rất thú vị. Địa bàn hoạt động chủ yếu của ông là các tỉnh miền Trung Việt Nam như Huế, quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định. Khi tuổi già sức yếu, ông xin phép về hưu, dù trường Viễn Đông Bác cổ đã tìm mọi cách để giữ ông lại nhưng không thể được, đành phải để ông được nghỉ ngơi trong sự nuối tiếc về một tài năng mà theo họ vẫn còn sức cống hiến đổi dào. Không muốn rời xa Việt Nam, ông xin được ở lại Bình Định, sống cuộc đời bình đị bên tháp chuông của một ngôi nhà thờ nhỏ trong một xứ đạo nghèo ở An Định. Ở đó, ông có thể làm những việc mình yêu thích như đón tiếp bạn bè, chăm sóc một vườn thực vật rất da dạng øồm tất cả những giống cây, hoa Việt Nam mà ông yêu thích, những chú chim suốt ngày ca hát líu lo trong vườn.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vì nhiều lí do, việc nghiên cứu văn hoá dân gian Việt Nam chưa được chú ý đúng mức và chưa có được những thành tựu nổi bật. Do đó, nhiều tập tục đã bị mai một, nhiều câu chuyện đã bị lãng quên, nhiều đền miếu đã bị bụi bặm thời gian phủ lấp. Trong tình hình đó, những công trình nghiên cứu của Léopold Cadière đã góp phần lấp một khoảng trống đáng kể, Chúng tôi thiết nghĩ rằng việc dịch và giới thiệu các công trình nghiên cứu của ông nhằm hình dung rõ hơn về diện mạo tỉnh thần của đời sống văn hoá Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, là một việc làm cần thiết đối với các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian nói riêng và độc giả nói chung.
N.N.H
(1) Lếopold Cadlềre - Croyances cef Praliques relgieuses des Viefnamiens, Ï Ecole Francalse đExtrême-Orlent, Paris, 1992, p. 9.
(2) Nguyễn Xuân Kính - Một thế bỶ sưu tâm nghiên cứu uăn hoá, uăn nghệ dân gian Việt nam - Tạp chí văn hoá dân gian, số 2/2001.
(3) Ngô Đức Thịnh, Phạm Quỳnh Phương - Nhìn lại một thế bỉ nghiên cứu tín ngương dân gian, Tạp chí văn hoá dân gian, số 2/2001.
(4) Buletin de Yecole France đ` Extrême - Orient, Tombe XIX, No 9, 1919.
(5) Léopold Cadière, sđd, p. 20.