LÊ VĂN KỸ



Nhớ về anh TÔ ĐÔNG HẢI
LÊ VĂN KỲ?

hật đau lòng khi phải cầm bút viết những dòng vĩnh biệt về bạn
một người
đồng nghiệp thiết của
giữa lúc
thân mình chưa đáng viết. Nhưng biết làm được?” Xưa nay đã có ai
54D

thoát khỏi "mệnh Trời", thoát khỏi
TÔ ĐÔNG HAI (1946 - 2003) những lời bình phẩm của thế gian khi nhắm mắt xuôi tay dù sinh thời nó không
là gì ca. Tôi đang viết đôi dòng về anh với tâm trạng bàng hoàng như thế đấy anh Hải a. Có gì không phải mong anh bỏ qua. Nơi "ngàn thu chín suốt" tôi không thể gặp anh để hỏi han, trao đổi.
Thạc sĩ Hứa Đông Hải (tên thường gọi là Tô Đông Hai) đã đột ngột ra đi ở tuổi đời 57, (2/4/1946 - 21/4/2003). Đó là một ngày hè nóng nực giữa núi rừng Phước Long (Bình Phước) trên đường đi công tác. Căn bệnh hiểm nghèo đã cướp đi sinh mạng của anh trong vòng 14 tiếng đồng hồ. Ra đi không để lại một lời (răng trối dù chúng tôi là người có thể giúp anh chuyển tới vợ con những lời nhắn nhủ cuối cùng. Tạo hoá sao mà khắc nghiệt thế.
NNašsa "ưa * .. - & z ˆ . “TS, Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian.
Sinh ra và lớn lên ở phố Hàng Vải (Hà Nội) nhưng Tô Đông Hải không được sống thường xuyên giữa thủ đô. Vừa tốt nghiệp Trường Trung cấp âm nhạc, anh đã phai lên Điện Biên Phủ làm cán bộ văn hoá trong ngành nông nghiệp. Đau nhiều năm phấn đấu, bươn chải anh mới được cơ quan cử về Nhạc viện Hà Nội học tiếp đại học. Học xong, anh ở lại công tác tại trường một thời gian. Năm 1984. anh chuyển về Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian (thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia). sau đó một số năm anh bao vệ Thạc sĩ Nghệ thuật học tại Nhạc viện Hà Nội và tiếp tục làm việc tại Viện cho đến ngày từ trần.
Vốn là người say mê tìm hiểu văn hoá các đân tộc miền núi, kể từ ngày về Viện đến nay hầu như năm nào anh Hải cũng có mặt ở Tây Nguyên đăm ba tháng. Mặc đầu hoàn cảnh gia đình có những lúc rất éo le nhưng anh đã cố gắng vượt lên số phận để thực hiện những chuyển đi điền đã dài ngày, xa xôi, gian khô nhưng đầy thú vị vì anh cho rằng: làm văn hoá dân gian mà không đi sưu tầm, khảo sát thực địa thì sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ hoặc chỉ hoàn thành ở mức độ nào đó mà thôi.
Tôi đã được đi với anh vài ba lần. Tô Đông Hải quả là tấm gương điền dã đáng để cho tôi học tập. Anh xông xáo, cần mân, khiêm tốn, chan hoà, tranh thủ mọi lúc học tiếng đân tộc để giảm bót sự cách biệt khi tiếp xúc với đồng bào thiểu số mà khai thác họ nhiều hơn. Điều đó không phải ai cũng chịu làm. Địa bàn hoạt động của anh trong lĩnh vực nghiên cứu văn hoá là vùng Tây Nguyên. Tuy nhiên, anh không bó hẹp
đân gian chủ yếu
bước chân của mình trong phạm vi bốn tỉnh: Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Lâm NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI



Đồng mà anh còn bước sang cả Bình Phước, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, Khánh Hoà là những nơi có liên quan đến đời sống văn hoá của một số dân tộc trong quá trình di dời, chung sống. Đi tới đâu, anh cũng không bỏ sót cơ hội. cố gắng thu thập tư liệu để chuẩn bị cho công việc lâu dài và ca những bài báo nóng hồi về mảnh đất mà anh đặt chân tới.
Nhờ đi nhiều, học hỏi nhiều và chịu khó viết, thạc sĩ Tô Đông Hải đã có những dóng góp được ghi nhận trong sự nghiệp nghiên cứu văn hoá các đân tộc thiểu số miền núi, nhất là vùng Tây Nguyên. Anh là đồng tác giả một số cuốn
sách được nhiều người biết đến như:
Nhạc cụ gõ cổ truyền Việt Nam, (Viện Nghiên cứu văn hoá đân gian xuất bản năm 1989).
Hút uăn, (Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc 1982).
Văn hoá dán gian Eđê, (Nhà xuất bạn Văn hoá dân tộc, 1993).
Văn hod dân gian Mnông. (Nhà xuất
bản Văn hoá dân tộc, 1993).
Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Chăm, (Nhà xuất bàn Văn hoá dân tộc, 1995).
Đặc biệt là gần đây, anh In riêng cuốn Nghi lễ uà âm nhạc trong nghỉ lô cúa người jJjRai do Nhà xuất bạn Khoa học xã hội xuất bản năm 32003. Đây là một cuốn sách dày dặn, bể thế, nội dung phong phú, tư liệu đổi đào, văn phong hấp dẫn. Với công trình này, nghỉ lễ và âm nhạc của người .JRai theo nhiều nhóm địa phương trên nhiều vùng khác nhau lần đầu tiên được trình bày một cách chi
tiết, có hệ thống và mang tính toàn cảnh.
Vốn là một nhạc sĩ nghiên cứu âm nhạc dân tộc, tác giả có điều kiện thuận lợi để chỉ ra được những nót độc đáo trong sinh hoạt âm nhạc truyền thống mang đặc điểm văn hoá tộc người của đồng bào JRai. Nhiều dàn chiêng JRai được tác giả mô tả vừa có tính liên hệ chặt chẽ với sinh hoạt văn hoá dàn chiêng của nhiều tộc người Đông Nam Á cũng như ở khu vực Tây Nguyên, lại vừa mang những sắc thái riêng lẻ của người jJRai như cấu trúc, ngôn ngữ âm nhạc, hình thức diễn tấu, môi trường diễn xướng v.v... Song song với công chiêng. tác giả còn đề cập đến hệ thống các nhạc eụ thuộc bộ gõ và eoi đó là một trong những đặc điểm quan trong của âm nhạc truyển thống JRai - một nền văn hoá âm nhạc có mối liên hệ trực tiếp, chặt chẽ với đời sống nông nghiệp kiểu nương rẫy. Có thể nói, đây là lần đầu tiên âm nhạc truyền thống .JRai được trình bày trong mỗi liên hệ với sinh hoạt nghi lễ và lễ hội - nền tẳng quan trọng của các dòng âm nhạc cổ truyền. Đó là những đóng góp eơ bản được người đọc ghi nhận.
Thạc sĩ Tô Đông Hải còn viết nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí ở trung ương như:
- "Một số vấn đề về nhịp điệu, tiết tấu và vai trò của nó trong âm nhạc hát ghẹo Vĩnh Phú", Tạp chí Văn hoá dân gian số 1 năm 1984.
- "Một vài suy nghĩ về việc cải tiến đàn chiêng .JRai - Kon Tum dưới góc độ âm nhạc học và dân tộc học”, Tạp chí Văn hoá dân gian số 3 năm 1985.
- "Những yếu tố thẩm mĩ rút ra từ một số bài dân ca lhømer Nam Bộ", Tạp
chí Văn hoá dân gian số 3 + 4 năm 1985. LÊ VĂN KỲ


- "Folklore và nền văn hoá xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Văn hoá dân gian số 3 năm 1987.
- "Một cách nghe, một cách hiểu bài dân ca Nam Bộ - Lý ngựa ô", Tạp chí Văn hoá dân gian số 3 năm 1990.
- "Folklore trong tiểu thuyết Hoa hậu xứ Mường của nhà văn Phượng Vũ", Tạp chí Văn hoá dân gian số 4 năm 1990.
- "Dàn chiêng Knah trong đời sống tỉnh thần của người Êđê", Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 2 năm 1990.
- "Lễ RiJaprong - một hình thức sân khấu dân gian của người Chăm", Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 9 năm 1996.
- "Hệ thống lễ Rija của người Chăm - những điều cần trao đổi", Tạp chí Văn hoá dân gian số 2 năm 1997.
- "Tục kiêng cữ khi phát rây của người Bu Nong" (viết chung với Điểu Kâu), Tạp chí Văn hoá dân gian số 4 năm 1999.
- "Những phát hiện mới xung quanh sử thi NRong", Tạp chí Văn hoá dân gian số 4 năm 2002 v.v..
Điều đáng lưu ý là một số bài viết của Tô Đông Hải thu hút sự chú ý của giới khoa học, có lúc gây nên sự tranh luận sôi nổi, gay gắt, tạo cơ hội cho khoa học phát triển.
Ngoài nghiên cứu và sưu tầm, Tô Đông Hải còn tham gia sáng tác theo nhiều thể loại như thơ, truyện, kịch, nhạc... Tuy không nhiều, không thường xuyên nhưng các sáng tác của anh luôn được người đời chú ý. Hai bài hát: "Mưa bóng mây", "Chú bộ đội và cơn mưa" của nhạc sĩ Tô Đông Hải được hát nhiều lần trên đài, được dưa vào chương trình trò
chơi âm nhạc VTV8, vào sách giáo khoa dạy hát cho học sinh cấp I, được tuyển chọn vào tuyển tập "ca khúc thiếu nhi 1945 - 2000" do Nhà xuất bản Âm nhạc ân hành năm 320029. Bài thơ "Hoa dại" của Tô Đông Hải được chọn in trong tập "Mưa đền cây" do nhà thơ Vũ Quần Phương tuyển chọn, (Nhà xuất bản Phụ nữ, 1987). Trong quyển "9010 bài thơ tình hay" do Thái Hoàng Ly và Hồ Quốc Nhạc tuyển chọn (Nhà xuất bản Đồng Nai, 1996), bài "Hoa dại" của anh lại thêm một lần nữa được tuyển chọn. Và cách đây vài tháng, báo Người Hà Nội có đăng một chùm thơ anh viết về Tây Nguyên .V.V.. Tôi cũng đã được đọc một truyện ngắn của anh có tên là "Bếp lửa người rừng" rất ấn tượng (Hình như là Hội Văn học nghệ thuật Đắc Lắc xuất bản - tôi không rõ lắm)... Tô Đông Hải quả là một người tài hoa, có máu sáng tác. Anh giao du khá rộng, lịch lãm, đẹp trai, nói chuyện có duyên nên được nhiều người mến mộ. Dĩ nhiên, con người nhiều tài ấy cũng có một số tật mà những ai không thông cảm thì khó có thể chia sẻ với anh. Nhưng được một điều rất hay là Tô Đông Hải không bao giờ nổi nóng, cáu gắt. Thái độ bình tĩnh, biết kiểm chế giúp anh vượt qua những mâu thuẫn lặt vặt để hướng tới đại sự. Anh vẫn là người làm được việc và có lắm bạn bè tốt.
Là Quyền Trưởng phòng Nghiên cứu nghệ thuật biểu diễn dân gian, anh luôn luôn gần gũi, giúp đỡ anh em trong phòng để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời anh cũng rất cố gắng học tập, tự nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu của một cán bộ nghiên cứu khoa học trong giai đoạn mới. Việc đào tạo tiến sĩ nghệ thuật học là chưa thật phổ biến ở NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI



nước ta: thế mà cách đây bốn năm Tô Đông Hải đã tham dự và trúng tuyển kì thì Nghiên cứu sinh tại Viện Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật (Bộ Văn hoá thông tin). Nếu không phải vội vàng "ra đi" thì chắc chắn cuối năm nay Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian sẽ có thêm một Tiến sĩ nghệ thuật vì luận án anh đã viết xong.
Do gắn bó nhiều năm với văn hoá dân tộc thiểu số miền núi, đầu năm 3001, Tô Đông Hải được Ban lãnh đạo dự án "Điều tra, sưu tầm, biên dịch, xuất bản sử thì Tây Nguyên" giao nhiệm vụ làm "Đồng trưởng nhóm" nhóm điều tra, sưu tầm sử thi trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Từ bấy đến nay, anh đã nhiều lần đưa anh em đi khảo sát, sưu tầm, ghi âm và bước đầu thu được những kết quả đáng khả quan.
Sử thi Tây Nguyên là một dự án lớn, thuộc cấp Nhà nước, thực hiện trong suốt 5 năm nên Tô Đông Hải càng có điều kiện phát huy sở trường, vốn liếng của mình sau nhiều năm gian nan tích luy. Hôm trở lại Sók Bom Bo (huyện Bù Đăng) vào ngày mồng 9 tháng 4 năm 2003, anh bần thần ngắm mãi một buôn làng rồi tâm sự với tôi những lời thật xúc động:
- Cậu có biết không, chính chỗ này cách đây hơn chục năm tớ đã có lần bị mắc kẹt một tuần không ra được vì vào mùa mưa, đường sá quá lầy lội. Bấy giờ tiền không còn một xu trong túi, vợ con ở nhà thì ốm đau nên tớ rất quẫn. Chờ cho trời tạnh, tớ phải vay tiền bà con rồi bám xe tải làm một mạch về Hà Nội, ê ẩm cả người. Còn bây giờ thì chúng ta vào đây rất đàng hoàng. Đường sá đã tốt mà tiền nong dự án cũng cấp cho đây đủ chứ không như thời mò mâm trước đây".
Trong lúc anh đang mở màng suy nghị, tôi chớp thơi cơ "nói leo" một câu:
- "Bây giờ thì chúng ta được ngắm Sók Bom Bo với cặp mắt của một du khách phải không anh Hải nhỉ?" Anh vội ngắt lời:
- "Không đâu! Chúng ta vẫn phải "đi cày" đấy - vẫn phải đương đầu với một vùng có chất độc màu da cam nhiều nhất cả nước. Có điều là không kẹt như trước và khi về thì tớ có thể thưởng cậu một chuyến "đi trên trời”.
Thật là lãng mạn và hài hước. "ĐI trên trơi" có nghĩa là anh cho tôi đi máy bay!
Phải thừa nhận rằng thạc sĩ Tô Đông Hải rất say mê với văn hoá dân gian Tây Nguyên. Ngoài phần việc được giao ở Viện trước đây và dự án sử thi hiện tại, anh còn tham gia khá nhiều công trình quan trọng với địa phương như "Nghi lễ và lễ hội người MNông" (đã nghiệm thu - sắp xuất bản); "Từ điển địa danh Đắc Lắc" (đang viết đỏ); "Tiền sử Đắc Lắc" (đã hoàn thành); "Phong tục tín ngưỡng các dân tộc thiểu số tỉnh Bình Phước" (mới bắt đầu) v.v..
Tuy chưa phải là nhà nghiên cứu lớn nhưng với những gì đã có và đang thể hiện, Tô Đông Hải đang là niềm hị vọng của chúng tôi. Tiếc rằng anh đã "ra đi" quá sớm - như con tằm chưa nhả hết tơ. Nhiều ấp ủ, dự định và khao khát của anh giờ đây chôn vùi trong nấm đất.
Đau thương này ôi biết nói làm sao! Tôi cứ tưởng tượng anh còn ẩn hiện đâu đó, còn đèo cháu Minh Ảnh đi học hay ra chợ mua dùm thức ăn cho vợ; thỉnh thoảng lại được gặp anh ở cơ quan hoặc một quán bia hạ giá bên đường với mái tóc phong sương, ánh mắt trìu mến, nụ cười cởi mở. Anh là con người của hành động, thích vui vẻ, lai 56 LÊ VĂN KỲ


rai với bạn bè. Anh vần còn phải bươn chải, lo toan chứ chưa được an nhàn bên bàn viết như các nhà thông thái khác. Nhưng không sao anh Hải ạ. cuộc sống cần phải dành cho nhiều thứ.
Sông bao nhiêu năm. làm bấy nhiêu việc. Thế cũng đủ rồi. Anh có thể tạm bằng lòng ra đi, Những gì còn lại, anh em chúng tôi sẽ làm tiếp và rồi một ngày kia, chúng tôi cùng sẽ ra đi như anh. Tất ca giao lại cho con cháu. Xưa nay đời vẫn thế.
Vĩnh biệt anh. tôi xin tặng mấy câu thơ mà tôi đã ghi lại dưới tấm anh chụp chung với anh trên thác K-lHiông-Ma ngày
9 tháng 1 năm 3003, sau khi anh qua đời:
Phong canh nơi này đẹp nhĩt mở Hai đứa mê say đến thân thờ
Ai biết từ đây anh đi mãi
Thác K-Rông-Ma uán đợi chờ
Thôi nhé đừng mong na thúc ơi Người ấy đi xa - xa lắm rồi Yên giấc ngàn thu nơi chín suối
Chỉ còn tôi nữa - thúc 0è tôi
Tôi muốn bhóc nhiều, không bhóc được Nhưng lòng ứa lệ, dạ quản đau Bưa đi hai đứa cùng giao tức
Găng làm xong uiệc đê UÊ mau
Ấy thế mà anh lờ ước rồi
Đường uề còn lại một mình tôi
Biết ăn, biết nói làm sao nhỉ?
Tôi gọi anh hoài: Anh Hai ơi!
Câu mong cho lĩnh hồn anh được yên ôn ở thế giới bên kia.
L.V.K