YOMEDIA
ADSENSE
Thư gửi các chú nơi Trường Sa
54
lượt xem 2
download
lượt xem 2
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
"Thư gửi các chú nơi Trường Sa" kể về cuộc sống của các chiến sĩ nơi hải đảo Trường Sa, bức thư thể hiện sự xúc động trước những khó khăn vất vả mà các chiến sĩ đang phải đối mặt và những lời động viên chuyển tới những người lính ở hải đảo Trường Sa.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thư gửi các chú nơi Trường Sa
- Thư gửi các chú nơi Trường Sa! Trong những ngày giáp Tết, Báo điện tử TS nhận được một lá thư rất đặc biệt của một bạn gái ở Nha Trang. Bạn đã đọc hết những bài viết kể về cuộc sống của các chiến sĩ nơi hải đảo Trường Sa trên TS và rất xúc động trước những khó khăn vất vả mà các chiến sĩ đang phải đối mặt nên đã viết một bức thư động viên và nhờ TS chuyển tới những người lính ở hải đảo Trường Sa. Chúng tôi sẽ giúp bạn chuyển bức thư này tới các chiến sỹ. Các chiến sĩ Trường Sa đang truyền tay nhau những bức thư từ đất liền. Ảnh: Hà Trường.
- Cháu chào các chú! Cháu đã đọc được nhiều bài viết về các chú, và cháu muốn viết thư ngay cho các chú để có thể chia sẻ được phần nào nỗi vất vả mà các chú đang trải qua. Mặc dù đang là mùa thi, bài vở vẫn còn nhưng cháu có thể thức khuya thêm một chút và dậy sớm hơn một chút. Điều này đâu có thấm gì so với các chú ở xa kia phải không ạ? Lối nhỏ vào thư, theo đường mòn tiễn chữ, cháu chúc các chú dồi dào sức khoẻ và gửi tới các chú những lời chúc tốt đẹp nhất. Các chú ạ, khi các chú đọc được những lời này trong thư của cháu, chắc bất ngờ lắm nhỉ? Một bức thư được chuyển từ Nha Trang ra Hà Nội, rồi mới đến được với các chú ở Trường Sa. Các chú biết không, ở thành phố biển, mảnh đất liền dấu yêu của người Khánh Hoà này, Trường Sa quả thật là gần gũi lắm các chú ạ. Cháu được sinh ra và lớn lên trên đất liền, cháu chưa được một lần đặt chân lên đảo, nhưng cháu rất hiểu và biết rằng các chú đang vất vả ngày đêm trước sóng to gió lớn. Đặc biệt là những ngày này, khi cả dân tộc đang vui mừng đón Tết cổ truyền thì các chú vẫn ngày đêm giữ vững tay súng, đứng gác canh giữ vùng trời, vùng biển của Tổ quốc. Hơn ai hết, cháu đang rất vui khi trở về quê nhà để vui cùng bố mẹ và người thân. Ai cũng có một cái Tết an lành vui vẻ bên gia đình, nhưng với các chú thì vui cùng mùa xuân của đất nước chứ không có niềm vui riêng tư đâu nhỉ? Cháu cứ băn khoăn, ở nơi xa ấy các chú có vui không? Điều kiện ăn ở sinh hoạt thế nào? Các chú có được xem tivi nhiều không? Nếu có, các chú hãy cảm nhận những nụ cười rạng rỡ kia là dành cho các chú đó, nhờ những tấm lòng cao cả của các chú mà mọi người có được niềm vui. Các chú ạ, thế hệ trẻ hôm nay vẫn luôn biết ơn và mãi mãi tự hào về các chú và tất cả những chiến sĩ quân đội, những thế hệ cha anh. Cháu đến Nha Trang khi rời xa một miền quê khác, một mảnh đất miền Trung,
- nhưng cháu sẽ chẳng bao giờ quên những thế hệ trước đã góp phần xây dựng nên để ngày hôm nay cháu được vui, được học tập. Cháu rất khâm phục và biết ơn trước những tấm lòng cao thượng. Các chú đã đặt lợi ích chung, việc nước lên lợi ích cá nhân, các chú không hề nghĩ đến niềm vui của bản thân là được đoàn tụ gia đình mà vẫn đứng hiên ngang, kiên cường trước sóng gió. Vì quê hương trông chờ mà các chú đành xa người thân trong những ngày Tết . Các chú ơi, tình cảm của người dân Khánh Hoà nói riêng và người dân cả nước nói chung là rất nhiều. Cả dân tộc vẫn luôn đứng bên sát cánh và cổ vũ cho các chú. Các chú đừng buồn nhé, cháu biết rằng Tết năm nay các chú không được ở bên gia đình, nhưng các chú đang có được một thứ mà không dễ ai có được, đó là tấm lòng, tình cảm của người dân Việt Nam dành cho các chú. Cháu biết các chú sẽ vui, vui cùng niềm vui của mọi người và vui vì đã làm được một việc có ích cho mọi người. Nỗi gian nan vất vả của các chú cũng như tấm lòng của người dân Việt Nam nơi đất liền đang hướng về các chú đều không sao kể hết được. Cháu xin thay mặt cho các bạn trẻ ở thành phố biển Nha Trang gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới các chú. Khi còn đang đi học, cháu không có cách nào để chia sẻ những vất vả gian lao cùng với các chú, chỉ có những lời động viên về mặt tinh thần và tình cảm thôi. Cháu nghĩ nó sẽ mang đến cho các chú niềm vui và là món quà nhỏ của cháu gửi tới các chú. Cháu chào các chú! CẢM NGHĨ VỀ BIỂN ĐẢO Em ước mình được đặt chân đến tất cả các bãi biển trên dải đất hình chữ S để thấy rằng: Tổ quốc mình thật đẹp vì có biển đảo.
- Biển đảo quê hương hai tiếng thiêng liêng, làm gì để bảo vệ chủ quyền biển đảo? là câu hỏi lớn cần em hay mỗi công dân trả lời. Đối với mình, em ru mình bằng khúc ca tự hát: Biển đảo trong tim em. Xin gửi đến biển đảo quê hương Việt Nam bằng tất cả tình yêu và niềm tự hào: Ôi biển Việt Nam. Ôi biển tự hào. BÀI VIẾT THAM GIA CUỘC THI HỌC SINHSINH VIÊN VIỆT NAM VỚI BIỂN, ĐẢO QUÊ HƯƠNG 1. Bạn hiểu thế nào về nhận định “Thế kỷ XXI là thế kỷ của đại dương”. Từ cách nhìn lịch sử, tác giả bài viết cho rằng nhân loại trên thế giới đã từng “đi từ đất liền ra biển và đại dương”, xét về mặt kinh tế mới là “kinh tế đất liền”, còn về góc độ khoa học kỹ thuật mới phát hiện ra Trái đất, chưa phải “Trái nước”. Khi đề xuất chiến lược biển của Thế kỷ XXI, trước hết phải dự báo được xu thế phát triển của nhân loại đối với nền “kinh tế đại dương” và phải thấy được một quá trình ngược lại – con người sẽ đi từ đại dương vào đất liền. Nói một cách khác là kinh tế đại dương – kinh tế biển tác động quyết định đến kinh tế đất liền.
- Việt Nam từ văn minh nông nghiệp lúa nước tiến ra biển và đại dương, cho nên theo tác giả Kinh tế biển là kéo dài của kinh tế đất liền”. Và vì thế phải có con người của biển và cộng đồng ven biển với các đặc trưng riêng, và cư dân biển phải khắc hẳn với cư dân nông nghiệp lúa nước. Ngoài ra, kinh tế biển phải được đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và bảo đảm an ninh quốc phòng để hình thành một yếu tố an ninh biển tổng hợp. 1. NHÂN LOẠI VỚI BIỂN VÀ ĐẠI DƯƠNG Cho đến những năm nửa cuối Thế kỷ XX, nhân loại đã có được cách nhìn nhận mới về hành tinh của chúng ta. Hành tinh này không chỉ là “Trái Đất” mà còn là “Trái Nước” nữa. Vì biển và đại dương chiếm tới 71% toàn bọ bề mặt hành tinh. Trái Nước ấy không chỉ đồ sộ về diện tích mà còn có ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với nhân loại. Xin miễn bàn vì đã có quá nhiều công trình khoa học đề cập đến vấn đề này. Tôi chỉ xin góp thêm đôi điều cách tiếp cận chủ đề “Chiến lược biển, trong đó có kinh tế biển” mà mọi nhà khoa học đang quan tâm. Nhân loại đi từ đất liền ra biển và đại dương Hành trình của nhân loại từ cách mạng đá mới với văn minh nông nghiệp xuất hiện trải qua hàng vạn năm tới nay đã thiết lập được một nền kinh tế đất liền. Thật vậy, cho dù hàng nghìn năm trước đây con người đã biết sử dụng các luồng hải lưu, gió mùa với những kỹ thuật “hàng hải” và những “con tàu” thô sơ cũng đã tạo nên được những con đường hàng hải ven bờ, nhờ đó mà con người đã có được những chuyến thương mại đường dài từ quốc gia này đến quốc gia khác (láng giềng). Nhưng tới khi nền kinh tế nông nghiệp đã phát triển đến độ mà thị trường trong nước (của các quốc gia) đã trở nên hạn hẹp, cách mạng thương mại xuất hiện (đầu thế kỷ XV kéo dài tới Thế kỷ XVIII). Đồng thời cùng với cuộc cách mạng này là sự phát triển của hàng hải quốc tế: Con người mới biết đại dương!
- Cuộc phát kiến địa lý bắt đầu Thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI được khởi xướng bởi các nhà hàng hải Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và cùng với cuộc phát kiến này người ta rút ra được một kết luận: Trái đất là tròn chữ không phải là phẳng hay vuông. Kết luận này thực sự đã làm biến đổi sâu sắc nhận thức của nhân loại về hành tinh của mình. Và cũng từ đó con người bắt đầu hiểu sơ bộ về giá trị của biển và đại dương. Hệ quả của phát kiến địa lý và cách mạng thương mại lại dẫn đến một tiến trình mới chưa từng có trong lịch sử nhân loại (cho tới Thế kỷ XV). Đó là quá trình hình thành thị trường thế giới, tiếp nối là cách mạng khoa học kỹ thuật (lần 1 Thế kỷ XVIII và lần 2 Thế kỷ XIX). Với tất cả những thành tựu trên đây, nhân loại đã phá bỏ được những hàng rào chật hẹp của nền kinh tế tự túc tự cấp, phát huy cao độ nền kinh tế hàng hóa một quá trình toàn cầu hóa đã diễn ra. Vậy là nhân loại nhờ hiểu biết về biển và đại dương, hàng hải quốc tế hình thành, thị trường thế giới xuất hiện, 2 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật liên tiếp diễn ra trong 2 Thế kỷ XVIII và XIX mà toàn cầu hóa kinh tế lần thứ nhất ra đời. Nhưng cuộc toàn cầu hóa lần này mới chỉ là kết quả của sự phát triển kinh tế khoa học kỹ thuật mà chủ yếu là những khám phá về “Trái đất” mà thôi, chưa có cuộc khám phá về “Trái Nước” xét về mặt kinh tế thì mới chỉ là nền kinh tế đất liền. Phải chăng nhân loại sẽ từ đại dương biển để vào đất liền. Con người biết biển, đại dương từ lâu song chỉ tiến hành nghiên cứu biển, đại dương với đúng nghĩa của nó là từ sau cách mạng khoa học kỹ thuật lần 2(Thế kỷ XIX). Nhưng con người nghiên cứu biển, đại dương để phục vụ cho kinh tế xã hội đất liền và đem con mắt của các nhà khoa học, kinh tế đất liền mà hoạch định chiến lược, chính sách khai thác biển, đại dương. Song dần dần các nhà kinh tế học cũng đã đưa ra được một phức hợp kinh tế biển bao gồm 6 lĩnh vực: (1) Kinh tế cảng; (2) Kinh tế đóng tàu;(3) Kinh tế dầu khí và khai thác mỏ; (4) Kinh tế hải sản;(5) Kinh tế du lịch; (6) Kinh tế lấn biển.
- Với 6 lĩnh vực trên cho thấy kinh tế biển là kéo dài của kinh tế đất liền. Nhưng vào nửa cuối Thế kỷ XX những nhà bác học, kinh tế học nổi tiếng thế giới đã nói đến “nền kinh tế tương lai của loài người, trước hết là nền kinh tế đại dương”. Nền kinh tế tương lai ấy đã có một báo hiệu vô cùng quan trọng, đó là nguồn năng lượng biển nguồn năng lượng sạch và dồi dào như: Năng lượng sóng biển; Năng lượng của thủy triều; Các dạng năng lượng biển khác ) Điện phát ra từ chênh lệch độ mặn, biến sự chênh lệch nhiệt độ của biển thành điện năng và nước biển có thể đốt được). Nếu khai thác được nguôn năng lượng mới này phải chăng đây là cuộc cách mạng về năng lượng. Hệ quả của cuộc cách mạng này thật là khôn lường. Nếu con người tìm ra lửa đã biến xã hội con người từ dã man tới văn minh thì với cuộc cách mạng mới về năng lượng con người sẽ bước vào một giai đoạn mới mà ta chưa biết đặt tên cho nó là giai đoạn gì. Nhưng có thể dự báo rằng, với cuộc cách mạng năng lượng mới và sự ra đời của “kinh tế đại dương” nhân loại sẽ tạo nên được một trạng thái kinh tế phức hợp mới gồm: Kinh tế đất liền; Kinh tế biển và Kinh tế đại dương. Trong đó “kinh tế đại dương” là hạt nhân của phức hợp này. Nhờ đó mà nhân loại tạo ra được một phong cách ứng xử với hành tinh của minh, một hành tinh “Trái Đất Nước”. Một khi trạng thái kinh tế phức hợp mới ra đời, đến lúc đó của cải sẽ tràn ra như nước. Con người từ vương quốc tất yếu bước tới vương quốc của Tự do – như ăngghen dự báo. Và cũng vào lức này một quá trình toàn cầu hóa mới sẽ ra đời, nó khắc hẳn về chất do với toàn cầu hóa lần thứ nhất và cả toàn cầu hóa hiện nay nữa. Khi đề xuất chiến lược biển của Thế kỷ XXI, trước hết phải dự báo được xu thế phát triển của nhân loại đối với nền “kinh tế đại dương” và phải thấy được một quá trình ngược lại – con người sẽ đi từ đại dương vào đất liền. Nói một cách khác là kinh tế đại dương – kinh tế biển tác động quyết định đến kinh tế đất liền.
- VIỆT NAM TỪ VĂN MINH NÔNG NGHIỆP LÚA NƯỚC TIẾN RA BIỂN VÀ ĐẠI DƯƠNG. Việt nam với những nét đặc thù của văn minh lúa nước. Ruộng lúa nước là đối tượng lao động và tư liệu lao động chủ yếu. Cây lúa chiếm ưu thế tuyệt đối trong nông nghiệp suốt từ thời kỳ văn minh đến nay. Nông nghiệp Việt nam là nông nghiệp châu thổ và tuyệt đại bộ phận dân số Việt Nam tập trung ở châu thổ. Ý thức, tư tưởng, tình cảm xã hội, văn hóa nghệ thuật nảy sinh và phát triển trong văn minh lúa nước Việt Nam. Với 4 nét đặc thù trên đây, ông cha ta dù có nói tới rừng vàng, biển bạc song chủ yếu vẫn là khai thác rừng, biển phục vụ cho nến kinh tế nông nghiệp lúa nước mà thôi. Bởi vậy, cho đến nay vẫn còn tình trạng lên rừng phá rừng, xuống biển phá biển. Vậy nếu giờ đây xây dựng một chiến lược biển hay một nền kinh tế biển mà không làm thay đổi cơ bản về cách ứng xử của con người Việt nam với rừng và nhất là với biển thì làm sao kinh tế biển, chiến lược biển có thể thực thi được. Hơn nữa còn phải khắc phục cả một truyền thống nghiên cứu và hoạch định chiến lược, chương trình khai thác biển và đại dương chỉ nhằm phục vụ cho kinh tế đất liền mà chưa có được một cách nhìn tổng thể về một nền kinh tế mới – kinh tế đại dương của Thế kỷ XXI mà nhiều nhà khoa học, kinh tế học trên thế giới đã dự báo. Tóm lại, chúng ta phải vượt qua nền văn minh lúa nước để công nghiệp hóa hiện đại hóa với hướng đi của chiến lược biển đất liền. Nghĩa là phải nghiên cứu thật sâu về biển và bước đầu nghiên cứu đại dương. Vấn đề con người và cộng đồng người trong chiến lược biển a. Con người của biển
- Muốn thực thi chiến lược – kinh tế biển, phải có “con người của biển”. Vậy con người của biển phải là con người như thế nào: Con người phải cảm thụ được cái đẹp và giá trị của biển cả, gắn bó sống còn với biển, chứ không phải chỉ biết khai thác biển cả theo cung cách “săn bắt hái lượm” của người nguyên thủy. Nghĩa là phải biết nuôi dưỡng biển rồi sau đó mới khai thác biển. Bởi vậy: Phải có kỹ thuật khoa học tiên tiến. Có kỹ thuật, khoa học tiến tiến chưa đủ còn phải có vốn liếng và biết kinh doanh nữa. Có vấn, có kỹ thuật, khoa học tiên tiến, biết kinh doanh cũng chưa đủ mà còn phải có tinh thần mạo hiểm, biết chấp nhận mọi rủi ro, không thể trông chờ và ỷ lại vào bất cứ ai, bất cứ điều gì. Thiếu những đức tinh tối thiểu đó, con người “ra biển” chỉ phá biển mà thội! Nói cách khác, cư dân biển phải khác hẳn với cư dân nông nghiệp lúa nước. b. Cộng đồng của cư dân biển. Đó là một cộng đồng tứ xứ của dân tộc Việt Nam hội tụ lại – không chỉ thế mà còn là “cư dân bốn biển” về đây một cộng đồng mới về chất so với cộng đồng làng xã của văn minh lúa nước. Đó là một cộng đồng có văn hóa ứng xử “đẹp đẽ” với biển cả và với con người tứ xứ, bốn biển “là nhà”. Một cộng đồng được điều hành dựa trên Hiến pháp và luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế, không có cái lối điều hành theo kiểu “phép vua thua lệ làng”. Gắn kết với nhau về lợi ích của chiến lược biển (nói hẹp hơn là kinh tế biển của nước CHXHCN Việt Nam). Biển và sự hội nhập kinh tế quốc tế bảo vệ Tổ quốc Một nguồn nhân lực mới, một cộng đồng ven biển mới về chất không chỉ tạo nên sự phát triển kinh tế xã hội, văn hóa, giáo dục,...Một sức mạnh
- tổng hợp nhờ đó tạo nên một nền tảng vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc với một nền an ninh tổng hợp. An ninh tổng h ợp là cách nhìn nhận mới, an ninh quốc phòng chỉ là một khía cạnh của an ninh tổng hợp trong công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trong lịch sử Việt Nam thì xây dựng Tổ quốc luôn gắn liền với bảo vệ Tổ quốc. Lá chắn “biển cả” luôn là mối lo âu của nhân dân Việt Nam – quân thù luôn tấn công ta từ biển cả, nhất là từ giữa Thế kỷ XIX đến nay. Giờ đây các nước đều có chiến lược biển và thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hóa thì vấn đề “cửa ngõ biển cả” càng phải sao cho thông thoáng để tiếp nhận những “luồng gió trong lành” của bốn phương thổi tới mở mang đất nước. Vì ben biển là mảnh đất hội nhập kinh tế quốc tế tốt nhất: Nơi đây có hệ thống cảng biển Việt Nam gắn với hệ thống cảng biển quốc tế, có đường hàng hải Việt Nam gắn với hàng hải quốc tế, có du lịch biển, khơi thông cho mối quan hệ quốc tế,... Đồng thời ven biển cũng là nơi tiếp nhận nhanh nhất khoa học kỹ thuật, kinh tế biển hôm nay và kinh tế đại dương trong tương lai. Song muốn thực thi chiến lược biển nói chung và kinh tế biển nói riêng lại đòi hỏi vốn lớn, khoa học kỹ thuật hiện đại, năng lực kinh doanh, sản xuất, trình độ quản lý đạt trình độ đương đại. Đó là những đòi hỏi bắt buộc để phát triển kinh tế biển nói riêng và chiến lược biển nói chung. Do đó bắt buộc chúng ta phải tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế. Vì thế giới hôm nay đang có đủ những điều mà chúng ta cần. Đồng thời các nước trong thế giới đương đại cũng đang phụ thuộc lẫn nhau, không phải chỉ nước nghèo phụ thuộc nước giàu mà nước giàu muốn phát triển cũng không thể phát triển đơn độc mà cũng buộc phải gắn bó với các nước đang phát triển để cùng nhau tồn tại và phát triển. Xu thế toàn cầu hóa là xu thế khách quan và xuất hiện nhiều mâu thuẫn mới. Chính vì thế, nó đã tạo nên một sự đan xen và phụ thuộc lẫn nhau về nhiều lĩnh vực phụ thuộc tổng thể, không chỉ về kinh tế, khoa học kỹ thuật mà còn về chính trị xã hội, văn hóa, an ninh. Như vậy, biết tận dụng những mặt thuận của toàn cầu hóa và khắc phục những mặt nghich của nó thì chính là Việt Nam đã tạo ra được một nền an ninh tổng hợp.
- Hơn thế, nếu vùng ven biển – nơi cư trú của những con người mới và một cộng đồng mới về chất như trên đã trình bày thì chính nơi đây sẽ tạo nên một sức mạnh tổng hợp Việt Nam, kết hợp sức m ạnh dân tộc và sức mạnh thời đại của Thế kỷ XXI. 2. Theo công ứơc 1982 của liên hợp quốc, quốc gia ven biển có những vùng biển nào? (bề rộng và quyền của các quốc gia quanh biển với vùng biển đó và các quy định của việt nam về vấn đề này) Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (tiếng Anh: United Nations Convention on Law of the Sea UNCLOS), cũng gọi là Công ước Luật biển hay cũng được những người chống đối nó gọi là Hiệp ước Luật biển, là một hiệp ước quốc tế được tạo ra trong Hội nghị về luật biển Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 diễn ra từ năm 1973 cho đến 1982 với các chỉnh sửa đã được thực hiện trong Hiệp ước Thi hành năm 1994. Công ước Luật biển là một bộ các quy định về sử dụng các đại dương của thế giới, chiếm 70% diện tích bề mặt Trái Đất. Công ước đã được ký kết năm 1982 để thay thế cho 4 hiệp ước năm 1958 đã hết hạn. UNCLOS có hiệu lực năm 1994, và đến nay, 154 quốc gia và Cộng đồng châu Âu đã tham gia Công ước này. Hoa Kỳ không tham gia vì nước này tuyên bố rằng hiệp ước này không có lợi cho kinh tế và an ninh của Mỹ. Công ước quy định quyền và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử dụng biển, thiết lập các hướng dẫn rõ ràng cho các hoạt động kinh doanh, bảo vệ môi trường và cải thiện quản lý các tài nguyên thiên nhiên đại dương. Các sự kiện mà thuật ngữ đề cập trong Công ước là: Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 1, Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 2, Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 3. Công ước này là kết quả của Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 3 và cũng mang tên gọi Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc. Trong khi Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc nhận được các công cụ phê chuẩn và gia nhập và Liên Hiệp Quốc quy định ủng hộ các cuộc họp của các quốc gia là thành viên của Công ước thì Liên Hiệp Quốc không có vai trò hoạt động trong việc thi hành Công ước này. Tuy nhiên các tổ chức liên chính phủ tự trị như: Tổ chức Hàng hải Quốc tế, Ủy ban Cá voi Quốc tế và Cơ quan quản lý Đáy biển Quốc tế được Công ước này thành lập lại có một vai trò trong việc thực thi Công ước.
- Như chúng ta biết: Theo Bộ Ngoại giao Việt Nam, những hiệp định phân định chủ quyền trên biển của Việt Nam, bao gồm hiệp định phân định chủ quyền trong Vịnh Thái Lan với Thái Lan năm 1997, hiệp định phân định chủ quyền trong Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc năm 2000 và hiệp định chủ quyền thềm lục địa với Indonesia, đều được đàm phán dựa trên UNCLOS. Trước chủ trương, chiến lược và hành động của Trung Quốc trên biển, Việt Nam đã nhiều lần dựa trên UNCLOS để khẳng định chủ quyền của mình. Quan điểm của Việt Nam là tranh chấp biển và thềm lục địa phải được giải quyết dựa trên UNCLOS. Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên của UNCLOS. Việt Nam và Trung Quốc đã tuyên bố chung là phải có giải pháp cơ bản mà hai bên chấp nhận được. “Chấp nhận được” không thể là “nước mạnh làm gì họ muốn, nước yếu chấp nhận những gì mình đành phải chấp nhận”, mà phải dựa trên lẽ công bằng như UNCLOS đòi hỏi và thí dụ như được thể hiện trong UNCLOS. Các nước khác, thí dụ như Mỹ, cũng cho là tranh chấp Biển Đông phải được giải quyết theo luật quốc tế chứ không phải bằng cách chiếm đoạt Rõ ràng, UNCLOS là một công cụ rất quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trước chủ trương của Trung Quốc đối với Biển Đông. Thế nhưng, cho tới nay nội dung của UNCLOS vẫn chưa được quảng bá rộng rãi trong chúng ta. Ngay cả giới trí thức, giới luật học, ngay cả những người quan tâm về chủ quyền lãnh thổ, cũng chưa biết nhiều về UNCLOS. Hi vọng bản công ước UNCLOS này sẽ đóng góp thêm một phương tiện quý báu giúp tất cả chúng ta phát huy tinh thần yêu nước và trí tuệ mình, cụ thể là tất cả giúp chúng ta hiểu và đấu tranh cho sự công bằng cho chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông.
- 3. Hãy trình bày và phân tích các luận cứ lịch sử và căn cứ pháp lý để khẳng định rằng Việt Nam đã hoàn toàn chiếm hữu và làm chủ 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngay khi chúng chưa thuộc hệ thống hành chính của bất kỳ quốc gia nào? Quần đảo Trường Sa (tiếng Anh: Spratly Islands; tiếng Trung Quốc: ? ? ? ? Nam Sa quần đảo; tiếng Filipino và tiếng Tagalog:Kalayaan; tiếng Malay và tiếng Indonesia: Kepulauan Spratly) là nhóm gồm hơn 100 đảo nhỏ và đảo đá ngầm đang trong tình trạng tranh chấp ở Biển Đông. Nằm trong Biển Đông, quần đảo Trường Sa được bao quanh bởi những vùng đánh cá trù phú và giàu có về tài nguyêndầu mỏ và khí đốt, hiện vùng mở rộng (diện tích) của nó vẫn còn chưa được biết và đang trong vòng tranh cãi. Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc, mỗi nước đều tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ quần đảo; trong khi Brunei, Malaysiavà Philippines, mỗi nước tuyên bố chủ quyền nhiều phần. Những nước tham gia tranh chấp này có quân đội đóng trên từng phần của quần đảo Trường Sa và kiểm soát nhiều căn cứ trên các đảo nhỏ và đảo đá ngầm khác nhau. Đài Loan chiếm một trong những đảo lớn nhất, đảo Ba Bình. Tháng 2 năm 1995, Trung Quốc chiếm đảo đá ngầm Vành khăn (Mischief reef) từ tay Philippines, gây nên một cuộc khủng hoảng chính trị lớn ở Đông Nam Á, đặc biệt với Philippines. Đầu năm 1999, những cuộc tranh cãi lại tăng lên khi Philippines tuyên bố rằng Trung Quốc đang xây dựng đồn bốt quân sự trên đảo đá ngầm này. Mặc dầu những tranh cãi sau đó đã giảm bớt một chút, nhưng chúng vẫn là một trong những nguyên nhân có thể gây ra một cuộc chiến lớn ở Đông Nam Á với sự tham gia của Trung Quốc hay một cuộc chiến nhỏ hơn giữa các nước tuyên bố chủ quyền khác. Việt Nam tuyên bố chủ quyền Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với đảo dựa trên vị trí lịch sử và trên nguyên tắc thềm lục địa. Các bản đồ địa lý cổ Việt Nam ghi chép Bãi Cát Vàng để chỉ cả Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam từ đầu thế kỷ 17. Trong cuốn Phủ Biên Tạp Lục của học giả Lê Quý Đôn, Hoàng Sa và Trường Sa được định nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
- Trong Đại Nam Thống Nhất Toàn Đồ, một cuốn bản đồ của Việt Nam được hoàn thành năm 1838, Trường Sa được vẽ thuộc lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc khảo sát địa lý và tài nguyên trên quần đảo. Kết quả của các chuyến khảo sát đó đã được ghi chép trong văn học và lịch sử Việt Nam và được xuất bản kể từ thế kỷ 17. Hơn nữa, sau một hiệp ước ký kết với triều đại nhà Nguyễn, Pháp đại diện cho các quyền lợi của Việt Nam đối với các công việc quốc tế và đã thi hành chủ quyền trên quần đảo thay cho Việt Nam. Ngày 7 tháng 7 năm 1951, Trần Văn Hữu, chủ tịch phái đoàn chính phủ Bảo Đại tới dự Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hoà bình với Nhật Bản tuyên bố rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc lãnh thổ Việt Nam. Tuyên bố này không bị bác bỏ hay bảo lưu ý kiến nào của 51 nước có mặt tại hội nghị. Sau khi Pháp rút đi, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã thi hành chủ quyền trên quần đảo. Hiện nay Việt Nam giữ 21 đảo. Chúng được gộp vào thành một huyện thuộc tỉnh Khánh Hoà. Quần đảo Hoàng Sa ?? có nghĩa là "cát vàng" (tiếng Anh: Paracel Islands;là một nhóm khoảng 30 đảo, bãi san hô và mỏm đá ngầm nhỏ ở Biển Đông (xem Đảo Biển Đông). Quần đảo nằm cách miền trung Việt Nam khoảng một phần ba khoảng cách đến những đảo phía bắc của Philippines; cách Cù lao Ré (đảo Lý Sơn) của Việt Nam khoảng 200 km và cách đảo Hải Namcủa Trung Quốc khoảng 230 km. Ngày xưa quần đảo này đã mang tên là Bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng. Vì có vô số hòn đảo, hòn đá, cồn đụn, bãi cạn lúc nổi lúc chìm theo với mực nước thủy triền lên xuống nên số lượng đảo tùy theo cách đếm mà kể là nhiều hay ít. Giáo sư Sơn Hồng Đức cho số lượng là 120 đảo; sách cổ Việt Nam trong những thế kỷ trước đây cho biết có 130 đảo. Việt Nam Việt Nam tổ chức quần đảo thành huyện đảo Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng.
- Ngày 15 tháng 6 năm 1932, Toàn quyền Đông Dương thiết lập đại lý hành chính ở Hoàng Sa. Trước năm 1938, quần đảo Hoàng Sa thuộc phủ Quảng Nghĩa, tỉnh Quảng Nam. Ngày 30 tháng 3 năm 1938, vua Bảo Đại ký đạo dụ chuyển Hoàng Sa về tỉnh Thừa Thiên. Ngày 5 tháng 5 năm 1939, Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié chia quần đảo thành hai đại lý hành chính:délégation du Croissant et dépendences (đại lý Trăng Khuyết và phụ cận) và délégation de l'Amphitrite et dépendences (đại lý Tuyên Đức và phụ cận). Ngày 13 tháng 7 năm 1961, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh số 175NV đặt tên là xã Định Hải, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Nghị định số 709BNVHC ngày 21 tháng 10 năm 1969 của Thủ Tướng Chính Phủ Việt Nam Cộng hòa đã sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long cũng thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Từ năm 1982 là huyện đảo thuộc tỉnh Quảng NamĐà Nẵng và từ năm 1996 thuộc thành phố Đà Nẵng. Huyện đảo Hoàng Sa, được thành lập từ tháng 1 năm 1997, là một quần đảo san hô nằm cách thành phố Đà Nẵng170 hải lý (khoảng 315 km), bao gồm các đảo: đảo Hoàng Sa, đảo Đá Bắc, đảo Hữu Nhật, đảo Đá Lồi, đảo Bạch Quy,đảo Tri Tôn, đảo Cây, đảo Bắc, đảo Giữa, đảo Nam, đảo Phú Lâm, đảo Linh Côn, đảo Quang Hòa, Cồn Bông Bay, Cồn Quan Sát, Cồn Cát Tây, Đá Chim Yến. Huyện đảo Hoàng Sa có diện tích: 305 km², chiếm 24,29% diện tích thành phố Đà Nẵng. Ngày 21 tháng 4 năm 2009, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng ký quyết định bổ nhiệm Chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa nhiệm kỳ 20092014 đối với ông Đặng Công Ngữ. Cùng ngày, thành phố Đà Nẵng cũng tổ chức lễ bổ nhiệm chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa. Bộ máy cán bộ chuyên trách của chính quyền huyện đảo Hoàng Sa sẽ được thiết lập theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trước mắt, chính quyền huyện đảo Hoàng Sa sẽ hoạt động tại trụ sở của Sở Nội vụ Đà Nẵng.[29] Tại Thành phố Hồ Chí Minh, con đường hai bên bờ rạch Thị Nghè được đặt tên là Hoàng Sa và Trường Sa.
- 4. Lợi thế và tiềm năng của biển đảoViệt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc và những thách thức, thuận lợi trong việc tiến ra làm chủ biển đảo. Biển và đại dương chiếm vị trí hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị thế giới và được coi là “ Không gian sinh tồn” của nhân loại trong tương lai. Do vậy, tiến ra biển để khai thác và làm chủ biển là một xu thế tất yếu, đã trở thành chiến lược vươn lên của nhiều quốc gia. Là một quốc gia ven biển nằm ở phía Đông bán đảo Đông Dương, Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, vùng biển rộng trên 1 triệu km 2, gấp hơn ba lần diện tích đất liền; có trên 3000 hòn đảo lớn, nhỏ gần bờ và xa bờ, chạy suốt từ Vịnh Bắc Bộ đến Vịnh Thái Lan. Đặc biệt, có hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là những nét đặc trưng cơ bản của cấu trúc và sự phân hoá lãnh thổ Việt Nam tạo ra cho đất nước ta tính đa dạng về cảnh quan thiên nhiên và nguồn lợi thuỷ sinh vật. Biển Đông và các vùng biển, đảo của nước ta có vị trí chiến lược rất quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là nơi có nhiều nguy cơ gây mất ổn định, uy hiếp chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển của ta. Đồng thời, biển còn là kho lưu giữ các bí mật của quá khứ, ghi nhận những trang sử hào hùng về các cuộc chiến tranh giữ nước và lịch sử dựng nước của dân tộc Việt Nam. Biển thực sự là bộ phận, lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam, là di sản thiên nhiên của dân tộc, là chỗ dựa tinh thần và vật chất cho người dân. Hơn nữa, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của dân tộc Việt Nam và ngày càng có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò đó của biển được thể hiện trên các mặt sau: vai trò của biển trong phát triển thương mại quốc tế Biển Đông, trong đó có vùng biển Việt Nam có vị trí địa kinh tế, chính trị đặc biệt quan trọng và từ lâu đã là nhân tố không thể thiếu trong chiến lược phát triển không chỉ của các nước xung quanh Biển Đông mà còn của một số cường quốc hàng hải khác trên thế giới. Bước vào thế kỷ XXI, giống như nhiều quốc gia khác, Việt Nam đang hướng mạnh về biển để tăng cường tiềm lực kinh tế của mình. Đây là
- hướng đi đúng đắn, bởi lẽ biển Việt Nam chứa đựng nhiều tiềm năng phát triển kinh tế to lớn. Trước tiên phải kể đến dầu khí, một nguồn tài nguyên mũi nhọn, có ưu thế nổi trội của vùng biển Việt Nam. Riêng trữ lượng dầu khí ngoài khơi miền Nam Việt Nam đã chiếm 25 % trữ lượng dầu dưới đáy Biển Đông, có thể khai thác từ 30 – 40 nghìn thùng /ngày, khoảng 20 triệu tấn/năm. Mặc dù, so với nhiều nước, nguồn tài nguyên dầu khí chưa thật lớn, song đối với nước ta nó có vị trí rất quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn nền kinh tế đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh dầu, Việt Nam còn có khí đốt với trữ lượng khoảng 3 nghìn tỷ m3/ năm. Ngoài dầu và khí, dưới đáy biển nước ta còn có nhiều khoáng sản quý như thiếc, titan, thạch anh, nhôm, sắt, đồng, kền và các loại đất hiếm. Nguồn lợi hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực. Ngoài cá biển là nguồn lợi chính còn nhiều loại đặc sản khác có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, mực, hải sâm, rong biển…Riêng cá biển đã phát hiện hơn 2000 loài khác nhau, trong đó trên 100 loài có giá trị kinh tế cao với tổng trữ lượng hải sản khoảng 3 – 4 triệu tấn. Ở Việt Nam, cứ trung bình 20km bờ biển có một cửa sông lớn. Các vũng, vịnh ven bờ chiếm khoảng 60 % đường bờ biển, trong đó có 12 vũng vịnh lớn. Đó là những tiền đề quan trọng đối với phát triển cảng và hàng hải ở nước ta. Đến nay, Việt Nam có 8 cảng tổng hợp quan trọng thuộc các địa bàn: Quảng Ninh, Hải Phòng, Cửa Lò, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu và Sài Gòn với tổng năng lực bốc xếp trên 10 triệu tấn/năm. Tài nguyên du lịch biển cũng là một ưu thế đặc biệt, mở ra triển vọng khai thác tổng hợp để phát triển mạnh. Các bãi biển của nước ta phân bố trải đều từ Bắc vào Nam. Từ Móng Cái đến Hà Tiên có hàng loạt các bãi tắm đẹp như Trà Cổ, Sầm Sơn, Cửa Lò, Nha Trang, Vũng Tàu…Một số địa danh du lịch biển của Việt Nam đã được biết đến trên phạm vi toàn cầu như vịnh Hạ Long – hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới, đang nằm trong danh sách đề cử kỳ quan thiên nhiên của thế giới. Vịnh Nha Trang được coi là một trong những vịnh đẹp nhất hành tinh, bãi biển Đà Nẵng được tạp chí Forbes bầu chọn là một trong sáu bãi tắm quyến rũ nhất hành tinh. Tiềm năng du lịch biển của nước ta không thua kém bất kỳ một quốc gia nào trong khu vực.
- Chính vì vậy, việc phát huy lợi thế của một quốc gia có biển, kết hợp phát triển kinh tế biển với an ninh, quốc phòng phải trở thành một chiến lược lâu dài của nước ta nhằm xây dựng quốc gia Việt Nam mạnh về biển và phát triển kinh tế biển thành một bộ phận mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và những nhiệm vụ bức bách đang đặt ra cho dân tộc ta trước những thời cơ mới cũng như thách thức mới. Mỗi người dân cần đóng góp trí tuệ và sức lực cụ thể của mình, góp phần xây dựng các vùng biển, đảo thành vùng kinh tế giàu, mạnh, vùng quân sự vững chắc trong phòng tuyến an ninh giữ gìn và bảo vệ sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ các quyền lợi của quốc gia. 5. Học sinh cần làm gì để bảo vệ vũng chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc và xây dựng Việt Nam thành quốc gia giàu mạnh từ biển. Chủ quyền quốc gia là thiêng liêng, bảo vệ chủ quyền là nghĩa vụ của mọi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Chúng ta tiến hành việc này bằng sức mạnh tổng hợp. Hiện nay chúng ta bảo vệ chủ quyền trong thời kỳ hòa bình, cần phải giữ ổn định môi trường cho sự phát triển, cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cái này là bản lĩnh của chúng ta và cũng chính là bản lĩnh của thế hệ trẻ. Nhiệm vụ của chúng ta là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiềm lực, khả năng của chúng ta. Thanh niên bảo vệ Tổ quốc là tham gia phát triển kinh tế, khai thác khoáng sản, du lịch, dầu khí... Không chỉ có hải quân mới bảo vệ biển, mà còn là dân quân tự vệ biển, trí thức trẻ của các trường ĐH thuộc các ngành nghề phát triển nguồn lực biển, khí tượng thủy văn... Đó cũng là một cách để thể hiện tinh thần yêu nước của mình. Hiện nay có một bộ phận không nhỏ giới trẻ, rất ít (chứ không muốn nói là không quan tâm) quan tâm đến vấn đề tranh trấp Biển đông. Tuy nhiên trong số những con người đó có thể có quan tâm nhưng họ lại không biết thu thập thông tin từ các nguồn nào ngoài thời sự, báo và internet….. điều họ thiếu là do từ gốc từ hệ thống giáo dục của chúng ta rất ít đề cập đến vấn đề lịch sử chủ quyền trên Biển đông. Chúng ta phải làm sao phổ biến kiến thức sâu rộng hơn nữa trong giới trẻ về vấn đề Biển đông cũng như phải gán trách nhiệm cho họ về vận mệnh của Tổ quốc trong tay họ. Mặt khác chúng ta phải dựa vào sức mạnh toàn dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ của kiều bào ở khắp nơi trên thế giới của bạn bè yêu chuộng hoà bình
- trên thế giới. Hiện nay theo tôi được biêt tại Việt Nam có rất nhiều bạn trẻ quan tâm và đang tỉm hiểu, nghiên cứu về chủ quyền tổ quốc đối với biển đảo, ví dụ như diễn đàn học thuật hoàng sawww.hoangsa.org hay www.biendao.org. Họ đại diện phần nào cho giới trẻ yêu nước đi tiên phong và tiếp bước các thế hệ đi trước trong vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu về việc xác lập chủ quyền của ông cha ta trên các lãnh thổ biển và sự nghiệp bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Chúng ta cần ủng hộ và động viên họ, giúp đỡ, cung cấp các tài liệu liên quan để công việc của họ thuận lợi. Họ là những sinh viên trẻ đang học hay đang đi làm và có nhiều người khi học trong trường hay khi họ đi làm họ cũng không làm công việc liên quan đến lịch sử, luật pháp nhưng nhờ tình yêu dân tộc đã gắn kết họ lại để họ cùng nhau nghiên cứu về Biển đông. Chúng ta phải làm sao để họ biết rằng họ là những trí thức trẻ Việt Nam đại diện cho dân tộc nói lên suy nghĩ của cả dân tộc về chủ quyền đất nước. Một điều nữa là có rất nhiều kiều bào của ta đang sống xa tổ quốc nhưng con tim của họ luôn hướng về Tổ quốc, họ có rất nhiều hành động và việc làm để xây dựng và phát triển đất nước. Chúng ta cần có những hành động để động viên họ và nhờ họ quảng bá hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế có như vậy thì việc khẳng định chủ quyền và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc sẽ thành công ! TUỔI TRẺ TRƯỜNG THCS HƯƠNG SƠN HƯỚNG VỀ BIỂN ĐẢO QUÊ HƯƠNG Vừa qua, Thành đoàn TP Thái Nguyên đã tổ chức Lễ phát động chương trình “ Tuổi trẻ thành phố Thái Nguyên vì biển đảo quê hương” góp phần hưởng ứng cuộc thi viết "Tuổi trẻ với tình yêu biển đảo quê hương" do Thanhnienviet.vn phối hợp tổ chức. Hưởng ứng cuộc phát động tuổi trẻ trường THCS Hương Sơn đã tham gia với tinh thần trách nhiệm cao thể hiện tình yêu và niềm tự hào của mình với biển đảo quê hương.
- Kết quả đã có 483 bài viết và 483 bức tranh được gửi tham gia cuộc thi. Sau đây ban biên tập xin được trân trọng giới thiệu bài dự thi của em Đỗ Tuấn Hiệp – Lớp 6C đã được Thành đoàn TPTN gửi các chiến sĩ đảo trường sa. “ Em sinh ra trên miền đất thép, miền đất của những đồi chè xanh mượt, miền đất của những mẻ gang, mẻ thép nóng đỏ xây lên biết bao công trình trên đất nước Việt Nam, trên dải đất hình chữ S thân yêu. Không phải là người con của biển nhưng tình yêu của em với biển có gì đó to lớn lắm. Em ước mình được đặt chân đến tất cả các bãi biển trên dải đất hình chữ S ấy để thấy rằng: Tổ quốc mình thật đẹp vì có biển đảo. Đặc biệt nhân dịp này, em muốn gửi tình cảm nhỏ bé của mình đến quần đảo Trường Sa yêu dấu. Trường Sa ơi hỡi Trường Sa Gửi anh tấm áo thiết tha mặn nồng. Gửi anh một tấm chân thành Gửi anh một mảnh trăng tròn sáng soi. Em được sinh ra và lớn lên trong thời bình không bom rơi đạn lạc, không chết chóc đau thương. Chiến tranh để lại trong con người những mất mát quá lớn người mất nhà, kẻ mất cha, nỗi đau chồng chất nỗi đau để rồi con tim như thắt chặt và chảy máu. Đã qua rồi những năm tháng đau thương ấy nhưng vẫn còn nơi đây, đất nước em yêu, cái mà chúng em đang cố gắng giữ gìn. Đất nước hai tiếng thiêng ấy đã lấy đi quá nhiều nước mắt của dân em. Mỗi tấc đất lại là nơi chôn chặt một con người yêu nước thương dân. Nhìn lại quá khứ và hiện tại có lẽ cuộc sống của em đã quá đầy đủ và hơn ai hết chẳng bao giờ em hiểu được nỗi đau và sự mất mát của những anh chiến sĩ ngày đêm hướng mắt nhìn canh giữ quê hương. Em bất chợt nghĩ có thể là cuộc sống của em quá vô nghĩa hay chính bản thân em chẳng làm được gì cho Tổ quốc. Cái mà bây giờ em có thể làm là viết, viết cho các anh những người luôn để trong lòng em sự tự hào khôn tả, các anh vất vả, nhọc nhằn mang tầm thân mình canh giữ quê hương của em, của anh và của cả Việt Nam thân yêu nữa! Chắc chắn ai cũng có
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn