YOMEDIA
ADSENSE
Thực trạng đào tạo lại của cán bộ y tế xã về chăm sóc sức khỏe bà mẹ tại tỉnh Hòa Bình năm 2017
66
lượt xem 1
download
lượt xem 1
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Mục tiêu nghiên cứu của bài viết nhằm mô tả thực trạng đào tạo lại của cán bộ y tế xã về chăm sóc sức khỏe bà mẹ tại tỉnh Hòa Bình năm 2017. Bài viết nghiên cứu mô tả được thực hiện trên 236 cán bộ y tế xã nhằm mô tả thực trạng đào tạo lại của cán bộ y tế xã về chăm sóc sức khỏe bà mẹ tại Hòa Bình năm 2017.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thực trạng đào tạo lại của cán bộ y tế xã về chăm sóc sức khỏe bà mẹ tại tỉnh Hòa Bình năm 2017
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO LẠI CỦA CÁN BỘ Y TẾ XÃ<br />
VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE BÀ MẸ TẠI TỈNH HÒA BÌNH NĂM 2017<br />
Nguyễn Thị Thu Hà1, Nguyễn Hữu Thắng1, Võ Hoàng Long2,<br />
Bùi Văn Tùng3, Nguyễn Hoàng Nguyên3, Phạm Văn Quyết3<br />
1<br />
<br />
Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội<br />
Sinh viên bác sĩ Y học dự phòng khóa 2014 - 2020, Trường Đại học Y Hà Nội<br />
<br />
2<br />
3<br />
<br />
Sinh viên bác sĩ Y học dự phòng khóa 2013 - 2019, Trường Đại học Y Hà Nội<br />
<br />
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 236 cán bộ y tế xã nhằm mô tả thực trạng đào tạo lại<br />
của cán bộ y tế xã về chăm sóc sức khỏe bà mẹ tại Hòa Bình năm 2017. Tỷ lệ cán bộ y tế được đào tạo về<br />
chăm sóc sức khỏe bà mẹ chiếm 41,9% (99/236). Tỷ lệ cán bộ chuyên trách được đào tạo về chăm sóc sức<br />
khỏe bà mẹ là 56,8% (42/74). Trong đó, trung bình số cán bộ được đào tạo trong các nội dung chăm sóc<br />
sức khỏe bà mẹ trước sinh, trong sinh và sau sinh đạt lần lượt 77,4%, 69,5% và 85,8%.<br />
Từ khóa: Chăm sóc sức khỏe bà mẹ, đào tạo lại, cán bộ y tế xã, Hòa Bình<br />
<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Hiện nay, cung cấp các dịch vụ chăm sóc<br />
sức khoẻ bà mẹ vẫn là một thách thức lớn đối<br />
với hệ thống y tế ở các nước đang phát triển<br />
[1]. Theo báo cáo của Quỹ Dân số Liên hợp<br />
quốc (UNFPA) năm 2013, vẫn còn 289.000<br />
phụ nữ tử vong trong thời gian mang thai hoặc<br />
trong khi sinh đẻ. Hơn 3/4 số ca tử vong mẹ<br />
trên thế giới được tìm thấy ở khu vực Châu<br />
Phi và Đông Nam Á, lần lượt là 53% và 25%<br />
[2]. Ở Việt Nam mỗi năm có khoảng 580 - 600<br />
trường hợp tử vong mẹ, khoảng 3/4 các ca tử<br />
vong mẹ xảy ra trong khi sinh hoặc ngay sau<br />
khi sinh, tỷ số tử vong mẹ vẫn ở mức cao, đặc<br />
biệt là các vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu<br />
số [3; 4]. Theo ý kiến của các chuyên gia, nếu<br />
được đào tạo bài bản đội ngũ nhân viên y tế<br />
có thể giúp giảm tới 2/3 số ca tử vong bà mẹ<br />
và trẻ sơ sinh [5]. Tổ chức Y tế Thế giới<br />
<br />
khuyến cáo các nước phải có trung bình 2,28<br />
cán bộ chăm sóc sức khoẻ chuyên nghiệp<br />
trên 1000 người dân thì mới đạt mức bình<br />
quân theo yêu cầu về số lượng cán bộ y tế có<br />
tay nghề làm công tác hộ sinh. Tại Việt Nam,<br />
công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ nói chung<br />
cũng như nâng cao đội ngũ nhân viên y tế về<br />
công tác này nói riêng cũng luôn được các<br />
cấp các ngành quan tâm rõ rệt, tuy nhiên, vẫn<br />
tồn tại những bất cập về năng lực chuyên<br />
môn của nhân viên y tế làm công tác chăm<br />
sóc sản khoa, chăm sóc sơ sinh đặc biệt là ở<br />
tuyến y tế cơ sở. Nghiên cứu về thực trạng<br />
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ<br />
trước và trong khi sinh tại trạm y tế một số tỉnh<br />
Tây Nguyên năm 2004 cho thấy tại tỉnh Gia<br />
Lai 100% các xã không có y sỹ sản nhi và bác<br />
sỹ chuyên khoa phụ sản, các tỉnh còn lại cũng<br />
thiếu rất nhiều nhân lực [6]. Nghiên cứu của<br />
Trần Thị Mai Oanh cho thấy tỷ lệ các ca sinh<br />
<br />
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Hữu Thắng, Viện đào tạo Y học<br />
dự phòng và Y tế công cộng, trường đại học Y Hà Nội<br />
Email: nguyenhuuthang@hmu.edu.vn<br />
Ngày nhận: 10/5/2018<br />
Ngày được chấp thuận: 15/8/2018<br />
<br />
116<br />
<br />
tại trạm tương đối thấp, chỉ chiếm 24,4% tổng<br />
số các ca sinh đẻ trong năm. Tỷ lệ các trạm y<br />
tế có bác sỹ chiếm 42,3%, trong số này có<br />
đến 90% là bác sỹ chuyên tu, điều này giải<br />
<br />
TCNCYH 113 (4) - 2018<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
thích một phần cho việc tỷ lệ sinh con tại trạm<br />
thấp như vậy [7]. Hòa Bình là tỉnh miền núi<br />
khó khăn, mỗi trạm y tế có biên chế từ bốn<br />
đến sáu cán bộ y tế; hơn 60% số trạm có bác<br />
sĩ và hơn 2000 nhân viên y tế thôn, bản. Tuy<br />
nhiên, chất lượng cán bộ y tế tại địa phương<br />
còn nhiều hạn chế, theo nghiên cứu của<br />
Nguyễn Hoàng Long và các cộng sự thực<br />
hiện tại 8 vùng sinh thái năm 2014, trong đó<br />
có tỉnh Hòa Bình thì 64,4% trạm y tế chưa đạt<br />
chuẩn Quốc gia về nhân lực: 40,4% trạm y tế<br />
chưa có bác sĩ, 37,8% trạm y tế có y sĩ sản<br />
nhi, cán bộ y tế chưa được đào tạo đầy đủ,<br />
44,4% trạm y tế chưa được tập huấn về chăm<br />
<br />
4. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu:<br />
4.1. Cỡ mẫu: Tổng cộng 236 cán bộ y tế<br />
trực tiếp tham gia chăm sóc sức khỏe bà mẹ<br />
bao gồm bác sĩ, y sỹ, nữ hộ sinh, điều dưỡng.<br />
4.2. Chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện toàn<br />
bộ y, bác sỹ, nữ hộ sinh thuộc 58 trạm y tế xã<br />
trong 3 khu vực nghiên cứu.<br />
5. Kỹ thuật thu thập thông tin: Phỏng<br />
vấn cán bộ y tế bằng bộ câu hỏi có cấu trúc.<br />
6. Phân tích và xử lý số liệu<br />
Các số liệu sau khi thu thập được kiểm tra,<br />
làm sạch, mã hoá và nhập bằng phần mềm<br />
<br />
sóc trước sinh [8]. Nhằm cung cấp một phần<br />
<br />
Epidata 3.2 sau đó xử lý thống kê bằng phần<br />
<br />
thông tin giúp tỉnh Hòa Bình nắm bắt được<br />
<br />
mềm Stata12.0. Các số liệu được trình bày<br />
<br />
công tác đào tạo cán bộ y tế về chăm sóc sức<br />
<br />
dưới dạng biểu đồ và bảng biểu.<br />
<br />
khỏe bà mẹ tại địa bàn, từ đó có những biện<br />
pháp, chính sách hợp lí nhằm cải thiện chất<br />
lượng đội ngũ cán bộ y tế. Vì vậy, chúng tôi<br />
thực hiện đề tài với mục tiêu mô tả thực trạng<br />
đào tạo lại của cán bộ y tế xã về chăm sóc<br />
sức khỏe bà mẹ tại tỉnh Hòa Bình năm 2017.<br />
<br />
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả<br />
cắt ngang.<br />
2. Thời gian và địa điểm<br />
<br />
7. Đạo đức nghiên cứu<br />
Đối tượng nghiên cứu được giải thích về<br />
mục đích của nghiên cứu, sự tham gia là tự<br />
nguyện. Thông tin cá nhân được giữ bí mật và<br />
được mã hóa.<br />
<br />
III. KẾT QUẢ<br />
Kết quả của chúng tôi trên 236 cán bộ y tế<br />
tại các trạm y tế xã thuộc 3 khu vực của tỉnh<br />
Hòa Bình cho thấy: tuổi trung bình của cán bộ<br />
y tế được khảo sát là 41 tuổi, tỷ lệ nam nhân<br />
<br />
Nghiên cứu được tiến hành từ 12/2016<br />
đến 06/2017 tại tất cả các trạm y tế xã (58 xã/<br />
<br />
viên y tế thấp chiếm 23,3%. Cán bộ y tế là dân<br />
<br />
phường/thị trấn) trong 3 khu vực của tỉnh Hòa<br />
<br />
tộc Thái chiếm 20,8%, dân tộc Kinh chiếm<br />
<br />
Bình: thành phố Hòa Bình, huyện Mai Châu,<br />
huyện Lương Sơn.<br />
<br />
31,8%. Chỉ có 37/58 (63,8%) trạm y tế có bác<br />
<br />
tộc Mường chiếm tỷ lệ cao nhất 42,8%, dân<br />
<br />
sĩ đang làm việc. Trình độ chuyên môn khác<br />
<br />
3. Đối tượng<br />
<br />
gồm: Điều dưỡng và nữ hộ sinh chiếm tỷ lệ<br />
<br />
Chọn toàn bộ cán bộ trạm y tế xã trực tiếp<br />
<br />
cao (31,8%). Tỷ lệ cán bộ chuyên trách chiếm<br />
<br />
tham gia công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ<br />
thuộc 3 khu vực để nghiên cứu thực trạng đào<br />
<br />
32,5% (74/236), cán bộ chuyên trách gồm nữ<br />
<br />
tạo lại cán bộ về chăm sóc sức khỏe bà mẹ tại<br />
trạm y tế ở thời điểm nghiên cứu.<br />
<br />
giao nhiệm vụ phụ trách chăm sóc sức khỏe<br />
<br />
TCNCYH 113 (4) - 2018<br />
<br />
hộ sinh, y sĩ sản nhi và các cán bộ khác được<br />
bà mẹ.<br />
117<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
Biểu đồ 1. Tỷ lệ cán bộ y tế được đào tạo về chăm sóc sức khỏe bà mẹ<br />
trong năm 2015 và 2016<br />
Kết quả cho thấy có 41,9% số cán bộ y tế được đào tạo tại về chăm sóc sức khỏe bà mẹ tại<br />
tỉnh Hòa Bình trong 2 năm gần đây. Trong đó, huyện Mai Châu có tỷ lệ cán bộ y tế được đào tạo<br />
cao nhất (44%), thành phố Hòa Bình có tỷ lệ được đào tạo thấp nhất (38,6%). Nhóm cán bộ<br />
chuyên trách chăm sóc sức khỏe bà mẹ được đào tạo trong 2 năm gần đây chiếm tỷ lệ cao hơn<br />
các nhóm khác (56,8%).<br />
<br />
Biểu đồ 2. Nội dung đào tạo về chuyên môn chăm sóc sức khỏe bà mẹ<br />
trước sinh cho cán bộ y tế<br />
Kết quả cho thấy trung bình số cán bộ được đào tạo trong các nội dung chăm sóc sức khỏe<br />
bà mẹ trước sinh đạt 77,4%. Trong đó, nội dung về tư vấn về chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ có<br />
thai và theo dõi bà mẹ và thai nhi bằng biểu đồ chuyển dạ được đào tạo nhiều nhất (đều đạt<br />
82,8%), nội dung về phát hiện và xử trí sản giật được đào tạo ít nhất (62,6%).<br />
<br />
118<br />
<br />
TCNCYH 113 (4) - 2018<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
Biểu đồ 3. Nội dung đào tạo về chuyên môn chăm sóc sức khỏe bà mẹ<br />
trong sinh cho cán bộ y tế<br />
Kết quả cho thấy, trung bình số cán bộ được đào tạo trong các nội dung chăm sóc sức khỏe<br />
bà mẹ trong sinh đạt 69,5%. Trong đó, nội dung về thực hiện đỡ đẻ ngôi chỏm và phát hiện và xử<br />
trí chảy máu sau đẻ được đào tạo nhiều nhất đều đạt trên 80% số cán bộ. Các kỹ thuật bóc rau<br />
nhân tạo, thực hiện đỡ đẻ tại nhà và xử trí đẻ rơi ít được đào tạo nhất.<br />
<br />
Biểu đồ 4. Nội dung đào tạo về chuyên môn chăm sóc sức khỏe bà mẹ<br />
sau sinh cho cán bộ y tế<br />
Kết quả cho thấy, số cán bộ trung bình được đào tạo trong các nội dung chăm sóc sức khỏe<br />
bà mẹ sau sinh đạt 85,8%. Trong đó, đa số cán bộ y tế được đào tạo các nội dung tư vấn nuôi<br />
con bằng sữa mẹ, chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh sau đẻ, xử trí bất thường ở trẻ sơ sinh, chăm<br />
sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo (> 80% số cán bộ y tế được đào tạo).<br />
<br />
IV. BÀN LUẬN<br />
<br />
mẹ và 41,9% toàn bộ cán bộ y tế 3 khu vực ở<br />
<br />
Theo nghiên cứu này, có 56,8% tỷ lệ số<br />
<br />
Hòa Bình được đào tạo trong 2 năm gần đây<br />
<br />
cán bộ chuyên trách chăm sóc sức khỏe bà<br />
<br />
(biểu đồ 1). Kết quả này cao hơn nhiều so với<br />
<br />
TCNCYH 113 (4) - 2018<br />
<br />
119<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung năm<br />
<br />
đầu tư đúng, đầy đủ; địa điểm, thời gian đào<br />
<br />
2015 là 17,4% cán bộ y tế đã được đào tạo<br />
<br />
tạo phải thuận lợi đối với người học.<br />
<br />
[9]. Điều này có thể giải thích là do nghiên cứu<br />
<br />
Việc đào tạo lại cán bộ y tế là một trong<br />
<br />
của Nguyễn Thành Trung tiến hành trên các<br />
<br />
những nội dung chính của dự án giáo dục đào<br />
<br />
cán bộ y học cổ truyền tuyến huyện tại tỉnh<br />
<br />
tạo nhân lực y tế phục vụ cải cách hệ thống y<br />
<br />
Thanh Hóa, còn nghiên cứu của chúng tôi tiến<br />
<br />
tế. Qua đó nhằm giúp cán bộ y tế xã có thêm<br />
<br />
hành trên các cán bộ y tế xã phụ trách chăm<br />
<br />
kiến thức và thực hành tốt trong các nội dung<br />
<br />
sóc sức khỏe bà mẹ trên địa bàn tỉnh Hòa<br />
<br />
trước, trong và sau sinh về chăm sóc sức<br />
<br />
Bình. Nghiên cứu chỉ rằng, huyện Mai Châu<br />
<br />
khỏe bà mẹ sẽ giúp giảm tải bệnh viện tuyến<br />
<br />
có tỷ lệ được đào tạo cao nhất (44%), thành<br />
<br />
trên, đồng thời đóng góp hiệu quả hơn cho<br />
<br />
phố Hòa Bình có tỷ lệ được đào tạo thấp<br />
<br />
chính cộng đồng dân cư tại địa bàn họ công<br />
<br />
nhất (38,6%). Số cán bộ y tế được đào tạo về<br />
<br />
tác. Đối với việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ<br />
<br />
chăm sóc sức khỏe bà mẹ trong 2 năm gần<br />
<br />
trước sinh, kết quả cho thấy trung bình số cán<br />
<br />
đây ở mỗi 3 khu vực đều không đạt được một<br />
<br />
bộ được đào tạo trong các nội dung chăm sóc<br />
<br />
nửa số cán bộ y tế. Sự khác nhau này một<br />
<br />
sức khỏe bà mẹ trước sinh đạt 77,4%. Trong<br />
<br />
phần là do sự chênh lệch về điều kiện kinh tế<br />
<br />
đó, những nội dung về tư vấn trong chăm sóc<br />
<br />
xã hội đối với cán bộ y tế giữa 3 khu vực: Hòa<br />
<br />
sức khỏe sinh sản cho phụ nữ có thai và theo<br />
<br />
Bình đại diện cho khu vực thành phố, Lương<br />
<br />
dõi bà mẹ và thai nhi bằng biểu đồ chuyển dạ<br />
<br />
Sơn đại diện cho khu vực trung du và Mai<br />
<br />
là những nội dung được đào tạo nhiều nhất.<br />
<br />
Châu đại diện cho khu vực miền núi.<br />
<br />
Tuy nhiên, nội dung phát hiện và xử trí bà mẹ<br />
<br />
Tỷ lệ số cán bộ y tế được đào tạo về<br />
<br />
sản giật lại được đào tạo ít nhất. Mặc dù tình<br />
<br />
chăm sóc sức khỏe bà mẹ còn chưa cao do<br />
<br />
trạng sản giật hiện được cho là biến chứng<br />
<br />
chế độ đãi ngộ đối với cán bộ y tế chưa phù<br />
<br />
phổ biến và có ý nghĩa nhất trong sản khoa,<br />
<br />
hợp, lương và phụ cấp cho cán bộ y tế quá<br />
<br />
gây biến chứng 3 - 5% trong số các trường<br />
<br />
thấp, không tương xứng với thời gian học<br />
<br />
hợp mang thai [13]. Trong quá trình sinh đẻ,<br />
<br />
tập, công sức lao động, môi trường lao động,<br />
<br />
kết quả cho thấy trung bình số cán bộ được<br />
<br />
điều kiện làm việc vất vả, nhất là ở huyện<br />
<br />
đào tạo trong các nội dung chăm sóc sức<br />
<br />
Mai Châu [10]. Trưởng trạm y tế chưa chủ<br />
<br />
khỏe bà mẹ đạt 69,5%. Trong đó, hơn ¾ số<br />
<br />
động tham mưu cho Ủy ban Nhân dân Xã khi<br />
<br />
cán bộ được đào tạo về các nội dung thực<br />
<br />
muốn phối hợp với các ban ngành đoàn thể<br />
<br />
hiện đỡ đẻ ngôi chỏm, phát hiện và xử trí chảy<br />
<br />
trong công tác tổ chức đào tạo. Kinh phí tổ<br />
<br />
máu sau đẻ và thực hiện cắt và khâu tầng<br />
<br />
chức hạn chế, sự phối hợp với các ban<br />
<br />
sinh môn. Các kỹ thuật bóc rau nhân tạo, thực<br />
<br />
ngành đoàn thể chưa tốt [11]. Ngoài ra, số<br />
<br />
hiện đỡ đẻ tại nhà và xử trí đẻ rơi ít được đào<br />
<br />
lượng cán bộ y tế ở tuyến dưới đang còn<br />
<br />
tạo nhất. Có sự chênh lệch này là do kĩ thuật<br />
<br />
thiếu, nên nếu cử cán bộ đi học theo Quyết<br />
<br />
bóc rau nhân tạo là một kĩ thuật khó, nhiều<br />
<br />
định 225/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính<br />
<br />
khâu, cần có giáo cụ trực quan. Trong khi các<br />
<br />
phủ, hoặc những chương trình đạo tạo khác,<br />
<br />
kĩ thuật khác có thể học lý thuyết, học trên<br />
<br />
thì không có người thực hiện nhiệm vụ<br />
<br />
sách vở. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, số<br />
<br />
chuyên môn [12]. Vì vậy, cần phải có chế độ<br />
<br />
cán bộ trung bình được đào tạo trong các nội<br />
<br />
120<br />
<br />
TCNCYH 113 (4) - 2018<br />
<br />
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn