Hóa học & Kỹ thuật môi trường
TÍCH LŨY SINH HỌC KIM LOẠI NẶNG TRONG CƠ THỂ
MỘT SỐ LOÀI HÀU VÀ NGHÊU
Trần Tuấn Việt1,2*, Trương Ngọc Việt2, Nguyễn Phước Dân2
Tóm tắt: Hàu và nghêu là những loài thuộc lớp hai mảnh vỏ được sử dụng làm
thực phẩm cung cấp cho con người. Tuy nhiên, các loài này thường sống ở các vùng
ven biển, cửa sông là nơi có khả năng tiếp xúc với môi trường ô nhiễm kim loại từ
đất liền đưa ra. Thêm vào đó, khả năng tích lũy các kim loại trong cơ thể các sinh
vật hai mảnh vỏ này đã được công bố nhiều trên thế giới. Bài báo này nhắm tới việc
hệ thống lại các kết quả nghiên cứu về mức độ tích lũy sinh học một số kim loại
trong cơ thể các loài hải sản hai mảnh vỏ cũng như một số nghiên cứu về khả năng
ứng dụng những loài sinh vật này trong quan trắc môi trường.
Từ khóa: Tích lũy sinh học; Quan trắc sinh học; Kim loại nặng; Hai mảnh vỏ.
1. MỞ ĐẦU
Độc tố của các kim loại được xem như một trong những nguyên nhân gây ra
các vấn đề về sức khỏe cho con người và môi trường [1]. Nồng độ các kim loại
trong rất nhiều loài sinh vật biển, đặc biệt là lớp hai mảnh vỏ (Bivalvia class),
thường ở mức cao do khả năng tích lũy trong cơ thể của chúng [2–4]. Hơn thế nữa,
những loài này có thể được tiêu thụ trực tiếp bởi con người hoặc đi vào cơ thể gián
tiếp thông qua các loài ăn thịt bậc cao hơn những sinh vật nêu trên. Mặt khác, do
khả năng tích lũy kim loại và một số chất ô nhiễm trong cơ thể, những loài hai
mảnh vỏ thường được nghiên cứu để sử dụng như một công cụ theo dõi chất lượng
môi trường [5–7]. Trong nhiều năm qua, có rất nhiều tác giả đưa ra định nghĩa,
nhưng có thể hiểu một cách tổng quát những loài sinh vật có khả năng phản ánh
mức độ ô nhiễm của môi trường thường được gọi là chỉ thị sinh học (bio-
indicator), chúng được ứng dụng trong lĩnh vực quan trắc sinh học (bio-
monitoring) [8]. Chính vì vậy, nghiên cứu về mức độ và khả năng tích lũy kim loại
trong cơ thể một số loài hai mảnh vỏ sẽ đóng vai trò quan trọng trong đánh giá
mức rủi ro tới sức khỏe người tiêu thụ và khả năng sử dụng những loài này trong
các nghiên cứu quan trắc sinh học vùng cửa sông ven biển. Bài báo này đặt mục
tiêu chính là tổng quan các nghiên cứu về nồng độ kim loại trong một số loài hàu
và nghêu ở các vùng khác nhau trên thế giới cũng như những ứng dụng các loài
này làm chỉ thị sinh học quan trắc môi trường.
2. NỒNG ĐỘ KIM LOẠI TRONG SINH VẬT HAI MẢNH VỎ
2.1. Nồng độ kim loại trong các loài hàu
Hàu là động vật thân mềm hai mảnh vỏ, chúng phân bố rộng về mặt địa lý và
sinh thái, có thể sống ở vùng nước có nồng độ muối trong khoảng 5‰ - 30‰ [9].
Họ hàu Ostreidae gồm hai giống Crassostrea và Ostrea với hơn 100 loài. Trong
một nghiên cứu mới năm 2016, Liu và Wang [10] đã cho phơi nhiễm hai loài hàu
Crassostrea hongkongensis và Crassostrea angullata ra vùng cửa sông bị ô nhiễm
kim loại trong 2 tháng. Kết quả cho thấy hai loài này đã tích lũy các kim loại Cd,
Cr và Ni ở nồng độ tương đương nhau nhưng loài C. hongkongensis lại tích lũy Cu
và Zn cao hơn loài còn lại. Có nhiều các nghiên cứu đã cho thấy khả năng tích lũy
khác nhau đối với các kim loại khác nhau của hàu. Cụ thể hơn, sự tích lũy kim loại
142 Tr. T. Việt, Tr. N. Việt, N. P. Dân, “Tích lũy sinh học… loài hàu và nghêu.”
Nghiên cứu khoa học công nghệ
trong cơ thể hàu đã được thực hiện nhiều ở các vùng biển khác nhau trên thế giới
trong rất nhiều các loài hàu khác nhau (xem bảng 1).
Theo các nghiên cứu này, có thể nhận thấy nồng độ Cd dao động rất lớn theo
các vùng biển khác nhau. Nồng độ Cd cao nhất trong hàu được tìm thấy nhiều ở
Trung Quốc với số lượng các nghiên cứu công bố nồng độ Cd trên 10 mg/kg khô
cao hơn hẳn các khu vực khác. Nồng độ này vượt nhiều lần so với giới hạn Cd
trong thực phẩm ở nhiều nước trên thế giới là 2 mg/kg khô (FAO/WHO, Trung
quốc, Úc, Newzealand, Việt Nam). Bên cạnh đó, một vài nghiên cứu đã chỉ ra rằng
nồng độ Cd trong cơ thể hàu có thể gia tăng khi lượng Zn tích lũy trong chúng lớn
[11]. Chính vì vậy, nồng độ Cd tích lũy cao tìm thấy trong cơ thể hàu ở các vùng
Trung Quốc (TQ) có thể do sự ô nhiễm Zn ở nhiều vùng cửa sông nước này. Một
nghiên cứu năm 2014 của Liu và Wang đã chỉ ra rằng khi hàu bị phơi nhiễm trong
môi trường nồng độ Cu và Zn cao có thể gia tăng khả năng tích lũy sinh học kim
loại Hg, trong khi đó, chỉ có phơi nhiễm Zn mới làm gia tăng khả năng tích lũy
sinh học Cd trong hàu [12]. Điều đó chứng tỏ rằng, không nhất thiết Cd hay Hg
trong môi trường có nồng độ cao mới cho kết quả các kim loại này tích lũy cao
trong cơ thể hàu.
Theo kết quả trình bày trong bảng 1, cả hai kim loại Cu và Zn, được biết đến
như thành phần thiết yếu cho các loài thân mềm, đều có nồng độ cao. Cụ thể, nồng
độ cao nhất của hai kim loại này phát hiện ở Trung Quốc và châu Úc. Những kết
quả này có thể xem là kết quả từ môi trường ô nhiễm tại các khu vực này [13].
Nồng độ Pb trong các mẫu hàu cũng khá được quan tâm do những tác động xấu
của chúng đến sức khỏe con người. Các kết quả cho thấy thường nồng độ Pb trong
hàu ở mức nhỏ hơn 4 mg/kg khô. Nồng độ thấp của Pb trong cơ có thể hàu được lý
giải do sự giảm nồng độ Pb trong môi trường những năm gần đây khi các chế tài
kiểm soát Pb trong nhiên liệu được thực thi hiệu quả. Tuy nhiên, vẫn có một số khu
vực phát hiện mẫu cao đột biến trên 40 mg/kg khô như tại Cảng Legeh, Iran cho
thấy những khả năng tiềm ẩn ô nhiễm Pb trong công nghiệp gây ra các tác động
đến sinh vật vẫn lớn.
Đối với Ni và Cr, số lượng các nghiên cứu về các kim loại này trong hàu không
nhiều. Nồng độ Ni và Cr trong các mẫu hàu tìm thấy dao động trong mức thấp
tương đương nhau quanh khoảng 1 mg/kg khô. Thường thì tích lũy tổng Cr trong
mẫu hàu ít được quan tâm lắm do kim loại này trong môi trường tồn tại ở những
hóa trị khác nhau rất phức tạp (Cr III và Cr IV), mỗi dạng cũng có những ảnh
hưởng khác nhau đối với các loài hàu. Hầu hết các nước không có quy định về
nồng độ Cr và Ni trong sinh vật hai mảnh vỏ làm thực phẩm, riêng Mỹ có quy định
cho các thực phẩm là các loài vỏ cứng (shellfish) nhập khẩu phải đáp ứng nồng độ
Ni ≤ 80 mg/kg ướt và Cr ≤ 13 mg/kg ướt (thường tỉ lệ khối lượng ướt gấp 6-10 lần
khối lượng khô đối với hàu [13]).
Bảng 1. Nồng độ kim loại trong hàu ở các vùng trên thế giới.
Thời
gian Đơn Tham
Vị trí Loài Cd Cu Zn Ni Pb Cr Hg khảo
lấy vị
mẫu
Châu Á
2009- Vịnh Jinhae C. gigas 0,59± 32,5± 154± 0,15± 0,15± 0,22± 0,01± mg/kg [14]
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 143
Hóa học & Kỹ thuật môi trường
2013 Hàn quốc 0,19 11,1 46,8 0,06 0,06 0,10 0,00 ướt
Cảng Lengeh, 11,1 324± 748 ± 41,2± mg/kg
10/2010 S. cucullata - - - [15]
Iran ± 1,6 111 73,8 18,0 khô
Cửa sông 63,0
10- 109 ± mg/kg
Bakam, S. cucullata - ± - - - - [16]
11/2012 0,2 khô
Malaysia 0,14
Hải Phòng
3,53 0,79 0,81
3- (HP) & Hạ Saccostrea 238 – 824 – mg/kg
– - – – - [17]
7/2013 Long, Việt glomerata 1.598 3.202 khô
12,7 6,20 4,47
Nam (VN)
923
14,4 2.894 1,6 ± mg/kg
± - - -
± 7,8 ± 941 0,4 khô
Cửa sông Crassostrea 477
4/2011 [18]
Pearl, TQ hongkongensis 511 1.974
6,5 ± 1,1 ± mg/kg
± ± - - -
23,3 2,3 khô
4.966 4.897
474 21.741
Vịnh 61,5 2,5 ± 5,9 ± 2,6 ± mg/kg
7/2014 C. gigas ± ± - [19]
Liaodong, TQ ± 5,3 1,6 1,3 0,91 khô
159 6.123
Cửa sông
5- mg/kg
Jiulongjiang C. sikamea 10 3.600 7.000 4,9 2,7 5,9 - [20]
9/2011 khô
TQ
Châu Phi
8/2004- Atlantic, mg/kg
C. gigas 4,54 25,9 481,7 25,8 4,2 7,1 0,4 [21]
5/2005 Morocco khô
Châu Mỹ
90,1
2000- Cửa sông 1.531 0,3 ± mg/kg
C. virginica - ± - - - [22]
2011 Savannah Mỹ ± 464 0,3 khô
14,8
Vịnh 6,05 60,0 1,11 0,38
2008- C. 777 ± mg/kg
California, ± ± - ± - ± [23]
2009 corteziensis 528 khô
Mexico 2,77 33,4 0,63 0,17
Santa
2012- mg/kg
Catarina, C. gigas <0,5 1,71 - 0,05 <0,5 - - [24]
2013 khô
Brazil
Caroni 0,56 23,5 0,56 0,56 1,12
5- C. 690 – mg/kg
Swamp, – - – – – - [25]
12/2009 rhizophorae 3.696 khô
Trinidad 1,12 68,8 30,8 5,04 1,68
Châu Âu
Basque
1990- 0,01– 17,6– 52 – 0,01– 0,03– 0,01– 0,02– mg/kg
Country, Tây C. gigas [26]
2010 2,06 1.253 6.077 5,81 7,85 4,73 0,53 khô
Ban Nha
Cửa sông 2,19 391 1,14
1.972 mg/kg
4/2012 Thames, Anh C. gigas ± ± - ± - - [27]
± 617 khô
Quốc 0,73 143 0,44
Châu Úc
2005- Cửa sông mg/kg
S. glomerata - 1.419 6.518 - 8,9 - - [28]
2006 Sydney, Úc khô
Sông
C. 0,8 – 160 - 1.440- 0,1 – 0,12- mg/kg
01/1991 Hawkesbury - - [29]
commercialis 2,1 180 5.440 0,5 0,27 khô
Úc
2.2. Nồng độ kim loại trong các loài nghêu
Các kết quả về nồng độ kim loại trong nghêu được trình bày trong bảng 2. Các
loài nghêu là hải sản nổi tiếng ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Malaysia và
Việt Nam. Tại Malaysia, nước này đã đưa 27 loài nghêu vào danh mục hải sản
phục vụ trong nước và xuất khẩu (2005). Một công trình tổng quan nồng độ kim
144 Tr. T. Việt, Tr. N. Việt, N. P. Dân, “Tích lũy sinh học… loài hàu và nghêu.”
Nghiên cứu khoa học công nghệ
loại nặng trong 12 loài nghêu tại 34 vị trí lấy mẫu vùng ven biển Malaysia đã được
công bố bởi Md. Faruk Hossen và cộng sự [30]. Theo đó các kim loại là Cd, Pb,
Ni, Cu, Zn và Fe được tổng hợp và so sánh với các giới hạn cho phép của
Malaysia và một số nước khác cho thấy hầu hết các loài này đạt tiêu chuẩn đối
với thực phẩm.
Ở Việt Nam, nghêu Bến Tre Meretrix lyrata là một trong những loại hải sản
phổ biến ở khu vực phía Nam. Trong những năm 2003-2007, Phạm Kim Phương
và cộng sự đã công bố kết quả thực hiện đề tài cấp Sở Khoa học Công nghệ và luận
văn tiến sỹ nghiên cứu vế sự tích tụ và tự đào thải kim loại nặng Cd, As, Pb trong
môi trường nuôi nhân tạo cũng như những phân bố ngoài tự nhiên khu vực Cần
Giờ của các kim loại này. Đối với nghêu lấy tại bãi nghêu Cần Thạnh (lấy trong 1
đợt), nghiên cứu này phân tích các kim loại trong thịt nghêu và toàn bộ nội tạng
cho thấy nồng độ các kim loại Cd và Pb trong nội tạng cao hơn trong thịt rõ rệt
(Cd: 0,07 mg/kg trong thịt và 0,20 mg/kg trong nội tạng; Pb: 0,04 mg/kg trong thịt
và 0,13 mg/kg trong nội tạng) còn As thì phân bố đồng đều (1,50 mg/kg trong thịt
và 1,70 mg/kg trong nội tạng). Kết quả trong phòng thí nghiệm cho thấy loài nghêu
này tích lũy Pb cao nhất sau đó đến Cd và As; Đào thải nhiều nhất là As (đi từ As
(V) sang As (III) và về dạng phức hữu cơ và thải ra ngoài) sau đó đến Pb và Cd
(trong đó Cd hưu cơ thì đào thải nhiều hơn Cd vô cơ). Với Pb và Cd mặc dù cơ chế
giảm độc tự nhiên có trong cơ thể nghêu nhưng 2 kim loại này lại tích lũy lâu dài
trong nghêu và có thể nguy hại khi làm thực phẩm [31]–[33]. Từ năm 2010-2016
cũng có một số các nghiên cứu rải rác về nồng độ kim loại trong loài nghêu này ở
các vùng biển ở Việt Nam được thực hiện bởi Nguyễn Phúc Cẩm Tú và cộng sự
[34], Nguyễn Thị Kim Phương và cộng sự [35], và Lê Xuân Sinh [36]. Tuy nhiên
những nghiên cứu này có quy mô về số lượng mẫu và thời gian lấy mẫu hạn chế
hơn so với nghiên cứu tại Tân Thành và Cần Giờ (Kết quả thể hiện trong bảng 2).
Những kết quả nồng độ kim loại trong mẫu nghêu này ở Việt Nam cũng tương
đồng như ở Malaysia và một số loài nghêu khác ở Trung Quốc cho thấy hầu hết
nồng độ kim loại nằm trong mức cho phép đối với thực phẩm.
Nồng độ Cd trong hầu hết các mẫu nghêu đều nằm trong giới hạn cho phép của
thực phẩm ở nhiều nước trên thế giới là 2 mg/kg khô. Tuy nhiên, một số mẫu vẫn
phát hiện cao, điển hình là nghêu Nam cực. Kết quả cho thấy Cd cao hơn 2 mg/kg
khô ở hầu hết các bộ phận của nghêu Nam Cực, trong đó, thận và tuyến tiêu hóa có
nồng độ Cd cao hơn nhiều so với mang (bảng 2). Một kết quả thú vị từ nghiên cứu
này cho thấy nồng độ Cd và Fe trong nghêu Nam Cực cỡ lớn cao hơn trong các
con nhỏ, minh chứng cho khả năng tích lũy các kim loại này. Mặt khác, nồng độ
Mn, Zn và Cu trong các con nhỏ lại cao hơn. Kết quả tương quan nghịch có lẽ liên
quan đến tốc độ lọc của các cá thể nhỏ thì cao hơn các cá thể trưởng thành nên
lượng kim loại thông qua thức ăn và vật chất lơ lửng đi vào cơ thể sinh vật nhiều
hơn [37].
Bảng 2. Nồng độ kim loại trong nghêu ở các vùng trên thế giới.
Thời
gian Tham
Vị trí Loài Cd Cu Zn Ni Pb Cr Hg Đơn vị
lấy khảo
mẫu
Châu Á
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 145
Hóa học & Kỹ thuật môi trường
Trước 12 loài khác 0,18- 0,84- 24,13- 1,25- 0,13- mg/kg
Malaysia 8,51 36,00 368,00 7,80 19,10
- - khô [30]
2015 nhau
Vịnh Gamak, Ruditapes 0,5 ± 13,6 ± 76,8 ± 2,9 ± 3,6 ± mg/kg
5/2010 0,2 0,0 0,3 0,3
0,8 ± 0,2
0,5
- khô [38]
Hàn quốc philippinarum
3- 1,06 ± 10,3 ± 81,9 ± mg/kg
0,6 15,8 - - - - khô
4/2014 Meretrix 0,23
Tiền Giang, VN [39]
6- lyrata 1,34 ± 9,27 ± 82,8 ± 0,55 ± mg/kg
6,1 24,7 - - - khô
8/2014 0,65 0,58
M. lyrata (>24 0,11- 20,26- 117,4- 0,10- 0,35- mg/kg
- - khô
tháng) 0,79 35,76 302,55 0,79 0,45
M. lyrata (6- 0,21- 15,75- 128,6- 0,15- 0,12- mg/kg
2015 Cần Giờ, VN 1,17 33,43 311
-
0,33 0,41
- khô [40]
24 tháng)
M. lyrata (<6 0,07- 15,78- 152,5- 0,11- 0,10- mg/kg
- - khô
tháng) 0,73 49,5 315 0,40 0,27
Phù Long, HP, Meretrix 0,78 13,14 60,14 ± 1,31 2,10 mg/kg
±0,25 ±6,55 4,54 - ±0,53 ±0,23 - khô
VN lyrata
3/2012 1,15 10,57 58,18 ± 1,08 2,33 mg/kg
[41]
Quần Mục, HP, Meretrix
±0,24 ±5,56 7,48 - ±0,71 ±1,14 - khô
VN lyrata
2013- 0,04- - - 0,02- mg/kg
Xiamen, TQ M. petechialis 0,05 - 0,10 ND - khô [42]
2014
6 thành phố 1,93± 1,21± 16,8± 0,14± 0,30± 0,06± mg/kg
11/2011 S. subcrenata 0,29 0,33 3,78 - 0,01 0,16 0,03 ướt [43]
biển, Bắc TQ
Châu Phi
Địa Trung Hải, Tapes mg/kg
4/2007 0,09 3,82 21,87 10,28 0,24 8,47 - khô [44]
Hy Lạp decussata
8/2004- Sidi Moussa, Venerupis mg/kg
2,2 11,1 103,1 22,4 4,1 9,6 0,3 khô [21]
5/2005 Morocco decussatus
Châu Mỹ
Cửa sông Rio de mg/kg
Corbicula 0,5- 1,3- khô
7/1993 la Plata, 28-89 118-316 - 1,3-11 - [45]
fluminea 1,9 5,8
Argentina
Sông mg/kg
10/2006 Choctawhatchee C. fluminea 0,25 9,8 14 - 1,2 - - ướt [46]
Mỹ
Châu Âu
11- Poole Harbour, 1,4- ND- mg/kg
C. edule 0,2-0,8 6-13,8 40-160 5,5-14 ND-3,4
8,5 0,47 khô [47]
12/2009 Anh
Cửa sông Alb, Corbicula mg/kg
7/2006 0,1 38 128 0,78 0,28 2 - khô [48]
Đức sp.
Nam Cực
L. elliptica 2,9 ± 8,6 ± 107 ± 17 0,78 ± 0,70 mg/kg
0,8 5,5 - - 0,5 ±0,30 khô
(mang)
L. elliptica 11 ± 3 73 ± 14 120 ± 8 2,1 ± 1,4 mg/kg
2005- Potter Cove 2,4 ±0,6 khô
(tuyến tiêu - - [37]
2006 (Nam Cực)
hóa)
L. elliptica 129 ± 7,3 ± 2650 ± 0,9 ± 68 ± mg/kg
27 3,8 750 - - 0,6 97 khô
(thận)
Ghi chú: ND – Không phát hiện.
3. HÀU VÀ NGHÊU TRONG QUAN TRẮC SINH HỌC
Những chỉ thị sinh học, trong lĩnh vực quan trắc môi trường, được hiểu là các
sinh vật (hoặc một phần của quần thể sinh vật) có chứa các thông tin về chất lượng
môi trường (hoặc một phần của môi trường) [8]. Nghêu và hàu là những loài sinh
vật ăn lọc và ít di chuyển. Hơn thế nữa, với khả năng tích lũy một số chất ô nhiễm
đặc biệt là kim loại trong cơ thể, các nhóm loài này đã trở thành đối tượng nhiều
nhà khoa học lựa chọn để nghiên cứu về khả năng sử dụng chúng như sinh vật chỉ
146 Tr. T. Việt, Tr. N. Việt, N. P. Dân, “Tích lũy sinh học… loài hàu và nghêu.”
Nghiên cứu khoa học công nghệ
thị môi trường. Với đặc điểm thường sống vùi trong bùn cát, các nghiên cứu về
nghêu thường tập trung vào tương quan nồng độ các chất ô nhiễm trong cơ thể và
trong vật chất lơ lửng và trầm tích đáy. Trong khi đó, tương quan một số các chất ô
nhiễm trong cơ thể hàu với môi trường nước và vật chất lơ lửng thường được công
bố hơn so với các môi trường khác.
Phát hiện năm 2013 của Rejomon George và cộng sự cho thấy khả năng áp
dụng loài nghêu Villorita cyprinoides làm quan trắc sinh học tại vùng nước tù
(backwater) Cochin ở Ấn độ là khả thi khi kết quả nồng độ các kim loại Fe, Co, Ni,
Cu, Zn, Cd và Pb có sự biến động liên quan đến dòng chảy hay thời gian gió mùa
(monsoon) và vị trí lấy mẫu tại khu vực nghiên cứu. Kết quả phân tích ANOVA
cho thấy sự khác biệt có tính thống kê của nồng độ các kim loại nghiên cứu trong
sinh vật ở những vị trí chịu tác động khác nhau và trong mùa khác nhau (Mùa gió
mùa-monsoon vào 9/2011 lượng mưa >200mm tương đương mùa mưa vùng nhiệt
đới; trước gió mùa – pre monsoon vào tháng 4/2011 khi bắt đầu mùa mưa và sau
gió mùa-post monsoon vào tháng 12/2010 khi kết thúc mùa mưa). Kết quả cho
thấy nồng độ kim loại tăng theo mùa với thứ tự monsoon