Tiến trình phát triển của mô hình
thương hiệu cảm xúc
Năm 1957, khi Tiến sĩ Igor Ansoff giới thiệu bài viết trên ấn phẩm
Harvard Business Review về mối quan hệ tác động qua lại giữa 4
mảng - bao gồm: thị trường, hoạt động đa dạng hóa sản phẩm,
thâm nhập thị trường và phát triển sản phẩm, thì những người làm
kinh doanh đã được tiếp cận với một phương pháp suy luận khá
thẳng thắn, nhưng rất logic về những thuận lợi và khó khăn khi
thâm nhập thị trường sẵn có.
Thay vì tìm kiếm thị trường mới, những phân tích nên tiến hành
việc chiếm lĩnh thị trường bằng các sản phẩm hiện tại hay với các
sản phẩm mới. Cách suy luận theo kiểu lý giải logic đóng vai trò
quan trọng trong việc đưa ra quyết định của cả người làm kinh
doanh và người tiêu dùng.
Từ những năm 1960, hoạt động quảng cáo chủ yếu thuyết phục
khách hàng dựa trên các đặc tính thực tế và những luận cứ lý tính
kèm theo các dẫn chứng thành công nổi bật. Chẳng hạn, các công
ty sản xuất chất tẩy rửa thường mời chào khách hàng với những lợi
ích được lý giải theo kiểu kiểm nghiệm y tế.
Ngày nay, những thương hiệu thành công nhất gia tăng thị phần
của mình bằng cách kết nối với khách hàng thông qua các hoạt
động truyền thông thiên về cảm xúc.
Thay vì sử dụng hình ảnh một phát ngôn viên trong trang phục của
phòng nghiên cứu, chúng ta sẽ nhìn thấy nhiều hơn hình ảnh người
phụ nữ chăm sóc gia đình trong một không gian ấm cúng. Những
thương hiệu thành công nhất không chỉ chuyển tải tới khách hàng
thông điệp họ làm được gì, hay họ có thể làm tốt như thế nào, mà
hơn thế, họ nỗ lực để khách hàng nhận biết được hình ảnh thương
hiệu đó là kiểu hình ảnh thương hiệu như thế nào trong sâu thẳm
trái tim họ.
Những thương hiệu như vậy hướng đến mục đích xa hơn, chứ
không chỉ đơn thuần là bán hàng. Họ mong muốn xây dựng một
mối quan hệ bền chặt. Trong khi tiến trình này đã phát triển suốt
hơn 50 năm qua tại các nước phương Tây thì xu hướng này mới
chỉ xuất hiện trong khoảng 15 năm trở lại đây tại Việt Nam.
Sự thay đổi nhanh chóng của người tiêu dùng từ việc buôn bán trao
đổi một cách thận trọng chỉ mang tính nội bộ giới hạn trên phạm vi
hạn hẹp, nay chuyển sang những mối liên hệ mang tính cảm xúc,
được mở rộng ra với tất cả các thương hiệu trên toàn thế giới.
Trong cuộc chiến giành lợi thế giữa “hard sell” (kinh doanh cứng)
và “soft sell” (kinh doanh mềm), hướng tiếp cận thiên về cảm xúc
trong xây dựng thương hiệu đã chính thức giành được vị trí chiến
thắng.
Dựa trên các dữ liệu thu thập từ năm 1980, các nhà hoạt động
quảng cáo tại Anh, tiêu biểu là ông Hamish Pringle một chuyên gia
nghiên cứu và nhà tư vấn marketing Peter Field đã so sánh các ví
dụ thực tiễn về lợi ích và chỉ ra hai hình thức xây dựng thương
hiệu bao gồm: Những trường hợp ưu tiên áp dụng phương pháp lý
tính trong các hoạt động truyền thông marketing và những trường
hợp đi theo phương pháp kết nối cảm xúc. Các ví dụ thương hiệu ở
trường hợp sau cho thấy họ đã thành công khi thu được lợi nhuận
cao gấp đôi so với những thương hiệu áp dụng phương pháp đầu
tiên.
Tất nhiên, những đặc điểm lý tính và giá cả sản phẩm vẫn đóng vai
trò thẩm định quan trọng đối với một thương hiệu, nhưng giờ đây
nếu chỉ có vậy thì chưa đủ để đảm bảo thành công. Với khách hàng
tiêu dùng ngày nay, họ còn đòi hỏi nhiều hơn thế nữa.
Trong vô vàn các phương thức mà truyền thông marketing mang
tính cảm xúc có thể tạo được những kết quả kinh doanh tích cực
hơn, điều quan trọng nhất chính là sự nhạy cảm về giá cả.
Điều này hết sức có ý nghĩa, bởi vì nhìn chung lợi nhuận có được
nhờ việc tăng giá thêm 1% thường lớn hơn rất nhiều so với lợi
nhuận có được nhờ doanh số bán hàng tăng thêm 1%.
Trong tình hình tài chính khó khăn mà cả thế giới đang phải đối
mặt hiện nay, có thể cho rằng, sự nhạy cảm về giá cả sẽ trở nên
quan trọng, thậm chí cả với những thương hiệu mạnh.
Chẳng hạn tại Mỹ, nơi mà khủng hoảng kinh tế có vẻ như đã chạm
tới đáy, một nghiên cứu gần đây về các thương hiệu sản phẩm đồ
hộp cho thấy, có đến 52% người tiêu dùng trở nên kém trung thành
hơn với các thương hiệu so với năm ngoái.
Tuy nhiên, điều mà nghiên cứu này chưa chỉ ra được, đó chính là
tỷ lệ “giảm sút” đối với các thương hiệu yếu hơn và chắc chắn đối
với họ con số này còn lớn hơn nhiều.
CCTT.jpgNhững học thuyết truyền thống về marketing luôn khẳng
định rằng, những thương hiệu mạnh sẽ sinh tồn tốt hơn những
thương hiệu khác trong các thời kỳ kinh tế xuống dốc và tại thời
điểm hiện nay dường như điều này vẫn đúng.
Tuy nhiên, ngay cả những thương hiệu có mối liên hệ cảm xúc chặt
chẽ với người tiêu dùng cũng cần thể hiện cho mọi người thấy
rằng, họ nhạy cảm với những áp lực về mặt tài chính của khách
hàng và họ cần phản hồi bằng các chính sách giá cả hợp lý hơn.
Giá của những thương hiệu này vẫn có thể cao hơn so với các đối
thủ, song điều cần làm chính là phải chứng minh cho khách hàng
thấy rằng họ thực sự được quan tâm.