Tiểu luận CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn P.5

I. Lời mở đầu

Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là quá trình

vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất

nước, nhất là những nước đang phát triển như nước ta hiện nay.

Một đất nước bị chiến tranh tàn phá, có cơ sở vật chất nghèo

nàn lạc hậu vì vậy mục tiêu chính được Đảng và Nhà nước đề

ra và thực hiện cho bằng được đó là p hải công nghiệp hoá hiện

đại hoá đất nước. Muốn vậy trước hết phải công nghiệp hoá

hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn bởi 80% người dân Việt

Nam sống bằng nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay chúng

ta phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát

huy nguồn lực con người bởi nguồn lực con người đóng vai trò

quan trọng chủ chốt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại

hoá nông nghiệp nông thôn. Con người sáng tạo ra máy móc

quản lý và sử dụng hợp lý máy móc hiện đại để phục vụ và làm

cho cuộc số ng con người thoải mái hơn, thoả mãn các nhu cầu

tự nhiên của con người. Ngoài ra phải thúc đẩy chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với

thị trường để sản xuất hàng hoá quy mô lớn với chất lượng và

hiệu quả cao. Dần dần xoá bỏ mô hình sản xuất nhỏ lẻ vừa tốn

kém vừa không hiệu quả thay thế vào đó là những mô hình sản

xuất phù hợp hơn mang lại năng suất cao hơn. Bên cạnh phát

triển khoa học cũng phải chú ý bảo vệ môi trường phòng

chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai từ đó phát triển nông

nghiệp nông thôn bền vững, đưa nền kinh tế của đất nước phát

triển đi lên sánh vai cùng các nước trên thế giới. Từng bước

đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển trong khu

vực trên thế giới.

II. Nội dung

A. Một số vấn đề lý lu ận cơ bản về công nghiệp, hoá

hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn

1. Thế nào là công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn

Công nghiệp hoá hiện đại hoá và nông thôn được thế giới

định nghĩa theo nhiều cách khác nhau đó chính là một quá trình

lâu dài cần đượ c tiến hành theo cách tuần tự không thể nóng

vội, không thể tuỳ tiện. Quá trình này được thực hiện không

nhằm mục đích tự thân mà phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội

của nông thông cũng như của cả nước. Nhưng đối với một nước

khoa học công nghệ, kinh tế Nh à nước giữ vait rò chủ đạo thì

Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định: công nghiệp hoá là

quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất

kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức

lao động thủ công là chính sang sử dụng mộ t cách phổ biến sức

lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên

tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ

khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

Khái niệm công nghiệp hoá này được Đảng ta xác định rộng

hơn những quan niệm trước đó bao hàm cả về hoạt động sản

xuất kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, được

sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến

hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Như vậy công

nghiệp hoá mới teo tư tưởng mới không bó hẹp trong phạm vi

trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần kỹ thuật đơn thuần

để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như quan

niệm trước đây.

Theo tinh thần của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ VIII và Hội nghị Trung ương lần thứ VII công nghiệp hoá

nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc

đổi mới căn bản về công nghệ và kỹ thuật ở nông thôn, tạo nền

tảng cho việc phát triển nhanh, bền vững theo hướng nâng cao

hiệu quả kinh tế ở nông thôn, góp phần phát triển bền vững nền

kinh tế quốc dân với tốc độ cao.

Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là

quá trình phức tạp không đơn giản, vì vậy Đảng và Nhà nước

phải đưa ra những chiến lược bước đi cụ thể và hiệu quả. Bước

đầu tiên của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải

đưa phương pháp sản xuất công nghiệp, máy móc thiết bị vào

sử dụng trong nông nghiệp và sản xuất ở nông thôn để thay thế

lao động thủ công. Nông thôn Việt Nam luôn mang nặng tính

thủ công trong sản xuất nông nghiệp vì vậy để thay đổi tập

quán, cách làm của nông dân là bước đi vô cùng khó, phải thực

hiện theo từng bước đi từ từ chậm chạp. Đưa dần phương pháp

sản xuất bằng máy móc để con người dần tiếp nhận phương

pháp sản xuất này.Không thể đột ngột thay thế ph ương pháp

sản xuất thủ công bằng phương pháp máy móc ngay được như

thế sẽ gây ra sự lúng túng của người sử dụng cũng như người

hướng dẫn sử dụng. Người cần sử dụng máy móc lại không biết

cách sử dụng hoặc lúng túng trong cách sử dụng vì vậy gây nên

sự lãng phí máy móc thiết bị. Sau khi đưa máy móc thiết bị vào

sử dụng cũng cần phải có phương pháp quản lý hiện đại tương

ứng với các loại công nghệ và thiết bị. Máy móc khoa học là

những thành tựu sáng tạo của con người, chúng không tự bảo

quản, không chống lại sự hao mòn vì vậy phải có bàn tay con

người bảo quản cho nó. Ngoài ra quản lý, sử dụng máy móc sao

cho hợp lý tiết kiệm tiền của, tránh lãng phí cũng cần phải học,

phải có phương pháp khoa học hiện đại. Đó là cả một quá trình

đào tạo chính quy và có quy m ô. Nhưng khi có máy móc hiện

đại, trang thiết bị được quản lý tốt mà cơ sở vật chất nghèo

không phù hợp thì cũng không có hiệu quả. Vì vậy phải tạo ra

hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa máy móc thiết bị

mới vào nông thôn.

Như vậy, công nghiệp h oá nông thôn không có nghĩa là

chỉ phát triển công nghiệp ở nông thôn mà bao gồm cả việc

phát triển toàn bộ các hoạt động, các lực lượng sản xuất dịch

vụ và đời sống văn hoá tinh thần ở nông thôn và cả nước nói

chung.

Công nghiệp hoá nông nghiệp là một bộ phận của công

nghiệp hoá nông thôn. Nội dung chủ yếu là đưa máy móc thiết

bị, ứng dụng các phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp, các

phương pháp và hình thức tổ chức kiểu công nghiệp và các lĩnh

vực của sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp hoá nông thôn còn

bao hàm cả việc tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất công

nghiệp với sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác triệt để lợi thế

của nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến sản phẩm của

nông nghiệp để tăng giá trị của chúng, mở rộng thị trường cho

chúng.

Hiện đại hoá là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa

học, kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông

thôn, cải thiện tổ chức sản xuất và hoàn thiện đời sống ở nông

thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày càng cao, cuộc sống

ngày càng văn minh, tiến bộ. Hiện đại hoá nông thôn không chỉ

bao gồm công nghiệp hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật - công

nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực khác của sản xuất vật chất ở

nông thôn mà con bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời

sống văn hoá, tinh thần, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã

hội hệ thống giáo dục đào tạo y tế, các dịch vụ phục vụ đời

sống khác ở nông thôn.Về bản chất, hiện đại hoá là quá trình

phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hoá hoàn

toàn không có nghĩa là xoá bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựng

trong quá khứ cũng không có nghĩa là phải đưa toàn bộ công

nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông thôn ngay một lúc

mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện từng bước nâng cao trình

độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trình độ tổ ch ức và quản lý

sản xuất nông nghiệp lên ngang tầm với trình độ thế giới.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá có liên quan mật

thiết với nhau, chúng tương tác với nhau, sự khácnhau giữa

chúng chỉ mang tính tương đối, vì chúng có nội dung đan xen

vào nhau, bổ sung cho nhau để mục đích cuối cùng là đưa kinh

tế nông thôn phát triển đi lên ngang tầm với thế giới.

2. Tại sao phải tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp

nông thôn

Nước ta đi từ xã hội phong keíen phát triển đi thẳng lên

chế độ xã hội chủ nghĩa mà không qua chế độ tư bản chủ nghĩa

vì vậy cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu, phương thức quản

lý lỏng lẻo yếu kém. Nhiệm vụ quan trọng nhất bức thiết được

đặt ra là phải xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của xã hội chủ

nghĩa trong đó có công nghiệp và n ông nghiệp hiện đại, có văn

hoá và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm

vụ quan trọng nói trên nhất thiết phải tiến hành công nghiệp

hoá tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền

kinh tế công nghiệp.

Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng cộng sản Việt Nam

đã đề ra đường lối công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm

xuyên suốt thời gian quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp

hoá ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu xây

dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực

hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã

hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp gắn với việc

hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể

hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội

chủ nghĩa. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm

là nền nông nghiệp lạc hậu, bình quân ruộng đất thấp, 80% dân

cư có mức thu nhập thấp, nghèo đói, sức mua hạn chế nếu

không muốn nói là không thể mua nối hàng hoá cho tiêu

dùng.Một đất nước sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp lạchậu,

canh tác trên ruộng đất nghèo nàn, cơ sở vật chất thô sơ, tự chế

tạo là chính. Đời sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, lại bị

chiến tranh và xã hội phong kiến tàn phá, Đảng và Nhà nước

như bước lên từ con số không. Vì vậ y nhất thiết phải tiến hành

công nghiệp hoá để tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật

cần thiết, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động

và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực.

Để không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền

kinh tế tăng trưởn g nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn

hoá cho nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo

vệ và cải thiện môi trường sinh thái.

Nhân tố trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chính

là người lao động. Con người đóng vai trò vô cùng quan tr ọng

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá con người sáng

tạo ra máy móc, bảo quản máy móc, con người luôn muốn nâng

cao trình độ của mình hay là nâng cao chất lượng của lực lượng

sản xuất. Nhưng để biến đổi về chất lực lượng sản xuất là một

điều vô cùng khó khăn mà không dễ gì thực hiẹn được, nhưng

quá trình công nghiệp hoá lại tạo ra cơ sở vật chất để làm biến

đổi căn bản lực lượng sản xuất, nâng cao vai trò của lực lượng

sản xuất nhờ đó cũng làm nâng cao vai trò của người lao động.

Cách mạng xã hộ i chủ nghĩa thành công chính là khối liên

minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân

và đội ngũ tri thức. Nhưng khối liên minh này cần phải được

củng cố và phát triển đi lên chứ không thể chỉ là khối ô hợp.

Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển là nhờ thành tựu công

nghiệp hoá mang lại, là cơ sở kinh tế để càng gia cố vững chắc

thêm khối liên minh. Ngoài ra quá trình công nghiệp hoá đã

góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ

máy quản lý kinh tế của Nhà nước.

Quá trình công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất để xây

dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà

thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế. Sự công nghiệp

hoá đất nước thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội phát

triển, thúc đẩy quá trình q uy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo

hướng chuyên canh tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các

vùng các miền trở lên thống nhất cao hơn. Công nghiệp hoá

không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát

triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển và

hiện đại hoá nền quốc phòng an ninh. Sự nghiệp quốc phòng và

an ninh gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hoá, kinh tế, xã

hội. Thành tựu công nghiệp hoá tạo ra tiền đề kinh tế cho sự

phát triển đồng bộ về kinh tế - chính trị, văn hoá xã hội, quốc

phòng và an ninh. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá

nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con

đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

Chính vì vậy mà công nghiệp hoá kinh tế được coi là nhiệ m vụ

trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

3. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá nông nghiệp

nông thôn nước ta

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất

hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực

tiễn cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành

tựu khoa học công nghệ trước hết là nông nghiệp nhằm nâng

cao năng suất, chất lượng hiệuq ủa, sức cạnh tranh của nông

sản hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nông nghiệp cũng chính là phát triển lực lượng sản

xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.Trên cơ sở

thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những

thành tựu khoa học công nghệ hiện đ ại.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là quá

trình cải biến lao động thủ công lạchậu thành lao động sử dụng

máy móc tức là phải cơ khí hoá nền kinh tế quốc dân. Nền

nông nghiệp với kỹ thuật thủ công, lao động chân tay thì không

thể gọi là nền nông nghiệp phát triển được, nhất là nền nông

nghiệp đó lại phải gánh trên vai cả một nền kinh tế. Nông

nghiệp lạc hậu làm cho đời sống của nhân dân nghèo đói bởi

kinh tế Việt Nam sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp, 80% dân

cư làm nông nghiệp đã khiến cho đất nước càng ngày càng thụt

lùi không phát triển. Bởi vậy Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra

mục tiêu là phải chuyển đổi căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp

sang nền kinh tế công nghiệp đưa đất nước trở thành một nước

công nghiệp hoá. Nhưng cách mạng công nghi ệp không chỉ là

chuyển đổi cơ cấu thủ công sang cơ khí mà phải gắn liền với

điện khí hoá và tự động hoá sản xuất từng nước và trong toàn

bộ nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra thị trường cũng là một yếu

tố vô cùng quan trọng trong lĩnh vực tiêu thụ hàng hoá nông

sản phẩm. Vì vậy phải thúc đẩy hình thành và mở rộng các loại

thị trường bao gồm thị trường sản phẩm, ngoài ra còn phải có

các loại thị trường như thị trường vốn, lao động, công nghệ.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ

trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và

dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động các ngành

công nghiệp. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quy

hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ

chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, xây

dựng nền dân chủ công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao

đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn. Đất

nước ta phần lớn là lao động trong nông nghiệp cơ cấu khu vực

I quá lớn trong khi đó khu vực II lại quá nhỏ bé. Lao động

trong nông nghiệp dư thừa thường không biết làm gì dẫn đến

lãng phí tài nguyên con người. Vì vậy mục tiêu chính quan

trọng nhất là phải thu hẹp lực lượng sản xuất trong nông

nghiệp bằn g cách đưa máy móc thiết bị vào thay thế một số vị

trí lao động của con người. Máy móc hiện đại làm tốn ít nhân

lực hơn, con người lao động cũng được giám bắt khối lượng

công việc từ đó tăng nhanh lực lượng lao động của các ngành

công nghiệp và dịch vụ.

Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch phát

triển nông thôn bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản

xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp cũng là nội dung

chính của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông

thôn. Nếu chỉ biết đưa máy móc thiết bị hiện đại vào trong sản

xuất nông nghiệp thì sẽ làm hỏng, lãng phí máy móc khi cơ sở

hạ tầng không phù hợp. Vì vậy song song với cải tiến máy móc

thiết bị là xây dựng cơ sở vật chất đầy đủ và hiện đại.Nhưng

phát triển nông thôn không chỉ là sự phát triển đại trà tất cả các

vùng, miền mà phải chọn ra từng khu vực trọng điểm. Những

khu vực trọng điểm phải phù hợp với từng ngành như nông,

lâm, thuỷ sản từ đó có những chiến lược phát triển những ưu

điểm từng vùng để những ưu điểm đó phát huy phát triển các

ngành nghề. Các ngành nghề được ưu tiên phát triển nhất là các

ngành nghề thủ công gia truyền nhưng vấn đề môi trường cũng

lại được đặt ra cấp thiết. Một ví dụ đơn giản là làng gồm Bát

Tràng, là một làng nghề cổ truyền lâu đời, sản phẩm hàng ho á

được bán rộng rãi nhưng vài năm trước khi chưa áp dụng

phương pháp nung bằng gas mà nung gốm bằng than gây nên ô

nhiễm cho cả một vùng rộng lớn.Nếu biện pháp nung gốm bằng

gas không kịp thời ra đời thì cả làng nghề sẽ bị ô nhiễm bởi

khói than và bụi gây nên căn bệnh về phổi. Bởi vậy phát triển

nông thôn bảo vệ làng nghề cũng phải song hành với bảo vệ

môi trường sinh thái. Có như thế mới vậy dụng được một nền

dân chủ, công bằng văn minh, không ngừng nâng cao đời sống

vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn.

B. Thực trạng và định hướng giải pháp

1. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn

nước ta hiện nay

Đối mặt với thực trạng nông nghiệp nước ta hiện nay,

Đảng và Nhà nước ta đã nhận ra một số mặt yếu kém, một số

thực trạng vẫn tồn tại song hành cùng với sự phát triển của

nông thôn. Hiện nay sản xuất nông nghiệp ở nước ta phổ biến

còn trong tình trạng phân tán, đơn lẻ, thiếu sự phối hợp nên

chất lượng sản phẩm không đồng nhất, thu gom và vận chuyển

khó khăn giá thành cao. Trong cùng một sản p hẩm luôn có sự

cạnh tranh, sự tranh chấp về lợi ích giữa người sản xuất, thu

gom với người chế biến, tiêu thụ và người chịu thiệt cuối cùng

lại chính là người nông dân. Đó cũng chính là sự bất cập trong

nền kinh tế thị trường hiện nay.

Cho đến nay trình độ công nghiệp nông thôn còn ở trạng

thái manh nha, yếu ớt, kinh tế nông thôn còn ở trạng thái manh

nha, yếu ớt, kinh tế nông thôn còn nặng tính thuần nông.

Những khảo sát của những thập kỷ gần đây, ở nhiều vùng của

đất nước cho thấy cơ cấu lao động trong nông nghiệp hầu như

không thay đổi. Ngoài ra do cơ chế quản lý tập trung quan liêu

bao cấp kéo dài làm cho không ít người lao động đã quen với

tâm lý ỷ lại, trông chờ thiếu nhạy bén khi phải đối mặt với việc

làm và thu nhập khi chuyển sang kinh tế thị trường .

Về phương diện quản lý tổng thể nền kinh tế, các chính

sách công nghiệp hoá hầu như chưa quan tâm xử lý tổng thể và

hợp lý mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị. Trong nhiều

thập kỷ, chiến lược ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trên

thực tế chưa có tác động tích cực cho việc tăng cường mối liên

kết giữa thành thị và nông thôn. Trong những giải pháp tiến

hành, chưa đặt đúng vai trò ngành nghề và công nghiệp nông

thôn như một khâu trung gian để qua đó thực hiện chuyển giao

công nghệ, một mặt công nghiệp tác động vào nông nghiệp,

mặt khác các hoạt động nông nghiệp hoặc mang tính nông

nghiệp có thể chuyển dần sang công nghiệp. Có thể nói đây

chính là khuyết tật cơ cấu cả về phương diện ngành lẫn lãnh

thổ, là khâu ách tắc của quá trình công nghiệp hoá. Có lẽ đây

cũng là một nguyên nhân hạn chế khiến sau nhiều thập kỷ tiến

hành công nghiệp hoá đến nay về cơ bản Việt Nam vẫn còn là

một nước nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp. Nếu thời gian

tới thiếu những thể chế và giải pháp thiết thực thúc đẩy công

nghiệp hoá nông thôn phát triển, thì tăng trưởng kinh tế nông

thôn và kinh tế Việt Nam nói chung sẽ khó có sự phát triển bền

vững.

Nghiên cứu nhiều vùng cụ thể ở nhiều vùng cũng cho

thấy, công nghiệp nông thôn ở Việt Nam có trình độ công nghệ

và dịch vụ thấp hơn rất nhiều so với thành phố.Trên thực tế

công nghiệp được xây dựng ở nông thôn hiện nay chủ yếu dùng

công nghệ cũ được thải loại từ các vùng đô thị mang vào.

Là một bộ phận của kinh tế nông thôn, hoạt động của

công nghiệp nông thôn chịu tác động của sản xuấ t nông nghiệp

mang tính chu kỳ, việc cung cấp nguyên liệu và sử dụng lao

động trong năm có sự biến động khá lớn. Số lượng làm việc

trong các cơ sở công nghiệp nông thôn phụ thuộc vào thời vụ,

nếu vào vụ mùa hoặc đi cấy, đi gặt lực lượng lao động giảm

mạnh rõ rệt. Người nông dân luôn coi công việc chính của

mình là làm ruộng vì vậy khó có thể bảo họ đi làm khi công

việc làm ruộng chưa làm xong. Cũng tương tự như vậy nguyên

liệu cung ứng cho các cơ sở chế biến liên quan chặt chẽ với

thời kỳ thu hoạch cây trồng lương thực thực phẩm chỉ tồn tại

theo từng mùa của nó, vì vậy các cơ sở chế biến nông sản phẩm

cũng phải hoạt động tương tự như vậy. Nhà máy, công nhân

phải làm việc hết công suất khi vụ thu hoạch tới gần, còn lại

phải làm việc cầm chừng khi qua mùa thu hoạch. Do vậy không

ít hộ gia đình côn nghiệp nông thôn phải dành toàn bộ thời gian

của lao động gia đình cho hoạt động nông nghiệp trong lúc thời

vụ khẩn trương.

Do thiếu vốn đầu tư sản xuất mà khả năng của người nông

dân cũng có hạn do không được đào tạo một cách chính quy và

cơ bản nên ở hầu hết các địa bàn nông thôn các quá trình sản

xuất và chế biến đều trải qua nhiều công đoạn nhỏ và phân tán.

Sản xuất theo quy mô nhỏ, đơn sơ, thủ công là chính thì các hộ

gia đình khó có điều kiện có được công nghệ t inh chế tốt nhất

bởi vậy chất lượng sản phẩm mới trở nên thấp kém, không đủ

tiêu chuẩn phân phối trong nước hoặc xuất khẩu ra nước ngoài.

Ngoài ra nếu sản phẩm được mang ra xuất khẩu cũng chỉ được

bán với giá rẻ mạt, chính vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam

mới thường xuyên bị kiện bán phá giá.

Để sản xuất kinh doanh có hiệu quả chất lượng nhưng nó

cũng chỉ là một trong những yếu tố quyết định sự thành công

của các doanh nghiệp, ngoài ra còn một yếu tố vô cùng quan

trọng nữa đó là giá thành sản phẩm. Giá thành của một sản

phẩm còn được coi là yếu tố cơ bản nhất trong cạnh tranh giữa

các công ty với nhau. Các doanh nghiệp khi muốn tăng lợi

nhuận kinh doanh, tăng khối lượng sản phẩm bán ra nhưng

khách hàng lại cực kỳ khó tính. Họ luôn muốn mua được

những hàng hoá rẻ nhất, chất lượng thì tốt nhất, vì vậy phá giá

thành là đánh đúng tâm lý của người tiêu dùng. Nhưng không

phải cứ giảm thật mạnh giá mà không quan tâm tới lợi nhuận

của doanh nghiệp. Giảm giá quá thấp thì chỉ bán được sản

phẩm nhiều thì doanh nghiệp cũng không thể có lãi. Đối với

các doanh nghiệp ở nông tôn thì cách giảm giá duy nhất chỉ có

thể là cải tiến trong lĩnh vực sản xuất. Phân định rõ và kết hợp

hài hoà các tầng lớp công nghệ trong tổ chức sản xuất sẽ tạo

thuận lợi để xác định quy mô vùng nguyê n liệu gắn liền với

việc sơ chế và kinh tế tập trung. Như vậy doanh nghiệp sẽ tiết

kiệm một lượng chi phí dùng cho vận chuyển hao mòn máy

móc ngoài ra còn tạo được việc làm cho số lao động nông thôn,

đồng thời với nâng cao chất lượng và hạ giá thành nông sản.

Một trong những tình trạng chung của công nghiệp nước

ta hay nói cách khác là những nước đang phát triển đó là mới

bước đầu đi vào quá trình phát triển đất nước phát triển nền

kinh tế nên quá trình phát triển đó còn mang nặng tính tự phát,

phân tán tuỳ tiện với quy mô thì nhỏ bé. Vì vậy càng làm cho

quá trình công nghiệp hoá nông thôn trở nên khó khăn hơn. Do

dân trí của con người nông thôn thấp, không được đào tạo cụ

thể để có những hiểu biết nhất định nên hậu quả tất yếu là càng

phát triển mạnh công n ghiệp nông thôn thì mức độ ô nhiễm

môi trường càng trở nên trầm trọng. Chất thải công nghiệp

không được xử lý được thải bừa bãi ra môi trường, sông ngòi

gây nên ô nhiễm ngày một trở nên trầm trọng hơn. Hoá chất

không được xử lý đổ thẳng ra ngoài lỗi chủ y ếu là do ý thức

của con người quá kém. Tự họ tự chọn cho mình một cuộc sống

đầy bệnh tật nghèo đói. Lúc nào cũng đối mặt với nguy cơ

nhiễm các bệnh hiểm nghèo, càng ngày sự ô nhiễm càng trở

nên trầm trọng vượt quá tầm kiểm soát của con người. Nhưng

đứng trước thảm hoạ sinh học như vậy con người lại thản nhiên

cho qua, tiếp tục những hành động phá huỷ môi trường mà

không chút do dự hay phàn nàn. Tín hiệu SOS báo động đang

rung lên cảnh báo những con người đang hàng ngày phá huỷ

môi trường tự nhiên.

Mặt khác Nhà nước cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng

trong quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nhưng

do chưa được sự quan tâm giúp đỡ có hiệu quả vì vậy mà nông

thôn vẫn chưa tiếp cận được với trình độ phát triển của thành

thị. Chính phủ luôn kêu gọi các vùng tạo điều kiện thuận lợi

cho các nhà đầu tư, đầu tư vào xây dựng cơ sở vật chất cho quá

trình công nghiệp hoá. Những chính sách khuyến khích mà các

vùng đưa ra cũng không thu hút được tiềm năng đầu tư ở bên

ngoài. Ngoài ra một số vùng còn mất trật tự an ninh an toàn

cho người lao động cho công nhân vì vậy sẽ gây tâm lý lo ngại

cho những nhà đầu tư muốn đầu tư vào phát triển công nghiệp.

Có rất nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, vì vậy làm sao

để huy động được nguồn vốn đó là cả quá trình lâu dài tạo

niềm tin cho các nhà đầu tư.

Khi các nhà đầu tư trở nên tin tưởng thì họ sẵn sàng đầu

tư nguồn vốn của mình khi đó vừa phát triển được công nghiệp

của vùng đó lại vừa tạo điều kiện việc làm cho lao động dư

thừa rỗi trong vùng.

Trong những thập kỷ gần đây Việt Nam đã có những bước

đi quan trọng đưa nền kinh tế phát triển đi lên.Nhưng song

hành cùng với đó là những khó khăn, những sai lầm cần phải

khắc phục. Vấn đề trọng tâm là phải có một chính sách phù hợp

để đưa đất nước phát triển đi lên sánh tầm cùng với các nước

trên thế giới.

Một số thành tựu to lớn của các nước trong khu vực đã

cho Việt Nam rất nhiều kinh nghiệm quý báu phục vụ đắc lực

cho nền kinh tế Việt Nam. Như Trung Quốc là một ví dụ điển

hình bởi Trung Quốc là quốc gia đất rộng, người đông n hưng

họ lại có những thành tựu to lớn về nông nghiệp trong thời kỳ

cải cách. Đó là sự phát triển của công nghiệp thành thị và công

nghiệp nông thôn (còn gọi là các xí nghiệp hương trốm). Trong

thời kỳ cải cách, công nghiệp nông thôn mang đặc thù Trung

Quốc phát triển mạnh đã thu hút 100 triệu lao động nông thôn,

tạo ra giá trị sản phẩm công nghiệp nông thôn vượt giá trị sản

lượng nông nghiệp, làm cho nhiều làng quê trở nên giàu có trù

phú nhờ các xí nghiệp hương trốm. Từ đó ta có thể thấy rằng,

trong điều k iện đặc thù của các nước châu á, nông nghiệp thực

sự là điểm tựa của công nghiệp hoá nông thôn. Để phát triển

công nghiệp hoá nông thôn, các nước như Nhật Bản, Đài Loan,

Hàn Quốc và ngay cả Trung Quốc đã đẩy mạnh cơ giới hoá

hiện đại hoá nông nghiệp và đã thành công trong lĩnh vực này

họ đã sáng tạo ra thiết bị công nghệ thích hợp với phương thức

sản xuất lúa Châu á và với quy mô trang trại gia đình nhỏ bé.

Các nước này đã đưa công nghiệp vào nông thôn, tăng thu nhập

cho nông dân tạo ra nguồn vốn đầu tư ch o cơ giới hoá, các

nước này còn tìm cách tạo việc làm tại chỗ để thu hút lao động

thừa, nhất là do cơ giới hoá tạo ra. Các thành tựu mà các nước

đi trước để lại là những kinh nghiệm quý báu cho một nước

nhỏ như Việt Nam học tập. Cố gắng ứng dụng vào đất nước để

đạt được những thành tựu như vậy là mục tiêu hàng đầu của

Đảng và Nhà nước.

2. Định hướng và các giải pháp cơ bản để tiến hành

công nghiệp hoá nông thôn

a. Định hướng tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp

nông thôn

Để phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp

và nông thôn, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những định hướng

cụ thể nhằm đưa đất nước đi đúng con đường của nó. Mục tiêu

tổng quát và lâu dài là giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo,

nhanh chóng nâng cao thu nhập và đời sống của dân c ư nông

thôn, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh hiện đại, gắn

liền nền kinh tế hiện đại trong một thể thống nhất. Muốn vậy

phải xây dựng một nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn có cơ

sở vật chất kỹ thuật hiện đại, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp

để lực lượng sản xuất phát triển mạnh tạo nên cơ cấu kinh tế

hợp lý, năng suất, sản xuất và lao động cao, khả năng cạnh

tranh hàng hoá mạnh.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng

sản Việt Nam đã quyết định phấn đấu đưa nước ta đến năm

2020 là cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện

được điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra những mục tiêu

phù hợp với tình hình đất nước. Đầu tiên phải phát triển toàn

diện nông lâm ngư nghiệp, hình thành nên các vùng tập trung

chuyên canh có cơ cấu h ợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản

phẩm hàng hoá nhiều về số lượng tốt về chất lượng, đảm bảo

an toàn về lương thực trong xã hội đáp ứng được yêu cầu của

công nghệ chế biến của thị trường trong và ngoài nước. Ngoài

ra phải phát triển công nghiệp chế biế n nông lâm thuỷ sản, với

công nghệ ngày càng cao gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết

với công nghiệp ở đô thị. Bên cạnh đó phải phát triển các

ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao

gồm: tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu

dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các

nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ, phục

vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã

hội cũng phải được xây dựng, củng cố và đổi mới, từng bước

hình thành nông thôn mới văn minh và hiện đại.

Định hướng cuối cùng đó là hoàn thành cơ bản việc giao

đất giao rừng cho hộ nông dân. Có chính sách hợp lý trợ giúp,

khuyến khích nông dân giải quyết khó khăn về vốn, giá cả vật

tư nông nghiệp, thị trường tiêu thụ sản phẩm việc Đại hội Đảng

lần thứ VIII đề ra định hướng lớn có tính chất chiến lược và

những nội dung cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp nước ta trong thời gian phát triển kinh tế xã hội đất

nước, là một trong những tiền đề có ý nghĩa quyết định đối với

nước ta khi tiến vào thế kỷ XXI.

b. Giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá hiện

đại hoá nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay

Để hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp nông thôn, khắc phục những khó khăn trư ớc mắt,

Đảng và Nhà nước đã đưa ra những giải pháp cơ bản để tiến

hành công nghiệp hoá nông thôn.

Đầu tiên phải phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông thôn. Đối với cây lương thực phải xây

dựng các vùng sản xuất lúa tập trung ở các khu vực đồng bằng

rộng lớn, sử dụng các giống mới có năng suất chất lượng cao

đáp ứng yêu cầu của thị trường, áp dụng các biện pháp đồng bộ

để hạ giá thành và đảm bảo chất lượng. Đối với cây công

nghiệp, thực phẩm phải thường xuyên nghiên cứu các loại côn g

nghệ sinh học tiên tiến để lai tạo và nhân giống để sản xuất ra

giống cây trồng có năng suất chất lượng cao cung ứng đủ cho

nhu cầu sản xuất, thực hiện cơ giới hoá các khâu sản xuất trứơc

hết là khâu nặng nhọc, độc hại, thời vụ khẩn trương, cơ giới

hoá các khâu sau thu hoạch để nâng cao năng suất lao động,

phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên

liệu. Hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở ngành nghề

thôn thôn sử dụng máy móc, công cụ cải tiến, thực hiện cơ khí

hoá các khâu sản xuất nâng cao năng suất và chất lượng, hạ giá

thành để có khả năng cạnh tranh tốt trên thị trường trong nước

và quốc tế. Nhà nước cũng đóng một phần vô cùng quan trọng

khi đưa ra những chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển

mạnh các ngành công nghiệp về nông thôn để thu hút và thực

hiện việc phân công lao động ngay trên địa bàn, trước hết là

các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ, cần nhiều lao động như:

chế biến nông lâm thuỷ sản, sản xuất vật liệu xây dựng…. Hình

thành ngay từ đầu các khu công nghiệp ở nông thôn gắn kết

ngay từ đầu lợi ích kinh tế giữa người sản xuất nguyên liệu với

các cơ sở thu mua chế biến kinh doanh nông lâm thuỷ sản.

Phải xây dựng được mối quan hệ sản xuất phù hợp kinh tế

hộ nông dân và nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại lâu dài

trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông

thôn. Mọi thành phần kinh tế đều có vai trò quan trọng và đều

được phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước

cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ gia đình phát

triển, quy mô sản xuất hàng hoá ngày càng lớn và phát triển

kinh tế trang trại. Khuyến khích hỗ trợ và tạo điều kiện phát

triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở liên kết hợp tác tự nguyện

giữa các hộ gia đình và các trang trại bằng nhiều hình thức,

nhiều quy mô nhiều cấp độ đa dạng để nâng cao hiệu quả kinh

tế hộ gia đình và kinh tế xã hội nông thôn. Hợp tác xã phải tập

trung tìm đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tổ chức

thực hiện tốt việc quy hoạch và hướng dẫn nông dân ứng dụng

khoa học công nghệ mới, chuyển đổ i cơ cấu sản xuất. Nhà

nước hỗ trợ hợp tác xã đào tạo cán bộ và có chính sách thúê

phù hợp đối với các hoạt động dịch vụ. Phát triển quỹ tín dụng

nhân dân ở xã để phát triển nông nghiệp nông thôn.

Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển sản xuất, kinh

doanh các ngành nghề truyền thống đa dạng và phong phú. Đây

là lực lượng quan trọng có khả năng thu hút được nhiều lao

động, tăng năng lực chế biến tiêu thụ nông sản, dịch vụ kỹ

thuật và đời sống nông thôn. Cần có chính sách phù hợp và

bình đẳng với các thành phần kinh tế khác nhau, nhất là các

chính sách về đất đai, tài chính, tín dụng…

Phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hoá nông thôn. Nhà

nước ưu tiên phát triển hệ thống thuỷ lợi theo hướng sử dụng

tài nguyên nước, khai thác lưu vực sông để cấp nước cho sả n

xuất nông nghiệp nuôi trồng thuỷ sản, phòng chống và giảm

nhẹ thiên tai. Trong xây dựng và quản lý các công trình thuỷ

lợi, áp dụng các công nghệ tiên tiến, công nghệ tưới kết kiệm

nước thựchiện xã hội hoá đầu tư và quản lý công trình thuỷ lợi,

phát triể n các tổ chức hợp tác sử dụng nước và quản lý thuỷ

nông của nông dân.

Nhà nước cũng phải có các chính sách thoả đáng cùng với

các địa phương và đóng góp của dân phát triển nhanh hệ thống

giao thông nông thôn đảm bảo hàng hoá và đi lại cho dân.

Nâng cấp tu yến đường đã có nơi giao thông là cầu nối thôn với

thành thị, phải có giao thông thuận lợi thì việc vận chuyển

hàng hoá từ vùng này tới vùng kia mới được cải thiện rõ rệt, từ

đó hình thành nên các vùng công nghi ệp lớn ở nông thôn.

Ngoài ra điện cũng đóng v ai trò vô cùng quan trọng để vận

hành máy móc, thiết bị vì vậy phải phát triển hệ thống điện

nông thôn các dịch vụ bưu chính viễn thông và các điểm văn

hoá đến hầu hết các xã, cung cấp có hiệu quả chất lượng cao

cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ở nông th ôn.

Công tác quy hoạch phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu

bởi công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn phải

được tiến hành theo từng vùng để phát triển theo một hướng cụ

thể; chứ không thể phát triển một cách nhỏ lẻ theo từng quy mô

gia đình nh ỏ. Đặc biệt phải chú trọng làm tốt các quy hoạch

vùng sản xuất hàng hoá tập trung theo hướng sản xuất lớn.

Ngoài ra phải có một chính sách thoả đáng để quy hoạch cơ sở

hạ tầng và đô thị, quy hoạch bố trí lại dân cư, xây dựng làng xã

nhưng phải gắn với bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn

hoá dân tộc. Nhiệm vụ của các cấp chính phủ được đặt ra hết

sức nặng nề khi phải làm tốt quy hoạch, định hướng phát triển,

chuyển giao khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực, phát triển

các dịch vụ công cộng đảm bảo ổn đị nh chính trị, an ninh trật

tự xã hội, chỉ có như thế mới thu hút được đầu tư vào các vùng

ở nông thôn.

Nước ta là một nước có nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu,

kinh phí không đủ để theo đuổi các dự án nghiên cứu khoa học

vì vậy phải đẩy mạnh việc nghiên cứu ứ ng dụng và chuyển giao

khoa học công nghệ và coi đây là khâu đột phá quan trọng nhất

để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông

thôn. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học, nhất là cơ ch ế quản lý

tài chính và nhân sự để nâng cao hiệu quả kinh tế. Nhà nước

phải có chính sách đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu khoa học

nông nghiệp để sớm hiện đại hoá hệ thống sản xuất đáp ứng tốt

yêu cầu sản xuất hàng hoá lớn chất lượng cao, tạo điều kiện

hình thành các trung tâm nghiên cứu khoa học ứng dụng mạnh

có đủ năng lực để đưa ra những đột phá về khoa học công

nghệ. Có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham

gia phát triển khoa học công nghệ. Nhà nước dành phần kinh

phí thoả đáng để nhập khẩ u công nghệ tiến bộ của nước ngoài,,

nhất là các loại giống mới , máy móc thiết bị… phục vụ kịp

thời sản xuất.

Thực hiện một số chính sách liên quan trực tiếp đến phát

triển nông nghiệp nông thôn các chính sách về đất đai như Nhà

nước tạo điều kiện thuận lợi để nông dân thực hiện đầy đủ các

quyền về đất đai, sử dụng đất đai, chuyển nhượng quyền sử

dụng đất… các chính sách về đầu tư như Nhà nước phải biết

cân đối các nguồn vốn để ưu tiên đầu tư thích đáng để phát

triển nông lâm, ngư nghiệp và điều chỉnh cơ c ấu đầu tư theo

hướng phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông

nghiệp nông thôn. Ngoài ra Nhà nước phải thực hiện các chính

sách về tín dụng, các chính sách về thuế, về lao động và việc

làm, về thương mại và hội nhập kinh tế.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn

không chỉ là sự nghiệp riêng cá nhân ai khác mà là sự nghiệp

của toàn Đảng toàn dân, của các thành phần kinh tế. Để thực

hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp nông thôn phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chỉ

đạo điều hành tổ chức thực hiện sâu sát cụ thể quyết liệt của

Chính phủ và các cấp, các ngành. Phải phát huy sức mạnh tổng

hợp của cả nước để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp

hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn - nhiệm vụ quan

trọng hàng đầu trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước.

III. kết luận

Ngay từ những ngày đầu giành được độc lập, Đảng và

Nhà nước ta đã xác định được mục tiêu chính của đất nước là

hoàn thành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

trong đó công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn là một mắt

xích vô cùng quan trọng. Nó đã xoá đi ranh giới khoảng cách

giữa thành thị, nông thôn, nối liền kinh tế các vùng với nhau.

Trong nhiều năm nền kinh tế đã đạt được những thành tựu vô

cùng quan trọng đưa nền kinh tế đất nước tiến lên thoát khỏi

đói nghèo từng bước xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật

hiện đại. Nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện những khó khăn

vất vả, những vướng mắc yếu kém nhất định. Xác định đúng

những tồn tại để khắc phục tồn tại đó dần dần hoàn thiện quá

trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Các chính sách

được Chính phủ đưa ra càng củng cố hơn quyết tâm xây dựng

một nông thôn vững mạnh. Một nền nông nghiệp cơ khí hoá,

điện khí hoá, là điểm tựa vững chắc cho nền công nghiệp hoá

toàn đất nước phát triển đi lên. Dần dần đưa Việt Nam trở

thành một nước phát triển xứng tầm với các nước trong khu

vực và trên toàn thế giới. Đó là mong muốn không chỉ của

Đảng, Nhà nước mà là của toàn dân tộc.

Mục lục

I. Lời mở đầu ................................................................ 1

II. Nộ i dung ................................................................... 2

A. Một số vấn đề lý luận cơ bản về công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ................................ 2

1. Thế nào là công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn .... 2

2. Tại sao phải tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp

nông thôn ............................................................................... 5

3. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá nông nghiệp

nông thôn nứơc ta ................................................................... 7

B. Thực trạng và định hướng giải pháp ..................... 10

1. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn

nước ta hiện nay ................................................................... 10

2. Định hướng và các giải pháp cơ bản để tiến hành công

nghiệp hoá nông thôn ........................................................... 15

a. Định hướng tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp

nông thôn ............................................................................. 15

b. Giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại

hoá nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay ........................ 16

Kết luận ...................................................................... 21

Đề tài:

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở

nước ta trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và các giải

pháp

Nhận xét của giáo viên

................................................................................................

................................................................................................

................................................................................................

................................................................................................

................................................................................................

................................................................................................

................................................................................................

................................................................................................

................................................................................................

................................................................................................

................................................................................................

................................................................................................

................................................................................................

................................................................................................

................................................................................................

................................................................................................