intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Kinh tế quốc tế: AFTA

Chia sẻ: Nguyễn Đỗ Quyên | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

322
lượt xem
55
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận Kinh tế quốc tế với đề tài "AFTA" trình bày các nội dung sau: giới thiệu tổng quan về AFTA, tác động của AFTA với nền kinh tế Việt Nam, tác động của AFTA với nền kinh tế Asean. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Kinh tế quốc tế: AFTA

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN<br /> ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH THÁI NGUYÊN<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> BÀI THẢO LUẬN<br /> Đề tài: AFTA<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Môn: KINH TẾ QUỐC TẾ<br /> Lớp 04 ­ Nhóm 09<br /> DANH SÁCH NHÓM<br /> <br /> <br /> 1. NGUYỄN ĐỖ QUYÊN (thuyết trình)<br /> <br /> 2. NINH MAI THẢO<br /> <br /> 3. LÂM THU HUYỀN<br /> <br /> 4. BÀN THỊ THỦY<br /> <br /> 5. LÊ THỊ LÂN<br /> <br /> 6. VŨ TIẾN NAM<br /> LỜI MỞ ĐẦU<br /> <br /> ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế  tăng trưởng với tốc <br /> độ  nhanh nhất thế  giới (tốc độ  tăng trưởng kinh tế  của ASEAN giai đoạn  <br /> 1981­1991 là 5,4%;  gần gấp hai lần tốc độ  tăng trưởng trung bình của thế <br /> giới). Tuy vậy, trước khi AFTA ra  đời, những nỗ  lực hợp tác kinh tế  của  <br /> ASEAN đều không đạt được mục tiêu mong muốn. ASEAN đã có các kế <br /> hoạch hợp tác kinh tế  như: <br /> <br /> ­ Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA).<br /> <br /> ­ Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP).<br /> <br /> ­ Kế  hoạch hỗ  trợ  công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế  hoạch hỗ  trợ  sản <br /> xuất công nghiệp cùng nhãn mác (BBC).<br /> <br /> ­ Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV).<br /> <br /> Các kế  hoạch hợp tác kinh tế  kể  trên chỉ  tác động đến một phần nhỏ <br /> trong nội bộ  thương mại ASEAN và không đủ khả năng ảnh hưỏng đến đầu <br /> tư trong khối. Do đó, AFTA được ra đời.<br /> PHẦN I: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ AFTA<br /> I. Quá trình hình thành và phát triển AFTA<br /> AFTA là tên viết tắt tiếng Anh của Khu vực mậu dịch tự  do ASEAN  <br /> (ASEAN Free Trade Area),  là một hiệp định thương mại tự  do đa phương  <br /> giữa các quốc gia trong khối ASEAN . Theo đó sẽ  giảm dần thu thuế  quan  <br /> xuống còn 0 ­ 5%. Loại bỏ hàng rào thuế quan đa phần với các nhóm hàng và <br /> thủ tục hải quan giữa các quốc gia.<br /> Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi <br /> trong môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước  <br /> ASEAN trước nhứng thách thức to lớn không dễ dàng vượt qua nếu không có <br /> sự liên kết chặt chẽ và nỗ lực vủa toàn hiệp hội, những thách thức đó là:<br /> <br /> ­ Quá trình toàn cầu hoá kinh tế  thế  giới diễn ra nhanh chóng và mạnh  <br /> mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong  <br /> ASEAN ngày càng mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong  <br /> nước cũng như quốc tế.<br /> ­ Sự hình thành và phát triển các tổ  chức hợp tác khu vực mới đặc biệt  <br /> <br /> như  khu vực mậu dịch tự  do Bắc Mỹ NAFTA  và khu vực mậu dịch tự  do <br /> Châu Âu EU sẽ  trở  thành các khối thương mại khép kín, gây trở  ngại cho <br /> hàng hoá ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này.<br /> ­ Những thay đổi về  chính sách như  mở  cửa, khuyến khích và dành  ưu  <br /> <br /> đãi rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về <br /> tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Nga và <br /> các   nước   Đông   Âu đã   trở   thành   những   thị   trường   đầu   tư   hấp   dẫn   hơn <br /> ASEAN, đòi hỏi ASEAN phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực.<br /> <br /> Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng kiến của Thái <br /> Lan, Hội nghị  Thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapore  đã quyết định thành <br /> lập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (gọi tắt là AFTA).<br /> <br /> Sáng kiến thành lập khu vực mậu dịch tự  do ASEAN (AFTA) do thủ <br /> tướng Thái Lan đưa ra vào năm 1991, sau đó được thủ  tướng Singapore  ủng <br /> hộ.   Tháng   7/1991,   Hội   nghị   Ngoại   Trưởng   ASEAN   tại   Kualalumpur  <br /> (Malaysia) đã hoan nghênh sáng kiến này mặc dù có nhiều nước còn tỏ  ra dè <br /> dặt. Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 23 tháng 10/1991 đã nhất trí <br /> thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và Hội nghị  cấp cao ASEAN lần  <br /> thứ IV tháng 1/1992 họp tại Singapore quyết định thành lập AFTA.<br /> <br /> Ban   đầu   chỉ   có   sáu   nước   là Brunei,   Indonesia, Malaysia, Philippines, <br /> Singapore và Thái Lan. Sau đó, từ năm 1995 đến 1998, ASEAN kết nạp thêm <br /> 4 nước thành viên mới là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar.<br /> <br /> II. Mục tiêu chính của AFTA<br /> <br /> Việc thành lập AFTA năm 1992 là một mốc quan trọng trong lịch sử tự <br /> do hóa thương mại nội bộ ASEAN, đánh dấu sự phát triển về chất trong hợp  <br /> tác thương mại khu vực. Hội nghị  cấp cao ASEAN lần thứ IV tháng 1/1992 <br /> họp tại Singapore quyết định thành lập AFTA với 3 mục tiêu cơ bản sau:<br /> <br /> ­ Tự  do hóa thương mại ASEAN bằng việc loại bỏ  các hàng rào thuế <br /> quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan.<br /> ­ Thu hút các nhà đầu tư  nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một <br /> khối thị  trường thống nhất. Đây là mục tiêu trung tâm của việc thành lập  <br /> AFTA, AFTA tạo ra một nền tảng sản xuất thống nhất trong ASEAN, điều <br /> đó cho phép hợp lý hóa sản xuất, chuyên môn hóa trong nội bộ  khu vực và <br /> khai thác các thế mạnh của các nền kinh tế thành viên khác nhau.<br /> <br /> ­ Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế  quốc tế đang <br /> thay đổi, đặc biệt là trong sự phát triển của xu thế tự do hóa thương mại.<br /> <br /> Với AFTA, các nước ASEAN hy vọng rằng sẽ  n âng cao hơn nữa khả <br /> năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, mở rộng thị trường ngay trong nội bộ <br /> tổ  chức ASEAN bằng cách giảm thiểu hàng rào thuế  quan và phi thuế  quan <br /> trong quan hệ mậu dịch giữa các nước thành viên với nhau. Nhưng quan trọng  <br /> hơn hết là tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi để thu hút được nhiều  <br /> vốn đầu tư nước ngoài và làm cho kinh tế ASEAN có thể thích nghi được với  <br /> điều kiện kinh tế  quốc tế  đang thay đổi theo hướng gia tăng quá trình tự  do <br /> hóa. Tuy nhiên, AFTA mới chỉ là nấc thang đầu tiên trong tiến trình khu vực  <br /> hóa. Với sức ép của các hợp tác kinh tế  khu vực và các tổ  chức thương mại <br /> quốc tế  khác, AFTA buộc phải đẩy nhanh tốc độ  thực hiện và không chỉ <br /> dừng lại ở một liên minh thuế quan hay một khu vực mậu dịch tự do mà trong <br /> tương lai sẽ  tiếp tục tiến tới những tầm cao mới như thị trường chung, liên  <br /> minh kinh tế.<br /> <br /> III. Nội dung cơ bản của AFTA<br /> <br /> 1. Hiệp định CEPT và các quy định chung của CEPT<br /> <br /> Để  thực hiện thành công Khu vực Mậu dịch Tự  do ASEAN, các nước <br /> ASEAN ­ cũng trong năm 1992, đã  ký Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu  <br /> lực chung (Common Effective Preferential Tariff), gọi tắt là CEPT. <br /> <br /> CEPT  là một thoả  thuận chung giữa  các nước  thành viên ASEAN về <br /> giảm thuế quan trong  nội bộ ASEAN xuống còn từ 0 ­ 5%, đồng thời loại bỏ <br /> tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi thuế quan trong vòng 10 <br /> năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003 (đây là thời hạn đã có sự <br /> đẩy nhanh so với thời hạn ký Hiệp định ban đầu: từ  15 năm xuống còn 10  <br /> năm).<br /> <br /> Nói đến vấn đề xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN là nói tới việc  <br /> thực hiện Hiệp định chung về  thuế  quan và phải hoàn thành 3 vấn đề  chủ <br /> yếu, không tách rời dưới đây :<br /> <br /> ­ Thứ  nhất là vấn đề  giảm thuế  quan: Mục tiêu cuối cùng của AFTA là <br /> <br /> giảm thuế quan xuống 0 ­ 5%, theo từng thời điểm đối với các nước cũ và các <br /> nước mới, nhưng thời hạn tối đa là trong vòng 10 năm.<br /> <br /> ­ Thứ  hai là vấn đề  loại bỏ  hàng rào phi thuế  quan (NTB): hạn ngạch,  <br /> <br /> cấp giấy phép, kiểm soát hành chính và hàng rào kỹ thuật (kiểm dịch, vệ sinh <br /> dịch tễ).<br /> <br /> ­ Thứ ba là hài hoà các thủ tục hải quan.<br /> <br /> 2. Các Nội dung và Quy định cụ thể<br /> <br /> a.  Vấn đề về thuế quan <br /> <br /> Các bước thực hiện như sau:<br /> <br /> Bước 1: Các nước lập 4 loại Danh mục sản phẩm hàng hoá trong biểu  <br /> thuế quan của mình để xác định các sản phẩm hàng hoá thuộc đối tượng thực  <br /> hiện CEPT:<br /> <br /> ­ Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (IL).<br /> <br /> ­ Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL).<br /> <br /> ­ Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SEL).<br /> <br /> ­ Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL).<br /> <br /> Trong 4 loại Danh mục nói trên thì :<br /> ­ Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL): Là những sản phẩm <br /> <br /> không phải thực hiện các nghĩa vụ  theo Hiệp định CEPT, tức là không phải  <br /> cắt giảm thuế, loại bỏ hàng rào phi thuế quan. Các sản phẩm trong danh mục <br /> này phải là những sản phẩm  ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã  <br /> hội, cuộc sống, sức khoẻ con người, động thực vật, đến việc bảo tồn các giá <br /> trị  văn hoá nghệ  thuật, di tích lịch sử, khảo cổ...( theo điều 9B Hiệp định <br /> CEPT).<br /> <br /> ­ Danh mục  các sản phẩm nông sản chưa chế  biến nhạy cảm và nhạy  <br /> <br /> cảm cao (SEL): Là những sản phẩm được thực hiện theo một lịch trình giảm  <br /> thuế  và thời hạn riêng, các nước ký một Nghị  định thư  xác định việc thức <br /> hiện cắt giảm thuế cho các sản phẩm này, cụ thể thời hạn bắt đầu cắt giảm  <br /> là từ  1/1/2001 kết thúc 1/1/2010, mức thuế  giảm xuống 0 ­ 5%, nghĩa là kéo <br /> dài thời hạn hơn các sản phẩm phải thực hiện nghĩa vụ theo CEPT.<br /> <br /> ­ Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay ( IL) và Danh mục sản phẩm <br /> <br /> tạm thời chưa giảm thuế  (TEL): Là 2 Danh mục mà sản phẩm trong những <br /> Danh mục này phải thực hiện các nghĩa vụ  CEPT, tức là phải cắt giảm thuế <br /> và loại bỏ hàng rào phi thuế quan. Tuy nhiên tiến độ có khác nhau. Sản phẩm  <br /> hàng hoá trong 2 Danh mục này là những sản phẩm công nghiệp chế  tạo,  <br /> nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm nông nghiệp... nghĩa là tất cả  những sản <br /> phẩm hàng hoá được giao dịch thương mại bình thường trừ những sản phẩm <br /> hàng hoá được xác định trong 2 Danh mục (SEL) và (GEL) nêu trên.<br /> <br /> Bước 2: Xây dựng lộ  trình tổng thể  cắt giảm thuế  10 năm (toàn bộ  thời <br /> gian thực hiện Hiệp định): <br /> <br /> Việc thực hiện Hiệp định chính là các nước thành viên phải xây dựng lộ <br /> trình tổng thể  cho việc cắt giảm thuế  đối với 2 Danh mục sản phẩm cắt  <br /> giảm thuế  ngay  (IL) và Danh mục tạm thời chưa   giảm thuế  (TEL). Các  <br /> nguyên tắc xây dựng lộ trình giảm thuế tổng thể như sau:<br /> ­  Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (Inclusion List ­ IL): Các sản  <br /> phẩm nằm trong danh mục này được cắt giảm thuế quan ngay tại thời điểm <br /> bắt đầu thực hiện cho đến thời hạn kết thúc, tiến trình cắt giảm như sau :<br /> +   Các sản phẩm có thuế  suất trên 20% (> 20%) sẽ  được giảm xuống <br /> 20% trong vòng 5 năm đầu và tiếp tục giảm xuống còn 0 ­ 5% trong 5 năm  <br /> còn lại. Cụ  thể: Các sản phẩm có thuế  suất trên 20% sẽ  được giảm xuống  <br /> 20% vào 1/1/1998, và tiếp tục giảm xuống còn 0 ­ 5% vào 1/1/2003.<br /> +  Các sản phẩm có thuế  suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ  được giảm  <br /> xuống còn 0 ­ 5% trong vòng 7 năm đầu. Cụ thể: Các sản phẩm có thuế suất <br /> bằng hoặc thấp hơn 20% được giảm xuống còn 0 ­ 5% vào 1/1/2000.<br /> <br /> Các nước có quyền được quyết định mức cắt giảm nhưng tối thiểu mỗi  <br /> năm 5 %, không được duy trì cùng thuế  suất trong 3 năm liền, trong trường  <br /> hợp thuế  MFN thay đổi tại một thời điểm nào đó nếu cao hơn thuế  suất  <br /> CEPT tại thời điểm đó thì không được nâng thuế CEPT bằng mức thuế MFN  <br /> đó; trường hợp thuế MFN thấp hơn thuế CEPT thì việc áp dụng phải tự động <br /> theo thuế suất  MFN đó và phải điều chỉnh lịch trình. Không được nâng mức  <br /> thuế CEPT của năm sau lên cao hơn năm trước. <br /> <br /> ­  Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Để tạo thuận  <br /> lợi cho các nước thành viên có một thời gian chuẩn bị và chuyển hướng đối <br /> với một số  sản phẩm tương đối trọng yếu, Hiệp định CEPT cho phép các  <br /> nước thành viên ASEAN được đưa ra một số  sản phẩm tạm thời chưa thực  <br /> hiện tiến trình cắt giảm thuế quan ngay theo CEPT.<br /> <br /> Tuy nhiên, Danh mục  (TEL)  này chỉ  mang tính chất tạm thời, các sản <br /> phẩm trong Danh mục loại trừ tạm thời sẽ được chuyển toàn bộ  sang Danh  <br /> mục cắt giảm thuế   (IL) ngay trong vòng 5 năm, kể  từ  năm thứ  4 thực hiện <br /> Hiệp định tức là từ  1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20%   số  sản <br /> phẩm trong Danh mục (TEL) vào Danh mục (IL).<br /> Lịch trình cắt giảm thuế  của các sản phẩm chuyển từ  Danh mục (TEL) <br /> sang Danh mục (IL) này như sau:<br /> +  Đối với những sản phẩm có thuế  suất trên 20%, phải  giảm dần thuế <br /> suất xuống bằng 20% vào thời điểm năm  1998, trường hợp các sản phẩm <br /> được chuyển vào đúng hoặc sau thời điểm năm 1998 thì thuế  suất lập tức  <br /> phải   bằng  hoặc   thấp  hơn   20%,  và   tiếp   tục   giảm  xuống  còn   0  ­   5%   vào <br /> 1/1/2003 như lịch trình đối với sản phẩm trong Danh mục (IL).<br /> +    Đối với những sản phẩm có thuế  suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ <br /> được giảm xuống còn 0 ­ 5%  vào 1/1/2003.<br /> <br /> Các quy định khác cũng tương tự như đối với Danh mục (IL) nói trên.<br /> <br /> Ngoài các quy định được nêu trên trong quá trình xây dựng và thực hiện, <br /> không được có sự thụt lùi về tiến độ, cũng như không được phép chuyển các <br /> mặt hàng từ Danh mục cắt giảm (IL) sang bất kỳ Danh mục nào, không được <br /> chuyển các mặt hàng từ  Danh mục  (TEL)  sang Danh mục nhạy cảm (SEL) <br /> hay Danh mục  loại trừ  hoàn toàn (GEL) mà chỉ  có sự  chuyển từ  Danh mục  <br /> (TEL) sang Danh mục (IL) nói trên, hoặc chuyển từ Danh mục (SEL), (GEL) <br /> sang Danh mục (TEL) hoặc (IL). Nếu vi phạm thì nước thành viên phải đàm <br /> phán lại với các nước khác và phải có nhân nhượng bồi thường.<br /> <br /> Bước 3: Ban hành văn bản pháp lý xác định hiệu lực thực hiện việc cắt <br /> giảm thuế hàng năm:<br /> <br /> Trên cơ sở  lịch trình cắt giảm tổng thể thuế nêu trên, hàng năm các nước <br /> thành viên phải ban hành văn bản pháp lý để  công bố  hiệu lực thi hành thuế <br /> suất CEPT của năm đó. Văn bản này phải được gửi cho Ban Thư ký ASEAN  <br /> để thông báo cho các nước thành viên.<br /> Cơ chế trao đổi nhượng bộ của CEPT: Muốn được hưởng nhượng bộ về <br /> thuế quan khi xuất khẩu hàng hoá trong khối, một sản phẩm cần có các điều <br /> kiện sau:<br /> (1) Sản phẩm đó phải nằm trong Danh mục cắt giảm thuế  (IL) của cả <br /> nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, và phải có mức thuế  quan (nhập khẩu)  <br /> bằng hoặc thấp hơn 20%.<br /> <br /> (2) Sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được Hội đồng AFTA <br /> thông qua.<br /> <br /> (3) Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải  <br /> thoả  mãn yêu cầu hàm lượng xuất xứ  từ  các nước thành viên ASEAN (hàm <br /> lượng nội địa) ít nhất là 40%.<br /> <br /> b.  Vấn đề loại bỏ các hạn chế định lượng (QRs) và các rào cản phi thuế  <br /> quan khác (NTBs)<br /> <br /> Để thiết lập được khu vực mậu dịch tự do, việc cắt giảm thuế quan cần  <br /> phải được tiến hành đồng thời với việc loại bỏ  các hàng rào phi thuế  quan. <br /> Các hàng rào phi thuế  quan bao gồm các hạn chế  về  số  lượng (như  hạn  <br /> ngạch, giấy phép,...) và các hàng rào phi thuế  quan khác (như  các khoản phụ <br /> thu, các quy định về  tiêu chuẩn chất lượng,...). Các hạn chế  về  số  lượng có <br /> thể được xác định một cách dễ dàng và do đó, được quy định loại bỏ ngay đối <br /> với các mặt hàng trong Chương trình CEPT được hưởng nhượng bộ  từ  các <br /> nước thành viên khác.<br /> <br /> Tuy nhiên, đối với các rào cản phi thuế  quan khác, việc xác định và loại <br /> bỏ phức tạp hơn rất nhiều. Hiệp định CEPT quy định về vấn đề này như sau:<br /> <br /> ­  Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với <br /> các sản phẩm trong CEPT trên cơ sở hưởng ưu đãi áp dụng cho sản phẩm đó;  <br /> cụ  thể: những mặt hàng đã được đưa vào Danh mục cắt giảm ngay (IL) sẽ <br /> phải bỏ các hạn chế về số lượng.<br /> <br /> ­  Các hàng rào phi thuế  quan khác sẽ được xoá bỏ dần dần trong vòng 5 <br /> năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi.<br /> ­  Các hạn chế ngoại hối mà các nước đang áp dụng sẽ được ưu tiên đặc <br /> biệt đối với các sản phẩm thuộc CEPT.<br /> <br /> ­  Tiến tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, công khai chính sách và <br /> thừa nhận các chứng nhận chất lượng của nhau.<br /> <br /> ­   Trong trường hợp khẩn cấp (số  lượng hàng nhập khẩu gia tăng đột <br /> ngột gây phương hại đến sản xuất trong nước hoặc đe doạ  cán cân thanh <br /> toán), các nước có thể  áp dụng các biện pháp phòng ngừa để  hạn chế  hoặc <br /> dừng việc nhập khẩu.<br /> <br /> c.  Vấn đề hợp tác trong lĩnh vực hải quan <br /> <br /> Thống nhất biểu thuế quan: Để  tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản <br /> xuất và xuất nhập khẩu ASEAN tiến hành việc buôn bán trong nội bộ  khu <br /> vực được dễ  dàng và thuận lợi, cũng như  các cơ  quan  hải quan ASEAN dễ <br /> dàng trong việc xác định mức thuế  cho các mặt hàng một cách thống nhất, <br /> ngoài ra phục vụ  cho các mục đích thống kê, phân tích, đánh giá việc thực <br /> hiện CEPT ­ AFTA, cũng như tình hình xuất nhập khẩu nội khối, các nước đã  <br /> quyết định sẽ  thống nhất một  biểu thuế quan  trong khối ASEAN  ở mức 8  <br /> chữ số theo Hệ thống điều hoà của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới (HS).  <br /> Biểu thuế  quan chung của ASEAN  hoàn thành trong năm 2000 và được áp <br /> dụng từ năm 2000, những nước nào chậm nhất cũng áp dụng từ năm 2002.<br /> <br /> Thống nhất hệ  thống tính giá hải quan: Vào năm 2000, các nước thành <br /> viên ASEAN thực hiện phương pháp xác định trị  giá hải quan theo GATT   ­ <br /> GTV (GATT Transactions Value), thực hiện điều khoản VII của Hiệp định <br /> chung về  thương mại và thuế  quan 1994 ( Hiện nay là Tổ  chức thương mại  <br /> thế  giới WTO) để  tính giá hải quan. Một cách tóm tắt là giá trị  hàng hoá để <br /> tính thuế xuất nhập khẩu là giá trị giao dịch thực tế giữa người xuất khẩu và <br /> người  nhập khẩu, không phải là do nhà nước áp đặt.<br /> Xây dựng Hệ thống Luồng xanh hải quan:  Hệ thống này được thực hiện <br /> từ 1/1/1996 nhằm đơn giản hoá hệ thống thủ tục hải quan dành cho các hàng <br /> hoá thuộc diện được hưởng ưu đãi theo chương trình CEPT của ASEAN.<br /> <br /> Thống nhất thủ  tục hải quan: Hai vấn đề  đã được các nước thành viên <br /> ưu tiên trong việc thống nhất thủ tục hải quan.<br /> <br /> ­  Mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT: Các nước  <br /> ASEAN đã gộp ba loại tờ  khai hải quan (Giấy chứng nhận xuất x ứ  (C/O)  <br /> Mẫu D, Tờ  khai hải quan xuất khẩu và Tờ  khai hải quan nhập khẩu) lại  <br /> thành một mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT.<br /> <br /> ­  Thủ tục xuất nhập khẩu chung: bao gồm những vấn đề sau:<br /> <br /> +  Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá xuất khẩu.<br /> <br /> +  Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá nhập khẩu.<br /> <br /> +  Các vấn đề về giám định hàng hoá.<br /> <br /> +  Các vấn đề về gửi hàng trong đó giấy chứng nhận xuất xứ được cấp  <br /> sau và có hiệu lực hồi tố.<br /> <br /> +  Các vấn đề liên quan đến hoàn trả...<br /> <br /> IV. Những vấn đề đặt ra đối với AFTA <br /> <br /> Sự ra đời khu mậu dịch tự do ASEAN sẽ đem lại cho các quốc gia thành <br /> viên những động lực mới để phát triển. Tuy nhiên tiến trình thực hiện AFTA <br /> để đi tới việc cho ra đời khu vực mậu dịch tự do còn rất nhiều khó khăn.<br /> <br /> ­   Thứ  nhất, với tính chất là một tổ  chức hợp tác kinh tế  có thể  chế, <br /> AFTA dường như  một dạng của “mô hình phát triển rút ngắn” của liên kết  <br /> kinh tế  khu vực và trên thực tế  nó không có những điều kiện chuẩn bị  chín  <br /> muồi về  các bước liên kết khu vực như  EU, NAFTA… Do đó, AFTA hình <br /> thành chỉ như một dạng hiệp định khung, có phần hơi giản đơn, nội dung, lịch  <br /> trình của hiệp định lại chỉ  được soạn thảo, sửa đổi, bổ  sung đồng thời với <br /> tiến trình thực hiện, tổ chức chúng. <br /> <br /> ­  Thứ  hai, sự mở rộng ASEAN từ ASEAN 6 lên ASEAN 10 đã tạo nên <br /> một cấu trúc kinh tế “song tầng” giữa một ASEAN 6 tương đối phát triển và <br /> một ASEAN 4 kém phát triển. Cơ cấu “song tầng” khiến cho hợp tác nội bộ <br /> ASEAN, trước hết là việc thực hiện điều khoản của AFTA càng trở nên khó <br /> khăn hơn.<br /> <br /> Ngay cả đối với các thành viên sáng lập AFTA, thực hiện AFTA cũng rất <br /> khó khăn bởi trước đây họ thực hiện chính sách bảo hộ công nghiệp quá nặng  <br /> nề. Các quốc gia như  Việt Nam, Lào, Campuchia là những nước kém phát <br /> triển hơn, lại mới gia nhập vào ASEAN cũng như  AFTA nên chắc chắn sẽ <br /> không thích ứng ngay được với những chuyển đổi quá nhanh như vậy. <br /> <br /> ­ Thứ  ba, các công ty đa quốc gia bên ngoài ASEAN sẽ  chỉ  đầu tư  trực  <br /> tiếp nhiều hơn vào những nước có môi trường đầu tư  thuận lợi. Do đó, để <br /> cho toàn khu vực ASEAN trở nên hấp dẫn đầu tư và phát huy được lợi thế so  <br /> sánh của tất cả  các nước thì các thành viên ASEAN phải có chiến lược sắp <br /> xếp cơ  cấu sản xuất hợp lí, tham gia vào sự  phân công lao động khu vực  <br /> ASEAN theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, từng bước nâng cao lợi <br /> thế để có thể thực hiện cạnh tranh bình đẳng trên cả thị trường thế giới.<br /> <br /> Vấn đề  này còn được quy định trực tiếp bởi hai khía cạnh của AFTA.  <br /> Một mặt, theo quy định của AFTA, một sản phẩm được coi là có xuất xứ <br /> ASEAN nếu 40% hàm lượng giá trị  của sản phẩm này có xuất xứ  từ  một <br /> nước ASEAN bất kì nào. Theo đó, việc đầu tư  để  sản xuất tại một nước  <br /> nằm bên trong ASEAN và bán sản phẩm cho các nước thuộc AFTA cũng <br /> mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư  nhờ  được hưởng các  ưu đãi của nó. Vì <br /> vậy khi đầu tư  vào các nước ASEAN, nhà đầu tư  nước ngoài không chỉ  xem <br /> xét thị trường tiêu thụ của nước đó mà còn tính tới cả thị trường ASEAN.<br /> Mặt khác, việc xem xét thị trường ASEAN còn giúp các nhà đầu tư nước <br /> ngoài có chiến lược xây dựng các cơ  sở  của mình  ở  các nước ASEAN theo  <br /> một mạng lưới chung nhằm tối  ưu hóa việc khai thác các lợi thế so sánh của <br /> từng quốc gia và việc sử  dụng các nguồn lực theo hướng chuyên môn hóa.  <br /> Tuy nhiên cũng từ đây nảy sinh ra một vấn đề rất đáng quan tâm là tình trạng <br /> thay vì hợp trong đầu tư, nguy cơ  cạnh tranh về  thu hút đầu tư  nước ngoài <br /> của ASEAN càng quyết liệt và chậm lại tiến trình.<br /> <br /> ­ Thứ tư, thị trường bên trong ASEAN tương đối nhỏ và bản thân sự tăng <br /> trưởng của các nền kinh tế  ASEAN lại lệ  thuộc đáng kể  vào các thị  trường  <br /> Mĩ, Nhật. Do đó, có thể  nói rằng, AFTA không phải là một sự  lựa chọn để <br /> hội nhập thế giới nhưng đó là con đường tốt nhất để cải thiện năng lực cạnh <br /> tranh của ASEAN cũng như thúc đẩy thương mại và đầu tư vào ASEAN.<br /> <br /> Vấn đề  rất dễ  dàng gây cản trở  tiến trình AFTA đó là những quy định <br /> tạm thời cho phép các nước ASEAN tiếp tục duy trì bảo hộ  thị  trường trong  <br /> nước. AFTA là một quá trình trong đó từng nước được phép có một lịch trình  <br /> giảm thuế và phi thuế quan cụ thể của mình. Tuy nhiên trên thực tế, trong lộ <br /> trình AFTA của mỗi nước, những mặt hàng nào có giá trị xuất khẩu cao trong <br /> tổng kim ngạch xuất khẩu hoặc có khối lượng tiêu thụ  lớn trong nước đều <br /> được phép tạm thời chưa đưa vào danh mục giảm thuế, vừa để tạo nguồn thu  <br /> vừa để có thời gian chuyển hướng sản xuất, do đó nghiễm nhiên chúng được  <br /> bảo hộ. Các biện pháp bảo hộ thuế quan này chỉ là các biện pháp tình thế. Nó  <br /> sẽ  bị triệt tiêu khi lộ  trình giảm thuế được thực hiện đồng thời ở  tất cả  các  <br /> nước thành viên.<br /> <br /> Tuy nhiên thuế quan không phải là một công cụ duy nhất để duy trì bảo  <br /> hộ  của nhà nước đối với một ngành công nghiệp nào đó mà còn tồn tại các  <br /> biện pháp phi thuế  quan. Các biện pháp phi thuế  quan này thường khó xác <br /> định, thường  ẩn giấu sau các điều chỉnh vĩ mô của các quốc gia như  chính <br /> sách, kiểm định hàng hóa, tiêu chuẩn kĩ thuật… Nếu không giải quyết một  <br /> loạt các vấn đề về  đầu tư, tài chính, dịch vụ, sở hữu trí tuệ  thì AFTA sẽ  chỉ <br /> như một hiệp định thương mại đơn thuần và nếu không có sự hỗ trợ của các <br /> lĩnh vực này thì tiến trình thực hiện và hoàn tất AFTA sẽ  gặp khó khăn do <br /> một số  quốc gia vẫn lạm dụng những góc độ  không có quy định và chưa có <br /> nguyên tắc phù hợp để thực hành các biện pháp bảo hộ này.<br /> <br /> PHẦN II: TÁC ĐỘNG CỦA AFTA VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM<br /> <br /> I. Quá trình tham gia của Việt Nam<br /> <br /> Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở  thành thành viên thứ  7 của  <br /> ASEAN và cam kết tham gia AFTA. Thời hạn hoàn thành AFTA của Việt <br /> Nam vào năm 2006. Việt Nam bắt đầu thực hiện lộ  trình giảm thuế  quan <br /> tham gia AFTA từ  ngày 1/1/1996, khi đưa 875 mặt hàng đầu tiên vào thực <br /> hiện CEPT. Tất cả  những mặt hàng này đều đã nằm  ở  khung thuế  suất 0 ­ <br /> 5%.<br /> <br /> Đầu năm 1998, Việt Nam công bố  lịch trình giảm thuế  để  thực hiện <br /> AFTA vào năm 2006. Trên thực tế đến cuối năm 2002, 5.500 mặt hàng (chiếm <br /> khoảng 86%  tổng số  mặt  hàng  trong  biểu thuế  nhập khẩu)   đã  được  vào <br /> chương trình cắt giảm. Toàn bộ  các mặt hàng này đã  ở  thuế  suất dưới 20%  <br /> và có lộ trình cắt giảm trong thời kỳ 2002 ­ 2006. Trong số đó, 65% đã ở mức <br /> thuế 0 ­ 5%.<br /> <br /> Theo số liệu của tờ Dow Jones, vào những ngày đầu năm 2003, mức thuế <br /> suất trung bình của Việt Nam chỉ  hơn 2% một chút, và Việt Nam đang là <br /> nước   có   mức   thuế   suất   trung   bình   thấp   thứ   3   ASEAN,   sau   Singapore   và <br /> Brunei.<br /> <br /> Theo đúng lộ  trình thì việc cắt giảm thuế  tham gia AFTA đã được áp <br /> dụng chính thức tại Việt Nam từ  ngày 1/1/2003. Tuy nhiên, ngày 10/1/2003, <br /> Bộ  Tài chính thông báo việc cắt giảm đó được thực hiện lùi lại 7 tháng, vào <br /> ngày 1/7. Đến ngày 1/7, 1.416 mặt hàng thuộc (TEL) được chuyển sang (IL).  <br /> Đa số  đó là những mặt hàng hiện đang được bảo hộ  với mức thuế  suất rất  <br /> cao (30 ­ 100%), hoặc đang được quản lý bằng hạn ngạch như xi măng, giấy, <br /> hàng điện tử, đồ gia dụng, cơ khí, vật liệu xây dựng...<br /> <br /> II. Tác động của AFTA đối với nền kinh tế Việt Nam<br /> <br /> Đối chiếu nội dung của AFTA cũng như  những tác động có thể  có của <br /> nó đối với các nước thành viên nói chung, đối chiếu với tình hình cụ  thể  và <br /> tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam, AFTA có thể  có những tác động <br /> trên các mặt chính sau:<br /> <br /> 1. Thương mại<br /> <br /> a. Nhập khẩu<br /> <br /> Trong những năm gần đây, hàng hóa từ  ASEAN vào Việt Nam chiếm  <br /> khoảng 25% kim ngạch nhập khẩu, trong đó nguyên vật liệu dùng cho sản <br /> xuất và hàng công nghiệp chiếm tỷ  trọng lớn. Các mặt hàng này đã có thuế <br /> suất dưới 5% trước khi thực hiện CEPT. Vì vậy, AFTA không có tác động  <br /> trực tiếp tới việc nhập khẩu những mặt hàng này.<br /> <br /> Ngoài ra, một số hàng nhập khẩu có kim ngạch đáng kể ở Việt Nam như <br /> xăng dầu, xe máy... chưa được đưa vào danh sách giảm thuế  ngay nên trước  <br /> mắt sẽ nằm ngoài phạm vi tác động của AFTA.<br /> <br /> Về lâu dài, Việt Nam chắc chắn phải đưa thêm những mặt hàng từ danh <br /> mục loại trừ tạm thời có thuế suất trên 20% vào diện cắt giảm ngay, và loại <br /> trừ dần các hàng rào phi thuế quan (nhất là những hạn chế về số lượng nhập  <br /> khẩu). Khi đó, rất có thể nhập khẩu, nhất là những mặt hàng tiêu dùng từ các <br /> nước ASEAN vào Việt Nam sẽ  tăng lên nếu những mặt hàng cùng loại sản <br /> xuất trong nước không cạnh tranh lại được.<br /> b. Xuất khẩu sang các nước ASEAN khác<br /> <br /> Về  lý thuyết và dài hạn, AFTA có tác động làm tăng sức cạnh tranh của <br /> hàng hóa Việt Nam trên thị  trường ASEAN nhờ  giảm thuế  quan và loại bỏ <br /> các hàng rào phi thuế quan. Song trong vài năm tới, khả năng AFTA làm tăng <br /> kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước này không lớn do các <br /> nguyên nhân sau:<br /> <br />  Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu:<br /> <br /> Những năm gần đây, ASEAN thường chiếm khoảng 20 ­ 23% kim ngạch  <br /> xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một con số đáng kể. Nhưng những mặt hàng <br /> được hưởng thuế  suất CEPT lại chỉ  chiếm gần 20% kim ngạch xuất khẩu  <br /> sang ASEAN, tương đương với dưới 4% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt  <br /> Nam năm 2001. Và mức tăng xuất khẩu của những mặt hàng này sang các <br /> nước ASEAN khác cũng không lớn.<br /> <br /> Cơ cấu hàng hóa của Việt Nam và ASEAN khá tương đồng. Với trình độ <br /> thua kém hơn, Việt Nam chỉ  có thể  cạnh tranh trên thị  trường ASEAN nhờ <br /> tính độc đáo của chủng loại, mẫu mã và do đó, chỉ mang tính bổ sung cho cơ <br /> cấu hàng hóa nước đối tác.<br /> <br />  Xét về bạn hàng:<br /> <br /> 2/3 doanh số  buôn bán của Việt Nam với ASEAN được thực hiện với <br /> Singapore. Phần lớn hàng Việt Nam xuất sang Singapore sẽ  được tái xuất <br /> sang các nước khác. Nhưng ở nước này, hệ thống thuế xuất nhập khẩu trước  <br /> AFTA vốn đã thấp, gần như bằng 0%. Do vậy, khi thực hiện CEPT trên toàn <br /> khối ASEAN, 1/3 kim ngạch xuất nhập khẩu còn lại của Việt Nam với các <br /> nước ASEAN khác sẽ  chưa làm thay đổi nhiều xuất khẩu Việt Nam nếu xét <br /> theo khía cạnh được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu thấp.<br /> Có thể kết luận rằng: Chỉ khi nào Việt Nam tạo được sự dịch chuyển cơ <br /> cấu sản xuất và xuất khẩu theo hướng tạo ra được nhiều chủng loại hàng  <br /> hóa có sức cạnh tranh và nằm trong danh mục cắt giảm của CEPT, các doanh <br /> nghiệp Việt Nam mới có thêm thuận lợi về  yếu tố  giá cả  khi muốn xuất  <br /> khẩu sang ASEAN.<br /> <br /> c. Xuất khẩu sang các nước ngoài ASEAN<br /> <br /> Về  dài hạn, AFTA có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch xuất khẩu  <br /> của Việt Nam sang các thị  trường ngoài ASEAN do nhập được đầu vào cho <br /> sản xuất xuất khẩu với giá rẻ  hơn từ  các nước ASEAN. Mặt khác, với tư <br /> cách một thành viên của AFTA, Việt Nam có điều kiện để  khai thác những <br /> lợi thế mới trong quan hệ thương mại với nước lớn.<br /> <br /> Tuy vậy, như trên đã nói, cơ cấu sản phẩm của các nước ASEAN xuất ra  <br /> thị  trường thế  giới  lại khá tương   đồng với Việt Nam. Và họ  cũng  được  <br /> hưởng những lợi ích tương tự. Do đó, tham gia AFTA, Việt Nam tiếp tục  <br /> phải chấp nhận cạnh tranh rất quyết liệt với các thành viên khác trong hiệp <br /> hội không chỉ trên thị trường khu vực.<br /> <br /> 2. Đầu tư nước ngoài<br /> <br /> a. Đầu tư từ các nước ASEAN khác<br /> <br /> AFTA có tác động phân công lại các nguồn lực trong khu vực theo hướng  <br /> hợp lý hóa. Khi không còn bảo hộ, một số  ngành công nghiệp của một số <br /> nước sẽ bộc lộ sự thua kém về khả năng cạnh tranh, để tồn tại, hoặc để  thu <br /> được nhiều lợi nhuận hơn, các nhà kinh doanh trong những ngành này sẽ đầu <br /> tư sang các nước ASEAN khác có các yếu tố thuận lợi hơn, trong đó có Việt <br /> Nam.<br /> Ngoài ra, với tiến trình hiện thức hóa Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), các <br /> nhà đầu tư  ASEAN nói riêng và các nhà đầu tư  nước ngoài nói chung sẽ  có <br /> nhiều thuận lợi về thủ tục hành chính và tâm lý khi đầu tư vào Việt Nam.<br /> <br /> b. Đầu tư nước ngoài từ các nước khác<br /> <br /> Về lý thuyết, một khu vực thương mại tự do sẽ làm tăng đầu tư từ ngoài <br /> khu vực. Đó là bởi các nhà đầu tư có thể sản xuất hàng hóa tại một hay một  <br /> số nước và đưa ra tiêu thụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế thấp và <br /> hàng rào thuế  quan dần được dỡ  bỏ. Khi các nhà đầu tư  nước ngoài đầu tư <br /> vào một nước, họ  sẽ  có một thị  trường tiềm năng rộng lớn hơn nhiều lần  <br /> nước đó.<br /> <br /> Áp dụng lý thuyết đó vào AFTA và Việt Nam, thì các nhà đầu tư  nước  <br /> ngoài khi đầu tư vào Việt Nam, họ sẽ không chỉ nghĩ đến một thị trường với  <br /> 80 triệu dân, mà còn tính đến cả thị trường ASEAN với trên 500 triệu người.<br /> <br /> Nhưng trên thực tế, thuế chỉ là một trong rất nhiều yếu tố được xem xét <br /> để  đi đến quyết định đầu tư. Thuế  thấp sẽ  mất đi ý nghĩa thu hút đầu tư <br /> nước ngoài nếu không đi kèm với sự   ổn định chính trị, xã hội, luật đầu tư <br /> nước ngoài thông thoáng, nguồn lao động giá rẻ và có tay nghề cao...<br /> <br /> Ví dụ  đơn cử  là Indonesia hiện nay. Mặc dù Indonesia đã hoàn thành <br /> AFTA, nhưng rất nhiều nhà đầu tư  nước ngoài như Sony, Matsushita... đã và  <br /> đang rời bỏ nước này sang Trung Quốc, Malaysia hay Việt Nam vì lo ngại và <br /> thất vọng trước nạn khủng bố, mâu thuẫn sắc tộc, bất ổn quyền lực và tham <br /> nhũng...<br /> <br /> Đó cũng thách thức chung cho tất cả  các thành viên của AFTA. Vì nếu  <br /> như  trước đây, Indonesia hay Việt Nam không phải là thành viên của AFTA, <br /> để  vượt qua hàng rào thuế  quan và các hạn chế  nhập khẩu vào thị  trường  <br /> Indonesia hay Việt Nam, các nhà đầu tư  nước ngoài buộc phải đầu tư  tại  <br /> nước sở  tại. Nhưng nay Việt Nam đã là thành viên AFTA, nếu môi trường <br /> đầu tư  vào Việt Nam không hấp dẫn, thì thay vì đầu tư  vào Việt Nam, các <br /> nhà đầu tư nước ngoài có thể sẽ đầu tư vào các nước ASEAN khác, hoặc đơn  <br /> giản hơn, chỉ cần mở rộng hoặc tăng thêm công suất của các nhà máy sẵn có  <br /> tại các nước AFTA, đặc biệt là đối với các dây chuyền sản xuất đã gần  hết <br /> khấu hao nhưng vẫn vận hành tốt, rồi từ đó bán hàng sang Việt Nam.<br /> <br /> Như  vậy, để  tận dụng được những cơ  hội thu hút đầu tư  từ  các nước  <br /> khác mà AFTA đem lại, Việt Nam cần phải tiếp tục cải thiện một cách đồng <br /> bộ và toàn diện môi trường đầu tư.<br /> <br /> PHẦN III: TÁC ĐỘNG CỦA AFTA VỚI NỀN KINH TẾ ASEAN<br /> <br /> I. Tác động của AFTA với nền kinh tế ASEAN<br /> Mức tăng trưởng nhập khẩu trong nội bộ  ASEAN tăng khoảng từ  40% <br /> (đối với Malaysia) đến 70% (đối với Thái Lan). Nhập khẩu của Singapore  <br /> tăng mạnh bởi vì Singapore đã có mức thuế ban đầu gần như là 0%. Trong khi  <br /> đó một tỷ  lệ  đáng kể  trong mức tăng trưởng này sẽ  là từ  việc buôn bán với <br /> các nước không thuộc khối ASEAN và một tỷ lệ lớn hơn sẽ xuất phát từ việc <br /> buôn bán do AFTA tạo ra.<br /> Tổng số  lượng xuất khẩu của ASEAN   tăng khoảng từ  1,5% (đối với <br /> Singapore) đến 5% (đối với Thái Lan) và tăng ít hơn đối với các nước thành <br /> viên khác, do khu vực tự  do hóa mậu dịch tạo ra. Không giống như  trường <br /> hợp nhập khẩu, mức tăng xuất khẩu sẽ không có hại cho việc xuất khẩu sang  <br /> các nước khác trên thế giới. Nói cách khác, các thành viên ASEAN sẽ tiếp tục  <br /> xuất khẩu thêm nhiều sản phẩm sang EU, Mỹ, Nhật và các nước NICs.<br /> Việc tăng cường hợp tác kinh tế  và việc thực hiện các sáng kiến mới <br /> nhằm làm giảm chi phí sản xuất và giao dịch trong khu vực làm buôn bán tăng <br /> nhanh trong nội  bộ  cũng như  bên ngoài các nước  ASEAN.  Biến khu vực <br /> ASEAN không chỉ  thành một khu vực hoạt động hấp dẫn mà còn trở  thành  <br /> một thị trường hấp dẫn.<br /> Xuất khẩu các sản phẩm CEPT trong nội bộ ASEAN tăng 18,68% trong <br /> giai đoạn từ  1994 – 1995; có nghĩa là tăng từ  47,4 tỷ  USD lên 56,3 tỷ  USD.  <br /> Xuất khẩu các sản phẩm CEPT và các sản phẩm không thuộc CEPT trong nội <br /> bộ  ASEAN tăng lên 19,77%;  từ  57,5 tỷ  USD lên 68,8 tỷ  USD trong cùng <br /> khoảng thời gian. Các lĩnh vực sản xuất máy móc các thiết bị cơ khí, các thiết <br /> bị  điện và âm thanh chiếm tỷ  trọng lớn nhất trong buôn bán nội bộ  ASEAN  <br /> khoảng 58,2% trong năm 1995. Tỷ  lệ  buôn bán trong nội bộ  ASEAN tính <br /> trong toàn bộ  kim ngạch buôn bán của ASEAN giảm xuống còn 19,8% trong  <br /> năm 1995 trước đó là 20,2% trong năm 1994. Tổng số các mặt hàng nằm trong <br /> Danh sách cắt giảm thuế  là 45.609 mặt hàng ­ chiếm khoảng 94% tổng số <br /> mặt hàng của ASEAN.<br /> Hơn nữa, khu vực thương mại phát triển có ảnh hưởng tích cực tới việc  <br /> phân bổ  các hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp giữa các nước thành viên <br /> ASEAN. Nhưng sẽ không có một nước nào bá chủ khu vực.<br /> II. Tác động của AFTA với từng nền kinh tế trong ASEAN<br /> Indonesia:  Tăng    xuất khẩu  đáng kể  nhất diễn ra trong các ngành cần <br /> nhiều đến sức lao động và tài nguyên như ngành dệt, các sản phẩm gỗ, giấy <br /> và các sản phẩm chế  tạo khác. Các ngành hàng suy giảm bao gồm: thực  <br /> phẩm, các sản phẩm phi kim loại và các phương tiện giao thông.<br /> Malaysia: Xuất khẩu phần lớn tập trung vào các ngành như may mặc, các <br /> sản phẩm gỗ và các ngành sản xuất máy móc cần nhiều vốn. Các ngành hàng <br /> suy giảm bao gồm : thực phẩm, kính và các sản phẩm kính và phi kim loại.<br /> Philippines: Mức tăng xuất khẩu tập trung chủ yếu  ở các loại sản phẩm <br /> cần nhiều vốn đầu tư  như các sản phẩm chế  tạo phi kim loại, các loại máy  <br /> điện và phi điện. Các sản phẩm gỗ, hóa chất công nghiệp và các mặt hàng <br /> chế tạo giảm đi đôi chút.<br /> Singapore: Xuất khẩu tăng trong các ngành công nghiệp nặng như  công <br /> nghiệp hóa chất, sắt, thép, các phương  tiện vận tải. Một vài ngành công <br /> nghiệp như dệt, may mặc giảm.<br /> Thái Lan: Quy mô xuất khẩu được mở  rộng trong các ngành chế  biến  <br /> thực phẩm, sản phẩm da, các sản phẩm kim loại và phi kim loại và các loại <br /> máy điện. Các sản phẩm gỗ, máy móc và các sản phẩm công nghiệp cao cấp  <br /> giảm.<br /> Theo chương trình AFTA, một vài ngành hàng được dự đoán sẽ mang lại  <br /> lợi nhuận, còn các ngành khác bị suy giảm. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào <br /> cơ cấu ngành và tính hiệu quả của từng ngành trong mỗi quốc gia.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> KẾT LUẬN<br /> <br /> Tham   gia AFTA là  bước   đi  tất  yếu  đầu  tiên của  Việt Nam  trên con <br /> đường hội nhập với khu vực và thế  giới. Sự  kiện này mở  ra cho Việt Nam  <br /> nhiều cơ hội mới cũng như nhiều thách thức to lớn. Cơ hội và thách thức đan <br /> xen lẫn nhau, đòi hỏi sự  nỗ  lực cả  tầm vĩ mô và vi mô để  khai thác triệt để <br /> các cơ  hội và hạn chế  đến mức thấp nhất  ảnh hưởng tiêu cực do các thách <br /> thức đưa đến.<br /> <br /> Không nên coi việc thực hiện AFTA như  một quá trình hay hành động <br /> riêng biệt, mà phải đặt nó trong lộ  trình hội nhập và tự  do hóa thương mại  <br /> tổng thể, trong đó, mục tiêu nhất quán được xác định bởi khuôn khổ WTO.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2