intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận KTCT:"Những hoạt động huy động vốn và các giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay".

Chia sẻ: Thanh Cong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

111
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận ktct:"những hoạt động huy động vốn và các giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay".', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận KTCT:"Những hoạt động huy động vốn và các giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay".

  1. Tiểu luận Kinh tế chính trị Đề tài "Những hoạt động huy động vốn và các giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay".
  2. LỜI NÓI Đ ẦU Sau 10 năm thực hiện đường lối Đổi m ới của Đ ảng, nền kinh tế nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định h ướng XHCN; các thành phần kinh tế được bình đẳng và tự do cạnh tranh với nhau trong khuôn khổ pháp luật. Cơ chế kinh tế mới đã có những tác động tích cực. Các doanh nghiệp thuộ c mọi thành phần kinh tế đã tăng nhanh cả số lượng lẫn ch ất lượng. Song do nền kinh tế nước ta còn khó khăn, khả năng tích luỹ từ nội bộ còn thấp, trừ một số doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là có qui mô lớn, còn lại các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ chiếm tỉ lệ trên 95% trong hệ thống các doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt nam. Do qui mô nhỏ và các khó khăn của nền kinh tế cho nên các doanh nghiệp ở nước ta thường xuyên bị thiếu vốn đ ể hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là năm 1996, hầu hết các doanh nghiệp nước ta đều bị thiếu vốn trầm trọng trong khi đó đã xảy ra một ngh ịch lí là vốn ứ đọng ở các Ngân hàng thương mại tới hàng ngàn tỉ đồng. Rõ ràng doanh nghiệp thiếu vốn không phải do Ngân hàng thiếu vốn mà là do doanh nghiệp chưa có các giả i pháp khai thác các nguồn và huy động vốn m ột cách hợp lí. Thiếu vốn sản xuất kinh doanh đã kìm hãm sự p hát triển của nền kinh tế, sự thiệt hạ i và kìm hãm càng trở nên sâu sắc hơn khi toàn bộ các doanh nghiệp Nhà nước bị thiếu vốn vì rằng doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nó nắm giữ các ngành then chốt và phần lớn các ngu ồn lực của xã hội. Do đó, việc tìm ra các giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp thuộ c mọi thành phần kinh tế nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng đã trở nên cấp thiết !
  3. Với mục đích vận dụng các kiến thức đã họ c vào giải quyết vấn đề vốn cho doanh nghiệp Nhà nước, em chọn đề tài "Những hoạt động huy động vốn và các giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay". Đ ề án được chia thành ba phần: Phầ n I: N hững vấn đề lí luận cơ sở về hoạt động huy động vố n cho sả n xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phầ n II: Thực trạng việc huy động vốn ở các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay. Phần III: Những giải pháp huy động vốn cho doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. V iệc tìm ra giải pháp về vố n cho doanh nghiệp nhà nước là m ột vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp và phải tiến hành thường xuyên trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do thời gian và trình độ hạn chế nên em không thể tránh khỏi những vướng m ắc và khiếm khuyết. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn đã giúp đ ỡ em hoàn thành đ ề án này Hà nội tháng 9 năm 2001 PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ SỞ VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CHO SẢN XUẤ T KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP. Để kinh doanh, trước hết cần có vốn, vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất, kinh doanh. Vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau. Căn cứ vào nguồn hình thành vố n, người ta cũng phân chia xí nghiệp theo nhiều lo ại khác nhau. Các nguồn hình thành vốn bao gồm: Vốn do nhà nước cấp (vốn NSNN) vố n do chủ kinh doanh bỏ ra, vốn liên doanh và vốn huy động. Việc bảo toàn và phát triển vốn được thực hiện bằng các nguồn doanh thu bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ (khấu hao
  4. và hoàn vốn lưu độ ng) và từ các nguồn huy động bổ sung khác. Nói chung, ở mỗi xí nghiệp, các nguồn vố n không đồng nhất, mà rất đa d ạng và phong phú. Do đó khái niệm các loại xí nghiệp được hình thành căn cứ vào nguồn vốn chỉ có ý nghĩa tương đối. Vốn NSNN được cấp phát cho các xí nghiệp của nhà nước. Trước đây nguồn vốn này rất lớn và chiếm phần quan trọng trong tổng số chi ngân sách của chính phủ. Với chính sách mở rộng hoạt động của các thành phần kinh tế và đổ i m ới cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế q uốc dân, nguồn vốn cấp phát của NSNN cho đầu tư XDCB sẽ được thu hẹp về tỷ trọng và khối lượng. Nguồ n vốn bổ sung hoặc hoàn bù của các xí nghiệp quố c doanh cũng được huy động từ nền kinh tế mà cấp phát từ N SNN như trước đây. Thực tiễn hơn 11 năm đổi m ới vừa qua cho thấy, vấn đề bức xúc của doanh nghiệp nước ta thiếu vốn để trang bị và đổ i mới những công nghệ hiện đại. Mặt khác, hiệu quả sử dụng đồng vốn cũng chưa cao, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp. Trong nhiều năm trước đây do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chi phối, nên quá trình tích tụ và tập trung vốn trong công nghiệp không được quan tâm đẩy mạnh. Điều đó do một số nguyên nhân: - Tỷ lệ giữa tiêu dùng và đầu tư ở các xí nghiệp quố c doanh trong lĩnh vực công nghiệp đã không dưạ vào yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, cũng không dựa vào hiệu quả kinh tế mà chỉ dựa vào các chỉ thị kế hoạch khô cứng, vì thế quá trình tích tụ, tập trung vốn đã không được đẩy mạnh. - V iệc tái đầu tư đôi khi chưa được tính toán kỹ về hiệu quả kinh tế, quá trình tập trung vốn nhiều khi mang nặng tính chất hình thức. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cho phép chúng ta tập trung vốn một cách nhanh chóng và có hiệu quả để x ây dựng các công trình trọng điểm quy mô lớn. Thực ra, ngay từ xa xưa các nhà kinh tế đã đánh giá cao vai trò của vố n đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
  5. Chẳng hạn, luận điểm: "Lao động là cha, đất đai là m ẹ" của mọi của cải vật chất đã được nhà kinh tế học người Anh Uyliam Petty đưa ra từ thế kỷ XVI. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi đó người ta đã nhận thức rõ những yếu tố cơ bản để tạo ra mọ i của cải cho xã hộ i, đó là nguồn lực con người và đất đai, tài nguyên thiên nhiên. Kế thừa những tư tưởng của các nhà kinh tế cổ điển, Mác đ ã trình bày quan điểm của mình về vai trò của vốn qua các học thuyết: Tích lũy, tuần hoàn và chu chuyển, tái sản xuất tư bản xã hội, học thuyết địa tô... Đ ặc biệt là Mác đã chỉ ra nguồn gốc chủ yếu của vốn tích lũy là lao động thặng dư do những người lao động đặt ra, và nguồn vốn đó khi đem vào việc mở rộ ng và phát triển sản xuất thì nó vận động như thế nào. Khi nghiên cứu nền sản xuất TBCN, Mác đã tìm thấy qui luật vận đ ộng của tư bản (vốn) mà qui luật này nếu ta trừu tượng những biểu hiện cụ thể về mặt xã hộ i thì sẽ thấy một điều bổ ích bằng công thức SLĐ TLSX T-H ...SX...H' - T' Công thức đó đ ã chỉ ra rằng, bất kỳ một nhà doanh nghiệp nào muốn thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh cũng đều phải trải qua 3 giai đoạn: Mua - Sản xuất - Bán hàng. Và điều quan trọng đối với mỗi người sản xuất, mỗi doanh nghiệp chính là phải biết phân bổ một cách hợp lý các yếu tố của tiền vốn, đầu tư nhằm tạo ra nhiều của cải cho mỗ i cá nhân, mỗi doanh nghiệp và cả xã hội. Công thức đó cũng chỉ ra rằng trong dòng chảy liên tục của dòng vốn đầu tư nếu như hình thái nào trong ba hình thái trên chưa đi vào chu trình vận động liên tục của các hoạt độ ng sản xuất kinh doanh, trong trường hợp như vậy thì đồng vốn đó vẫn ở dạng tiềm năng chính nó chưa đem lại những lợi ích thiết thực cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp và toàn xã hội. Tích lũy vốn (tư bản) theo Mác là: "Sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản, hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản...". Từ những phân tích khoa học chặt chẽ với những luận cứ xác đáng Mác đã chỉ
  6. ra bản chất của quá trình tích lũy vốn trong các doanh nghiệp TBCN: "Một khi kết hợp được với sức lao động và đất đai tức là hai nguồ n gốc đầu tiên của của cải, thì tư bản có một sức bành trướng cho phép nó tăng những yếu tố tích lũy của nó lên quá những giới hạn mà bề ngoài hình như là do lượng của bản thân tư bản quyết định, nghĩa là do giá trị và khối lượng của những tư liệu sản xuất đ ã được sản xuất ra quyết định". Yêu cầu khách quan của tích lũy vốn đ ã được Mác khẳng định do những nguyên nhân sau "Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất TBCN thì qui mô tố i thiểu mà một tư bản cá biệt phải có để có thể kinh doanh, trong điều kiện bình thường cũng tăng lên. V ì vậy, những tư b ản nhỏ hơn cứ đổ xô vào những lĩnh vực sản xuất mà nền công nghiệp lớn chỉ mới nắm một cách lẻ tẻ hay chưa nắm hoàn toàn. Cạnh tranh ở đây sôi sục theo tỷ lệ thuận với số lượng những tư bản kình đ ịch với nhau và theo tỷ lệ nghịch với đại lượng của các tư bản đó...Ngoài điều đó ra, một lực lượng hoàn toàn mới đ ã phát triển lên cùng với nền sản xuất TBCN, đó là tín dụng. Từ đó, Mác khẳng định: "Sự cạnh tranh bắt buộ c nhà tư b ản, nếu muốn duy trì tư b ản của mình thì phải làm cho tư bản ngày càng tăng thêm và hắn không thể naò tiếp tục làm cho tư bản đó ngày một tăng lên được, nếu không có một sự tích lũy ngày càng nhiều thêm". Một số nhà kinh tế học khác cũng bàn về vố n và tích lũy vốn trong nền kinh tế, mà tiêu biểu là cuốn "Kinh tế học" của Paul A. Samuelson. Ông viết: "Hàng tư b ản do bản thân hệ thố ng kinh tế sản xuất đ ể được sử d ụng làm đ ầu vào của sản xuất để làm ra hàng hoá dịch vụ. Các hàng tư bản lâu bền này, vừa là đầu ra, vừa là đầu vào, có thể tồn tại một thời gian dài ho ặc một thời gian ngắn. Chúng có thể được cho thuê trên thị trường có tính cạnh tranh như cho thuê những mẩu đ ất ho ặc những giờ lao động. Tiền trả cho việc sử dụng tạm thời những hàng tư bản gọi là tiền cho thuê". Ông còn cho rằng thực chất của tích lũy chính là chúng ta thường chịu b ỏ tiêu dùng
  7. hiện nay để tăng tiêu dùng cho tương lai. Như vậy xã hội đầu tư, hay nhịn tiêu dùng hiện tại, mà chờ để thu được lợi tức do đầu tư đó tạo ra. Một nhà nghiên cứu kinh tế người Hàn Quố c tên là Sang Sung Part từ thực tế kinh tế của Hàn Quốc cùng mộ t số tài liệ u nghiên cứu của các nước đang chậm phát triển, ông đã so sánh với nhiều nước phát triển và đi đến kết luận được nhiều người chấp nhận là "Các nước đang phát triển có rất ít khả năng sản xuất tư liệu sản xuất, đặc biệt là máy móc thiết b ị, nhất là trong giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển mộ t nền kinh tế tự cấp, tự túc. Tiết kiệm bằng tiền của người tiêu dùng sẽ là quá ít ỏi để có thể đầu tư ở những nơi còn chưa có khả năng sản xuất ra tư liệu sản xuất". Từ nhận định trên Sang Sung Part đã định nghĩa về vốn và tổ ng số vố n như sau: "Dưới dạng tiền tệ, vố n được định nghĩa là khoản tích lũy, là phần thu nhập thường có chưa được tiêu dùng. Về mặt hiện vật, vố n được chia thành hai phần: vốn cố định và vốn tồn kho, là các tư liệu sản xuất được sản xuất bằng hiện vật được sản xuất trong khu vực sản xuất hay được nhập khẩu". Và "Tổng số vốn tích lũy còn được gọi là tài sản quố c gia, được tích lũy từ lượng sản phẩm vật chất hiện có và được trực tiếp sử dụng vào quá trình sản xuất hiện tại, không kể tài nguyên thiên nhiên như đất đai và hầm mỏ vì nó không được tạo ra các hoạt động đầu tư. Cơ sở hạ tầng được gọi là vốn sản xuất không thể thiếu đối với việc nâng cao tổng lượng sản phẩm vật chất". Qua đó chúng ta rút ra một số nhận xét theo quan niệm về vốn của Sang Sung Part: Một là: Vốn không chỉ biểu hiện bằng hiện vật hoặc dưới dạng tiền tệ. Hai là: Trong nền kinh tế thị trường, vốn không chỉ là những lượng tiền mặt nhất định trực tiếp đầu tư sinh lợi nhuận mà còn là giá trị của những tài sản hữu hình và vô hình tham gia vào các quá trình sản xuất. Ba là: Tiền chỉ là vốn nếu nó được tích lũy có mục đích đầu tư sinh lợi và cũng chỉ trở thành vốn đầu tư để phát triển kinh tế nếu như trong nề n kinh tế đ ó có đủ khả năng để sản xuất ra tư liệu sản xuất, có đủ khả năng chuyển
  8. đổi các khoản tiền tiết kiệm thành những tư liệu sản xuất trên thị trường trong nước và quốc tế. Vốn biểu hiện bằng tiền là nguồn vố n linh hoạt nhất, nhưng phải là tiền vận động đi vào sản xuất công nghiệp một cách có hiệu quả. Mặc dù mỗi trường phái, mỗi nhà kinh tế họ c, ở mỗi thời kỳ lịch sử có những quan niệm, phân tích, kết luận về vốn riêng, song chúng ta có thể rút ra khái niệm về vố n trên cơ sở kế thừa m ột số các học thuyết kinh tế cuả các nhà kinh tế học từ xưa đến nay như sau: - Phạm trù vốn phải được hiểu theo nghĩa rộ ng gồm toàn bộ các nguồ n lực kinh tế khi được đưa vào chu chuyển. Nó không chỉ bao gồm tiền vốn các tài sản hiện vật như máy móc, vật tư, lao động, tài nguyên, đất đai... mà còn bao gồm giá trị c ủa những tài sản cấu hình như vị trí của đ ất đai, các thành tựu khoa học và công nghệ... - Vốn hiểu theo nghĩa trực tiếp là phần giá trị tài sản quốc gia được tích lũy dưới dạng tiền và giá trị của tài sản hữu hình và vô hình nhằm mục đích sinh lợi, được chuyển đổi thông qua các hoạt động đầu tư thành những tư liệu sản xuất và các phương tiện sản xuất cần thiết khác để sử d ụng vào quá trình đ ầu tư cho nền kinh tế. - Vốn trong nước là toàn bộ những yếu tố cần thiết đ ể cấu thành quá trình sản xuất, được hình thành nên từ nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng dư của nhân dân lao động trong mộ t quố c gia. Như vậy, cùng với quan niệm về vốn của kinh tế chính trị Mác xít, các nhà kinh tế họ c hiện đại mà tiêu biểu là Paut A. Samuelson cũng đ ã nghiên cứu về vốn dưới các góc độ khác nhau, nhưng tất cả những sự nghiên cứu đó chỉ làm rõ thêm bức tranh toàn cảnh về vố n mà Mác đã phát triển từ lâu. Để đạt được m ục tiêu tích lũy vốn cao thì vấn đề tiếp theo là phải xác định được mức tích lũy vốn trong GDP cần hướng tới trong từng giai đoạn phát triển của nền công nghiệp. Ứ ng với mỗ i m ục tiêu khác nhau thì mức tích lũy vố n trong nước thường khác nhau, vấn đề là phải xác đ ịnh được mức
  9. tích lũy vốn chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong GDP sẽ quyết định quá trình tích tụ và tập trung của các doanh nghiệp. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy muốn đ ẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế thì tỷ lệ tích lũy vốn trong nước thường phải chiếm 3% trong GDP. PHẦN II: THỰC TRẠNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ N ƯỚC -YÊU CẦU BỨC THIẾT CỦA VIỆC HUY ĐỘNG V ỐN CHO DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC HIỆN NAY Theo kết quả đợt kiểm trra đánh giá lại tài sản và vốn của doanh nghiệp Nhà nước tiến hành ngày 1/1/1996 thì tổng số vốn kinh doanh của 5775 doanh nghiệp Nhà nước đơn vị bàn giao là 68539 tỷ đồng (không kể giá trị diện tích đất trong sử dụng.). Trong đó, doanh nghiệp TƯ 50761,8 tỷ, doanh nghiệp địa phương 17778 tỷ đồng. Nếu trừ đI số vốn không hoạt động, bao gồm giá trị tài sản chờ thanh lí, không cần sử dụng, nợ khó đòi, nợ phải thu được khoanh lại thì số vốn thực sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước là 60459 tỷ đồ ng, b ằng 88,2% số vốn hiện có. N ếu loại trừ giá trị tài sản bị mất mát, số tiền lỗ của doanh nghiệp còn treo trên sổ sách thì số vố n thực sự hoạt động của doanh nghiệp còn ít hơn nữa. - Trong số vốn thực sự hoạt độ ng, vốn cố định là 53186 tỷ đồng, chiếm 88%; vố n lưu độ ng là 7273 tỷ đồ ng, chiếm 12%. Ta thấy cơ cấu vốn như thế là không hợp lí. Vốn lưu động chiếm tỉ lệ quá nhỏ so với tổ ng số vốn của doanh nghiệp. Vốn lưu động do Nhà nước cấp chỉ đáp ứng được 20% nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, trong đó, vốn lưu động thức sự hoạt động mới chỉ đáp ứng được 10%. Như vậy, tình trạng thiếu vốn trong doanh nghiệp là phổ biến và rất nghiêm trọng. N ếu xem xét kĩ hơn về tài sản cố định ta thấy: trang thiết bị của doanh nghiệp Nhà nước rất lạc hậu, chắp vá từ nhiều nguồn, nhiều nước khác nhau. Theo điều tra của Tổng cục thố ng kê thì tình trạng kĩ thuậ t của đa số
  10. máy móc thiết bị trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước lạc hậu khoảng 2-3 thế hệ, có lĩnh vực như đ ường sắt, cơ khí, công nghiệp đóng tàu... lạc hậu 4-5 thế hệ. Các doanh nghiệp Nhà nước địa phương chiếm tỉ lệ lớn nhưng có trình độ công nghệ lạc hậu hơn so với doanh nghiệp Nhà nước TƯ. Trong số các doanh nghiệp Nhà nước TƯ có 54,3% số doanh nghiệp ở trình độ thủ công, 41% ở trình độ cơ khí, chỉ có 3,7% ở trình độ tự động hoá. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước địa phương có tới 94% số doanh nghiệp ở trình độ thủ công, 2,4% ở trình độ cơ khí và chỉ có 2% ở trình độ tự động hoá. Trình độ trang thiết bị công nghệ lạc hậu và quá yếu kém d ẫn tới năng suất lao độ ng của doanh nghiệp Nhà nước còn thấp, gây ảnh hưởng đ ến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp khác và các doanh nghiệp nước ngoài. Do dó, để doanh nghiệp Nhà nước có khả năng cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động cần phải có vốn (trung và dài hạn) để đổ i mới các dây chuyền công nghệ - qui mô vốn của một doanh nghiệp Nhà nước của nước ta còn rất nhỏ. Vốn bình quân thực sự hoạt động của mộ t doanh nghiệp là 10,468 tỷ đồng(các doanh nghiệp cỡ nhỏ của các nước trong khu vực đều có vốn trên dưới 1 triệu USD). 68% Doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồ ng trong đó có 50% doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 500 triệu, thậm chí có doanh nghiệp chỉ có vố n vài chục triệu đồng. Một số ngành có vố n kinh doanh tương đối lớn (Điện lực: 19298 tỷ, Nông nghiệp:7738 tỷ, Ngân hàng tín dụng 2783 tỷ đồ ng...), tỷ trọng vốn từng ngành so với tổng số vốn thường không lớn, chẳng hạn, xây dựng 4,6%; chế biến khoáng sản 3,6%; vận tải bộ 5,1%. Như vậy, ta thấy rằng, qui mô vốn của từng doanh nghiệp và của ngành rất nhỏ, nguyên nhân chính là do doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay còn quá nhiều về số lượng, vốn của doanh nghiệp khi thành lập đươc cấp phát từ Ngân sách Nhà nước nhưng do Ngân sách Nhà nước eo hẹp nên vốn cấp phát khi thành lập cũng rất nhỏ.
  11. Từ việc phân tích thực trạng vố n của doanh nghiệp Nhà nước, ta thấy rằng, nhu cầu vốn hiện nay cho doanh nghiệp Nhà nước là rất lớn cả về vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, đ òi hỏi phải có biện pháp huy động vốn khẩn cấp cũng như phải có sự điều chỉnh lại cơ cấu vốn cho phù hợp thì mới có thể nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước. * Thực trạng huy động vốn trong các Doanh nghiệp Nhà nước: 1 . Huy động vốn trong DN Nhà nước thời kì trước khi đổ i mới: Trong thời kì trước đổ i m ới, nền kinh tế nươcs ta mang nặng tính kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, do đó, việc huy động và sử dụng vốn mang đặc trưng là Nhà nước bao cấp vố n và bao cấp tín d ụng. Nhà nước cấp phát vốn trực tiếp hoặc gián tiếp cho doanh nghiệp thông qua hệ thống ngân hàng trên cơ sở tính toán các nhu cầu vố n cần thiết để đảm bảo các chỉ tiêu pháp lệnh mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp. Hoạt động huy động vốn và lưu thông vốn qua đại diện Ngân hàng Nhà nước đảm nhận đã dẫn tới tiêu cực, yếu kếm trong kinh doanh tiền tệ, không tạo lập được các thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường hố i đoái... Điều đó đã dẫn tới không huy động được vốn nhàn rỗ i trong nhân dân, không đa dạng hoá được các hình thức lưu thông, cung ứng vốn do đó, không đáp ứng được kịp thời, linh hoạt, thích hợp và có hiệu quả các nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2 . Huy động vốn trong DNNN từ khi tiến hành đổi mới đến nay: Trong thời kì này, doanh nghiệp Nhà nước được giao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, Nhà nước chỉ giao vốn ban đầu cho doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tự xác đ ịnh nhu cầu, khả năng đảm bảo và tự tiến hành huy động vốn cho doanh nghiệp. Đ ể đánh giá thực trạng huy động vốn ở doanh nghiệp Nhà nước hiện nay ta xem xét các vấn đề sau: a ) Các kết quả đạ t được:
  12. Sau khi tiến hành đổi mới, vố n từ các nguồ n khác nhau đã được huy động vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với qui mô, tốc độ tăng nhanh qua các năm.Tính đến tháng1/1996, doanh nghiệp Nhà nước đã huy động được 279 375 tỷ đồng (doanh nghiệp Nhà nước TƯ huy động được 254160 tỷ, doanh nghiệp Nhà nước địa phhương 25215 tỷ) gấp hơn 4,1 lần vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy thì cứ có 1 đồng vốn thì doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta vay được trên 4,1 đ ồng; trong khi đó ở N hật, các xí nghiệp có 1 đồ ng thì vay được 10 đồng. Nhiều quan sát viên phương Tây cho rằng tỉ lệ này chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro không lành m ạnh so với phương Tây. Thực tế cho thấy hiện nay ở N hật bản đang bị khủng hoảng tài chính vì hàng loạt các công ty tài chính, Ngân hàng lớn bị sụp đổ do không thu hồ i được các khoản nợ. ở các nước phương Tây, ngân hàng chỉ cho vay: 1 đồng vốn riêng chỉ vay được từ 2 đén 5 đ ồng. ở sài gòn thời kì 1970- 1975 các xí nghiệp tư nhân có 1 đông fvốn chỉ vay được khoảng 3 đồ ng ở Ngân hàng đầu tư và 2 đồng ở N gân hàng thương mại. Như vậy, tỉ lệ vốn riêng/vốn vay thấp nhất là 1,5. N hư vậy, nếu so sánh với các chỉ tiêu này thì hiện nay, hiệu quả huy động vốn ở các doanh nghiệp Nhà nước là khá cao. Để huy động được lượng vốn này, các doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện các biện pháp chủ yếu sau: - Huy động từ các nguồn tín dụng: đây là nguồ n vốn huy động quan trọng nhất của các doanh nghiệp Nhà nước. Tín dụng cung cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất so với các thành phần kinh tế khác. Hiện nay, doanh nghiệp Nhà nước huy động được trên 50% tín dụng nội bộ và trên 70% tín d ụng ngoại tệ từ các Ngân hàng thương mại. - Huy động từ nguồn Ngân sách Nhà nước: Ngân sách Nhà nước là nguồn vốn quan trọng thứ hai đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Ngân
  13. sách Nhà nước cấp vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước dưới dạng đ ầu tư XDCB, cấp vố n lưu động, bù lỗ , trợ giá... Mặc dù đang có số lượng giảm nhưng lượng vố n hàng năm cho doanh nghiệp Nhà nước là rất lớn. Năm 1994 bằng 0,5% GDP. Để giải quyết nhu cầu vốn cho doanh nghiệp Nhà nước, vừa qua Bộ Kế hoạch và Đ ầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ duyệt cấp them vốn lưu động cho các doanh nghiệp thành viên của một số Tôngr công ty. - Để giải quyết nhu cầu vốn trong thời gian qua các doanh nghiệp đã vay nợ nước ngoài dưới hình thức nhập khẩu hàng hoá trả chậm (L/C trả chậm) từ 2 tháng đến 2 năm. Trong năm 1996, lượng vốn huy động từ nguòn này khoảng trên 1 tỷ U SD tương đương 11000 tỷ đồ ng. Ngoài ra, các doanh nghiệp Nhà nước còn áp dụng một số biện pháp khác như mua trả góp, tạm ứng, kiên doanh, kiên kết... qui mô nguồn này không đáng kể so với các nguồn trên. Đ ể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn, nghị đ ịnh 59/Cp ngày 03/10/1996 cho phép doanh nghiệp Nhà nước được quyên fhuy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu, vay vố n từ các tổ chức Tín dụng, các doanh nghiệp khác, các cá nhân (kể cả CBCNV trong doanh nghiệp), nhận góp vốn liên kết với các hìh thức khác nhưng không làm thay đổ i hình thức sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước. N hư vậy, ta thấy từ khi tiến hành đổi mới đến nay, hiệu quả hoạt động huy đ ộng vốn cao hơn so với thời kì trước; thể hiện ở chỗ: lượng vố n huy động được nhiều hơn và các hình thức huy động vốn phong phú hơn. Thành tựu đó do các nguyên nhân chủ yếu sau: +Việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, doanh nghiệp được tự chủ sản xuất kinh doanh do đó tạo ra sự năng động sáng tạo cho hoạt động huy động vốn cho sản xuất kinh doanh. + V iệc thành công trong cải cách cà ổn định kinh tế đ ã tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh và vững chắc, tích luỹ nội bộ của đ ất nước tăng nhanh. Do
  14. đó, các nguồn vốn huy động được của doanh nghiệp đã tăng nhanh về số lượng và qui mô, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp. + Mặc dù các thành phần kinh tế được khẳng đ ịnh là bình đẳng với nhau nhưng thực tế thì doanh nghiệp Nhà nước còn được hưởng một số lợi thế so với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác như: được vay nhắn hạn với tỉ lệ lãi suất thấp, được hưởng tài trợ từ ngân sách, vay không cần phải thế chấp... b ) Nh ững tồn tại trong hoạ t động huy động vốn của doanh nghiệp: Mặc dù sau 10 năm đổ i mới hoạt động huy động vốn ở doanh nghiệp Nhà nước đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ, hoạt động huy động vốn trong doanh nghiệp Nhà nước còn mộ t số vấn đề tồn tại sau: Thứ nhất, hình thức huy động vốn chủ yếu là đi vay đã dẫn tới các hậu quả sau: + Công nợ của doanh nghiệp Nhà nước đã vượt xa mức bình thường của hoạt động kinh doanh và có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Đối với nhiều doanh nghiệp Nhà nước, theo báo cáo của Tổng cục doanh nghiệp thì tổng số nợ phải thu của doanh nghiệp Nhà nước tính đ ến 31/12/1995 gấp 7 lần vố n lưu động của doanh nghiệp và bằng 38,4% tổng doanh thu năm 1995; nợ khó đòi và nợ khoanh lại (thực chất là nợ không có khả năng thu hồi) chiếm 46,1% vốn lưu độ ng hiện có của doanh nghiệp. Tỏng số nợ phải trả của doanh nghiệp là 279376 tỷ đ ồng gấp 3 lần số nợ phải thu và b ằng 4,1 lần số vố n kinh doanh của doanh nghiệp - số nợ này lớn hơn GDP năm 1996 (năm 1996, GDP của nước ta là 251000 tỷ đồng). Tổ ng số nợ của doanh nghiệp TƯ là 259160 tỷ đồng, bằng 3,2 lần nợ phải thu và bằng 5 lần vốn kinh doanh. Doanh nghiệp đ ịa phương có số nợ là 25215 tỷ đồ ng, bằng 2,2 lần nợ ơhải thu và 1,4 lần vốn kinh doanh. Do công nợ quá lớn, hàng năm, doanh nghiệp Nhà nước phải dành một tỉ lệ doanh thu khá lớn trả lãi và nợ cho Ngân hàng, do đó, làm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
  15. nghiệp rất thấp. Năm 1995, tỷ lệ lợi nhuận/vốn là 19,3% trong khi đó lãi suất tín phiếu kho bạc Nhà nước là 21%. + Do chủ yếu vay vốn ở ngân hàng dẫn đến việc cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp bị phụ thuộc vào ngân hàng. Biểu hiện ở chỗ ngân hàng có loại vốn nào thì vay được loại vốn đó; có vốn ngắn hạn thì vay được vốn ngắn hạn, có vố n dài hạn thì vay đ ược vố n dài hạn. Khi nào mà các điều kiện cho vay dễ dàng thì vay được nhiều, khi nào điều kiện cho vay khó khăn thì doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng vì không vay được vốn. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu lí giải cho tình trạng thiếu vốn trầm trọng ở các doanh nghiệp Nhà nước trong năm 1996. Do phụ thuộc vào ngân hàng nên doanh nghiệp không xây dựng được một cơ cấu vốn tố i ưu với chi phí vố n rẻ nhất mà phải chấp nhận mức lãi suất do ngân hàng đưa ra. Mức lãi suất này thường khá cao. Thứ hai: Tốc đ ộ gia tăng vốn huy động cho doanh nghiệp Nhà nước giảm dần do tốc độ gia tăng của hai nguồn vố n chủ yếu là vốn tín dụng và vố n Ngân sách Nhà nước bị giảm m ạnh. + Tố c độ gia tăng của tín dụng nội tệ giảm từ 36,48% năm 1992 xuống còn 18,2% năm 1994. + Tố c độ gia tăng của vốn tín dụng nội tệ giảm từ 116,12% năm 1992 xuố ng còn 34,07% năm 1994. Đối với nguòn vốn từ Ngân sách Nhà nước cấp cho doanh nghiệp Nhà nước bị giảm từ 8,5% GDP năm 1988 đến năm 1994 là 0,5% GDP. Ta thấy m ột vấn đề rất mâu thuẫn là trong khi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta tăng với tốc độ cao, thì hoạt độ ng sản xuất kinh doanh của cá doanh nghiệp cũng tăng nhanh, do đó nhu cầu vốn của doanh nghiệp cũng tăng nhanh để b ảo đảm yêu cầu tăng trưởng, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì tốc độ gia tăng lượng vốn huy động để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lại bị giảm. Qua đó, ta thấy
  16. rằng hiệu quả huy động vốn ngày càng giảm, doanh nghiệp ngày càng thiếu vốn trầm trọng. Thứ ba, trong cơ cấu của vốn huy độ ng được thì chủ yếu là vốn ngắn hạn, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn dài hạn để đổi mới dây chuyền công nghệ, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước. N guyên nhân: các hình thức huy động vốn dài hạn như thuê tài chính, phát hành cổ p hiếu, trái phiếu... chưa được áp dụng rộ ng rãi ở nước ta. Doanh nghiệp phải huy độ ng vốn bằng cách vay ngân hàng nhưng ngân hàng dư thừa vốn ngắn hạn nhưng thiếu vốn dài hạn. Tóm lại: trong 10 năm thực hiện đổi m ới, ho ạt động huy động vốn của các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta đã đ ạt được một số thành tựu đáng kể. Nhưng bên cạnh đó còn một số vấn đề tồn tại như các hình thức huy động vốn chưa được đa dạng hoá, chủ yếu vốn đ ể kinh doanh, chưa xây dựng được cơ cấu vốn tố i ưu, chi phí vốn cao, mới đáp ứng được một phần nhu cầu vốn ngắn hạn, chưa đáp ứng được nhu cầu vố n dài hạn... Những nguyên nhân đó dẫn đến tình trạng doanh nghiệp n b ị thiếu vốn trầm trọng trong những năm qua. Vấn đ ề đặt ra là phải khắc phục được những tồn tại này để thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước phát triển, xứng đáng với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta. ? PHẦN III: GIẢ I PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY I. Những trở lực đối với hoạt động huy động vốn ở các DN Nhà nước. 1. Những vướng mắc trong việc đa dạ ng hóa hình thức huy độ ng vốn. H ình thức huy độ ng vốn b ằng cách vay ngân hàng đã thể hiện rấ t nhiều nhược điểm đòi hỏi doanh nghiệp Nhà nước phải đa dạng hóa hình thức huy độ ng vố n. Tuy nhiên để đa dạng hoá hình thức huy động vốn thì
  17. trước hết phải có các nguồ n vốn và cơ chế pháp lý để điều chế hướng dẫn hoạt động vốn từ các nguồn này. Hiện nay việc huy động vốn từ các nguồn ngoài nguồn tín dụng ngân hàng đang gặp phải những khó khăn: - Huy động vốn từ nguồn chủ sở hữu: Nguồ n vốn hình thành vốn chủ sở hữu cho doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) bao gồm nguồn từ ngân sách Nhà nước và nguồ n từ lợi nhuận để lại. Nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) hiện nay chủ yếu sử dụng để thành lập mới các doanh nghiệp và bổ x ung vốn lưu động cho mộ t số doanh nghiệp trọng điểm. Ngân sách Nhà nước cấp cho các DNNN đang có xu hướng giảm dần. Do vốn ít, hiệu quả sản xuất kinh doanh kém lợi nhuận phỉa trích để nộp khoản thu sử dụng vốn cho NSNN do đó lợi nhuận để lại dùng việc phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước sản xuất nhỏ. Vì vậy, việc huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước từ các nguồn hình thành vốn chủ sở hữu của DNNN là rất khó khăn. - H uy độ ng vốn từ thị trường chứng khoán: DNNN huy động vốn từ thị trường chứng khoán chủ yếu bằng cách phát hành trái phiếu công ty. Nghị đ ịnh 120 /CP ngày 17/9/1994 cho phép các DNNN phát hành trái phiếu để huy động vốn nhưng đ ến nay chưa có DNNN nào phát hành trái phiếu để huy động vốn. Nguyên nhân chủ yếu là do nước ta chưa thành lập được thị trường chứng khoán để thúc đẩy việc mua bán trái phiếu, các văn bản pháp lý hướng dẫn được phát hành trái phiếu công ty còn thiếu và chưa hoàn thiện, hiệu quả sản xuất kinh doanh ở các DNNN kém do đó người mua trái phiếu rất thận trọng lo ngại công ty bị phá sản. - Huy động vốn từ nguồ n tín dụng thuê mua: Hiện nay chúng ta đã có một số công ty cho thuê tài chính ra đời như: Công ty thuê mua và đầu tư của VietCombank, công ty tín dụng thuê mua của Vietindebank, công ty thuê mua và tư vấn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, công ty thuê tài chính Kexin, công ty liên doanh và thuê tài chính Việt Nam (Vinalease). Hình thức tín dụng thu mua còn mang tính
  18. chất thử nghiệm ở nước ta, cả nước mới chỉ có Vietnamairline sử dụng để thuê máy bay. Nguyên nhân do các hình thức này còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam, độ i ngũ cán bộ quản trị kinh doanh của các công ty còn chưa biết hoặc chưa có kinh nghiệm về loại hình dịch vụ này, môi trường pháp lý còn sơ sài chưa đồ ng bộ đã gây khó khăn cho việc triển khai hoạt động của các công ty cho thuê tài chính. - Ngoài ra, doanh nghiệp Nhà nước còn có thể huy động vốn b ằng cách huy động từ các nguồ n tín dụng nhà cung cấp, tạm ứng của khách hàng,... nhưng các hình thức này cũng gặp phải mộ t số khó khăn do qui mô vốn của các doanh nghiệp ở nước ta nhỏ lại luôn ở trong tình trạng thiếu vốn. 2. Những trở lực về tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước. Tín dụng đang là nguồn vốn quan trọng nhất đối với DNNN. Hiện nay việc huy động vố n từ nguồn này đang gặp phải những trở lực sau. Thứ nhất, thể lệ tín dụng qui định đơn vị vay vốn phải thế chấp tài sản hoặc được bảo lãnh của người thứ ba đủ thẩm quyền người được bảo lãnh phải thế chấp tài sản cho người bảo lãnh. Đ iều này làm cho nhiều DNNN khó có thể vay được vốn từ ngân hàng nhất là vốn trung hạn và dài hạn. Đây không chỉ là ý kiến từ phía DNNN mà cả của một số cán bộ tín dụng "nhận khoán" mức cho vay họ nói rằng trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp vay để xây dựng mới thì làm gì có tài sản để thế chấp. Thứ hai, để kiểm soát hoạt độ ng tín dụng và lượng tiền cung ứng, Ngân hàng Nhà nước qui đ ịnh hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại và trên cơ sở hạn mức tín dụng được duyệt ngân hàng thương mại phân phổ hạn mức tín dụng cho các Tổ chức kinh tế (khách hàng) cả hai loại hạn mức tín dụng trên đều xây dựng cho mộ t thời gian dài (thường là 1 năm) do vậy dù DNNN có đủ các điều kiện vay vốn nhưng nếu hạn mức tín dụng không còn thì cũng không thể vay được vốn tín dụng ngân hàng. Thứ ba, chính sách lãi suất chưa thể hiện rõ vai trò là đòn bẩy kinh
  19. tế chưa thực sự điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Chính sách lãi suất có thay đổi nhưng thay đổi còn chậm so với biến đ ộng của giá cả. Hiện nay lãi suất ngắn hạn là 1,5%/ tháng lãi suất trung và dài hạn là 1,55%/ tháng. Mức lãi suất này vẫn còn cao hơn so với tỷ su ất lợi nhuận (khả năng sinh lời) của nhiều DNNN với mức lãi suất đó không mấy DNNN có thể vay đủ vốn của ngân hàng để sử dụng tiền vay có hiệu quả và trả nợ phần vay đúng hạn. Chính vì lãi suất đầu ra của ngân hàng cao nên hạn chế qui mô tín dụng, hạn chế khả năng vay vốn của DNNN, trong khi đó các DNNN luôn ở trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh. Một nghịch lý khác là hiện nay các ngân hàng thương mại chỉ huy động vốn ngắn hạn mà khước từ cacs khoản tiền gửi dài hạn trong khi nền kinh tế đang bị thiếu vố n dài hạn. Rút cuộc ngân hàng thương mại (NHTM) tồn mộ t lượng khá lớn vốn ngắn hạn trong khi đó "mặt hàng" vốn dài hạn được nhiều doanh nghiệp hỏi mua mà không có. Thứ tư, năng lực và trình độ chuyên môn của một số cán bộ tín dụng trong các NHTM hiện còn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi m ới nền kinh tế nhất là các NHTM ở q uận huyện, thủ tục cho vay vốn còn rườm rà đối với khách hàng và thường chậm chễ so với yêu cầu thời gian cần cấp vốn sản xuất kinh doanh. 3. Những khó khăn về cơ chế quản lý tài chính DN Nhà nước. Mặc dù, cơ chế quản lý tài chính ở DNNN đ ã được đổ i mới rất nhiều nhưng vẫn còn m ột số tồn tại gây khó khăn cho việc huy động vốn của DNNN. Cụ thể là: - Cơ chế quản lý tài chính hiện nay chưa xác định được rõ ràng quyền về tài sản, quyền sở hữu của doanh nghiệp đối với vốn. Cơ chế quản lý tài chính ở D NNN còn phức tạp rườm rà không tại ra được tính linh hoạt trong hoạt động huy động vốn đặc biệt là sử dụng tài sản đ ể thế chấp. - Việc Nhà nước qui đ ịnh DNNN chỉ đ ược huy động vốn với tổng mức dư nợ không vượt quá vốn điều lệ. Trong tình hình hiện nay điều này
  20. chưa phù hợp vì hiện nay việc huy đ ộng vố n bằng cách tăng vốn chủ sở hữu của DNNN là rất khó khăn do N SNN eo hẹp, tích luỹ từ hoạt động kinh doanh nhỏ doanh nghiệp chủ yếu huy động vốn bằng cách vay ngân hàng mà hiện nay nợ của DNNN đ ã vượt xa vốn tự có do đó nếu qui định tổng mức vốn huy động không được vượt quá vố n điều lệ thì rất ít DNNN có khả năng huy động được vốn. Đây cũng là một trong các nguyên nhân chủ yếu gây ra nghịch lý DNNN bị thiếu vố n trầm trọng, ngân hàng thừa hàng ngàn tỷ đồng. 4. Là những trở lực từ phía doanh nghiệp Nhà nước. - Qui mốn và và doanh nghiệp nhỏ công nợ lớn. Tài sản thế chấp của doanh nghiệp có giá trị nhỏ, công nghệ lạc hậu so với thế giới nếu có rủi ro xảy ra thì việc phát mại của ngân hàng rất khó khăn. Ngân hàng chỉ có thể cho doanh nghiệp vay một số lượng vốn bằng với vốn tự có của doanh nghiệp nếu vượt quá vốn tự có thì nếu có rủi ro xảy ra thì ngân hàng là người phải gánh chịu các rủi ro mất mát. Do đó DNNN rất khó có thể vay một lượng vốn lớn, để có thể tăng lượng vốn vay thì mấu chốt vấn đề là phải tăng được vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. - Hiệu quả sử d ụng vố n trong các DNNN hiện nay là rất thấp tình trạng lãng phí thấ t thoát vốn sảy ra còn phổ biến dẫn đến thua lỗ, mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Điều này làm giám đốc các NHTM e ngại khi đặc bút ký cho các DNNN vay vốn. - Công tác kế hoạch hóa tài chính trong các DNNN còn rất yếu. Hoạt động sản xuất kinh doanh còn mang tính chất buôn chuyến do đó rất khó xác định được nhu cầu vốn cho một thời kỳ dài hạn làm cho hoạt động huy động vốn thường xuyên b ị động do đó nhiều khi để huy động được vốn doanh nghiệp phải chấp nhận được chi phí vốn lớn. - Đ ội ngũ cán bộ nhân viên làm công tác tài chính của doanh nghiệp còn rất yếu về trình độ chuyên môn nhất là các nghiệp vụ huy độ ng vốn mới như là tín dụng thuê mua, phát hành trái phiếu.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2