Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
TRƯỜNG ……………….
KHOA………………..
‐‐‐‐‐(cid:91)(cid:92)(cid:9)(cid:91)(cid:92)‐‐‐‐‐
Tiểu luận
Mô hình phát triển của Hàn Quốc
1
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
MỤC LỤC *
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................. 3
1. Một số khái niệm .................................................................... 3
I.Mô hình phát triển kinh tế ở Hàn Quốc .................................... 5
1.Lựa chọn mô hình: ................................................................... 5
2.Các chính sách của Hàn Quốc ................................................. 5
2.1.Các chính sách về kinh tế ...................................................... 5
2.1.1.Giai đoạn hướng vào xuất khẩu 1962-1971: ...................... 5
2.2.4.Chính sách giải quyết việc làm ........................................ 14
1.4.Giai đoạn thực hiện chính sách “kinh tế mới” và “toàn cầu hóa” (1990-1996): ..................................................................... 22
2.2.1.Sự phân hóa xã hội: .......................................................... 32
III.Bµi häc kinh nghiÖm tõ sù ph¸t triÓn thÇn kú cña Hµn Quèc ................................................................................................... 36
2
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Một số khái niệm
- Tăng trưởng kinh tế: là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở cả quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phẩn ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. - Phát triển kinh tế: là quá trình tăng tiến toàn diện về mọi mặt trong nền kinh tế của một quốc gia. Phát triển kinh tế được xem là quá trình biến đổi cả về mặt lượng và chất, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Do đó nội dung phát triển kinh tế được khái quát theo ba tiêu thức : tăng trưởng kinh tế ( mặt lượng của phát triển kinh tế), chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiến bộ xã hội cho con người( mặt chất của phát triển kinh tế). - Phát triển kinh tế bền vững: là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Phát triển kinh tế bền vững là mục tiêu theo đuổi của tất cả các quốc gia trên thế giới hiện nay, tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống. 2. Một số tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế a. Đánh giá về tăng trưởng kinh tế Để đánh giá về tăng trưởng kinh tế người ta dùng các thước đo như: tổng giá trị sản xuất (GD), tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng thu nhập quốc dân (GNI), thu nhập quốc dân (NI), thu nhập quốc dân sử dụng (NDI) và thu nhập bình quân đầu người. b. Đánh giá về chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nội dung của tiêu chí này bao gồm có - Cơ cấu ngành kinh tế - Cơ cấu vùng kinh tế (thành thị, nông thôn)
3
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
- Cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu khu vực thể chế
c. Đánh giá về tiến bộ xã hội - Đánh giá việc bảo đảm nhu cầu cơ bản của con người:
+ nhu cầu vật chất: GDP/người tính theo PPP, số kg lương thực/ người...
+ nhu cầu dân trí: tỷ lệ người lớn biết chữ, tỷ lệ trẻ em đến trường đúng
độ tuổi, tỷ lệ phổ cập giáo dục, trình độ văn hóa trung bình...
+ nhu cầu y tế và chăm sóc sức khỏe: tuổi thọ bình quân, tỷ lệ trẻ em
chết yểu, tỷ lệ suy dinh dưỡng, tỷ lệ phụ nữ tử vong vì lý do sinh sản...
+ nhu cầu việc làm: tỷ lệ thất nghiệp...
(cid:206) chỉ tiêu đánh giá tổng hợp là HDI - chỉ số phát triển con người
- Đánh giá nghèo đói và bất bình đẳng:
: HPI + Chỉ số ngèo khổ con người
+ Chỉ số phát triển giới : GDI
+ Thước đo quyền lực theo giới : GEM
4
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
Hàn Quốc lùa chän con ®−êng ph¸t triÓn theo m« h×nh t¨ng tr−ëng kinh tÕ vμ
Thứ nhất, chÝnh s¸ch khuyÕn khÝch t¨ng tr−ëng kinh tÕ nhanh th«ng qua viÖc
B.NỘI DUNG I.Mô hình phát triển kinh tế ở Hàn Quốc 1.Lựa chọn mô hình: c«ng b»ng x· héi gi¶i quyÕt ®ång thêi (ph¸t triÓn toμn diÖn). M« h×nh nμy ph¸t triÓn toμn diÖn ®· ®−îc ¸p dông ë mét sè n−íc: Thuþ §iÓn, Thuþ SÜ, Na Uy, §øc, Hμn Quèc, §μi Loan... NÐt ®Æc tr−ng cña m« h×nh nμy lμ môc tiªu t¨ng tr−ëng kinh tÕ lu«n ®i ®«i môc tiªu c«ng b»ng x· h«i. KÕt qu¶ cña t¨ng tr−ëng nhanh gãp phÇn c¶i thiÖn møc ®é c«ng b»ng hoÆc lμ kh«ng lμm gia t¨ng bÊt b×nh ®¼ng, tr−êng hîp xÊu nhÊt lμ sù bÊt b×nh ®¼ng cã gia t¨ng nh−ng ë mét møc ®é thÊp cho phÐp. Néi dung chÝnh cña m« h×nh ®−îc thÓ hiÖn râ nÐt qua nh÷ng chÝnh s¸ch can thiÖp cña chÝnh phñ vμo nÒn kinh tÕ. ë mçi n−íc víi c¸c ®iÒu kiÖn kh¸c nhau nh−ng sù can thiÖp cña chÝnh phñ ®Òu mang nh÷ng néi dung chÝnh sau: lùa chän c¸c m« h×nh c«ng nghiÖp ho¸ vμ chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ ®Êt n−íc. Thứ hai, ChÝnh s¸ch ®Çu t− vμo c¸c ngμnh lÜnh vùc cña nÒn kinh tÕ nh»m ®¶m b¶o t¨ng tr−ëng nhanh nh−ng kh«ng g©y gia t¨ng bÊt b×nh ®¼ng. Ở hÇu hÕt c¸c n−íc ¸p dông m« h×nh nμy ®Òu b¾t ®Çu qu¸ tr×nh t¨ng tr−ëng nhanh b»ng ph¸t triÓn m¹nh n«ng nghiÖp. Thứ ba, ChÝnh s¸ch x· héi nh»m gi¶i quyÕt ngay tõ ®Çu vÊn ®Ò xo¸ ®ãi giam nghÌo vμ c«ng b»ng x· héi nh− chÝnh s¸ch vÒ ph©n phèi l¹i thu nhËp, chÝnh s¸ch trî cÊp x· héi... 2.Các chính sách của Hàn Quốc
2.1.Các chính sách về kinh tế 2.1.1.Giai đoạn hướng vào xuất khẩu 1962-1971: * Nông nghiệp: Trong những năm 1960, Hàn Quốc bị thiếu lương thực triền miên. Chính sách nông nghiệp trong giai đoạn này chú trọng vào đảm bảo có đủ gạo để ăn. Các chiến lược được đưa ra bao gồm:
5
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
- Đầu tư vào những yếu tố hiện đại. Ngành phân bón và thuốc trừ sâu được đầu tư phát triển, đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện năng suất nông nghiệp. Từ năm 1965 đến 1969, sản lượng gạo của Hàn quốc đã tăng 30%. Các loại máy nông nghiệp như máy kéo, máy gặt đập liên hợp cỡ nhỏ cũng được đầu tư để phục vụ việc cơ giới hoá nông nghiệp. Các giống lúa cho năng suất cao được trồng.
- Đầu những năm 1970 các dự án thuỷ lợi được thực hiện phục vụ cho hệ
thống tưới tiêu, sắp xếp lại ruộng đất.
- Mô hình trợ giá lúa gạo được áp dụng từ năm 1969 nhằm khuyến khích
tăng năng suất lúa gạo và hỗ trợ thu nhập cho hộ ở nông thôn.
* Công nghiệp: Lựa chọn chiến lược tăng trưởng dựa vào công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu và xuất phát từ điều kiện cụ thể của đất nước, chính sách công nghiệp của Hàn Quốc thời kỳ này là phát triển công nghiệp chủ yếu dựa vào vốn vay nước ngoài và thúc đẩy xuất khẩu
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1962-1966), chính phủ tập trung phát triển cơ sở hạ tầng (đường sá,cầu công,thủy điện), đồng thời chuẩn bị các cơ sở cho quá trình đẩy mạnh xuất khẩu. Bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, cũng là quá trình công nghiệp hoá được thực hiện từ công nghiệp nhẹ. Các lĩnh vực phát triển chủ yếu: phân bón, điện. sợi, hóa học. Kế hoạch này Hàn Quốc tập trung chủ yếu vào thị trường nội địa trong đó tập trung phát triển sợi hóa học và lọc dầu thông qua liên doanh với nước ngoài, chủ yếu dựa vào vốn của Mỹ/
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 2 ( 1967- 1971 ): mục tiêu chủ yếu là hiện đại hóa cơ cấu công nghiệp hướng ngoại. Chính sách thay thế nhập khẩu được thay bằng chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu dựa trên cơ sở sử dụng nhiều lao động.Các ngành xuất khẩu chủ yếu là: sợi, nhân tạo, hóa dầu, thiểt bị điện, và các ngành công nghiệp nhẹ như vải , cao su, gỗ dán:
+ Chính phủ Hàn Quốc tập trung cấp tín dụng lãi suất thấp và chịu các chi phí vay mượn thấp hơn so với lãi suất thị trường cho các công ty. Chính sách trợ cấp tín dụng này giúp cho các nhà xuất khẩu đủ số lượng vốn cần thiếp, đáp ứng nhu cầu kinh doanh và tăng nhanh xuất khẩu. Cuối những năm 1960 , xuất khẩu tăng bình quân 30,8%.
+ Chính phủ tiến hành phá giá 100% đồng nội tệ (1964) và áp dụng tỷ giá hối đoái thả nổi. Thời kỳ 1976-1985, tỷgiá hối đoái của Hàn Quốc được coi là thấp nhất trong số các nước đang phát triển, điều này giúp giá hàng hoá Hàn Quốc sát với giá hàng hoá của thế giới, duy trì sự cạnh tranh cho xuất khẩu.
6
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
+ Chính phủ thực hiện chính sách đa dạng hoá thị trường (Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu, khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Đông Âu, Mĩ Latinh, châu Phi. 2.1.2. Giai đoạn ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và hóa chất ( 1972-
1979)
Trong giai đoạn này chính phủ quyết định chiến lược, cải thiện cơ cấu ngành công nghiệp, tập trung vào phát triển công nghiệp nặng và hoá chất nhằm cung cấp nguyên vật liệu và thiết bị cho các ngành công nghiệp mới, loại dần sự phu thuộc vào nước ngoài đối với các ngành công ngành công nghiệp mới. Chính sách “củ cà rốt và cây gậy” thông qua chương trình tín dụng lãi suất thấp đã tạo ra lợi thế về vốn cho các ngành công nghiệp ưu tiên để có thể khuếch trương hoạt động sản xuất trên thị trường trong nước và thế giới. Các ngành đước phát triển chủ yếu gồm có: gang thép, máy móc, thiết bị vận tải, thiết bị điện tử gia dụng, đóng tàu, hoá dầu, thiết bị công nghiệp.
Kế hoạch 5 năm lần thứ 3(1972-1976): Các ngành công nghiệp mới xuất hiện , đó là xây dựng nhà máy thép Pohang(1973: sản xuất 1 triệu tấn thép, 1994: 21 triệu tấn), hóa dầu , đóng tàu , thiết bị vận tải, đồ dùng điên dân dụng.
Kế hoạch 5 năm lần thứ 4(1977-1981): Chính phủ tiếp tục theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tạo cơ cấu kinh tế tự lực, cải thiện công nghệ và tăng cường hiệu quả.
2.1.3.Giai đoạn điều chỉnh cơ cấu và tự do hóa nền kinh tế(1980-1989): Chính sách chủ yếu trong giai đoạn này là ổn định kinh tế, khuyến khích sáng kiến của khu vực kinh tế tư nhân và cạnh tranh, tăng cường phúc lợi quốc gia, công bằng xã hội, va tự do hóa quốc tế. Do đó, chính phủ đã thực hiện chủ trương điều chỉnh cơ cấu kinh tế nhằm phát triển ngành công nghiệp có hàm lượng kĩ thuật cao.Nội dung điều chỉnh cơ cấu trên bốn khía cạnh : điều chỉnh cơ cấu công nghiệp, tự do hóa và mở cửa nền kinh tế, từng bước tư nhân hóa ngành công nghiệp và mở rộng thị trường , thúc đảy cạnh tranh. Trong các khía cạnh đó, chính phủ đã đóng vai trò tích cực.
Những cải cách chính sách về ngoại thương là chính sách ổn định hóa kết hợp với tự do hóa. Trong giai đoạn 1979 -1988, tỷ lệ tự do hóa nhập khẩu đã tăng từ 68% lên 95%, tất cả các sản phẩm công nghiệp đều không phải chịu những hàng rào phi thuế quan. Tỷ lệ thuế quan bình quân giảm từ 25% xuống 17%. Gắn liền với tự do hóa thương mại, HQ cũng tiến hành tự do hóa đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh các chính sách bổ sung ưu đãi FDI, HQ cũng khuyến khích các
7
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
doanh nghiệp trong nước hướng mạnh đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là thị trường các nước Đông Nam Á .
2.1.4.Giai đoạn thực hiện chính sách “kinh tế mới” và “toàn cầu hóa” (1990-
4/1981, luật độc quyền và thương mại công bằng đã được ban hành, có tác dụng giảm độc quyền và thúc đẩy cạnh tranh trong tất cả các ngành công nghiệp. Một hướng cải cách chính sách khác tự do hóa tài chính, giảm thâm hụt trong chi tiêu của chính phủ vầ cơ cấu lại hệ thống ưu đãi công nghiệp. Năm 1981, Bộ tài chính đã thực hiện tư nhân hóa 1 số lượng lớn các ngân hàng trong nước. Năm 1988, Luật đầu tư nước ngoài được xem xét lại, mở cửa hơn nữa cho các nhà đầu tư.
1996):
Đầu những năm 1990, ở HQ xảy ra tình trạng lạm phát cao( khoảng 9% trong các năm 1990-1991), mức lương thực tế có xu hướng giảm dần, giá cả tiêu dùng tăng, ngân sách có xu hướng bội chi. Vì vậy, chính phủ đã đưa ra những biện pháp kiểm soát cung tiền tệ và chi tiêu tài chính, các biện pháp kích thích đầu tư theo ngành. Cơ chế tiền lương cũng được cải cách.
Trong giai đoạn 1992-1996: Chính phủ đã ban hành kế hoạch phát triển xã
hội bao gồm các nội dung sau:
- Tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế của công nghiệp - Cải thiện phúc lợi xã hội và phát triển cân đối - Tự do hóa và quốc tế hóa nền kinh tế * Nông nghiệp Tháng 4 năm 1989, “Kế hoạch tổng thể toàn diện để phát triển nông thôn” được công bố nhằm cải thiện cơ cấu nông nghiệp và nâng cao mức sống của nông dân. Năm 1991, “Kế hoạch 10 năm cải tiến cơ cấu nông thôn” được xây dựng :
- Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp bằng cách đẩy mạnh công nghiệp hoá nông thôn (cid:198) nâng cao khả năng cạnh tranh và vị thế bền vững của ngành nông nghiệp không chỉ trong nước mà còn ở trên thị trường quốc tế. Chính phủ đầu tư vào các máy nông nghiệp hiện đại, các công nghệ cho năng suất cao như kỹ thuật gen, các phương tiện tự động hoá…
- Cơ cấu lại nguồn nhân lực tại nông thôn, thu hút thanh niên tham gia vào nông nghiệp. Chính phủ phát động các chương trình hỗ trợ những nông dân trẻ tích cực cam kết giữ nghề nông, các chương trình dạy kỹ thuật canh tác mới tiên tiến. Cho vay các khoản vay lãi suất thấp đầu tư cơ sở hạ tầng (đường sá, trường học, y tế…)
8
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
- Mở rộng quy mô trang trại bằng cách nới lỏng những hạn chế pháp lý đối với quyền sở hữu diện tích trang trại tối đa, cung cấp tín dụng dài hạn đặc biệt. - Chính phủ cam kết đầu tư 42000 tỷ won (52,5 tỷ USD) để phát triển nông thôn trong giai đoạn 1992 – 1998. Nguồn ngân sách này được chia làm 2 loại: Ngân sách bồi thường thu nhập ( dùng cho các chính sách trợ giá gạo, trợ cấp thu nhập và sinh hoạt của các hộ nông dân), ngân sách đầu tư thực sự (dùng cho các dự án, chương trình cải tạo đất đai, cơ giới hoá nông nghiệp, marketing nông nghiệp, cơ sở hạ tầng nông thôn…)
* Công nghiệp - Phát triển công nghiệp dựa vào những sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật,
- Các chính sách trong thời kỳ này tập trung giải quyết một số vấn để cơ
công nghệ cao và có tri thức để thay thế những sản phẩm cần nhiều vốn. - Tăng cường lợi thế so sánh, tiếp tục phát triển các ngành sử dụng nhiều lao đông tay nghề cao và công nghệ cao như điện tử, thiết bị thông tin, ô tô, công nghiệp hàng không, vi điện tử, sinh học, hóa học cao cấp… bản: + Đổi mới năng suất lao động, tích luỹ công nghệ và nâng cao chất lượng. Các ngành công nghệ tiên tiến như hàng bán dẫn, động cơ học được chú trọng phát triển + Mở rộng thị trường, công nghiệp hóa hướng vào khu vực tư nhân. Chính phủ lập một ban điều hành tự do hoá nhập khẩu, giảm độc quyền, thúc đẩy cạnh tranh, khuyến khích sử phát triển của các Chaebol (các tổ hợp công nghiệp thuộc sở hữu gia đình) bằng các chính sách tín dụng. + Thu hút nhân lực có trình độ cao vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển công nghệ. Chính phủ khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu và phát triển dưới hình thức giảm thuế, giảm giá đặc biệt, trợ cấp, cho vay lãi suất thấp + Xác định phát triển các nhóm ngành cần ưu tiên để chuyển từ “kinh tế ống khói” sang nền kinh tế có kỹ thuật tinh vi, hiện đại. Đảm bảo một nền công nghiệp phát triển bền vững, ưu tú và thân thiện với môi trường
2.1.5.Giai đoạn 1997 đến nay Để khắc phục khủng hoảng năm 1997, HQ đã phải cầu cứu quỹ tiền tệ quốc tế IMF. Đó là vay của quỹ này 57 tỷ USD cũng chỉ bằng 37% tổng số tiền mà các công ty HQ đang vay nợ nước ngoài nhưng cũng giúp HQ chặn đứng nguy cơ
9
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
xuống dốc hơn nữa của nền kinh tế. Nhưng để có được khoản tiền vay đấy, HQ phải thực hiện 1 số yêu cầu của IMF là: - Cơ cấu lại khu vực tài chính - Tái cơ cấu các doanh nghiệp - Cải cách lại thị trường lao động - Tự do hóa thị trường vốn - Tự do hóa thương mại
Đồng thời để thoát khỏi khủng hoảng cũng cần phải có sự cải cách từ chính
trong nền kinh tế HQ, đó là:
- Cải cách hệ thống tài chính ngân hang - Cơ cấu lại công ty - Tạo lập thị trường lao động linh hoạt và bảo đảm việc làm
Khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính phủ thực hiện một loạt các biện pháp khuyến khích đầu tư nườc ngoài, mở rộng các nguồn trợ giúp tài chính, giảm thuế kinh doanh, tạo điều kiện để các nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng hơn trong việc tìm vị trí và địa bàn đầu tư. Phạm vi đầu tư cũng được mở rộng. Thời gian để thành lập các xí nghiệp của người nước ngoài được rút xuống còn 45 ngày (từ ngày 1-4-1995) so với trước kia là 200 ngày.
Để đối phó với khủng hoảng toàn cầu hiện nay, chính phủ HQ đã đưa ra những biện pháp đối phó nhằm 4 mục tiêu lớn: thực thi các biện pháp khẩn cấp nhằm đối phó với khủng hoảng kinh tế, triển khai các chương trình hỗ trợ nhằm cải thiện dân sinh, thúc đẩy cải cách nhằm đưa HQ tham gia nhóm các nước phát triển, đẩy nhanh quá trình chuẩn bị cho sự phát triển “ tăng trưởng xanh” trong tương lai. Chính phủ đã chọn 17 ngành CN làm động lực tăng trưởng kinh tế thuộc 3 lĩnh vực chính : công nhệ xanh, công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ có giá trị gia tăng cao.
* “Tăng trưởng xanh”: khái niệm này lần đầu tiên được thông qua tại hội nghị Môi trường và phát triển được tổ chức bởi Bộ Môi trường Hàn Quốc và UNESCAP (UB Kinh tế và Xã hội châu Á – Thái Bình Dương). “Tăng trưởng xanh” giới thiệu mô hình tăng trưởng kinh tế bền vững cho tương lại dựa trên kinh nghiệm của Hàn Quốc trong việc bảo vệ môi trường cũng với việc tăng tốc độ phát triển kinh tế. Đây là khái niệm bổ sung cho các khái niệm về sự phát triển bền vững. Các dự án phát triển khái niệm “tăng trưởng xanh” được tham gia bởi Viện Môi trường Hàn Quốc, Viện kinh tế - công nghiệp và thương mại Hàn Quốc, học viện Tài chính Hàn Quốc.
“Tăng trưởng xanh” là sự hài hoà giữa môi trường và kinh tế. Đó là việc nâng cao sự thân thiện với môi trường của các hoạt động kinh tế thông qua việc
10
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
phát triển các công nghệ mới, giảm ô nhiễm không khí, nguồn nước…, giảm tiêu thụ năng lượng.
“Tăng trưởng xanh” là một trong các dự án lớn nhất của Chính phủ Hàn Quốc hiện nay, mô hình thành phố xanh trong tương lai được quảng bá rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là trên các kênh truyền hình đa ngôn ngữ của Hàn Quốc như KBS World, Arirang… Hàn Quốc cho biết sẽ chi 1200 tỷ won (852 triệu USD) trong 10 năm tới nhằm đưa Hàn Quốc vào nhóm những “quốc gia xanh” hàng đầu thế giới.
2.2.Các chính sách về xã hội 2.2.1.Chính sách phát triển giáo dục và nguồn nhân lực. Chính sách phát triển giáo dục và nguồn nhân lực có thể chia làm 4 giai
Giai đoạn 1 (1945 – 1960): giai đoạn đặt nền móng.
đoạn: Trước năm 1945, nền giáo dục Hàn Quốc chịu sự chịu sự chi phối của Nhật Bản, do vậy phát triển rất chậm. Năm 1948, luật giáo dục mới được ban hành trên nguyên tắc tự do dân chủ. Giáo dục bắt buộc được thể chế hóa, và chính sách xóa nạn mù chữ của người lớn được thực hiện. Chính phủ đã cho xây dựng hàng loạt các trường học, đào tạo giáo viên và in sách giáo khoa do Nhà nước quản lý. Chương trình giáo dục trong giai đoạn này thực hiện theo bốn cấp: Tiểu học (6 năm), trung học cơ sở (3 năm), trung học phổ thông (3 năm) và đại học (4 năm). Chính phủ còn công bố những nghị định khẩn cấp phục hồi hệ thống giáo dục sau chiến tranh và hoàn thành các tiêu chuẩn quốc gia khi xét tuyển học sinh vào bậc trung học. Nhờ có chính sách của Chính phủ, sự bùng nổ giáo dục không chỉ diễn ra ở các trường tiểu học mà còn ở các trường phổ thông và trung học. Việc nhập học các trường ở tất cả các cấp vẫn tăng lên rất nhanh kể từ năm 1945. Mặc dù giáo dục phát triển nhanh nhưng chưa được Nhà nước gắn chặt với lợi ích kinh tế, do đó yếu tố nhân lực trong thời kỳ này chưa được phát huy. Giai đoạn 2 (1961 – 1979): giai đoạn phát triển số lượng. Chính sách giáo dục trong thời kỳ này là phát triển nhanh nguồn nhân lực một cách thích hợp để phục vụ trực tiếp cho quá trình công nghiệp hóa. Điều chỉnh quan trọng nhất trong giai đoạn này là phát triển nhanh hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, đào tạo lực lượng công kỹ thuật,cán bộ quản lý đáp ứng việc mở rộng cơ cấu công nghiệp và phát triển nhanh các ngành phục vụ xuất khẩu. Hệ thống giáo dục đại học được mở rộng nhờ các biện pháp sau:
- Lên trung học không qua thi tuyển
11
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
- Hủy bỏ khoảng cách về chất lượng giữa các trường đại học tại các tỉnh, mở
các trường đại học ngắn hạn.
- Mở rộng chỉ tiêu cho các trường đại học tổng hợp tại các tỉnh ,mở các
trường đại học ngắn hạn
- Mở trường đại học chuyên nghiệp, trường đại học tổng hợp hàm thụ, các
trường trung học hàm thụ.
- Nâng cấp các trường cao đẳng sư phạm thành các trường đại học sư phạm. - Mở trường đào tạo cán bộ giáo dục nâng cao.
Giai đoạn 3 (1980 – 1990): giai đoạn chất lượng cao
Song song với các chương trình đó, chương trình xóa nạn mù chữ cho người lớn tuổi tiếp tục được thực hiện thông qua các tổ chức giáo dục như hội bà mẹ Hàn Quốc, hội nữ sinh viên Hàn Quốc, cơ quan về những vấn đề lao động, …
Chính phủ tiến hành cải cách giáo dục kể từ tháng 3-1985, trong đó nhấn mạnh đến vấn đề cải cách trường học, cải cách hệ thống thi cử,tăng cường bổ sung các phương tiện dạy học hiện đại , nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cập nhật nội dung và phương pháp giảng dạy, phát triển nhân lực có trình độ khoa học cao, duy trì chương trình giáo dục đại học, và áp dụng cơ chế chế giáo dục suốt đời.
Giai đoạn 4 (1990 – nay): giai đoạn tiên tiến của nền giáo dục. Trong chính sách hỗ trợ phát triển công nghệ,phục vụ cho kỷ nguyên công nghệ cao ở Hàn Quốc, kể từ đầu những năm 1990, chính phủ Hàn Quốc đặc biệt chú trọng các chính sách đầu tư R&D. Cụ thể chính sách hỗ trợ và phát triển nguồn nhân lực ở Hàn Quốc như sau:
Cũng trong giai đoạn này ,ngân sách dành cho giáo dục tăng cao,chiếm trên 20% ngân sách quốc gia. Năm 1988, giáo dục đia phương chiếm 88,4% ngân sách của bộ giáo dục, trường quốc lập chiếm 9,1%, đại học và sau đại học chiếm 5,4%,các khoản kinh phí đặc biệt chiếm 2,6% và kinh phí xây dựng các cơ sở giáo dục chiếm 10,5%.
- Miễn nghĩa vụ quân sự cho các chuyên gia nghiên cứu người Hàn Quốc ở nước ngoài thuộc lĩnh vực công nghệ cơ bản và công nghệ tiên tiến trong thờ hạn năm năm.
- Thu hút các nhà khoa học Hàn Quốc ở nước ngoài về sinh sống và làm
việc ở trong nước với mức lương 900000won/tháng.
- Chú trọng đào tạo ở mức các nhà khoa học có học vị tiến sĩ và độ tuổi
dưới 40.
- Chú trọng đào tạo các cán bộ khoa học và công nghệ trong ngành công
nghiệp thông tin.
12
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
2.2.2.Chính sách dân số
Nhằm trợ cấp kinh phí cho đào tạo giáo dục trong giai đoạn phát triển cao, chi phí cho R&D trong tổng sản phẩm quốc nội tăng nhanh,từ 0,26% GNP năm 1965 lên 0,57% năm 1980, 1,92% vào năm 1989 và 2,7% vào năm 1995.Dự báo trong giai đoạn 2000-2020,chi tiêu R&D/GNP đạt mức 4%. Hàn Quốc đang phấn đấu vào năm 2020 sẽ trở thành nột nước có nền công nghiệp hiện đại trên thế giới. Xu hướng trong nhân khẩu học của Hàn Quốc là dân số đang già đi theo năm. Con số thống kê vào năm 1999 cho thấy 6,9% dân số của Hàn Quốc ở độ tuổi 65 trở lên và đến 2005 con số này là 9,1%. Chiều hướng già đi của dân số là do tỷ lệ sinh thấp và tuổi thọ cao, dự tính đến năm 2020 thành phần dân số già chime 15,7%. Để giải quyết vấn đề này chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra một số chính sách như sau: - Thứ nhất, khuyến khích phụ nữ sinh thêm con, chính phủ tăng ngân sách hỗ trợ cho việc chăm sóc trẻ em lên 4,5 nghìn tỷ won, đồng thời mở rộng cơ hội cho những người hảo tâm - Thứ hai, thời gian nghỉ sinh con được nhân lương sẽ tăng lên 60 ngày so với 30 ngày trước đây và mức lương phụ nữ được nhận trong khoảng thời gian nghỉ sinh sẽ được tăng lên 500 000won 1 tháng so với 400000won trước đây. - Thứ ba, đối với những gia đình có từ 3 con trở lên có mức thu nhập thấp hơn mức trung bình,chính phủ sẽ hỗ trợ từ 30000won đến 60000won 1 tháng cho mỗi trẻ em. 2.2.3. Chính sách về vấn đề đô thị hóa Ngay từ những năm 70, chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra chính sách điều chỉnh nhanh chóng chiến lược phát triển đô thị bằng cách mở rộng vùng đô thị, nâng cấp mở rộng các đô thị đã có. Một loạt các thánh phố vệ tinh mới có quy mô vừa và nhỏ lần lượt được dựng. Các thành phố mới đều là các trung tâm công nghiệp lớn, tạo hành lang đô thị nối từ thành phố trung tâm ra các cảng biển nằm ở miền Nam Hàn Quốc. Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng trong những năm 1960 và 1970 đã kéo theo sự di chuyển liên tục của những người dân từ nông thôn ra thành phố, đặc biệt là Seoul, làm cho dân số tăng nhanh tại những khu vực này. Chính vì thế mà Hàn Quốc đưa ra quy định về mức dân số cho thành phố lớn; mức trần dân số được đặt ra cho mỗi khu vực căn cứ vào cơ sở hạ tầng của từng
13
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
nơi. Ví dụ,tỉnh Kyonggi được định tiêu chuẩn là 14,5 triệu dân sẽ phải đặt ra mức mức trần cho từng thành phố và hạt.
2.2.4.Chính sách giải quyết việc làm
Theo báo cáo mới đây của viện nghiên cứu lao động Hàn Quốc, tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 11/2008 tăng 3,3% so với 3,1% trong tháng 10, với 750.000 người thất nghiệp.Trong khi đó khảo sát của cục kê quốc gia Hàn Quốc cho biết, trong quý III/2008, cứ 6 trụ cột kinh tế gia đình thì có một người mất việc. Vì thế chính phủ đã đưa ra môt số giải pháp và chính sách để giải quyết tình trạng thất nghiệp cho giới trẻ như sau:
* Các giải pháp tạm thời
* Các giải pháp trung và dài hạn
Chương trình về kinh nghiệm làm việc trong giới trẻ là một trong những giải pháp chủ yếu về việc làm cho thanh niên. Chương trình gồm 2 phần, một là hệ thống hỗ trợ kinh nghiệm làm việc và hai là hệ thống hỗ trợ việc làm.Về hệ thống hỗ trợ kinh nghiệm làm việc,sinh viên các trường đại học, cao đẳng hoặc sinh viên đã tốt nghiệp được làm việc như những thực tập sinh cho các cơ quan nhà nước hoặc các công ty tư nhân để có kinh nghiệm làm việc cũng như nhận được sự giúp đỡ trong lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. Còn về hệ thống hỗ trợ việc làm,các công ty thuê các sinh viên thực tập và những sinh viên này sẽ nhận được tiền trợ cấp trong 3 tháng và sau đó những sinh viên này sẽ vào biên chế và sẽ lại nhận được tiền lương trong 3 tháng tiếp theo. Phát triển sâu hơn nữa khả năng hướng nghiệp cho giới trẻ “ đào tạo hướng nghiệp theo kiểu may đo”, tập trung vào kiến thức dựa trên ngành công nghệ IT, ICT cho các sinh viên đang tìm kiếm việc làm, trong đó đào tạo dạy nghề chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất như đóng tàu, xe ô tô…cho học sinh cấp 3 chưa có việc làm. Hệ thống dịch vụ tại một điểm duy nhất hiện đang được xây dựng để cung cấp các dịch vụ dạy nghề, tư vấn và hướng dẫn nghề nghiệp thông qua phòng hỗ trợ nghề nghiệp cho giới trẻ tại trung tâm bảo đảm việc làm trên toàn quốc. Hơn nữa nhờ các chương trình tìm kiếm việc làm nhiều công việc tạm thời được thông tin cho giới trẻ. Tại Hàn Quốc chương trình làm việc khoảng 40 giờ một tuần bắt đầu triển khai ở ngành kinh tế nhà nước và các doanh nghiệp lớn có từ 1000 công nhân trở
14
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
* Các chính sách trong tương lai:
lên từ tháng 7 năm 2004. Chương trình này sẽ áp dụng cho các doanh nghiệp có từ 300 công nhân trở lên,bắt đầu thực hiện từ năm 2005 Đào tạo hướng nghiệp và tư vấn nghề nghiệp cho giới trẻ đang được mở rộng. Các chương trình như du lịch việc làm, game việc làm tìm kiếm việc trên mạng…đang xúc tiến và các thông tin đa dạng về việc làm được gửi đến giới trẻ qua thư điện tử. Cụ thể hóa các dự án trung và dài hạn về cung và cầu lao động sẽ được tiến hành và kết quả được đánh giá trong chương trình giảng dạy, quy mô của từng tầng lớp, sự lựa chọn nghề nghiệp, đào tạo hướng nghiệp để tránh mất cân bằng giữa cung và cầu lao động. Bên cạnh đó, xây dựng một hệ thống có thể lồng ghép các thông tin về thị trường lao động rải rác hàng loạt được lên kế hoạch để hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực bằng một phương pháp tổng thể. Chính phủ Hàn Quốc cho biết năm 2008 sẽ là bước ngoặt cho tình trạng thất nghiệp trong giới trẻ. Vì thế Hàn Quốc sẽ tập trung vào giải quyết nạn thất nghiệp trong năm 2008. Năm 2004, chính phủ đã ban hành đạo luật đặc biệt để giảm tỷ lệ thất nghiệp và sẽ có hiệu lực trên cơ sở tạm thời trước năm 2008. Ủy ban đặc biệt về thất nghiệp trong giới trẻ cũng sẽ được thành lập cùng với các cá nhân và nhà nước trong việc giám sát và cải tiến các phương pháp đang được thực thi nhằm giảm nạn thất nghiệp. Hơn nữa một chương trình mà giới trẻ sẽ được đào tạo hướng nghiệp và tư vấn nghề nghiệp theo giai đoạn phát triển của mình, được thành lập làm cho giới trẻ có một cái nhìn đúng đắn về nghề nghiệp và nâng cao khả năng tìm kiếm việc làm. Đồng thời tập trung vào mở rộng cơ sở hạ tầng cho các dịch vụ bảo đảm nghề nghiệp.
2.2.5.Chính sách cho người nghèo
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn đang tiếp diễn và Hàn Quốc là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Đầu năm 2009,tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc giảm mạnh và đi kèm với đó là sự gia tăng của nạn thất nghiệp. Theo số liệu thống kê đầu năm, gần 260 nghìn lao động đã mất việc làm và khoảng 400 nghìn hộ kinh doanh cá thể cũng phải đóng cửa. Đời sống người dân,đặc biệt là người có thu nhập thấp bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Theo số liệu điều tra của Bộ lao động Hàn Quốc, với 7200 doanh nghiệp trên cả nước,được công bố ngày 26/11, cho thấy mức lương tháng bình quân của một người lao động trong quý III/2008 giảm 2,7%,còn 2.400.000 won (khoảng 1.600 USD). Mức lương của người lao động ký hợp đồng một năm trở lên giảm 2,4% so
15
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
với cùng kỳ năm 2007,của lao động thời vụ giảm 9,2% còn 792.000 won. Nếu cộng thêm sự sụt giá giữa đồng won với USD, thu nhập của người lao động giảm tới 40%. Trước tình hình đó chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện hàng loạt các chính sách để giúp đỡ người dân: - Kế hoạch hỗ trỡ khẩn cấp của chính phủ lên tới 4,5 tỷ USD đã được thực hiện nhằm ổn định đời sống sinh hoạt,hỗ trợ chi phí giáo giục,y tế…của người dân.80% số tiền trợ cấp,tương đương gần 3,6 tỷ USD sẽ được sử dụng hoàn toàn vào mục đích hỗ trợ sinh kế người dân.Không chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ sinh hoạt đơn thuần,chính phủ còn tạo ra các hình thức hỗ trợ phù hợp với từng đối tượng. - Bộ tài chính và Chiến lược thông báo kế hoạch quản lý kinh tế năm 2009, trong đó tập trung bảo vệ các nhóm đối tượng có thu nhập thấp và bảo đảm số lượng công việc ổn định hiên tại. Chính phủ hỗ trợ tài chính cho các công ty tái cơ cấu kinh doanh nhằm đảm bảo việc làm cho nhân viên, chính phủ khuyến khích các công ty tư nhân cho nhân viên nghỉ phép hoặc giảm lương và chấp nhận gánh 75% lương cho các nhân viên nghỉ phép. - Các hộ gia đình rơi vào diện nghèo do khủng hoảng tài chính cũng sẽ được hỗ trợ.Mức trợ cấp hàng tháng cho các hộ gia đình bốn người có thu nhập thấp từ 1,2 triệu won sẽ tăng 1,3 triệu won. Qũy học bổng cho sinh viên được nâng từ mức 67 tỷ won năm nay lên hơn 418 tỷ won trong năm 2009. - Bộ y tế, phúc lợi và gia đình Hàn Quốc mới đây cho biết,từ tháng 7/2009,bộ sẽ thực hiện chương trình trợ cấp cho trẻ em dưới năm tuổi của các hộ gia đình có thu nhập hàng tháng dưới mức 2,78 triệu won.Tùy theo độ tuổi của trẻ,mức trợ cấp hằng tháng sẽ dao động từ 167.000 đến 712000 won.Trước đây, Hàn Quốc chỉ rõ chăm sóc trẻ em ở các hộ gia đình có thu nhập trung bình dưới 1.3 triệu won một tháng. 2.2.6.Chính sách khắc phục vấn đề an sinh xã hội Từ những năm 1980, các hệ thống chính sách khác nhau liên quan đến vấn đề an sinh xã hội đã được chính phủ triển khai thực hiện. Những hệ thống này gồm có việc mở rộng hệ thống bảo hiểm y tế và hệ thống trợ giúp y tế tương ứng vào các năm 1988, 1989 và áp dụng chế độ bảo hiểm thất nghiệp năm 1995. Chính phủ đã tạo nền tảng cho việc xây dựng một xã hội bảo đảm phúc lợi của người dân. Hệ thống hưu trí quốc gia được triển khai lần đầu tiên năm 1988 đã nhận bảo hiểm xã hội cho người lao động tại những nơi làm việc có từ 10 người trở lên. Năm 1992, hệ thống này đã được sửa đổi theo hướng nhận bảo hiểm xã hội đối với những nơi làm việc có từ 5 người trở lên. Năm 1995 hệ thống được mở rộng để nhận bảo hiểm xã hội cho những người tham gia lao động trong ngành nông nghiệp
16
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
và những người tự kiếm sống ở các vùng nông thôn. Cuối cùng hệ thống này nhận bảo hiểm cho toàn dân năm 1999. Mục tiêu ban đầu của hệ thống trên là đảm bảo tối thiểu cho những người hoạt động trong lĩnh vực kinh tế khi họ gặp phải những khó khăn về tài chính. Ngoài ra còn có các chương trình phúc lợi trực tiếp dành cho những người không hoạt động trong lĩnh vực này. Những chương trình trợ cấp này gồm hai loại sau: trợ cấp giá sinh hoạt và trợ giúp y tế. Nhờ mức sống tăng và dịch vụ chăm sóc sức khỏe và y tế ngày càng được cải thiện nên tuổi thọ trung bình của người dân Hàn Quốc đang tăng nhanh dẫn đến số người già tăng đáng kể trong những năm qua. Nếu năm 1960, dân số ở độ tuổi từ 65 trở lên chiếm 2,9% trong tổng dân số của Hàn Quốc thì năm 2005, tỷ lệ này đã tăng lên 9,1% và dự kiến sẽ đạt tới 14,4% năm 2019. Để nâng cao phúc lợi cho người già, chính phủ đã thực hiện các chính sách sau: trợ cấp trực tiếp cho những người già sống dưới mức nghèo khổ, tạo nhiều cơ hội việc làm cho người có tuổi bằng cách tìm các công việc phụ hợp và mở các trung tâm giới thiệu việc làm, củng cố hệ thống chăm sóc sức khỏe và mở các cơ sở công cộng dành cho người già với nhiều hình thức khác nhau. Từ cuối những năm 1980, cùng với việc nâng cao các biện pháp an sinh, nhận thức về nhu cầu của người khuyết tật cũng tăng lên. Tháng 2-2003, bộ y tế và phúc lợi đã xây dưng “ kế hoạch phát triển phúc lợi 5 năm lần thứ 2 cho người khuyết tật giai đoạn 2003-2007”. Kế hoạch hành động này sẽ được bộ y tế và phúc lợi xã hội thực hiện trên cơ sở phối hợp với một số bộ, ngành khác nhau của chính phủ, như là Bộ giáo dục và Phát triển nguồn nhân lực, Bộ lao động,… Kế hoạch phát triển này dự tính: Thứ nhất, cải thiện phúc lợi chung bằng cách mở rộng các chương trình trợ cấp công cộng, lắp đặt thêm các thiết bị phục vụ người khuyết tật ở những nơi công cộng và xây dựng thêm các trung tâm phúc lợi; thứ hai, tăng số lượng các cơ sở dạy nghề; và thứ ba phát triển các cơ hội việc làm bằng cách hỗ trợ lắp đặt các thiết bị cần thiết. II. Đánh giá kết quả Hàn Quốc đạt được 1.Đánh giá về kinh tế
1.1.Giai đoạn hướng vào xuất khẩu 1962-1971 1.1.1.Kết quả Ở giai đoạn này , nền kinh tế Hàn Quốc đạt được những kết quả sau:Tỷ lệ xuất khẩu trong GNP tăng từ 2.4% năm 1961 lên 6.8% năm 1966 và 11.2% năm 1971. Quá trình đô thị hóa đất nước diễn ra nhanh chóng , kéo theo tỷ lệ việc làm tăng nhanh. GNP/người tăng hơn gấp 3 trong giai đoạn 1962-1971, từ 87USD lên
17
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
289USD. Nguyên nhân là do Hàn Quốc biết tận dụng nguồn lao động dư thừa có kỹ năng và chí phí rẻ. Bên cạnh đó, Hàn Quốc đã khắc phục được sự thiếu thốn nghiêm trọng về mặt tài nguyên ,vượt qua được những sức ép về thị trường nhỏ bé trong nước để hướng ra xuất khẩu , tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế
Tỷ lệ tăng tiết kiệm và đầu tư trong nước rất cao. Tỷ lệ tăng trong nước từ 15% đến 23% . Bên cạnh đó tỷ lệ tăng GNP thực tế hàng năm trong giai đoạn 1962 – 1971 là khá cao 8.7% . Có được những kết quả này là do chính sách thu hút đầu tư nước ngoài đã đem lại cho Hàn Quốc nguồn ngoại tệ lớn. Đồng thời, HQ còn có lợi thế về nguồn lao động giá rẻ và có kĩ năng . Các chính sách của chính phủ đã làm tỷ trọng CN trong GNP tăng từ 19.8% ( 1965) lên 22.8% ( 1970)
Tóm lại thành công kinh tế của HQ trong những năm 1960 không chỉ có phần đóng góp của chiến lược hướng ngoại mà còn có phần đóng góp của lực lượng lao động có đào tạo, tầng lớp doanh nhân năng động, nguồn vốn nước ngoài, cải cách thể chế và môi trường thương mại quốc tế thuận lợi .
1962
1971
Thay đổi hàng năm 1962-1971
95
23
GNP (t ỷ USD)
95
23
GDP (tỷ USD )
2.1
8,5
8.7
Tỷ lệ tăng GDP thực tế (%)
2.2
8
8.9
Tỷ lệ tăng GNP thực tế (%)
0.55
10.68
4
Xuất khẩu (tỷ USD)
2.4
11.2
6.9
Tỷ lệ xuất khẩu/GNP (%)
4.22
23.94
11.2
Nhập khẩu ( tỷ USD )
18.3
25.2
21.6
Tỷ lệ nhập khẩu/GNP (%)
-3.35
-10.46
-6
Cán cân thương mại (tỷ USD)
11.8
24.6
19.9
Tỷ lệ đầu tư trong nước(%)
16.1
15.8
11
Tỷ lệ tiết kiệm (%)
Bộ tài chính Hàn Quốc
1.1.2.Hạn chế
18
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất , chính sách của chính phủ vẫn chưa tạo ra bước ngoặt lớn, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP tương đối cao. Theo số liệu năm 1965 tỷ trọng nông nghiệp trong GDP là 38.4% so với 19.8 % của công nghiệp
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 2 : kĩ thuật vẫn còn lạc hậu, giá nhân công tăng, làm cho sản phẩm công nghiệp của HQ bị giảm sức cạnh tranh trên thị trường quôc tế. Ngoài ra còn có sự mất cân đối giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Trong năm 1971: tổng giá trị sản xuất công nghiệp các ngành công nghiệp nặng có tính then chốt như cơ khí chỉ chiếm 9.3 %, hóa chất và lọc dầu, than chiếm 15.5 %, luyện kim chiếm 6.1 % do vậy phần lớn nguồn nguyên liệu phải nhập khẩu dẫn đến nhập siêu ở mức rất cao
1.2. Giai đoạn ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và hóa chất ( 1972-1979) 1.2.1.Kết quả Những kết quả mà nền kinh tế HQ đạt dược trong giai đoạn này: GDP tăng 8.9%/năm trong giai đoạn 1972-1979, đặc biệt so với tỷ lệ 4.8%(1972). Thu nhập đầu người tăng cao và tỷ lệ tiết kiệm trong nước lớn. GDP/người tăng từ 319USD(1972) lên 1647USD(1979). Tỷ trọng công nghiệp trong GNP gia tăng 1 lượng đáng kể: từ 22.8%(1970) lên 40%(1980) chủ yếu là do sự gia tăng của công nghiệp nặng. Đặc biệt trong thời kỳ này có sự vươn lên của tập đoàn Posco, chuyên sản xuất thép đã trở thành xương sống của nền kinh tế. Ngày nay, Posco là một trong 3 nhà sản xuất thép lớn nhất thế giới. HQ cũng là nước đứng đầu thế giới về đóng tàu với các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng như Huyndai Heavy Industries và Samsung Heavy Industries nắm trọn thị trường đóng tàu toàn cầu. ..
Những thành tựu có được là do sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ với các ngành máy móc, thiết bị điện tử, đóng tàu , luyện kim màu, coi đây là ngành công nghiệp mới sử dụng nhiều lao động. Bên cạnh đó, nhà nước còn chủ trương hỗ trợ cho công nghiệp nặng, chính phủ ban hành Sắc lệnh phát triển các ngành công nghiệp nặng và hóa chất( tháng 1/1973), với mục tiêu đạt 50% xuất khẩu sản phẩm công nghiệp nặng và hóa chất trong tổng kim ngạch xuất khẩu (1980), luật thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ cũng được đưa vào thực hiện(1972) và các biện pháp tự do hóa bước 1 về nhập khẩu công nghệ nước ngoài được chính phủ thực hiện năm 1978 đã đem lại sự phát triển công nghệ vượt bậc cho ngành công nghiệp
1972
1979
Thay đổi hàng năm (1972- 1979)
19
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
107
616
GNP (tỷ USD )
107
627
GDP (tỷ USD )
4.8
7.1
8.9
Tỷ lệ tăng GDP thực tế (%)
4.6
6.8
8.7
Ttỷ lệ tăng GNP thực tế (%)
16.24
150.56
74.9
Xuất khẩu (tỷ USD)
15.2
24.4
23.8
Tỷ lệ xuất khẩu/GNP (%)
25.22
203.39
94.7
Nhập khẩu ( tỷ USD )
23.6
33
31
Tỷ lệ nhập khẩu/GNP (%)
-5.74
-43.96
-15
Cán cân thương mại (tỷ USD)
20.9
35.8
26.7
Tỷ lệ đầu tư trong nước(%)
17.3
28.5
23.6
Tỷ lệ tiết kiệm (%)
Bộ tài chính Hàn Quốc
(cid:198) Tóm lại, sự can thiệp tích cực của chính phủ và các biện pháp chính sách
1.2.2.Hạn chế Xảy ra những vấn đề nghiêm trọng về mặt cơ cấu và hiệu quả. Lạm phát ở 2 con số, CPI bình quân hàng năm trong giai đoạn 1972-1979 cao(17.6%), tiền lương tăng nhanh trong các ngành công nghiệp nặng và hóa chất , đầu tư tràn lan mở rộng của chính phủ và lãi suất cho vay thấp.
năng động đã dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế đáng chú ý trong 1970.
1.3.Giai đoạn điều chỉnh cơ cấu và tự do hóa nền kinh tế (1980-1989): 1.3.1.Kết quả Tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế HQ đạt mức ngoạn mục: 12%/năm trong giai đoạn 1986-1988. Năm1988, GNP đầu người đạt 4040 USD, trong khi giá trị thương mại đạt 111 tỷ USD đứng thứ 13 trên thế giới. Thành tựu này một phần là do diều kiện quốc tế ưu đãi như lãi suất quốc tế thấp, giá trị thấp của đồng USD và giá dầu mỏ thấp vào giữa những năm 1980.
20
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
Tỷ lệ của ngành chế tạo trong GNP tăng từ 14.3%(1962) lên 31.6%(1988), trong khi nông nghiệp giảm từ 38.4%(1962) xuống 10.8%(1988). Xuất khẩu sơ chế giảm từ 7.8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu xuống 5.2% trong khi hàng chế tạo tăng từ 22% lên 94,8%.
1980
1987
1988
1989
Thay đổi hàng năm 1980-1989
606
1334
1798
2204
GNP ( tỷ USD )
628
1363
1822
2222
GDP ( tỷ USD )
1597
3218
4295
5210
GDP đầu người( tỷ USD )
-2.7
11.5
11.3
6.4
7.9
tỷ lệ tăng GDP thực tế (%)
-3.9
12.3
12
6.9
8
tỷ lệ tăng GNP thực tế (%)
175.05
472.81
606.96
623.77
349.65
xuất khẩu (tỷ USD)
28.9
35.4
33.8
28.3
31.8
tỷ lệ xuất khẩu/GNP (%)
222.92
410.2
518.11
614.65
346.51
nhập khẩu (tỷ USD)
36.8
30.7
28.8
27.9
32.9
tỷ lệ nhập khẩu/GNP (%)
-43.84
75.29
112.83
43.61
13.7
cán cân thương mại (tỷ USD)
31.9
30
31.1
33.8
30.5
tỷ lệ đầu tư trong nước (%)
23.2
37.3
39.3
36.2
30.4
tỷ lệ tiết kiệm (%)
Bộ tài chính Hàn Quốc
21
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
1.3.2.Hạn chế : Do những cải cách cơ cấu kinh tế diễn ra mạnh mẽ ,do sự phá giá của đồng Won và do tiền lương tăng làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp của Hàn Quốc 1.4.Giai đoạn thực hiện chính sách “kinh tế mới” và “toàn cầu
hóa” (1990-1996):
1.4.1.Kết quả Sang đến những năm 1990, các chaebol(tổ hợp) phát triển mạnhnhư Samsung, Huyndai và LG bắt đầu toàn cầu hoá.Trong thời gian này, những đầu tư ban đầu của chính phủ dành cho các ngành điện tử và bán dẫn, chuẩn bị cho kỷ nguyên số hoá sắp tới đặt nền móng cho ngành công nghệ thông tin của HQ trong thế kỷ 21.
Theo niên giám thống kê 1992, GNP của HQ đã đứng thứ 13 trên thế giới , trong khi GNP đầu người đứng thứ 38. HQ đứng ở thứ bậc cao trong xuất khẩu hàng dệt, sắt thép , ô tô, tàu biển và điện tử.
Trong giai đoạn 1992-1996: GDP tăng từ 3079 tỷ USD(1992) lên 4844 tỷ
USD(1996). Xuất khẩu tăng từ 766.32USD(1992) lên 1297.15USD(1996)
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
Thay đổi hàng năm 1990-1997
GNP (tỷ USD)
2518
2920
3057
3308
3780
4526
4804
4374
GDP (tỷ USD)
2536
2941
3079
3328
3807
4565
4844
4426
3335
Tỷ lệ tăng GDP thực tế (%)
9.5
9.1
5.1
5.8
8.6
8.9
7.1
5.5
3.8
9.6
9.1
5
5.8
8.4
8.7
6.9
4.9
7.3
Tỷ lệ tăng GNP thực tế
22
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
(%)
Xuất khẩu (tỷ USD)
650.16 718.7
766.32 822.36 960.13 1250.6 1297
1361.6 978.38
Tỷ lệ xuất khẩu/GNP (%)
25.8
24.6
25.1
24.9
25.4
27.6
27
26.44
Nhập khẩu ( tỷ USD )
698.44 815.25 817.75 838
1446.2 1061.71
1023.48 351.19 1503
Tỷ lệ nhập khẩu/GNP (%)
27.7
27.9
26.8
25.3
27.1
29.9
31.3
33.1
28.63
Cán cân thương mại (tỷ USD)
-24.5
-68.03
-17.55 23.19
-28.6
-44.44
-49.65
-31.79 42.67
Tỷ lệ đầu tư trong nước(%)
37.1
39.1
36.8
35.2
36.2
37.4
38.8
35.3
37
Tỷ lệ tiết kiệm (%)
35.9
36.1
34.9
35.3
35.4
36.2
34.8
34.6
35.4
Bộ tài chính Hàn Quốc
1.4.2.Hạn chế: Nền kinh tế phụ thuộc quá lớn vào các chaebol , trong khi các công ty vừa và nhỏ bị bóp nghẹt hoạt động sản xuất. Năm 1995, HQ có 13992 công ty vừa và nhỏ bị phá sản, 6 tháng đầu năm 1996 con số này là 6425. Tính bình quân, hàng ngày ở HQ có tới 20 công ty vừa và nhỏ , 6 công ty tạm ngừng sản xuất , và chỉ có 14 công ty mới ra đời.
Cuộc cải cách cơ cấu đã không theo kịp những cải cách tài chính. Điều đó dẫn đến tỷ lệ tăng trưởng GDP đã không ổn định trong giai đoạn 1990-1996. Lạm phát tăng trong khi thất nghiệp đạt ở mức thấp(2.5%) so với tiêu chuẩn gia nhập OECD. 1996, thâm hụt tài khoản hiện hành là 23.7 tỷ USD( chiếm 5% GDP). Trong khi đó hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi của HQ đã không đem lại tác dụng và chính sách tiền tệ tỏ ra không thích hợp trong môi trường mở cửa của thị trường vốn.
23
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
1.5.Giai đoạn 1997 đến nay: Khủng hoảng 1997 đã làm cho nền kinh tế HQ rơi vào tình trạng sụp đổ toàn diện. Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế (1997) chỉ đạt 5.5% so với 7.1% (1996) và 8.9%(1995), là mức thấp nhất kể từ 1970. Năm 1998, tăng trưởng GDP thực tế ở mức âm5.8%. Kể từ tháng1/1997, 8 chaebol đã tuyên bố phá sản, đẩy số nợ không có khả năng thu hồi của các chaebol lên mức 52 tỷ USD, chiếm 17% tổng số tiền cho vay của các ngân hàng .
Sự phá sản hàng loạt của các công ty lớn , vừa và nhỏ ở HQ trong cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ vừa qua, cùng với lệnh đóng cửa 14 ngân hàng không có khả năng thanh toán là đón giáng nặng nề đối với nền kinh tế HQ quen với tỷ lệ tăng trưởng cao và sự bành trướng kinh tế mạnh mẽ. Đồng Won mất giá 50% đã đẩy món nợ nước ngoài của HQ lên mức 157 tỷ USDtính đến tháng 4/1998 so với mức 120 tỷ USD năm 1997vaf 104.7 tỷ USD( 1996), trong khi dự trữ ngoại tệ của HQ chỉ là 20.2 tỷ USD( tính đến tháng 3/1998). Nợ trong nước của các công ty ở mức kỷ lục 450 tỷ USD đã đẩy hệ thống ngân hàng HQ vảo nguy cơ sụp đổ hàng loạt do các công ty thiếu khả năng thanh toán. Tính đến hết năm 1998, HQ đã đóng cửa 21 ngân hàng thương mại, đình chỉ hoạt động của 10 ngân hàng công thương. Tỷ lệ lạm phát tăng cao đã đẩy mức thu nhập bình quân tính theo đầu người của người dân Hàn Quốc trở lại mức 9511USD(1997) và 6823USD(1998) tương đương với năm 1991.
Nhờ những chính sách của chính phủ nền kinh tế HQ phục hồi dần trở lại: Tốc độ tăng GDP(1999) đã đạt mức 2% và 7.2%(2000). Đồng Won tăng giá trở lại đã giúp nền kinh tế hồi phục dần. Lạm phát ở mức thấp và thị trường chứng khoán phục hồi. Tính đến 1999, nền kinh tế HQ đã hoàn toàn thoát khỏi tình trạng khủng hoảng. Dự trữ ngoại tệ tính đến đầu 2000 đạt 76.8 tỷ USD và HQ đã thanh toán xong khoản nợ nước ngoài hơn 50 tỷ USD và HQ đã thanh toán xong khoản nợ nươc ngoài hơn 50 tỷ USD. Tính tới tháng 9/1999, nợ nước ngoài của Hàn Quốc là 140.9 tỷ USD trong khi các khoản tiền cho nước ngoài vay là 141.3 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài đạt mức cao nhất (15 tỷ USD vào 1999) và xuất khẩu ở mức 22.2%. Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 8.6%(1998) xuống 4.8%(1999).Thu nhập đầu người tăng trở lại ở mức 13000USD vào 2000.
Bước sang thế kỷ 21, cả Nhật Bản và Mỹ đêu bị HQ vượt qua về việc sản xuất linh kiên bán dẫn( như thẻ Ram và thẻ nhớ Flash) cũng như màn hình số (màn hình tinh thể lỏng LCD& Plashma) và đồ điện tử gia dụng khác như tivi, điện thoại di động và máy nghe nhạc.Công nghệ viễn thông đã đưa HQ trỏ thành nước nôi mạng có dây và không dây lớn nhất. Ngoài ra HQ còn đầu tư vào ngành chế tạo robot và tham vọng đưa nước này trở thanh quốc gia số 1 về ngành này vào năm 2025.
24
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
Việc tái cơ cấu các tổ hợp, tư nhân hoá ngân hàng đã tạo cơ hội cho nền kinh tế HQ được tự do vận hành hơn với cơ chế thị trường. Tuy năm 2004, kinh tế nước này có suy giảm chút ít nhưng đã tăng trưởng trở lại ở mức 5% vào năm 2006 khiến cho HQ vẫn giữ vị trí hang đầu tại châu Á.
Tuy nhiên khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế nước này. Đầu năm 2009, tăng trưởng kinh tế của HQ giảm mạnh và đi kèm với đó là sự gia tăng của nạn thất nghiệp. theo số liệu thống kê đầu năm 2009, tốc độ tăng trưởng của HQ là -4.02%, có gần 260 nghìn lao động đã mất việc làm và khoảng 460 nghìn hộ kinh doanh cá thể cũng phải đóng cửa.Sau đây là bảng số liệu so sánh GDP các năm từ 2005 đến 2009:
Năm
GDP (tỷ USD)
Tốc độ tăng trưởng (%) Tỷ lệ lạm phát (%)
1027373.88
3.92
2.76
2005
1114915.28
5.21
2.24
2006
1201865.37
5.09
2.53
2007
1256079.3
2.38
4.67
2008
1251821.6
-4.02
1.7
2009
tỷ USD
1400000
1200000
1000000
800000
GDP
600000
400000
200000
0
2005
2006
2007
2008
2009
25
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
Tốc độ tăng trưởng
Tỷ lệ lạm phát
%
6
4
2
0
2005
2006
2007
2008
2009
-2
-4
-6
BIỂU ĐỒ CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ (2000-2006)
100%
80%
60%
tỷ trọng dịch vụ
40%
tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tỷ trọng nông lâm thuỷ sản
20%
0%
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2. Đánh giá về mặt xã hội
2.1.Kết quả đạt được 2.1.1.Tăng trưởng kinh tế góp phần làm giảm bất bình đẳng về thu nhập Tăng trưởng kinh tế góp phần làm giảm bất bình đẳng về thu nhập. Dựa vào chỉ tiêu về thước đo mức độ bình đẳng trong phân phối thu nhập của một quốc gia, tức là xem số lần lớn hơn của mức thu nhập trung bình của 20% số dân giàu nhất với 20% số dân có mức thu nhập thấp nhất, người ta thấy Hàn Quốc đã tiến tới gần mức phát triển trong sự công bằng. Theo đánh giá chung, những nước có sự bất bình đẳng thấp là những nước có mức tăng GDP bình quân đầu người trên 4%/năm và có bội số thu nhập của hai nhóm dân cư nói trên thấp hơn 10. Hàn Quốc thuộc nước điển hình của nhóm các quốc gia có sự phát triển con người cao và sự bất bình đảng thấp, với GDP bình quân trên 7% /năm và bội số của mức chênh lệch
26
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
thu nhập giữa 2 nhóm giàu và nghèo nhất là 6 lần ( năm 1997), trong khi đó ở Malaixia là 11,7 lần, Thái Lan 9,4 lần, Philippin 7,4 lần, Braxin 32,1 lần, Mêhico 13,5%...
Bảng: Một vài chỉ tiêu xã hội ở một số nước trên thế giới
Nguồn: Cơ quan báo cáo phát triển con người của UNESCO, 1999
Nước
Số dân không được tiếp cân (%) 1997
Nước sạch Dịch vụ y tế Vệ sinh
em Trẻ không đủ cân nặng 5 dưới tuổi (%) 1997 lệ Tỷ mù chữ của người lớn(%) 1997 Những người không thọ đến 40 tuổi Khoảng cách 20% giầu nhất 20% và nghèo nhất
2.8 Hàn Quốc 4.7 7.0 0 0 0 6
5.3 Thái Lan 10.5 19.0 41.0 4.0 19.0 9.4
14.3 Malaixia 4.9 22.0 12.0 6.0 19.0 11.7
5.4 Philippin 9.2 16.0 - 25 28.0 7.4
15.0 Indonexia 12.8 25.0 57.0 41.0 34.0 4.7
17.1 Trung Quốc 7.9 33.0 - 76.0 16.0 7.1
9.9 Mehico 8.3 15.0 9.0 28.0 14.0 13.5
Braxin 11.5 16.0 24.0 - 30.0 6.0 32.1
Việt Nam 11.6 8.1 57.0 - 79.0 41.0 5.6
Tính theo hệ số bất bình đẳng về thu nhập của một quốc gia (hệ số Gini), hệ số càng nhỏ, mức bình đẳng về thu nhập càng lớn.
27
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
Hệ số Gini của Hàn Quốc từ 1980-2005
i
n Gi
0.45 0.4 0.35 0.3 0.25 0.2 0.15 0.1 0.05 0 1975
1980
1985
1990
1995
2000
2005
2010
Năm
2.1.2.Công bằng xã hội được thực hiện thông qua việc tạo dựng các cơ hội
Hệ số gini năm 1980 của Hàn Quốc là 0,389, đến năm 1994 con số này giảm còn 0,29. Sau đó có xu hướng tăng trong những năm gần đây, đạt 0,351 năm 2005 nhưng vẫn thể hiện sự công bằng xã hội cao trong phân phối thu nhập.
việc làm và các phúc lợi xã hội cho mọi tầng lớp nhân dân
Nhờ có kinh tế phát triển, các cơ hội việc làm ở Hàn Quốc được mở rộng.
Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 3,8% năm 1986 xuống còn 2% năm 1996.
Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996
3,8 3,1 2.5 2.6 2.4 2.1 2.4 2.8 2.4 2.0 2.0 lệ
Hiện nay, Hàn Quốc bước sang một xã hội công nghiệp và các điều kiện việc làm đã được cải thiện. Chế độ giờ công và tiền lương đã thay đổi theo hướng chú trọng phát triển nền kinh tế hiệu suất và bảo đảm quyền lợi của người lao động. Số giờ lao động bình quân trong tuần ở Hàn Quốc đã giảm từ 52,3 giờ năm 1983 xuống 46,2 giờ năm 1991. Trong giai đoạn 1985-1996, tỷ trọng của công nghiệp trong việc làm là 22%, và tỷ lệ gia tăng việc làm trong ngành công nghiệp là 2,6%. Năm 1995, chính phủ Hàn Quốc đã lập các quỹ phúc lợi cho công nhân, các chương trình bảo hiểm việc làm… nhằm đánh giá đúng và nâng cao vai trò của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế Như vậy rõ ràng vai trò của người
Tỷ thất nghiệp (%)
28
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
lao động trong tăng trưởng kinh tế ở Hàn Quốc đã được đánh giá đúng mức, và hơn hết, chính phủ Hàn Quốc đã biết chú trọng phát triển và đảm bảo các quyền lợi của người lao động trên cơ sở thừa hưởng các thành quả mà họ trực tiếp tạo ra.
Về mặt phúc lợi xã hội, Hàn Quốc nhìn chung đã đạt được những thành tựu
đáng kể
Thứ hai, về chăm sóc sức khỏe và y tế: Sự thay đổi đáng chú ý nhất trong nâng cao phức lợi xã hội là nâng cao chăm sóc y tế đến người dân. Số bệnh viện và nhân viên y tế không ngừng gia tăng. Tổng số bệnh viện và phòng khám chữa bệnh trong cả nước (tính cả các bệnh viện và phòng khám đông y) là 11188 năm 1975 đã tăng lên đến 49187 năm 2004. Theo thống kê của nhà nước tại thời điểm năm 2004 cứ 500 dân có một bác sĩ, 2320 dân/nha sĩ và 899 dân/dược sĩ. Tỷ lệ người mắc bệnh truyền nhiễm đã giảm xuống nhanh chóng còn 0,5% dân số năm 1991, đặc biệt lá các bệnh dịch tả và truyền nhiễm khác được chấm dứt từ năm 1980. Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh trong những năm qua giảm nhanh, nếu năm 1970, tỷ lệ này là 46 %o thì đến năm 1995 chỉ còn 10%o và năm 2005 là 7,05 %o. Tuổi thọ trung bình tăng từ 60,6 tuổi năm 1975 lên 75,82 tuổi năm 2005 và đạt 79 tuổi năm 2007.
Thứ ba, về vấn đề an sinh xã hội: Chăm sóc y tế dưới hình thức bảo hiểm y tế và trợ giúp y tế bắt đầu được áp dụng từ năm 1977. Tuy nhiên cho đến năm 1980, tỷ lệ dân số mua bảo hiểm này mới chỉ đạt 29.5 %. Tính đến năm 2005, đã có 96.4% dân số tiếp cận loại hình bảo hiểm này và 3.6% còn lại nhận sự trợ giúp y tế trực tiếp. Thứ tư, về vấn đề giáo dục.Hàn Quốc khá thành công trong phát triển nguồn nhân lực. Ngay từ năm 1995 tỷ lệ nhập học tiểu học của Hàn Quốc đã là hơn 99% và từ năm 1997 đến nay thì 100% trẻ em trong độ tuổi được đến trường. Theo điều tra của tổ chức Hợp tác quốc tế và phát triển (OECD) tiến hành năm 2005 thì 97% thiếu niên Hàn Quốc đều học hết cấp 3.. Theo đánh giá của Liên Hợp Quốc, hệ
Thứ nhất, về vấn đề nhà ở: Dưới tác động của công nghiệp hóa và tăng trưởng, nhu cầu nhà ở cũng tăng lên mạnh mẽ và trầm trọng cùng với tiến trình di dân mạnh mẽ vào đô thị. Giá nhà, giá đất tăng lên ồ ạt. Với những biện pháp của chính phủ thì tính đến năm 1992, tỷ lệ sở hữu nhà ở đạt mức 76% và diện tích nhà ở bình quân đầu người ước tính khoảng 14,9 m2. Trong những năm đầu thập niên 90, 2,7 triệu khu cư xá đã được đưa vào sủ dụng, vượt mức chỉ tiêu đề ra và quan trọng hơn, nó đã làm giảm nhẹ bớt sự thiếu thốn về nhà ở ở thành thị. Tỷ lệ cung ứng nhà đã tăng từ 72,4% năm 1990 lên 102% năm 2004. Trong năm 1985 chỉ có hơn 13% nhà là căn hộ thì trong năm 2005 đã tăng lên 52,5%.
29
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
thống giáo dục và các cơ hội học hành đã bùng nổ ở Hàn Quốc với gia tốc lớn. Đến nay Hàn Quốc đã là một trong những nước có tỷ lệ biết chữ cao nhất thế giới. Năm 2007 tỷ lệ người Hàn Quốc biết chữ là 99,8% cao nhất thế giới. Theo đánh giá của OECD, nền giáo dục khoa học của Hàn Quốc xếp thứ 3 trong số nền giáo dục tốt nhất trên thế giới, xếp thứ hai về môn toán và văn học, đứng đầu về “tư duy giải quyết vấn đề”. Theo thống kê của Bộ giáo dục khoa học và công nghệ, năm 2007 có 220 trường ở bậc đại học với 2.461.712 sinh viên, 56.349 giảng viên. Chỉ trên địa bàn Seoul có tất cả 42 trường đại học, 6 công lập và 36 tư thục.
Hàn Quốc đã tạo ra được đội ngũ lao động với hơn 90% có trình độ trung học, 85% thanh niên có trình độ cao đẳng và đại học, tỷ lệ học sinh vào đại học và cao đẳng của Hàn Quốc đạt 60%, cao nhất trong các nước Đông Á.
Thứ năm, tăng trưởng kinh tế cũng góp phần giải phóng và thúc đẩy sự phát triển của phụ nữ. Trình độ học vấn của phụ nữ cũng tăng. Năm 2005, tỷ lệ nữ tham gia bậc trung học và đại học là cân bằng giữa nam và nữ. Tổng cộng 80,7% nam sinh tốt nghiệp trung học lên bậc cao học hoặc đại học, trong khi đó con số này đối với nữ là 80,4%. Sự khác biệt ở đây là rất nhỏ. Trên thực tế tỷ lệ nữ sinh tham gia đại học là cao hơn hẳn so với mức trung bình của thế giới. Việc công nghiệp hóa đã làm tăng dần số lượng lao động nữ trong lực lượng lao động, từ 37,2% năm 1965 lên 50,1% năm 2005. Nếu xét theo phân loại công việc, lực lượng lao động nữ trong năm 1975 chỉ chiếm 2% trong các vị trí quản lý hoặc chuyên gia, trong khi đó khoảng 3,7% làm việc trong các vị trí văn phòng. Tuy nhiên đến năm 2005, 17,5% nữ nhân viên làm việc ở vị trí quản lý và chuyên gia và 17,4% khác làm việc ỏ vị trí văn phòng. Phụ nữ Hàn Quốc ngày nay tiếp tục tham gia vào các lĩnh vực đa dạng, rộng rãi đang đóng góp lớn cho xã hội. Gần đây phụ nữ đã đạt được nhiều thành tựu trong mộ số lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực chính phủ. Ví dụ, các thành viên của quốc hội đã tăng lên đáng kể: có 16 (chiếm 5,9%) trong quốc hội khóa 16(2000- 2004), con số này tăng lên 41( chiếm 13,7%) trong quốc hội khóa 17 (2004-2008). Trong cuộc thi công chức gần đây nhất, 32% trong tổng số các ứng cử viên thành công là nữ giới. Trong số những người vượt qua kì thi công chức cấp cao này và các kỳ thi nước ngoài, phụ nữ chiếm tương ứng là 38,4% và 52,6%, hầu hêt lưc lượng này sau đó được thuê làm thẩm phán, công tố, các nhà quản lý chính phủ cấp trung hay các nhà ngoại giao.
Chỉ số HDI đo mức độ tiến bộ chung bình của một nước về phát triển con người bao gồm tuổi thọ, trình độ dân trí và thu nhập GDP tính theo đầu người của Hàn Quốc năm 2005 là 0.921(xếp hạng thứ 26) tăng so với năm 2004 (đạt 0,912 và xếp hạng thứ 26). Như vậy Hàn Quốc thuộc nhóm nước có chỉ số HDI cao và do đó trình độ phát triển con người ở Hàn Quốc là cao so với thế giới.
30
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
Hàn Quốc đã có nhiều tiến bộ trong cải thiện công bằng giới.Năm 2005, chỉ số GDI của Hàn Quốc là 0,91 so với HDI là 0,921. Chênh lệch giữa chỉ số GDI càng thấp so với HDI chứng tỏ sự bình dẳng giới càng cao. Chỉ số GEM năm 2005 của Hàn Quốc là 0.51, xếp hạng 64 trên thế giới.
2.1.3.Tăng trưởng kinh tế góp phần vào và việc phát triển cân bằng giữa
thành thị và nông thôn.
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế đã nâng cao sự tiếp cận các cơ hội giáo dục cho mọi người cả ở nông thôn và thành thị. Nhờ đó các cơ hội việc làm được mở rộng đối với người dân cả ở vùng nông thôn và thành thị, và điều đó thực chất là nhằm cải thiện đời sống ở các vùng nông thôn cho cân bằng với thành thị. Tuy nhiên sự chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn có xu hướng ngày càng mở rộng. Sự chênh lệch này là do chất lượng giáo dục, chất lượng các dịch vụ và phúc lợi xã hội giữa 2 vùng thành thị và nông thôn là khác nhau.
Thứ hai, do chính phủ Hàn Quốc rất quan tâm đến việc phát triển nông nghiệp, có các dự án xây dựng các khu công nghiệp ở nông thôn, các dự án thủy lợi, phong trào Saemaul. Do vậy thu nhập của người nông dân được nâng lên rõ rệt. Năm 1965, thu nhập của nông dân Hàn Quốc là 112000 won, năm 1980 đã tăng lên đạt 2693000 won, năm 1990 đạt 11026000won và năm 1995 là 21803000won. Tính trung bình trong giai đoạn 1965-1995, thu nhập của nông dân Hàn Quốc tăng 19,2%/năm, trong đó thu nhập từ nông nghiệp tăng 17,2% và ngoài nông nghiệp tăng 22,9%. So với thành thị, thu nhập của nông dân Hàn Quốc chỉ bằng 93,8% và năm 1965, 74,4% vào năm 1980, 74% vào năm 1990 và 77,9% vào năm 1995. Như vật, trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đất nước, tạo sự cân bằng giữa thành thị và nông thôn luôn là một vấn đề chiến lược và gặp không ít vấn đề nan giải.
Thứ ba, các cơ sở hạ tầng ở nông thôn được xây dựng góp phần vào việc nâng cao mức sống của nông dân. Các tuyến đường cao tốc được mở rộng từ Seoul sang Pusan, dài 42 kim, chạy đan chéo qua các trung tâm lớn như Suwon, Kumi, Taegy và Kyongju. Hệ thống đường tầu điện ngầm chạy dài từ các đô thị ra các vùng ngoại ô, với sáu tuyến đường chính. Hàn Quốc là nước có hệ thống đường ngầm lớn thứ 8 trên thế giới. Đường quốc lộ, đường làng được mở rộng, nâng cấp. Hệ thống giao thông nông thôn được mở rộng từ 33460km năm 1972 lên 58000 km năm 1981, với 83927 cây cầu đủ kích cỡ. Năm 1975, đường cao tốc chiếm 2/3 tổng công việc chuyên chở hàng hóa và hơn 56% xe cộ lưu thông trên đường cao tốc là xe tải. Vào cuối những năm 1970, có tới 98% gia đình nông thôn được dùng điện, tỷ lệ dùng điện thoại, máy thu thanh, tivi, tủ lạnh đã đạt tỷ lệ một thiết bị dùng cho 50 người dân. Một trăm phần trăm nông dân được hưởng hệ thống nước sạch. Chính sự phát triển cơ sở hạ tầng đã góp phần làm tăng cơ hội việc làm và
31
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
thu nhập cho nông dân, giúp nông dân tiếp cận được nền văn hóa giáo dục văn minh và những dịch vụ xã hội hiện đại.
2.2.Hạn chế 2.2.1.Sự phân hóa xã hội: Thứ nhất, giữa hai thế hệ đang có sự phân hóa. Một thế hệ đã từng sống dưới thời thực dân Nhật thống trị, đói khổ, nghèo nàn và đã từng phải chịu cuộc đấu tranh Nam Bắc. Thế hệ này sống trong môi trường truyền thống, cần cù, tiết kiệm, có mức sống tương đối thấp. Một thế hệ khác vào nửa cuối những năm 1960 trở lại đây, chưa từng trải qua đói nghèo, khó khăn, được tiếp cận với nền văn hóa mới- văn hóa phương Tây và có một cuộc sống đầy đủ, sung túc. Như vậy, giữa hai nền văn hóa truyền thống và phương Tây, giữa hai phong cách sống tiết kiệm và hưởng thụ, quá trình phát triển kinh tế ở Hàn Quốc trong hơn 40 năm qua đã làm nảy sinh những mâu thuẫn xung đột trên phạm vi rộng trong mỗi cá nhân, gia đình, đoàn thể, nông thôn, thành phố. Sự phân hóa này là một yếu tố trở ngại cho sự hòa hợp dân tộc, phát triển kinh tế.
Thứ hai, Sự phân hóa giữa thành thị và nông thôn. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã dẫn đến tình trạng di dân từ nông thôn lên thành thị. Vào năm 1960, 78% lao động Hàn Quốc ở nông thôn đến năm 1990 còn 19,5% và năm 2000 chỉ còn 10%. Việc mất đất canh tác, thiếu lao động nông nghiệp là khó tránh khỏi. Đây là những trở ngại khiến Hàn Quốc gặp khó khăn trong vấn đề “an toàn lương thực”, cân đối lực lượng lao động khi có biến động ở khu vực công nghiệp và đô thị. Dân số ở các vùng đô thị tăng 28% (năm 1960) lên 74,4% (năm 1990), tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn là Xơ-un và Pusan. Mức độ đô thị hóa ngày một nhanh đã làm nảy sinh một số vấn đề nhà ở, giao thông, dịch vụ và sự cân bằng trong phát triển kinh tế theo lãnh thổ, xuất hiện sự chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn. Vào đầu những năm 1990, thu nhập trung bình của nông trại chỉ bằng 81% thu nhập của một hộ gia đình công nhân trên thành thị. Sự chênh lệch này còn thể hiện ở chất lượng giáo dục, cơ hội nâng cao thu nhập gia đình, chất lượng các phúc lợi xã hội và các dịch vụ công cộng khác giữa vùng nông thôn và thành thị. Các yếu tố này đã lý giải vì sao chỉ trong vòng 5 năm (1985-1990) Hàn Quốc đã có tới 1,2 triệu lao động nông thôn đổ ra thành phố tìm việc làm.
2.2.2.Các yếu tố về bất ổn định xã hội Thứ nhất, dân số Hàn Quốc đang già đi nhanh chóng. Thực trạng dân số già bắt đầu vào năm 2000 khi tỷ lệ dân số trên 65 tuổi vượt 7% và đến năm 2002 con số này là 7,9%. Tỷ lệ sinh giảm xuống là một xu hướng toàn cầu nhưng hiện tượng
32
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
này đặc biệt rõ rệt ở Hàn Quốc. Số người trên 65 tuổi sẽ chiếm 37% dân số vào cuối năm 2050. Dù được ưu đãi nhiều thanh niên Hàn không sãn sàng từ bỏ sự nghiệp để lập gia đình. Một số coi con cái là gánh nặng đối với cuộc sống và sự nghiệp. Hậu quả tỷ lệ sinh giảm xuống mức kỷ lục 1,08 con/ phụ nữ vào năm 2005, từ mức 2,6 con trước đó. Dự đoán dân số Hàn Quốc sẽ giảm từ 48 triệu người năm 2006 xuống còn 40 triệu vào năm 2050. Như vậy Hàn Quốc sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động và số người đóng thuế ít đi, trong khi phải gánh hệ thống phúc lợi xã hội ngày càng phình ra.
Thứ hai, vấn đề tình hình việc làm chịu sự tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính 1997 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay. Đặc biệt là đối với đối đối tượng thanh niên.
Bảng thực trạng việc làm của thanh niên Hàn Quốc (Đơn vị: nghìn, %)
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
11743 11724 11651 11461 11243 10952 10651 10368
Tổng số thanh niên
5685 5671 5387 5264 5281 5203 5140 4989
Số lượng lao động thanh niên
48,4 48,4 46,2 45,9 47,0 47,5 48,3 48.1
Tỷ lệ lao động thanh niên
5420 5349 4733 4691 4879 4815 4799 4606
Số lượng thanh niên có việc làm
4,6 5,7 12,2 10,9 7,6 7,5 6,6 7,7
Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp
264 322 655 574 402 388 341 383
Số lượng thanh niên thất nghiệp
2,0 2,6 7,0 6.3 4,1 3,8 3,1 3,4
Tỷ lệ thất nghiệp chung
33
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
435 568 1490 1374 913 845 708 777
Số người thât nghiệp
Nguồn: Economically Active Population Survey (National Staistic Ofifice). National Report for ILO/Janpan Youth Employment Symposium.
Bảng số liệu cho thấy trước khủng hoảng tài chính 1997, thì năm 1996, tỷ lệ thất nghiệp chung là 2% và chỉ riêng giới trẻ là 4,6%. Năm 1997 con số tương ứng là 2,6% và 5,7%. Sau khủng hoảng tài chính, nhiều lao động trở thành thất nghiệp, do các công ty buộc phải cơ cấu lại môi trường kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 7%, trong đó tỷ thất nghiệp của giới trẻ tăng đến 12,2% năm 1998. Năm 2000, thất nghiệp của giới trẻ giảm xuồng 6,6% nhưng lại tăng trở lại 7,7% năm 2003 do nhu cầu trong nước bị suy giảm. Con số này cao gấp 2 lần so với tỷ lệ thất nghiệp chung của Hàn Quốc(3,4%), và số lượng thanh niên thất nghiệp lên tới 383.000, chiếm 49,3% trên tổng số người thất nghiệp (777.000). Tỷ lệ thanh niên tham gia lao động (số lượng thanh niên có việc làm/tổng số thanh niên) giảm từ 46,2% năm 1996 xuống 44,4% năm 2003. Điều này phản ánh tình hình việc làm không thuận lợi cho thanh niên do các công ty cắt giảm tuyển dụng sau khủng hoảng tài chính 1997.
Theo thống kê khác tại Hàn Quốc, trong số những sinh viên vừa tốt nghiệp năm 2007 chỉ có 48,7% có được việc làm chính thức tại các công ty. Điều này đồng nghĩa với việc hơn một nửa sinh viên mới ra trường ở trong tình trạng không có việc làm hoặc phải làm những công việc không chính thức trên thị trường lao động. Những người lao động dạng này thường có thu nhập trung bình khoảng 880.000 won một tháng.
Hiện nay khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn đang tiếp diễn và Hàn Quốc là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Đầu năm 2009, tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc giảm mạnh và đi kèm với đó là sự gia tăng của nạn thất nghiệp. Trong tháng 2 năm 2009, tỷ lệ thất nghiêp ở Hàn Quốc tăng lên mức 3,9%, mức cao nhất trong 4 năm qua. So với tháng 2/2008 số người có việc làm hiện nay đã giảm xuống 142.000 người.
Thứ ba, chỉ số phản ánh bất bình đẳng cũng có biểu hiện tăng lên khá rõ rệt
biểu hiện hệ số gini 2000-2005
34
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
Hệ số Gini của Hàn Quốc từ năm 2000- 2005
0.355
0.351
0.35
0.345
0.345
0.343
0.34
ni Gi
0.34 0.335
0.33
0.327
0.325
0.323
0.32
1998
2000
2002
2004
2006
Năm
Từ trên đã cho thấy một thực trạng là các chỉ số đánh giá bất bình đẳng trong phân phối thu nhập của Hàn Quốc có xu hướng vận động không tích cực. Hệ số Gini của Hàn quốc năm 2000 là 0,323 đến năm 2005 là 0,351. Từ đó cho thấy sự mất cân đối về thu nhập có xu hướng tăng. Thứ tư, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đang đẩy số lượng người dân Hàn Quốc vào cảnh nghèo đói. Theo chính phủ Hàn Quốc, hiện số người sống ở mức đói nghèo (một gia đình 4 người, thu nhập dưới 1360 USD một tháng) lên tới 7 triệu người, chiếm 15% dân số cả nước. Và các hộ gia đình có thu nhập thấp là nhóm đối tượng đầu tiên bị suy thoái kinh tế tác động nhiều nhất. Thứ năm, đó là vấn đề tham nhũng. Hàn Quốc đang phải đối mặt với vụ bê bối tham nhũng lớn sau khi các kiểm toán viên tiết lộ rằng, hàng ngàn quan chức chính phủ đã đút túi khoản tiền trợ cấp của nhà nước trị giá tới hàng ngàn won. Họ đã khai gian về đất nông nghiệp để lấy tiền đền bù của chính phủ dành cho các nông dân bị ảnh hưởng của việc chính phủ mở cửa thị trường gạo. Tân Hoa Xã dẫn số liệu kiểm toán mới công bố cho thấy, từ năm 2005 đến nay, mỗi năm chính phủ Hàn Quốc chi 1500 tỷ won (1,21 tỷ USD) cung cấp cho nông dân. Tuy nhiên có tới 28% số tiền này đã không tới được tay nông dân. Thứ sáu, môi trường chưa được đảm bảo bền vững. Mặc dù quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Hàn Quốc đã có chú ý tới bảo vệ môi trường nhưng hiện tại nước này vẫn bị ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt thời kỳ cuối những năm 80 đến đầu những năm 90, chất lượng môi trường Hàn Quốc bị suy giảm một cách trầm trọng. Tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng nhất là ô nhiễm nguồn nước. Năm 1995, trong số 40 hồ được quản lý về chất lượng nước, không có hồ nào nằm dưới nằm dưới mức độ ô nhiễm cho phép về độ oxy hóa học (COD). Mức độ oxy hóa
35
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
(BOD) ở vùng thượng nguồn vào khoảng gần 3mg/lít và ở vùng hạ nguồn thì mức độ này cao hơn rất nhiều. Vấn đề xử lý rác thải vẫn còn rất nan giải và đang gây ô nhiễm trực tiếp lên môi trường. Mặc dù Hàn Quốc cũng thực hiện chính sách quản lý rác thải toàn diện và thông qua Kế hoạch quản lý rác thải đồng bộ với mục tiêu tiến tới bán và tái chế rác thải từ những năm 1990 nhưng hiện tại, phương pháp xủ lý chôn lấp còn chiếm tỷ lệ lớn, khoảng 80% lượng rác gia đình và hơn một nửa của tất cả các loại rác. Phương pháp đốt rác và các phương pháp khác chiếm khoảng 5%. Phần còn lại là tái chế. Rất nhiều nhà máy đốt rác thải đã được lập kế hoạch nhưng thực tế số lượng nhà mày được xây dựng rất ít. Vấn đề ô nhiếm không khí do hoạt động công nghiệp và phương tiện giao thông cũng đang la một vấn đề nan giải đối với Hàn Quốc. Thứ bẩy, các cuộc đấu tranh, đình công, biểu tình của lực lượng lao động ngày càng tăng. Điển hình là vào năm 1986-1989, các hội nông dân tự do bắt đầu phát triển ( trong ba năm có tới 95 hội), tự đứng lên đấu tranh vũ trang dành quyền lợi, đem theo cuốc thuổng, máy kéo, máy cày… làm vũ khí. Ở khu vực thành thị, các cuộc đình công diễn ra triền miên. Trong giai đoạn 1975-1989, các cuộc xung đột xay ra ngày càng trầm trọng.
Bảng: Các cuộc tranh chấp của tâng lớp lao động (1975-1989)
Năm 1975 1976 1977 1978 1979 1980 1981 1982
Số cuộc tranh chấp 133 110 96 102 105 407 186 88
Năm 1983 1984 1985 1986 1987 1988 1989 1990
Số cuộc tranh chấp 98 113 265 276 3749 1833 1532 -
Nguồn: Walden Bello và Stephanie Rosenfeld: Mặt trái của những con rồng, NXB Chính trị quốc gia, 1993, tr.72 Gần đây có các cuộc biểu tình như: Biểu tình phản đối chính phủ nhập khẩu thịt bò diễn ra ở thủ đô Seoul vào cuối tháng 6/2008; biểu tình chống lại chính sách sáp nhập các công ty của chính phủ, tập trung quanh viện đào tạo ở phía Bắc ngoại ô thành phố Seoul của hơn 15.000 nhân viên ngân hàng bắt đầu từ 23/12/2000 và gần đây là cuộc biểu tình vào ngày quốc tế lao động 1/5/2009 tại Seoul đòi tăng phúc lợi cho công nhân và nông dân.
III.Bµi häc kinh nghiÖm tõ sù ph¸t triÓn thÇn kú cña Hµn Quèc
Quá trình phát triển kinh tế của Hàn Quốc từ năm 1960 đến nay đã để lại rất nhiều kinh nghiệm và bài học, đặc biệt là trong giai đoạn cất cánh (1962- 1980). Trước hết phải nói về công tác xây dựng kế hoạch, trong quá trình phát triển phải
36
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
có chiến lược rõ ràng phù hợp với trình độ hiện tại của quốc gia, tận dụng mọi cơ hội để tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình phát triển, Hàn Quốc đã chọn công nghiệp hóa thông qua hai
giai đoạn đẻ tạo nên mô hình tăng trưởng rút ngắn.
Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn tập trung vào sản xuất hàng tiêu dùng để thay thế nhập khẩu, hay còn gọi là chiến lược thay thế nhập khẩu. Trong giai đoạn này, Hàn Quốc chú trọng phát triển công nghiệp tiêu dùng, phát triển cơ sở công nghiệp ngắn hạn, đầu tư vốn ít, tạo điều kiện thúc đẩy nhanh tôc độ chu chuyển vốn. Đây là giai đoạn tích lũy ban đầu có vai trò quyết định quan trọng với thắng lợi và thất bại của quá trình công nghiệp hóa.
Giai đoạn hai, Hàn Quốc chú trọng phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu hay còn gọi là chiến lược CNH “hướng về xuất khẩu”. Trong giai đoạn này, Hàn Quốc đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chế tạo, nhập khẩu các hàng chế tạo và sản phẩm trung gian, đầu tư nâng cao năng suất lao động.
Một nhân tố rất quan trọng trong sự phát triển của Hàn Quốc là nguồn nhân lực. Hàn quốc tập trung vào phát triển nguồn nhân lực vì đây được coi là động lực chính để tạo nên tăng trưởng. Phát triển nguồn nhân lực ở Hàn Quốc bao gồm việc đào tạo giới quan chức lãnh đạo, bộ máy chính phủ đến bồi dưỡng đội ngũ các nhà quản lý kinh doanh giỏi, từ chính sách phổ cập giáo dục toàn dân đến các chính sách hỗ trợ của chính phủ đối với việc nâng cao kiến thức và trình độ dân cấp, nhà nước rất chú trọng tới hệ thồng giáo dực đa dạng. việc chú trọng yếu tố con người trong quá trình phát triển kinh tế, 95% dân số biết chữ và nhờ có đội ngũ lao động được đào tạo, có kiến thức quản lý mặc dù không có tài nguyên nhưng vẫn tận dụng được mọi khả năng tăng trưởng kinh tế.
Sự thành công trong phát triển kinh tế của Hàn Quốc không thể không nói đến vai trò của “bàn tay hữu hình” của chính phủ Hàn Quốc. Vai trò của chính phủ là sự kết hợp cuẩ 3 vấn đề cơ bản: Tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị và công bằng xã hội. Ba vấn đề này có quan hệ mật thiết là tác động hỗ trợ lẫn nhau và đó cũng là mục tiêu mà bất kì chính phủ nào cũng phải tính đến.
Trước hết vai trò ổn định kinh tế vĩ mô của chính phủ Hàn Quốc được thực
hiện thông qua một số biện pháp như:
Kỷ luật tài chính: Chính phủ áp dụng kỉ luật kinh tế vĩ mô nhằm kiểm soát vững chắc sự thâm hụt tài chính và thâm hụt nợ nước ngoài, chính phủ kiểm soát
37
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
chặt chẽ giữa các khoản thu chi ngân sách với việc thực hiện chính sách thận trọng vay nợ nước ngoài, chính phủ sử dụng các biện pháp khống chế lạm phát và cải cách tỷ giá hối đoái như là giảm nhanh lượng tiền cung ứng, thực hiện chính sách tài chính chặt chẽ, sửa đổi luật thuế để tăng thu giảm chi, kiểm soát giá hàng hóa của các nhà kinh doanh, giảm bớt việc mua lương thực của nông dân làm giá hàng hóa giảm xuống.
Tăng khả năng tiết kiệm tạo nên sự ổn định về kinh tế vĩ mô, tăng khả năng
đầu tư cho cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông vận tải.
Sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả. Chính phủ Hàn Quốc rất thận trọng trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư. Trong việc vay vốn của nước ngoài, chính phủ Hàn Quốc luôn vay ở một nhóm các ngân hàng để giảm bớt rủi ro và giảm bớt các thủ tục, khi phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế, nước đi vay phải chọn ngân hàng mạnh, có uy tín cao với số vốn lớn để bảo lãnh, trước khi vay vốn nước ngoài phải huy động các chuyên gia tính toán mọi phương án để có thể vay vốn với lãi suất thấp nhất. Trong việc sủ dụng vốn, chính phủ luôn cân nhắc kĩ lưỡng các hình thức và lĩnh vực đầu tư, để đón nhận các luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài, bản thân nền kinh tế đã xây dựng được các thể chế thích ứng mà không phải mất thời gian và cơ hội thăm dò các hoạt động đàu tư, các khoản đầu tư tập trung vào các lĩnh vực kinh tế có khả năng hoàn vốn nhanh.
Chính phủ có vai trò rất lớn trong việc dẫn dắt các khu vực tư nhân. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, do khu vực tư nhân còn yếu (cả trong nước và cả uy tín cạnh tranh quốc tế). Chính phủ đã thành lập một số công ty của nhà nước để dẫn dắt khu vực tư nhân phát triển, tạo ra nhiều công ăn việc làm. Khi nền kinh tế đã phát triển đến một trình độ nhất định, khu vực tư nhân đạt hiệu quả hơn thì nhà nước bán lại các doanh nghiệp để lấy tiền đầu tư vào cơ sỏ hạ tầng. Hay trong khi phát triển công nghệp nặng, chính phủ đã chọn một vài công ty mạnh để áp dụng những khuyến khích ưu đãĩ riêng. Nhưng khi các công ty này đã đứng vững trong cạnh tranh thì chính phủ một mặt bãi bỏ các ưu đãi đó, mặt khác chuyển sang chống các công ty này lũng đoạn, độc quyền, bảo hộ cho các công ty vừa và nhỏ.
Chính phủ đã thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, đẩy mạnh kinh tế đối ngoại. Chính phủ lấy xuất khẩu làm hướng chính, là nội dung cơ bản của chính sách mở cửa. Việc hướng đất nước xuất khẩu nhằm khắc phục sự hạn chế của phát triển nôi địa và mở rộng giới hạn về thị trường tiềm năng trong nước, nhưng việc
38
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
hướng ngoại không có nghĩa là thả nổi thị trường nội địa, mà mở cửa phải gắn với bảo hộ mậu dịch và bảo hộ công nghiệp là động lực chủ yếu, chi phối các hoạt động kinh tế của đất nước. Chính phủ áp dụng các chính sách hỗ trợ nguồn vốn cho xuất khẩu, chính sách cấp tín dụng với lãi suất thấp cho các ngành xuất khẩu ưu tiên, thay đổi tỷ giá hối đoái, hỗ trợ nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu và các sản phẩm trung gian.
Trong phát triển mạnh công nghiệp thì công nghệ đóng vai trò quan trọng. Hần quốc đã thực hiện chính sách đa dạng hóa chính sách phát triển công nghiệp, thực hiện các chính sách công nghệp khác nhau để thay đổi cơ cấu kinh tế. Gắn quá trình chuyển dịch cơ cấu thích ứng trong từng giai đoạn với những thay đổi liên tục về chuyển giao kĩ thuật công nghiệp. Muốn thúc đẩy nhanh chóng quá trình CNH thì phải có những bước nhảy tắt về KHCN
C.KẾT LUẬN
Kể từ năm 1950 đến nay, kinh tế Hàn Quốc đã trải qua những giai đoạn phát triển thăng trầm, từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, ¾ đất đai là đồi núi, tài nguyên thiên nhiên nghèo kiệt đã vươn lên trở thành một nước có nền kinh tế công nghiệp hiện đại, được xếp vào nhóm nước có nền kinh tế thị trường năng động nhất trên thế giới. Kết quả trên là do Hàn Quốc đã đạt được thành tựu cao trong tăng trưởng kết hợp với công bằng xã hội. Kinh nghiệm thành công ở nền kinh tế Hàn Quốc cho thấy không nên và không thể tách rời các chính sách khuyến khích tăng trưởng và các chính sách tạo lập công bằng. Điều quan trọng nhất là tạo được một cơ chế mà tăng trưởng và giảm bất bình đẳng là kết quả đồng thời và là điều kiện hỗ trợ lẫn nhau. Các chính sách mà chính phủ các nước đạt được thành tựu cao trong tăng trưởng và giảm bất bình đẳng là một tổ hợp các biện pháp điều tiết. Tổ hợp này khác nhau theo từng nước và từng thời kì ở mỗi nước. Vì vậy Việt Nam khi xem xét kinh nghiệm của Hàn Quốc cần phải chú ý đặc biệt đến hoàn cảnh lịch sử và điều kiện cụ thể của Hàn Quốc, không có bất cứ một khuôn mẫu chung nào cho tất cả các nước.
39
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
Lê Bộ Lĩnh Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội – 1998
Vũ Đăng Hinh Nhà xuất bản khoa học xã hội – 1996
Hoa Hữu Lân Nhà xuất bản chính trị quốc gia – 2002
Tổng cục thống kê Nhà xuất bản thống kê – 2008
D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước Châu Á và Việt Nam 2.Hàn Quốc nền công nghiệp trẻ trỗi dậy 3.Kinh tế Nics Đông Á – Kinh nghiệm đối với Việt Nam Lê Văn Toàn Nhà xuất bản thống kê Hà Nội – 1992 4.Hàn Quốc – Câu chuyện kinh tế về một con rồng 5.Niên giám thống kê 2007 6. Kinh nghiệm kế hoạch hoá và quản lý ở Hàn Quốc – 1995 NXB Chính trị Quốc Gia
40
Mô hình phát triển toàn diện ở Hàn Quốc
1. Lê Thị Búp 2. Phạm Thị Kim Khánh 3. Phạm Thu Lan 4. Nguyễn Thị Nghĩa 5. Đặng Công Ngọc 6. Lê Thu Thảo 7. Nguyễn Thị Huyền Trang
7.Một số trang web - Trang Web bộ Môi trường Hàn Quốc http://eng.me.go.kr/docs/sub1/minister_greeting.html?topmenu=A&cat=100 - Trang Web của World Bank http://web.worldbank.org - Trung tâm nghiên cứu Hàn Quốc http://nchq.org.vn/?Content=mContent - Trang Web Đại sứ quán Hàn Quốc http://www.hanquocngaynay.com - Winkipedia: http://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_H%C3%A0n_Qu%E1%BB%9 1c Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 3
41