intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận:Quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam – Trung Quốc từ năm 1991 đến nay

Chia sẻ: Bcjxc Gdfgf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

129
lượt xem
34
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá đang trở thành xu thế tất yếu trong giai đoạn hiện nay. Với Việt Nam, hội nhập quốc tế, trước hết và chủ yếu trên bình diện kinh tế, là một nội dung quan trọng trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hướng tới việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận:Quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam – Trung Quốc từ năm 1991 đến nay

  1. HỌC VIỆN NGOẠI GIAO KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO TIỂU LUẬN MÔN: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI Đề tài: Quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam – Trung Quốc từ năm 1991 đến nay. Hà Nội, 4/2009 LỜI NÓI ĐẦU
  2. Xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá đang trở thành xu thế tất yếu trong giai đoạn hiện nay. Với Việt Nam, hội nhập quốc tế, trước hết và chủ yếu trên bình diện kinh tế, là một nội dung quan trọng trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hướng tới việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng nước nhà. Việt Nam chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế với các nước trong khu vực và với nhiều nước trên thế giới. Và quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam – Trung Quốc cũng là một trong số đó. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông”. Quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp giữa hai nước và nhân dân hai nước đã hình thành từ lâu và vẫn tiếp tục được duy trì, phát huy sau khi hai nước ch ính thức bình thường hoá vào tháng 11/1991. Sự kiện này đã mở ra một giai đoạn phát triển mới trong quan hệ giữa hai nước nói chung và quan hệ về kinh tế, thương mại nói riêng. Chính bởi sự phát triển mạnh mẽ trong quan hệ kinh tế giữa hai nước là lý do để tôi chọn cho mình đề tài tiều luận: “Quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam – Trung Quốc từ năm 1991 đến nay”. Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiều, tôi nhận thấy, quan hệ kinh tế giữa hai nước chủ yếu được xem xét dưới các khía cạnh như: xuất nhập khẩu, cán cân thương mại…mà ít đề cập đến quan hệ đầu tư. Bởi vậy, tôi tự đặt cho mình câu hỏi nghiên cứu: Liệu quan hệ đầu tư Việt – Trung đã được quan tâm đúng mức chưa và quan hệ ấy có tác động như thế nào đến Việt Nam? Với việc tổng hợp ý kiến từ một số nguồn tài liệu như: “Chính sách đối ngoại rộng mở của Việt Nam và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc”( Đỗ Tiến Sâm và Furuta Motoo), Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc…, cùng với ý kiến của cá nhân, tôi hy vọng rằng sau quá trình phân tích, bài tiểu luận sẽ phần nào trả lời được cho câu hỏi trên. NỘI DUNG CHÍNH
  3. I. Bối cảnh chung ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc từ sau năm 1991. 1. Tình hình thế giới Sau sự kiện Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, thế giới bước vào một giai đoạn mới, chiến tranh lạnh kết thúc, hoà bình và đối thoại thay thế cho chiến tranh và đối đầu. Hoà bình và phát triển trở thành trào lưu chính của thời đại. Đồng thời, xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế đang dần trở thành một xu thế tất yếu trong tiến trình hội nhập quốc tế, có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển và ổn định của một quốc gia. 2. Tình hình khu vực Asean nói riêng và Châu Á nói chung đều đang từng bước khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế. Với việc tăng cường mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế với bên ngoài, đẩy mạnh hợp tác, giao lưu đối thoại, Asean đang có những bước tiến vững chắc. Đặc biệt, việc Asean – Trung Quốc đi đến thoả thuận việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do hai bên (ACFTA) đã mang lại những hiệu quả thiết thực thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam – Trung Quốc. 3. Tình hình hai nước Phải nói rằng, sự kiện vào tháng 11 năm 1991 đã đưa quan hệ Việt – Trung bước sang một trang sử mới theo tinh thần “khép lại quá khứ, mở ra tương lai”1. Từ đó đến nay, quan hệ giữa hai nước đã không ngừng mở rộng và phát triển trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá…và ngày càng đi vào chiều sâu. Từ khi bình thường hóa quan hệ hai nước năm 1991, trên cơ sở những nguyên tắc được ghi nhận trong các " Thông cáo chung" năm 1991, năm 1992, năm 1994, năm 1995 và " Tuyên bố chung" năm 1999 nhân các cuộc gặp giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, quan hệ hữu nghị truyền thống, tin cậy lẫn nhau, bình 1 Nguyễn Đình Bin - Thứ trưởng Bộ Ngoại giao
  4. đẳng, cùng có lợi giữa hai nước đã phát triển nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực, giao lưu giữa các ngành, các cấp diễn ra thường xuyên. Đặc biệt trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu (2/1999), lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhất trí xây dựng quan hệ hai nước theo khuôn khổ mới hướng tới thế kỷ 21 là 16 chữ: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và 4 tốt “anh em tốt, đồng chí tốt, bạn bè tốt, láng giềng tốt”. Trên cơ sở quan hê chính trị tốt đẹp, quan hệ kinh tế - thương mại Việt – Trung cũng đã có bước phát triển đáng kể qua việc hai nước đã ký kết Hiệp định thương mại vào ngày 7/11/1999. Đến nay, hai nước đã ký hơn 20 văn kiện hợp tác như: Hiệp định về tránh đánh thuế hai lần; Hiệp định về việc bảo đảm và chứng nhận chất lượng hàng hoá; Hiệp định về mậu dịch biên giới…2 II. Chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam Ngay từ khi mới giành được độc lập từ tay thực dân Pháp, chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã có chủ trương mở cửa kinh tế. Trong thư gửi Liên Hợp Quốc năm 1946, Hồ Chủ tịch đã viết: “Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực…Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, các nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình…”. Có thể thấy, chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của ta đã “nhen nhúm” từ lâu, trong đó chính sách về thu hút đầu tư nước ngoài cũng được coi trọng. Trên tinh thân kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế mà Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, đã dẫn đến sự chuyển biến 2 Kỷ yếu hội thảo: “50 năm quan hệ Việt – Trung”, HVQHQT, Hà Nội 1/2000.
  5. trong tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu nội tại của đất nước, phù hợp với xu thế khách quan của thời đại. Nghị quyết 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã nêu rõ phương châm hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: “Trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài”, trong đó những biện pháp quan trọng hàng đầu là tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư nước ngoài, “tích cực và chủ động thâm nhập mở rộng thị trường quốc tế”. Chủ động hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung quan trọng trong đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Trong tiến trình hội nhập này, Việt Nam đặt ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiến cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Và hàng loạt các nội dung liên quan đến việc đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài đã được thể hiện trong các Văn kiện của Đảng như: “song song với việc khai thác các nguồn lực trong nước, cần tạo các điều kiện để thu hút nhiều hơn và có hiệu quả hơn vốn và công nghệ bên ngoài. Thực hiện các chính sách rộng rãi để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài”3; “thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài, cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hoá các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh quan trọng”4 hay như chính sách “tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”5. Trên cơ sở đó, trong quan hệ kinh tế - thương mại với Trung Quốc, hai nước cũng đặt ra chính sách đầu tư hợp lý, cụ thể là: “…khuyến khích và ủng hộ 3 Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII 4 Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX 5 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
  6. các doanh nghiệp hai bên triển khai các dự án hợp tác lớn, mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai bên. Tạo dựng môi trường kinh doanh tốt đẹp, không ngừng khai thác tiềm năng, đảm bảo mậu dịch giữa hai bên tăng trưởng ổn định, liên tục, duy trì chính sách đầu tư ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư giữa các doanh nghiệp của hai bên…”6. Có thể nói, chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và chính sách về đầu tư nói riêng của Việt Nam được thể hiện khá đầy đủ. Căn cứ vào những chính sách đó, ta sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về quan hệ đầu tư Việt Nam – Trung Quốc kể từ sau khi bình thường hoá đến nay. III. Quan hệ đầu tư Việt Nam – Trung Quốc từ sau 1991 đến nay. Kể từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay, hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam – Trung Quốc đã có bước phát triển trên nhiều góc độ khác nhau, trong đó bao gồm cả quan hệ đầu tư. Đây được coi là một nội dung mới trong hợp tác kinh tế Việt Nam – Trung Quốc. Bởi trước khi bình thường hoá, hai nước chưa có quan hệ đầu tư với nhau. Các công trình của Trung Quốc ở Việt Nam trong giai đoạn những năm 50-70 thế kỷ XX, chủ yếu là dưới hình thức viện trợ kinh tế, giúp Việt Nam xây dựng công trình, nhà máy thiết yếu phục vụ cho sản xuất ở miền Bắc. Nhưng kể từ sau năm 1991, quan hệ đầu tư giữa hai nước đã thực sự bắt đầu. Dự án đầu tư đầu tiên của Trung Quốc vào Việt Nam là dự án Nhà hàng “Hoa Long” tại phố Hàng Trống, Hà Nội ngày 25/11/1991 với vốn đầu tư 200.000USD. Đây là dự án đánh dấu sự hợp tác kinh tế mới giữa hai nước, đồng thời nó cũng là cơ sở vững chắc để thúc đẩy quan hệ đầu tư nói riêng và quan hệ kinh tế nói chung giữa hai nước ngày một “đơm hoa kết trái”. Để tăng cường hợp tác cũng như bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho các nhà đầu tư, chính phủ hai nước đã chính thức ký kết “Hiệp định khuyến khích và bảo 6 Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Công hòa nhân dân Trung Hoa (12/2000)
  7. hộ đầu tư lẫn nhau” (2/12/1992). Từ đó đến nay, đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đã có nhiều thay đổi về số lượng, hình thức và phương thức đầu tư. Tuy nhiên, quan hệ đầu tư giữa hai bên chủ yếu thường nghiêng về các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tính đến ngày 20/4/2006, Việt Nam chỉ có một dự án đầu tư vào Trung Quốc với tổng vốn đầu tư là 1.880.000 USD. Tại sao lại có sự chênh lệch quá lớn như vậy? Có thể đó là do chính sách đổi mới, thu nhập đầu người, khả năng sản xuất, trình độ kỹ thuật, công nghệ của Việt Nam thấp hơn Trung Quốc. Mặc dù Đảng ta cũng đưa ra chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư ra nước ngoài để mở rộng thị trường, song tiềm lực chưa cho phép nên Việt Nam vẫn nhận đầu tư từ Trung Quốc là chủ yếu. Do đó, bài tiểu luận chỉ tập trung phân tích tình hình đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam. 1. Tại sao Trung Quốc lại muốn đầu tư vào Việt Nam? Trước hết, Việt Nam là nước có vị trí địa lý vô cùng thuân lợi, phía Đông giáp biển, phía Bắc giáp Trung Quốc, nằm ở vị trí trung tâm châu Á - Thái Bình Dương trên các tuyến đường hàng không và hàng hải quốc tế, có nền kinh tế phát triển nhanh chóng và ổn định. Hơn nữa, Việt Nam còn có vị trí địa kinh tế rất đặc biệt: là “cầu nối” Đông Nam Á với Đông Bắc Á nói chung, Asean với Trung Quốc nói riêng; có đường bờ biển dài 2500 km với nhiều cảng nước sâu vào loại bậc nhất ở Đông Nam Á, với nhiều thành phố công nghiệp lớn nối tiếp nhau dọc theo bờ biển.7 Ngoài ra, Việt Nam còn có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, với thị trường trên 85 triệu dân kết nối chặt chẽ với thị trường khu vực ASEAN rộng lớn. Lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công của Việt Nam thấp hơn Trung Quốc khoảng 25-30% cũng là một trong những lợi thế để Việt Nam thu hút đầu tư của nước ngoài. 7 PGS.TS Lê Văn Sang, “Nâng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Trung Quốc lên tầm cao mới”, Kỷ yếu hội thảo: Việt Nam – Trung Quốc tăng cường hợp tác cùng nhau phát triển hướng tới tương lai, tr.262.
  8. Do Chính sách của Đảng và Nhà nước ta là chủ trương nhất quán coi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế Việt Nam nên Việt Nam thường xuyên áp dụng các chính sách ưu đãi đầu tư, các giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư như: ban hành Luật đầu tư nước ngoài tạo cơ sở pháp lý vững chắc khuyến khích đầu tư nước ngoài; mở rộng ưu đãi cho nhà đầu tư, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực xuất khẩu, nông sản, công nghệ cao; cải tiến thủ tục đầu tư, nhất là các thủ tục sau khi cấp phép đầu tư.8 Có thể nói, môi trường đầu tư ở Việt Nam ngày càng trở nên thông thoáng, hấp dẫn các nhà đầu tư, trong đó có các doanh nghiệp Trung Quốc. Bên cạnh đó, chính môi trường chính trị, xã hội ổn định là lý do “lôi kéo” nhà đầu tư Trung Quốc đến với Việt Nam nhiều hơn. Không chỉ có vậy, Trung Quốc ngày càng tập trung đầu tư vào Việt Nam cũng một phần xuất phát từ chính sách “đi ra ngoài”, góp phần làm “giảm nhiệt” mức độ tăng trưởng kinh tế quá nhanh của Trung Quốc. Như vậy, với những ưu thế trên, Việt Nam sẽ là thị trường đầu tư và thương mại tiềm năng, là điểm dừng chân thích hợp đầu tiên cho các nhà đầu tư Trung Quốc trên chặng đường phát triển mạng lưới kinh doanh toàn cầu. 2. Đặc điểm đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam. a. Quy mô dự án tăng chậm Giai đoạn đầu sau khi bình thường hoá, với chính sách “thực hiện “đi ra bên ngoài” là một phương pháp quan trọng trong giai đoạn mở cửa, thúc đẩy và nâng đỡ các xí nghiệp có ưu thế nhất định đầu tư ra nước ngoài…”9, các doanh nghiệp Trung Quốc đã tích cực đầu tư vào Việt Nam song quy mô dự án cũng như vốn 8 TS. Đỗ Tiến Sâm và GS.Furuta Motoo, “Chính sách mở cửa hội nhập quốc tế và sự tác động của nó đến sự phát triển và ổn định của Việt Nam” 9 GS.Liêu Thiếu Liêm, “Công tác đối ngoại của Trung Quốc đầu thế kỷ mới”, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc 2/2003, tr.43.
  9. đầu tư còn tương đối nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của hai nước. Số công trình đầu tư dưới 1 triệu USD/công trình chiếm 60%, chủ yếu tập trung vào những ngành khách sạn, ăn uống, chế tạo kính…Nếu ta thử đặt một phép so sánh với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 1988- 1999, số lượng vốn đăng ký quy mô dự án bình quân là 13.4 triệu USD/dự án, thì có thể thấy bình quân vốn đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc còn có khoảng cách xa so với vốn đầu tư bình quân của một dự án nước ngoài vào Việt Nam trong thời điểm trên. Tuy nhiên, chỉ trong một thời gian ngắn, cùng với những thay đổi về ngành nghề đầu tư, năng lực của các nhà đầu tư Trung Quốc, vốn đầu tư bình quân mỗi dự án đã tăng lên khoảng 2 triệu USD. Nhưng tỷ lệ trên vẫn còn thấp so với mặt bằng đầu tư chung của các nước khác vào Việt Nam. Không chỉ thế, thời gian của các dự án đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam thường chỉ trong khoảng 20 năm. Tại sao quy mô các dự án của Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam lại tăng chậm như vậy. Để lý giải cho điều này, ta chỉ có thể căn cứ vào tình hình thực tế của cả hai nước. Cả Trung Quốc và Việt Nam đều theo mô hình quản lý kinh tế cũ, mới chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường. Do vậy, nhiều doanh nghiệp của hai nước còn gặp khó khăn về vốn, thiếu kinh nghiệm đầu tư ở nước ngoài. Hơn thế, do Trung Quốc cũng là một nước đang phát triển như Việt Nam, mức sống, thu nhập đầu người không cao, cũng là một nước cần thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài để xây dựng và phát triển đất nước nên làm sao có thể đủ tiềm lực đầu tư nhiều, nhanh và mạnh cho Việt Nam. Bên cạnh đó, sự liên tục thay đổi các chính sách đầu tư, luật đầu tư của Việt Nam khiến cho các nhà đầu tư Trung Quốc chưa thực sự yên tâm khi đầu tư vào đây. Nói tóm lại, các doanh nghiệp Trung Quốc đã quán triệt chính sách đối ngoại của Đảng khi từng bước mở rộng đầu tư vào Việt Nam song quy mô của những dự án đầu tư vẫn tăng chậm so với nhịp độ chung. b. Tốc độ vốn đầu tư tăng nhưng không có nhiều đột phá
  10. Đặc điểm đầu tư này của Trung Quốc thể hiện ở dòng chày vốn đầu tư vào Việt Nam. Trong 10 năm đầu kể từ khi bình thường hoá, tổng số vốn đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Trung Quốc là 120 triệu USD, chiếm khoảng 0.36% tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Tuy không có sự đột phá về vốn đầu tư nhưng việc đầu tư của Trung Quốc trong giai đoạn này đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hơn 1.550 lao động Việt Nam, đã xuất hiện những dự án đầu tư hoạt động thực sự đạt hiệu quả cao như: Công ty liên doanh khai thác kinh doanh khu chế xuất Sài Gòn – Linh Trung (TP. Hồ Chí Minh), nhà máy thép Hải Phòng… Sang đến giai đoạn những năm đầu thế kỷ 21, đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc đã bắt đầu có những nét khởi sắc. Tốc độ đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam giai đoạn này đã tăng nhanh, trong vòng ba năm vốn đầu tư đã tăng gấp đôi. Chỉ trong vòng sáu năm, từ năm 2002 đến năm 2006, vốn đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc vào Việt Nam từ hơn 100 triệu đã vươn lên đạt trên 1.1 tỷ USD, đưa Trung Quốc lên đứng ở vị trí thứ 14 trong tổng số các nước và khu vực đầu tư vào Việt Nam.10 Có thể thấy, tốc độ tăng vốn đầu tư của Trung Quốc đã có sự chuyển biến đáng kể vào giai đoạn sau. Tuy nhiên, nếu so sánh với các nước và khu vực khác đầu tư vào Việt Nam thì ta có thể dễ dàng nhận ra, quy mô đầu tư của Trung Quốc vẫn còn khiêm tốn, chưa cho thấy hết khả năng, tiềm lực của các doanh nghiệp Trung Quốc. c. Cơ cấu đầu tư chuyển dần sang công nghiệp nặng Nếu trong 10 năm đầu sau khi bình thường hoá, đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đa số là các sản phẩm tiêu dùng công nghiệp nhẹ như: khách sạn, nhà hàng, in ấn mác bao bì, thực phẩm, sản xuất lắp ráp đồ điện dân dụng, chế biến sản phẩm nông nghiệp, gia công chế biến chè xuất khẩu, sản xuất lắp ráp máy 10 http:// www.vietnamchinalink.com
  11. đếm tiền, sản xuất thức ăn gia súc11…thì bước vào thế kỷ 21 cơ cấu đầu tư của Trung Quốc đã có sự chuyển dịch dần sang đầu tư vào lĩnh vực thăm dò, khai thác mỏ, xây dựng nhà máy luyện mangan, nhôm, gang thép, lĩnh vực công nghiệp, cơ sở hạ tầng… Bên cạnh đó, công nghệ đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc vào Việt Nam đã từng bước được chuyển biến bởi sự xuất hiện mới nhiều doanh nghiệp lớn, trang thiết bị tốt hơn so với trước đây. Tuy nhiên, các thiết bị, máy móc công nghệ đó còn sử dụng kỹ thuật công nghệ, kỹ thuật chưa cao so với các nước phát triển, và những kỹ thuật và công nghệ sản xuất đó “thuộc loại trung bình, không tiên tiến và hiện đại bằng Nhật Bản, các nước tư bản chủ nghĩa Âu - Mỹ và Asean”12. d. Cơ cấu theo hình thức đầu tư Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam chủ yếu theo ba hình thức: đầu tư 100% vốn, liên doanh và kinh doanh hợp tác. Do giai đoạn đầu các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư mang tính chất thăm dò, tìm hiểu thị trường Việt Nam là chính và cũng do Việt Nam “muốn khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn hình thức liên doanh để tạo điều kiện phát triển các đối tác sở tại, đồng thời đưa ra những biện pháp thắt chặt hoặc hạn chế hình thức 100% vốn nước ngoài”13, nên giai đoạn này hai hình thức đầu tư chủ yếu mà Trung Quốc sử dụng là liên doanh và 100% vốn Trung Quốc. Một sự chuyển biến tích cực, một dấu hiệu đáng mừng trong hoạt động đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam, đó là nhiều doanh nghiệp đã tiến hành hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài trong những năm đầu của thế kỷ 21. Có được kết 11 TS.Đỗ Tiến Sâm, “Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc từ khi bình thường hoá năm 1991 đến nay và triển vọng”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc 5/2002, tr.35. 12 http://laocai.gov.vn 13 Nguyễn Thị Hường và Bùi Huy Nhượng, “Những bài học rút ra qua so sánh tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc và Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, tr.19.
  12. quả đó là vì đến giai đoạn này, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đã muốn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu thị trường Việt Nam, qua đó muốn mở rộng doanh nghiệp và uy tín của mình tại Việt Nam. Phải nói rằng, đây là bước phát triển phù hợp với bước đi đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam, đồng thời nó cũng cho thấy đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đã có những bước chuyển biến mới. e. Địa bàn đầu tư từng bước được mở rộng Việc phân bổ vốn đầu tư tới các địa phương ở Việt Nam cũng có sự khác biệt giữa hai giai đoạn. Những năm 90 của thế kỷ 20, các dự án của Trung Quốc chủ yếu tập trung ở các tỉnh, thành phố tương đối phát triển, thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá và có nhiều người Hoa sinh sống, như: Hà Nội, Hải Phòng, Hoà Bình, Lạng Sơn, Đà Nẵng, TP.Hồ Chí Minh…Còn đến giai đoạn những năm đầu thế kỷ 21, Trung Quốc đã đầu từ vào 49/64 tỉnh, thành của Việt Nam, đã chủ động đầu tư vào những khu vực có điều kiện, khả năng phát triển như các tỉnh biên giới phía Bắc: Lào Cai, Quảng Ninh. Sự đầu tư này đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi để những nơi này khai thác tốt các nguồn tài nguyên sẵn có, giải quyết tốt số lượng lao động dư thừa, tăng cường xây dựng và phát triển địa phương. Qua năm đặc điểm về thực trạng tình hình đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc ở Việt Nam, ta có thể thấy được phần nào mức độ đầu tư của Trung Quốc chưa tương xứng với quan hệ giữa hai nước. Nhìn chung, số dự án, số vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam vẫn đang tiếp tục tăng nhưng chỉ giữ ở trạng thái bình ổn, không có sự đột phá, chuyển ngoặt. Tuy nhiên, ta không thể nào phủ nhận hoàn toàn những ích lợi mà đầu tư từ “người bạn láng giềng” Trung Quốc đã mang đến cho Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. IV. Đánh giá
  13. 1. Tác động của đầu tư từ Trung Quốc đối với Việt Nam a. Tác động tích cực Trước hết, đầu tư của Trung Quốc góp phần vào quá trình phát triển và tăng trưởng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng và cả nền kinh tế Việt Nam nói chung. Việc nhận nguồn vốn đầu tư từ phía Trung Quốc đã giúp Việt Nam tăng tổng lượng vốn đầu tư lên tới 70 tỷ USD, chiếm tới 30% tổng nguồn vốn đầu tư xã hội. Đầu tư của Trung Quốc đã góp phần thúc đẩy khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không ngừng phát triển và trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Khu vực đầu tư nước ngoài đã tạo ra khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu, đóng góp gần 20% GDP của cả nước. Thứ hai, đầu tư của Trung Quốc ngày càng đa dạng về lĩnh vực đầu tư góp phần làm đa dạng hoá các sản phẩm, mặt hàng trên thị trường Việt Nam, đồng thời cũng giúp ta có cơ hội mở rộng được thị trường, quảng bá sản phẩm của mình ra bên ngoài. Đồng thời, sự có mặt của các nhà đầu tư Trung Quốc khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam chịu sức ép cạnh tranh cao. Do đó, các doanh nghiệp trong nước càng cần phải nỗ lực hơn, đẩy nhanh sản xuất, do đó sản phẩm của họ được nâng cao cả về chất lượng lẫn số lượng nhằm đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường trong nước và quốc tế. Ngoài ra, việc Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam còn tạo cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam tranh thủ học tập kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm kinh doanh của nước bạn để từ đó phát triển doanh nghiệp của mình. Quan hệ đầu tư nói riêng và quan hệ kinh tế – thương mại nói chung phát triển thuận lợi như vậy sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ chính tri vốn có giữa hai nước càng trở nên gắn bó hơn, khăng khít hơn. Đồng thời, việc đầu tư này cũng góp phần cải thiện đáng kể đời sống nhân dân trong nước bởi các dự án đầu tư của Trung Quốc đã tạo việc làm cho khoảng 11.000 lao động trực tiếp và hàng
  14. vạn lao động gián tiếp khác, đóng góp cho ngân sách Nhà nước gần 800 triệu USD. Việc các doanh nghiệp Trung Quốc dần dần tiếp cận, đầu tư cho những vùng còn nhiều khó khăn ở Việt Nam sẽ giúp giải quyết số lượng lớn công ăn việc làm cho lao động ở đây, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nước. b. Tác động tiêu cực Bên cạnh những mặt tích cực dễ nhận thấy đó, đầu tư của Trung Quốc cũng đem đến những tác động tiêu cực cho Việt Nam. Về kinh tế, khi đã chấp nhận nguồn vốn đầu tư của Trung Quốc cũng đồng nghĩa với việc ta đã chuẩn bị tư thế sẵn sàng chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt. Nếu thử làm phép so sánh, ta sẽ dễ dàng thấy được doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn bất lợi so với doanh nghiệp Trung Quốc cả về chính sách đổi mới, thu nhập đầu người, khả năng sản xuất, trình độ kỹ thuật, vốn, công nghệ…Bởi vậy, các danh nghiệp trong nước khó có thể trụ vững trước sức ép cạnh tranh lớn như vậy. Hơn nữa, do cơ cấu đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam chủ yếu vẫn là những sản phẩm công nghiệp nhẹ, phục vụ tiêu dùng càng tạo nên sự cạnh tranh gay gắt bởi phần lớn doanh nghiệp Việt Nam cũng chỉ đang tập trung phát triển vào những ngành này. Do đó, trong cuộc chiến giành thị phần này, bên thua sẽ là Việt Nam và các doanh nghiệp không đững vững nổi có khi còn bị phá sản. Điều này cũng dẫn đến tỷ lệ người thất nghiệp gia tăng. Ngoài ra, bất lợi về kinh tế cũng kéo theo bất lợi về mặt an ninh chính trị. Việc cho phép các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc ít nhiều ta cũng bị phụ thuộc vào họ. Sự phụ thuộc về đầu tư, về kinh tế càng lớn thì nguy cơ phụ thuộc về chính trị càng cao. Mà đó là điều Việt Nam không hề mong muốn bởi chính sách kinh tế đối ngoại của ta đã chỉ rõ rằng: “…nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”14. 14 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX
  15. Mặt khác, các doanh nghiệp Trung Quốc chủ yếu đầu tư vào các ngành công nghiệp nhẹ cần ít vốn song cũng cần nhiều tài nguyên như đất đai, nguồn nước…nên rất dễ gây ra tình trạng nguồn tài nguyên của Việt Nam ngày càng cạn kiệt và nguy cơ ô nhiễm môi trường sinh thái là rất cao, ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của người dân ở những khu vực có dự án đầu tư. Nhìn một cách toàn diện, đầu tư từ phía Trung Quốc đã mang lại rất nhiều lợi ích và giải quyết được nhiều vấn đề khó khăn cho Việt Nam. Tuy nhiên, những bất lợi cũng cần phải đặc biệt chú ý để có hướng khắc phục tốt nhất. 2. Triển vọng quan hệ đầu tư Việt Nam - Trung Quốc Trong bối cảnh xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá, hội nhập kinh tế vẫn đang tiếp tục diễn ra, quan hệ kinh tế – thương mại nói chung và quan hệ đầu tư Việt Nam – Trung Quốc nói riêng vẫn khẳng định được vị trí của mình trên trường quốc tế. Cả hai nước đều đã tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, Khu vực mậu dịch tự do ACFTA đã được hình thành…đã trở thành những yếu tố có tác động tích cực đến việc phát triển hơn nữa mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa hai nước, khi đó thị trường của cả hai nước sẽ nâng cao trình độ hội nhập vào thị trường quốc tế và khu vực. Với những tiềm năng vốn có và những nỗ lực, cố gắng của cả hai nước, cơ hội mới cho sự phát triển quan hệ hợp tác đầu tư giữa hai nước luôn luôn rộng mở. Và hy vọng rằng đó không chỉ là đầu tư một chiều mà sẽ là sự “song hành”của doanh nghiệp cả hai nước, góp phần đưa nền kinh tế hai nước tiến nhanh, tiến xa và tiến vững chắc hơn nữa. KẾT LUẬN “Bởi vì trời đã sinh ra hai nước chúng ta là láng giềng thì bổn phận của chúng ta phải làm cho quan hệ láng giềng đó hoà bình, hữu nghị, hợp tác hơn”15. 15 PGS.TS Nguyễn Xuân Sơn, Viện trưởng Viện QHQT, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
  16. Quả thật, quan hệ láng giềng hữu nghị Việt Nam – Trung Quốc đã trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt hành trình hợp tác, giao lưu giữa hai nước. Kể từ sau khi bình thường hoá quan hệ đến nay, quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước láng giềng Việt Nam – Trung Quốc có sự phát triển nhanh chóng về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong đó, quan hệ đầu tư tuy chưa phải là quan hệ chủ yếu trong kinh tế hai nước nhưng nó cũng đã góp phần đáng kể vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cả hai nước. Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và phân tích tình hình đầu tư giữa Việt Nam và Trung Quốc, ta có thể khẳng định rằng, quan hệ đầu tư Việt – Trung chưa thực sự tương xứng với mối quan hệ chính trị tốt đẹp giữa hai nước, đồng thời nó cũng chưa thực sự được hai quốc gia đặc biệt quan tâm khi các dự án đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam cả về chất và lượng đều chưa tương xứng với tầm vóc của nền kinh tế Trung Quốc; còn Việt Nam thì chưa thực sự có dự án nào đầu tư đáng kể vào Trung Quốc. Do vậy, ta mới chỉ nhìn được một phía của quan hệ này. Đồng thời, ta cũng phần nào thấy được tác động của việc Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam: cả mặt tích cực, cả mặt tiêu cực. Đây chính là câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu mà tôi đã đưa ra từ phần đầu tiên của bài tiểu luận. Xu hướng toàn cầu hoá vẫn tiếp tục phát triển, quan hệ kinh tế - thương mại Việt – Trung vẫn tiếp tục “đơm hoa kết trái” tạo nền tảng vững chắc để nâng quan hệ giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc lên một tầm cao mới theo phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Tiến Sâm & Furuta Motoo, “Chính sách đối ngoại rộng mở của Việt Nam và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc”, NXB KHXH, Hà Nội 2003. 2. TS Nguyễn Vũ Tùng, “Chính sách đối ngoại Việt Nam 1975-2006”, NXB Thế giới, Hà Nội 2007.
  17. 3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội VII, VIII. IX, X. 4. Kỷ yếu hội thảo, “Việt Nam – Trung Quốc tăng cường hợp tác cùng nhau phát triển hướng tới tương lai”, NXB KHXH, Hà Nội 2003. 5. Kỷ yếu hội thảo khoa học, “50 năm quan hệ Việt – Trung”, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội - 01/2000. 6. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc. 7. Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (12/2000). 8. http:// www.mofa.gov.vn 9. http:// www.vietnamchinalink.com 10. http:// www.laocai.gov.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1