ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------

BỘ MÔN:

TÂM LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

ĐỀ TÀI:

QUAN NIỆM CỦA GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC VỀ MỐI QUAN HỆ PHẨM CHẤT - NĂNG LỰC VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

Giảng viên hướng dẫn:

Ths. LÊ TUYẾT ÁNH

TP. HỒ CHÍ MINH - 2013

DANH SÁCH NHÓM THUYẾT TRÌNH

STT

Họ và tên

SĐT

Email

Đánh giá

1

Lê Thị Ngọc Ánh

01689936077

ngocanhtought@gmail.com

2

Nguyễn Bửu Duy

0996787977

nguyenbuuduy@gmail.com

3

Ngô Thị Tuyết Đông

0987716056

dongtuyetbank@gmail.com

4

Dương Thị Ngọc Dàu

0909468388

duongthingocdau@yahoo.com

5

Nguyễn Như Hùng

0986045659

bienhoaspace@gmail.com

6

Phạm Quốc Huy

01692870989

Huyrua1808@gmail.com

7

Trần Hiếu Huy

01657207520

tranhieuhuy10@gmail.com

8

Nguyễn Đăng Khoa

0988937740

Khoa.teddy@gmail.com

9

Lương Ngọc Lan

01225627515

lgngoclan@gmail.com

10

Nguyễn Thị Xuân Lan

01668366440

Xuanlan1501@yahoo.com.vn

11

Nguyễn Thị Tuyết Lê

01656542269

Nguyenthituyetle.k35@gmail. com

12

0908178456

minhthuy2212@yahoo.com

Nguyễn Thị Minh Thúy

13

Phạm Minh Trang

0933554829

Phantrang829@yahoo.com

14

Lê Thị Kim Tú

0902491954

lekimtu1@gmail.com

1

Mục lục

Lời mở đầu ................................................................................................................... 2

1. Phẩm chất của người giảng viên ............................................................................ 4

1.1. Định nghĩa về phẩm chất của giảng viên ........................................................ 4

1.2. Phân loại phẩm chất của giảng viên ............................................................... 4

1.2.1. Phẩm chất tư tưởng chính trị: ................................................................. 4

1.2.2. Phẩm chất đạo đức: ................................................................................. 5

2. Năng lực của người giảng viên ............................................................................... 8

2.1. Định nghĩa về năng lực của giảng viên: ......................................................... 8

2.2. Phân loại năng lực của giảng viên: ................................................................ 8

2.2.1. Năng lực chung và năng lực riêng: ......................................................... 8

2.2.2. Chức năng của giảng viên : .................................................................... 9

3. Thực trạng về quan niệm phẩm chất và năng lực của giảng viên đại học

ngày nay ..................................................................................................................... 11

3.1. Quan niệm phẩm chất quan trọng hơn năng lực .......................................... 12

3.2. Quan niệm năng lực quan trọng hơn phẩm chất .......................................... 14

4. Giải pháp để nâng cao phẩm chất và năng lực của giảng viên đại học ............ 16

4.1. Giải pháp để nâng cao phẩm chất của giảng viên đại học ........................... 16

4.2. Giải pháp để nâng cao năng lực của giảng viên đại học ............................. 18

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 21

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 22

2

Lời mở đầu

Hồ Chủ Tịch đã từng nói rằng: “Làm việc gì cũng phải có cái tâm và yêu nghề

thì chúng ta mới thành công được”. Để bước lên bục giảng dạy, một người giảng viên

trẻ luôn phải đặt ra cho mình rất nhiều yêu cầu như làm thế nào để học viên thích học,

làm thế nào để truyền đạt phương pháp giảng dạy hiệu quả nhất cho học viên, làm thế

nào để học viên hứng thú với tiết học của mình… Lời dạy của Bác luôn là phương

hướng hành động, là kim chỉ nam để người giảng viên hoàn thành tốt công việc của

mình:

Thứ nhất, mỗi giảng viên, giáo viên thấm nhuần tư tưởng của Người: “Giáo dục

phải tạo ra được những người lao động mới” là người vừa có tài vừa có những phẩm

chất cách mạng, lòng yêu nước, có đạo đức trong sáng, có chí khí hăng hái vươn lên,

không sợ hy sinh gian khổ, dũng cảm, khiêm tốn, thật thà, cần cù, tiết kiệm, giản dị, và

sức khỏe để sẵn sàng đi xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh. Giảng

viên, giáo viên phải có ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân trong các hoạt động giáo

dục, nâng cao ý thức trách nhiệm để hoàn thành tốt nhất công việc của mình là sự thể

hiện rõ nhất việc “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.

Thứ hai, là rèn luyện tài, phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên

môn nghiệp vụ. Bác dạy: “Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được. Không tiến

bộ là thoái bộ. Xã hội ngày càng đi tới, công việc ngày càng nhiều, máy móc ngày càng

tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào

thải mình”.

Thứ ba, là rèn luyện đức, Bác từng nói: “Có tài mà không có đức thì vô dụng, có

đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Người thầy cần có thái độ, tác phong,

ngôn ngữ ứng xử chuẩn mực khi thực hiện giảng dạy và trong lối sống của mình.

Người thầy cần phải có cái tâm trong sáng, thể hiện ở đạo đức và hành vi hết lòng vì

học sinh, tận tâm dạy bảo học sinh, luôn tìm tòi, sáng tạo để tìm ra cách dạy hay nhất.

3

Người thầy phải công bằng, công tâm đối với học viên, không bị “khúc xạ” bởi những

cám dỗ vật chất tầm thường, kiên quyết đấu tranh chống những cái xấu, cái sai trong xã

hội, trong chính bản thân mình và trong đồng sự.

Thứ tư, là rèn luyện tâm, người thầy phải có tâm huyết với nghề. Nghề giáo là

nghề cao quý nhất trong mọi nghề cao quý! Tâm yêu nghề thể hiện ngay trong bài

giảng của mình, trong từng trang giáo án mà người thầy hàng ngày bổ sung kiến thức.

Tâm huyết với nghề còn được đánh dấu và ghi nhận bằng sự sáng tạo của người giáo

viên trong sự nghiệp “trồng người”. Câu khẩu hiệu “Tất cả vì học sinh thân yêu” làm

kim chỉ nam hành động đối với những người làm công tác giáo dục, đào tạo. Hết lòng

trong từng tiết giảng, công tâm trong từng điểm chấm đối với học viên là biểu hiện rõ

nét của ý thức trách nhiệm ở từng giảng viên.

Những điều nêu trên đã thể hiện rõ rằng để làm một người giảng viên vừa có

năng lực vừa có phẩm chất đạo đức tốt không phải là một chuyện dễ dàng, nhất là khi

xã hội ngày này có nhiều thay đổi, bao gồm cả sự tác động tiêu cực của chính nền kinh

tế thị trường đến phẩm chất cũng như là năng lực của giảng viên. Trong năng lực và

phẩm chất luôn tồn tại một mối quan hệ song hành, chúng tương hổ và bổ sung cho

nhau. Nếu có năng lực mà thiếu đi phẩm chất cũng không xứng đáng với tư cách của

một người làm thầy và ngược lại. Vậy quan niệm và thực trạng của giảng viên đại học

ngày nay đối với mối quan hệ này như thế nào và tác động của nó đến nền giáo dục

Việt Nam ra sao? Bài tiểu luận này của nhóm tác giả sẽ đi vào phân tích, đặt vấn đề

cũng như là đưa ra các đề xuất, biện pháp để góp phần giải quyết những mâu thuẫn tồn

đọng, góp phần xây dựng một đội ngũ giảng viên có năng lực và phẩm chất, đáp ứng

yêu cầu của một nền giáo dục tiên tiến, vững mạnh.

4

1. Phẩm chất của người giảng viên

1.1. Định nghĩa về phẩm chất của giảng viên

Phẩm chất là những biểu hiện bản chất đạo đức của con người đã được rèn

luyện trong cuộc sống, tạo thành nếp sống, nếp nghĩ, nếp hành động vì cộng đồng,

được cộng đồng đánh giá.

Phẩm chất nhà giáo là thế giới quan của họ (hay nói cách khác là phẩm chất

chính trị của nhà giáo), nền tảng định hướng thái độ, hành vi ứng xử của giáo viên. Bên

cạnh đó, phẩm chất, đạo đức, nhân văn của người thầy giáo thể hiện qua lòng thương

yêu con trẻ, thương yêu học trò.

1.2. Phân loại phẩm chất của giảng viên

1.2.1. Phẩm chất tư tưởng chính trị:

A. Thế giới quan khoa học:

Trong phẩm chất nhân cách của người giảng viên, yếu tố trước tiên là thế giới

quan khoa học. Đây là yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách, nó không những

quyết định niểm tin chính trị, mà còn quyết định toàn bộ hành vi cũng như ảnh hưởng

của người dạy đối với người học.

Thế giới quan của giảng viên là thế giới quan duy vật biện chứng bao hàm

những quan điểm duy vật biện chứng về những quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội

và tư duy. Nó chi phối thái độ và cách thức hoạt động của giáo viên đối với việc lưa

chọn nội dung và phương pháp dạy học - giáo dục, việc kết hợp giáo dục và nhiệm vụ

chính trị xã hội, gắn nội dung giảng dạy với thực tiễn cuộc sống cũng như cách nhìn

nhận và đánh giá mọi biểu hiện tâm lý của người. Thế giới quan khoa học không phải

là bản tính tự nhiên của nhà giáo, nó được hình thành trong quá trình học tập của họ và

dưới nhiều ảnh hưởng khác nhau.

5

B. Lý tưởng nghề nghiệp:

Giảng viên không phải là thợ dạy mà là nhà giáo thực thụ. Nhà giáo cũng có

những tiêu chuẩn chung, trước hết họ đều là những người có lý tưởng nghề nghiệp. Lý

tưởng nghề nghiệp của nhà giáo nói chung và giảng viên nói riêng là đem lại hạnh

phúc cho người đi học. Nó là cái hồn, là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách của nhà

giáo.

Lý tưởng nghề nghiệp biểu hiện ở niềm say mê nghề nghiệp, tận tụy hi sinh vì

công việc, cần cù, có trách nhiệm, có lối sống giản dị và thân tình. Lý tưởng nghề

nghiệp không có sẵn mà được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động tích

cực của nhà giáo. Chính trong quá trình đó, nhận thức về nghề ngày càng được nâng

cao, tình cảm nghề nghiệp ngày càng sâu sắc.

1.2.2. Phẩm chất đạo đức:

A. Lòng tin yêu con người và lòng yêu nghề:

Yêu quý và tin yêu con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao quý

của con người, riêng đối với người giảng viên thì đây là phẩm chất đặc trưng trong

nhân cách của họ. Có phẩm chất đặc trưng này, người giảng viên sẽ nhận ra đúng

những ưu điểm và hạn chế của người học để từ đó có những biện pháp dạy học và giáo

dục phù hợp.

Lòng tin yêu con người và lòng yêu nghề của nhà giáo được biểu hiện ờ những

điểm cơ bản sau:

- Say sưa làm viêc hết mình, khi cần sẵng sàng hi sinh cả lợi ích cá nhân cho công

việc dạy học và giáo dục.

- Có những biện pháp cụ thể để khắc phục khó khăn, quyết tâm thực hiện bằng

được kế hoạch đề ra.

6

- Gần gũi, yêu thương quan tâm đối với những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn và

tin tưởng vào khả năng và sự tiến bộ của họ.

- Nhà giáo luôn học tập tu dưỡng để nâng cao trình độ giáo dục của mình.

B. Đạo đức lối sống:

Nhà giáo tác động đến người học không những bằng những hành động trực tiếp

của mình mà còn bằng sự mẫu mực, bằng thái độ và hành vi của chính mình đối với thế

giới xung quanh. Để làm được đều đó, nhà giáo phải biết lấy các quy luật khách quan

là chuẩn mực cho mọi tác động sư phạm của mình, mặt khác phải có những phẩm chất

đạo đức và phẩm chất ý chí cần thiết. Những phẩm chất đạo đức và những phẩm chất ý

chí đó là tinh thần nghĩa vụ, tinh thần nhân đạo, lòng tôn trọng con người, thái độ công

bằng, tính ngay thẳng, giản dị, khiêm tốn; tính mục đích, tính nguyên tắc, tính kiên

nhẫn, tính tự kiềm chế, biết chiến thắng thói hư tật xấu; kỹ năng điều kiển tình cảm,

tâm trạng của bản thân cho phù hợp với tình huống sư phạm.

Trong thời đại mới, một số phẩm chất nhân cách dưới đây không những cần

thiết đối với giảng viên mà còn cần được hình thành từ người học:

- Lý tưởng nghề nghiệp

- Tính trung thực trong cuộc sống và trong hoạt động nghề nghiệp

- Lòng tin, trước hết tin vào đạo học và tin vào chính mình.

Muốn xây dựng được nhân cách cho người học, người thầy trước hết phải có

phẩm chất đạo đức thể hiện ở thái độ, tác phong chuẩn mực khi thực hiện giảng dạy và

trong lối sống, trở thành tấm gương, vừa là người thầy, vừa là người cán bộ ưu tú,

chuẩn mực cho người học noi theo.

Cái phẩm chất của người thầy thể hiện ở sự hi sinh vô tư “tất cả vì học sinh thân

yêu”, giúp đỡ người học một cách chân thành, không vì vụ lợi, không phân biệt đối xử,

giúp đỡ trong hỗ trợ kiến thức phải đến nơi đến chốn; giúp đỡ không có nghĩa là cho

7

điểm cao, dễ dãi đối với người học trong học tập. Phẩm chất ấy còn được biểu hiện ở

sự kiên quyết đấu tranh chống những cái xấu, cái sai trong xã hội, trong chính bản thân

mình và trong đồng sự.

Dựa trên cơ sở tiêu chuẩn của Harry Murray ở đại học Western Ontario, một giáo

viên có phẩm chất tốt thường có những biểu hiện của các hành vi đặc trưng như sau:

(1) Nhiệt tình :

- Sử dụng cử chỉ, điệu bộ để thu hút sự chú ý và hứng thú của học sinh

- Nói có hồn và diễn cảm

- Đi lại hoặc cử động trong khi giảng

- Có điệu bộ (bàn tay, cánh tay) thích hợp, không kể những cử chỉ, điệu bộ

do thói quen cá nhân làm xao lãng sự tập trung của học sinh

- Duy trì sự giao tiếp bằng mắt với học sinh

- Đi lại trong lớp

- Không đọc lại bài giảng y nguyên như trong tài liệu, giáo trình

- Mỉm cười trong khi giảng

(2) Quan hệ

- Gọi tên học sinh khi hỏi, trao đổi

- Thông báo những dịp trao đổi ngoài giờ học

- Sẵn sàng giúp đỡ học sinh khi có vướng mắc

- Chấp nhận những quan điểm khác biệt

- Trò chuyện với học sinh trước hoặc sau giờ học

8

- Chấp nhận sự đa dạng ở học sinh cũng như sự đa dạng về đặc điểm văn hoá

của họ

(3) Lãnh đạo

- Thái độ công dân gương mẫu, là người thận trọng và tôn trọng sự đa dạng

(trong văn hoá)

- Mẫu mực và yêu cầu học viên có thái độ thích hợp cho việc dạy và học

- Mẫu mực trong cách tiếp cận các ý tưởng, khái niệm và tài liệu

- Đưa ra những đòi hỏi phù hợp với tất cả các mức năng lực của người học

- Thể hiện sự tôn trọng đối với tính đa dạng và yêu cầu lớp học cũng có một

thái độ tương tự

2. Năng lực của người giảng viên

2.1. Định nghĩa về năng lực của giảng viên:

Năng lực là tổng hợp các khả năng của giảng viên trong các lĩnh vực hoạt động

chuyên môn bao gồm giảng dạy và nghiên cứu.

2.2. Phân loại năng lực của giảng viên:

2.2.1. Năng lực chung và năng lực riêng:

Năng lực chung là loại năng lực mà bất kì ai làm việc cũng phải có mới đạt kết

quả tốt đẹp như năng lực sáng tạo, năng lực tự học, năng lực giao tiếp, năng lực hợp

tác…

Năng lực riêng hay gọi là năng lực sư phạm là loại năng lực chuyên biệt bao

gồm năng lực tìm hiểu sinh viên và môi trường giáo dục, năng lực giáo dục nhân cách,

năng lực đánh giá kết quả giáo dục, năng lực phát triển nghề nghiệp, năng lực kết hợp

giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội. Và các kĩ năng bao gồm kĩ năng tổ chức lớp

9

học, soạn giáo án cụ thể như: kĩ năng tạo tình huống có vấn đề, kĩ năng thuyết trình

khúc chiết – mạch lạc – hấp dẫn – lí thú, kĩ năng đặt câu hỏi, ra bài tập đúng lúc, đúng

chỗ, đúng trọng tâm, đúng bản chất sáng tạo và thiết thực, kĩ năng trình bày bảng logic,

trực quan, kĩ năng sử dụng thiết bị dạy học.

Năng lực sư phạm liên quan chặt chẽ với năng lực chung. Năng lực sư phạm

được thể hiện rõ ở người giáo viên như: phẩm chất trí tuệ (quan sát, sáng tạo), phẩm

chất ngôn ngữ (thuyết phục, nghiêm túc, logic), phẩm chất tưởng tượng là khả năng đặt

mình vào vị trí học sinh và hiểu họ.

Những giáo viên có kinh nghiệm và thâm niên công tác nhiều năm, có trình độ

đại học sư phạm thì vẫn có thể thiếu năng lực cần thiết. Thâm niên công tác không thể

hiện trình độ cao của tay nghề sư phạm mà muốn nắm vững tay nghề sư phạm thì phải

có năng lực sư phạm.

Như vậy, giảng viên phải có tài năng chung biểu hiện trong các năng lực chung

cũng như các năng lực riêng, thể hiện ở đặc điểm ngôn ngữ tư duy, tưởng tượng; biểu

hiện trong các nét ý chí, tính cách của ngừơi giáo viên và bị lôi cuốn bới các hoạt động

chuyên môn khác.

2.2.2. Chức năng của giảng viên :

Hiện nay ở các trường đại học lớn ở các quốc gia phát triển, giảng viên đại học

được định nghĩa trong ba chức năng chính: Nhà giáo, Nhà khoa học, và Nhà cung ứng

dịch vụ cho cộng đồng.

A. Giảng viên là nhà giáo:

Đây là vai trò truyền thống, nhưng quan trọng và tiên quyết đối với một giảng

viên. Một giảng viên giỏi trước hết phải là một người Thầy giỏi. Thế nào là một người

thầy giỏi? Đó là một người uyên bác về kiến thức chuyên ngành mà mình giảng dạy? –

Đúng nhưng chưa đủ, uyên bác về kiến thức chuyên môn mới chỉ là điều kiện cần, chứ

10

chưa phải điều kiện đủ cho một thầy giáo giỏi. Theo các nhà giáo dục thế giới thì một

giảng viên tòan diện là người có (được trang bị) 4 nhóm kiến thức/ kỹ năng sau:

- Kiến thức chuyên ngành: Kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành và

chuyên môn học mà mình giảng dạy.

- Kiến thức về chương trình đào tạo: Tuy mỗi giảng viên đều đi chuyên

về một chuyên ngành nhất định, nhưng để đảm bảo tính liên thông, gắn

kết giữa các môn học thì giảng viên phải được trang bị (hoặc tự trang bị)

các kiến thức về cả chương trình giảng dạy.

- Kiến thức và kỹ năng về dạy và học: bao gồm khối kiến thức về

phương pháp luận, kỹ thuật dạy và học nói chung và dạy / học trong từng

chuyên ngành cụ thể.

- Kiến thức về môi trường giáo dục, hệ thống giáo dục, mục tiêu giáo

dục, giá trị giáo dục… Đây có thể coi là khối kiến thức cơ bản nhất làm

nền tảng cho các hoạt động dạy và học.

B. Giảng viên là nhà khoa học:

Ở vai trò thứ hai này, giảng viên thực hiện vai trò nhà khoa học với chức năng

giải thích và dự báo các vấn đề của tự nhiên và xã hội mà loài người và khoa học chưa

có lời giải.

Ba chức năng chính của một nhà khoa học bao gồm : Nghiên cứu khoa học, tìm

cách ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học về thực tiễn đời sống và công bố các

kết quả nghiên cứu cho cộng đồng (cộng đồng khoa học, xã hội nói chung, trong nước

và quốc tế). Trong vai trò nhà khoa học, giảng viên đại học không chỉ phải nắm vững

kiến thức chuyên môn, phương pháp nghiên cứu mà còn phải có kỹ năng viết báo khoa

học.

C. Giảng viên là nhà cung ứng dịch vụ cho xã hội:

11

Đây là một vai trò mà rất nhiều giảng viên đại học Việt Nam đang thực hiện –

nó cũng là một vai trò mà xã hội đánh giá cao và kỳ vọng ở các giảng viên. Ở vai trò

này, giảng viên cung ứng các dịch vụ của mình cho nhà trường, cho sinh viên, cho các

tổ chức xã hội – đoàn thể, cho cộng đồng và cho xã hội nói chung. Cụ thể đối với nhà

trường và sinh viên, một giảng viên cần thực hiện các dịch vụ như tham gia công tác

quản lý, công việc hành chính, tham gia tổ chức xã hội, cố vấn cho sinh viên, liên hệ

thực tập, tìm chỗ làm cho sinh viên… Với ngành của mình, giảng viên làm phản biện

cho các tạp chí khoa học, tham dự về tổ chức hội thảo khoa học.

Đối với cộng đồng, giảng viên trong vai trò của một chuyên gia cũng thực hiện

các dịch vụ như tư vấn, cung cấp thông tin, viết báo. Trong chức năng này, giảng viên

đóng vai trò là cầu nối giữa khoa học và xã hội, để đưa nhanh các kiến thức khoa học

vào đời sống cộng đồng. Viết báo thời sự (khác với báo khoa học) là một chức năng

khá quan trọng và có ý nghĩa lớn trong việc truyền bá kiến thức khoa học và nâng cao dân trí.

3. Thực trạng về quan niệm phẩm chất và năng lực của giảng viên đại học ngày nay

Phẩm chất và năng lực là yếu tố có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời đối

với người làm công tác giảng dạy. Ở môi trường giáo dục Cao đẳng và đại học thì hai

mối quan hệ này lại càng được nâng cao hơn, tinh tế hơn bao giờ hết do người giảng

viên phải giáo dục một lớp thế hệ trẻ đang sung sức, nhiệt huyết và sáng tạo, những

sinh viên trẻ này cần ở người giảng viên sự tận tâm, năng lực cao để họ làm nền tảng,

cơ sở cho hành trang bước vào con đường sự nghiệp lớn trong tương lai.

Thời kỳ đổi mới đòi hỏi sản phẩm giáo dục phải có phẩm chất, có năng lực đáp

ứng nhu cầu xã hội. Vì lẽ đó, phẩm chất và nhân cách nhà giáo cũng được quy định

thêm bởi nhiều yếu tố, nhưng cốt lõi vẫn là tri thức và lòng yêu thương học sinh. Nhà

giáo có thâm niên hay mới vào nghề muốn tồn tại và phát triển nghề nghiệp thì phải

12

luôn có ý thức gia tăng hàm lượng tri thức trong tư duy và bồi đắp thêm tình thương

yêu, tinh thần trách nhiệm trong việc giáo dục thế hệ trẻ.

Tuy nhiên, thực trạng ngày nay cho thấy hiện đang tồn tại những quan niệm của

chính giảng viên, hay những giảng viên chỉ có một trong hai yếu tố kể trên mà mất đi

yếu tố còn lại. Vậy thì quan niệm đó sẽ như thế nào và ảnh hưởng ra sao ?

3.1. Quan niệm phẩm chất quan trọng hơn năng lực

Có thể nói, đạo đức luôn là nền tảng của xã hội và là cái gốc của mỗi con người.

Do vậy, dù ở bất cứ xã hội nào thì giá trị đạo đức cũng phải được duy trì và giữ vững.

Hiện nay, trong thời cơ chế thị trường, khi mà những giá trị về vật chất đang chiếm ưu

thế trong xã hội, thì nó có nguy cơ đẩy lùi những giá trị về tinh thần. Và trong thời hội

nhập trước sự giao lưu mạnh mẽ và du nhập của nền văn hóa bên ngoài vào nước ta thì

đạo đức hay phẩm chất luôn là thứ nên được đề cao, nhấn mạnh để tránh bị ảnh hưởng

bởi các giá trị phẩm chất không phù hợp.

Giá trị của đạo đức muôn thưở vẫn là chữ NHÂN, chữ NGHĨA. Như Nguyễn

Trãi đã từng nói:

“Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo”.

Và chính Hồ Chủ tịch cũng đã từng nói : « Có tài mà không có đức là người vô

dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó ». Đúng vậy, người biết giữ

vững giá trị đạo đức là người sống trung thực, thẳng thắn, công bằng và có lòng vị tha,

biết vui cái vui của người, biết buồn cái buồn của người. Đặc biệt không bị đồng tiền

và lối sống xa hoa của nên kinh tế thị trường quyến rũ, biết đi lên bằng chính đôi chân

của mình. Phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một việc

làm kịp thời và đúng đắn nhằm giữ vững giá trị đạo đức của dân tộc Việt Nam đang

trên đà suy thoái.

13

Câu nói “cô giáo như mẹ hiền” và “mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương

sáng cho học sinh noi theo” vẫn còn nguyên giá trị. Hiện nay, ở các trường Cao đẳng

và Đại học trên cả nước, một số những giảng viên có quan niệm cho rằng phẩm chất,

tức là cái đức của người thầy, quan trọng hơn năng lực (tức cái tài). Tuy nhiên, xét về

góc độ tổng thể, đây là một quan niệm sai lầm của một bộ phận giảng viên của nước ta.

Đồng ý rằng trước những trào lưu, trước nền kinh tế thị trường và các luồng

giao lưu văn hóa đang ngày càng xâm nhập nước ta thì giảng viên giữ được các tư cách

đạo đức, giữ được cái phẩm chất của một người thầy là một điều cực kỳ đáng trân

trọng. Họ là những người sẽ ươm mầm nên những thế hệ tương lai có đạo đức, có suy

nghĩ, sống có trách nhiệm và chính bản thân họ cũng sẽ „miễn nhiễm‟ trước những tiêu

cực do cuộc sống mang lại như „mua bán điểm số‟, „bệnh thành tích‟.v.v…

Nhưng chỉ có phẩm chất sẽ là chưa đủ để tạo nên một người giảng viên thật sự.

Thế kỷ XXI - thời đại của tri thức và khoa học công nghệ, những nhà giáo phải năng

động, tích cực tiếp thu những kiến thức mới, không ngừng học tập, nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ. Năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm của một số bộ phận

giảng viên còn có nhiều hạn chế dù về mặt ý thức họ là người nghiêm túc cố gắng làm

hết sức mình nhưng kết quả giảng dạy, giáo dục đều không đạt đến điều mong muốn,

không thể đáp ứng nổi yêu cầu “đổi mới toàn diện, triệt để giáo dục” hiện nay.

Một người giảng viên phải đáp ứng được các chức năng cơ bản kể trên, trong đó

có chức năng của một nhà nghiên cứu khoa học, một nhà giáo. Thật vậy, là một người

sẽ đứng vai trò truyền đạt kiến thức cho sinh viên, những thế hệ tương lai của đất nước

mà người giảng viên lại thiếu đi năng lực nghiên cứu, năng lực truyền đạt thông tin

kiến thức đến với sinh viên thì đó sẽ là một vấn đề lớn.

Đại học là bậc học cung cấp cho sinh viên khối lượng kiến thức khổng lồ và

những kỹ năng tư duy, kỹ năng cuộc sống cần thiết khi ra trường. Chính vì thế vai trò

của một người giảng viên là rất lớn. Nếu chính giảng viên đó không đủ khả năng trình

độ thì việc truyền đạt kiến thức và tư duy dành cho sinh viên sẽ không thể thực hiện

14

được. Khi đó giảng viên chỉ đóng vai trò là một người „nói suông‟, tức là trong sách có

bao nhiêu thì giảng lại bấy nhiêu, thiếu đi sự tư duy sáng tạo, tìm tòi ra những phương

pháp, những vấn đề mới trong khoa học để truyền đạt lại. Lúc đó giảng viên đó sẽ rơi

vào lối mòn tư duy, sẽ làm việc một cách máy móc. Bản thân giảng viên cũng sẽ không

đủ sức để giải đáp những điều mới mẻ, không đủ sức để nghiên cứu phát hiện những lý

luận mới phục vụ cho kiến thức nhận loại và công tác giảng dạy của mình. Những

người giảng viên thiếu đi năng lực kể trên sẽ khiến cho nền giáo dục bị chậm phát

triển, rơi vào tình trạng lạc hậu và thế hệ tương lai của quốc gia cũng sẽ trở thành

những „cái máy móc‟ vô hồn thiếu tư duy, kiến thức và kỹ năng dù cho bản thân họ có

là những nhà giáo mẫu mực, có phẩm chất tốt đi chăng nữa.

Vì vậy năng lực là một yếu tố rất quan trọng của giảng viên bên cạnh yếu tố về

phẩm chất đạo đức.

3.2. Quan niệm năng lực quan trọng hơn phẩm chất

Đối với xã hội nói chung, năng lực của một cá nhân biểu hiện được rằng anh

(hay chị) ta có khả năng thực hiện được công việc đối với bản thân và xã hội hay

không. Năng lực của một người được chi phối bởi nhiều yếu tố, bao gồm : kiến thức và

kỹ năng. Với việc Việt Nam ngày càng hội nhập với thế giới thì điều này đòi hỏi năng

lực đóng vai trò chủ đạo trong công việc để có thể đáp ứng và theo kịp với trình độ

phát triển chung toàn cầu.

Và nghề giáo cũng đặt vấn đề năng lực trở nên quan trọng. Một giảng viên Cao

đẳng, Đại học cần có trong mình năng lực trong giảng dạy và trong nghiên cứu để có

thể hướng dẫn sinh viên trở thành những người lao động có kiến thức và trình độ sau

khi ra trường, đáp ứng được yêu cầu từ phía xã hội cũng như các nhà tuyển dụng trong

và ngoài nước. Hiện ở Việt Nam đã có các nhà giáo, các giảng viên có đủ khả năng

trong công tác nghiên cứu và giảng dạy để phục vụ cho lợi ích „trồng người‟. Đây là

15

những người giảng viên thật sự đáng quý và cần thiết cho nền giáo dục cũng như sự

phát triển của nước ta.

Tuy nhiên, cũng như phần trước, hiện nay, dưới áp lực của nền kinh tế thị

trường, sự chi phối của yếu tố vật chất khách quan và chủ quan đã dẫn đến việc hình

thành nên quan niệm coi trọng năng lực hơn phẩm chất của một số giảng viên. Những

giảng viên này nhấn mạnh tầm quan trọng của năng lực hơn là phẩm chất, họ coi năng

lực là yếu tố tiên quyết để tạo nên một người thầy mà bỏ qua yếu tố về phẩm chất.

Quan niệm này đã dẫn đến những sai lầm trong tư duy và tạo ra một thế hệ giảng viên

thiếu đi phẩm chất cốt cách của bậc làm nhà giáo.

Những nhà giáo có năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm nhưng không nhiệt

tình, không tự giác, không say mê với nghề. Họ có thể làm tốt tùy hoàn cảnh không

thường xuyên. Số đông nhà giáo mắc bệnh nghề nghiệp: có thành tích trong giảng dạy,

nghiên cứu nên luôn cho mình là đúng coi thường những đóng góp của đồng nghiệp,

khó chịu với những thắc mắc của học sinh. Luôn nói nhiều, không chịu lắng nghe, luôn

đổ lỗi cho học sinh, cho cha mẹ học sinh và nhà trường, đồng nghiệp, còn bản thân

luôn cho là hoàn hảo.

Ngoài việc coi nhẹ thái độ ứng xử với sinh viên. Vài người trong số họ còn đặt ra

vấn đề về „vật chất‟, không giữ đúng tư cách người thầy. Từ đó nảy sinh ra bệnh „vòi

tiền‟ sinh viên, bệnh „mua bán điểm số‟ .v.v… Đây chính là điều nguy hại nhất. Các

hành động đó sẽ khiến cho sinh viên và xã hội dần mất niềm tin vào người giảng viên,

mất niềm tin vào người thầy và nền giáo dục Việt Nam. Hậu quả xa hơn nó sẽ gián tiếp

gây ra hiện tượng „chảy máu chất xám‟ cũng vì nguyên nhân mất đi lòng tin vào nền

giáo dục mà những người giảng viên là người trực tiếp tạo ra điều này.

Cho nên dù có năng lực về nghiên cứu và giảng dạy nhưng nếu giảng viên thiếu đi

phẩm chất, đạo đức thì người giảng viên đó sẽ thiếu đi tư cách tối thiểu nhất của một

người thầy. Và trước cuộc sống bộn bề những áp lực nhất là về vật chất thì người giảng

16

viên cần phải giữ mình và giữ phẩm chất cao quý mà xã hội đã ban tặng cho người

thầy. Như thế thì một giảng viên thật sự sẽ là một giảng viên vừa có năng lực vừa có

phẩm chất. Tuy nhiên, để có được cả hai yếu tố trên, chúng ta cần những giải phải từ

xã hội lẫn bản thân người giảng viên.

4. Giải pháp để nâng cao phẩm chất và năng lực của giảng viên đại học

Chất lượng dạy học phụ thuộc vào nhiều thành tố trong một hệ thống bao gồm:

Mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp dạy học, thầy và hoạt động của thầy,

trò và hoạt động của trò, môi trường giáo dục… Trong đó phương pháp dạy học là

thành tố trung tâm, giảng viên phải am hiểu sâu sắc nội dung dạy học, làm chủ kiến

thức, biết chế biến nó theo ý đồ sư phạm và biết cách truyền tải nó đến với sinh viên.

Mặt khác sinh viên là chủ thể trong học tập và tu dưỡng. Chủ thể phải tự giác, tích cực,

chủ động và sáng tạo trong quá trình học tập.

Cho nên có thể nói trong giai đoạn nào thì người giảng viên cũng cần có đủ năng

lực và phẩm chất để truyền tải hết nội dung bài giảng, truyền hứng thú gợi mở hướng

nghiên cứu và hiểu biết mới. Giảng viên nên tự ý thức được rằng, năng lực và phẩm

chất của người thầy phải luôn đi kèm với nhau, thiếu một trong hai ta không thể hoàn

thành tốt trách nhiệm của một nhà giáo với sinh viên với của mình. Từ đó, người dạy

luôn sẵn sàng học hỏi, tiếp thu cái mới không chỉ từ sách vở, từ xã hội bên ngoài mà

còn từ đồng nghiệp và chính sinh viên của mình. Được vậy giảng viên không những

uyên thâm về chuyên môn nghiệp vụ mà còn giàu tình yêu thương, đức vị tha, hiểu

người học của mình là ai để có thể có phương pháp dạy phù hợp nhất.

4.1. Giải pháp để nâng cao phẩm chất của giảng viên đại học

Để duy trì và giữ vững những chuẩn mực về đạo đức, nhân cách nhà giáo trong

giai đoạn hiện nay. Bản thân một người giảng viên phải luôn tự hoàn thiện mình về tư

tưởng và hành động. Điều này rất cần thiết cho các giảng viên trẻ. Bên cạnh đó, người

giảng viên phải có ý thức tổ chức kỷ luật, sống và làm việc theo pháp luật. Cái tâm của

17

nhà giáo là tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu thương con người, tôn trọng lẻ phải,

có tâm hồn trong sáng, thích sự công bằng và đặt biệt là luôn gắn bó và tâm huyết với

nghề nghiệp.

Bản thân giảng viên khi đã chọn nghề giáo là phải tự nhận thức được các khó

khăn do nghề nghiệp này đem lại. Và có lẽ những ai chọn con đường giảng viên đa

phần vì mục đích yêu nghề. Vì thế tự bản thân mỗi giảng viên phải biết gìn giữ tình

yêu nghề nghiệp của chính mình, yêu nghề tức là yêu trường, yêu lớp, yêu sinh viên

không những trên giảng đường mà còn ngoài đời thường để ta có thể hiểu hơn về chính

sinh viên của mình.

Giảng viên không chỉ rèn luyện phẩm chất cho riêng mình mà cũng cần phải

cương quyết đấu tranh loại trừ những biểu hiện chạy theo thành tích, xúc phạm đến

nhân cách và thân thể sinh viên, hoặc các hành vi cố kiếm tiền bằng mọi hình thức, tự

đánh mất mình, làm ảnh hưởng chung đến uy tín của nghề giáo, mất lòng tin của xã

hội.

Phẩm chất của con người không phải ngày một ngày hai mà có, nó phải trải qua

quá trình hình thành lâu dài. Và để có được phẩm chất của một nhà sư phạm, người

giảng viên cần đổi mới cách nhìn nhận đối với sinh viên, sinh viên là người học nhưng

cũng là người mang lại kinh nghiệm và hướng sáng tạo mới cho giảng viên. Sinh viên

là đội ngũ trẻ, có sức sống, sức sáng tạo mãnh liệt - những năng lực dồi dào này giúp

họ có khả năng tốt nhất trong tiếp thu và nhìn nhận hình ảnh của người thầy Thay đổi

từ cách nhìn nhận với sinh viên là để người giảng viên đứng trên một khía cạnh khác

nhìn vào quá trình giảng dạy. Sinh viên giao tiếp với giảng viên để học tốt hơn, tiếp thu

kiến thức nhạy và nhiều hơn, giảng viên giao tiếp để truyền thông tin tốt hơn, sinh

viên dễ hiểu, dễ nắm bài hơn.

Dù biết rằng việc rèn luyện phẩm chất là việc cần thiết của tự bản thân mỗi giảng

viên nhưng những chủ thể bên ngoài như nhà trường và nhà nước cần có chế độ quan

18

tâm dành cho giảng viên, nhất là việc nâng cao thu nhập để giảng viên không còn phải

lo nghĩ về cuộc sống mà tập trung cho sự nghiệp giáo dục, từ đó các vấn nạn liên quan

đến đạo đức nhà giáo hiện nay sẽ suy giảm, góp phần tạo nên những thế hệ giảng viên

tốt cho nước nhà. Và không kém phần quan trọng, nhà trường và nhà nước cũng nên có

các biện pháp xử lý, chế tài nghiêm khắc dành cho các giảng viên thiếu phẩm chất, gây

ảnh hưởng đến uy tín của người giảng viên và nền giáo dục Việt Nam.

4.2. Giải pháp để nâng cao năng lực của giảng viên đại học

Để đảm bảo chất lượng giáo dục cũng như chức năng của một người giảng viên là

nghiên cứu khoa học và giảng dạy thì cần có những giải pháp nâng cao năng lực cũng

như hạn chế những tiêu cực trong các trường Đại học hiện nay.

Bản thân giảng viên phải tự nâng cao năng lực của chính mình thông qua các hoạt

động nghiên cứu khoa học. Việc tìm tòi nghiên cứu, tìm ra những vấn đề mới của tri

thức nhân loại sẽ góp phần tạo ra người giảng viên uyên bác, có tư duy lý luận cao,

kiến thức sâu rộng. Từ đó người giảng viên sẽ có thể truyền tải được cái tư duy lý luận

ấy đến với thế hệ sinh viên, khiến sinh viên sẽ cảm nhận được sự thay đổi, sự kì diệu

của khoa học, của thế giới quan. Năng lực nghiên cứu chỉ được hình thành và phát triển

khi tự mình phấn đấu một cách nỗ lực trong quá trình nghiên cứu. Trong thời đại công

nghệ thông tin như hiện nay, cứ một giây trôi qua lại có hàng nghìn thông tin, có hàng

nghìn ứng dụng được công bố, khám phá và nếu không có thông tin, bản thân không tự

cập nhật những kiến thức mới thì người giảng viên sẽ trở thành “người giảng dạy quá

khứ” cho sinh viên, đó không phải là điều sinh viên cần ở một người thầy

Bên cạnh đó, năng lực giảng dạy cũng là một yếu tố mà người giảng viên cần đặc

biệt chú ý. Có kiến thức, có tư duy không thì chưa đủ mà còn phải có khả năng truyền

đạt những kiến thức, tư duy đó đến với sinh viên. Đây là một trong những năng lực

tưởng chừng dễ nhưng lại rất khó. Khó là vì nếu chỉ nói theo những gì đã có trong bài

nghiên cứu của chính giảng viên hay chỉ nói theo những gì có trong các sách vở thì bài

19

giảng của giảng viên sẽ rất nhàm chán và thiếu đi tính hấp dẫn. Phải có kỹ năng truyền

đạt thì sinh viên mới cảm thấy hứng thú trong nghiên cứu khoa học, trong cảm thụ kiến

thức, từ đó sinh viên mới thật sự thấm được những điều giảng viên muốn dành cho họ.

Và để có năng lực giảng dạy này thì người giảng viên cần phải có thói quen quan

sát, học hỏi kinh nghiệm từ các bậc thế hệ giảng viên đi trước. Giảng viên phải tự đầu

tư, cập nhật kiến thức mới cũng như là nghiệp vụ sư phạm phù hợp để kiến thức có thể

đến với sinh viên nhanh nhất. Phương pháp dạy cần được thay đổi, từ chỗ lấy người

dạy là trung tâm sang lấy người học làm trung tâm của quá trình dạy - học. Phương

pháp này đòi hỏi giảng viên không chỉ có kiến thức trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt về

lĩnh vực mình đảm trách mà còn phải có phương pháp tổ chức việc học cho sinh viên.

Người giảng viên phải trở thành người đạo diễn, kích thích hoạt động cho học viên, là

“trọng tài khoa học” kết luận vấn đề do sinh viên trình bày. Phải hướng dẫn cho sinh

cách tự học, tự tìm kiếm kiến thức bằng suy nghĩ, hành động. Dưới sự tổ chức, hướng

dẫn của giảng viên thì học viên sẽ tự tìm cách chiếm lĩnh tri thức khoa học, tự giác rèn

luyện, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Qua phương pháp này, sinh

viên không chỉ tiếp thu tri thức với chất lượng và hiệu quả cao mà còn trau dồi được

cách phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề, phương pháp khám phá chân lý… và đó chính

là cơ sở để trau dồi, phát huy tính chủ động, sáng tạo trong công tác của sinh viên sau

này.

Giảng viên là người nói còn sinh viên là người nghe, đây là một quan niệm đã cũ

và không còn phù hợp vào hiện tại. Một giảng viên cần phải lắng nghe phản hồi của

chính sinh viên để có thể cải thiện được năng lực giảng dạy cũng như là năng lực

nghiên cứu của bản thân. Vì thế người giảng viên nên tạo điều kiện cho sinh viên đóng

góp ý kiến về cách dạy của giảng viên, thứ nhất là để người học cảm thấy được tôn

trọng, được đưa ra ý kiến, cách suy nghĩ của mình về người giảng viên. Thứ hai, giảng

viên có được những cách nhìn nhận đánh giá của sinh viên, thông qua đó phân tích

20

xem cách giảng dạy của mình có phù hợp chưa, sinh viên đóng góp ý kiến như vậy có

chính xác với những gì mình mong muốn thể hiện ở lớp học chưa?

Ngoài bản thân giảng viên tự nỗ lực nâng cao năng lực của chính mình, nhà

trường và nhà nước cũng nên tạo điều kiện vật chất và tinh thần tối đa nhất để hỗ trợ

người giảng viên trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy. Sự hỗ trợ đó có thể bao gồm

việc cung cấp kinh phí trong công tác nghiên cứu, giảng dạy ; nâng cao lương bổng cho

giảng viên để họ cảm thấy những gì họ bỏ ra là xứng đáng và một phần nữa có thể giúp

họ an tâm hơn trước bộn bề cuộc sống mà từ đó sẽ giúp họ tập trung toàn bộ trí lực vào

sự nghiệp „trồng người‟ và xây dựng nền khoa học nước nhà ; có sự đầu tư đúng đắn

cho các giảng viên trẻ, giảng viên tiềm năng bằng việc cử họ ra nước ngoài tiếp thu

những cái hay cái đẹp của các quốc gia đi trước để đem về làm cơ sở phát triển nền

khoa học trong nước… Và cuối cùng, nhà trường và nhà nước cũng cần đưa ra các biện

pháp xử lý nếu giảng viên không tự nâng cao năng lực, dẫn đến tình trạng giảng viên

thiếu năng lực đào tạo ra các sinh viên kém, hay tình trạng „chảy máu chất xám‟ ở Việt

Nam hiện nay. Các biện pháp giữa hỗ trợ và chế tài nên làm song song, không có cái

nào trước, cái nào sau. Khi đó thì nó mới đem lại hiệu quả và giúp tạo ra những giảng viên đầy đủ năng lực thực sự.

21

KẾT LUẬN

Giáo dục đại học có vai trò đặc biệt quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hóa diễn ra

mạnh mẽ như hiện nay. Và nhân tố người thầy là yếu tố hàng đầu để nâng cao chất

lượng giáo dục. Người giảng viên giỏi không phải là người truyền thụ cho sinh viên tất

cả những gì mình biết. Bởi, không ai có thể dạy được cho người học hết các kiến thức

mà cái chính là biết khơi dậy ngọn lửa của lòng đam mê học tập, nghiên cứu khoa học

của người học. Đây là cách để có được chất lượng và sự đổi mới căn bản trong hoạt

động đào tạo ở bậc cao đẳng, đại học. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này đòi hỏi ý

thức trách nhiệm, lòng nhiệt tình và sự say mê tâm huyết của mỗi giảng viên - nhân tố

chính trong việc nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường cao đẳng, đại học.

Giảng viên là những con người đã quyết định tham gia vào sự nghiệp trồng người, phải

nghiêm khắc rèn luyện bản thân về cả 2 mặt “đức” (phẩm chất) và “tài” (năng lực), để

trở thành một giảng viên chân chính, trở thành một tấm gương sáng để sinh viên noi

theo, góp phần phát triển nhân lực có ích cho xã hội.

22

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Thị Phương Nam – Hoàng Văn Lợi (2012). Thực trạng và giải pháp nâng cao

năng lực đội ngũ giảng viên đại học giai đoạn 2010-2015. Viện nghiên cứu Lập

pháp.

2. Nguyễn Thạc (cb) (2007). Tâm lí học Sư phạm Đại học. NXB Đại học Sư phạm

TP.HCM.

3. Thanh Chiến (2011). Quan niệm về người thầy trong xã hội hiện đại. Báo Đồng

Khởi. http://www.baodongkhoi.com.vn/?act=detail&id=22739

4. La Giang (2013). Định hướng nhân cách cho sinh viên: Nhà trường thôi chưa đủ.

Báo Giáo dục Thời đại. http://www.gdtd.vn/channel/2741/201310/dinh-huong-

nhan-cach-cho-sinh-vien-nha-truong-thoi-chua-du-1973920/

5. Vũ Minh Giang (2006). Đổi mới giáo dục đại học bắt đầu từ giảng viên. Trường

Đại học Nông nghiệp Hà Nội.

http://www.hua.edu.vn/khoa/cnts/index.php?option=com_content&task=view&id

=492&Itemid=359

6. Hoàng Long. Suy nghĩ về người thầy tốt. Trường Đại học Cảnh sát Nhân dân.

http://www.pup.edu.vn/vi/Tap-chi-CAND/Suy-nghi-ve-nguoi-thay-tot--562

7. Đan Phượng (2012). Giảng viên đại học vừa mỏng, vừa yếu. Báo Tin Tức.

http://baotintuc.vn/giao-duc/giang-vien-dai-hoc-vua-mong-vua-yeu-

20120626091153534.htm

8. Minh Tư (2013). Phẩm chất người thầy. Báo Giáo dục Thời đại.

http://www.gdtd.vn/channel/2741/201309/pham-chat-nguoi-thay-1972515/