intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 105

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:34

63
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Sản xuất xã hội, quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 105

  1. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh A ­ Đặt vấn đề          Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội  là lịch sử  phát triển của  những phương thức sản xuất kế  tiếp nhau từ  thấp  đến cao. Mà lực   lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất la hai mặt của phương thức sản   xuất , chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một   cách biện chứng, tạo thành quy luật về  sự  phù hợp của quan hệ  sản   xuất với trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất  ­ quy luật cơ bản   nhất của sự vận động phát triển của xã hội.       Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ  phát triển của lực   lượng sản xuất là quy luật phổ  biến, tác động trong toàn tiến trình lịch   sử của nhân loại.       Sự vận động, phát triển cùa lực lượng sản xuất quyết định và làm  thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Ngược lại, quan hệ sản  xuất cũng có tính độc lập tương và tác động trở lại sự phát triển của lực   lượng sản xuất. Khi quan hệ  sản xuất phù hợp với trình độ  phát triển  của lực lượng sản xuất, nó là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất   phát triển. Ngược lại, khi quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc tiên  tiến hơn một cách giả  tạo so với trình độ  phát triển củ  lực lượng sản   xuất sẽ  lại kìm hãm sự  phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, việc   giải quyết mâu thẫu giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất không  phải là đơn giản.            Trong nền kinh tế  kế  hoạch hoá tập trung trước đây chúng ta đã  không có được sự nhận thức đúng đắn về quy luật của sự phù hợp giữa   1
  2. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh quan hệ  sản xuất và lực lượng sản xuất. Cơ chế quan liêu, bao cấp đã   bóp méo các yếu tố của quan hệ sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất,  kết quả của sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản  xuất đã làm cho mâu thẫu giữa chúng trở nên gay gắt. Điều đó khiến cho  nền kinh tế  Việt Nam phải  ở trong tình trạng khủng hoảng, trì trệ một  thời gian dài.       Chính vì vậy, việc đưa nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ,  tác động qua lại lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất  có ý nghĩa vô cùng to lớn, đặc biệt là trong quá trình xây dựng nền kinh  tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay. B ­ Giải quyết vấn đề I/Cơ sở lý luận:     1 ­ Các khái niệm: a) Lực lượng sản xuất:       Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã  hội nhất định,  ở  một thời kỳ  nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện  mối quan hệ  tác động giữa con người với tự  nhiên, biểu hiện trình độ  sản xuất của con người và năng lực thực tiễn của con người trong quá  trình sản xuất ra của cải vật chất.        Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với   tri thức, phương pháp sản xuất, kỹ  năng, kỹ  xảo và thói quen lao động  của họ. Trong các yếu tố  hợp thành lực lượng sản xuất, người lao động  2
  3. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh là chủ  thể  và bao giờ  cũng là lực lượng sản xuất cơ  bản, quyết định   nhất của xã hội.         Ngày nay, khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì  nội dung khái niệm lực lượng sản xuất được bổ  sung, hoàn thiện hơn.  Các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã làm xuất hiện những khu  vực sản xuất mới và làm cho năng suất lao động tăng lên gấp bội. Năng  suất lao động được xem như  là tiêu chí quan trọng trọng nhất để  đánh  giá trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất và suy cho cùng cũng là   yếu tố  quyết định sự  chiến thắng của một trật tự  xã hội này đối với   một trật tự xã hội khác. b) Quan hệ sản xuất:       Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá  trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội (sản   xuất và tái sản xuất xã hội).            Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ  có quan hệ  với tự  nhiên, tác động vào giới tự nhiên, mà còn có quan hệ với nhau, tác động   lẫn nhau. Hơn nữa, chỉ có trong quan hệ tác động lẫn nhau thì con người   mới có sự tác động vào tự nhiên và mới có sản xuất.       Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối   quan hệ giữa con người với con người trên ba mặt chủ yếu sau:       ­ Quan hệ về sở hữu đối với tư  liệu sản xuất là quan hệ  giữa con  người với con người trong việc chiếm hữu tư  liệu sản xuất chủ  y ếu   của xã hội.   3
  4. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh       ­ Quan hệ trong tổ chức và quản lý là quan hệ  giữa con người với   con người trong việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi   hoạt động cho nhau.        ­ Quan hệ  phân phối lưu thông là quan hệ  giữa con người với con   người trong phân phối và lưu thông sản phẩm xã hội.       Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác   động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất   giữ vai trò quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm hữu   tư liệu sản xuất thì giai cấp đó là giai cấp thống trị; giai cấp ấy đứng ra  tổ  chức, quản lý sản xuất và sẽ  quyết định tính chất, hình thức phân  phối, cũng như  quy mô thu nhập. Ngược  lại, giai cấp, tầng lớp nào  không có tư liệu sản xuất thì sẽ là giai cấp, tầng lớp bị thống trị, bị bóc  lột vì buộc phải làm thuê và bị bóc lột dưới nhiều hình thức khác nhau.       Tuy vậy, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ  phân phối lưu thông   cũng có tác động trở lại quan hệ sản xuất.       Quan hệ sản xuất trong tính hiện thực của nó không phải là những  quan hệ  ý chí, pháp lý mà là quan hệ  kinh tế  được biểu diễn thành các   phạm trù, quy luật kinh tế.       Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí   chủ quan của con người. Sự thay đổi của các kiểu quan hệ sản xuất phụ  thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. c) Phương thức sản xuất:       Phương thức sản xuất là cách thức con người khai thác những của  cải vật chất (tư  liệu sản xuất và tư  liệu sinh hoạt) cần thiết cho hoạt   4
  5. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh động tồn tại và phát triển của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất  định của xã hội loài người.        Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất   định. Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả  các   mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Sự thay thế  kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự  phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.        Phương thức sản xuất chính là sự  thống nhất và tác động qua lại   giữa lực lượng sản xuất  ở  một trình độ  nhất định và quan hệ  sản xuất  tương ứng. 2 ­ Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển  của lực lượng sản xuất:   a) Sự  vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và   làm thay đổi quan hệ sản xuất:            Lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất là hai mặt của phương   thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn   nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về  sự  phù hợp của quan   hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (quy luật cơ  bản nhất  của sự vận động, phát triển xã hội).       Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm  thay đổi quan hệ  sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức   sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ  phát  triển của lực lượng sản xuất. Sự  phù hợp của quan hệ  sản xuất với   5
  6. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó  quan hệ  sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất.   Trong trạng thái đó, tất cả  các mặt của quan hệ  sản xuất đều “tạo địa   bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó  tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động  với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển   hết khả năng của nó.       Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm   cho quan hệ  sản xuất từ  chỗ  phù hợp trở  thành không phù hợp với sự  phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ  sản xuất trở  thành   “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát  triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu   dẫn đến thay thế  quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ  sản xuất mới phù  hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực   lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế  quan hệ sản xuất cũ bằng   quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi,   phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. b) Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự   phát triển của lực lượng sản xuất:        Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ  sản xuất, nhưng quan hệ  sản xuất không hoàn toàn thụ động mà tác động trở lại sự phát triển của  lực lượng sản xuất. Quan hệ  sản xuất có thể  tác động đến lực lượng  sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ  của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động  6
  7. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ... và do đó tác   động đến sự  phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù  hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy  lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc   hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của   lực lượng sản xuất sẽ  kìm hãm sự  phát triển của lực lượng sản xuất.  Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì  theo quy luật chung, quan hệ  sản xuất cũ sẽ  được thay thế  bằng quan  hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất   để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.       Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ  phát triển của lực   lượng sản xuất là quy luật phổ  biến tác động trong toàn bộ  tiến trình  lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ  công xã nguyên thuỷ, qua chế  độ  chiếm hữu nô lệ, chế  độ  phong kiến,   chế  độ  tư  bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự  tác   động của hệ  thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ  sản  xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật  cơ bản nhất.   II/Vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính  chất và trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất vào quá trình   7
  8. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa ở  Việt   Nam:       Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta là nền kinh tế đang thực   hiện những cuộc cải biến cách mạng toàn diện và sâu sắc trên mọi lĩnh  vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế đó là việc  cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ  nghĩa gắn liền với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển  mạnh mẽ lực lượng sản xuất xã hội chủ  nghĩa, từng bước chuyển nền  kinh tế  nhiều thành phần, sản xuất nhỏ  là chủ  yếu lên nền kinh tế  thị  trường xã hội chủ nghĩa.        Trong nền kinh tế quá độ, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo   và cùng với kinh tế hợp tác làm nền tảng cho sự phát triển của toàn bộ  nền kinh tế  quốc dân theo định hướng xã hội chủ  nghĩa. Để  thực hiện  vai trò  ấy, theo Nghị  quyết Đại hội VIII, kinh tế  nhà nước phải được   tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả, nắm vững những vị trí then   chốt, những lĩnh vực trọng yếu trong nền kinh tế  như kết cấu hạ tầng   kinh tế  ­ xã hội, hệ  thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ  sở  sản xuất  và thương  mại, dịch vụ  quan trọng. Các doanh nghiệp nhà  nước phải có quy mô vừa và lớn, phát huy được  ưu thế  về  kỹ thuật và  công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tạo ra nhiều sản   phẩm chất lượng cao, giá thành hạ, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà  nước. 8
  9. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh       Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ: vai trò chủ đạo của kinh tế nhà  nước thể  hiện  ở  chỗ  “làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế  và  giải quyết những vấn đề  xã hội, mở  đường, hướng dẫn , hỗ  trợ  các   thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để  nhà  nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho   chế độ xã hội mới”. 1 ­ Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:       Từ khi hoà bình được lập lại năm 1954, miền Bắc nước ta đã bước  vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội với đặc điểm như Chủ tịch   Hồ  Chí Minh đã nói: “Đặc điểm to nhất của nước ta trong thời kỳ quá  độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội  không phải kinh qua giai đoạn  phát triển tư bản chủ nghĩa”.        Từ  năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả  nước   thống nhất, cách mạng dân tộc ­ dân chủ  đã hoàn toàn thắng lợi trên  phạm vi cả  nước thì cả  nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ  nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước  trong thời kỳ quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội của Đảng ta nói rõ hơn  thực   trạng kinh tế và chính trị  của đất nước: “Nước ta quá độ  lên chủ  nghĩa  xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong  kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm  chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, những tàn dư thực dân, phong   kiến còn nhiều. Các thế  lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại   chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta”. 9
  10. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh       Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên   chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã  có nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ,  ở các nước này, tuy lực lượng sản   xuất đã phát triển cao nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và xây dựng quan  hệ  sản xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, đối với những  nước thuộc loại này, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá  độ   có thể  diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp  lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ  qua chế độ  tư  bản chủ  nghĩa, thì lại  càng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài.        Theo Củ  tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội  ở  nước ta là một thời lỳ lịch sử mà: “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng  ta là phải xây dựng nền tảng vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại,  có văn hoá, khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ  nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế  cũ và xây dựng nền kinh tế  mới, mà trong đó xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.        Tuy vậy, sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng,   bằng sự nỗ lực sáng tạo của quần chúng, các ngành, các cấp, chúng ta đã  vượt qua được khủng hoảng, đạt được những thành tựu to lớn và rất   quan trọng trong hoạt động thực tiễn trên nhiều lĩnh vực của đời sống   xã hội: kinh tế  tăng trưởng nhanh, chính trị   ổn định, mở  rộng quan hệ  kinh tế  đối ngoại và chủ   động hội nhập kinh tế  quốc tế, tận dụng   nguồn vốn và công nghệ, phát huy nội lực đất nước, đẩy mạnh công  10
  11. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh nghiệp hoá, hiện đại hoá; bộ  mặt kinh tế  ­ xã hội thay da đổi thịt hàng  ngày, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.       Trong quá trình đổi mới, một trong những vấn đề tư duy lý luận cốt  lõi thuộc về đường lối là sự  chuyển đổi từ nền kinh tế thị trường định   hướng xã hội chủ nghĩa.       Đảng và nhà nước ta đã chủ  trương thực hiện nhất quán và lâu dài  chính sách: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo  cơ  chế thị trường, định hướng xã hội chủ  nghĩa có sự  quản lý điều tiết  của nhà nước.       Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, gắn liền với xây dựng quan   hệ  sản xuất mới cho phù hợp trên cả  ba mặt: sở  hữu, quản lý và phân   phối.   2 ­ Những thành tựu kinh tế ­ xã hội đã đạt được:        Trong những năm qua, Đảng và toàn dân ta đã nỗ  lực phấn đấu và   đạt được những thành tựu quan trọng:       Một là, kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP)  tăng bình quân  7 ­ 8%/năm. Cơ cấu kinh tế có sự  chuyển dịch tích cực.   Trong GDP hiện nay, tỷ trọng nông nghiệp là 24,3%, công nghiệp và xây  dựng là 36,6%, dịch vụ là 39,1%.       ­ Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực.   Năm 1995, bình quân lương thực là 360 kg/người, năm 2000 đã tăng lên   444kg/người. Nghề  nuôi trồng và đánh bắt thuỷ  hải sản phát triển khá.  Giá trị  sản xuất nông, lâm, ngư  nghiệp tăng bình quân hàng năm 5,7%  11
  12. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh (mục tiêu đề  ra là tăng 4,5 ­ 5%). Đã tạo được một số  mặt hàng xuất   khẩu chủ  lực là gạo (đứng thứ  2 ­ 3 thế  giới), cà phê (đứng thứ  3 thế  giới), ngoài ra còn có hồ tiêu, cao su, và hàng thuỷ sản… .       ­ Công nghiệp và xây dựng vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt  được nhiều tiến bộ. Nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân   hàng năm là 13,5%. Các sản phẩm công nghiệp chủ  yếu tăng khá: năm  2000 so với năm 1995, công suất điện gấp 1,5 lần, xi măng gấp 2,1 lần,   phân bón gấp trên 3 lần, thép gấp 1,7 lần, mía đường gấp hơn 5 lần … .  Một số sản phẩm quan trọng tăng nhanh như   dầu thô, điện, than sạch,  thép cán, xi măng, vải các loại, giấy các loại … . Ngành xây dựng có thể  đảm đương việc thi công những công trình quy mô lớn, hiện đại về công  nghệ. Một số vật liệu xây dựng chất lượng cao sản xuất trong nước đạt   tiêu chuẩn châu Âu và khu vực (gạch lát nền, gạch ốp lát …).       ­ Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển trong điều kiện khó khăn hơn   trước, góp phần tích cực cho tăng trưởng kinh tế  và phục vụ  đời sống.   Giá trị các ngành dịch vụ tăng 6,8%/năm. Giá trị doanh thu bưu điện tăng   bình quân hàng năm 11,3%.       ­ Hệ thống kết cấu hạ tầng có bước phát triển khá, đáp ứng yêu cầu  trước mắt và tạo được những năng lực gối đầu cho thời kỳ  sau. Các   công trình và các trục tuyến giao thông quan trọng được tập trung đầu tư  nâng cấp, bảo đảm giao thông thông suốt trong cả nước. Hệ thống bưu   chính viễn thông được hiện đại hoá về cơ bản. Hệ thống thuỷ lợi được  nâng cấp và phát triển trên các vùng. Cơ sở vật chất của các ngành giáo  12
  13. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh dục và đạo tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hoá, du lịch, thể  dục   thể thao … đều được tăng cường đáng kể.       ­ Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển. Nước ta đã xây dựng quan hệ  thương mại với trên 140 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng  lãnh thổ, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư  nước ngoài. Tổng kim  ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm trên 21%, gấp 3 lần mức tăng  GDP. Đầu tư  trực tiếp nước ngoài tiếp tục gia tăng, đóng góp tích cực   vào phát triển kinh tế ­ xã hội. Vốn hỗ  trợ phát triển chính thức (ODA)   tiếp tục tăng, góp phần quan trọng phát triển kết cấu hạ tầng.        Hai là văn hoá, xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục   được cải thiện.       ­ Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về  quy   mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cơ  sở  vật chất. Năm học 1999 ­   2000 so với 1994 ­1995 số học sinh các cấp học, bậc học đều tăng đáng  kể, mẫu giáo tăng 1,2 lần, trung học cơ sở 1,6 lần, trung học phổ thông  2,3 lần, đại học 3 lần, học nghề 1,8 lần. Đến hết năm 2000, cả 61  (nay  là 64) tỉnh, thành phố  đều đã đạt tiêu chuẩn phổ  cập giáo dục tiểu học   và xoá mù chữ; một số tỉnh, thành phố đã bắt đầu phổ cập trung học cơ  sở. Phong trào học tập phát triển nhanh, chất lượng giáo dục ­ đào tạo  đã có chuyển biến bước đầu. Việc xã hội hoá giáo dục ­ đào tạo đã  bước đầu được triển khai và phát triển.       ­ Việc làm và đời sống của nhân dân được giải quyết có nhiều kết  quả. Công tác xoá đói giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ, rộng khắp,   nhất là  ở  các vùng nghèo, xã nghèo, đạt kết quả  tốt, được đánh giá là  13
  14. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh một trong những nước giảm tỷ lệ đói nghèo tốt nhất. Đời sống dân cư  nhiều vùng được cải thiện rõ rệt.       ­ Công tác dân số, kế  hoạch hoá gia đình; bảo vệ  chăm sóc trẻ  em,  chăm sóc sức khoẻ nhân dân; chăm sóc người có công, đền ơn đáp nghĩa,  uống nước nhớ nguồn; thể dục thể thao … đã đạt nhiều kết quả tốt.       Những thành tựu đạt đạt được trong những năm qua đã tăng cường   sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và đời sống của   nhân dân, củng cố  vững chắc độc lập dân tộc và chế  độ  xã hội chủ   nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế. 3 ­ Những vấn đề còn tồn tại:            Cùng với những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế  thị  trường  ở  Việt Nam còn có những nhược điểm:       Một là, trình độ  phát triển nền kinh tế thị trường  ở nước ta còn ở   giai đoạn sơ khai. Đó là do các nguyên nhân.       ­ Cơ sở vật chất ­ kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh  vực, một số cơ sở kinh tế đã được trang bị  kỹ thuật và công nghệ  hiện  đại, trong nhiều ngành kinh tế máy móc, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc   hậu. Theo UNDP, Việt Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của  thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2 ­ 3 thế hệ (có lĩnh vực 4 ­ 5 thế hệ).   Lao động thủ  công vẫn chiếm tỷ  trọng lớn trong tổng số  lao động xã   hội. Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả  sản xuất của nước ta còn   thấp so với khu vực và thế  giới (năng suất lao động của nước ta chỉ  bằng 30% mức trung bình của thế giới). 14
  15. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh        ­ Kết cấu hạ  tầng như  hệ  thống đường giao thông, bến cảng, hệ  thống thông tin liên lạc … còn lạc hậu, kém phát triển (mật độ  đường  giao thông/km bằng 1% với mức trung bình của thế  giới; tốc độ  truyền  thông trung bình cả nước chậm hơn của thế giới 30 lần). Hệ thống giao   thông kém phát triển làm cho các địa phương, các vùng bị  chia cắt, tách  biệt nhau, do đó làm cho nhiều tiềm năng của các địa phương không thể  được khai thác, các địa phương không thể chuyên môn hoá sản xuất để  phát huy thế mạnh.       ­ Do cơ sỏ vật chất ­ kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công  lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh   tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông  nghiệp   vẫn   sử   dụng   70%   lực   lượng   lao   động,   nhưng   chỉ   sản   xuất  khoảng 26% GDP, các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỷ trọng thấp.        ­ Khả  năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị  trường trong   nước, cũng như thị trường nước ngoài còn rất yếu. Do cơ sở vật chất ­   kỹ  thuật và công nghệ  lạc hậu, năng suất lao động thấp, do đó khối  lượng hàng hoá nhỏ bé, chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn, chất lượng  hàng hoá thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu.       Hai là, thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành   nhưng chưa đồng bộ.       ­ Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả  các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất. 15
  16. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh       ­ Thị trường hàng hoá ­ dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và  còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng lậu, hàng nhái vẫn làm  rối loạn thị trường).       ­ Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm  giới thiệu việc làm  và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy   sinh hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị  trường này là sức   cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về  sức lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động  không tìm được việc làm.       ­ Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn   còn nhiều trắc trở, như  nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư  nhân thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi  đó nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không thể  cho vay  để   ứ   đọng trong két, dư  nợ  quá hạn trong nhiều ngân hàng  thương   mại   đã   đến   mức   báo   động.   Thị   trường   chứng   khoán   ra   đời   nhưng chưa có nhiều “hàng hoá” để  mua ­ bán và mới có rất ít doanh  nghiệp đủ điều kiện tham gia thị trường này.       Ba là, có nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường, do vậy nền  kinh tế ở nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại, đan  xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán còn phổ biến.       Bốn là, sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế   đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh  trình độ phát triển kinh tế ­ kỹ thuật của nước ta thấp xa so với h ầu hết   các nước khác. 16
  17. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh       ­ Toàn cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế đang đặt ra chung cho các  nước cũng như  nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt.   Nhưng nó là xu thế tất yếu khách quan, nên không đặt vấn đề  tham gia   hay không tham gia mà chỉ  có thể  đặt vấn đề: tìm cách sử  xự  với xu   hướng đó như  thế  nào? Phải chủ  động hội nhập, chuẩn bị  tốt để  tham   gia vào khu vực hoá và toàn cầu hoá, tìm ra “cái mạnh tương đối” của ta,   thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa kinh tế  đối ngoại để  tận dụng   ngoại lực để phát huy nội lực, nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại   hoá nền kinh tế quốc dân, định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.       Năm là, quản lý nhà nước về kinh tế xã hội còn yếu. Văn kiện Đại  hội đại biểu toàn quốc lần thứ  VIII của Đảng ta đã nhận định về  vấn  đề này như sau: “Hệ  thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ  và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm. Công tác tài chính, ngân hàng, giá  cả, kế  hoạch hoá, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn nhiều yếu   kém, thủ tục hành chính … chậm đổi mới. Thương nghiệp nhà nước  bỏ  trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ  đạo trên  thị  trường. Quản lý xuất nhập khẩu có nhiều sơ  hở, tiêu cực, một số  trường hợp gâ tác động xấu đối với sản xuất. Chế  độ  phân phối còn  nhiều bất hợp lý. Bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn. Lạm phát tuy   được kiềm chế nhưng chưa vững chắc”. III/những Giải pháp và mục tiêu phát triển trong thời gian tới:   17
  18. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh 1 ­  Các giải pháp cơ  bản  để  phát triển nền kinh tế  thị  trường   định  hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:       Để phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện   đồng bộ nhiều giải pháp. Dưới đây là những giải pháp chủ yếu nhất: a) Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần:       Trước đây, khi xây dựng kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường,   chúng ta đã thiết lập một cơ cấu sở hữu đơn giản với hai hình thức là sở  hữu toàn dân và sở  hữu tập thể. Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế  hàng  hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ  chế  thị  trường, cần phải đổi  mới cơ cấu sở hữu cũ bằng cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, điều   đó sẽ  đưa đến sự  hình thành các chủ  thể  kinh tế  độc lập, có lợi ích  riêng, tức là khôi phục một trong những cơ sở của kinh tế hàng hoá.       Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở  hữu, thực hiện nhất quán,  lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy  việc phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả  kinh tế  ­ xã hội, cải   thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng để  khuyến khích phát  triển các thành phần kinh tế  và các hình thức tổ  chức sản xuất kinh   doanh. Theo tinh thần đó, tất cả  các thành phần kinh tế  đều bình đẳng   trước pháp luật, đều được khuyến khích phát triển.       Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ  đạo của kinh tế  nhà  nước. Muốn vật cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế  nhà nước trong những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại   khu vực kinh tế  nhà nước, thực hiện tốt chủ  trương cổ  phần hoá và đa  dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp nhà nước không cần nắm  18
  19. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh 100% vốn. Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế  mạnh trên cơ  sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế.  Đẩy mạnh việc đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp nhà   nước.   Thực   hiện   chế   độ   quản   lý   công   ty   đối   với   tất   cả   các   doanh  nghiệp kinh doanh có vốn của nhà nước, doanh nghiệp thực sự  cạnh  tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh  doanh.         Phát triển kinh tế  tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó   hợp tác xã là nòng cốt. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã và đào tạo cán  bộ, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường. Thực   hiện tốt việc chuyển đổi hợp tác xã theo luật hợp tác xã.        Khuyến khích kinh tế  cá thể, tiểu chủ  phát triển  ở  cả  thành thị  và  nông thôn. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ  kinh tế  cá thể, tiểu chủ  phát triển có hiệu quả. Khuyến khích kinh tế  tư  bản tư nhân phát triển   trong những ngành nghề  sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm.  Phát triển kinh tế  tư  bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên  kết giữa kinh tế  tư  nhân trong và ngoài nước; tạo điều kiện kinh tế  có  vốn đầu tư  nước ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm  xuất khẩu, tăng khả  năng cạnh tranh, gắn thu hút vốn với thu hút công   nghệ hiện đại. b) Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,  ứng dụng nhanh tiến   bộ  khoa học ­ công nghệ, trên cơ  sở  đó đẩy mạnh phân công lao   động xã hội: 19
  20. Tiểu luận Triết học                                                                               Lê Quang Minh       Phân công lao động xã hội là cơ sở  chung của sản xuất và trao đổi   hàng hoá. Vì vậy, để  phát triển kinh tế  hàng hoá, phải đẩy mạnh phân  công lao động xã hội. Nhưng sự  phát triển của phân công lao động do  trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, cho nên muốn mở  rộng phân công lao động xã hội, cần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện  đại hoá đất nước để  xây dựng cơ  sở  vật chất ­ kỹ  thuật của nền sản   xuất lớn hiện đại.       Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể  rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự,   vừa có những bước nhảy vọt, gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá,  tận dụng mọi khả năng để  đạt trình độ  tiên tiến, hiện đại về  khoa học  và công nghệ;  ứng dụng nhanh và phổ  biến hơn  ở  mức  độ  cao hơn   những thành tựu công nghệ  hiện đại và tri thức mới, từng bước phát  triển kinh tế tri thức.            Cùng với việc trang bị  kỹ  thuật và công nghệ  hiện đại cho các   ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế  trong quá trình công nghiệp hoá,  hiện đại hoá, tiến hành phân công lại lao động và phân bố  dân cư  trong   phạm vi cả  nước, cũng như   ở  từng vùng, từng địa phương; hình thành  cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất  nước, tạo nên sự  tăng trưởng kinh tế  nhanh và bền vững của toàn bộ  nền kinh tế. c) Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường:          Trong nền kinh tế  thị  trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế  đều  thông qua thị  trường mà được phân bố  vào các ngành, các lĩnh vực của  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2