intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 123

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:15

123
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Đào tạo nguồn lực con người, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, lý luận con người, thực thể sinh học xã hội,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 123

  1. Tiểu luận Triết học LỜI MỞ ĐẦU "Dân tộc chúng tôi hiểu đầy đủ  rằng: dân tộc mình là một dân tộc   nghèo,  một   đất  nước   đang  phát  triển   ở  mức  thấp…  Chúng  tôi  hiểu  rõ  khoảng cách giữa nền kinh tế  của chúng tôi và nền kinh tế  của những   nước phát triển trên thế  giới. Chúng tôi hiểu rõ khoa học công nghệ  trong   thế kỷ 21 sẽ có những bước tiến khổng lồ. Thực hiện tư tưởng vĩ đại của   chủ tịch Hồ Chính Minh: Lấy sức ta mà giải phóng cho ta, chúng tôi phải  tri thức hoá Đảng, tri thức hoá dân tộc, tiếp tục tri thức hóa công nông, cả  nước là một xã hội học tập, phát huy truyền thống những ngày mới giành  được độc lập 45, cả  nước học chữ, cả  nước diệt giặc dốt, cả nước diệt   giặc đói… Phải nắm lấy ngọn cờ khoa học như đã nắm lấy ngọn cờ  dân  tộc.  Một dân tộc dốt, một dân tộc đói nghèo là một dân tộc yếu " (Lê  Khả  Phiêu ­ Tổng bí thư  ban chấp hành trung  ương Đảng cộng sản Việt   Nam  ­   Phát   biểu  tại   hội   thảo quốc tế   tại Việt  Nam trong thế   kỷ  20).   Không, dân tộc chúng ta nhất định không phải là dân tộc yếu. Chúng ta đã   từng chiến thắng bọn thực dân Pháp và đề quốc Mỹ. Thắng lợi đó là thắng  lợi của lực lượng trí tuệ  Việt Nam đối với lực lượng sắt thép và đô la  khổng lồ  của Mỹ. Con người Việt Nam đã làm được những điều tưởng   như  không thể  làm được và tôi tin rằng, con người Việt Nam trong giai  đoạn mới với những thử  thách mới vẫn sẽ  làm được những điều kỳ  diệu  như  thế. Đất nước Việt Nam sẽ  sánh vai được với các cường quốc năm  châu cho dù hiện nay chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, rất nhiều sự  đối  đầu. Chính vì niềm tin bất diệt đó mà tôi chọn đề  tài: "Đào tạo nguồn  lực con người và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước" cho tiểu luận triết  1
  2. Tiểu luận Triết học học của mình. Biết đâu, trong chút kiến thức bé nhỏ này lại có điều gì thật   sự hữu ích. 2
  3. Tiểu luận Triết học B. Nội dung I. LÝ LUẬN VỀ CON NGƯỜI  1. Khái niệm chung về con người  Trong xã hội không một ai nhầm lẫn con người với loài động vật,  song không phải vì thế mà câu hỏi "con người là gì" bị trở thành đơn giản,   vì câu hỏi chỉ là chân thực khi con người có khả năng tách ra khỏi bản thân   mình để nhận thức mình với tư cách là hệ thống trong quá trình vận động,  sinh thành. Từ  thời cổ  đại đến nay vấn đề  con người luôn giữ  một vị  trí  quan trọng trong các học thuyết triết học. Các nhà triết học đưa ra rất   nhiều các quan điểm khác nhau về  con người nhưng nhìn chung các quan   điểm triết học nói trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, do đó   đã đi đến những cách lý giải cực đoan phiến diện. Chủ  nghĩa Mác đã kế  thừa và khắc phục những mặt hạn chế  và  đồng thời phát triển những quan niệm hạn chế  về  con người đã có trong   các học thuyết trước đây để  đi đến những quan niệm về  con người hiện   thực, con người hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội. Với tư cách   là con người hiện thực, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội,  đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói cách khác chủ  nghĩa Mác xem xét con người như một thực thể sinh học ­ xã hội. 2. Con người là một thực thể sinh học ­ xã hội. Con người là sản phẩm của tự  nhiên, là kết quả  của quá trình tiến   hóa lâu dài của giới hữu sinh. Con người tự  nhiên là con người sinh học  mang tính sinh học. Tính sinh học trong con người quy định sự  hình thành   những hiện tượng và quá trình tâm lý trong con người là điều kiện quyết  định sự  tồn tại của con người. Song con người không phải là động vật   3
  4. Tiểu luận Triết học thuần túy như  các động vật khác mà là một động vật có tính chất xã hội   với nội dung văn hoá lịch sử của nó. Con người là sản phẩm của xã hội, là   con người xã hội mang bản tích xã hội. Con người chỉ có thể tồn tại được   một khi con người tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất thỏa   mãn nhu cầu sinh học của minh. Lao động sản xuất là yếu tố quyết định sự  hình thành con người và ý thức. Chính lao động đã quy định bản chất xã hội   của con người, quy định cái xã hội của con người và xã hội lại quy định sự  hình thành cá nhân và nhân cách. Vì con người là sản phẩm của tự nhiên và  xã hội nên con người chịu sự  chi phối của môi trường tự  nhiên và xã hội  cùng các quy luật biến đổi của chúng. Với tư  cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn,  con người sản xuất ra của cải vật chất tác động vào tự nhiện để cải tạo tự  nhiên, con người chính là chủ thể cải tạo tự nhiên. Con người là sản phẩm   của tự nhiên song con người có thể thống trị tự nhiên nếu biết nắm bắt và   tuân theo các quy luật của bản thân giới tự  nhiên. Con người không chỉ  là  sản phẩm của xã hội mà còn là chủ  thể  cải tạo xã hội. Bằng hoạt động  sản xuất con người snág tạo ra toàn bộ  nền văn hóa vật chất và tinh thần.  Mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận động theo quy luật khách quan, nhưng   trong quá trình hoạt động, con người luôn luôn xuất phát từ  nhu cầu động  cơ  và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định và do đó đã tìm cách  hạn chế hay mở rộng phạm vi tác dụng của quy luật cho phù hợp với nhu   cầu và mục đích của mình. Như vậy con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội vừa và chủ  thể cải tạo tự nhiên và xã hội. Con người là thực thể thống nhất sinh học ­   xã hội. 3. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà  những mối quan hệ xã hội. 4
  5. Tiểu luận Triết học Xuất phát từ con người hiện thực, Mác đã nhận thấy lao động đóng  vai trò quyết định trong việc phân chia ranh giới giữa con người và động  vật. Vì lao động là hoạt động xã hội nên mọi sự  khác biệt giữa con người   và động vật đều là kết quả của cuộc sống con người trong xã hội. Cá nhân  là thực thể  xã hội và bản chất con người có tính lịch sử  cụ  thể. Điều đó  quy định sự khác nhau của con người trong các thời đại khác nhau, sự khác   nhau này tùy thuộc vào sự phát triển của xã hội, sự thay đổi các quan hệ xã  và giao tiếp. Vì vậy, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ  xã   hội, không chỉ  tổng hoà các mối quan hệ  trong hiện tại mà cả  trong quá   khứ. Tóm lại, bản chất chung nhất, sâu sắc nhất của con người là tổng  hoà các mối quan hệ giữa người và người trong xã hội diễn ra trong hiện   tại và cả trong quá khứ. Bản thân của con người không phải là cố định, bất  biến mà có tính lịch sử  cụ  thể. Chúng ta không thể  hiểu bản chất con   người bên ngoài mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. II. VẤN ĐỀ  ĐÀO TẠO NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP  PHÁT TRIỂN KINH DOANH XàHỘI Ở NƯỚC TA 1. Thế nào là công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Từ quan điểm đổi mới về công nghiệp hóa hiện đại hóa của đại hội  Đảng lần thứ  VII rút ra từ  thực tiễn công nghiệp hóa trên thế  giới và  ở  nước ta, có thể  đưa ra định nghĩa: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá   trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,   dịch vụ  và quản lý kinh tế, xã hội từ  sử  dụng lao động thủ  công là chính  sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương  tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự  phát triển của công  nghiệp và tiến bộ khoa học ­ công nghệ, tạo ra năng suất xã hội cao. 5
  6. Tiểu luận Triết học 2. Nguồn nhân lực con người trong sự  nghiệp công nghiệp hóa,  hiện đại hóa ở nước ta:          Đối với đất nước ta khi chiến lược phát triển đất được xác định là   “đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”  theo  định hướng xã  hội  chủ  nghĩa nhằm  mục tiêu “dân giàu nước  mạnh xã hội công  bằng  minh”, thì vấn đề xác định dúng và huy động có hiệu quả những nguồn lực  vốn có và có thể tạo ra trong tiến trình phát triển càng trở nên quan trọng.         Khi xác định chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay,  Đảng ta đã chỉ  rõ những nguồn lực làm cơ  sở  cho việc thực hiện thành  công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là : nguồn lực con   người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên (tài nguyên thiện nhiên , vị trí địa lý),  cơ  sở  vật chất tiềm lực khoa học­kĩ thuật vốn có các nguồn lực ngoài  nước và kinh nghiệm quản lý.        Lịch sử phát triển chân chính của xã hội loài người là lịch sử phát triển  của con người, do con người ,vì con người. Con người làm ra lịch sử của   chính mình và là động lực của lịch sử  đó. Khi khẳng định chân lý vĩnh  hằng đó, các nhà sáng lập chủ  nghĩa Mác­LêNin đã đồng thời chỉ  rõ, xu  hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử  được quy định bởi sự  phát   triển của lực lượng sản xuất do con người và những công cụ  sản xuất,  bao gồm con người và những công cụ sản xuất do con người tạo ra.          Sự phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ phát triển của   xã hội qua việc con người khai thác và sử dụng nguồn lực tự nhiên để xây   dựng cơ sở vật chất­kỹ thuật cho hoạt động sinh tồn, phát triển của chính  con người và quyết định quan hệ  của con người với con người trong sản  xuất.         Vai trò và tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với phát triển và  tăng trưởng ngày càng được khẳng định, trong tất cả các quốc gia trên thế  giới và đặc biệt là ở Việt Nam. ở nước ta, nguồn nhân lực còn được nhấn  6
  7. Tiểu luận Triết học mạnh là yếu tố nội lực quan trọng nhất để xây dựng đất nước. Tuy nhiên,  sức mạnh của nguồn nội lực này lại bị chi phối bởi  rất nhiều yếu tố khác   nhau, trong đó giáo dục đào tạo đóng vai trò quyết định hàng đầu. 3­Thực trạng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay.          Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ và tốc độ tăng nguồn dân số đến  độ  tuổi lao động là rất cao, trong khi nền kinh tế chưa phát triển lại mất   cân đối ngiêm trọng làm nảy sinh hai vấn đề: tăng năng suất lao độngvà  giải quyết việc làm cho những người lao động trở  nên hết sức bức thiết.   Trong khi đó, khả năng giải quyết việc làm của ta còn rất hạn chế. Vì vậy,   mâu thuẫn cung cầu về số lượng nguồn nhân lực rất lớn, gây sức ép ngày  càng nặng nề  về lao động việc làm. Đây là một trong những nguyên nhân   dẫn đến tình trạng di cư, gây nhiều xáo trộn về  xã hội, môi trường, tác  động nhiều đến cơ  cấu vùng của nguồn nhân lực. Kết hợp vào đó là sự  thiếu quản lý, thiếu kiến thức nên người di dân là lực lượng phá rừng, gây  ô nhiễm môi trường ở cả vùng họ rời đi và nhiều vùng họ đến. Tình trạng  thiếu hụt kĩ năng của người lao động rất rõ rệt. Lao động có tay nghề cao,  công nhân kỹ thuật thiếu do đầu tư cho giáo dục đào tạo chưa đủ, cơ  cấu   đào tạo chưa hợp lý, thiếu cơ  sở định hướng, không xuất phát từ  nhu cầu   thị  trường lao động. Chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung đã được cảI  thiện nhiều nhưng cung về  chất lượng vẫn không thể  đáp  ứng được cầu  về mặt thể lực, trí lực và trình độ  chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao  động, nguồn nhân lực của Việt Nam.              Chất lượng thì như  vậy, lại kết hợp thêm việc phân bổ, sử  dụng  nguồn nhân lực bất cập, thiếu đồng bộ càng làm tăng thêm mâu thuẫn về  cung cầu nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. ở các vùng miền  núi, vùng sâu vùng xa thừa lao động giản đơn nhưng lại thiếu nghiêm  trọng lao động có trình độ, gây rất nhiều khó khăn cho việc phát triển về  7
  8. Tiểu luận Triết học nhiều mặt ở các vùng này. Những nơi cần thì không có, còn những nơi đã  có nhiều rồi như  ở các thành phố  lớn thì lại ngày càng nhiều thêm gây ra  một sự lãng phí rất lớn cho xã hội.          Điểm mạnh của nước ta là số người biết chữ cao so với nhiều nước   trong khu vực hay các nước đang phát triển khác. Nguồn nhân lực nước ta  có động lực hạc tập tốt, thông minh, tự tin cao, khéo léo, có thể thành giỏi   nếu được giáo dục đào tạo tốt. Điểm yếu của nước ta về nguồn nhân lực  chủ yếu là tri thức, nghiệp vụ kinh doanh, tiếp thị, buôn bán, quản lý và tri   thức khoa học kỹ thuật cập nhật. Những hạn chế đó của nguồn nhân lực   nước ta trong cơ  chế  thị  trường và xu thế  hội nhập phát triển rất cần  được khắc phục càng sớm càng tốt bằng mọi biện pháp, khả năng vốn có  của nước ta.         Đó là thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta hiện nay. 3­Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá   hiện đại hoá ở nước ta.         Do một trong ba mặt thể hiện vai trò sáng tạo ra lịch sử  của quần   chúng nhân dân là: hoạtđộng sản xuất ra của cải vật chất vật chất của   quần chúng nhân dân, trực tiếp là nhân dân lao động, là cơ  sở  tồn tại và   phát triển của xã hội. Do nội dung cơ  bản của công nghiệp hoá và hiện  đại hoá là:         Trang bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại trong các ngành   của nền kinh tế quốc dân. Nội dung này được thể hiện qua hai cách:            Tiến hành cách mạng khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ  sở vật chất   kỹ thuật để tự trang bị.          Việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại được thực hiện thông  qua nhân chuyển giao công nghệ mới từ các nước tiên tiến .         Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội.  8
  9. Tiểu luận Triết học                Muốn rõ thực trạng về  nguồn nhân lực của nước ta để  phát huy   những đIểm mạnh, khắc phục và hạn chế  những điểm yếu và đưa ra  được những yêu cầu đối với giáo dục và đào tạo nguoòn nhân lực. Một  mặt phải trực tiếp giải quyết vấn đề chất lượng nguồn nhân lực, về trình  độ  văn hoá và trình độ  chuyên môn kỹ thuật và đồng thời phải giải quyết  vấn đề  nâng cao thể  lực người lao động và số  lượng nguồn nhân lực.  Trong trình tự giải quyết vừa phải đi tuần tự từ tiếp tục xoá mù chữ, phổ  cập tiểu học, trang bị  những kiến thức cơ  bản, đào tạo nghề  từ  sơ  cấp  đến các bậc cao hơn nhưng phải kết hợp tạo ra một bộ phận người lao   động có  chất lượng  cao, số  lượng  không lớn nhưng phải  đạt các tiêu   chuẩn của lao động kỹ  thuật khu vực và thế  giới, đáp  ứng những ngành  công nghiệp mới, các khu công nghiệp và các khu kinh tế mở.         Trước tiên, việc mở rộng quy mô giáo dục đào tạo là rất cần thiết.   Những cố gắng mở rộng quy mô giáo dục đào tạo của nước ta vẫn không  theo kịp được tốc độ gia tăng dân số.           Quy mô mọi ngành học, bậc học hiện nay đều chưa đáp  ứng được   yêu cầu theo học của mọi lứa tuổi. Nhìn chung, số học sinh và số trường,  lớp  ở  mọi ngành học từ  mẫu giáo, các cấp phổ  thông, trung học chuyên  nghiệp, cao đẳng, đại học đều tăng. Riêng đối với hệ thống đào tạo nghề  thì quy mô vủa hệ  thống trung tâm xúc tiến việc làm và dạy nghề, trung  tâm kỹ  thuật tổng hợp, hướng nghiệp và gần 1000 cơ  sở  dạy nghề  bán  công, dân lập, tư  thục…Quy mô đào tạo có chuyển biến nhờ  tăng cường   hình thức đào tạo ngắn hạn.         Phải khắc phục sự mất cân đối trong cơ cấu ngành học, bậc học của  giáo dục đào tạo. Giáo dục mầm non có tầm quan trọng đặc biệt đứng từ  góc độ  chuẩn bị  nền tảng cả  về  thể  lực và trí lực cho nguồn nhân lực.  Giáo dục phổ  thông, đặc biệt là giáo dục học, theo kinh nghiệm của các  nước đang phát triển, là một trong những yếu tố  quan trọng nhất quyết   9
  10. Tiểu luận Triết học định các cơ  hội và tăng trưởng kinh tế. Giáo dục đào tạo chuyên môn   nghiệp vụ  kỹ  thuật ngoài ý nghĩa với tăng trưởng kinh tế  còn đặc biệt  quan trọng trong việc phát triển đón bắt, giảm nguy cơ tụt hậu. Tuy nhiên,  những bất cập giữa các loại ngành đào tạo, giữa các bậc học đã gây khó   khăn không ít cho sự phát triển. Một số ngành thì được học sinh, sinh viên  theo học. Nếu không có sự đIều chỉnh kịp thời, Việt Nam sẽ nhanh chóng  gặp phải khó khăn về  đội   ngũ kỹ  sư, công nhân kỹ  thuật như   ở  nhiều  nước Asean, nhất là của Thái Lan.          Giáo dục đào tạo ở thành phố, đồng bằng có điều kiện phát triển hơn   ở nông thôn, vùng sâu kiện phát triển hơn ở nông thôn, vùng núi, vùng sâu  vùng xa.Vì vậy, vấn đề  khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, giữa   thành thị  và nông thôn, vấn đề  thực hiện công bằng xã hội cũng trở  nên   phức tạp hơn. Muốn nâng cao trình độ  của nguồn nhân lực  ở  các vùng  nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, chính sách cấp học bổng, giảm   học phí, ưu tiên các học sinh nghèo vượt khó là điều kiện cơ bản đầu tiên  tạo cơ hội được giáo dục đào tạo nguồn nhân lực.         Yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng nguồn nhân lực có đáp   ứng được yêu cầu phát triển hay không đó là đổi mới mục tiêu, nội dung,   chương trình và phương pháp giáo dục đào tạo. Việc hội nhập và cạnh  tranh kinh tế  đòi hỏi hàng hoá phải đạt tiêu chuẩn quốc tế  để  tăng thêm  khả  năng cạnh tranh trên thị  trường thế  giới, từ  đó nảy sinh yêu cầu về  trình độ  công nghệ  và trình độ  sử  dụng các công nghệ  đó cũng ngày càng  phải được nâng cao. Ngoài giáo dục đào tạo văn hoá, chuyên môn, nghiệp  vụ về mặt lý thuyết, cần chú ý đén khâu thực hành, ứng dụng, giáo dục kỹ  thuật, tác phong lao động công nghiệp, rèn luyện kỹ  năng thích  ứng của  người lao động với những đặc đIểm của nền kinh tế thị trường. Kết hợp  với các cấn đề  giáo dục đó là giáo dục liên quan đến dân số, sức khoẻ,   10
  11. Tiểu luận Triết học giới tính để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm sức ép đối với quy   mô và chất lượng giáo dục.         Trong điều kiện của Việt Nam ta hiện nay, yêu cầu đa dạng hoá các   loại hình giáo dục đào tạo rất cần thiết để  vừa bổ  xung, cải thiện hiện   trạng nguồn nhân lực, khắc phục những bất hợp lý về  phân bổ  nguồn  nhân lực, những khó khăn về  nguồn lực, nhất là về  tài chính, nâng cao  hiệu quả  của đầu tư  cho giáo dục đào tạo đồng thời phục vụ  được yêu  cầu phát triển, đón bắt, đuổi kịp. Đối với giáo dục hướng nghiệp vẫn   được kết hợp với một quy hoạch, kế  hoạch phát triển toàn diện và một  chính sách sử  dụng sau đào tạo hợp lý, có sức thuyết phục để  giảm lãng  phí giáo dục đào tạo của xã hội và của gia đình. Người lao động đào tạo ra  được làm việc đúng ngành, đúng nghề, đúng khả  năng và sở  trường của  mình. Ngoài ra, giáo dục hướng nghiệp cũng đòi hỏi phải có công tác dự  báo nghề  để  làm giảm nguy cơ  tụt hậu. Giáo dục đào tạo chính quy, dài  hạn  là  cơ   sở   để   hình  thành  một  bộ  phận  người  lao   động  có  trình  độ  chuyên môn, kỹ  thuật cao, có kỹ  năng tiếp cận với khoa học, công nghệ  mới, hiện đại. Ngoài ra, cần mở rộng các loại hình đào tạo ngắn hạn để  cải thiện hiện trạng nguồn nhân lực hiện nay và nhanh chóng nâng cao số  lao động đã qua đào tạo của ta lên. Giáo dục đào tạo tại chức và từ xa cần  chú ý hơn nữa đến chất lượng và hiệu quả giáo dục.         Việc sử dụng tốt hơn, phân bổ hợp lý hơn nguồn lực đã có, đa dạng  háo và khai thác mọi nguồn lực khác cho giáo dục đào tạo rất cấp thiết.  Nguồn tài chính hạn hẹp hiện được coi là thách thức lớn đối với hệ thống   đào tạo nghề.         Tóm lại, giáo dục đào tạo là xu hướng và đòi hỏi ngày càng cấp bách  không chỉ   ở nước ta mà  ở  các nước đang phát triển cũng vậy. Trong thời  đại ngày nay, khi thông tin, khoa học, kỹ  thuật trở  thành lực lượng sản   xuất trực tiếp và đã nảy sinh nhiều ngành nghề  mới cũng như  làm nhiều  11
  12. Tiểu luận Triết học ngành nghề  cũ bị co hẹp hoặc thậm chí biến mất. Một hướng giải quyết   khả  thi là Nhà nước nên có chính sách quy định các doanh nghiệp phải có   trách nhiệm đào tạo lại không chỉ  số  người còn làm việc mà cả  với đố  người sẽ  bị  sa thải do không còn phù hợp với công việc  ở  doanh nghiệp,  để số người này vẫn còn cơ hội tìm việc làm mới. 5­ Những thành tích đã đạt được của việc giáo dục đào tạo nguồn nhân lực          Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đã tác động và làm   biến đổi mạnh mẽ lao động xã hội theo hướng tăng tỷ trọng của lao động  trí tuệ, giảm bớt các hoạt động chân tay, làm cho lao động trí tuệ trở thành   hoạt động cơ  bản của con người. Việc  ứng dụng ngày càng rộng rãi tri  thức vào sản xuất và tổ chức lao động đã làm cho tri thức nhanh chóng trở  thành yếu tố sản xuất quan trọng nhất, thành nguồn lực kinh tế cơ bản và  chủ  yếu. Vai trò của các yếu tố  sản xuất truyền thống như  đất đai, tài  nguyên thiên nhiên, vốn…dẫu không mất đi song đã trở thành thứ yếu. Các  nghiên cứu trắc lượng gần đây cho thấy chỉ  một phần nhỏ  của sự  tăng  trưởng có thể giải thích bởi đầu tư vào vốn, còn phần quan trọng của tăng   trưởng gắn liền với chất lượng lao động.           Trong những năm chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới, người dân   được tự  do kinh doanh những lĩnh vực pháp luật không cấm; trong sinh   hoạt tư tưởng, người dân cũng được tự  do thảo luận hơn rất nhiều nhiều   so với trước; dân chủ ở cơ sở được thể chế hoá đã có tác dụng tích cực; sự  thảo luận và đối thoại trong Quốc hội thẳng thắn, công khai; sự khiếu kiện   của dân được giải quyết kịp thời hơn; nhân dân được tham gia trực tiếp  vào những vấn đề trọng đại của đất nước. Điều này chứng tỏ nguồn nhân  lực của nước ta có trình độ  ngày càng được khẳng định và được trọng   dụng.         Những thành tích của giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đào tạo   nguồn nhân lực nói riêng là to lớn nhờ đó mà mặc dù một số chỉ tiêu khác  12
  13. Tiểu luận Triết học như  thu nhập bình quân đầu người chưa cao nhưng Việt Nam vẫn có chỉ  số HDI tương đối cao, được xếp vào các nước có trình độ phát triển trung  bình. Tuy nhiên, so với những yêu cầu phát triển kinh tế  xã hội thì giáo  dục đào tạo của nước ta hiện nay còn chưa đáp  ứng được. Những phân   tích trên đây cho thấy giáo dục đào tạo cần và có thể  giúp cho việc giải   quyết những mâu thuẫn giữa cung và cầu không chỉ về số lượng mà cả về  chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá  của nước ta hiện nay.   6­Xây dựng môi trường xã hội tạo điều kiện để phát huy yếu tố con người.         Con người là chủ thể đồng thời là sản phẩm của sự vận động xã hội.  Vì vậy muốn phát huy được yếu tố  con người cần phải có môi trường   thuận lợi. Việc giải phóng lực lượng sản xuất được thực hiện trước tiên  và chủ  yếu là xoá bỏ  những cơ  chế  đã và đang kìm hãm tính tích cực chủ  động sáng tạo của người lao động đồng thời phải xây dựng một cơ  chế  mới bảo đảm thực hiện giải phóng người lao động về mọi mặt.         Cần xây dựng chính sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực đặc   biệt là người tài. Đây là điều kiện quan trọng, trước hết nguồn nhân lực  đào tạo tốt có cơ hội tìm kiếm việc làm phù hợp với nguyên tắc phân phôí  theo lao động đảm bảo công bằng trong kinh tế. III­Kết luận                   Trong điều kiện nước ta hiện nay, để  chiến lược phát triển treo   hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đi đến thắng lợi, chúng ta phải lấy  nguồn lực con người Việt Nam ­ “ nguồn lực quan trọng nhất ” trong các   nguồn lực, nguồn lực nội sinh ­ làm động lực cho sự  phát triển lâu bền.   Để bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam với tư cách đó,  chúng ta cần phải tạo ra mối quan hệ  hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế  nhanh với tiến bộ  xã hội, đảm bảo công vụ  và quyền lợi công dân, cải  thiện và nâng chất lẫn tinh thần; giải quyết hợp lý mối quan hệ  giữa lợi   13
  14. Tiểu luận Triết học ích lâu dài và lợi ích trước mắt, lợi ích quốc gia, dân tộc và lợi ích tập thể,  lợi ích cá nhân; không ngừng nâng cao trình độ  học vấn, văn hoá cho họ  trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà  bản sắc dân tộc. 14
  15. Tiểu luận Triết học Các tài liệu tham khảo:  ­Triết học Mác­Lê nin­Nhà xuất bản chính trị quốc gia ­Địa lý kinh tế Việt Nam ­Kinh tế chính trị ­Tạp trí những vấn đề kinh tế thế giới, số 1/1999 ­Tạp chí cộng sản, số 21,15 ­Triết học số 3(115)        15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2