intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 85 - Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:41

71
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận Triết học, triết học Mac Lenin, Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 85 - Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT LỜI MỞ ĐẦU Kể  từ  sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ  lần thứ  ba (1913 – 1950), sự  phát  triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực  lượng sản xuất vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, mở  rộng trên phạm vi toàn thế  giới theo cả chiều rộng và chiều sâu. Do đó, tất cả  các quốc gia không phân biệt trình độ  đã và đang hình thành mối quan hệ gắn bó lẫn nhau. Đường biên giới quốc gia và khoảng   cách địa lý trở nên mờ nhạt, các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu nối tiếp nhau ra đời.   Sự ra đời của các tổ  chức lớn như WTO, APEC, NAFTA và gần đây là sự  ra đời của các  khu vực đồng tiền chung Euro đã là ví dụ điển hình trong thiên niên kỉ mới này, cuộc cách  mạng công nghệ tiếp tục đi sâu, mở rộng ứng dụng công nghệ tin học sẽ là động lực chính  thúc đẩy hơn nữa quá trình hội nhập kinh tế, toàn cầu hoá. Trước bối cảnh toàn cầu như vậy, công cuộc phát triển kinh tế của nước ta   không thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hoá. Nhận thấy được tình hình kinh tế của   đất nước đang gặp khó khăn, tháng 12/1986 Đảng và Nhà nước quyết định chuyển  đổi nền kinh tế  từ  tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế  thị  trường theo định  hướng xã hội chủ nghĩa. Trong chiến lược phát triển kinh tế, vấn đề hội nhập nền   kinh tế thế giới, tăng cường hợp tác kinh tế các nước và các tổ chức quốc tế đang  là vấn đề  được quan tâm. Với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan  hệ” và “là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình,  độc lập và phát triển”. Việt Nam đã thiết lập quan hệ  ngoại giao với hơn 160   nước và hầu hết các tổ  chức quốc tế  và khu vực quan trọng. Với  việc gia nhập   PECC (01/1995), ASEAN (07/1995), ký kết hiệp định chung về hợp tác kinh tế với   EU (7/1995), tham gia APEC (11/1998), và đang chuẩn bị  tích cực cho các cuộc   đàm phán gia nhập Tổ  chức thương mại thế  giới (WTO). Việt Nam t ừng b ước   vững   chắc   hội   nhập   sâu   rộng   vào   nền   kinh   tế   khu   vực   và   thế   giới.   Ngày 
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị Quyết về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm cụ  thể hoá một chủ trương lớn được nêu ra tại Đại hội lần thứ IX của Đảng là: “Chủ  động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,   nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội  chủ  nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi  trường”. Những vấn đề nêu trên là những vấn đề  mà em rất tâm huyết, rất quan tâm  và đó cũng là lí do, là sự  thôi thúc em chọn đề  tài: “Việt Nam trong xu thế  hội   nhập và phát triển dưới con mắt triết học”. Và em hi vọng đề  tài này sẽ  giải đáp được phần nào thắc mắc về  vấn đề  hội nhập và toàn cầu hoá ở nước ta hiện nay. 
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT PHẦN 1 CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.Lý luận triết học Phép biện chứng đã khẳng định: các sự  vật, các hiện tượng, các quá trình  khác nhau của thế  giới có mối liên hệ  qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, và  cũng đồng thời khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ  sở của các  mối liên hệ đó.   Các sự  vật, hiện tượng tạo thành thế  giới, dù có đa dạng, phong phú, có   khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ  là những dạng khác nhau của một thế  giới duy nhất, thống nhất – thế  giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng   không thể  tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự  tác động qua lại,  chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ  sở  đó, triết học  duy vật biện chứng khẳng định rằng, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ  sự quy định, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt   của một sự  vật, của một hiện tượng trong thế giới. Do đó mọi mối liên hệ  đều  mang tính khách quan, là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ  không chỉ  mang tính khách quan, mà còn mang tính phổ  biến.  Bởi lẽ, bất cứ  sự  vật, hiện tượng nào cũng liên hệ  với sự  vật hiện tượng khác.  Không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay  không một quốc gia nào không có quan hệ, không có liên hệ với các quốc gia khác  về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế mà hiện nay trên thế giới đã và đang  xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của đời sống xã hội.   Nhiều vấn đề  đã và đang trở  thành vấn đề  toàn cầu như  : đói nghèo, bệnh hiểm  nghèo, môi trường sinh thái, dân số  và kế  hoạch hoá gia đình, chiến tranh và hoà  bình…Ngoài ra, mối liên hệ  được biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ 
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT thể theo điều kiện nhất định Song, dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ  là biểu  hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Mặt khác, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự  quy định, sự  tác  động qua lại, sự  chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự  vật, hiện tượng hoặc giữa các  mặt của sự vật hiện tượng, mà sự vật hiện tượng luôn tồn tại và vận động không  ngừng theo nhiều cách thức khác nhau. Do đó mà mối liên hệ  còn mang tính đa   dạng. Và trong mỗi sự vật hiện tượng có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ,   chứ không phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định.  2.Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan của các nước    trong   giai đoạn hiện nay “Toàn cầu hoá” là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, mà   trước hết là tiến trình hội nhập kinh tế  quốc tế  đang diễn ra sôi động. Cách đây  hơn 150 năm, Các Mác đã dự báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành hiện thực.   Theo ông, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế  thị  trường, phản ánh trình độ  phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội mà ở  đó, phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá sản xuất trở thành phổ biến.  Trong lịch sử, trước khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, do trình độ lực  lượng sản xuất thấp kém, giao thông chưa phát triển, việc sản xuất và trao đổi   hàng hoá còn bị giới hạn trong các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, năng suất thấp nên  chưa có thị  trường thế  giới theo nghĩa hiện đại. Từ  khi phương thức sản xuất   TBCN ra đời, đặc biệt là từ  khi diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, đời sống   kinh tế các nước có sự thay đổi căn bản. Tình trạng tự cấp, tự túc và bế quan toả  cảng của các địa phương, các dân tộc trước kia được thay thế bằng sự sản xuất và   tiêu dùng mang tính quốc tế. Tuy nhiên, cho đến trước Thế chiến thứ 2, hình thức   quốc tế hóa chủ yếu vẫn là phân công áp đặt trực tiếp, tức là các nước phát triển   áp dụng chiến tranh xâm lược và bạo lực để  thống trị  các nước lạc hậu, bóc lột, 
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT vơ  vét tài nguyên và tiêu thụ  hàng hoá. Trong đó, mỗi nước đế  quốc có một hệ  thống thuộc địa riêng, phân công lao động và quốc tế  hoá còn mang tính chất cát  cứ, làm cho các nước lạc hậu không thoát khỏi tình trạng khó khăn trì trệ. Từ  sau Thế  chiến 2, do tác động mạnh mẽ  của cách mạng khoa học – kỹ  thuật, lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hết sức nhanh   chóng. Thêm vào đó là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, làm cho hệ  thống phân công lao động quốc tế theo lối áp đặt trực tiếp phải sụp đổ và thay thế  bằng hệ thống phân công mới gọi là toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là  quá trình phát triển mới của phân công lao động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi   biên giới một quốc gia vươn tới qui mô toàn thế giới, đạt trình độ chất lượng mới.  Như  vậy, toàn cầu hóa kinh tế  là kết quả  tất yếu của quá trình xã hội hoá   sản xuất, của tốc độ  phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt nguồn từ  sự  thúc đẩy của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nó là kết quả tất yếu của  sự  phát triển sâu rộng nền kinh tế  thị  trường trên phạm vi toàn thế  giới, sự  gia   tăng phân công lao động quốc tế, sự  mở  rộng hơn nữa trong không gian và thời   gian các mối quan hệ giao lưu phổ biến của loài người và sự hiện diện nóng bỏng  của những vấn đề  toàn cầu cấp bách. Nói cách khác, nó là kết quả  của các quá   trình tích luỹ  về  số  lượng đã tạo ra một khối lượng tới hạn để  số  lượng biến  thành chất mới; xu hướng quốc tế  hóa, khu vực hoá đã chuyển thành xu hướng  toàn cầu hoá trong thời đại ngày nay. Nó là một trong những xu thế lịch sử tất yếu   do quy luật phát triển của lực lượng sản xuất chi phối.  Và trong đó đặc trưng nổi bật  của toàn cầu hoá kinh tế  là nền kinh tế  thế  giới tồn tại và phát triển như  một chỉnh thế, trong đó mỗi quốc gia là một bộ  phận, có quan hệ  tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú.  Tham gia toàn cầu hoá kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị, xã   hội, vẫn là các chủ  thế  tự  quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con đường phát 
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT triển của mình. Toàn cầu hoá kinh tế  làm cho các quốc gia ngày càng phụ  thuộc  vào nhau về  vốn, kỹ  thuật, công nghệ, nguyên liệu và thị  trường. Đến nay toàn  cầu hoá kinh tế đã cuốn hút nhiều quốc gia ở khắp các châu lục, đã có 27 tổ chức  kinh tế  khu vực và toàn cầu ra đời và hoạt động [ Thẩm Kỳ  Như  – Trung Quốc   không làm bất tiên sinh…Viện TTKH, Học viện CTQG HCM, H1999, tr358­359 ]  Đây là sự  phát triển mới chưa từng có. Lịch sử  đã chứng tỏ  không một quốc gia   nào, dù lớn và giàu đến đâu, cũng không thể  sản xuất được tất cả  các sản phẩm  đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta không quên 100 năm về trước Trung Quốc đóng  cửa nền kinh tế để rồi phải chịu sự thụt lùi về  mọi mặt. Thành tựu có được như  ngày nay là nhờ  vào mở  cửa kinh tế.Như  vậy rõ ràng xu thế  này là xu thế  phát  triển tất yếu của thời đại không thể  khác được. Chỉ  có những quốc gia nào nắm   bắt nhịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức mới đứng vững và  phát triển. Cự tuyệt hay khước từ toàn cầu hoá kinh tế tức là tự gạt mình ra ngoài  lề của sự phát triển.
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT II. CƠ SỞ THỰC TẾ : 1.Tình hình quốc tế  và khu vực làm nảy sinh và phát triển quá trình hội   nhập. Đại hội VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ kinh tế đối  ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị  thế nước ta trên trường quốc tế”. Đại hội lần thứ IX khẳng định chủ trương “phát  huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập  kinh tế  quốc tế  để  phát triển nhanh, có hiệu quả  và bền vững”.[Trích văn kiện  Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  IX – trang 89] Chủ  trương hội nhập kinh tế  quốc tế  được đề  ra trong bối cảnh tình hình thế  giới và khu vực diễn ra nhanh   chóng, phức tạp, khó lường trước được, với những đặc điểm sau: Trong hơn thập kỉ  qua, kinh tế  thế  giới nhìn chung phát triển không đồng  đều. Trên thế giới đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả là cuộc  khủng hoảng kinh tế – tài chính nổ  ra năm 1997. Vị thế  các nước và các khu vực   thay đổi theo hướng: kinh tế Mỹ phát triển nhanh và  ổn định liên tục trong nhiều  năm và đến 2002 bắt đầu suy giảm; kinh tế  Tây Âu hiện không còn phát triển   nhanh như các thập kỉ trước; kinh tế Nhật suy thoái chưa có lối ra; các nước thuộc   Liên Xô trước đây và nước Đông Âu rơi vào tình trạng suy thoái kéo dài, vài năm   gần đây tăng trưởng tương đối khá; kinh tế  Trung Quốc phát triển ngoạn mục;  Đông Nam á và Đông á phát triển nhanh vào bậc nhất thế giới trong những thập kỷ  trước, tuy nhiên vừa qua đã rơi và suy thoái và nay đang hồi phục; Nam Á và Châu  Phi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ  kéo dài; kinh tế  Mỹ  latinh có khá hơn  song cũng không ổn định. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão.   Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ  hiện nay đang tác động đến tất cả  các  nước trên thế giới với những mức độ khác nhau, đưa lại những thành quả cực kỳ 
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT to lớn cho nhân loại và những hậu quả xã hội hết sức sâu sắc. Công nghệ thông tin   đang là nhân lõi của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nó phản ánh  giai đoạn mới về chất của sản xuất, trong đó hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ  yếu trong sản phẩm. Công nghệ  sinh học là bước đột phá vào thế  giới đầy bí   hiểm của sự  sống, tạo ra một tiềm năng to lớn cho việc sản xuất các vật phẩm   phục vụ cho nhu cầu của con người như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa b ệnh   và các vật liệu công nghiệp thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người. Công   nghệ  vật liệu mới, công nghệ  năng lượng mới, công nghệ  hàng không vũ trụ  …  mở  ra một tiềm năng mới cho loài người chinh phục tự nhiên, chinh phục vũ trụ.   Tự động hoá trong sản xuất ngày càng giải phóng con người khỏi những công việc  nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ xã hội. Xu thế  toàn cầu hoá kinh tế  diễn ra mạnh mẽ,  ảnh hưởng đến cuộc sống  của tất cả  các dân tộc trên thế  giới. Ngày nay các nền kinh tế  của các quốc gia  gắn bó hữu cơ  và tuỳ  thuộc vào nhau. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh  tế gia tăng. Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao động quốc tế  đạt tới trình độ ngày càng cao. Phương châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà máy   của mình, lấy các nước làm phân xưởng của mình, qua đó phân công lao động   quốc tế có thể lợi dụng ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của   các nước, thúc đẩy quá trình quốc tế  hoá sản xuất phát triển nhanh chóng. Trong   quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế dẫn tới sự ra  đời, rồi hợp nhất của nhiều tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính quốc tế  và  khu vực, như  Tổ  chức thương mại thế  giới (WTO), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF),   Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu âu (EU), khu vực thương mại tự do Bắc   Mỹ (AFTA)… Hiện nay, các nước lớn, nhỏ  đều giành  ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo   đuổi chính sách kinh tế  mở. Nay những nước có tiềm năng và thị  trường lớn như 
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT Trung Quốc, Nga, ấn Độ, Mỹ…và cả một số nước vốn khép kín, theo mô hình tự  cung tự cấp cũng dần dần mở cửa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế  khu vực  và thế giới. Mặt khác cộng đồng thế  giới đang đứng trước những vấn đề  toàn cầu mà   không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự  hợp tác đa  phương như: bảo vệ  môi trường, hạn chế  sự  bùng nổ  dân số, đẩy lùi dịch bệnh   hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế… Tuy nhiên trong xu thế  đó, các nước công nghiệp phát triển, đứng đầu là   Mỹ, do có  ưu thế  về  thị trường, nắm được tiến bộ  khoa học­ công nghệ, có nền  kinh tế phát triển cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế giới, áp đặt điều   kiện với những nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp thô bạo  như  bao vây cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nước đang phát  triển và chậm phát triển. Trước tình hình đó các nước đang phát triển đã từng   bước tập hợp nhau lại, đấu tranh chống chính sách tăng cường quyền áp đặt của  Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế bình đẳng, công bằng.     ở khu vực Đông Nam áđã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù trải qua   cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính trầm trọng trong thời gian 1997 ­1998, song   vẫn là khu vực có nhiều tiềm năng do vị  trí địa lý chính trị  và địa lý kinh tế  của   mình, dung lượng thị trường lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào, được đào  tạo tốt, có quan hệ quốc tế rộng rãi. Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng đặt ra   nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển đất nước nói  chung và quá trình hội nhập kinh tế  quốc tế nói riêng. 2.Hội nhập kinh tế với các nước đang phát triển
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT Thế  giới  ở  vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế  kỷ  đang chứng kiến   những đổi thay sâu sắc trên tất cả mọi lĩnh vực, từ sản xuất vật chất đến đời sống  tinh thần xã hội. Toàn cầu hoá nổi lên như một trong những xu hướng chủ đạo chi  phối hệ thống quan hệ quốc tế hiện đại. Xét trên phương diện sản xuất vật chất   xã hội, một giai đoạn mới của lịch sử nhân loại đang từng bước quá độ  từ xẫ hội   gắn với nền văn minh công nghiệp lên nấc thang phát triển cao hơn. Nấc thang  phát triển này được đặc trưng bởi công nghệ  và cơ  cấu kinh tế  mới – kinh tế  tri   thức, trên cơ sở áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến, các  phương tiện truyền tin hiện đại và máy tính. Nhìn một cách tổng quát, toàn cầu hoá kinh tế  là quá trình phổ  biến theo  hướng nhất thể hoá trên phạm vi toàn cầu những giá trị, tri thức, những hoạt động,   những mô hình – cấu trúc trong lĩnh vực kinh tế  và cả  khoa học, kỹ  thuật. Trong  đó các nước đang phát triển tham gia với động lực cơ  bản là nhằm mở  rộng thị  trường xuất khẩu, tạo mối liên kết thương mại giữa các quốc gia, các khu vực với  nhiều hình thức phong phú, hoạt động có hiệu quả. Và cho đến nay, một số  các  quốc gia đang phát triển đã đạt được những tiến bộ  vượt bậc ví như  : ở  khu vực  Đông Nam á có Thái Lan, Malayxia, Singapo đã chuyển mạnh sang kinh tế hướng  về xuất khẩu và thu được những thành quả tốt. Xét về việc mở rộng và đa dạng các mối liên kết thương mại thì chính sách  tỷ giá, chính sách giảm thuế xuất nhập khẩu, bãi bỏ  hàng rào thuế  quan, phi thuế  quan đã làm cho hoạt động thương mại tại các nước mở  rộng thị  trường và tăng  khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.  Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế,điều chúng ta thấy rõ là thị trường   vốn có mối liên kết chặt chẽ  hơn nhiều. Các nước đang phát triển có cơ  hội hội   nhập với thị trường tài chính toàn cầu. Nhờ vậy mà loại bỏ việc kiểm soát đối với  đồng vốn chảy vào, đồng thời cũng bãi bỏ dần những hạn chế trong thanh toán và  
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT giao dịch thông qua tài khoản. Hiện nay, nhiều nước đã chấp nhận thả  nổi đồng   tiền, đã làm cho đồng vốn đổ vào các nước này tăng nhanh. Mặt khác, hội nhập kinh tế trong thời gian qua có tác động tích cực đến việc   ổn định kinh tế vĩ mô. Nhiều quốc gia đang phát triển đã mở cửa thị trường thu hút  vốn, một mặt thúc đẩy công nghiệp hoá, một mặt tăng tích luỹ  từ  đó cải thiện   mức thâm hụt ngân sách. Chính sự   ổn định kinh tế  vĩ mô này đã tạo niềm tin cho   các chương trình phát triển hỗ  trợ  cho những quốc gia thành công trong cải cách   kinh tế và mở cửa. Ngoài ra, hội nhập kinh tế  tạo ra nhiều cơ  hội việc làm mới và nâng cao  mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.       Chính những mặt thuận lợi này mà hội nhập kinh tế quốc tế có sức mạnh  to lớn. Nó kéo tất cả các quốc gia dù lớn, dù nhỏ, dù giàu hay nghèo đều bị  cuốn  vào. Tuy nhiên điều đáng nói  ở  đây là chủ  nghĩa tư  bản hiện đại với  ưu thế  về  vốn và công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình toàn cầu   hoá nói chung và toàn cầu hoá kinh tế nói riêng thành quá trình tự do hoá kinh tế và  áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư  bản chủ nghĩa. Bởi vậy, tất cả các nước, nhất là  các nước đang phát triển, đều phải tìm kiếm các đối sách để  thích  ứng với quá   trình toàn cầu hoá đa bình diện và đầy nghịch lý. Sau hàng thế  kỷ  đấu tranh kiên cường, anh dũng, các dân tộc thuộc địa và  phụ  thuộc đã thoát khỏi ách đô hộ  của chủ  nghĩa thực dân, đế  quốc, giành được  độc lập dân tộc và chủ  quyền. Mặc dù vậy, bức tranh kinh tế  – xã hội của các   nước chậm phát triển và đang phát triển vẫn đang ngày càng có nhiều biểu hiện   đáng lo ngại về sự  tụt hậu so với trình độ  của các nước phát triển. Khoảng cách   ấy không những không được khắc phục, rút ngắn mà còn thực sự  trở  thành nguy   cơ chia cắt thế giới làm hai nửa khác biệt: vài chục quốc gia tiên tiến đã vượt hơn  
  12. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT 100 quốc gia thuộc “thế giới thứ ba” hàng vài thập niên phát triển hoặc gấp trăm  lần chênh lệch về thu nhập bình quân GDP tính theo đầu người. Các nước này tuy đã giành được độc lập, đó là một thành quả vô cùng quan  trọng, song các nước này hầu hết lại là các nước nghèo, còn lạc hậu. Cho nên, họ  vẫn bị  phụ  thuộc vào hệ  thống kinh tế  của chủ  nghĩa tư  bản : từ  khai thác – sử  dụng tài nguyên, quy trình sản xuất, vốn, kỹ thuật – công nghệ đến thị trường tiêu   thụ  cũng như  phân công lao động quốc tế… Các nước đang phát triển đang phải  đối diện trước thách thức của nguy cơ  tụt hậu ngày càng xa về  kinh tế. Bởi một   cơ  cấu kinh tế  còn nhiều bất hợp lý, trong đó tỷ  trọng công nghiệp nhỏ  bé trong  tổng giá trị thu nhập quốc dân, cộng thêm với trình độ  thấp kém về  năng suất lao   động, cho nên tốc độ phát triển kinh tế của đa số các nước đang phát triển thấp và   bấp bênh. Trong thập niên 60, các nước đang phát triển đạt mức tăng trưởng 5,7%,  thập niên 70 đạt 5,3% thì đến thập niên 80 là 2% và những năm vừa qua của thập   niên 90 tuy tình hình có được cải thiện, song cũng chỉ đạt mức trên 4% trong khi tỉ  lệ tăng dân số vẫn còn ở mức trên 2%/năm. Không những thế  vấn đề  nợ  nước ngoài cũng trở  thành gánh nặng đối với  các nước đang phát triển. Số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy, nợ nước   ngoài của các nước này đã tăng hơn 300 lần trong 4 thập niên qua : từ  6 tỉ  năm  1995 lên trên 2000 tỉ  đầu năm 2000. Trong đó, có những nước mà tổng số  nợ  đã  vượt xa so với tổng thu nhập quốc dân. Những bi kịch về nợ nước ngoài của các   nước đang phát triển không chỉ được biểu hiện  ở  tổng số nợ khổng lồ mà còn là   tình trạng nhiều nước không có khả  năng thanh toán dù chỉ  là lãi suất hằng năm,  trong khi dó tốc độ của các khoản vay vẫn gia tăng và không hề có dấu hiệu giảm   bớt.
  13. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT Cùng với  nợ  nần là tình trạng bất bình đẳng trong trao  đổi mậu dịch –  thương mại giữa các nước đang phát triển và phát triển. Chỉ tính riêng qua trao đổi  không ngang giá, các nước phát triển mỗi năm thu về món lợi hàng chục tỉ USD.  Mặt khác, vẫn tiếp tục diễn ra sự phân biệt đối xử với hàng hóa – sản phẩm  của các nước đang phát triển khi thâm nhập thị  trường các nước phát triển. Qua  con đường đầu tư, chuyển giao kỹ  thuật – công nghệ, các cường quốc tư  bản   không chỉ  thu lợi do bán các thiết bị  công nghệ  lạc hậu và gây ô nhiễm mà còn  khống chế  nhiều huyết mạch kinh tế  quan trọng của các nước đang phát triển.  Còn các nước đang phát triển, do áp lực bức bách của nhu cầu cải thiện đời sống  kinh tế, đã dễ dàng chấp nhận “chào đón” bất kỳ sự cải tiến kỹ thuật – công nghệ  nào, bất kỳ nguồn vốn tư bản nào. Sự đơn giản dễ dãi này, mặc dù trước mắt có   thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, song rất có thể phải trả giá đắt bởi các hậu quả  kinh tế xã hội khó lường. Do vậy, lựa chọn kỹ thuật – công nghệ, cơ cấu kinh tế,  mô hình kinh tế – xã hội đang đặt ra những tiêu chuẩn phức tạp hơn để có thể tận  dụng mọi cơ  hội phát triển cho cả  ngày mai, không chỉ  vì những cái lợi tức thời   trước mắt. Đó là những vấn đề trên con đường hợp tác giữa các nước đang phát triển và  các nước phát triển, vậy còn hợp tác giữa các nước đang phát triển với nhau thì  sao? Con đường này cũng gặp nhiều trở ngại bởi lẽ các nước này đều có sự tương   đồng về trình độ phát triển cũng như các lợi thế về nguồn tài nguyên, nhân lực và  thị trường…trong khi tất cả đều thiếu vốn, kỹ thuật – công nghệ và tri thức quản   lý hiện đại. Hơn nữa, những lợi thế  nêu trên dưới tác động của cuộc cách mạng   khoa học – công nghệ  và toàn cầu hoá hiện nay không còn có vai trò, ý nghĩa nổi   bật như các thập niên trước đây. Điều đó cho thấy, các nước đang phát triển cần  thiết phải có cách tiếp cận mới trong hợp tác cùng nhau. Chỉ  có như  vậy, khuôn   khổ và cơ chế hợp tác mới thực sự trở nên hữu ích và thiết thực đối với các nước  
  14. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT đang phát triển. Đồng thời, nó đóng góp và việc phối hợp các nỗ lực chung của các   nước đang phát triển nhằm từng bước khắc phục và hạn chế những hậu quả tiêu   cực của toàn cầu hoá cũng như trong quá trình xúc tiến quan hệ với các nước phát  triển.  Hội nhập kinh tế là một vấn đề  cấp bách và mang tính thời đại, nhưng đó   cũng là một bài toán hóc búa, đang thách đố  các quốc gia, dân tộc đang phát triển,   thôi thúc họ tìm lời giải tối ưu. Giữ vững độc lập dân tộc, phát huy nội lực và kết  hợp với chủ động mở rộng hội nhập quốc tế, trở thành một trong những điều kiện   tiên quyết – chìa khoá hữu hiệu để giải mã bài toán này trong kỷ nguyên toàn cầu  hoá hiện nay. 3.Sự hình thành tất yếu của  chủ trương hội nhập kinh tế quốc t ế  ở n ước   ta Thật ra, chính sách mở  cửa và hội nhập kinh tế  quốc tế  để  phát triển đất   nước không phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó là   sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước,   những luận điểm mà Chủ  tịch Hồ  Chí Minh nêu lên ngay từ  khi nước Việt Nam   dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong bài  trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh   đã nói: “chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai  thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác…Chúng ta sẽ  mời những nhà  chuyên môn Pháp, cũng như  Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta   trong công cuộc kiến thiết quốc gia” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, T4, NXB Chính trị  quốc gia, HN 1995, tr74) Quán triệt tư  tưởng Hồ  Chí Minh, ngay từ  giữa những năm 70 của thế  kỷ  trước, nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ  kinh tế  (SEV), tích cực tham gia  
  15. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT Phong trào không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản là   đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan hệ  với   các nước trong cộng đồng XHCN, nước ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ hợp tác bình  đẳng cùng có lợi với các nước tư  bản chủ  nghĩa mặc dầu lúc đó các thế  lực thù   địch thực hiện chính sách bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta. Trong thời kì đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập  kinh tế quốc tế càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội  lần thứ VI của Đảng họp tháng 12 – 1986 đã chính thức khởi xướng công cuộc đổi   mới nhằm đưa nước tar a khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Việc triển   khai Nghị  Quyết Đại hội lại diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xô, Đông Âu   xấu đi nhanh chóng và tới đầu những năm 90 thì chế  độ  XHCN đã bị  xoá bỏ  tại   các nước này, Liên bang Xô Viết tan rã, Hội đồng tương trợ  kinh tế giải thể. Để  phục vụ  cho việc thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội và các hội nghị  Trung   ương tiếp theo, nhất là các Nghị quyết 13/5/1988 của bộ chính trị, Nghị quyết của   Hội nghị Trung ương VIII tháng 3/1990, đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới, đề  ra các chủ  trương và giải pháp  ứng phó với những tiêu cực của tình hình với nội  dung chủ  yếu là đẩy lùi chính sách bao vây kinh tế, cô lập về  chính trị  đối với   nước ta, mở  rộng quan hệ  quốc tế. Cũng theo tinh thần đó, năm 1987 nước ta đã  thông qua Luật đầu tư với nước ngoài với những quy định khá thông thoáng. Đại hội lần thứ  VII họp vào tháng 6/1991 mở  ra bước đột phá mới: thông  qua Cương lĩnh của Đảng và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 10  năm, đồng thời đưa ra những đường lối đối ngoại mở  rộng với khẩu hiệu: “Với   chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố  rằng: Việt Nam muốn làm bạn   với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập phát   triển”. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá VII đã ra Nghị quyết về chính sách đối  ngoại, trong đó nêu ra tư  tưởng chỉ  đạo là “giữ  vững nguyên tắc độc lập, thống  
  16. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT nhất và CNXH, đồng thời phải rất sáng tạo. Năng động, linh hoạt, phù hợp với vị  trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ  thể của nước ta cũng như  diễn biến của tình hình  thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng nước ta có quan hệ”. Đồng thời   nghị  quyết cũng nêu ra bốn phương châm: bảo đảm lợi ích dân tộc, trong đó kết  hợp nhuần nhuyễn chủ  nghĩa yêu nước với chủ  nghĩa quốc tế  của giai cấp công   nhân;  giữ  vững  độc lập tự  chủ, tự  lực tự  cường,   đẩy mạnh đa dạng hoá, đa   phương hoá các quan hệ đối ngoại; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong   quan hệ  quốc tế;  ưu tiên hợp tác khu vực đồng thời mở  rộng quan hệ  với tất cả  các nước. Đại hội lần thứ VIII họp tháng 6/1996 đã khẳng định chủ trương “xây dựng  một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.   Hội nghị Trung ương 4 khoá VIII nêu nhiệm vụ “tích cực chủ động thâm nhập và  mở  rộng thị  trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán   Hiệp định thương mại với Mỹ”, “gia nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể để  chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA”.  4.Nhận định về  những cơ  hội và thách thức đối với Việt Nam trên con   đường hội nhập kinh tế quốc tế. 4.1. Những cơ hội mà Việt Nam có được khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình “mở cửa” nền kinh tế, đưa các doanh   nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh, quốc tế. Hội nhập kinh tế  quốc tế chúng ta có cơ hội tích luỹ được những tiền đề, những điều kiện cho một  trình độ  phát triển mới. Trước hết chúng ta có cơ  hội thu hút vốn, khoa học, kỹ  thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế  từ  bên ngoài và mở  rộng   thị trường để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước ra  khỏi tình trạng kém phát triển. Tiếp đó hội nhập kinh tế tạo khả năng mở rộng thị 
  17. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT trường ra nước ngoài trên cơ sở các hiệp định thương mại đã ký kết với các nước,   trong khu vực và toàn cầu. Tạo cơ hội giao lưu các nguồn lực của nước ta với các   nước, bởi chúng ta có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng nếu không hội nhập thì việc  sử  dụng trong nước sẽ  bị  lãng phí, kém hiệu quả. Thông qua hội nhập ta có thể  xuất khẩu lao động qua hợp đồng gia công hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội  để nhập khẩu lao động kỹ  thuật cao, các công nghệ  mới, các phát minh sáng chế  mà ta chưa có. Mặt khác, mở cửa và hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh   hơn nữa quá trình cải cách, đổi mới xã hội, nhất là những cải cách về  phương   thức hoạt động của hệ  thống chính trị, về  thể  chế kinh tế thị trường định hướng  xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong nước, tăng sức cạnh tranh cho   nền kinh tế  để  tham gia ngày càng nhiều hơn vào phân công lao động quốc tế  và   mở  rộng quá trình dân chủ  hoá xã hội. Với một nền kinh tế yếu kém, nếu không  tranh thủ được những cơ  hội do toàn cầu hoá mang lại – dù là toàn cầu hoá đang  do chủ nghĩa tư bản chi phối – thì chúng ta không thể  xây dựng chủ  nghĩa xã hội   được. Chỉ  riêng vấn đề  “học hỏi” chủ  nghĩa tư  bản chứ  chưa nói đến tranh thủ  những nguồn lực, phương tiện vật chất cần thiết, đã là một tất yếu khách quan,  một yêu cầu bắt buộc đối với việc xây dựng chủ  nghĩa xã hội ở  các nước chậm  phát triển và đang phát triển nói chung và ở nước ta nói riêng. Bởi vì như Lênin đã  nói : “chúng ta không hình dung một thứ  chủ  nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ  nghĩa xã hội dựa trên cơ sở những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư  bản thu được” ( V.I Lênin, Toàn tập, NXB Tiến bộ, M, 1977, tr334).  4.2. Những thách thức mà chúng ta gặp phải trên con đường hội nhập Tuy nhiên, toàn cầu hoá là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh vô cùng  phức tạp. Nó không chỉ  đem đến cho chúng ta những cơ  hội thuận lợi mà còn có  cả những thách thức và khó khăn mới nảy sinh. 
  18. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT Thách thức lớn nhất với nước ta là tình trạng thấp kém của nền kinh tế,   khoảng cách về trình độ phát triển giữa ta với các nước trong khu vực và trên thế  giới còn rất xa. Học thuyết tự  do mới về  toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia phải   mở  toang cửa nền kinh tế đất nước, phải thực hiện triệt để  tự  do hoá thị  trường  bên trong và bên ngoài, phải thả nổi tiền tệ, phải tư nhân hoá, phải giảm mạnh vai  trò kiểm soát của Nhà nước theo hướng: “Nhà nước tối thiểu, thị trường tối đa”.  Vì vậy các doanh nghiệp trong nước phải chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh   ngang bằng các nước khác. Mà xu hướng tự do hoá thương mại quốc tế càng phát   triển thì cạnh tranh quốc tế  ngày càng khốc liệt. Điểm đặc biệt là ta phải cạnh  tranh ngay từ đầu, trên tất cả các mặt trận, với những thế lực mạnh hơn nhiều về  thực lực và trình độ. Tại diễn đàn Kỳ  họp thứ  6, Quốc hội khoá XI, Thủ  tướng   Phan   Văn   Khải   cũng   nhiều   lần   nhấn   mạnh   :   “Sức   cạnh   tranh   của   các   doanh   nghiệp Việt Nam và nền kinh tế thua kém nhiều nước xung quanh là điều bất lợi   lớn nhất khi hội nhập kinh tế quốc tế” Hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đứng   trước yêu cầu phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đầu tư theo chiều sâu để nền kinh  tế  đủ  sức cạnh tranh trên thị  trường quốc tế. Bên cạnh đó, chúng ta đứng trước  khó khăn rất lớn trong việc điều chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách làm  sao vừa bảo đảm cho đổi mới thành công, nền kinh tế  phát triển bền vững; vừa   phù hợp với cam kết quốc tế; lại có khả năng khắc phục những tiêu cực, rủi ro do  hội nhập đem lại. Nhìn chung, nếu không vượt qua được những thách thức này,   chúng ta không thể có chủ nghĩa xã hội trong thực tế. Mặt khác, toàn cầu hoá đang  bị  chủ  nghĩa tư  bản chi phối trên các lĩnh vực : thị trường, khoa học – công nghệ  và vốn. Các nước tư bản đang mưu toan ding những lợi thế này để gây sức ép đối  với chúng ta. Thực tế này đe doạ tấn công vào chủ quyền quốc gia, là xói mòn các  giá trị  văn hoá truyền thống của dân tộc, đe doạ  sự   ổn định về  kinh tế  và xã hội  của đất nước. Hơn bao giờ  hết, chúng ta cần tỉnh táo trong từng bước hội nhập, 
  19. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT cần phân tích tính hai mặt của toàn cầu hoá để nhận thức được những mặt, những   xu hướng, những tác động, những quy luật vận động của nó. Trên cơ  sở  đó chủ  động tìm ra con đường, cách thức biện pháp phù hợp trong từng bước hội nhập để  tiếp tục con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ  nghĩa trong bối cảnh  mới.
  20. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT 5.Những quan điểm chỉ  đạo trong quá trình hội nhập kinh tế  quốc tế   ở  nước ta : Từ  những điều nói trên, chúng ta có thể  khái quát và nhấn mạnh một số  quan điểm chủ  yếu cần quán triệt trong tiến trình hội nhập kinh tế  quốc tế  của  nước ta như sau :       Thứ nhất chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần   phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả  hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự  chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ  gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ  môi trường” (Trích Văn kiện Đại hội đại  biểu toàn quốc lần thứ IX – trang 120)      Thứ  hai, hội nhập kinh tế quốc tế là sự  nghiệp của toàn dân; trong quá  trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực các thành phần kinh tế  của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thứ  ba, hội nhập kinh tế  là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh   tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo  và linh hoạt trong việc xử  lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ  theo đối tượng, vấn   đề, trường hợp, thời điểm cụ  thể; đồng thời vừa phải đề  phòng tư  tưởng trì trệ,   thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng. Thứ tư, cần nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế  hoạch và lộ  trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ  phát triển của đất nước, vừa   đáp  ứng các quy định của các tổ  chức kinh tế  quốc tế mà nước ta tham gia; tranh   thủ những  ưu đãi giành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế  chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường. Cuối cùng, cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu   cầu giữ  vững  ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng; thông qua hội nhập để  tăng   cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0