YOMEDIA
ADSENSE
Tiểu luận:"Vì sao cây lúa nước đã tạo ra nền văn minh lúa nước đặc thù của Viêt Nam và khu vục Đông Nam Á"
958
lượt xem 134
download
lượt xem 134
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Đông Nam Á là một khu vực của châu á, bao gồm các nước nằm ở phía Nam Trung Quốc, phía Đông Ấn Độ và phía Bắc của Úc, rộng 4.494.047 km² và bao gồm 11 quốc gia : Brunei, Campuchia, Đông Timor, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanma, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận:"Vì sao cây lúa nước đã tạo ra nền văn minh lúa nước đặc thù của Viêt Nam và khu vục Đông Nam Á"
- Trường………………. Khoa…………………. TIỂU LUẬN Vì sao cây lúa nước đã tạo ra nền văn minh lúa nước đặc thù của Viêt Nam và khu vục Đông Nam Á 1
- MỤC LỤC Trang Phần mở đầu ..................................................................................................... 1 1.Lý do chọn đề tài………………………………………………..……………..3 2.Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu…………………….………….4 3.Đối tượng nghiên cứu………………………………….……………………....5 4.Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………5 5.Đóng góp của đề taì………………………………………………………...….5 Phần Nội Dung………………………………………………………………. Chương I: Một số đặc điểm về nền văn minh lúa nước ở Việt Nam và Đông Nam Á…………………………………………………………………………... 1.Địa hình……………………………………………………………………….. 2.Tự nhiên ảnh hưởng đến việc trồng lúa………………………………………. 3. Vai trò của cây lúa và hạt gạo……………………………………………….. Chương II: Một số cở sở lý luận về nền văn minh lúa nước tạo nên tính đặc thù ở Việt nam và Đông Nam Á…………………………………………………… 1.Văn minh lúa nước…………………………………………………………… 2.Hiểu thế nào là Văn minh lúa nước………………………………………….. 3.Các Điều kiện cơ bản của Văn minh lúa nước………………………………. 4.Lịch sử phát triển của Văn Minh lúa Nước…………………………………. 5.Cải tiến nông cụ - cơ sở tăng năng suất……………………………………… 6.Thủy lợi- yếu tố nền chính của văn minh lúa nước…………………………. Chương III Văn minh lúa nuớc tạo nên nét đặc thù của việt nam…………….. Phần Kết luận……………………………………………………………….. TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………… BẢNG CHẤM ĐIỂM……………………………………………………… 2
- 1. Lý do chọn đề tài Trải qua nhiểu thế kỷ, Đông Nam Á đã phát triển một nền sản xuất nông nghiệp độc đáo, lấy cây lúa làm cây trồng chính. Trên cơ sở ấy đã nảy sinh và phát triển một nền “văn minh lúa nước” nông dân Đông Nam Á đã sáng tạo và tích luỹ được nhiều kinh nghiệp trồng lúa phong phú thích hợp với mỗi quốc gia trong vùng. Ngày nay các nước Đông Nam Á lại có điều kiện trao đổi giao lưu kinh tế chính trị văn hoá xã hội, là những thành viên của khối Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Biểu tượng của khối này cũng lấy hình bó lúa để thể hiện tính chất kinh tế xã hội, văn hoá của vùng là những cư dân nông nghiệp trồng lúa. Chính vì thế nghiên cứu cây lúa tạo nên nét đặc thù của văn hoá ở Đông Nam Á và VIệt Nam là một đề tài hấp dẫn. Đặc biệt trong thời kỳ hiện nay, khi nền kinh tế của vùng đang có bước phát triển mạnh mẽ, thì cây lúa vẫn là cây lương thực có vai trò quan trọng nhất trong xã hội. Nó còn góp phần hình thành có một nền văn hoá đã tồn tại từ rất lâu đời của vùng Đông Nam Á. Với quy mô giới hạn trong một bài tiểu luận để làm rõ nền văn minh lúa nước để hình thành nên nền văn hoá chung trên cơ tầng nông nghiệp trồng lúa ở Đông nam Á và nước việt Nam. Bên cạnh đó cũng có những nét riêng, bản sắc và độc đáo trong văn hoá của mỗi quốc gia trong vùng Đông Nam Á. Là một sinh viên đang theo học ngành quản lý văn hóa tôi nhận thấy rằng việc tìm hiểu văn minh lúa nước của việt nam và đông nam á đó là một việc rất cần thiết vì qua việc tìm hiểu đó nó hình thành động cơ cho người học tìm tòi,nâng cao trình đọ tự trang bị kiến thức vè lý luận và thực tiễn khi còn ngồi trên ghế nhà trường Đại Học Sư Phạm Nghệ Thuật Trung ương Chính vì những lý do đó mà tôi chọn đề tài làm tiểu luận: “Vì sao cây lúa nước đã tạo ra nền văn minh lúa nước đặc thù của Viêt Nam và khu vục Đông Nam Á” 2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu. 2.1 Mục đích nghiên cứu - Đưa ra đặc điểm để hình thành nền văn minh luá nước Đông Nam Á 3
- - Đưa ra 1 số lý luận về nền văn minh lúa nước ở Đông nam Á - Đưa ra nền văn minh lúa nươc đối với Việt Nam 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Bước đầu tìm hiểu đặc điểm để hình thành nền văn minh lúa nước ở Đông Nam Á - Phân tích một số lý luận về nền văn minh lúa nước ở Đông Nam Á - Từ đó đưa ra nền văn minh lúa nước ở Việt Nam 3. Đối tượng nghiên cứu Cây lúa nước tạo ra nền văn minh lúa nước đặc thù của Việt Nam và Đông Nam Á. 4. Phương Pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu,phân tích số liệu, thông kê số liệu - Phương pháp điều tra xã hội học - Phương pháp quy nạp, diễn giải, tổng hợp - Khai thác các thông tin trên mạng Internet 5. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm ba chương : Chương I:Một số đặc điểm về nền văn minh lúa nước ở Việt Nam và Đông Nam Á. Chương II: Một số cở sở lý luận về nền văn minh lúa nước tạo nên tính đặc thù ở Việt nam và Đông Nam Á. Chương III Văn minh lúa nuớc tạo nên nét đặc thù của Việt Nam. 4
- NỘI DUNG 5
- Chương I: Một số đặc điểm để hình thành nên nền văn minh lúa nước tạo nên tính đặc thù ở Việt nam và Đông Nam Á. Đông Nam Á là một khu vực của châu á, bao gồm các nước nằm ở phía Nam Trung Quốc, phía Đông Ấn Độ và phía Bắc của Úc, rộng 4.494.047 km² và bao gồm 11 quốc gia : Brunei, Campuchia, Đông Timor, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanma, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Vào năm 2004, dân số của cả khu vực lên đến 556.2 triệu người (năm trăm năm mươi sáu ngàn hai trăm triệu người, số liệu năm 2005), trong đó hơn 1/6 sống trên đảo Java (Indonesia). Sau đây là những đặc điểm của viêt nam và ĐNA. 1. Địa hình. Đông Nam Á là chỗ giao nhau của nhiều mảng địa chấtcó núi lửa và động đất hoạt động mạnh. Các quốc gia của khu vực được chia ra làm hai nhóm chính: Myanma, Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam nằm ở Đông Nam Á lục địa, còn gọi bán đảo Trung Ấn, trong khi đó các nước còn lại tạo nên Quần đảo Malaysia. Quần đảo này được hình thành bởi nhiều cung đảo thuộc về Vành đai núi lửa Thái Bình Dương và là một trong những khu vực có hoạt động núi lửa mạnh nhất thế giới. Trong 11 nước Đông Nam Á, thì có 10 quốc gia có hải giới, trừ Lào; và Philippines là nước duy nhất trong khu vực này không có địa giới chung với bất kỳ quốc gia nào. Ý niệm về Đông Nam Á như một khu vực riêng biệt đã có từ lâu. Song cùng với thời gian, khái niệm này ngày càng được hiểu một cách đầy đủ và chính xác hơn. Người Trung Quốc xưa kia thường dùng từ "Nam Dương" để chỉ những nước nằm trong vùng biển phía Nam. Người Nhật gọi vùng này là "NanYo". Người Ả Rập xưa gọi vùng này là "Qumr", rồi lại gọi là "Waq - Waq" và sau này chỉ gọi là "Zabag". Còn người[Ấn Độ từ xưa vẫn gọi vùng này là "Suvarnabhumi" (đất vàng) hay "Suvarnadvipa" (đảo vàng). Tuy nhiên đối với các lái buôn thời bấy giờ, Đông Nam Á được nhìn nhận là một vùng thần bí, nơi sản xuất hương liệu gia vị và những sản phẩm kì lạ khác, còn sinh sống ở đây là những con người thành thạo và can đảm. Tên gọi "Đông 6
- Nam Á" được các nhà nghiên cứu chính trị và quân sự của Hà Lan ,Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc IrelandAnh, Mỹ đưa ra từ những năm đầu khi nổ ra Thế chiến thứ hai, nhưng chính thức đi vào lịch sử với ý nghĩa là một khu vực địa - chính trị, và quân sự được bắt đầu từ khi Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevel tvà Thủ tướng Anh Winston Churchill tại Hội nghị Québec lần thứ nhất vào tháng 8 năm 1943 nhất trí thành lập Bộ chỉ huy tối cao quân Đồng Minh ở Đông Nam Á. Trước đó, để chỉ khu vực này, người ta đã dùng nhiều tên gọi khác nhau cho những mục đích riêng biệt. 2. Tự nhiên ảnh hưởng đến việc trồng lúa Phải nói rằng gió mùa không chỉ đem lãi thuận lợi cho con người mà còn là những yếu tố tự nhiên tác động và tạo nên sự thất thường cho khí hậu trong vùng, với biên độ không lớn lắm. Mưa nhiệt đới trên địa bàn tự nhiên của khu vực tạo ra những vùng nhỏ, xen kẽ giữa rừng nhiệt đới, đồi núi, bờ biển, và đồng bằng, tạo nên những cảnh quan đa dạng. Thực tế đó khiến cho Đông Nam Á thiếu những không gian rộng cho sự phát triển kinh tế - xã hội trên quy mô lớn, thiếu những điều kiện tự nhiên cho sự phát triển những kĩ thuật tinh tế, phức tạp. Ở đây không có những đồng bằng rộng lớn như vùng châu thổ sông Ấn sông Hằng hay Hoàng Hà; cũng không có những đồng cỏ mênh mông như vùng thảo nguyên. Không gian sinh tồn ở đây tuy nhỏ hẹp nhưng lại rất phong phú, đa dạng. Con người có thể khai thác ở thiên nhiên đủ loại thức ăn để sinh tồn. Vì thế có người gọi Đông Nam Á là khu vực khai thác thức ăn theo nghĩa rộng. Những điều kiện đó rất thuận lợi cho cuộc sống con người trong buổi đầu, nhưng không khỏi ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của một nền sản xuất lớn, tạo nên một khối lượng sản phẩm lớn trong những giai đoạn phát triển sau này của khu vực. Đồng thời, sự đa dạng, đan xen của những địa bàn sinh tụ nhỏ trong văn hóa tộc người của cả khu vục và trong mỗi quốc gia. 3. Vai trò của cây lúa và hạt gạo. - Vấn đề chính của trồng cây lúa là cho hạt lúa, hạt gạo. - Có nhiều loại gạo: gạo tẻ, gạo nếp (dùng làm bánh chưng, bánh dày)… 7
- + Gạo nếp dùng làm bánh chưng, bánh dày hay đồ các loại xôi.Lúa nếp non dùng để làm cốm. - Lúa gạo làm được rất nhiều các loại bành như: bánh đa, bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ, bánh phở, cháo,… không có cây lúa thì rất khó khăn trong việc tạo nên nền văn hóa ẩm thực độc đáo của Việt Nam. Chương II: Một số cở sở lý luận về nền văn minh lúa nước tạo nên tính đặc thù ở Việt nam và Đông Nam Á 1. Văn minh lúa nước Văn minh lúa nước là một nền văn minh cổ đại xuất hiện từ cách đây khoảng 10.000 năm tại vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Nền văn minh này đã đạt đến trình độ đủ cao về các kỹ thuật canh tác lúa nước, thuỷ lợi, phát triển các công cụ và vật nuôi chuyên dụng. Chính sự phát triển của nền văn minh lúa nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của những nền văn hoá đương thời như Văn hóa Hemudu, Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Hòa Bình .v.v. Cũng có những ý kiến cho rằng, chính nền văn minh lúa nước là chiếc nôi để hình thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư định canh và các giá trị văn hoá phi vật thể kèm theo, đó chính là văn hóa làng xã Quê hương cây lúa nước: Các nhà khoa học như A.G. Haudricourt & Louis Hedin (1944), E. Werth (1954), H. Wissmann (1957), Carl Sauer (1952), Jacques Barrau (1965, 1974), Soldheim (1969), Chester Gorman (1970)... đã lập luận vững chắc và đưa ra những giả thuyết cho rằng vùng Đông Nam Á là nơi khai sinh nền nông nghiệp đa dạng rất sớm của thế giới. Quê hương của cây lúa, không như nhiều người tưởng là ở Trung Quốc hay Ấn Độ, là ở vùng Đông Nam Á vì vùng này khí hậu ẩm và có điều kiện lí tưởng cho phát triển nghề trồng lúa. Theo kết quả khảo cổ học trong vài thập niên gần đây, quê hương đầu tiên của cây lúa là vùng Đông Nam Á, những nơi mà dấu ấn của cây lúa đã được ghi nhận là khoảng 10.000 năm trước Công Nguyên. Còn ở Trung Quốc, bằng chứng về cây lúa lâu đời nhất chỉ 5.900 đến 7.000 năm về trước, thường thấy ở các vùng xung quanh 8
- sông . Từ Đông Nam Á, nghề trồng lúa được du nhập vào Trung Quốc, rồi lan sang Nhật Bản, Hàn Quốc, những nơi mà cư dân chỉ quen với nghề trồng lúa mạch. Ngày nay, giới khoa học quốc tế, kể cả các khoa học gia hàng đầu của Trung Quốc đồng thuận cho rằng quê hương của cây lúa nước là vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. 2. Hiểu thế nào là Văn minh lúa nước Để khẳng định về các luận điểm cho một nền Văn minh lúa nước, chúng ta phải hiểu rằng việc trồng trọt, thu hoạch, cất giữ, chế biến thành thực phẩm từ sản phẩm của lúa nước là phải đạt đến một trình độ tiên tiến và đảm bảo sự thặng dư thực phẩm phục vụ cho một xã hội dân cư đông đúc và thúc đẩy các yếu tố khác của một nền văn minh ra đời. 3. Các Điều kiện cơ bản của Văn minh lúa nước 3.1. Môi trường * Lượng m ưa hàng năm ở vào khoảng từ 2.000 - 2.500 mm, * Vào thời kỳ tăng trưởng cần một lượng mưa vào khoảng 125 mm trong một tháng, * Thời kỳ thu hoạch cần nhiều nắng (ruộng khô càng tốt), * Nhiệt độ môi trường thích hợp nhất, khoảng 21 - 27°C, * Cư dân phải có kinh nghiệm trong việc tưới và tiêu (thủy lợi) 3.2. Yếu tố khác * Khu vực canh tác phải có độ bằng phẳng rất cần thiết để duy trì mực nước từ 100 mm đến 150 mm để giúp cho cây lúa tăng trưởng và kết hạt tốt. * Chính vì vậy, những khu vực đồng bằng và các lưu vực các con sông chảy qua các miền nhiệt đới nhiều mưa sẽ là môi trường thận lợi cho cây lúa nước phát triển. Ví dụ như đồng bằng sông Hồng, lưu vực sông Dương Tử... thích hợp cho cây lúa nước. * Thời vụ là yếu tố cũng quan trọng không kém cho cây lúa nước, điều này thúc đẩy việc sáng chế ra lịch tính ngày, tháng, năm à các mùa trong năm của các cư dân trồng lúa nước. 9
- * Giống lúa cũng là một yếu tố tăng năng suất và phẩm chất cho cây lúa nước mà các cư dân trồng lúa nước đặc biệt coi trọng. 4. Lịch sử phát triển của Văn Minh lúa Nước Các cuộc khảo cổ gần đây đã chứng minh sự tồn tại của con người trên lãnh thổ Việt Nam từ thời Đồ đá cũ. Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (gần 10.000 năm trước CN) đã chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi, có thể là cả nghệ thuật trồng lúa nước Các nhà khảo cổ tìm thấy trong lớp đất bên dưới khu khảo cổ thuộc Văn hóa Hòa Bình những hạt thóc hóa thạch khoảng 9260-7620 năm trước. Nhưng theo nhiều nhà khảo cổ, đa số di tích, di vật tìm thấy ở Thái Lan, khi định tuổi lại thấy muộn hơn nhiều so với tuổi định ban đầu trước đó khi người ta tìm thấy những di tích về văn minh lúa nước. Vết tích bữa cơm tiền sử nấu với gạo từ lúa mọc hoang xưa nhất thế giới, 13.000 năm trước, được một nhóm khảo cổ Mỹ-Trung Hoa tìm thấy trong hang Diaotonghuan phía nam sông Dương Tử (bắc tỉnh Giang Tây). Cư dân sống trong vùng này đã biết thử nghiệm các giống lúa và cách trồng trong thời gian dài tiếp theo đó. Điều này đă được nhóm khảo cổ chứng minh qua sự tăng độ lớn phytolith của lúa (phần thực vật hoá thạch, tồn tại nhờ giàu chất silica) lắng trong những lớp trầm tích theo thời gian. Tin này đã được đăng trên tạp chí khoa học Science, năm 1998. Các nhà khoa học nghiên cứu về phytoliths - thạch thể lúa - này đă chứng minh rằng từ 9000 năm trước dân cổ ở vùng đó đã ăn nhiều gạo của lúa trồng hơn lúa hoang. Nhóm cư dân bản địa này cũng bắt đầu làm đồ gốm thô xốp bằng đất trộn trấu. Kinh nghiệm về trồng lúa tích tụ tại đấy trong mấy ngàn năm đă đưa đến nghề trồng lúa trong toàn vùng nam Dương Tử. Di tích xưa thứ hai, 9000 năm trước, là Pengtou, gần hồ Động Đình hía nam sông Dương Tử. Hơn bốn mươi chỗ có di tích lúa cổ hàng ngàn năm đă được tìm thấy ở vùng nam Trường Giang. Gần cửa biển nam Trường Giang, di tíchVăn hoá Hemudu (Hà Mỗ Độ) cho thấy văn minh lúa nước trong vùng lên đến trình độ rất cao vào 7.000 năm trước, sớm hơn cả di tích làng trồng kê Banpo (Bán Pha) xưa nhất của dân tộc Hán phương Bắc. 10
- Hemudu là một làng vài trăm người sống trên nhà sàn trong vùng đầm lầy ở cửa sông Tiền Đường. Dân Hemudu đă trồng lúa, ăn cơm, để lại lớp rơm và trấu dày 25-50 cm, có nơi dày đến cả mét, trên diện tích 400 mét vuông. Có thể đó là lớp rác để lại trên sân đập lúa. Di chỉ thực vật củ ấu, củ năng ,và di cốt động vật hoang hươu, trâu, tê giác, cọp, voi, ... cho thấy khí hậu vùng Nam sông Dương Tử bấy giờ thuộc loại nhiệt đới, hoàn toàn thích hợp với việc canh tác lúa nước. Nền văn hoá Hemudu xưa bảy ngàn năm có nhiều điểm gần gũi với văn hoá Phùng Nguyên-Đông Sơn vốn là những văn hoá trẻ hơn nhiều sau hơn 3000 năm. Cư dân vùng nam Trường Giang lúc ấy có lẽ gần với cư dân Bắc Việt về mặt chủng tộc và văn hoá hơn cư dân bắc Trung Hoa. Khuôn mặt đắp từ sọ người Hemudu trưng bày ở Viện Bảo tàng Hemudu cho thấy họ giống người thuộc chủng Nam Mongoloid, tức là chủng của người Việt Nam từ thời Đông Sơn về sau. Sau văn hoá Hemudu, hàng loạt văn hoá lúa nước khác đã sinh ra dọc lưu vực sông Trường Giang khoảng 4000 năm trước như Liangzhu, Majiabin, Quinshanyang, Qujialing, Daxi, Songze, Dadunze. Điều kiện đồng bằng sông Hồng là nơi rất thích hợp cho lúa hoang và sau này là lúa trồng. Thật là kỳ lạ, người Việt trong cộng đồng chủng Nam Mongoloid là tổ tiên của văn minh lúa nước. 5. Cải tiến nông cụ - cơ sở tăng năng suất Trong di chỉ khảo cổ cho ta một bộ sưu tập các lưỡi cày bằng đồng phong phú, vào giữa và cuối thời kỳ Đông Sơn đã xuất hiện khá nhiều đồ sắt và đồ đồng đã chuyển sang các loại vật dụng trang trí và tinh xảo hơn. Ở giai đoạn đầu, Văn hóa Phùng Nguyên, công cụ bằng đá còn chiếm ưu thế, nền kinh tế còn mang tính chất nguyên thuỷ. Sang đến giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun và nhất là Đông Sơn, nhiều loại hình công cụ bằng đồng ra đời và ngày càng phong phú như lưỡi cuốc, lưỡi cày, lưỡi thuổng, xẻng, lưỡirìu, v.v. Mỗi loại hình công cụ sản xuất cũng có các kiểu dáng khác nhau. Trong khoảng 200 chiếc lưỡi cày bằng đồng có tới 4 kiểu dáng, đó là lưỡi cày hình tam giác có họng tra cán to khoẻ được phân bố ở dọc sông Thao; lưỡi cày cánh bầu dục, hình thoi được 11
- phân bố ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, lưỡi cày hình thoi được phân bố tập trung ở vùng sông Mã, lưỡi cày hình xẻng vai ngang phân bố ở vùng làng Vạc. Cuốc bao gồm lưỡi cuốc có lỗ tra cán, cuốc hình tam giác, cuốc có vai, cuốc chữ U, cuốc hình quạt, v.v. Rìu có rìu chữ nhật, rìu tứ diện lưỡi xoè, rìu hình lưỡi xéo, hình bàn chân, rìu lưỡi lệch. Ngoài ra còn có lưỡi liềm đồng, công cụ lao động bằng sắt. Sự tiến bộ của công cụ sản xuất đã thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển, đạt đến một trình độ khá cao. Nền kinh tế bao gồm nhiều ngành, nghề, trong đó nông nghiệp trồng lúa nước chiếm địa vị chủ đạo, phổ biến rộng rãi khắp lãnh thổ từ trung du đến đồng bằng, ven biển. Với việc chế tạo ra lưỡi cày và nông nghiệp dùng cày đã thay thế cho nền nông nghiệp dùng cuốc, đánh dấu bước phát triển mới, mạnh mẽ trong nền kinh tế thời Hùng Vương. Với việc ra đời nhiều loại hình công cụ sản xuất bằng đồng còn chứng tỏ bước tiến về kỹ thuật canh tác của cư dân bấy giờ. Nông nghiệp dùng cày là nguồn cung cấp lương thực chính nuôi sống xã hội, trở thành cơ sở chủ yếu của mọi hoạt động khác. Những di cốt trâu, bò nhà, tìm thấy trong cùng một di tích văn hóa Đông Sơn, hình bò khắc hoạ trên mặt trống đồng chứng tỏ cư dân thời Hùng Vương đã sử dụng trâu, bò làm sức kéo trong nông nghiệp. Những dấu tích thóc, gạo, những công cụ gặt hái tìm thấy ở các di chỉ thuộc văn hóa Đông Sơn. Di tích thóc, gạo tìm thấy ở làng Vạc gồm 2 nồi gốm trong đó có nhiều hạt thóc, vỏ trấu tìm thấy trong thạp đồng. Các công cụ gặt hái có liềm, dao gặt, nhíp. Nhiều thư tịch cổ cũng ghi chép về sự hiện diện của nghề nông trồng lúa nước thời Hùng Vương như các sách Di vật chí của Dương Phù thời Đông Hán, Thuỷ Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên, thời Bắc Nguỵ, Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn, v.v. chứng tỏ sự phổ biến và phát triển mạnh mẽ của nghề trồng lúa nước thời Hùng Vương. 6. Thủy lợi- yếu tố nền chính của văn minh lúa nước Yếu tố nước trong việc trồng lúa nước là điều kiện bắt buộc để hình thành văn minh lúa nước. Có lẽ người nguyên thủy lúc đầu phát hiện ra sự khác nhau về năng suất của lúa nương, một loại lúa mọc trên các triền đất khô ẩm và lúa nước 12
- mọc ở khu vực ngập nước của lưu vực các con sông lớn là hoàn toàn khác nhau. Cây lúa nước chỉ có thể phát triển tốt khi sống ở những khu vực khí hậu phù hợp như các vùng nhiệt đới, và đặc biệt tốt, năng suất cao khi hàng năm các con sông lớn nhưsông Hồng, sông Mã... mang theo một lượng phù sa mới, bồi đắp hàng năm vào các mùa nước lũ. Nhưng nước để trồng lúa phải đủ và cũng vừa để cây lúa sinh trưởng. Việc đảm bảo đủ nước và không thừa, để làm ngập úng đã buộc các cư dân trồng lúa nước phải làm thủy lợi- cân bằng lượng nước cần thiết. Thủy lợi tự nhiên và đơn giản nhất là đắp bờ ruộng và dẫn nước theo các con kênh vào ruộng và khống chế lượng nước bằng độ cao của lối thoát nước. "Con kênh" lớn nhất của cư dân trồng lúa nước chính là hệ thống đê điều hai bên sông lớn để khống chế nước tràn vào ruộng và mùa lũ lụt hàng năm. Trong một cuốn sách, Sauer viết như sau: “Về cái nôi của nền nông nghiệp đầu tiên, tôi xin thưa rằng ở Đông Nam Á. Nơi này quy tụ đầy đủ những điều kiện khác nhau cần thiết về vật lý thể chất, hóa học hữu cơ, khí hậu ôn hòa với cả hai vụ gió mùa, với chu kỳ mùa mưa ẩm ướt và mùa khô tạnh ráo, sông nước tiện cho viêc đánh cá, đất này là trung tâm điểm giao thương cả đường biển lẫn đường bộ của Cựu thế giới. Không có nơi nào mà vị trí lại thích hợp và có đủ yếu tố cung cấp cho sự phát triển nền văn minh hỗn hợp giữa nông và ngư nghiệp tốt hơn nữa. Tôi (lời Sauer) sẽ chứng minh rằng ở trong vùng đất này, ngay từ khi khởi thuỷ, nông nghiệp đã gắn chặt với ngư nghiệp; rằng ở đây người ta gia súc hóa loài vật trước hết và đúng nghĩa, phải là trung tâm chính của thế giới về kỹ thuật trồng cây và cải biến thảo mộc để gia tăng rau trái. Tôi chấp nhận tiên đề quen thuộc là loài người học hỏi cách trồng cây trước khi biết làm mùa với cách reo hạt giống”. Một số nhà khoa học khác không công nhận Đông Nam Á là trung tâm phát sinh nông nghiệp mà chỉ xếp hạng nó vào trung tâm thứ yếu. Một số khá đông các nhà nghiên cứu khác cho rằng Nam Trung Hoa là trung tâm chính yếu phát sinh trồng trọt song song với các trung tâm khác ở Trung Đông và Ấn Độ. Vì địa thế và khí hậu, cũng như chủng tộc, miền châu thổ sông Hồng cùng nguồn gốc 13
- trong tiền sử với Nam Trung Hoa. Việc liên hệ trong vài trăm ki lô mét với một không gian nhỏ, một thời kỳ dài hàng chục ngàn năm là một nguồn văn hóa. Đến nay, vẫn còn có nhiều sự bất đồng trong giới khoa học về các trung tâm sơ khởi nông nghiệp. Tuy vậy, các Ông Burkill và Sauer đều rất tự tin; họ đưa ra các chứng cớ rằng Á Đông chính là nguồn gốc của các thứ khoai, củ. Sau đó theo đường hàng hải, khoai Á Đông đươc phân tán đi các đảo ngoài Thái Bình Dương, châu Phi và châu Mỹ Chương III Văn minh lúa nuớc tạo nên nét đặc thù của việt nam Em còn nhớ trong bài thơ nào đó ở chương trình cấp tiểu học một câu thơ: ”Việt Nam đất nước ta ơi, Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn” Lời thơ quả không sai, lịch sử Việt Nam đã chứng minh Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Đất nước ta khởi nghiệp là nghề trồng lúa mà lại, bên những bản làng xóm thôn, những triền sông, con suối những cánh đồng xanh thẳm trải dài tận chân trời như dấu hiệu cho du khách nhận ra đất nước chúng ta- một đất nước có nghề nông với sự gắn bó của con người cùng cây lúa nước. Từ ngàn đời nay,cây lúa đã gắn bó với con người,làng quê Việt nam.Và đồng thời cũng trở thành tên gọi cho một nền văn minh-nền văn minh lúa nước.Cây lúa không chỉ mang lại sự no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa và tinh thần.hạt lúa và người nông dân cần cù,mộc mạc là 14
- mảng màu không thể thiếu trong bức tranh của đồng quê Việt nam hiện nay và mãi mãi về sau. Là cây trồng thuộc nhóm ngũ cốc,lúa cũng là cây lương thực chính của người dân VN nói riêng và người dân châu á nói chung.Cây lúa ,hạt gạo đã trở nên thân thuộc gần gũi đến mức từ bao đời nay người dân VN coi đó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống.Từ những bữa cơm đơn giản đến các bữa tiệc quan trọng không thể thiếu sự góp mặt của cây lúa,chỉ có điều nó được chế biến dưới dạng này hay dạng khác.Không chỉ giữ vai trò to lớn trong đời sống kinh tế,xã hội mà còn có giá trị lịch sử,bởi lich sử phát triển của cây lúa gắn với lịch sử phát triển của cả dân tộc VN,in dấu ấn trong từng thời kỳ thăng trầm của đất nước.Trước đây cây lúa hạt gạo chỉ đem lại no đủ cho con người, thì ngày nay nó còn có thể làm giàu cho người nông dân và cho cả đất nước nếu chúng ta biết biến nó thành thứ hàng hóa có giá trị. Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước,hạt gạo gắn liền với sự phát triển của dân tộc.....cho đến nay vẫn là nền kinh tế của cả nước. Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới. Đối với người Việt chúng ta cây lúa không chỉ là một loại cây lương thực quý mà còn là một biếu tượng trong văn chương ẩn dưới "bát cơm","hạt gạo".Việt Nam, một nước có nền kinh tế nông nghiệp từ hàng ngàn năm nay. Từ một nước thiếu lương thực trầm trọng trong những năm chiến tranh nhưng hiện nay, nền nông nghiệp của nước ta không chỉ sản xuất ra đủ một lượng lớn lương thực đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn trên thế giới. Trong đó ngành trồng lúa ở nước ta là một trong những ngành ngành sản xuất lương thực vô cùng quan trọng và đạt được những thành tựu đáng kể, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Đối với người Việt chúng ta, hay phần lớn dân Á châu nói chung, cây lúa (tên khoa học là Oryza sativa) và hạt gạo là một loại thực phẩm hết sức gần gũi và đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong dinh dưỡng. Ngay từ khi còn trong lòng mẹ, chúng ta đã làm quen với cơm gạo, và lớn lên theo cây lúa cùng hạt gạo. Với bản sắc văn hóa nông nghiệp, cây lúa và hạt gạo còn là một biểu tượng của cuộc sống. Ca dao, khẩu ngữ chúng ta có câu “Người sống về gạo, cá 15
- bạo về nước”, hay “Em xinh là xinh như cây lúa”, v.v . Qua hàng nghìn năm lịch sử, lúa đã là cây lương thực chủ yếu nuôi sống các thế hệ người Việt cho đến nay. Trong đời sống tinh thần của con người, cây lúa cũng gắn bó thân thiết vô cùng. Điều đó được thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ hàng ngày, trong cách nói, cách đặt tên, gọi tên từ cửa miệng của những người hai sương một nắng. Bắt đầu từ lúc ném hột mộng xuống đồng. Thông thường ném buổi sáng thì buổi chiều mộng "ngồi" được, tức là rễ đã bám được vào đất và mầm nhọn đã xuôi hướng lên trời. Bác nông dân hoàn toàn có thể yên tâm vì nó đã sống được trong môi trường mới, đích thực của nó.Qua hôm sau, mầm nhú lên cao hơn, bắt đầu có chút xanh xanh, người ta bảo là mạ đã "xanh đầu". Mạ cũng có "gan". "Gan mạ nằm ở thân non, dễ bị gãy nát. Nhổ không khéo, nhỡ để giập "gan" thì dảnh mạ sẽ "chết".Cấy xuống được vài ba hôm thì lúa đâm rễ mới, gọi là bén chân hay "đứng chân". Cũng như chữ "ngồi" ở trên, chữ "đứng chân" rất chính xác, rất hình tượng, vì chỉ vài ba hôm trước do mới cấy, mọi cây lúa đều ngả nghiêng, xiêu vẹo, thậm chí có cây còn bị nổi trên mặt nước nữa. Giờ đây đã "đứng chân" được, tức là cũng giống như người ta, có một tư thế đứng chân vững vàng, đã chắc chắn bám trên mặt đất. Khác với lúc nảy mầm, cây lúa sinh sôi bằng cách "đẻ nhánh". Nhánh "con" nhánh "cái" thi nhau mọc ra, tần vần thành khóm. Vào khoảng tháng hai âm lịch, khắp cánh đồng mơn mởn màu xanh. Dáng cây thon thả, mềm mại, sắc lá non tơ đầy sức sống gợi cái gì đấy tươi trẻ, xinh xắn, dịu dàng. Đó chính là lúc cây lúa "đang thì con gái", thời đẹp nhất của đời lúa, đời người. Gặp hôm trời quang mây tạnh, đứng ở đầu làng mà trông, cánh đồng trải ra bát ngát, đẹp tựa bức tranh. Hết thời kỳ xuân xanh, lúa chuyển sang giai đoạn "tròn mình", "đứng cái" rồi "ôm đòng". Đòng lúa to nhanh, nắng mưa rồi mỗi ngày mỗi khác. "Lúa chiêm lấp ló đầu bờ/Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên". Nếu mưa thuận gió hoà chỉ mươi hôm là lúa trỗ xong. Nhưng chẳng may gặp kỳ khô hạn thì đòng không trỗ lên được, người ta bảo bị "nghẹn". "Nghẹn" là cực lắm rồi, là có cái gì nó vương vướng, như uẩn ức trong lòng... 16
- Ngoài ra cũng có thể bị "ngã", bị "nằm" lúc gặp gió lớn mưa to. Ông bà ta sợ nhất cảnh này vì mấy tháng trông cây đã sắp đến ngày hái quả. Nếu chẳng may bị "ngã" non thì hột thóc sẽ lép lửng, coi như hỏng ăn. Còn lúa "nằm" dưới nước, ngâm độ vài ngày thì hột thóc trương lên, nứt nanh và nảy mầm ngay trên bông. Mầm nhú trắng trông xót ruột. Xót ruột về khoe vui với nhau, thóc nhà tôi "nhe răng cười" ông ạ.Người nông dân xưa nay vốn mộc mạc, chất phác. Chẳng phải họ văn vẻ gì đâu. Chỉ vì gần gũi quá, thân quen quá. Ban ngày vác cuốc ra đồng thăm lúa. Ban đêm giấc mơ toàn thấy những cây lúa. Lúa là đói no, là người bạn có thể sẻ chia nỗi niềm, buồn vui tâm sự. Trải qua chiều dài các thế hệ, đời lúa lặn vào đời người. Và rồi, đời người lại chan hoà, gửi gắm vào đời lúa thông qua những từ ngữ nôm na, những tên gọi sinh động kể trên. Cây lúa gần gũi với người nông dân cũng như bờ tre, khóm chuối. Bởi vậy thấm đẫm tình người và hồn quê, càng nắng mưa, sương gió, càng nồng nàn hoà quyện thân thương. Nông nghiệp Việt Nam vốn mang dáng dấp một nước -nền công nghiệp lúa nước bao đời nay cho nên cây lúa gắn bó ,gần gũi với người Việt, hồn Việt là lẽ dĩ nhiên. Từ ngàn đời nay,cây lúa đã gắn bó với con người,làng quê Việt nam.Và đồng thời cũng trở thành tên gọi cho một nền văn minh-nền văn minh lúa nước. Cây lúa không chỉ mang lại sự no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa và tinh thần.hạt lúa và người nông dân cần cù,mộc mạc là mảng màu không thể thiếu trong bức tranh của đồng quê Việt nam hiện nay và mãi mãi về sau. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta được thế giới tôn vinh có truyền thống anh hùng hàng đầu chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc và có nền văn minh lúa nước (văn minh Sông Hồng). Hai yếu tố này tạo nên bản sắc Văn minh Việt Nam.Ông cha ta đã nói: với Quốc gia là “Dĩ nông vi thiên”; đối với nông dân là “Dĩ nông vi bản” “ Dân dĩ thực vi thiên, thực dĩ an vi tiên” nghĩa là coi nghề nông là gốc, đảm bảo cái ăn làm đầu, lấy lành làm đầu, đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm.Văn minh Việt Nam có 3 giai đoạn lịch sử chủ yếu: Lạc Việt (đến trước thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên); Đại Việt (từ thế kỷ 10 đên TK 18) và Đại Nam (từ thế kỷ 17
- 19).Các tài liệu nghiên cứu đều xác nhận người Việt cổ cùng chủng Nam Mongoloid (Nam Trung Hoa) là tổ tiên của nền văn minh lúa nước thông qua phytoliths (thạch thể lúa giàu Silica) và đồ gốm trộn trấu… tìm thấy từ khoảng 13.000 năm trước, tiếp đến di chỉ các thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, đồ gốm sứ…của văn hoá Hoà Bình, Phùng Nguyên, Bắc Sơn, Đông Sơn… Nền Văn minh lúa nước của người Việt bao gồm các giống lúa đa dạng (biểu hiện xôi ăn có nhiều màu), có ruộng trồng lúa (biểu tượng bánh chưng là đất vuông) và nhờ trời (biểu tượng bánh dày trời tròn) gắn liền với kỹ thuật canh tác, thuỷ lợi, vật nuôi… và con người sống định canh định cư trong cộng đồng văn hoá làng xã đông đúc của vùng châu thổ Sông Hồng, Sông Mã… rồi dần dần mở mang bờ cõi vào miền Trung và đến đồng bằng Sông Cửu Long. Kỹ thuật trồng lúa nước nghìn năm của người Việt được tổng kết trong bốn chữ: nước, phân, cần, giống ngày nay đã đạt tới trình độ như làm vườn ở Thái Bình (xếp ải nỏ, chọn giống tốt, gieo mạ khay, cấy mạ non ngửa tay thẳng hàng, tưới nước phù xa theo thuỷ triều, đắp đê tạo ra các kênh tưới tiêu.v.v…). Vùng Đồng bằng Sông Hồng ngày nay đạt đỉnh cao nhất của năng xuất lúa cả nước ngang với năng xuất lúa của các nứơc có trình độ phát triển cao hơn (6 tấn/ha/vụ). Doanh thu 1ha trồng 2 vụ lúa đạt gần 3.000 USD gấp đôi Thái Lan (họ chỉ làm 1 vụ lúa/năm). Nước ta đã tham gia xuất khẩu gạo từ cách đây 100 năm với hàng triệu tấn gạo. Hiện nay gạo Việt Nam đã chiếm 1/5 tổng lượng gạo thương mại thế giới. Cùng với gạo, tên Việt Nam xuất hiện trên bản đồ thế giới với hàng loạt các nông sản khác của văn minh lúa nước như: Cao su, Cà phê, Hồ tiêu, Điều, Chè, Tôm, Cá Batxa, Hoa, Quả, Đồ gỗ, Hàng thủ công mỹ nghệ, Nước mắm, dân ca Quan họ, Ca trù, Nhạc cung đình, Múa rối nước … 18
- KẾT LUẬN 19
- Cây lúa vô cùng quan trọng đối với đời sống người Đông Nam á nói chung và người Việt nói riêng .Cây lúa không chỉ mang lại đời sống no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh của nhân dân và trở thành một nét đặc thù của người dân Đông Nam á và người Việt Nam Ngày nay các nước Đông Nam Á lại có điều kiện trao đổi giao lưu kinh tế chính trị văn hoá xã hội, là những thành viên của khối Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Biểu tượng của khối này cũng lấy hình bó lúa để thể hiện tính chất kinh tế xã hội, văn hoá của vùng là những cư dân nông nghiệp trồng lúa. Chính vì thế nghiên cứu cây lúa tạo nên nét đặc thù của văn hoá ở Đông Nam Á và VIệt Nam là một đề tài hấp dẫn. Đặc biệt trong thời kỳ hiện nay, khi nền kinh tế của vùng đang có bước phát triển mạnh mẽ, thì cây lúa vẫn là cây lương thực có vai trò quan trọng nhất trong xã hội. Nó còn góp phần hình thành có một nền văn hoá đã tồn tại từ rất lâu đời của vùng Đông Nam Á. Là một sinh viên đang theo học ngành quản lý văn hóa tôi nhận thấy rằng việc tìm hiểu văn minh lúa nước tạo nên nét đặc thù của việt nam và đông nam á đó là một việc rất cần thiết vì qua việc tìm hiểu đó nó hình thành động cơ cho người học tìm tòi,nâng cao trình đọ tự trang bị kiến thức vè lý luận và thực tiễn khi còn ngồi trên ghế nhà trường Đại Học Sư Phạm Nghệ Thuật Trung ương. 20
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn