intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tìm hiểu về Hợp Chủng Quốc Hoa Kì

Chia sẻ: Cao Tt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

105
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hợp Chủng Quốc Hoa Kì I/ Bản đồ: Ghi chú AL - Alabama AK - Alaska AZ - Arizona AR - Arkansas CA - California CO - Colorado CT - Connecticut DE - Delaware FL - Florida GA - Georgia HI - Hawaï ID - Idaho IL - Illinois IN - Indiana IA - Iowa KS - Kansas KY - Kentucky LA - Louisiana ME - Maine MD - Maryland MA - Massachusetts MI - Michigan MN - Minnesota MS - Mississippi MO - Missouri MT - Montana NE - Nebraska NV - Nevada NH - New Hampshire NJ - New...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tìm hiểu về Hợp Chủng Quốc Hoa Kì

  1. Hợp Chủng Quốc Hoa Kì I/ Bản đồ: Ghi chú AL - Alabama AK - Alaska AZ - Arizona AR - Arkansas CA - California CO - Colorado CT - Connecticut DE - Delaware FL - Florida GA - Georgia HI - Hawaï ID - Idaho IL - Illinois IN - Indiana IA - Iowa KS - Kansas KY - Kentucky LA - Louisiana ME - Maine MD - Maryland MA - Massachusetts MI - Michigan MN - Minnesota MS - Mississippi MO - Missouri MT - Montana NE - Nebraska NV - Nevada NH - New Hampshire NJ - New Jersey NM - New Mxico NY - New York NC - North Carolina ND - North Dakota OH - Ohio OK - Oklahoma OR - Oregon PA - Pennsylvania RI - Rhode Island SC - South Carolina SD - South Dakota TN - Tennessee TX - Texas UT - Utah VT - Vermont VA - Virginie WA - Washington WV - West Virginia WI - Wisconsin WY - Wyoming DC - District of Colombia "Trời và đất chưa bao giờ hoà hợp với nhau tốt hơn để tạo nên một nơi như thế cho sự cư trú của con người" John Smith 1607 Những người Mỹ đầu tiên
  2. Lúc đỉnh cao của thời kỳ băng hà vào khoảng giữa năm 34.000 và năm 30.000 trước công nguyên, thì phần lớn lượng nước trên thế giới đều được ẩn chứa trong những lớp băng lục địa bao la. Vì vậy, biển Bering nông hơn cả mực nước biển ngày nay hàng trăm mét, và khi đó có một vùng đất nối mang tên Beringia xuất hiện giữa châu á và Bắc Mỹ. Người ta cho rằng, tại đỉnh của nó, Beringia rộng tới 1.500 km. Vùng đài nguyên ẩm ướt và không cây cối được bao phủ bởi thảm cỏ và các loài thực vật đã hấp dẫn các loài thú lớn, mà theo đó con người thời tiền sử săn bắt cho sự sinh tồn của mình. Những con người đầu tiên đến Bắc Mỹ chắc chắn đã làm như vậy mà không biết rằng họ đã băng qua biển cả để tới một lục địa mới. Chắc chắn họ đã săn đuổi các loài thú như tổ tiên họ đã làm suốt hàng nghìn năm dọc bờ biển Siberia và sau đó vượt ngang vùng đất nối ấy. Thời đó, ở Alaska, những người Bắc Mỹ đầu tiên đó đã mất hàng nghìn năm để mở đường xuyên qua những tảng băng hà khổng lồ đi về phía nam, tới nơi mà ngày nay là nước Hoa Kỳ. Người ta vẫn tiếp tục tìm thấy những bằng chứng về cuộc sống thời tiền sử ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên, có ít sự kiện được ghi nhận đáng tin cậy trước năm 12.000 trước công nguyên; chẳng hạn, việc phát hiện gần đây một chòi canh săn bắn ở miền Bắc Alaska có thể có niên đại chừng thời gian đó. Những mũi lao được gia công rất khéo cùng những hiện vật khác tìm thấy ở gần Clovis, bang New Mexico cũng được xác định niên đại như vậy. Các chế phẩm nhân tạo tương tự được tìm thấy tại nhiều nơi ngang dọc Bắc Mỹ và Nam Mỹ chứng minh rằng, sự sống đã có thể được xác lập khá ổn định và tốt đẹp ở nhiều nơi thuộc bán cầu Tây vào thời gian trước năm 10.000 trước công nguyên.
  3. Khoảng chừng thời gian đó, voi mamút đã bắt đầu bị tuyệt diệt và bò rừng đã thay thế voi mamút làm nguồn cung cấp chính đồ ăn và da sống cho những người Bắc Mỹ thời xa xưa ấy. Theo thời gian, vì ngày càng nhiều hơn những loài thú săn lớn bị diệt vong do bị săn bắn quá độ hay vì những nguyên nhân tự nhiên nên các loài cây, quả mọng và các loại hạt ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong bữa ăn của người Mỹ thời tiền sử. Dần dần, với việc tìm kiếm thức ăn, những nỗ lực đầu tiên cho việc canh tác nông nghiệp nguyên thủy đã xuất hiện. Những người da đỏ ở khu vực mà ngày nay là miền trung tâm nước Mexico đã đi trước trong việc này khi họ trồng ngô, bí và đậu, có lẽ vào thời gian khoảng năm 8.000 trước công nguyên. Dần dần, kiến thức này được truyền lên phía Bắc. Cho đến năm 3.000 trước công nguyên, loại ngô nguyên thuỷ đã được trồng ở các vùng lưu vực sông ở khu vực bang New Mexico và Arizona. Sau đó, những hình thức đầu tiên của công tác thủy lợi đã xuất hiện, và cho tới năm 300 trước công nguyên, đã hình thành những hình thức của quần cư làng đầu tiên. Tới những thế kỷ đầu sau công nguyên, người Hohokum sống ở các khu vực quần cư gần những vùng ngày nay là Phoenix, Arizona, tại đây họ đã xây dựng những ngôi nhà hình cầu và những cái gò hình kim tự tháp gợi nhớ tới những công trình được phát hiện ở Mexico, cũng như một hệ thống kênh và thủy lợi nữa. III/ Những người xây dựng đồi gò và những làng Pueblos Nhóm người da đỏ đầu tiên đã xây dựng những khu đồi gò ở khu vực ngày nay là Hoa Kỳ, các đồi gò này thường được gọi là Adenans. Họ bắt đầu xây cất những khu nghĩa địa và các công sự bố phòng vào khoảng năm 600 truớc công nguyên. Một số gò đồi còn lại từ giai đoạn đó có hình những con chim hay những con rắn lớn, có lẽ chúng được dùng cho những mục đích tôn giáo mà ngày nay người ta vẫn chưa hiểu biết trọn vẹn.
  4. Người Adenans xuất hiện để rồi bị thu hút và bị thay thế bởi những nhóm người khác nhau mang cái tên chung là người Hopewellian. Một trong những trung tâm quan trọng nhất của nền văn hoá của họ được tìm thấy ở miền nam Ohio, nơi những dấu tích của vài ngàn ngọn đồi gò như thế vẫn còn sót lại. Người ta tin rằng người Hopewellian là những doanh nhân rất tài khéo, họ đã sử dụng và trao đổi các công cụ và nguyên liệu ở suốt một khu vực rộng lớn hàng trăm cây số. Cho đến khoảng năm 500 sau công nguyên, người Hopewellian cũng rời bỏ đi nhường vị trí cho một nhóm đông đảo các bộ lạc mang tên người Mississippi hoặc văn hoá Gò Ðền. Thành phố Cahokia ở phía đông thành phố St.Louis, bang Missouri được coi là đã có số dân chừng 2 vạn người vào thời kỳ thịnh đạt nhất ở đầu thế kỷ XII. Tại trung tâm thành phố có một gò đất lớn, phẳng ở trên đỉnh, cao 30 mét và đáy rộng 37 hécta. Có tới 80 cái gò đồi khác được tìm thấy ở xung quanh. Những đô thị như Cahokia sống phụ thuộc vào việc kết hợp săn bắt, cướp phá, buôn bán và làm nông nghiệp để có đồ ăn thức uống và các đồ dùng khác. Do chịu ảnh hưởng của những xã hội thịnh vượng phát triển xuống miền nam, các đô thị này phát triển thành những xã hội có tôn ti, thứ bậc phức tạp, có chiếm hữu nô lệ và thực hành sự hiến tế bằng con người. ở vùng mà hiện nay là miền tây nam Hoa Kỳ, người Anasazi, tổ tiên của người da đỏ Hopi, đã bắt đầu xây dựng những khu làng bằng đá và gạch không nung vào khoảng năm 900. Những cấu trúc giống như khu chung cư độc nhất vô nhị đáng kinh ngạc này thường được xây dọc theo các bờ mặt của vách đá; nổi tiếng nhất là "lâu đài vách đá" ở Mesa Verde, Colorado, có hơn 200 phòng. Một nơi khác là phế tích làng Bonito dọc sông Chaco ở bang New Mexico đã từng bao gồm hơn 800 phòng.
  5. Có lẽ những người giàu nhất trong số những người da đỏ châu Mỹ thời kỳ tiền Columbus đã sống ở miền tây bắc ven Thái Bình Dương, nơi có sự phong phú tự nhiên của cá và nguyên liệu sống đã làm cho các nguồn cung cấp thực phẩm rất dồi dào và các làng tồn tại lâu dài có thể có ngay từ năm 1.000 trước công nguyên. Sự xa hoa của các cuộc tụ họp "phát tán của cải" tiếp tục là một tiêu chuẩn đánh giá sự phung phí quá độ và lễ hội có lẽ không gì so sánh nổi trong lịch sử nước Mỹ thời kỳ lập quốc. IV/ Những nền văn minh Mỹ bản địa ở mức nào đó thì nước Mỹ khi chào đón những người châu Âu đầu tiên hoàn toàn không phải là một chốn hoang vắng. Ngày nay người ta cho rằng khi đó đã có những người sống ở bán cầu Tây như ở Tây Âu: khoảng 40 triệu người. Những con số ước tính về số người Mỹ bản địa sống tại mảnh đất ngày nay là Hoa Kỳ vào giai đoạn thực dân hoá dữ dội của người châu Âu dao động từ 2 tới 18 triệu, phần lớn các nhà sử học chọn con số thấp hơn. Một điều chắc chắn là cái hậu quả tàn khốc của bệnh tật mà người châu Âu mang tới cho cư dân bản xứ ngay từ buổi đầu tiếp xúc. Ðặc biệt, bệnh đậu mùa đã triệt hạ toàn bộ nhiều cộng đồng và nó được nhìn nhận là nguyên nhân trực tiếp hơn cả trong sự suy giảm ghê gớm trong dân số người da đỏ vào những năm 1.600 so với vô số các cuộc chiến tranh và đụng độ với dân định cư châu Âu. Các tập tục và văn hoá của người da đỏ thời gian đó đa dạng một cách lạ thường, như người ta đã tìm hiểu thì người da đỏ có được vùng lãnh thổ rộng lớn và nhiều môi trường khác nhau mà mọi tập tục và văn hoá ấy đã được thay đổi để thích ứng. Tuy có sự đa dạng ấy, song cũng có thể có một số khái quát về chúng.
  6. Phần đông các bộ lạc, đặc biệt ở vùng miền Ðông có rừng rú và miền Trung Tây, đã kết hợp những cách kiếm sống như săn bắt, hái lượm, trồng ngô và những sản phẩm khác để có đủ thức ăn. Nhiều khi phụ nữ lại đảm nhiệm việc trồng trọt và phân phối thức ăn, trong khi đó đàn ông đi săn bắn và tham gia chiến đấu. Theo sự đánh giá chung thì xã hội người da đỏ ở miền Nam Mỹ gắn bó chặt chẽ với đất đai. Việc hợp sức với thiên nhiên và môi trường đã được đồng nhất hoá thành những tín ngưỡng tôn giáo. Ðời sống người da đỏ được định hướng căn bản theo thị tộc và cộng đồng, trẻ em được trao quyền tự do và sự khoan dung nhiều hơn phong tục châu Âu khi đó. Tuy một số bộ lạc Bắc Mỹ có phát minh ra một kiểu chữ tượng hình để lưu giữ những văn bản nhất định, nhưng nền văn hóa của người da đỏ chủ yếu vẫn là truyền khẩu với việc đánh giá cao cách thuật lại những câu chuyện cổ và các giấc mơ. Rõ ràng là có nhiều mối quan hệ buôn bán giữa các nhóm khác nhau và có những bằng cớ xác đáng tồn tại cho thấy các bộ lạc kế cận nhau đã duy trì những mối bang giao sâu nặng và hình thức nữa, bao gồm cả tính chất hữu hảo và thù địch. V/ Những người châu Âu đầu tiên Những người châu Âu đầu tiên đến Bắc Mỹ - là đầu tiên chí ít cũng theo bằng chứng đáng tin cậy - là người Nauy vốn đi về phía Tây xuất phát từ Greenland, tại nơi mà Erik Ðỏ đã lập ra một khu định cư vào khoảng năm 985. Người con trai của ông là Leif được cho là đã thám hiểm miền bờ biển Ðông Bắc khu vực bây giờ là nước Canada vào năm 1001 và ít nhất đã sống ở đó một mùa đông. Trong khi các khúc ca dân gian Bắc Âu (saga) kể rằng các thuỷ thủ người Viking đã phiêu lưu thám hiểm miền bờ biển Ðại Tây Dương của Bắc Mỹ xuôi tới tận
  7. vùng Bahamas, thì những lời ca ngợi ấy vẫn chưa hề được chứng minh. Tuy nhiên, vào năm 1963, những phế tích của một số ngôi nhà của người Nauy có niên đại từ thời đồ đá được phát hiện ở L'Anse - aux - Meadows tại miền bắc Newfoundland, đã củng cố cho một số khẳng định mà khúc ca dân gian của người Nauy đã đưa ra. Năm 1497, đúng 5 năm sau khi Christopher Columbus đổ bộ lên quần đảo Caribbean để đi tìm lộ trình phía Tây tới châu á, một thuỷ thủ người Venetia tên là John Cabot đã tới Newfoundland theo sứ mệnh của vua Anh. Tuy bị quên lãng rất nhanh nhưng chuyến hành trình của Cabot về sau này đã được dùng để cung cấp cơ sở cho các yêu sách của Anh quốc về phía Bắc Mỹ. Ðiều đó cũng mở đường tới những khu vực đánh cá sản lượng cao ở ngoài khơi khu vực George's Banks mà các ngư dân châu Âu, đặc biệt là ngư dân Bồ Ðào Nha, chẳng bao lâu sau đã tới đó thường xuyên. Tất nhiên Columbus chưa bao giờ nhìn thấy đất liền nước Mỹ, nhưng những cuộc thăm dò, thám hiểm đầu tiên nước Mỹ đã được mở đầu từ những khu vực đất đai do người Tây Ban Nha sở hữu mà chính ông là người đã trợ giúp xác lập. Cuộc thám hiểm đầu tiên trong số đó được tiến hành năm 1513 khi một nhóm các nhà khảo sát dưới sự chỉ huy của Juan Ponce de Leon đổ bộ tại bờ biển Florida gần thành phố St.Augustine ngày nay. Cùng với công cuộc chinh phục nước Mexico vào năm 1522, người Tây Ban Nha đã củng cố vị trí vững chắc của mình ở Tây bán cầu. Những phát hiện tiếp theo đã bổ sung thêm cho tri th ức của người châu Âu về miền đất mà bây giờ được gọi là nước Mỹ (America) theo tên của nhà hàng hải người Italia là ông Amerigo Vespucci, người đã viết một bài tường thuật nổi tiếng về các cuộc hành trình của mình tới "Tân Thế giới". Cho tới năm 1529, những tấm bản đồ đáng tin cậy của vùng bờ biển Ðại Tây Dương từ Labrador đến Tierra del Fuego đã được vẽ, tuy
  8. nhiên người ta đã phải mất hơn một thế kỷ nữa trước khi niềm hy vọng phát hiện ra "Tuyến đường biển Tây Bắc" tới châu á mới hoàn toàn bị gác bỏ. Trong số những cuộc thám hiểm đầu tiên quan trọng nhất của người Tây Ban Nha có cuộc thám sát của Hernando De Doto, một nhà cựu chinh phục từng tháp tùng Francisco Pizzaro trong cuộc chinh phục Peru. Rời Havana năm 1539, đoàn thám hiểm của De Soto cập bờ ở Florida và vượt qua miền đông nam nước Mỹ tới tận vùng sông Mississippi để tìm kho báu. Một người Tây Ban Nha khác, ông Francisco Coronado, đã xuất phát từ Mexico năm 1540 để đi tìm kiếm bảy đô thị huyền thoại của xứ Cibola. Những lộ trình của Coronado đã đưa ông tới vùng Grand Canyon và Kansas, nhưng ông đã thất bại trong việc tìm ra vàng hay kho báu mà người của ông đã ra sức tìm kiếm. Tuy nhiên, đoàn thám hiểm của Coronado đã để lại cho cư dân vùng mà họ đã đi qua một món quà phi thường cho dù là không chủ ý: có rất nhiều ngựa do đoàn thám hiểm của ông thả ra đã làm biến đổi cuộc sống ở vùng Ðại Ðồng Bằng (The Great Plains) này. Chỉ trong vòng vài thế hệ, những người da đỏ ở vùng đồng bằng đã trở thành các bậc thầy của nghệ thuật cưỡi ngựa, nhờ đó họ mở rộng đáng kể tầm và phạm vi các hoạt động của mình. Trong khi người Tây Ban Nha đẩy mạnh hoạt động lên từ miền nam thì phần phía bắc của nước Mỹ ngày nay chậm chạp được khám phá thông qua các cuộc hành trình của các nhà thám hiểm như Giovanni da Verrazano. Vốn là một người Italia quê ở Florenzia đi biển thuê cho người Pháp, Verrazano đã đổ bộ ở Nam Carolina năm 1524, sau đó ông dong buồm tiến lên miền Bắc dọc theo bờ Ðại Tây Dương, vượt qua vùng mà ngày nay là hải cảng New York.
  9. Mười năm sau, một người Pháp tên là Jacques Cartier đã lên đường ra khơi với niềm hy vọng - giống như những người châu Âu khác trước ông - tìm ra con đường biển tới châu Âu. Các cuộc thám hiểm của Cartier dọc sông St. Lawrence đã đặt cơ sở cho những yêu sách của nước Pháp đối với Bắc Mỹ, những yêu sách này còn kéo dài tới tận năm 1763. Tiếp theo sự sụp đổ của thuộc địa Quebec đầu tiên của họ vào những năm 1540, những người theo giáo phái Huguenot1 Pháp đã cố gắng định cư ở vùng bờ biển phía bắc Florida hai thập niên sau đó. Do đánh giá, nhìn nhận người Pháp như một mối đe doạ cho con đường giao thông của mình dọc hải lưu Gulf Stream, nên người Tây Ban Nha đã phá tan khu kiều dân này năm 1565. Thật trớ trêu và mỉa mai là thủ lĩnh của lực lượng quân đội Tây Ban Nha, ông Pedro Menendez, chẳng mấy lâu sau đã thiết lập một đô thị cách đó không xa là thành phố St.Augustine. Ðây là khu vực định cư thường xuyên và lâu dài đầu tiên của người châu Âu ở vùng đất mà ngày nay là nước Mỹ. Số của cải khổng lồ đổ về Tây Ban Nha từ các thuộc địa ở Mexico, quần đảo Caribbean và Peru, đã kích thích mối quan tâm lớn lao ở nhiều cường quốc châu Âu khác. Theo dòng thời gian, những quốc gia ven biển có nền hàng hải mới nổi lên như Anh bắt đầu quan tâm đến Tân Thế giới. Nước Anh được lôi kéo vào đó một phần bởi những cuộc đột kích thành công do Francis Drake chỉ huy vào các tàu chở châu báu của Tây Ban Nha. Năm 1578, ông Humphrey Gibert, tác giả luận thuyết về việc tìm kiếm con đường Tây Bắc, đã nhận được giấy phép độc quyền lập thuộc địa cho "những miền đất ngoại đạo và dã man" ở Tân Thế giới của các nước châu Âu khác vẫn chưa yêu sách tới từ tay Nữ hoàng Elizabeth. Sẽ phải mất năm năm trước khi mọi nỗ lực của ông có thể được bắt đầu. Khi ông bị mất tích trên biển cả, người em trai cùng cha khác mẹ của ông Walter Raleigh đảm nhiệm tiếp tục sứ mạng.
  10. Năm 1585, Raleigh thiết lập khu kiều dân Anh đầu tiên ở Bắc Mỹ trên đảo Roanoke ngoài khơi bờ biển Bắc Carolina. Sau đó khu này bị bỏ và nỗ lực thứ hai được tiến hành hai năm sau đó cũng bị thất bại. Lại phải mất 20 năm truớc khi người Anh cố gắng lần nữa. Lần này tại Jamestown vào năm 1607, khu định cư thành công và Bắc Mỹ bước vào một kỷ nguyên mới.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2