BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Đạt Thức

TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Hà Nội - 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Đạt Thức

TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM

Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 9229040

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. KIỀU THU HOẠCH

Hà Nội - 2020

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan:

- Luận án này là kết quả nghiên cứu bƣớc đầu của riêng tôi dƣới sự hƣớng

dẫn tận tình của ngƣời hƣớng dẫn khoa học, chƣa đƣợc công bố trong các công trình

nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc.

- Luận án đƣợc tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu thị.

- Kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu trƣớc đã đƣợc luận án

tiếp thu hết sức cẩn trọng và chân thực.

Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận án

Nguyễn Đạt Thức

ii

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................. i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................. iv MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .................................................................................................................... 6 1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu .............................................................................. 6 1.1.1. Một số nghiên cứu cơ bản ...................................................................................... 6 1.1.2. Một số tập hợp, giới thiệu tư liệu và tiếp cận qua tư liệu Hán Nôm ................... 13 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn ....................................................................................... 22 1.2.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................................ 22 1.2.2. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................................... 29 1.3. Một số khái niệm liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu qua tƣ liệu Hán Nôm .......... 30 1.3.1. Mẫu ..................................................................................................................... 30 1.3.2. Đồng ..................................................................................................................... 30 1.3.3. Cốt ........................................................................................................................ 30 1.3.4. Bóng ..................................................................................................................... 30 1.3.5. Chính tự ................................................................................................................ 31 1.3.6. Phủ ....................................................................................................................... 31 1.3.7. Tam phủ ................................................................................................................ 32 1.3.8. Tứ phủ .................................................................................................................. 32 Tiểu kết .......................................................................................................................... 32 Chƣơng 2. TƢ LIỆU HÁN NÔM VỀ TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ............................................................................. 34 2.1. Khái lƣợc về nguồn tƣ liệu Hán Nôm gắn với tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ ............................................................................... 34 2.1.1. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tại Viện Thông tin khoa học xã hội ............................................................ 34 2.1.2. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ qua di sản Hán Nôm - Viện Nghiên cứu Hán Nôm ........................... 37 2.1.3. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tại một số cơ sở lữu trữ khác ............................................................... 43 2.1.4. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở khu vực phủ Giày ................... 46 2.2. Hƣớng tiếp cận nội dung tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ theo loại hình văn bản .......................................... 64 2.2.1. Nhóm tư liệu Hán Nôm trên giấy ......................................................................... 65 2.2.2. Nhóm tư liệu văn khắc tại di tích ......................................................................... 75

iii

2.3. Giá trị lịch sử - văn hóa của tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ ............................................................................... 75 Tiểu kết .......................................................................................................................... 78 Chƣơng 3. NHẬN DIỆN TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM .......................................................................................... 80 3.1. Lịch sử địa chính và không gian văn hóa phủ Giày ................................................ 80 3.1.1. Lịch sử địa chính liên quan tới khu vực phủ Giày ............................................... 80 3.1.2. Không gian văn hóa liên quan tới khu vực phủ Giày và danh hiệu phủ Giày ..... 95 3.2. Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày qua tƣ liệu Hán Nôm ............................................. 103 3.2.1. Thuyết Mẫu giáng sinh thời Lý Nam Đế ............................................................ 104 3.2.2. Thuyết Mẫu giáng sinh thời Lý .......................................................................... 105 3.2.3. Thuyết Vỉ Nhuế - Ghi trong Cát thiên tam thế thực lục ..................................... 107 3.2.4. Thuyết Kẻ Giày ................................................................................................... 108 3.2.5. Thuyết Nội đạo tràng ......................................................................................... 110 3.3. Lịch sử kiến trúc phủ Giày qua tƣ liệu Hán Nôm ................................................. 113 3.4. Hội phủ Giày và một số sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh qua tƣ liệu Hán Nôm .......................................................................................... 117 3.4.1. Hội phủ Giày Vân Cát và một số sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh qua tư liệu Hán Nôm.......................................................................... 118 3.4.2. Hội phủ Giày Tiên Hương và một số sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh qua tư liệu Hán Nôm ................................................................... 120 Tiểu kết ........................................................................................................................ 123 Chƣơng 4. BÀN LUẬN THÊM VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VĂN HÓA LIÊN QUAN TỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM ............................................................................... 125 4.1. Câu chuyện tiếp cận văn hóa quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày qua khảo chứng Vân Cát Thần nữ truyện .................................................................... 125 4.2. Hành trạng thế tục của Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày ........................................... 131 4.3. Vai trò của các cộng đồng làng xã trực tiếp liên quan trong việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy .................................................................................................. 137 4.4. Vấn đề Tam phủ, Tứ phủ và Tam tòa Tứ phủ ............................................................ 143 Tiểu kết ........................................................................................................................ 159 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 160 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ .................................. 164 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 165 PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 185

iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Nxb: Nhà Xuất bản

TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh

KHXH: Khoa học xã hội

H: Hà Nội

GS: Giáo sƣ

PGS: Phó Giáo sƣ

TS: Tiến sĩ

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Có thể nói, trong văn hóa dân gian của ngƣời Việt, không nhiều tín ngƣỡng

thu hút đƣợc sự quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu trong và ngoài nƣớc nhƣ tín

ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh. Đặc biệt, sau khi di sản văn hóa phi vật thể Thực hành

tín ngƣỡng Thờ Mẫu Tam phủ của ngƣời Việt chính thức đƣợc UNESCO vinh danh

tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (2016), tín ngƣỡng

thờ Mẫu Liễu Hạnh càng nhận đƣợc sự quan tâm đặc biệt của xã hội và giới nghiên

cứu… Chỉ tính riêng với tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh, đến nay, đã có hàng ngàn

công trình sƣu tầm, nghiên cứu lần lƣợt đƣợc công bố, xuất bản.

Với một khối lƣợng công trình nghiên cứu đồ sộ nhƣ vậy, rất khó có thể điểm

lại nội dung tất cả các công trình, bài viết về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh. Đặc

biệt, khi tiếp cận tìm hiểu những vấn đề Mẫu Liễu Hạnh cũng không thể bỏ qua

những tƣ liệu Hán Nôm có liên quan. Vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn hƣớng kế

thừa thành tựu tập hợp, phân tích của những ngƣời đi trƣớc và điểm lại một số công

trình nghiên cứu tiêu biểu, mang tính chất nghiên cứu cơ bản, cùng một số nghiên

cứu trực tiếp giải quyết vấn đề liên quan tới tín ngƣờng thờ Mẫu Liễu Hạnh và thông

qua tƣ liệu Hán Nôm để góp phần làm rõ thêm một số vấn đề nghiên cứu để đƣa ra

hƣớng tiếp cận phù hợp, từ một giới hạn tƣơng đối hẹp - tiếp cận tín ngƣỡng thờ Mẫu

Liễu Hạnh ở phủ Giày qua tƣ liệu Hán Nôm.

Đến nay, tuy các công trình nghiên cứu về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh dù

rất phong phú, với khối lƣợng lớn nhƣ vậy nhƣng chƣa có tác giả nào dày công tập

hợp, khảo cứu để tiếp cận nghiên cứu tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày qua

tƣ liệu Hán Nôm với góc nhìn văn hóa học, trong khi nguồn tƣ liệu này lại vô cùng đa

dạng, với khối lƣợng lớn, cũng có thể nói là cực lớn mà theo nghiên cứu sinh bƣớc

đầu tìm hiểu thì có những vấn đề trƣớc nay các công trình nghiên cứu trƣớc chƣa giải

đáp một cách thỏa đáng, nhƣ vấn đề tên gọi phủ Giày, vấn đề lịch sử phủ Giầy, vấn

đề Tam phủ, Tứ phủ, vấn đề đặc trƣng giới trong Tam phủ, Tứ phủ, vấn đề Tam tòa

Tứ phủ, vấn đề vị trí và vai trò của Mẫu Liễu Hạnh trong hệ thần Tứ phủ,… Theo đó,

nếu đầu tƣ khảo cứu, biện giải qua tƣ liệu Hán Nôm và tiếp cận vấn đề dƣới góc nhìn

văn hóa học thì những vấn đề này đều có thể giải đáp đƣợc trên cơ sở khoa học.

2

Vì những lý do trên, nghiên cứu sinh coi đây là tính cấp thiết và hƣớng mở của

đề tài và xác định việc tìm hiểu tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày qua tƣ

liệu Hán Nôm làm tên đề tài luận án nhƣ một hƣớng tiếp cận hẹp.

Tuy nhiên, cũng cần phải giới thuyết rằng, những vấn đề liên quan tới tín

ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày đƣợc công bố trong công trình này mới chỉ là

kết quả thu đƣợc bƣớc đầu từ một hƣớng tiếp cận hẹp (chỉ thông qua tƣ liệu Hán

Nôm) nên mức độ bao quát đối với từng khía cạnh cụ thể của tín ngƣỡng thờ Mẫu

Liễu Hạnh ở phủ Giày ắt sẽ có chỗ tỏ tƣờng, đậm nhạt khác nhau, tùy thuộc vào mức

độ phản ánh của tƣ liệu và điều kiện, khả năng thu thập, khai thác tƣ liệu. Mặt khác,

cũng do sự quy định bởi góc nhìn hẹp, những kết quả nghiên cứu đƣợc công bố trong

công trình này tƣơng đối phù hợp khi đƣợc xem xét trong bối cảnh lịch sử xã hội từ

khi tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày đƣợc định hình (khoảng thế kỷ XVI)

đến năm 1945 (niên điểm giới hạn khai thác tƣ liệu Hán Nôm, đồng thời cũng là mốc

lịch sử văn tự Hán Nôm chính thức kết thúc sứ mệnh lịch sử với tƣ cách là hệ văn tự

chính thống lƣu hành trong xã hội quân chủ Việt Nam thời trung đại).

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Thông qua việc tìm hiểu về giá trị của tƣ liệu Hán Nôm gắn với tín ngƣỡng thờ

Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày, đặt tín ngƣỡng này trong không gian văn hóa liên quan và

môi cảnh văn hóa chung của tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ để khảo lại lịch sử

địa chính và văn hóa khu vực phủ Giày quanh việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh, qua đó,

nhận diện tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày trƣớc năm 1945 trên các phƣơng

diện cơ bản (hệ thần đƣợc thờ, thần điện và không gian thực hành tín ngƣỡng, các thực

hành văn hóa tín ngƣỡng) và một số vấn đề lịch sử - văn hóa liên quan từ góc nhìn văn

hóa học, nhằm củng cố cơ sở cho việc nghiên cứu tín ngƣỡng này cũng nhƣ tín ngƣỡng

thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ trong các bƣớc nghiên cứu tiếp theo…

Để làm rõ mục đích nêu trên, luận án sẽ tiến hành các theo tác nghiên cứu

nhằm tập trung giải đáp một số câu hỏi sau:

Thứ nhất, tƣ liệu Hán Nôm có giá trị gì trong lịch sử hình thành và phát triển

của tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày?

3

Thứ hai, di sản tƣ liệu Hán Nôm gắn với tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở

phủ Giày có tác dụng gì trong việc nghiên cứu văn hóa tín ngƣỡng này trong bối

cảnh hiện nay?

Thứ ba, thông qua tƣ liệu Hán Nôm liên quan lịch sử địa chính và văn hóa khu

vực Kẻ Giày quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh đƣợc phản ánh chân thực ra sao?

Thứ tư, thông qua tƣ liệu Hán Nôm liên quan, các phƣơng diện văn hóa cơ

bản của tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày trƣớc năm 1945 đƣợc nhận diện

nhƣ thế nào?

Thứ năm, có thể thông qua nghiên cứu tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ

Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ để làm sáng tỏ những vấn đề

gì liên quan?

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu đặt ra, luận án sẽ thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể sau:

Thứ nhất, kế thừa và tập hợp, hệ thống lại kết quả nghiên cứu của một số

công trình đi trƣớc, rút ra những chỉ dấu cần đƣợc kế thừa, tiếp tục nghiên cứu bổ

khuyết từ góc độ tƣ liệu Hán Nôm và văn hóa học;

Thứ hai, kế thừa kết quả nghiên cứu của ngƣời đi trƣớc, thông qua tƣ liệu

Hán Nôm xác lập một số khái niệm liên quan.

Thứ ba, kế thừa và tập hợp, hệ thống lại di sản tƣ liệu Hán Nôm gắn với tín

ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, chỉ ra các mặt giá trị và

hƣớng tiếp cận khai thác.

Thứ tư, thông quan tƣ liệu Hán Nôm nhận diện các phƣơng diện cơ bản (hệ

thần đƣợc thờ, thần điện và không gian thực hành tín ngƣỡng, các thực hành văn

hóa tín ngƣỡng) và một số vấn đề lịch sử - văn hóa liên quan đến tín ngƣỡng thờ

Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày dƣới góc nhìn văn hóa học.

Thứ năm, phân tích, biện giải một số vấn đề, hiện tƣợng văn hóa liên quan

đang đặt ra quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở khu vực phủ Giày qua Tƣ liệu Hán Nôm từ

4

góc nhìn văn hóa học.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Thông qua tƣ liệu Hán Nôm, luận án nghiên cứu tín ngƣỡng thờ

Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày trƣớc năm 1945 trong không gian văn hóa liên quan và

môi cảnh văn hóa chung của tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ theo diễn trình

lịch sử.

Về không gian: Thông qua tƣ liệu Hán Nôm, luận án đặt đối tƣợng nghiên

cứu trong không gian văn hóa Kẻ Giầy, với vùng lõi là quần thể di tích phủ Giày,

bao gồm các di tích liên quan đến quần thể di tích này, nay thuộc địa bàn xã Kim

Thái, huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định. Trong một số thao tác phân tích, so sánh, đối

chiếu, dẫn dụ…, cần thiết đặt đối tƣợng nghiên cứu trong phạm vi mở rộng, tƣơng

ứng với không gian văn hóa Bắc Bộ.

Về thời gian: Do hƣớng tiếp cận tƣơng đối nghiên cứu tƣơng đối hẹp (chỉ thông

qua tƣ liệu Hán Nôm để nhìn nhận về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày). Theo

đó, về lý thuyết và lịch sử vấn đề, đối tƣợng nghiên cứu đƣợc đặt trong khung niên đại từ

khi tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày đƣợc định hình đến năm 1945 (đây cũng

là thời điểm văn tự Hán Nôm chính thức bị thay thế bởi chữ Quốc ngữ).

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận án tiếp cận đối tƣợng nghiên cứu dƣới góc độ tổng thể và liên ngành để

nhìn nhận, phân tích các hiện tƣợng văn hóa. Trong đó, hai hƣớng tiếp cận chính là

văn bản học và văn hóa học. Bên cạnh đó, cách tiếp cận liên ngành gồm sử học,

ngôn ngữ học, tôn giáo học… cũng sẽ đƣợc sử dụng trong các phân tích cụ thể…

5. Những đóng góp mới của luận án

- Kế thừa đƣợc thành tựu tập hợp tƣ liệu Hán Nôm của các tác giả đi

trƣớc, khảo sát, tập hợp bổ sung một cách có hệ thống và toàn diện nguồn tƣ

liệu Hán Nôm hiện có về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu

Tam phủ, Tứ phủ. Đồng thời, chỉ ra đƣợc những giá trị cơ bản của hệ thống tƣ

liệu và hƣớng tiếp cận khai thác phục vụ cho nghiên cứu.

- Thông qua tƣ liệu Hán Nôm, đƣa ra đƣợc một số khái niệm liên quan

đến tín ngƣỡng thờ Mẫu.

5

- Khảo qua tƣ liệu Hán Nôm xác lập lại lịch sử địa chính và văn hóa khu

vực Kẻ Giày trong mối quan hệ phụng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đồng thời, góp

phần cải chính một số chi tiết về lịch sử địa phƣơng.

- Thông qua tƣ liệu Hán Nôm, diễn giải một cách có hệ thống về tín

ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy trƣớc năm 1945 thông qua hệ thần đƣợc

thờ, thần điện và không gian thực hành tín ngƣỡng, các thực hành văn hóa tín

ngƣỡng. Kết quả nghiên đƣợc công bố có giá trị tham khảo, đối sánh, đặc biệt

trong việc nghiên cứu lịch sử, sự biến đổi và diễn biến của tín ngƣỡng thờ Mẫu

Liễu Hạnh ở phủ Giầy và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ...

- Phân tích, biện giải về một số vấn đề lịch sử và văn hóa có liên quan đến tín

ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đang đặt ra, nhƣ câu chuyện văn

hóa quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày qua khảo chứng Vân Cát

Thần nữ truyện, hành trạng thế tục của Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày, vai trò của các

cộng đồng làng xã trực tiếp liên quan trong việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ

Giầy trong lịch sử và vấn đề Tam phủ, Tứ phủ và Tam tòa Tứ phủ…

6. Bố cục của luận án

Ngoài phần Mở đầu (5 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham khảo (19

trang), Phụ lục (111 trang), nội dung chính của luận án gồm 4 chƣơng:

Chƣơng 1: Tổng quan về lịch sử nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn (29 trang).

Chƣơng 2: Tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày

và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ (45 trang).

Chƣơng 3: Nhận diện tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày qua tƣ liệu

Hán Nôm (44 trang)

Chƣơng 4: Bàn luận thêm về một số vấn đề văn hóa liên quan tới tín ngƣỡng thờ

Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ qua tƣ liệu Hán Nôm (34 trang).

6

Chƣơng 1

TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU,

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu

1.1.1. Một số nghiên cứu cơ bản

Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, của

Nguyễn Minh San, bảo vệ thành công năm 1996. Có lẽ, đây là một trong những công

trình nghiên cứu trong nƣớc đề cập tƣơng đối toàn diện về việc phụng thờ Mẫu Liễu ở

phủ Giầy tƣơng đối sớm, mang tính khai phá và gợi mở, đặt nền móng cho nhiều công

trình nghiên cứu tiếp theo, cụ thể:

1. Từ việc nghiên cứu tổng hợp, luạn án đã phác dựng lên một hoạt động văn

hóa dân gian tổng thể qua truyền thuyết, di tích và điện thần, nghi lễ thờ cúng

và lễ hội ở phủ Giầy; bƣớc đầu đƣa ra những đặc trƣng của tín ngƣỡng thờ

Mẫu Liễu ở vùng đất này.

2. Bằng sự so sánh phủ Giầy với một số nơi thờ Mẫu khác của ngƣời Việt ở

Trung và Nam Bộ, luận án cho rằng, phủ Giầy với việc thờ cúng Mẫu Liễu, đã

hội tụ đầy đủ các yếu tố, xứng đáng là trung tâm tín ngƣỡng thờ Mẫu lớn nhất,

nơi phản ánh rõ nét nhất sự biến chuyển của một tín ngƣỡng dân gian tiến tới

một tôn giáo bản địa sơ khai; đồng thời đƣa ra những nhận xét bƣớc đầu về

quy luật vận động, phát triển, đặc tính cơ bản về tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời

Việt trên bƣớc đƣờng mở cõi về phía Nam.

3. Kết quả nghiên cứu việc thờ phụng Mẫu Liễu ở phủ Giầy đã góp một

tiếng nói vào việc bảo tồn, phát huy vốn văn hóa truyền thống ở một địa bàn

cụ thể, ở một lĩnh vực phức tạp, tế nhị khi kế thừa vốn di sản của các thế hệ

trƣớc để lại [48, tr. 4].

Tuy nhiên, việc khai thác tƣ liệu Hán Nôm để phục vụ nghiên cứu trong công

trình này cũng chỉ đƣợc coi nhƣ một nguồn tài liệu tham khảo, một số vấn đề về văn

bản học Hán Nôm và lịch sử địa chính - văn hóa, vai trò của từng cộng đồng trực tiếp

liên quan đến việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày trong lịch sử chƣa có điều

kiện bàn luận sâu.

Trƣớc tiên, xin đề cập tới công trình Việc phụng thờ Mẫu Liễu ở phủ Giầy,

7

Tiếp theo, phải kể đến Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt - Những công trình

nghiên cứu, do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam Định và Viện Văn hóa Nghệ

thuật quốc gia Việt Nam biên soạn, Nxb. Thế giới ấn hành năm 2019 [50].

Đây là một quyển trong bộ 4 quyển: Tuyển tập những bài hát văn, Tín

ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua Tư liệu Hán Nôm, Tín ngưỡng thờ Mẫu

của người Việt - Những công trình nghiên cứu, Tín ngưỡng thờ Mẫu của người

Việt - Những công trình của các tác giả nước ngoài, do Sở Văn hóa, Thể thao

và Du lịch tỉnh Nam Định và Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam biên

soạn “Nhằm phục vụ cho việc tìm hiểu, nghiên cứu và quảng bá giá trị di sản

văn hóa tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt, trên cơ sở ấy góp phần vào công

cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc

văn hóa dân tộc” [50, tr. 9].

Theo thống kê trong công trình này, tại thời điểm xuất bản và công bố, đã

thống kê đƣợc 658 tài liệu sƣu tầm, nghiên cứu về tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời

Việt ở khu vực Bắc Bộ. Đây là một công trình biên soạn công phu, đã tập hợp và hệ

thống tƣơng đối đầy đủ các công trình nghiên về tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời

Việt ở Bắc Bộ của các nhà nghiên cứu trong nƣớc, đề cập đến hều hết nhiều khía

cạnh liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt. Tuy nhiên, những nghiên

cứu tiếp cận từ góc độ Hán Nôm đƣợc tuyển chọn lại hết sức khiêm tốn. Điểm qua

nội dung các nghiên cứu đƣợc tuyển chọn trong sách, có thể nhận thấy, hầu hết các

tác giả thƣờng dẫn tƣ liệu Hán Nôm nhƣ một nguồn tài liệu tham khảo và mặc

nhiên thừa nhận về giá trị nội dung trích dẫn, trong khi các công trình nghiên cứu từ

góc tiếp cận hẹp - “Nhìn nhận tín ngƣỡng thờ Mẫu” hoặc vấn đề liên quan qua tƣ

liệu Hán Nôm chƣa mấy đƣợc chú trọng hoặc ít ngƣời tiếp cận.

Về nghiên cứu nền mang tính nguyên lý khi tìm hiểu văn hóa Việt nói chung,

phải kể đến “Nguyên lý Mẹ của nền văn hóa Việt Nam” của tác giả Trần Quốc Vƣợng

đƣợc tập hợp trong sách. Qua các thao tác nghiên cứu và lập luận, ông khẳng định:

“Nền văn hóa truyền thống Việt Nam đã từng có NGUYÊN LÝ MẸ”. Đây là

một phát hiện đặc biệt quan trọng, có tính chất chỉ dẫn và gợi mở khi tiếp cận lịch

sử - văn hóa truyền thống Việt Nam, đặc biệt là đối với tín ngƣỡng thờ Mẫu.

8

Một nghiên cứu nền tiêu biểu khác cũng mang đậm dấu ấn của tác giả Trần

Quốc Vƣợng (viết cùng Nguyễn Hồng Kiên) cũng đƣợc tập hợp trong Tín ngƣỡng

thờ Mẫu của ngƣời Việt - Những công trình nghiên cứu, đó là: “Vị thế và bản sắc

địa - văn hóa của khu vực phủ Giầy”. Trong nghiên cứu này, ông đã đƣa ra một số

nhận xét mang tính kết luận về vị thế và bản sắc địa - văn hóa “cổ truyền” vùng quê

Mẫu dƣới cái nhìn địa - khảo cổ và địa - lịch sử hết sức độc đáo. Theo đó, ông

khẳng định, khu vực phủ Giày có bề dày lịch sử - văn hóa đáng kể trong tiến trình

lịch sử dân tộc:

1. Từ cuối thời đá mới, cách đây 4000 năm, con ngƣời đã xuất hiện ở

khu vực Kẻ Giầy, dấu tích vật chất còn lƣu lại ở chân núi Lê, núi Ngăm

ở Tiên Hƣơng, nhƣng chủ nhân của nó chủ yếu là dân chài ven biển hơn

là dân ruộng vƣờn.

2. Đã từng phát hiện đƣợc 6 trống đồng Đông Sơn ở chân núi Gôi dƣới thời

Pháp thuộc. Các trống này đều mang niên đại cách đây hơn 2000 năm. Trong

nền cảnh đƣơng thời, Kẻ Giầy và toàn miền xung quanh (khu vực Ninh Bình,

Nam Định ngày nay) vẫn là một miền ven biển, dân Việt cổ Đông Sơn mới tụ

cƣ ở chân đồi núi giáp biển.

3. Vùng Kẻ Giầy vẫn có dân tụ cƣ dƣới thời Bắc thuộc qua chứng tích

mộ Hán rải rác trên sƣờn núi, đồi cát. Bằng chứng tinh thần là huyền tích

về thời Lý Nam Đế - Triệu Quang Phục chống quân Bắc thuộc vào

khoảng thế kỷ VI.

4. Vùng này tiếp tục đƣợc khai khẩn dƣới thời Lý - Trần. Chứng cứ là

đền thờ Minh Không - Không Lộ, Chùa Keo trên - dƣới, cùng những

“vết chân ông Khổng Lồ” - Đó chính là hệ thủy lợi ao chuôm, đầm hồ

giữa những cánh đồng.

5. Trƣớc khi Mẫu ra đời, dòng họ Mẫu, gốc Trần tránh loạn (?) chạy về

Kẻ Giầy - Côi Sơn đổi sang họ Lê (Song, sau đó, dòng họ này vẫn mang

tên chính thức là họ Trần Lê. Đa phần dân Tiên Hƣơng và Vân Cát đều

thuôc dòng họ Trần Lê). Sau đó, dòng họ này và các dòng họ khác tiếp

tục khai phá vùng này… Nếu tạm tin Mẫu giáng trần vào năm 1557 thì

9

dòng họ Mẫu đã tới vùng này vào khoảng cuối thế kỷ XV… Khi ấy, văn

hóa làng, văn minh dân giã cùng các tín ngƣỡng tính linh, đa thần giáo,

Phật giáo… đều phát triển.

6. Vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVI, các cố đạo Thiên Chúa giáo thuộc dòng

Tên đã truyền đạo ở vùng Quần Anh, Ninh Cƣờng (Hải Hậu), Trà Lũ, Hoành

Nha (Giao Thủy) ở miệt biển Hà Nam, Ninh Bình, mang theo bà Maria và

Chúa Jésus Chritst…

7. … Tại vùng Kẻ Giầy, ngoài thờ Mẫu Liễu, Mẫu Thƣợng Ngàn ở trên

núi Tiên Hƣơng, cùng hệ thống đền, miếu thờ các Mẫu, Tôn Ông, Chầu

Bà, Quan Lớn, các Cô… của đạo Tam phủ, Tứ phủ của Việt Nam, vẫn

tồn tại hệ thống thờ thần Mây, Mƣa, Sấm, Gió của ngƣời dân trồng lúa

nƣớc từ thời Nguyên Thủy…

8. Kẻ Giầy thờ “Thánh Khổng Minh Không” tại đình với tƣ cách là vị

Thành hoàng... [50, tr. 166 - 170].

Cũng trong mạch tìm hiểu, nghiên cứu về Kẻ Giày, phủ Giày, đi vào vấn đề

chi tiết hơn, rất đáng chú ý là: Trên Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4 (76) - 2001,

trong bài “Vì sao Vân Cát - Tiên Hƣơng là một hồi sau tách đôi và rồi đã đang lần

kết đôi?” [77] (sau đƣợc tuyển chọn in trong Theo dòng lịch sử, Những vùng đất,

thần và tâm thức người Việt [79]), tác giả Trần Quốc Vƣợng đã rất khéo rào trƣớc,

đón sau quanh câu hỏi do ông tự đặt ra, cũng là nhan đề bài viết. Thừa nhận, “Đây

là MỘT VẤN - NẠN (câu hỏi khó khăn) đặt ra: trƣớc toàn thể nhân dân hai làng

Vân Cát và Tiên Hƣơng, trƣớc các nhà lãnh đạo địa phƣơng và Trung ƣơng, trƣớc

các nhà khoa học mong và muốn tìm hiểu SỰ THẬT LỊCH SỬ ở vùng ĐẤT PHỦ

GIẦY - KẺ GIÀY của MẪU LIỄU HẠNH” [79, tr. 398].

Từ cách đặt vấn đề:

Bất cứ ai, khi đến hành hƣơng hay tham quan vùng Phủ Giầy đều thấy:

Lạ một điều, sao chỉ có một PHỦ GIẦY mà lại, từ một vài thế kỷ trƣớc

cho đến hôm nay, thấy là hai phủ.

- Phủ Vân Cát (với phức hợp Tứ phủ Công đồng) bằng nhau, với đền

Đức Vua Lý Nam Đế - anh hùng dân tộc thế kỷ VI - …

10

- Phủ Tiên Hương (cùng với cả một phức hợp đền vua Lý Nam đế, phủ

Chúa (chúa Liễu), đền Công núi (đền Quan lớn Đệ tam ở chân núi

Ngăm), đình Công đồng (thờ thần Sấm - tả Lôi công), đình Ông Khổng

(thờ Thành hoàng - thần làng - KHỔNG LỒ - KHÔNG LỘ - KHỔNG

MINH KHÔNG)…

Phủ Vân Cát, thì dân ta cứ gọi tắt là PHỦ VÂN.

Nhƣng PHỦ TIÊN HƢƠNG - thì có nhiều ngƣời cứ gọi là PHỦ CHÍNH.

Mà có chính (chánh) thì sẽ có phụ (phó). Vậy PHỦ VÂN là PHỦ PHỤ

của Mẫu Liễu hay sao? [79, tr. 398 - 399].

Sau khi đi điền dã và tham khảo sách của bà Đoàn Thị Điểm, ông đƣa ra một

giả thuyết khoa học về Kẻ Giày nhƣ sau:

Xã Vân Cát vốn có cơ cấu 4 giáp: Đông, Tây, Nam, Bắc - là bốn gò

(cồn) cát ven biển xƣa. Sau đó, hai giáp Tây, Nam tách ra thành thôn,

(làng) An Thái trong cơ cấu "nhất xã, nhị thôn", rồi sau đó nữa (không đã

chắc phải ở thế kỷ XV (Mẫu xuất hiện sau hai ông nghè Vân Cát - An

Thái 100 năm và trƣớc bà Hồng Hà nữ sử họ Đoàn 150 năm. Thời hai cụ

nghè chƣa hề có phủ Mẫu Vân Cát - Tiên Hƣơng) nhƣng cũng không quá

thế kỷ XVIII (đầu thế kỷ XVIII, bà Đoàn nói Mẫu "giáng trần" ở thôn

An Thái xã Vân Cát, thế kỷ XIX đã có tên An Thái), An Thái đã chạy

biệt xã [79, tr. 404].

Giả thiết về câu chuyện địa chính giữa Vân Cát và Tiên Hƣơng trong mối

quan hệ thờ chung Mẫu Liễu Hạnh do giáo sƣ đặt ra cũng chính là một nguồn cảm

hứng chủ đạo dẫn dắt nghiên cứu sinh thực hiện đề tài này.

Trong “Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hóa dân gian ở Việt Nam”,

cũng đƣợc tập hợp trong sách Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt - Những công

trình nghiên cứu, qua những phân tích, tác giả Đinh Gia Khánh đã đƣa ra một nhận

định hết sức tinh tế: “Tục thờ Mẫu đầy sức sống đã dựng nên hình tƣợng Mẫu Liễu

Hạnh, tức chúa Liễu Hạnh và đã kéo thần linh (mà đạo Tam phủ bắt đầu đẩy lên

cao, xa vời đối với con ngƣời) trở về với cõi nhân gian, với muôn mặt đời thƣờng”

[50, tr. 33]… Và “Tục thờ Mẫu gắn với những truyền thống văn hóa dân gian của

11

nhân dân ta từ buổi đầu dựng nƣớc, trải qua trƣờng kỳ lịch sử cho tới tận ngày nay.

Và, đến nay, đó vẫn là một hiện tƣợng đầy sức sống…” [50, tr. 34].

Tác giả Ngô Đức Thịnh nổi tiếng với nhiều công trình riêng về tín ngƣỡng thờ

Mẫu, trong nghiên cứu Đạo Mẫu Việt Nam (Từ thờ Nữ thần, Mẫu thần đến Mẫu Tam

phủ, Tứ phủ), cũng đƣợc tập hợp trong Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt - Những

công trình nghiên cứu, đã đƣa ra những khái quát về lịch sử các hình thức thờ Mẫu của

ngƣời Việt. Theo ông, lịch sử này khởi nguồn từ việc thờ Nữ thần, qua các bƣớc phát

triển, hệ Mẫu thần đƣợc xác lập, và, đỉnh cao của sự phát triển đạt tới mức độ khái quát

là hệ Mẫu Tam, Tứ phủ. Đây là dạng thức thờ Mẫu tiêu biểu của ngƣời Việt ở khu vực

Bắc Bộ, bên cạnh dạng thức thờ Mẫu Trung Bộ, Mẫu Nam Bộ… [50, tr.35 - 67]. Thực

chất, đây là quan điểm xuyên suốt trong nhiều công trình đã công bố trƣớc đó, đƣợc

nhiều ngƣời đón nhận, tham khảo và trích dẫn… [61], [62], [63], [64].

Cũng trong nghiên cứu này, tác giả Ngô Đức Thịnh khẳng định:

Thoát thai từ đạo thờ Thần và chịu ảnh hƣởng của Đạo giáo Trung Quốc,

Đạo Mẫu với tƣ cách là một biến thể của Đạo giáo Việt Nam đã và đang

thâm nhập và ảnh hƣởng tới các tín ngƣỡng tôn giáo khác.

Cùng một loại hình Đạo giáo, Đạo Mẫu rất gần gũi với đạo thờ Thần

Tiên trong cả quan niệm, thần điện và nghi thức thờ cúng. Hơn thế nữa,

vị thần chủ Đạo Mẫu là Liễu Hạnh đồng thời là một vị Tiên tiêu biểu của

Việt Nam. Đấy là chƣa kể các hình thức nghi lễ cầu Tiên, luyện đồng

giáng bút của hai loại đạo này cũng có rất nhiều nét vay mƣợn của

nhau… [50, tr. 64].

Cũng thuộc nghiên cứu cơ bản về địa danh - từ hƣớng tiếp cận ngữ âm học,

diễn giải về ý nghĩa của từ Kẻ Giầy, trong nghiên cứu “Về tên đất Kẻ Giầy, phủ

Giầy”, tác giả Cao Xuân Hạo, Trần Thúy Anh, với sự cộng tác của tác giả Trần

Quốc Vƣợng, đã tổng hợp đƣợc 3 thuyết dân gian có đề cập đến ngữ nghĩa và

nguồn gốc của từ Kẻ Giầy, cụ thể nhƣ sau:

1. Năm 21 tuổi (1557), khi Mẫu Liễu Hạnh trở lại “thƣợng giới” có để lại

dƣới Trần gian một chiếc Hài (Giầy).

2. Vua (Lê?) hay chúa (Trịnh?) đã đi qua làng Mẫu đã nhặt đƣợc chiếc

12

Hài (GIẦY) của Mẫu để lại trần gian.

3. Vùng này có nghề bánh GIẦY - GIÒ nổi tiếng. Nay mỗi khi hội phủ

Giầy tháng Ba lịch Trăng, mọi con nhang đệ tử và khách thập phƣơng

vẫn mua bánh giầy (dân chợ Dần (Giầy) giã mang bán) [79, tr. 329].

Qua những phân tích và dẫn dụ, cuối cùng, ông đã đƣa ra một giả thuyết

khoa học: “Kẻ Giầy chính là Kẻ Trần, vùng của họ Trần” [79, tr. 332].

Đây là một chỉ dẫn quan trọng cho nghiên cứu sinh tiếp tục tìm hiểu thêm về

ý nghĩa lịch sử - văn hóa của vùng đất Kẻ Giầy.

Một nghiên cứu cơ bản khác nhƣng lại đƣợc triển khai từ góc độ khảo cứu tƣ

liệu Hán Nôm, đó là “Đối thoại với Hát Văn và Hầu đồng” của GS. Kiều Thu

Hoạch, cũng đƣợc tập hợp trong Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt - Những công

trình nghiên cứu [50]. Với không khí “đối thoại” hiếm hỏi nhƣng lại rất cởi mở, qua

khảo cứu tƣ liệu Hán Nôm, phân tích và diễn giải, ông đi đến một số nhận định trên

cơ sở tƣ liệu:

Tín ngƣỡng thờ Mẫu thuộc loại hình tín ngƣỡng Vu Hích (Đồng Cốt)…

Qua tƣ liệu Hán Nôm, tín ngƣỡng Đồng Cốt mới chỉ thấy xuất hiện từ

thời Lý… Nhiều tƣ liệu Hán Nôm đều cho thấy, tín ngƣỡng thờ Mẫu

đƣợc quy tự vào Thánh Mẫu Liễu Hạnh từ thời Lê Trịnh (thế kỷ XVII).

Và, nếu nhìn từ tín ngƣỡng Vu Hích thì Liễu Hạnh cũng có thể coi nhƣ

một nữ vu (magicienne)… [50, tr. 648].

Đây cũng là một trong những chỉ dẫn mang tính căn lề cho nghiên cứu sinh

triển khai các bƣớc trong đề tài này.

Đặc biệt, trong “Tiếp cận thực hành tín ngƣỡng Tam phủ của ngƣời Việt từ

góc nhìn lịch sử”, tác giả Kiều Thu Hoạch, từ một hƣớng tiếp cận độc đáo, ông đã

khẳng định: Việt vu là nguồn gốc của tục lên đồng của ngƣời Việt, đồng thời, ông

cũng chỉ ra tiến trình lịch sử của lên đồng. Theo đó, lên đồng cần phải đƣợc tiếp cận

trong bức tranh tổng thể và toàn cảnh, bao gồm các hoạt động vu thuật/ma thuật của

tín ngƣỡng này, cụ thể nhƣ phù kê/phụ tiên giáng bút, bói toán [29]…

Một nghiên cứu khác cũng rất đáng quan tâm, đó là Cult, Culture and

Authority Princess Liễu Hạnh in Vietnamese Hítory của Olga Dror, một học giả

13

ngƣời gốc Nga, hiện đang định cƣ tại Mỹ, nguyên bản tiếng Anh, đã đƣợc Viện Văn

hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam tuyển dịch. Tiếp cận nguồn tƣ liệu trên diện

rộng, gồm cả tƣ liệu Hán Nôm, truyền thuyết dân gian, ghi chép của các học giả đi

trƣớc, Olga Dror đã khảo rất kỹ về nguồn gốc và thời điểm định hình tín ngƣỡng

thờ Mẫu Liễu Hạnh ở khu vực phủ Giầy qua một loạt giả thuyết để đi đến khẳng

định, thế kỷ XVI là tƣơng đối thích hợp cho thời điểm định hình tín ngƣỡng này.

Ngoài ra, cũng trong công trình này, Olga Dror còn đƣa ra nhiều nhận xét khá thú vị

khác, nhƣ về tính chất đặc trƣng giới nữ trong tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và

cho rằng, Mẫu Liễu Hạnh là một vị thần đƣợc sáng tạo bởi những ngƣời bình dân…

1.1.2. Một số tập hợp, giới thiệu tư liệu và tiếp cận qua tư liệu Hán Nôm

Trƣớc tiên, phải đề cập tới nguồn tƣ liệu Hán Nôm liên quan tới hệ thống di

tích thờ Mẫu Liễu Hạnh tiêu biểu trên địa bàn Nam Định, đã đƣợc sƣu tầm, chỉnh

lý, phiên âm, dịch nghĩa, chú thích với sự đầu tƣ công sức của các tác giả Dƣơng

Văn Vƣợng, Trần Việt Anh, Nguyễn Xuân Cao, sau đƣợc Bảo tàng Nam Định tập

hợp thành những tập tài liệu phục vụ cho công tác quản lý, nghiên cứu, bảo tồn và

phát huy giá trị di tích. Đây là bộ tài liệu sƣu tầm tƣơng đối toàn diện và đầy đủ

nguồn tƣ liệu Hán Nôm tại di tích phủ Giày và phủ Nấp. Trong khuôn khổ phối hợp

thực hiện việc biên soạn cuốn sách Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua Tư

liệu Hán Nôm (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam Định và Viện Văn hóa

Nghệ thuật quốc gia Việt Nam biên soạn, Nxb. Thế giới ấn hành năm 2019), tác

giả luận án cùng nhóm thực hiện đã đƣợc Bảo tàng tỉnh Nam Đinh, cung cấp cho

một số tệp tài liệu Hán Nôm (bản đánh máy) có giá trị tham khảo, cụ thể:

- Kết quả nghiên cứu các đạo sắc phong tại phủ Tiên Hƣơng, xã Kim Thái,

huyện Vụ Bản, tập hợp 14 đạo sắc lƣu tại phủ Tiên Hƣơng, với sắc sớm nhất có

niên đại năm Vĩnh Khánh 2 (1730), sắc muôn nhất có niên đại năm Khải Định 9

(1924) - Ngoài phần nguyên văn, phiên âm, dịch nghĩa, mỗi sắc đều có phần khảo tả

ngắn gọn về đặc điểm, hiện trạng. Phần phiên âm, dịch nghĩa do Nguyễn Xuân Cao,

cán bộ Bảo tàng Nam Định thực hiện.

- Lăng Công chúa liễu Hạnh, sƣu tầm, tập hợp văn khắc Hán Nôm tại lăng

Thánh Mẫu Liễu Hạnh, do Dƣơng Văn Vƣợng dịch nghĩa và chú giải.

14

- Phủ Tiên Hương, thôn Tiên Hương, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam

Hà, với nội dung tập hợp tƣ liệu Hán Nôm tại phủ Tiên Hƣơng (ngoại trừ sắc

phong), do Dƣơng Văn Vƣợng dịch nghĩa và chú thích.

- Phủ Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà, với nội dung tập

hợp tƣ liệu Hán Nôm tại phủ Vân Cát, do Dƣơng Văn Vƣợng dịch nghĩa và chú

thích.

- Tƣ liệu Hán Nôm tại di tích phủ Quảng Cung, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên,

Nam Định, tập hợp tƣ liệu Hán Nôm tại phủ Quảng Cung, do Trần Việt Anh phiên

âm, dịch nghĩa, chú giải.

Những tài liệu này đã đƣợc chỉnh lý và tập hợp, giới thiệu trong sách Tín

ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua Tư liệu Hán Nôm [51], chú thích rõ nguồn

gốc và tác giả.

Một công trình tập hợp, giới thiệu tƣ liệu theo nhóm, cần đƣợc điểm tới là

Tuyển tập những bài hát văn [49], do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam

Định và Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam biên soạn, Nxb. Thế giới ấn

hành năm 2017. Đây cũng là một quyển trong bộ 4 quyển: Tuyển tập những bài hát

văn, Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua Tư liệu Hán Nôm, Tín ngưỡng thờ

Mẫu của người Việt - Những công trình nghiên cứu, Tín ngưỡng thờ Mẫu của người

Việt - Những công trình của các tác giả nước ngoài, do Sở Văn hóa, Thể thao và

Du lịch tỉnh Nam Định và Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam biên soạn.

Sách tập hợp 225 bản hát Văn (có phần phụ lục: cờn oán, hát dọc, xá cờn,

phú dầu) gắn với tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt, đƣợc tập hợp từ nhiều nguồn.

Trong đó, có nhiều bài bản hát văn đƣợc tuyển chọn từ bản phiên dịch từ nguyên

bản Hán Nôm có niên đại vào khoảng đầu thế kỷ XX, nhƣ Trần Triều hiển thánh

tán văn, ký hiệu thƣ viện Hán Nôm A.900, do giáo sƣ Kiều Thu Hoạch thực hiện,

Chư vị tán văn toàn tập, ký hiệu thƣ viện Hán Nôm AB601, do nghiên cứu sinh

thực hiện. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu

tín ngƣỡng thờ Mẫu, trong đó có lĩnh vực âm nhạc gắn với tín ngƣỡng thờ Mẫu, hệ

thần gắn với tín ngƣỡng thờ Mẫu, ngôn ngữ, văn học dân gian và nhiều khía cạnh

khác liên quan khác [49].

15

Cũng từ góc độ tập hợp, giới thiệu tƣ liệu về tín ngƣỡng thờ Mẫu của

ngƣời Việt, có lẽ, Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua Tư liệu Hán Nôm

[51], do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam Định và Viện Văn hóa Nghệ

thuật quốc gia Việt Nam biên soạn, Nxb. Thế giới ấn hành năm 2019 là xuất bản

phẩm tập hợp và công bố đƣợc lƣợng tƣ liệu Hán Nôm đáng kể nhất. Đây cũng

là một quyển trong bộ 4 quyển: Tuyển tập những bài hát văn, Tín ngưỡng thờ

Mẫu của người Việt qua Tư liệu Hán Nôm, Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt -

Những công trình nghiên cứu, Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt - Những công

trình của các tác giả nước ngoài, do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam

Định và Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam biên soạn, tập hợp và hệ

thống tƣơng đối về tƣ liệu Hán Nôm liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời

Việt, mặc dù trƣớc đó có một số sách khác đã tập hợp nhƣng chƣa thực sự thành

hệ thống.

Sách đã bƣớc đầu tập hợp và công bố bản dịch tiếng Việt tƣơng đối đầy đủ

các mảng tƣ liệu Hán Nôm liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Nam

Định, gồm thần tích, sắc phong, văn bia và gia phả. Tuy nhiên, về cơ bản, đây mới

chỉ là cuốn sách mới sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu đƣợc một số tƣ liệu Hán

Nôm liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Nam Định, có giá trị về mặt tài

liệu tham khảo nghiên cứu. Tuy nhiên, những tƣ liệu hán Nôm Nôm liên quan đến

các vị Thánh Mẫu khác và hệ thần liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu chƣa có điều

kiện tập hợp, đặc biệt là những vấn đề, nhƣ nhìn nhận, đánh giá, kết luận về các vấn

đề liên quan tới “Tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt qua Tƣ liệu Hán Nôm” hoặc

đánh giá về giá trị, nội dung tƣ liệu Hán Nôm, hƣớng khai thác tƣ liệu Hán Nôm

cũng chƣa có điều kiện đề cập đến tới [51].

Trƣớc đây, xóc thẻ, rút thẻ, xem thẻ là một trong những hoạt động tín

ngƣỡng khá phổ biến trong các đền, chùa, miếu, quán, phủ… ở nƣớc ta. Với tín

ngƣỡng thờ Mẫu, ấn phẩm Thánh Mẫu linh thiêm, do Olivier Tessier (Tổ chức biên

soạn), Phạm Văn Ánh, Nguyễn Thị Hiệp (dịch vào giới thiệu), là một ấn phẩm tập

hợp, giới thiệu tƣ liệu tƣ liệu rất đáng chú ý. Bộ sách giới thiệu khá đầy đủ chi tiết

về tục bói thẻ, đặc biệt đã công bố toàn văn (dạng ảnh chụp) và phần phiên âm, dịch

16

nghĩa chú giải cho từng quẻ... [45].

Từ góc tiếp cận Hán Nôm, quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ

Giày, Dƣơng Văn Vƣợng là tác giả có công rất lớn trong việc sƣu tầm, tập hợp tƣ

liệu Hán Nôm. Trên nền tảng này, hầu hết các nghiên cứu liên quan của ông thƣờng

dựa trên việc khảo cứu tƣ liệu Hán Nôm để phân định - Xin lấy ra một dẫn dụ liên

quan để cùng thấy đƣợc điều này: Trong “Tìm hiểu lịch sử Mẫu Liễu qua một số

thơ văn cổ”, cũng đƣợc tập hợp trong Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt - Những

công trình nghiên cứu [50]. Trên nền tảng tƣ liệu, ông đã tìm cách đặt và giải quyết

vấn đề lịch sử Mẫu Liễu rất đáng chú ý:

Từ câu đối của Giám sát Ngự sử Đồng Công Viện, viết năm Vĩnh Thịnh

thứ 8 (1712) tại chùa Hải Lạng, huyện Đại An nói về ba kiếp giáng sinh

của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, bằng những kinh nghiệm điền dã và dịch

thuật Hán Nôm, ông tin và lần lƣợt diễn giải về ba lần giáng sinh xuống

trần của thánh Mẫu Liễu Hạnh nhƣ sau:

- Lần thứ nhất, Mẫu giáng sinh tại Vỉ Nhuế (Đại An).

- Lần thứ hai, Mẫu giáng sinh ở Yên Thái (Thiên Bản).

- Lần thứ ba, Mẫu giáng sinh ở Tây Mỗ (Nga Sơn)…

Điểm thú vị là khi đề cập tới Vân Cát thần nữ truyện (trong Truyền kỳ Tân phả),

ông đƣa ra khẳng định, Vân Cát thần nữ truyện nguyên do Trần Mại từng đỗ Đệ Tam

giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, niên hiệu Bảo Thái thứ 2 - 1721, làm quan

chức Công bộ Thị Lang viết. Theo ông, ghi chép của Trần Mại nhƣ sau:

Ở Yên Thái có bà con gái linh thiêng, hiển hiện nói cùng dân thôn và thân

nhân trong những đêm trăng sáng dƣới khu gò Đa, nơi có xác phàm, rằng

mình là con gái của Thƣợng đế bị trích xuống trần vào nhà họ Lê ở xóm

Vân Cát, lấy chồng là Trần Duy Đào, sinh đƣợc một trai, một gái, năm 21

tuổi về trời. Dân sở tại thấy cô chỉ bảo giúp địa phƣơng tìm lành tránh dữ,

nên lập miếu thờ. Em trai của cô là Lâm thay cô phụng dƣỡng hai thân,

dòng dõi họ Trần giữ gìn hiếu nhân tín nghĩa [50, tr. 224 - 225].

Tuy nhiên, một điểm đáng tiếc là ông chƣa chú thích rõ “Theo ghi chép của

Trần Mại” là theo tƣ liệu nào, tính xác thực lịch sử và văn bản của tƣ liệu ra sao.

17

Bên cạnh đó, cần thiết phải đặt vấn đề tính xác thực cửa tƣ liệu hoặc bản dịch khi

xét lại chi tiết (lời ông Trần Mại) cho rằng: “Ở Yên Thái có bà con gái linh thiêng,

hiển hiện nói cùng dân thôn và thân nhân trong những đêm trăng sáng dƣới khu gò

Đa” - Nếu hiểu, “dân thôn” trong câu này là dân thôn Yên/An Thái thì nguồn tƣ liệu

chƣa hẳn đã chính xác, bởi qua khảo cứu và đối chiếu nguồn tƣ liệu Hán Nôm, đặc

biệt là qua các tài liệu gốc mang tính chân xác cao, nhƣ sắc phong (hiện lƣu tại nhà

thờ họ Trần Lê và phủ Tiên Hƣơng), địa bạ lập năm Gia Long thứ 4 - 1805 (hiện

lƣu tại Trung tâm Lƣu trữ quốc gia 1, Cục Văn thƣ và Lƣu trữ nhà nƣớc - Bộ

Nội vụ), xã An/Yên Thái, bản xác thực của Bộ Lễ triều Nguyễn, tục lệ xã Tiên

Hƣơng, do hội đồng chức dịch xã Tiên Hƣơng (trƣớc là An/Yên Thái) lập năm Tự

Đức thứ 3 - 1850) chƣa thấy khi nào An/Yên Thái ở đây giữ tƣ cách là một

xóm/thôn.

Cũng theo Dƣơng Văn Vƣợng:

Trần Mại không đề cập tới tiền thân và hậu thân của Mẫu. Tuy nhiên,

Đoàn Thị Điểm và em trai của bà là Đoàn Doãn Luân đều là học trò của

Trần Mại sau khi ông trí sĩ về hƣu sớm. Đoàn Thị Điểm tiếp thu đƣợc

chuyện này đã thêm phần trên dƣới có sự linh dị, làm sống thêm cuộc

đời, sự nghiệp thơ văn, hiển thánh ra oai tác phúc…. Tuy nhiên, khi đến

Giá Sơn Kiều Oánh Mậu (ngƣời xã Đông Sàng, huyện Phúc Thọ) biên

tập lại, có đƣa cho Khiếu Năng Tĩnh xem, sau khắc bản in vào năm Canh

Tuất (1910), đã chú trọng đến việc thánh Mẫu chống trọi với quan triều

đình nhƣ còn thấy trong tác phẩm này [50, tr. 225 - 226].

Tiếp theo, dẫn lời của Lý Văn Phức (ngƣời xã Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận,

đỗ Hƣơng Cống năm Gia Long 18 - 1819), ông để đi đến khẳng định: “Bà Điểm là

ngƣời yếu ớt, biết phụng sự chồng, nuôi nấng con cháu, là ngƣời học hành uyên bác

nhƣng chẳng dám đi đâu, nên tập biên mã vàng công chúa đã thiếu mất tiền thân và

hậu thế” [50, tr. 226].

Cũng trong nghiên cứu này, Dƣơng Văn Vƣợng khẳng định:

Ông từ Trần Đắc Tuyên, trong một lần ngồi đồng năm Gia Long thứ 15

(1806), đã viết: Ta (Mẫu Liễu) tiền kiếp ở Vỉ Nhuế - Đại An, trung khiếp ở

18

An Thái - Thiên Bản, hậu kiếp ở Tây Mỗ - Nga Sơn, đều có từ 20 đến 40

năm nơi trần thế, việc trinh hiếu là nhân bản không thể thiếu, việc du ngoạn

là việc cảnh tỉnh lũ ô trọc, há lại cho là vô bổ, còn việc họa xƣớng ở Tây Hồ

là loài hồ yêu mê hoặc không nên gán ghép cho ta… [50, tr. 226].

Đó là một chi tiết khá thú vị, để qua đó có thể đặt ra một giả thiết để làm việc là:

Phải chăng, trƣớc đây, ngoài mục đích thông linh (con đồng bắc cầu để con ngƣời và

thần linh giao tiếp với con ngƣời), “lên đồng phán truyền” còn đƣợc sử dụng với mục

đích xây dựng, đắp bồi hành trạng, thân thế của Mẫu và thần linh?

Sau khi dẫn thêm tƣ liệu sắc phong, Dƣơng Văn Vƣợng khẳng định:

Trong mối quan hệ với Mẫu, ông Lê Công Tiên là bố đẻ và bà Từ Huệ

(Trần Thị Phúc) là mẹ đẻ, ông Lê Công Lâm là em ruột, bà Sâm, tức Duy

Tiên phu nhân là em dâu, bà Liên tức Quế Anh hay Quế Hoa là cháu.

Về phía chồng, ở xóm Vân Đình (Giáp Nhì) đều có bài vị thờ ở phủ Tiên

Hƣơng, mà đời cho là quê chồng mới, là nơi có cửa nhà và nơi gửi xác.

Mộ phát tích thì tại xứ Cây Đa Bóng, có mộ cha đẻ tại xứ La Hào (Giáp

ba) là mộ tổ tứ đại, còn cồn cây Đa là mộ Mẫu, nơi chôn cất xác phàm,

nơi sau này ba chị em họ Lê thuộc hội Đào Chi (Huế) đã xây lăng đá

năm Mậu Dần (1938) [50, tr. 229].

Cuối cùng, ông đƣa ra nhận định:

Có thể nói vị đàn bà mà thời xƣa phong là chúa Liễu, về nguồn gốc là

ngƣời thực việc thực, có ba giai đoạn, mà kết hợp lại thì do lời của ông

đồng bà cốt, thần thánh hóa uy đức của ngƣời phụ nữ.

Về thực chất có ba ngƣời phụ nữ ở ba vùng, lần thì không lấy chồng, lần

thì có chồng con, đều nêu cao tính chất nhân từ nhu thuận, treo gƣơng

trinh hiếu, mà các quan lại là chồng, là thần thích, nên đã vì vợ, em, ngƣời

yêu quý, góp tay xây dựng tô điểm, để bà thành vị nữ thần đệ nhất thời

Việt Nam đầy biến cố [50, tr. 235].

Nhƣ vậy, tạm bỏ qua những tiểu tiết, có thể nhận thấy, qua khảo cứu, Dƣơng

Văn Vƣợng đã phần nào khẳng định, với Mẫu Liễu, ngoài “hành trạng Thần Tiên”,

còn có một “hành trạng thế tục”. Tuy nhiên, một điều đáng tiếc là ông chƣa khai

19

thác nguồn tƣ liệu sắc phong để củng cố cho nhận định này. Vậy có hay không một

motif hành trạng Mẫu, vốn từ ngƣời thực chết thiêng, sau đƣợc huyền thoại hóa để

mang những yếu tố thần kỳ. Và, phải chăng, đây là một xu hƣớng “thần thánh hóa”

con ngƣời bên cạnh xu hƣớng nhân hóa thần linh trong tín ngƣỡng truyền thống

Việt? Đó là những câu hỏi nhỏ cũng đƣợc nghiên cứu sinh đặt ra và thử tìm câu trả

lời trong luận án này?

Trong Luận văn thạc sĩ Hán Nôm, Đại học Quốc gia Hà Nội, với đề tài Văn bản

Truyền kỳ tân phả và mối quan hệ với các thần tích, bảo vệ thành công năm 2011, Lê

Tùng Lâm đã rất dày công điểm lại lịch sử nghiên cứu và dịch thuật Truyền kỳ tân phả,

trong đó có truyện Vân Cát Thần nữ. Qua đó, một số vấn đề văn bản và truyền bản văn

bản này đã đƣợc làm rõ. Với thao tác tập hợp tƣ liệu theo thiên hƣớng khảo cứu, bƣớc

đầu tác giả đã thống kê đƣợc 29 văn bản thần tích liên quan tới Vân Cát Thần nữ. Sau

phân tích văn bản, tác giả đã khái quát về hình tƣợng và hành trạng của Thánh Mẫu

Liễu Hạnh qua Truyền kỳ Tân phả và các bản thần tích dƣới các góc độ: danh hiệu, tên

trên thiên đình, tục danh và sự giáng sinh, thần hiệu, ngày sinh và ngày mất, quê

hƣơng, bố mẹ, anh em, chồng con… và đƣa ra một nhận xét khá thú vị là:

Đoàn Thị Điểm đã thu thập nhiều tích truyện trong dân gian để viết nên Vân

Cát Thần nữ theo motip tài tử giai nhân. Truyện có sức lan tỏa mạnh mẽ,

khi thâm nhập vào khắp các miền quê lại có thay đổi ít nhiều cho phù hợp

điều kiện mới. Và, để thống nhất thần quyền, cầu cho vận nƣớc dài lâu,

triều đĩnh đã ban sắc, dựng đền đƣa vào hàng quốc tế. Theo đó, ảnh hƣởng

của tín ngƣỡng thờ Mẫu ngày càng lớn mạnh… [37].

Tuy nhiên, một điều đáng tiếc, là khi khảo văn bản Vân Cát thần nữ lục và tham

khảo các bản dịch trƣớc đó, cách diễn giải “truyền thống” vô tình vẫn bóp méo sự thật

lịch sử vẫn chƣa đƣợc phát lộ, nên trong các diễn giải về đất giáng sinh của Mẫu Liễu

Hạnh vẫn đƣợc cho là ở Thôn/làng An Thái, thuộc xã Vân Cát, trong khi trong cấu trúc

câu “An Thái Vân Cát Thiên Bản chi danh hƣơng…, về quan hệ địa chính giữa Vân

Cát và An Thái tại thời điểm định bản Vân Cát Thần nữ lục trong Truyền kỳ tân phả

khắc năm Gia Long 10 (1811) thì Vân Cát chính là một thôn của xã An Thái. Trong

khi đó, nhiều bản thần tích liên quan do chính tác giả công bố trong phụ lục lại mô tả

20

đúng, là khi ấy, thôn Vân Cát, thuộc xã An Thái. Và, sự kiện một số văn bản ghi năm

Gia Long thứ 4 (1805) xã An Thái đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng cũng mặc nhiên

đƣợc thừa nhận nhƣng trong khi thực tế đây là câu chuyện lịch sử vào cuối thờ Thiệu

Trị - đầu thời Tự Đức. Về vấn đề này, nghiên cứu sinh xin đƣợc làm rõ trong chƣơng 3

khi đề cập đến biến đổi địa chính khu vực Kẻ Giày trong lịch sử.

Một điểm đóng góp đáng kể nữa của luận văn này là tác giả đã công bố khá

nhiều bản dịch dị bản truyện Vân Cát Thần nữ, trong đó có Nội Đạo tràng và các bản

thần tích: AE.A2/86, AE.A2/48, ghi Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh từ thời Lý… [37].

Có lẽ, một tác giả có công lớn nhất trong việc đặt tiền đề khai phá tìm hiểu Tín

ngưỡng thờ Mẫu (tác giả công trình này gọi là Đạo Mẫu) ở Việt Nam qua tƣ liwwuj

Hán Nôm, phải kể đến là thạc sĩ Đinh Thị Lệ Huyền, với luận văn thạc sĩ Hán Nôm

mang tên Đạo Mẫu từ nguồn tư liệu Hán Nôm, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn,

bảo vệ thành công năm 2007.

Đây là công trình có đóng góp về khía cạnh tập hợp, chỉ dẫn tƣ liệu Hán Nôm

và khảo cứu dị bản các văn bản liên quan tới tục thờ Mẫu trên phạm vi cả nƣớc. Qua

khảo sát tƣ liệu, tác giả đã thống kê (dù chỉ qua sách thƣ mục) đƣợc 85 đầu mục tƣ liệu

Hán Nôm liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu nói chung qua Thư mục đề yếu, kèm theo

các thông cơ bản về tên văn bản, ký hiệu, niên đại, tác giả, ngôn ngữ nội dung (khái

lƣợc) và ghi chú. Riêng với nhóm thần tích, tác giả cũng đã thống kê đƣợc 31 đơn vị tài

liệu, với các thông tin cơ bản về tên văn bản, ký hiệu, hiệu duệ tôn thần, niên đại và tác

giả, địa danh lƣu trữ thần tích và ghi chú về số tờ, văn tự đƣợc thể hiện trên văn bản.

Đáng chú ý, công trình này đã công bố danh mục 220 bản khai thần tích - thần sắc của

các chức dịch làng xã kê khai năm 1938, hiện đang lƣu tại Viện Thông tin khoa học xã

hội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, với các thông tin khái quát về số đăng

ký, nơi có thần tích và sắc phong, duệ hiệu tôn thần, số lƣợng, số ký hiệu [36].

Qua các tổng hợp phân tích văn bản, phân loại văn bản theo nhóm loại hình, tác

giả đã đƣa ra một số nhận xét về lịch sử văn hóa rất đáng lƣu tâm, cụ thể:

- Về thời gian, quá trình văn bản hóa truyền thuyết về Mẫu ở nƣớc ta đƣợc

bắt đầu từ thời Lê Trung hƣng, dƣới thời vua Lê Anh Tông (1571 - 1573),

sau đƣợc kế tục qua các triều đại sau.

21

- Điểm đáng chú ý là bên cạnh ghi chép bằng chữ Hán, với sự ra đời và phát

triển hình thức ghi chép bằng chữ Nôm, đã góp phần giúp cho điều kiện

truyền bá, phổ cập tín ngƣỡng thờ Mẫu dễ dàng hơn.

- Tính dị bản trong các văn bản Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu là hệ quả

tất yếu của việc tƣờng lƣợc bất đồng (chỗ mờ chỗ tỏ).

- Nguồn tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu trực tiếp phản ánh nhiều

mặt về đời sống tín ngƣỡng thờ Mẫu… [36].

Nhân đây, xin nói rõ thêm, là quá trình văn bản hóa truyền thuyết về Mẫu ở nƣớc ta

đƣợc bắt đầu từ thời Lê Trung hƣng, dƣới thời vua Lê Anh Tông (1571 - 1573), sau đƣợc

kế tục qua các triều đại sau, thực chất là việc “văn bản hóa” mang tính chất quan phƣơng,

do triều đình thực hiện nhằm “điều chỉnh” một số nội dung mà triều đình cho là nhảm nhí.

Ngoài mặt tích cực và tiện dụng cho việc quản lý bách thần, thì việc làm này cũng là một

tác nhân trực tiếp can thiệp vào sự đa dạng văn hóa dân gian, dần biến thần tích của các vị

thần thành/theo một motip chung nhƣ chúng ta còn thấy hiện nay.

Bên cạnh đó, còn thể kể tới một số công trình khác nhƣ: Nghiên cứu kinh giáng

bút của thiện đàn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX - Luận án tiến sĩ Hán Nôm của

Trần Quang Huy [32], Quốc văn Nôm trong kinh giáng bút của phong trào thiện

đàn đầu thế kỷ XX, Luận văn thạc sĩ Hán Nôm của Trần Quang Huy [33], Đức

thánh Trần qua kinh giáng bút, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hiền [24]… và

nhiều công trình khác nữa, nhƣ của các tác giả Nguyễn Minh San, [50, tr. 210 -

219], Chu Xuân Giao [50, tr. 237 - 276], Bùi Văn Tam [50, tr. 315 - 319], Nguyễn

Duy Hinh [50, tr. 346 - 358]…

Điểm qua một số kết quả nghiên cứu của những công trình đi trƣớc, có thể nhận

thấy, mỗi nghiên cứu, với phƣơng pháp riêng, cách tiếp cận riêng, lý luận riêng, biện

giải riêng sẽ cho ra một kết quả “tƣơng đối riêng” nhƣng nhất định không có “vấn đề

cũ”. Tạm hợp các mảnh ghép lại, ắt sẽ tạo nên một bức tranh đa sắc về tín ngƣỡng thờ

Mẫu Liễu Hạnh từ lịch sử đến đƣơng đại nhƣng vẫn có những điểm nhƣ vừa mờ, vừa

tỏ. Những thành tựu nghiên cứu trên, đặc biệt là những nghiên cứu cơ bản và tập hợp

tƣ liệu là tiền đề quan trọng để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa và triển khai đề tài

này. Theo đó, có thể nhận thấy, từ việc tập hợp, khảo cứu văn bản học Hán Nôm trong

22

điều kiện hiện nay, vấn đề lịch sử địa chính và văn hóa khu vực Kẻ Giày quanh tín

ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh cần thiết phải đƣợc diễn giải lại để làm sáng tỏ thêm. Trên

nền này, kết hợp với khai thác giá trị của tƣ liệu Hán Nôm dƣới góc nhìn văn hóa học,

những vấn đề cụ thể, nhƣ tên gọi Kẻ Giày, phủ Giày, hệ thần đƣợc thờ, thần điện và

không gian thực hành tín ngƣỡng, các thực hành văn hóa tín ngƣỡng liên quan, vai

trò của các cộng đồng chủ thể sáng tạo văn hóa, tƣ cách chính tự và một số vấn đề

khác nữa… quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày cần đƣợc diễn giải và

phân tích làm sáng tỏ hơn…

1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn

1.2.1. Cơ sở lý luận

Thừa hƣởng kết quả nghiên cứu của ngƣời đi trƣớc, một số thành tựu nghiên cứu

đã điểm qua sẽ đƣợc nghiên cứu sinh lựa chọn tiếp thu, trong đó có những lý luận khái

quát từ góc nhìn địa - văn hóa, nguyên lý mẹ trong văn hóa Việt Nam của GS. Trần

Quốc Vƣợng; nguyên tắc diễn giải ngữ âm dân gian trong việc tìm hiểu về địa danh của

GS. Cao Xuân Hạo; lý luận mang tính khái quát về các bƣớc phát triển, các dạng thức

thờ Mẫu trong tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt của GS. Ngô Đức Thịnh...

Luận án sử dụng hai cách tiếp cận chính, đó là văn bản học và văn hóa học.

Bên cạnh đó, cách tiếp cận liên ngành gồm sử học, ngôn ngữ học, tôn giáo học… sẽ

đƣợc sử dụng trong các phân tích cụ thể.

Về văn bản học, theo các chuyên gia Hán Nôm thì bộ môn lý luận văn bản

học của Nga (Liên Xô cũ), một nƣớc có nền văn bản học tiếng Nga cổ rất phù hợp

để áp dụng nghiên cứu văn bản học Hán Nôm. Hiện nay, Viện Nghiên cứu Hán

Nôm vẫn đang lƣu bản dịch về văn bản học của Likhatsop, ký hiệu DT.108, có giá

trị tham khảo nhất định đối với những ngƣời nghiên cứu văn bản học Hán Nôm.

Về thuật ngữ, văn bản học tiếng Nga là “Textologhi” (phiên âm tiếng Pháp là

“Textologi”). Ở Tây Âu không có thuật ngữ tƣơng đƣơng, thƣờng đƣợc gọi là phê

phán văn bản (“Critique de textes”). Ở Trung Quốc, văn bản học từ đời Thanh đã

rất phát triển, thƣờng đƣợc định danh bằng thuật ngữ “Bản bản học” (版 本 學).

Ở Việt Nam, nhà bác học Lê Quý Đôn cũng rất quan tâm đến việc nghiên

cứu phê phán văn bản. Chẳng hạn, khi phê phán văn bản Lam Sơn thực lục, ông cho

23

rằng, văn bản này đƣợc sao chép có nhiều chữ sai, không rộng tìm các bản mà chỉ

tùy ý sửa đổi, thêm bớt, làm mất tính chân thực của bản gốc.

Sách giả ở Trung Quốc rất nhiều, ở Việt Nam cũng không phải không có.

Chẳng hạn: Quanh sách Lĩnh Nam dật sử của Trần Nhật Duật, đã có nhiều ý kiến

phân tích, tuy nhiên, ở nƣớc ta, lĩnh vực văn bản học chƣa đƣợc định hình để trở

thành khoa “Biện ngụy học” nhƣ ở Trung Quốc. “Theo Đại bách khoa toàn thƣ Liên

Xô, Văn bản học là một ngành của khoa học ngữ văn, nghiên cứu các tác phẩm có

văn tự, các tác phẩm văn học và văn học dân gian nhằm mục đích kiểm tra có phê

phán, xác định và tổ chức các văn bản để tiếp tục nghiên cứu để lý giải công bố”

[dẫn theo 17, tr.271].

Từ định nghĩa này, có thể xác định, văn bản học hán nôm đảm đƣơng những

nhiệm vụ cơ bản sau: “Giám định, phân tích hiệu chỉnh các văn bản Hán Nôm.

Nghiên cứu lịch sử phát triển, lƣu truyền văn bản nhằm khôi phục lại bộ mặt

nguyên bản sơ, khi các tác giả văn bản tạo ra” [17, tr. 271].

Từ lý thuyết này có thể khẳng định, nghiên cứu văn bản học là một trong

những thao tác không thể bỏ qua khi tiếp xúc và khai thác văn bản Hán Nôm. Trong

phạm vi xử lý tƣ liệu Hán Nôm trực tiếp liên quan của đề tài. Riêng với trƣờng hợp

Vân Cát thần nữ truyện trong Truyền kỳ tân phả cũng có nhiều vấn đề về văn bản,

nhƣng may mắn là đã đƣợc một số nhà thƣ tịch học phân tích khai phá. Nghiên cứu

sinh cơ bản dựa trên kết luận của học giả Trần Văn Giáp để lựa chọn bản Vân Cát

Thần nữ truyện đƣợc tập hợp trong Truyền kỳ tân phả [223], do Lạc Thiện đƣờng khắc

năm Gia Long thứ 10 (1811) làm bản nền để nghiên cứu, so sánh, đối chiếu để tìm hiểu

về hành trạng Mẫu Liễu Hạnh và một số vấn đề liên quan đến văn bản học nhƣ một

trƣờng hợp dẫn dụ áp dụng lý thuyết…

Về hƣớng tiếp cận văn hóa, tiến hóa luận và nhân học sinh thái nửa sau thế kỷ

XX là một thuyết sẽ đƣợc nghiên cứu sinh áp dụng để biện giải về quá trình hình

thành hệ thần Tam phủ, Tứ phủ nhƣ một giả thiết để làm việc.

Theo đó:

Nhân học sinh thái liên quan tới mối quan hệ giữa con ngƣời và môi

trƣờng sinh thái. Môi trƣờng tự nhiên bao gồm không chỉ cây cối và

24

động vật cần thiết cho sự tồn tại của con ngƣời, mà còn là những con

sông, hồ nƣớc, khí hậu cũng nhƣ kỹ thuật và phƣơng tiện vật chất khác

do con ngƣời tạo nên để sử dụng các cơ sở vật chất có trong môi trƣờng.

Cơ sở của mỗi nền văn hóa là công cụ, máy móc, kỹ thuật, thực hành.

Thông qua khoa học kỹ thuật, mỗi nền văn hóa có quan hệ tƣơng tác với

môi trƣờng vật chất của nó để có thực phẩm, chất đốt, và các hình thức

sử dụng nhiên liệu khác. Kỹ thuật và văn hóa giúp cho cộng đồng con

ngƣời chống lại dã thú, bệnh tật, sự quá khắc nghiệt của khí hậu… [44,

tr. 545].

Qua hƣớng tiếp cận này sẽ phần nào thấy đƣợc:

Những mối liên hệ mới giữa môi trƣờng tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế, tổ

chức xã hội, các mô hình định cƣ, phân bố dân cƣ, và lịch sử. Sự tập

trung dân số và các mô hình định cƣ là một phần cơ sở của sự phân tích

của Steward về các nhóm săn bắn theo họ cha và sự tiến hóa của ngƣời

da đỏ Pueblo ở Hoa Kỳ. Ông tranh luận rằng dân số tăng lên có thể là do

sự căng thẳng về môi trƣờng sinh thái làm tăng các tổ chức dòng họ

trong các vùng của ngƣời da đỏ Pueblo. Tỉ lệ tăng dân số cũng là chiếc

chìa khóa để giải thích sự phát triển và tan rã của các nhà nƣớc và đế chế

cổ đại [44, tr. 547]…

Và,

Tiến hóa xã hội phân biệt với tiến hóa sinh học ở chỗ tiến hóa sinh học

liên quan tới sự thay đổi, cạnh tranh và chọn lọc. Trong khi tiến hóa xã

hội thể hiện sự tƣơng đồng nhƣ là sự đa dạng, thích nghi, duy trì, tái

sinh, và định hƣớng. Trong cả quá trình tiến hóa có sự tƣơng đồng nhƣng

lại khác nhau về nội dung. Tiến hóa xã hội diễn ra thông qua hữu thức và

vô thức của con ngƣời, dựa vào ngôn ngữ và văn hóa mà loài ngƣời có

đƣợc. Tiến hóa sinh học mang tính di truyền và không có mặt ý thức của

con ngƣời [44, tr. 548].

- Nhân học giải thích:

Nhân học giải thích áp dụng một cách tiếp cận đặc biệt, nghĩa là nghiên

25

cứu những trƣờng hợp đơn lẻ mà những trƣờng hợp đó có thể đƣa ra

những hiểu biết sâu sắc và bao hàm nhiều ý nghĩa. Đối với việc nghiên

cứu một trƣờng hợp riêng lẻ trong một xã hội cụ thể, nhân học theo

phƣơng pháp giải thích không xem xét con ngƣời ứng xử nhƣ thế nào,

cũng không đi sâu vào các ý nghĩa hành động và thái độ của con ngƣời.

Giải thích luận cho rằng thế giới vật chất và xã hội của con ngƣời có thể

hiểu một cách tốt nhất bằng cách hiểu con ngƣời sống trong xã hội đó tự

lý giải và tự hiểu các thể chế và tập quán của họ. Nhiệm vụ của nhà nhân

học là giải mã những lý giải của ngƣời bản địa.

Clifford Geertz là một nhà nhân học theo phƣơng pháp giải thích, nhƣng

không phải là nhà sáng lập ra phƣơng pháp tiếp cận nhân học này. Ông

cho rằng nhân học không thể là một ngành khoa học nhƣ ngành vật lý

với các quy luật và sự tổng quát dựa vào các số liệu thực tế và thực

nghiệm. Nhân học cần phải dựa vào hiện thực cụ thể của một xã hội,

nhƣng phải là ý nghĩa của chúng do con ngƣời sống trong xã hội đó hiểu,

chứ không phải là những phán đoán chủ quan của nhà nghiên cứu dựa

vào số liệu thực tế. Đối với Geertz, nhân học cần dựa vào các nguyên tắc

nhân văn, sự miêu tả, thi pháp, văn học, thần thoại, biểu tƣợng, và các

đặc tính khác của loài ngƣời phân biệt với các loài sinh vật khác.

Quan điểm của Geertz về tầm quan trọng của trƣờng hợp đơn lẻ không

phải là hoàn toàn mới, mà Boas, Malinowski, và Radcliffe – Brown đã

từng nghiên cứu chuyên sâu một nền văn hóa đơn lẻ để nêu ra các chức

năng của các thể chế trong xã hội loài ngƣời. Quan điểm chống lại thuyết

vị chủng và ủng hộ hội nhập của tất cả các nền văn hóa, khuynh hƣớng

tìm hiểu các nền văn hóa khác từ quan điểm của ngƣời bản địa là một

điểm mạnh trong nhân học của các học giả tiền bối này.

Phƣơng pháp tiếp cận của Geertz tìm hiểu ý nghĩa dựa vào những lý giải

của ngƣời bản địa mang tính tƣơng đối. Điều cốt lõi trong các công trình

nghiên cứu của Geertz là liên kết các quá trình tự biết, tự nhận thức, tự

hiểu của ngƣời bản địa với sự hiểu biết của nhà nghiên cứu về văn hóa

26

của họ. Cuốn sách cuối cùng của ông Tri thức bản địa (Local

Knowledge) đề cập đến cái đặc biệt, cái cụ thể, trƣờng hợp cá thể, tri

thức bản địa và sự kết hợp tri bản địa với hiểu biết của nhà nghiên cứu.

Quan niệm của Geertz trong nhân học có thể đƣợc gọi là nhân văn hay

giải thích, với nghĩa là ông hƣớng vào việc giải thích các vấn đề văn hóa

mà vẫn giữ đƣợc đặc thù cá nhân và sự phức hợp của thái độ con ngƣời

đối với hình thức văn hóa của họ.

Quan niệm nhân học truyền thống cho rằng nếu nhà nghiên cứu muốn

hiểu các nền văn hóa của dân tộc khác, họ phải đảm nhiệm vai trò của

những ngƣời bản địa. Malinowski cho rằng chỉ bằng cách nghiên cứu

thực tế, trực tiếp quan sát những hiện tƣợng văn hóa của ngƣời bản địa

mới có thể hiểu đƣợc ý nghĩa của những yếu tố văn hóa của họ. Geertz

ủng hộ quan niệm “giải thích của ngƣời bản xứ” nhƣ là con đƣờng dẫn

tới hiểu biết văn hóa của một dân tộc trong nhân học văn hóa. Theo cách

tiếp cận này, các điều lý giải đƣợc tập hợp lại bao gồm phiên bản của văn

bản, lời nói, hành động so sánh với những hình thức tƣơng ứng khác,

hoặc một tập hợp những nhận thức của ngƣời bản địa so sánh với những

nhận thức khác của họ. Sau đó là những nhận thức và tri thức của con

ngƣời nghiên cứu kết hợp với nhận thức của ngƣời bản địa về chính văn

hóa của họ. Với việc tập hợp những lý giải các văn bản, hành động, biểu

tƣợng, các hình thức xã hội, các hiện tƣợng bằng cách đi từ cụ thể tới cái

chung và ngƣợc lại, sự hiểu biết và ý nghĩa của một nền văn hóa sẽ từ từ

hiện ra. Phƣơng pháp nghiên cứu này còn đƣợc gọi là “miêu tả sâu”.

Trong khi miêu tả, nhà nghiên cứu phải thay đổi đi thay đổi lại từ quan

niệm khác, từ mức độ này tới mức độ khác, và cuối cùng dẫn tới một sự hiểu biết sâu sắc về một nền văn hóa cụ thể [44, tr. 555 - 557].

Trong luận án này, nhân học giải thích sẽ đƣợc áp dụng nhƣ một cách tiếp

cận đặc biệt, tức xem xét một số hiện tƣợng văn hóa đơn lẻ nhƣng qua đó lại có thể

đƣa ra những hiểu biết sâu sắc và bao hàm nhiều ý nghĩa.

- Quan niệm tôn giáo của nữ giới và các vai trò giới:

27

Theo quan niệm này:

Tôn giáo cá nhân là sự kết hợp hết sức ý nghĩa mang tính chất cá nhân

của các niềm tin, giá trị, và thực hành có liên quan đến thế giới quan của

nhóm lớn hay mà cá nhân đó quy thuộc. Trong quá trình hội nhập, cá

nhân tiếp nhận nhiều niềm tin, giá trị và thực hành này từ các vị đại diện

của nhóm lớn hơn đó nhƣ cha mẹ và thầy cô. Cá nhân tiếp thu đƣợc

nhiều điều trong hệ thống ý nghĩa đƣợc tiếp nhận này và chúng trở thành

một phần trong cách nghĩ của cá nhân về căn tính của mình và của những

ngƣời khác. Trong hệ thống ý nghĩa mà cá nhân tiếp nhận đó là hình

thành nhiều niềm tin, hình ảnh và quy chuẩn mà nhóm định nghĩa về

nam giới và nữ giới. Tất cả tôn giáo đều đề cập đến chủ đề về bản năng

giới tính của con ngƣời và các vai trò về giới bởi vì bản năng giới tính có

một sức ảnh hƣởng đến sức mạnh mẽ trong đời sống con ngƣời và giới

tính, trong hầu hết các xã hội, là một nhân tố chính quyết định sự phân

tầng xã hội.

Trƣớc tiên, các nhà xã hội học tập trung nghiên cứu tôn giáo của nữ giới

ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến các vai trò về giới và căn tính của họ. Thứ

hai, các nhà xã hội cho chúng ta thấy tại sao việc chỉ chú trọng vào tôn

giáo và tính tôn giáo chính thức thì đôi khi bị sai lạc. Khi tôn giáo trở

thành một lĩnh vực đƣợc khu biệt về mặt định chế, nhiều vai trò và thể

hiện tôn giáo của phụ nữ bị loại trừ khỏi tôn giáo chính thức, và tiếp tục,

thì chúng đƣợc lƣu giữ và bảo vệ trong các hình thái phi chính thức nhƣ

tín ngƣỡng chữa lành, tín ngƣỡng dân gian, lên đồng, phù thủy và hỗ trợ

tâm linh khác. Các nhà xã hội học nên xem xét về các nền tảng về mặt

cấu trúc xã hội đối với địa vị của phụ nữ; từ góc độ lịch sử, các định chế

tôn giáo chính thức điển hình cho việc đàn áp phụ nữ về phƣơng diện cơ

chế và hệ tƣ tƣởng. Từ đó, việc hợp thức hóa vai trò của nữ giới về mặt

tôn giáo đƣa ra các câu hỏi thú vị về tính tôn giáo của phụ nữ. Chứng cứ

lịch sử gây ấn tƣợng sâu sắc cho thấy tôn giáo phi chính thức là một

phƣơng tiện nhằm khẳng định các vai trò tôn giáo khác nhau của nữ giới

28

[44, tr. 557 - 558].

Ngoài ra, dƣới góc độ lý luận văn hóa tôn giáo, tín ngƣỡng, luận án còn vận

dụng quan điểm về tôn giáo của nữ giới và các vai trò giới. Theo đó:

Tôn giáo cá nhân là sự kết hợp hết sức ý nghĩa mang tính chất cá nhân

của các niềm tin, giá trị, và thực hành có liên quan đến thế giới quan của

nhóm lớn hay mà cá nhân đó quy thuộc. Trong quá trình hội nhập, cá

nhân tiếp nhận nhiều niềm tin, giá trị và thực hành này từ các vị đại diện

của nhóm lớn hơn đó nhƣ cha mẹ và thầy cô. Cá nhân tiếp thu đƣợc

nhiều điều trong hệ thống ý nghĩa đƣợc tiếp nhận này và chúng trở thành

một phần trong cách nghĩ của cá nhân về căn tính của mình và của những

ngƣời khác. Trong hệ thống ý nghĩa mà cá nhân tiếp nhận đó là hình

thành nhiều niềm tin, hình ảnh và quy chuẩn mà nhóm định nghĩa về

nam giới và nữ giới. Tất cả tôn giáo đều đề cập đến chủ đề về bản năng

giới tính của con ngƣời và các vai trò về giới bởi vì bản năng giới tính có

một sức ảnh hƣởng đến sức mạnh mẽ trong đời sống con ngƣời và giới

tính, trong hầu hết các xã hội, là một nhân tố chính quyết định sự phân

tầng xã hội.

Trƣớc tiên, các nhà xã hội học tập trung nghiên cứu tôn giáo của nữ giới

ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến các vai trò về giới và căn tính của họ. Thứ

hai, các nhà xã hội cho chúng ta thấy tại sao việc chỉ chú trọng vào tôn

giáo và tính tôn giáo chính thức thì đôi khi bị sai lạc. Khi tôn giáo trở

thành một lĩnh vực đƣợc khu biệt về mặt định chế, nhiều vai trò và thể

hiện tôn giáo của phụ nữ bị loại trừ khỏi tôn giáo chính thức, và tiếp tục,

thì chúng đƣợc lƣu giữ và bảo vệ trong các hình thái phi chính thức nhƣ

tín ngƣỡng chữa lành, tín ngƣỡng dân gian, lên đồng, phù thủy và hỗ trợ

tâm linh khác. Các nhà xã hội học nên xem xét về các nền tảng về mặt

cấu trúc xã hội đối với địa vị của phụ nữ; từ góc độ lịch sử, các định chế

tôn giáo chính thức điển hình cho việc đàn áp phụ nữ về phƣơng diện cơ

chế và hệ tƣ tƣởng. Từ đó, việc hợp thức hóa vai trò của nữ giới về mặt

tôn giáo đƣa ra các câu hỏi thú vị về tính tôn giáo của phụ nữ. Chứng cứ

29

lịch sử gây ấn tƣợng sâu sắc cho thấy tôn giáo phi chính thức là một

phƣơng tiện nhằm khẳng định các vai trò tôn giáo khác nhau của nữ giới

[21, tr. 294 - 295].

Đó là khung lý thuyết cơ bản để luận án xem xét, bàn luận một số vấn đề về

giới có liên quan trong nghiên cứu này.

1.2.2. Cơ sở thực tiễn

Kết quả nghiên cứu nền của GS. Trần Quốc Vƣợng nhƣ đã trình bày ở trên

đã chỉ rõ, khu vực Kẻ Giày có lịch sử văn hóa lâu đời, phát triển liên tục từ thời sơ

sử đến nay. Bề dày văn hóa và tính chất đa văn hóa của khu vực kẻ Giầy còn đƣợc

phản ánh qua hàng loạt di sản văn hóa vẫn hiện diện, nhƣ ngoài thờ Mẫu Liễu

Hạnh, Mẫu Thƣợng Ngàn, cùng hệ thống đền, miếu thờ các Mẫu, Tôn Ông, Chầu

Bà, Quan Lớn, các Cô, trong khu vực Kẻ Giày xƣa vẫn tồn tại hệ đền thờ thần nông

nghiệp gắn với Tứ pháp (Mây, Mƣa, Sấm, Gió) của ngƣời dân trồng lúa nƣớc…

[50, tr. 166 - 170].

Trong bối cảnh biến đổi lịch sử - xã hội vào khoảng thế kỷ XVI, các tôn

giáo, tín ngƣỡng dân gian nói chung cũng bị tác động và có bƣớc chuyển đáng kể.

Một xu hƣớng đáng quan tâm, đó là hiện tƣợng định hình Đạo giáo giân gian Việt,

dẫn tới sự xuất hiện của phái Nội Đạo và Thánh Mẫu Liễu Hạnh, những đại diện

tiêu biểu cho xu hƣớng này. Trong cục diện chiến tranh Nam - Bắc triều, việc các

tôn giáo, tín ngƣỡng bị “lôi kéo” để tham gia vào cuộc chiến giữa hai thế lực cũng

là điều dễ hiểu. Minh chứng cho nhận định này là những phản ánh dân gian về cuộc

chiến giữa Bà chúa Liễu Hạnh và Tiền Quan Thánh do Phật Thích Ca xuất hiện, tín

ngƣỡng Mẫu Liễu đã kết hợp với Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian của nông dân để

thích ứng với điều kiện lịch sử - xã hội mới, cuối cùng đƣợc triều đình thừa nhận và

có bƣớc phát triển, lan tỏa vô cùng mạnh mẽ mà chúng ta còn thấy sự hiện diện qua

di sản văn hóa trên thực địa, “phần xƣơng sống” của một tín ngƣỡng dân gian độc

đáo đã đƣợc UNESCO ghi danh. Ngoài ra, còn hàng trăm di tích liên quan trong

không gian văn hóa Bắc Bộ và một lƣợng lớn di sản tƣ liệu Hán Nôm đã đƣợc

nghiên cứu sinh sƣu tầm, thống kê, chỉnh lý, sẽ đƣợc lần lƣợt đề cập trong những

chƣơng mục tiếp theo của luận án này.

30

1.3. Một số khái niệm liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu qua tƣ liệu

Hán Nôm

1.3.1. Mẫu (母)

Mẫu là một từ Hán Việt, có nhiều lớp nghĩa. Nguyên ủy, Mẫu chỉ giống cái,

sau đƣợc dùng để ngƣời phụ nữ đã thực hiện chức năng sinh sản, tức ngƣời mẹ. Một

lớp nghĩa khác cũng đáng quan tâm, Mẫu là tiếng gọi tôn kinh dành cho những

ngƣời phụ Nữ.

Nhƣ vậy, với tín ngƣỡng thờ Mẫu, có thể tạm hiểu: Mẫu là tiếng gọi tôn kính

ngƣời mẹ.

1.3.2. Đồng (僮)

Đồng cũng là một từ Hán Việt, nguyên ủy thƣờng đƣợc dùng chỉ ngƣời vị

thành niên (trẻ con). Trong tín ngƣỡng thờ Mẫu, Đồng chỉ những ngƣời đƣợc Mẫu

sang khăn, sẻ áo hành đồng hầu Mẫu, theo Mẫu làm trọn phận con.

1.3.3. Cốt (骨)

Cốt cũng là một từ Hán Việt đa nghĩa, vốn chỉ xƣơng cốt, sau một nghĩa chỉ

bà cốt. Theo Khảo đồng sự ký: Bà cốt còn đƣợc gọi là Hích (覡), chỉ ngƣời phụ nữ

mù theo phép Đông Lâm. Đông Lâm còn có tên gọi khác là Đông Triều. Ngƣời phụ

nữ mù theo phép Đông Lâm cũng lập một tĩnh thờ thần Đông Triều. Đông Triều

vốn là ngƣời Mán, khi mới ba tuổi thì bất hạnh mà chết sớm. Sau khi chết trở thành

thần, có khả năng tìm đƣợc phách của ngƣời chết (sau khi ngƣời chết thì hồn bay

lên trời, phách về với đất), lại có khả năng chiêu vời đƣợc phách ngƣời chết cho nên

ngƣời theo Hích thờ thần Đông Triều tục gọi là ông Triều, ông Dí/Rí. Nếu nhƣ phụ

nữ mù học đƣợc phép này thì gọi là bà Cốt. Cốt tức là ngƣời chết đã rũa mục hết

thịt. Hồn ngƣời bay lên trời, chỉ còn phách ở lại trong đất có chứa phần xƣơng cốt.

Nếu nhƣ phụ nữ mù thỉnh thần Đông Lân nhập vào thân thì sẽ biết đƣợc hồn của

ngƣời chết nên đƣợc gọi là bà Hồn, bà Cốt vì hồn và cốt là cùng một cách gọi [152].

1.3.4. Bóng

Bóng là một từ tiếng Việt. Theo Khảo đồng sự ký: Bóng tức là ảnh, vốn chỉ

những ngƣời thờ thần tiên để ảnh thần tiên giáng vào đàn ông. Những ngƣời đàn

31

ông này đƣợc gọi là ông Bóng. Nhƣ sách “Ấu học tầm nguyên”, quyển 2, Thích

Đạo tập, trang 28 trƣớc, hàng 8 chú rằng: nam Vu gọi là Vu, nữ Vu gọi là Hích. Từ

điển Khang Hy tập Đần, Bộ Công bốn nét chú rằng: Thần giáng vào nam gọi là Vu,

thần giáng vào nữ gọi là Hích. Sách “Quốc ngữ” nói rằng: Nam làm Vu gọi là ông

Bóng, nữ làm Hích gọi là bà Bóng, còn nhƣ Đạo gia thờ thần tiên Thái Thƣợng Lão

quân, Tề Thiên Đại thánh là tiên ông; Thánh Mẫu, Công chúa Thƣợng Ngàn là tiên

bà. Nếu nhƣ nam có tiên ông giáng vào thân để chữa bệnh cho ngƣời thì gọi là ông

Bóng. Nhƣ vậy, nam thƣờng đƣợc tiên ông giáng vào để trị bệnh cho ngƣời thì gọi

là ông Bóng, còn phụ nữ đƣợc tiên bà giáng vào thân thì gọi là bà Bóng. Vậy phụ

nữ thƣờng đƣợc tiên bà nhập vào gọi là Bóng [152].

1.3.5. Chính tự (正 祀)

Chính tự tức hoạt động thờ tự hợp pháp và chính đáng. Đây là một khái niệm

gắn với Điển thờ tự, thực hành văn hóa tín ngƣỡng gắn với ngôi đền thờ thần của

cộng đồng đƣợc triều đình xác nhận. Theo đó, dƣới chế độ quân chủ xƣa, từ góc độ

quản lý bách thần (Quản giám Bách thần), hoạt động thờ tự và sinh hoạt văn hóa tín

ngƣỡng liên quan (hội lệ) của cộng đồng gắn với một ngôi đền thờ thần, chỉ đƣợc

coi là chính tự khi vị thần đó có lý lịch rõ ràng, chính đáng, đƣợc triều đình xác

nhận tƣ cách hoặc đã đƣợc triều đình phong thần sắc, ghi vào Tự điển/祀典/Điển

thờ tự của triều đình. Đền thờ các vị thần thuộc loại chính tự/正祀 gọi là chính từ/

正祠, thần đƣợc thờ trong chính từ/正祠 gọi là chính thần/正神.

Trái nghĩa với chính tự/正祀, thƣờng bị gọi là dâm tự/淫 1 祀, tức hoạt động

thờ tự và sinh hoạt văn hóa tín ngƣỡng liên quan của cộng đồng gắn với một ngôi

đền thờ thần chƣa đƣợc triều đình công nhận có tƣ cách là chính tự/正祀 hoặc chƣa

đƣợc triều đình sắc phong, ghi vào Tự điển 祀典/Điển thờ tự. Đền thờ các vị thần

không thuộc hàng chính tự/正祀 bị gọi là “dâm từ”/淫祠, thần đƣợc thờ trong “dâm

từ”/淫祠 gọi là “dâm thần”/淫神.

1.3.6. Phủ (府)

Phủ cũng là một từ Hán Việt, có nhiều lớp nghĩa. Với tín ngƣỡng thờ Mẫu,

đáng chú ý lớp nghĩa: Phủ là tên gọi của từng địa vực (miền, khu) theo sự phân chia

32

tƣơng tự nhƣ đơn vị hành chính (Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ, Nhạc phủ). Ngoài

ra, theo Nội đạo tràng và Khảo đồng sự ký, đền chính thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh

không gọi là đền mà tôn trọng Thánh Mẫu gọi là Phủ.

1.3.7. Tam phủ (三 府 ):

Theo Khảo đồng sự ký, Tam phủ tức Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ [152].

Thực tế, trong dân gian còn có khái niệm bộ ba, Tam phủ gồm Thiên phủ, Nhạc phủ

và Thủy phủ. Nhƣ vậy, trong tôn giáo, tín ngƣỡng có thể hiểu, Tam phủ là một quan

niệm thuộc vũ quan tôn giáo, tín ngƣỡng dân gian, chia thế giới thần linh ra làm ba

miền/phủ.

1.3.8. Tứ phủ (四 府)

Theo khảo đồng sự ký, Tứ phủ tức Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ, Nhạc phủ

[152]. Thực tế. Tuy nhiên, theo Tứ phủ công đồng khoa nghi sớ văn hợp tập,

trong dân gian còn có khai niệm bộ tứ, Tứ phủ gồm Thiên phủ, Địa Phủ, Thủy Phủ,

Dƣơng Phủ. Qua hệ thần linh, có thể khẳng định, Dƣơng phủ đƣợc đồng nhất với

Nhạc phủ… Nhƣ vậy, trong tôn giáo, tín ngƣỡng có thể tạm hiểu, Tứ phủ là một

quan niệm thuộc vũ quan tôn giáo, tín ngƣỡng dân gian, chia thế giới thần linh ra

làm 4 miền/phủ.

Tiểu kết

Điểm qua một số kết quả nghiên cứu của những công trình đi trƣớc, có thể nhận

thấy, mỗi nghiên cứu, với phƣơng pháp riêng, cách tiếp cận riêng, lý luận riêng, biện

giải riêng sẽ cho ra một kết quả “tƣơng đối riêng”. Tạm hợp các mảnh ghép lại, ắt sẽ

tạo nên một bức tranh đa sắc về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh từ lịch sử đến đƣơng

đại nhƣng vẫn có những điểm nhƣ vừa mờ, vừa tỏ. Những thành tựu nghiên cứu trên,

đặc biệt là những nghiên cứu cơ bản và tập hợp tƣ liệu là tiền đề quan trọng để nghiên

cứu sinh tiếp thu, kế thừa và triển khai đề tài này. Theo đó, có thể nhận thấy, từ việc tập

hợp, khảo cứu văn bản học Hán Nôm trong điều kiện hiện nay, vấn đề lịch sử địa chính

và văn hóa khu vực Kẻ Giày quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh cần thiết phải đƣợc

diễn giải lại để làm sáng tỏ thêm.

Trên có sở này, kết hợp với khai thác giá trị của tƣ liệu Hán Nôm dƣới góc nhìn

văn hóa học, những vấn đề cụ thể, nhƣ tên gọi Kẻ Giày, phủ Giày, hệ thần đƣợc thờ,

33

thần điện và không gian thực hành tín ngƣỡng, các thực hành văn hóa tín ngƣỡng

liên quan, vai trò của các cộng đồng chủ thể sáng tạo văn hóa, tƣ cách chính tự

quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày, vấn đề Tam phủ, Tứ phủ, đặc

trƣng giới trong Tam phủ, Tứ phủ, vấn đề Tam tòa Tứ phủ, vấn đề vị trí và vai trò của

Mẫu Liễu Hạnh trong hệ thần Tứ phủ… cần đƣợc phân tích, diễn giải và làm sáng tỏ

hơn…

Cũng trong chƣơng này, nghiên cứu sinh đã đề cập tới cơ sở lý luận và thực

tiễn, cơ sở lý luận cơ bản và xây dựng một số khái niệm cơ bản có liên quan, nhƣ

Mẫu, Đồng, Cốt, Bóng, Chính tự, Phủ, Tam phủ, Tứ phủ để làm công cụ triển khai

các bƣớc nghiên cứu tiếp theo.

34

Chƣơng 2

TƢ LIỆU HÁN NÔM VỀ TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY

VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ

2.1. Khái lƣợc về nguồn tƣ liệu Hán Nôm gắn với tín ngƣỡng thờ Mẫu

Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ

Trong tâm thức dân gian, đặc biệt là với tín đồ của tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam

phủ, Tứ phủ, Mẫu Liễu Hạnh, vị thần chủ đƣợc phụng thờ ở phủ Giày, còn có tên

gọi khác là Mẫu phủ Giày/Thánh Mẫu phủ Giày, Mẫu Sòng Sơn/Thánh Mẫu Sòng

Sơn, đồng thời, cũng là một vị thần chủ đƣợc phụng thờ trong nhiều phủ/điện/đền

thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ... ở nhiều địa điểm khác..

Thực tiễn cũng cho thấy, nguồn tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu

Hạnh ở phủ Giày ít nhiều đều liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ và

ngƣợc lại. Vì vậy, khi tiếp cận nguồn tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu

Hạnh ở phủ Giày nói riêng, tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ nói chung, cần thiết

phải tiến hành khảo sát, sƣu tầm tƣ liệu bao quát trên một phạm vi tƣơng đối rộng, ít nhất

tƣơng ứng với không gian văn hóa của khu vực Bắc Bộ và một số địa bàn khác có liên

quan mà có thể tạm tính trong phạm vi từ Thừa Thiên Huế trở ra. Tuy nhiên, do tính chất

phức tạp của vấn đề, phạm vi nghiên cứu và điều kiện khảo sát, sƣu tầm, thu thập tƣ

liệu…, trong khả năng và điều kiện cho phép, luận án xin giới hạn chỉ đề cập tới tƣ liệu

Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ trong không gian

văn hóa Bắc Bộ tại các đơn vị lƣu trữ có tài liệu Hán Nôm, tiêu biểu nhƣ, Viện Thông tin

khoa học xã hội, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tƣ liệu Hán Nôm một số cơ sở lữu trữ khác

(Thƣ viện quốc gia, Trung tâm Lƣu trữ quốc gia 1, Cục Văn thƣ và Lƣu trữ nhà nƣớc -

Bộ Nội vụ…) và nguồn tƣ liệu Hán Nôm tại quần thể di tích phủ Giày, cùng một số di

tích khác có liên quan… Dƣới đây, xin từng bƣớc trình bày khái lƣợc về nguồn tƣ liệu

Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.

2.1.1. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và

Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tại Viện Thông tin khoa học xã hội

Tại Viện Thông tin khoa học xã hội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt

Nam, hiện đang lƣu trữ bộ sƣu tập 13.211 bản khai thần tích - thần sắc, với

35

khoảng 230.000 trang chép tay của các làng xã trên lãnh thổ Việt Nam. Những

bản khai thần tích - thần sắc này đều đƣợc chức sắc của làng xã kê khai theo

dạng trả lời câu hỏi, với kết cấu chung theo trật tự nhƣ sau: Tên làng xã (đƣợc

kê bằng cả chữ Hán và chữ Quốc ngữ)/Thần tích - thần sắc (đƣợc kê chủ yếu

bằng chữ Quốc ngữ)/Các tục lệ liên quan đến việc thờ thần... Đặc biệt, ngoài

những nội dung kê khai này, một số địa phƣơng còn chép thêm nguyên văn chữ

Hán nội dung thần tích - thần sắc của các vị thần đƣợc cộng đồng thờ phụng.

Đây là bộ sƣu tập tƣ liệu có giá trị đặc biệt trong việc tìm hiểu về văn hóa - tín

ngƣỡng, phong tục, tập quán… làng xã Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám

(1945) trở về trƣớc (Luận án tạm lấy mốc lịch sử thời điểm Cách mạng tháng

Tám năm 1945 thành công làm mốc cuối định bản nội dung tƣ liệu Hán Nôm

dƣới xã hội quân chủ ở nƣớc ta. Theo đó, tƣ liệu Hán Nôm mang nội dung đƣợc

định bản lầm đầu sau mốc lịch sử này sẽ không đƣợc đề cập đến…).

Bƣớc đầu tiếp cận kho tƣ liệu này, đồng thời, thừa hƣởng kết quả nghiên cứu

của những ngƣời đi trƣớc, nghiên cứu sinh đã tiến hành thống kê và lập Thƣ mục tƣ

liệu thần tích - thần sắc liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ,

Tứ phủ tại Viện Thông tin khoa học xã hội, ghi nhận có 206 bản kê khai thần tích- thần

sắc của 206 làng xã đƣơng thời (năm 1938) liên quan tới việc phụng thờ Mẫu Liễu

Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ (Xem Phụ lục 1).

Kết quả thống kê đã cho thấy:

- Về phạm vi lan tỏa, có thể khẳng định, trƣớc Cách mạng Tháng tám (1945),

tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh nói riêng và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ nói chung đã tƣơng

đối phổ biến trong không gian văn hóa Bắc Bộ. Cụ thể, đã có ít nhất 206 làng xã thuộc

21 tỉnh/thành phố (theo cơ cấu tổ chức đơn vị hành chính trƣớc 1945) thờ Mẫu Liễu

Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tập trung nhất tại 3 tỉnh: Nam Định (49 làng xã), Hà

Nam (41 làng xã), Ninh Bình (35 làng xã), tiếp đó là địa bàn các tỉnh: Hải Dƣơng

(14 làng xã), Hà Đông (làng xã), Thái Bình (11 làng xã), Phú Thọ (8 làng xã), Hà

Nội (5 làng xã), Quảng Yên (5 làng xã), Yên Bái (4 làng xã), Hƣng Yên (4 làng xã),

Bắc Ninh (4 làng xã), Thái Nguyên (3 làng xã), Hà Tĩnh (2 làng xã), Nghệ An (2

làng xã), Bắc Giang (1 làng xã), Hải Phòng (1 làng xã), LaoKay (1 làng xã), Sơn

36

Tây (1 làng xã), Thanh Hóa (1 làng xã), Tuyên Quang (1 làng xã).

- Thông qua thần tích - thần sắc đƣợc kê khai, có thể khẳng định, việc thờ tự

và thực hành tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tại hầu hết

làng xã đã đƣợc triều đình thừa nhận là hợp lệ (tích đến thời điểm kê khai - năm 1938).

- Trong tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, Mẫu Liễu Hạnh nổi lên nhƣ một

nhân vật trung tâm của tín ngƣỡng, với tuyệt đại đa số làng xã đƣợc thống kê (185/206)

thờ bà với tƣ cách là vị thần chủ. Trong khi đó, các danh hiệu Thánh Mẫu khác trong hệ

thần Tứ phủ, nhƣ Mẫu Thƣợng Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thƣợng Ngàn, Mẫu Thoải hay

Quỳnh Cung Công chúa, Quảng Cung Công chúa chỉ đƣợc điểm tới với tần suất tƣơng đối

khiêm tốn…

- Về nguồn gốc của Mẫu Liễu Hạnh, qua thống kê cho thấy, trƣớc năm 1945, đã

có ít nhất 151/206 cộng đồng làng xã trong không gian văn hóa Bắc Bộ phụng thờ Mẫu

Liễu Hạnh với tƣ cách là thiên thần; 30/206 cộng đồng làng xã tôn thờ Mẫu Liễu Hạnh

với tƣ cách là một vị nhân thần. Đặc biệt, có 03/206 cộng đồng làng xã tôn thờ Thánh

Mẫu Liễu Hạnh làm Thành hoàng, gồm: làng Hàn Mặc, tổng Cố Viễn, huyện Bình

Lục, tỉnh Hà Nam; thôn Hạ, làng Thứ Nhất, tổng Mai Động, huyện Bình Lục, tỉnh

Hà Nam; làng Lao Kay, châu Bảo Thắng, tỉnh Lao Kay.

- Mô hình thờ bộ ba Tam vị/Tam tòa Thánh Mẫu cũng tƣơng đối đa dạng,

nhƣ: Thôn Phƣơng Đình (làng Nho Lâm, tổng Bồng Hải, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh

Bình) thờ nhân thần Tam vị Thánh Mẫu phủ Sòng; các làng: Lao Kay (châu Bảo

Thắng, tỉnh Lao Kay), làng Côi Trì (tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình),

Thọ Thái (tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình), Thuần Mỹ (phố Đông

Mỹ, thị xã Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng) thờ Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày, trong khi

làng Nho Lâm (tổng Tân An, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình) còn thờ thêm Mẫu Đệ

tứ (dân gian thường cho rằng Mẫu Đệ tứ là bà Khâm sai), làng Côi Khê (tổng Lân

Khê, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình) thờ Tam vị Thánh Mẫu thiên thần Liễu Hạnh, Thủy Tinh, Thượng Ngàn, phố Khán Xuân (6c Quartier, thành phố Hà Nội) thờ Tam

vị nhân thần: Liễu Hạnh, Thủy Tinh Công chúa, Thiên thần Cửu Thiên...

Ngoài ra, tại Viện Thông tin khoa học xã hội còn lƣu trữ một số đầu sách

khác có liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, nhƣ

37

Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng, Vân Cát xã bi ký 定 省 務 本 縣 同

隊 總 雲 葛 社 碑 記, ký hiệu TSHN003453, niên đại định bản vào khoảng cuối thế

kỷ XX, liệt kê các bia tại phủ Vân Cát, xã Vân Cát, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản,

tỉnh Nam Định; Bản kê thần sắc: Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội

tổng, Vân Cát xã, ký hiệu kho TSHN003634, liệt kê 22 đạo sắc phong của xã Vân

Cát, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định; Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện,

Đồng Đội tổng, Tiên Hƣơng xã bi ký 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 仙 鄉 社 碑 記,

ký hiệu TSHN002927, niên đại định bản khoảng cuối thế kỷ XX, liệt kê các bia

đƣợc dựng tại phủ Chính - xã Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh

Nam Định; Bản kê thần sắc: Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng, Tiên

Hƣơng xã thần sắc 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 仙 鄉 社 神 敕, ký hiệu TTHN518,

niên đại định bản khoảng cuối thế kỷ XX, liệt kê thần sắc xã Tiên Hƣơng, tổng

Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định và Thần tích Thần sắc: Làng Tiên

Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, ký hiệu TTTS006774,

TTTS006775, niên đại định bản khoảng cuối thế kỷ XX, kê khai thần tích -

thần sắc của làng Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, gồm

Tiền Lý Nam Đế, Lôi Công Đại vƣơng, Sơn Thần Đại vƣơng… Tuy nhiên, vì bản

kê khai này không đề cập tới nội dung thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ

phủ nên tạm thời không đƣa vào Bảng thống kê…

Trên đây là một số thông tin cơ bản liên quan tới tƣ liệu Hán Nôm về tín

ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tại Viện

Thông tin khoa học xã hội. Rất có thể, khi khảo sát kỹ hơn (lật lại từng trang) thì

nguồn tƣ liệu Hán Nôm liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam

phủ, Tứ phủ trong đơn vị lƣu trữ này sẽ còn phong phú hơn nhiều…

2.1.2. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và

Mẫu Tam phủ, Tứ phủ qua di sản Hán Nôm - Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Thƣ mục sách Hán Nôm là bộ sách thông tin về tình hình thƣ tịch và tài

liệu Hán Nôm lớn nhất Việt Nam hiện nay đang đƣợc tàng trữ tại Viện

Nghiên cứu Hán Nôm…

38

Phải mất cả chục năm ròng, với bao công sức, các nhà nghiên cứu, các

chuyên gia Hán Nôm mới có thể tổng hợp, phân loại, tóm lƣợc, sắp xếp

và xuất bản hoàn chỉnh bộ Thƣ mục sách Hán Nôm, trong đó có sự hợp

tác và tài trợ tích cực của Viện Viễn Đông bác cổ nƣớc Cộng hòa Pháp.

Bộ sách thực sự là cuốn cẩm nang không thể thiếu nếu muốn đi sâu tìm

hiểu về kho di sản Hán Nôm Việt Nam.

Thƣ mục sách Hán Nôm có tên đầy đủ là Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư

mục đề yếu, với phần tên sách đƣợc xếp theo thứ tự ABC, gồm các phông

có ký hiệu: A, VHv, VHb, VHt (sách viết bằng chữ Hán); AB, VNv,

VNb (sách viết bằng chữ Nôm); AC, HV (sách sao chép hoặc in lại của

Trung Quốc, chủ yếu là kinh Phật) với 5038 tên sách. Mỗi tên sách ứng

với một đến nhiều cuốn sách hoặc nhiều bộ sách, cả thảy hơn 10.000 đơn

vị tƣ liệu thƣ tịch.

Tiếp sau là bộ Bổ di gồm 2 quyển (Thƣợng và Hạ) giới thiệu 6 phông

sách có ký hiệu: AD (thần sắc); AE (thần tích); AF (tục lệ); AG (địa

bạ; AH (xã chí); AJ (cổ chỉ). Cả thảy gồm 2280 đầu sách (bắt đầu từ mã

5039 đến 7318).

Với hơn 10.000 đơn vị, mỗi đơn vị tƣ liệu đều có các thông tin: Tên

sách; tác giả (nếu có); năm nơi in, số trang; ký hiệu và nội dung tóm tắt.

Toàn bộ kho sách Hán Nôm đƣợc phân thành khoảng 40 chủ đề: Văn

học, sử học, quan chức, bang giao, địa lý, kinh tế, gia phả, pháp chế,

quân sự, tôn giáo, phong thủy, văn hóa giáo dục, y dƣợc và văn học các

dân tộc ít ngƣời,... Một cuốn sách có thể đƣợc xếp vào một loại, cũng có

thể đƣợc xếp vào nhiều loại hình khác nhau vì tính chất nội dung đa ngành của nó…1.

Hiện nay, toàn bộ dữ liệu của bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề

1 Viện Nghiên cứu Hán Nôm, http://www.hannom.org.vn/default.asp?CatID=131 2 Viện Nghiên cứu Hán Nôm,http://www.hannom.org.vn/default.asp?CatID=131

yếu và bộ Bổ di đã đƣợc đƣa lên Website của Viện Nghiên cứu Hán Nôm để phục vụ bạn đọc” - Địa chỉ truy cập: http://www.hannom.org.vn2.

39

Từ di sản Hán Nôm trên Website hannom.org.vn, bạn đọc có thể tra cứu

thƣ tịch Hán Nôm theo các tiêu chí: tên sách; ký hiệu (mỗi quyển sách

hoặc bộ sách có một ký hiệu), tác giả (một tác giả có thể có từ một

đến nhiều sách), tên ngƣời, tên thần, tên đất (là tên có xuất hiện trong

sách), địa phƣơng (các sách thần sắc, thần tích, tục lệ, địa bạ, xã chí, cổ

chỉ thuộc địa phƣơng đó), và chủ đề (rất nhiều chủ đề), có thể đọc nội

dung tóm tắt (trích yếu) của từng cuốn hoặc bộ sách bằng cách kích chuột vào tên sách3.

Qua Thƣ mục sách Hán Nôm, bƣớc đầu đã thống kê đƣợc 170 tƣ liệu

liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, với 8 thông

số cơ bản, gồm: số thứ tự (STT), tên tƣ liệu, ký hiệu, niên đại định bản, tác giả,

chữ, nội dung lƣợc thuật, ghi chú [Phụ lục 2].

Kết quả thống kê cho thấy:

- Theo thể loại văn bản (trên giấy, phim ảnh), có thể phân chia tƣ liệu Hán

Nôm liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ thành

các nhóm/loại hình cơ bản sau: giáng bút, phả lục, thần tích, văn chầu, thần sắc,

công văn, linh thiêm/tiêm, các loại hình khác và khảo cứu:

1)- Giáng bút, với tổng số 56/170 văn bản (đƣợc đánh số thứ tự từ 1 - 56),

chiếm tỉ lệ khoảng 32.94%, tiêu biểu nhƣ: Vân Hƣơng Liễu Hạnh Công chúa tâm

căn chân kinh 雲 鄉 柳 杏 公 主 心 根 真 經, Tăng quảng minh thiện quốc âm chân

kinh 增 廣 明 善 國 音 真 經, Nguyên Từ Quốc mẫu lập mệnh quốc âm chân kinh

元 慈 國 母 立 命 國 音 真 經, Tam vị Thánh Mẫu cảnh thế chân kinh 三 位 聖 母

警 世 真 經... Trong đó: Kinh giáng bút: 44 văn bản (đánh số thứ tự từ 1 - 44),

chiếm tỉ lệ khoảng 25.88%; thơ văn giáng bút: 12 văn bản (đánh số thứ tự từ 45 -

56), chiếm tỉ lệ khoảng 7.05%.

2)- Phả lục gồm: Truyền kì tân phả 傳 奇 新 譜 [Tục truyền kì lục] 續 傳 奇

3 Viện Nghiên cứu Hán Nôm,http://www.hannom.org.vn/default.asp?CatID=131.

錄, “Vân Cát Thần nữ lục”, Tiên phả dịch lục 仙 譜 譯 錄, Thiên Bản Vân Hƣơng

40

Lê triều Thánh Mẫu ngọc phả 天 本 雲 鄉 黎 朝 聖 母 玉 譜, Vân Cát thần nữ Cổ

lục 雲 葛 神 女 古 錄, Vân Cát cổ lục diễn âm 雲 葛 神 女 古 錄 演 音, Vân Cát

thần nữ truyện 雲 葛 神 女 傳, Vân Cát Lê Gia Ngọc Phả 雲 葛 黎 家 玉 譜, với

tổng số 7/170 văn bản (đƣợc đánh số thứ tự từ 57 - 63), chiếm tỉ lệ khoảng 4.11%.

3)- Thần tích: Tổng số 60/170 văn bản (đƣợc đánh số thứ tự từ 64 - 123),

chiếm tỉ lệ khoảng 35.29%, tiêu biểu nhƣ: Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Bảo Ngũ

tổng các xã thần tích 南 定 省 務 本 縣 保 伍 總 各 社 神 蹟, Nam Định tỉnh, Xuân

Trƣờng phủ, Giao Thủy huyện, Lạc Thiện tổng, Hoành Lộ ấp thần tích 南 定 省 春

長 府 膠 水 縣 樂 善 總 黃 路 邑神 蹟, Thanh Hóa tỉnh, Đông Sơn huyện, Quang

Chiếu tổng các xã thôn thần tích 清 化 省 東 山 縣 光 照 總 各 社村 神 蹟, Lạng

Sơn tỉnh, Cao Lộc châu, Trinh Nữ tổng các xã thần tích 諒 山 省 高 祿 州 貞 女 總

各 社 神 蹟, Bắc Giang tỉnh, Lạng Giang phủ, Phất Lộc huyện Đào Quan tổng Tiên

Lục xã thần tích 北 江 省 諒 江 府 弗 祿 縣 桃 觀 總 仙 錄 社 神 蹟, Nam Định

tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã thần tích 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各

社 神 蹟, Tuyên Quang tỉnh, Yên Bình phủ, Yên Sơn huyện các xã thần tích 宣 光

省 安 平 府 安 山 縣 褚 市 埔 神 蹟, Thanh Hóa tỉnh, Thiệu Hóa phủ, Đông Sơn

huyện, Tuyên Hóa tổng các xã thần tích 清 化 省 東 山 縣 宣 化 總 各 社神 蹟,

Lạng Sơn tỉnh, Cao Lộc châu, Trinh nữ tổng các xã thần tích 諒 山 省 高麓 州貞

女 總 各社 神 蹟, Phú Thọ tỉnh, Cẩm Khê huyện các xã thần tích 富 壽 省 錦 溪 縣

各 社 神 蹟…

4)- Văn chầu gồm: Tiên thánh văn tập 仙 聖 文 集, Chƣ vị tán văn toàn tập

諸 位 贊 文 全 集, Chƣ vị văn chầu 諸 位 文 朝, Văn chầu 文 朝 = (Văn chầu các

bà 文 朝 各 婆) = (Văn chầu tập 文 朝 集), Công văn quyển 攻 文 卷, Đàn văn 彈

文, Thập nhị tiên nƣơng thỉnh luyện bí pháp 十 二 仙 娘 請 練 秘 法, Đại Nam

quốc âm ca khúc 大 南 國 音 歌, “Liễu Hạnh Công chúa diễn âm” - Tổng số 8/170

văn bản (đƣợc đánh số thứ tự từ 124 - 131), chiếm tỉ lệ khoảng 4.70%.

5)- Thần sắc (sách ghi thần sắc) gồm: Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Đồng

41

Đội tổng các xã thần sắc 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各 社 敕, Nam Định tỉnh, Mỹ

Lộc huyện, Nhƣ Thức tổng các xã thần sắc 定 省 美 祿 縣如 式 總 各 社 神敕, Hà

Nam tỉnh, Lý Nhân phủ, Nam Xang huyện, an Trạch tổng các xã thần sắc 河 南 省

里 仁 府 南 昌 縣 安 宅 總 各 社 神 敕, Hà Nam tỉnh, Lý Nhân phủ, Nam Xang

huyện Công xá tổng các xã thần sắc 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 公 舍 總各社 神敕

, Hà Nam tỉnh, Duy Tiên huyện an (Yên) Khê tổng các xã thần sắc 河 南 省 維 先

縣 安 溪 總 各 社 神 敕, Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện, Tân Khai tổng các xã

thần sắc 南 定 省 海 後 縣 新 開 總 各 社 神 敕, Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện,

Đồng Phù tổng các xã thần sắc 南 定 省 美 祿 縣 同 符 總 各 社 神 敕, Nam Định

tỉnh, Xuân Trƣờng phủ, Giao Thủy huyện, Lạc Thiện tổng các ấp thần sắc 南 定 省

春 長 府 膠 水 縣 l 樂 善 總 各 邑 神 敕, Bắc Ninh tỉnh, Quế Dƣơng huyện, Cựu

Tự xã thần sắc 北 寧 省 桂 陽 縣 舊 寺 社 神 敕, Hà Đông tỉnh, Hoài Đức phủ, Từ

Liêm huyện, Thƣợng Ốc tổng các xã thần sắc 河 東 省 懷 德 府 慈 廉 縣 上 沃 總

各 社村 神 敕, Hƣng Yên tỉnh, Kim Động huyện các xã thần sắc 興 安 省金洞 縣

各 社 神 敕, Sơn Tây tỉnh, Phúc Thọ huyện, Phù Long tổng, Hát Môn xã thần sắc

山 西 省 福 壽 縣 扶 龍 總 喝 門 社 神 敕, Nam ĐỊnh tỉnh, Hải Hậu huyện, Quế

Hải tổng các xã thần sắc 南 定 省 海 後 縣 桂 海 總 各 社 神 敕, Nam Định tỉnh,

Mỹ Lộc huyện, Cao Đài tổng các xã thần sắc 南 定 省 美 祿 縣 高 臺 總 各 社 神

敕, Kiến An tỉnh, Tiên Lãng huyện, Cẩm Khê tổng, Mỹ Lộc xã thần sắc 建 安 省 先

郎 縣 錦 溪 總 美 祿 社 神 敕, Hà Đông tỉnh, Sơn Lãng huyện, Đại Bối tổng các xã

thần sắc 河 東 省 山 郎 縣大 貝 各 社 神 敕, Hà Đông tỉnh, Thanh Trì huyện, Cổ

Điển tổng các xã thần sắc 河 東 省 青 池 縣 古 典 總 各 社 神 敕 - Tổng số 17/170

văn bản (đƣợc đánh số thứ tự 132 - 148), chiếm tỉ lệ 10%.

6)- Công văn: 1 văn bản (1/170) - Công văn tổng quyển 攻 文 總 卷 (đƣợc

đánh số thứ tự 149), chiếm tỉ lệ xấp xỉ 0.59%.

7)- Linh thiêm/tiêm (quẻ bói): 1 văn bản (1/170) - Thánh Mẫu linh tiêm 聖

母 靈 韱 (đƣợc đánh số thứ tự 150), chiếm tỉ lệ xấp xỉ 0.59%.

42

8)- Các loại hình khác (địa chí, truyện - ký lục, câu đối, ghi chép về tục lệ,

thơ văn, ngâm vịnh, tạp ký…) gồm: Nam Định tỉnh đại dƣ chí 南 定 省 地 輿 誌,

Việt điện u linh 越 甸 幽 靈, Nội đạo tràng 內 道 場, Thính văn dị lục 聽 聞 異 錄,

Nam Hải dị nhân liệt truyện diễn âm 南 海 異 人 列 傳 演 音, Bách thần lục 百 神

錄, Thanh Hóa chƣ thần lục 清 華 諸 神 錄, Việt nam danh nhân sự tích liệt truyện

越 南 名 人 事 跡 列 傳, Lão song thô lục 老 窗 粗 錄, Bản quốc dị văn 本 國 異

文 [Bản quốc dị văn lục 本 國 異 文 錄], Bảo Hán châu liên 保 漢 珠 聯, Cát sự đối

liên 吉 事 對 聯, Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Đồng Đội tổng các xã tục lệ 南 定

省 務 本 縣 同 隊 總 各 社 俗 例, Yên Đổ tiến sĩ thi tập 安 堵 進 士 詩 集, Nhƣ

Khuê thị học ngữ tập 如 珪 氏 學 語 集 = Vĩnh Hồ Nhƣ Thị học ngữ 永 湖 如 珪

氏 學 語, Tự ký văn thƣ tạp tập 序 記 文 書 雜 集, Dân gian cổ ngâm 民 間 古 吟,

Thi ca tạp ký 詩 歌 雜 記 - Tổng số 18/170 văn bản (đƣợc đánh số thứ tự từ 151 -

168), chiếm tỉ lệ xấp xỉ 10.59%.

9)- Khảo cứu gồm: Thiên Tiên truyện khảo 天 仙 傳 攷, Khảo đồng sự

ký 攷 童 事 記; Tiền Lí Nam đế tích 前 李 南 帝 跡; Nam Định tỉnh khảo dị 清 化

省 考 異; Thanh Hóa tỉnh khảo dị 南 定 省 考 異; Khảo vấn tĩnh điện 考 問 靖 殿 -

Tổng số 2/170 văn bản (đƣợc đánh số thứ tự từ 169 - 170), chiếm tỉ lệ khoảng

1.17% .

- Về niên đại, hầu hết các văn bản đều đƣợc định bản hoặc định bản lại (sao

chép) trong khoảng thế kỷ XIX - XX, mặc dù có một số bản thần tích ghi do Nguyễn

Bính soạn vào khoảng cuối thế kỷ XVI hoặc đƣợc Nguyễn Hiền sao lại vào khoảng

nửa cuối thế kỷ XVIII, nhƣ Thái Bình tỉnh Quỳnh Côi huyện Quỳnh Ngọc tổng

Quỳnh Ngọc xã thần tích 太 平 省 瓊 魁 縣 瓊 玉 總 瓊 玉 社 神 蹟, AE.A5/32;

Thái Bình tỉnh Thƣ Trì huyện Cự Lâm tổng các xã Hữu Lộc Cự Lâm Thanh Bản thần

tích 太 平 省 舒 池 縣 巨 林 總 各 社 有 祿 巨 林 青 板 神 蹟, AE.A5/61; Hà Đông

tỉnh, Sơn Lãng huyện, Bạch Sam tổng các xã thần tích 河 東 省 山 郎 縣 白 杉 總

各 社 神 蹟, AE.A2/48; Thái Bình tỉnh Tiên Hƣng Hƣng Nhân huyện các xã thần

tích 太 平 省 先 興 府 興 仁 縣 各 社 神 蹟, AE.A5/28; Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ

43

Nam Xang huyện Công Xá tổng các xã thần tích 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 公 舍

總 各 社 神 蹟, AE.A13/25…

- Về văn tự (chữ viết), qua 170 văn bản Hán Nôm liên quan tới tín ngƣỡng

thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đƣợc thống kê, hiện có: 99/170 văn

bản chữ Hán, chiếm tỉ lệ khoảng 58.23%; 19/170 văn bản chữ Hán và Nôm, chiếm

tỉ lệ khoảng 11.17%; 28/170 văn bản chữ Nôm, chiếm tỉ lệ khoảng 16.47% và

24/170 văn bản chữ Nôm và Hán, chiếm tỉ lệ khoảng 14.11%.

- Về hình thức định bản, hầu hết văn bản thuộc loại hình giáng bút và 03 phả

lục, 01 bản văn chầu, 01 bản công văn đƣợc khắc in, còn lại các văn bản khác đều

đƣợc chép tay…

Qua đây, có thể nhận thấy, nguồn tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu

Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ qua Thƣ mục sách Hán Nôm -

Viện Nghiên cứu Hán Nôm tƣơng đối phong phú và đa dạng, cơ bản đƣợc

định bản hoặc định bản lại trong khoảng thế kỷ XIX - XX, với nhiều loại

hình: giáng bút, phả lục, thần tích, văn chầu, thần sắc, công văn, linh thiêm/tiêm

(quẻ bói), các loại hình khác và văn bản khảo cứu. Trong đó, thần tích chiếm số

lƣợng lớn nhất, với 60 văn bản, chiếm tỉ lệ khoảng 35.29%. Tiếp đến là văn bản ghi

chép về giáng bút, với 56 văn bản, chiếm tỉ lệ khoảng 32.94% (Kinh giáng bút: 44

văn bản chiếm tỉ lệ khoảng 25.88%; thơ văn giáng bút chiếm tỉ lệ khoảng 7.05%).

Tuy nhiên, một số loại hình văn bản khác lại chiếm tỉ lệ rất khiêm tốn, nhƣ công

văn, linh thiêm/tiêm (quẻ bói), mỗi loại chỉ có 01 văn bản, tƣơng ứng với tỉ lệ

khoảng 0.59%... Sự xuất hiện của một lƣợng lớn văn bản chữ Nôm, cùng hàng loạt

văn bản giáng bút và một số văn bản khác đƣợc khắc in đã phần nào cho thấy sức

lan tỏa và tính phổ bao quát của tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh phủ Giày và Mẫu

Tam phủ, Tứ phủ trong bối cảnh lịch sử - xã hội đƣơng thời.

2.1.3. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và

Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tại một số cơ sở lữu trữ khác

Trong qúa trình khảo sát, sƣu tầm và tập hợp tƣ liệu, liên quan tới tƣ

liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ

phủ, ngoài nguồn tƣ liệu Viện Thông tin khoa học xã hội, Viện Nghiên cứu

44

Hán Nôm nhƣ đã đề cập ở trên, nghiên cứu sinh cũng đã tiếp cận với nguồn

tƣ liệu liên quan tại một số cơ sở lữu trữ khác, tiêu biểu (Xem thêm Phụ lục

3), có thể điểm tới:

- Tại Thƣ viện quốc gia Việt Nam, ít nhất còn 05 đầu sách trực tiếp liên quan

tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đã đƣợc số hóa, có thể xem trực tuyến4, với thông tin khái lƣợc nhƣ sau:

1). Tam vị Thánh Mẫu cảnh thế chân kinh 三 位 聖 母 警 世 真 經 (chữ

Hán, 18 trang), mã hiệu số hóa: nlvnpf-0244, mã kho: R.5069, in từ bản khắc năm

Thành Thái Bính Ngọ (1906) của đền Ngọc Giang, Chủ Thiện đƣờng, Sơn Tây tàng

bản - Sau tờ bìa, sách có in 3 hình Vân Hƣơng Đệ nhất Thánh Mẫu 雲 香 第 一 聖

母, Đệ nhị Thánh Mẫu 第 二 聖 母, Đệ tam Thánh Mẫu 第 三 聖 母. Sau mỗi hình

minh họa còn có bài tán. Tiếp đến là các bài giáng kinh, bảo cáo, khai kinh của Tam

vị Thánh Mẫu.

2). Vân Hƣơng Tam vị Thánh Mẫu cảnh thế chân kinh diễn âm 雲 鄉 三 位

聖 母 警 世 真 經 演 音 (chữ Nôm, 30 trang), mã hiệu số hóa: nlvnpf-0194, mã

kho: R.2233, in từ bản khắc năm Bảo Đại thập bát niên (1933), do Chánh Cửu phẩm

Văn giai Nguyễn Ngọc Du và vợ Trần Thị Miễn khắc, cung tiến cho đền Phú Xuân,

xã Hữu Bằng, tổng Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, với nội dung gồm các bài văn giáng

bút thể cáo, tán, kệ, minh văn, của Vân Hƣơng Thánh Mẫu, Mai Hoa Công chúa và

Thƣợng Ngàn Công chúa khuyên làm điều thiện, bỏ điều ác…

3). Vân hƣơng Thánh Mẫu linh thiêm 雲 鄉 聖 母 灵 韱 (chữ Hán, 26 trang),

mã hiệu số hóa: nlvnpf-1498, mã kho: R.3378, đƣợc chép tay vào khoảng đầu thế

kỷ XX, với nội dung chính gồm các quẻ bói, trong đó có một bài tựa theo thể giáng

bút của Dao Trì Vƣơng mẫu, nói rằng, lời thiêm/tiêm là lời của các vị tiên thánh

mƣợn những kẻ phàm để bày tỏ cho chúng sinh kính sợ mà tụng niệm tu hành. Nay

giáng đàn nơi Vĩnh Phong đàn ở Phúc Xá đề cho ngƣời đời chiêm nghiệm…

4). Vân Cát thần nữ truyện 雲 葛 神 女 傳 (chữ Hán, 26 trang), mã hiệu số

4 Thƣ viện Quốc gia Việt Nam, http://hannom.nlv.gov.vn/

hóa: nlvnpf-1023, mã kho: R.22, với nội dung kể về sự tích vị nữ thần ở thôn Vân

45

Cát, huyện Vụ Bản thời vua Lê Anh Tông: Nữ thần tên thật là Giáng Hƣơng, lấy

một ngƣời họ Đào, sinh đƣợc một con trai, 1 con gái. Năm 21 tuổi, Giáng Hƣơng

chết. Sau lại đầu thai lấy một ngƣời họ Lƣu (chính là chồng cũ, cũng đầu thai), sinh

thêm một con gái. Ngƣời chồng thi đỗ, làm quan ở Viện Hàn lâm. Sau khi mất,

Giáng Hƣơng rất linh thiêng, nhân dân làm đền thờ ở Phố Cát.

5). Truyền kỳ tân phả 傳 奇 新 譜 (chữ Hán, 79 trang), mã hiệu số hóa:

nlvnpf-0285, mã kho: R.1611, với nội dung chép lại Truyền kỳ tân phả của Đoàn

Thị Điểm (Bản khắc năm Gia Long thứ 10 - 1811), gồm 7 câu chuyện kì lạ do Đoàn

Thị Điểm 段 氏 點 sƣu tầm (tiếp sau Truyền kì mạn lục 傳 奇 漫 錄 của Nguyễn

Dữ 阮 嶼): Hải khẩu linh từ lục 海 口 靈 祠 錄, Vân Cát thần nữ truyện 雲 葛 神 女

傳, An ấp liệt nữ lục 安 邑 烈 女 錄, Bích Câu kì ngộ kí 碧 溝 奇 遇 記, Tùng bách

thuyết thoại 松 栢 説 話, Long hổ đấu kì kí 龍 虎 鬪 奇 記.

- Tại Trung tâm Lƣu trữ quốc gia 1, còn lƣu trữ địa bạ hai xã Vân Cát và

Tiên Hƣơng, lập năm Gia Long thứ 4 (1805): Phông Địa bạ triều Nguyễn: Hồ sơ số

6529, lập năm Gia Long thứ 4 (1805) - Địa bạ xã Vân Cát; Phông Địa bạ triều

Nguyễn: hồ sơ số 6525, lập năm Gia Long thứ 4 (1805) - Địa bạ xã Yên/An Thái.

Ngoài ra, trong quá trình khảo sát điền dã, sƣu tầm tƣ liệu, nghiên cứu sinh

cũng đã đƣợc tiếp cận với một số liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh

phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ trong dân gian, gồm sách, ván khắc, gia phả,

thần tích, sắc phong..., tiêu biểu nhƣ:

1). Tứ phủ Công đồng khoa nghi sớ văn hợp tập 四 府 公 同 科 儀 疏 文 合

集 (chữ Hán và Nôm), in từ bản khắc năm Kỷ Mão niên hiệu Bảo Đại năm thứ 14

(1939), nguyên bản (khắc) lƣu tại đền Phú Chí, Chƣơng Văn, Hà Đông, nội dung

tổng hợp các khoa nghi và sớ văn khoa cúng Tứ phủ Công đồng.

2). Thiên Bản Vân Hƣơng Lê triều Thánh Mẫu Ngọc phả 天 本 雲 鄉 黎 朝

聖 母 玉 譜 (chữ Hán), in từ bản khắc năm Bảo Đại 9 (1934), do thanh đồng Vũ

Xuân Lan san khắc, nguyên bản (khắc) vốn đƣợc lƣu giữ tại đền Cố Trạch, xã Vân

Cát, với nội dung kể về sự tích Mẫu Liễu Hạnh (Vân Cát - Tiên Hƣơng).

3). Cát Thiên tam thế thực lục 葛 天 三 世 實 錄 (chữ Hán), in từ bản

46

khắc năm Qúy Sửu, niên hiệu Duy Tân (1913), ván khắc vốn lƣu tại đền Quảng

cung, với nội dung chính gồm các phần sau: Thánh Mẫu bảo cáo; Quảng Nạp

linh từ phả ký; Cát Thiên tam thế thực lục tự; Cát Thiên tam thế thực lục tự tự;

Cát Thiên tam thế thực lục; Cát Thiên tam thế tổng tự; Cát Thiên tam thế thực

lục quốc âm; Phụ lục đề Tiên hƣơng từ thi; Cát Thiên thực lục hoàn mộc ân đệ tử

tạ biểu; Cát Thiên tam thế thực lục hậu tự; Mộng thụ ký; Phụ lục Tiên hƣơng từ

đối liên; Phụ lục Quảng Nạp từ linh nghiệm ký; Thánh Mẫu tán văn; Bách hoa

văn; Bách dƣợc luyện văn; Tế văn...

2.1.4. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở khu vực phủ Giày

Theo Quyết định số 09-VH/QĐ ngày 05/3 /1975 của Bộ trƣởng Bộ Văn hoá-

Thông tin về việc xếp hạng khu di tích kiến trúc nghệ thuật phủ Dầy, tại thời điểm

xếp hạng, quần thể di tích này đƣợc xác định bao gồm: phủ Chính (phủ Tiên

Hƣơng), phủ Vân Cát, lăng Liễu Hạnh và các địa điểm liên quan. Tuy nhiên, theo

kết quả khảo sát gần đây của Ban Quản lý Di tích và Danh thắng tỉnh Nam Định

(Báo cáo kết quả khảo sát, nghiên cứu tên gọi các di tích thuộc quần thể di tích lịch

sử - văn hoá phủ Dầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 2019), quần thể

di tích này hiện có tới 20 điểm di tích, gồm đình, đền, chùa, phủ, lăng, từ đƣờng

phân bố trên địa bàn 3 thôn: Tiên Hƣơng, Vân Cát, Báng, thuộc xã Kim Thái, huyện

Vụ Bản, tỉnh Nam Định: 1). phủ Tiên Hƣơng; 2). phủ Vân Cát; 3). lăng Liễu Hạnh;

4). chùa Báng (Linh Sơn thiền tự); 5). chùa Tiên Hƣơng (Tiên Linh tự); 6). chùa

Vân Cát (Long Vân tự); 7). đền Công đồng; 8). đền Đức Vua (đền thờ Lý Nam Đế)

thôn Tiên Hƣơng; 9). đền Đức Vua (Đền thờ Lý Nam Đế) thôn Vân Cát; 10). đền

Giếng (Đông Tỉnh từ); 11). đền Khải Thánh (thôn Tiên Hƣơng); 12). đền Khải

Thánh (thôn Vân Cát); 13). đền Công Núi (đền Quan Lớn); 14). đình Ông Khổng;

15). đền Thƣợng; 16). đền Cây Đa Bóng (Nguyệt Du từ/cung); 17). đền Cây Đa

Báng; 18). đền Đông Cuông; 19). đền Khâm Sai; 20). nhà thờ (từ đƣờng) họ Trần Lê (Thánh Tổ từ) [1].

Tâm thức dân gian khu vực phủ Giày cho rằng, một số điểm di tích thuộc

quần thể di tích này đƣợc khởi dựng từ thời Lý và Trần (thế kỷ XI - XIX). Tuy

nhiên, qua khảo sát thực địa và qua tƣ liệu Hán Nôm lại cho thấy, diện mạo chủ yếu

47

của hầu hết các điểm di tích thuộc quần thể di tích phủ Giày hiện nay là kết quả của

các lần tu bổ, tôn tạo trong khoảng thời gian từ thế kỷ XIX trở lại đây. Phải chăng,

đây cũng là một kết quả tất yếu của quá trình biến đổi lịch sử - xã hội. Theo đó, có

lẽ, chính vì lý do này mà tƣ liệu Hán Nôm trong quần quần thể di tích hiện nay cũng

tƣơng ứng với khung niên đại nêu trên (trong khoảng từ thế kỷ XIX - XX đến nay).

Kết quả khảo sát cũng cho thấy, nguồn tƣ liệu Hán Nôm trực tiếp liên quan

đến tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh nói riêng và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ nói chung

trong quần thể di tích phủ Giày chủ yếu tập trung tại phủ Vân Cát, phủ Tiên Hƣơng,

lăng Mẫu Liễu Hạnh, nhà thờ họ Trần Lê, đền Cây Đa Bóng (Nguyệt Du từ/cung).

Tại các điểm di tích khác trong quần thể di tích này cũng đều có đại tự, câu đối, văn

khắc Hán Nôm nhƣng chủ yếu là sản phẩm mới đƣợc cung tiến trong khoảng vài

chục năm gần đây. Trong mục này, xin giới hạn chỉ điểm qua về tƣ liệu Hán Nôm

tại các điểm di tích tiêu biểu trong quần thể di tích phủ Giày, gồm: phủ Vân Cát,

phủ Tiên Hƣơng, lăng Mẫu Liễu Hạnh, nhà thờ họ Trần Lê, đền Cây Đa Bóng

(Nguyệt Du từ/cung).

2.1.4.1. Tư liệu Hán Nôm tại phủ Vân Cát

+ Bia ký:

Tại Viện Thông tin khoa học xã hội hiện đang lƣu trữ tài liệu mang ký hiệu

kho: TSHN 3453: Bản kê bia xã Vân Cát, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam

Định (南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 雲 葛 社 碑 記), đƣợc địa phƣơng kê khai vào

khoảng nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, tài liệu này chỉ có 2 trang và không thấy kê

khai tên hoặc nội dung bất kỳ một văn bia nào, hiện chƣ rõ lý do cụ thể. Có lẽ, phần

nội dung kê khai trong tài liệu gốc đã bị thất lạc hoặc bị tách tệp nhầm khi tiến hành

chỉnh lý?

Tại thời điểm Dƣơng Văn Vƣợng khảo sát, ông đã ghi nhận, tại phủ Vân Cát

có 11 bia ký, trong đó có 09 bia chữ Hán và 02 bia quốc ngữ. Trong tài liệu khảo

sát, ông đã lƣợc thuật lại nội dung 11 bia và tuyển dịch 05 bia. Các bia đều mang

niên đại trong khoảng thời Nguyễn - thế kỷ XIX - XX, gắn với lịch sử hình thành và

tồn tại của phủ. Chƣ rõ, tình trạng các bia tại thời điểm đó thế nào nhƣng hiện nay,

các bia đều đã khá mờ. Kết quả khải cứu, phiên dịch của ông đã đƣợc tập hợp và

48

công bố trong sách Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua tư liệu Hán Nôm [51].

Trên nền kết quả này, có thể khái quát về nội dung cơ bản của văn bia tại phủ Vân

Cát sau:

1). Bia niên hiệu Tự Đức vạn vạn niên chi nhị tam nguyệt thƣợng hoán

嗣 德 萬 萬 年之 二 三 月 上 浣 - Thƣợng tuần tháng Ba năm Tự Đức

thứ 2 (1849), do Vân Song Cƣ sỹ soạn, với nội dung lƣợc thuật nhƣ sau:

Đất Vân Cát, huyện Thiên Bản là nơi có nhà xƣa của Mẫu, sau thành đền

- phủ nguy nga nhƣ cảnh bồng lai. Trƣớc đây, phủ có gác chuông, nhƣng

do lâu ngày mà bị đổ nát. Nay có ông Nguyễn Đăng Vực, ngƣời xã

Lƣơng Kiệt, tổng Hào Kiệt, huyện Thiên Bản, cùng quyến thuộc bỏ tiền

công đức dựng lại. Xong việc khắc bia lƣu lại muôn đời.

2). Nhị xã hòa hội phụng sự bi ký 二 社 和 會 奉 事 碑 記 - Hai xã cùng

nhau phụng thờ, khắc năm Tự Đức thứ 10 (1857), do Vân Song Cƣ sỹ

soạn, với nội dung lƣợc thuật nhƣ sau: Đất Vân Cát, huyện Thiên Bản là

nơi có nhà xƣa của Mẫu, sau thành đền - phủ rất đỗi linh thiêng. Thái La

và Vân Cát là hai xã lân cận. Kính ngẫm, thần tiên ban phúc chẳng riêng

tƣ, khắp nơi thờ tự còn đƣợc, huống chi gần gũi, cận kề. Vì thế mà dân

xã Thái La đã hội bàn với dân Vân Cát, bày tỏ nguyện vọng gánh chung

trách nhiệm tế lễ Thánh Mẫu. Việc đƣợc Vân Cát ƣng thuận, dần dần

thành lệ. Nay khắc văn bia ghi lại mối giao tình.

3). Thiên Bản huyện viên biền cúng tự điền bi ký 天 本 縣 員 弁 供 祀

田 碑記 - Bia ghi việc cúng ruộng hƣơng hỏa của Hội Biền binh huyện

Thiên Bản, khắc năm Tự Đức thứ 14 (1861), do Tiến sĩ Trần Huy Côn,

ngƣời Thiên Bản soạn, với nội dung lƣợc thuật nhƣ sau: Hội lính Thủy

quân của tỉnh, quê ở Thiên Bản cúng vào phủ 6 sào 7 thƣớc ruộng ở xứ

chùa Hoa, giao cho dân sở tại cày cấy lấy hoa lợi lo việc thờ tự Thánh

Mẫu.

4). Bản tỉnh bi ký 本 省 碑 記 - Bia ký bản tỉnh, khắc năm Đồng Khánh

năm thứ 2 (1887), với nội dung ghi việc những ngƣời trong và ngoài tỉnh

49

quyên tiền sắm kiệu phục vụ rƣớc hội…

5). Bia không đề, khắc năm Thành Thái thứ 4 (1892), do Phạm Đình Kỳ

soạn, ghi việc dân sở tại từ xƣa đã có lệ chính kỵ (tiệc giỗ) Mẫu vào ngày

mùng Ba tháng Ba. Số ruộng trƣớc đây bố trí ít ỏi nên hoa lợi thu đƣợc

không đủ chi dùng, phải bổ bán nên gặp khó khăn, nay quyết định bố trí

thêm 1 mẫu 2 sào để tiện lo việc…

6). Thánh Mẫu cố trạch linh từ bi ký 聖 母 故 宅 靈 祠 碑 記 - Bia ghi

việc đền thiêng nơi nền nhà cũ của Thánh Mẫu, khắc năm Thành Thái

Tân Sửu (1901), do Hiệp biện Đại học sỹ Quốc Sử quán Phó Tổng tài

kiêm quản Quốc giám, An Xuân Nam, Cao Xuân Dục soạn, với nội dung

lƣợc thuật nhƣ sau: Đền thờ Mẫu vốn đƣợc dựng trên đất Mẫu giáng sinh

từ thời Cảnh Trị (1663-1671), với quy mô nhỏ. Năm Cảnh Thịnh (1793 -

1801) đền đƣợc sửa sang, mở rộng quy mô. Năm Kỷ Mão dƣới triều Tự

Đức lại trùng tu tiếp. Trải qua thời gian mƣa xối, gió bào, phong cảnh trở

nên tiêu điều, đổ nát. NămThành Thái thứ 10, các quan tỉnh, đại diện là

Hoàng Huy Tƣờng, Vũ Nghĩa Quỳ thƣơng nghị với Cao Xuân Dục tu bổ

lại đền. Việc đƣợc tiến hành, đến năm Thành Thái thứ 12 (1900) thì mọi

việc hoàn thành. Số tiền chi phí hết hơn 8.000đ.

7). Vụ Bản huyện đồng huyện cúng trí lệ điều tiền tại Vân Cát, tục hiệu

phủ Giày bi ký 務 本 縣 仝 縣 供 置 例 田 錢 在 雲 葛 俗 号 府 𠫅 碑 記

- Cả huyện Vụ Bản tiến cúng tiền ruộng lệ ở phủ Vân Cát, tục gọi là phủ

Giày, do Đệ tam giáp Tiến sỹ khoa Tân Sửu Đốc học Hải Phòng Nguyễn

Văn Tính soạn, với nội dung lƣợc thuật nhƣ sau: Vân Cát thần nữ là một

trong sáu sự lạ ở đất Thiên Bản, trải qua ba độ hóa sinh, đã đƣợc các triều

phong tặng. Hằng năm cứ đến mùa xuân tháng Giêng, bốn phƣơng hội về

Vân Cát, Tiên Hƣơng chiêm bái rất đông. Hai làng này trƣớc là một, sau

mới chia ra (trƣớc Vân Cát nằm trong xã An Thái), một là hai, hai cũng là

một vậy. Tục “hội gậy hoa” có từ việc vị Thái phi thời chúa Trịnh, dƣới

thời Lê Trung Hƣng cầu ở đền Tiên Thánh, sau có ứng nghiệm nhƣ điều

nguyện ƣớc, nên đã tâu lên trên miễn cho dân huyện việc đắp đê khơi

50

nƣớc ở Hà Thành. Dân huyện nhớ công ấy bèn đổi mai cuốc thành gậy

kéo chữ, hằng năm cứ đến kỳ lễ kị thì kính cẩn làm lễ tạ, hội hợp chụm

đầu, lâu ngày thành lệ. Khoảng năm Tự Đức triều ta, Vân Cát nghĩ rằng,

dân đinh thƣa ít, lo việc không nổi bèn đem nguyên lệ giao cho Tiên

Hƣơng nhận làm. Tới nay hơn 60 năm còn có mọi ngƣời biết cả. Vào

khoảng năm Khải Định thứ 3, thứ 4 (1918, 1919), ngƣời quý tổng thăng

thụ Chánh Bát phẩm, Nghị viên Tƣ vấn xứ Bắc Kỳ, Chánh tổng Trần

Khắc Kiệm thƣơng lƣợng với chức sắc kỳ dịch xã ấy có lời với lý dịch và

Chánh Phó tổng mới, cũ của cả huyện, thỏa thuận về các điều lệ, có chữ,

có dấu của huyện quan phê đóng, lấy đó chiểu theo lệ trƣớc làm lệ gậy hoa

ở đền xã ấy. Ngõ hầu cùng đội ơn thần, đẹp tốt với ý kính thờ. Trong

huyện bàn bạc thống nhất ký kết trình quan Đốc bộ đƣờng bản tỉnh Phạm

Tƣớng công thƣơng lƣợng với Tòa sứ chuẩn duyệt thi hành…

8). Vân Cát hàng hội bi ký 雲 葛 行 會 碑 記 - Bia ký hàng hội Van Cát,

khắc năm Khải Định thứ 10 (1925), do Chánh tổng tổng Trình Thƣợng

Bùi Văn Hùng soạn, với nội dung lƣợc thuật nhƣ sau: Cả 12 tổng: Vụ

Bản, La Xá, Phú Lão, Hiển Khánh, Đồng Đội, Vân Côi, Bảo Ngũ, An

Cự, Trình Thƣợng, Trình Hạ, Hào Kiệt, Hổ Sơn đều chịu trách nhiệm tế

rƣớc kéo chữ. Số ngƣời kéo chữ có 20 ngƣời các tổng luân phiên gách

việc…

9). Vân Cát phủ từ tự điền bi ký 雲 葛 府 詞 祀 田 碑 記 - Bia ghi việc

ruộng thờ tự tại đền Vân Cát, khắc năm Khải Định năm thứ 10 (1925),

do Tri huyện huyện Vụ Bản Đặng Huy Hoàn soạn, với nội dung lƣợc

thuật nhƣ sau: Thánh Mẫu Vân Cát là vị thần thiêng, ngƣời ngƣời sùng

bái, nhà nhà kính ngƣỡng, nơi nơi lập miếu phụng thờ. Đất Thiên Bản là

nơi sinh ra Tiên chúa, dƣới thời Lê Trịnh, Thái phi đặt ra “hội hoa

trƣợng” để tạ ơn Mẫu. Hằng năm, cứ đến tháng Ba, ngƣời cả huyện kéo

về diễn lại tích xƣa. Cảm kích ơn Mẫu, huyện hào cúng vào đền số ruộng

1 mẫu 8 sào, bàn giao lại cho xã Vân Cát nhận cày cấy lấy hoa lợi phục

vụ lễ ngày thánh hóa. Nay khắc vào đá truyền lại muôn đời…

51

+ Đại tự, câu đối:

Cũng theo kết quả khảo sát của Dƣơng Văn Vƣợng, tại phủ Vân Cát, khi ông

khảo sát còn lƣu giữ đƣợc 17 bức đại tự và hàng chục đôi câu đối cổ sơn son thiếp

vàng ca ngợi thân thế, công lao, đức hạnh của Thánh Mẫu để tỏ lòng kính ngƣỡng

của cộng đồng và thiện tín thập phƣơng đối với Mẫu. Khi chúng tôi khảo sát, trong

phủ này đã có thêm một số đại tự, câu đối mới đƣợc bổ sung. Ngoài ra, tại phủ còn

một số cuốn thƣ, đại tự, câu đối mới đƣợc cung tiến và đắp trên nghi môn, cột biểu

trong những lần trùng tu gần đây.

Tƣơng tự nhƣ bia ký, hệ thống đại tự, câu đối tại phủ Vân Cát cũng khá

phong phú, đa dạng, đặc biệt chú trọng việc khẳng định truyền thống thờ Mẫu tại

Vân Cát, tiêu biểu nhƣ:

Giáng sinh từ 降 生 祠 - Đền giáng sinh.

Đản sinh cố trạch 誕 生 故 宅 - Nhà cũ, nơi đản sinh Thánh Mẫu.

Tiên nhân cựu quán 仙 人 舊 館 - Quê cũ của ngƣời tiên.

雲 葛 是 始 浦 葛 是 终 人 知 有 母 之 親 直 北 关 山 皆 赤 子,

壬 辰 而 生 丙 辰 而 化 世 仰 維 神 之 著 塈 南 声 教 沐 鴻 恩.

Vân Cát thị thủy, Phố Cát thi chung, nhân tri hữu Mẫu chi thân, trực Bắc

quan san giai xích tử,

Nhâm Thìn nhi sinh, Bính Thìn nhi hóa, thế ngƣỡng duy thần chi trứ, kị Nam

thanh giáo mộc hồng ân.

Vân Cát giáng trước, Phố Cát giáng sau, người biết đức mẹ thân tình, Bắc ải

xa xôi yêu như con đỏ,

Sinh năm Nhâm Thìn, hóa năm Bính Thìn, đời đời nhờ cậy thánh - thần, trời

Nam ngưỡng vọng tắm gội ơn lành.

(Câu đối do Tổng đốc Nam Ninh, Cổ Hoan Đông Cao Long Cương, Cao

Xuân Dục, hiệu Tử Phát soạn, khắc vào mùa đông năm Ất Mão - 1915)…

Ngoài ra, trong phủ còn có một số văn khắc Hán Nôm đƣợc khắc trên thƣợng

lƣơng, bát hƣơng, đồ nghi trƣợng…

+ Sắc phong:

52

Tại phủ Vân Cát, hiện không còn sắc phong nguyên bản (vật thật) do các

triều phong tặng. Tuy nhiên, theo Bản kê thần sắc xã Vân Cát, tổng Đồng Đội,

huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định (南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 雲 葛 社 神 敕), ký

hiệu kho: TSHN - Tƣ liệu Viện Thông tin khoa học xã hội, do địa phƣơng lƣợc kê

vào khoảng nửa đầu thế kỷ XX thì ở thời điểm kê khai, xã Vân Cát có 23 đạo sắc.

Tuy nhiên, bản kê chỉ kê khai ngày, tháng, năm, triều vua phong sắc, số bản đƣợc

phong, không kê khai rõ nội dung sắc phong cho vị thần nào. Về thông tin kê khai,

có thể lƣợc thuật nhƣ sau: Ngày mùng Ba tháng Bảy năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642)

phong 1 đạo; ngày Mƣời tám tháng Tƣ năm Cảnh Trị thứ 8 (1670) phong 2 đạo;

ngày Hai mƣơi bốn tháng Sáu nhuận năm Chính Hòa thứ 4 (1683) phong 1 đạo;

ngày Mƣời sáu tháng Hai năm Vĩnh Thịnh nguyên niên (1705) phong 1 đạo; ngày

Mƣời hai tháng Bảy năm Bảo Thái thứ 3 (1722) phong 1 đạo; ngày Mùng mƣời

tháng Mƣời hai năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1731) phong 1 đạo; ngày Mƣời sáu tháng

Hai năm Long Đức thứ 2 (1733) phong 1 đạo; ngày Hai mƣơi bảy tháng Tám năm

Vĩnh Hựu nguyên niên (1735) phong 1 đạo; ngày Hai mƣơi bảy tháng Giêng năm

Cảnh Hƣng nguyên niên (1740) phong 1 đạo; ngày Hai mƣơi tám tháng Ba năm

Cảnh Hƣng nhị niên (1741) phong 1 đạo; ngày mùng Tám tháng Tám năm Cảnh

Hƣng thứ 28 (1767) phong 1 đạo; ngày Mƣời sáu tháng Năm năm Cảnh Hƣng thứ

44 (1783) phong 1 đạo; ngày Hai mƣơi ba tháng Ba năm Chiêu Thống nguyên niên

(1787) phong 1 đạo; ngày mùng Bốn tháng Sáu năm Cảnh Thịnh nguyên niên

(1793) phong 1 đạo; ngày Mƣời sáu tháng Sáu năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) phong 1

đạo; ngày Mƣời bảy tháng Mƣời hai năm Tự Đức thứ 3 (1850) phong 1 đạo; ngày

mùng ba tháng Mƣời năm Tự Đức thứ 10 (1857) phong 1 đạo; ngày Hai mƣơi bốn

tháng Mƣời một năm Tự Đức thứ 33 (1880) phong 1 đạo; ngày mùng Một tháng

Bảy năm Đồng Khánh thứ 2 (1887) phong 1 đạo; ngày Mƣời tám tháng Mƣời một

năm Thành Thái nguyên niên (1889) phong 1 đạo; ngày Mƣời một tháng Tám năm

Duy Tân thứ 3 (1909) phong 1 đạo; ngày mùng Tám tháng Sáu nhuận năm Duy Tân

thứ 5 (1911) phong 1 đạo. Đặc biệt, theo Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội

tổng các xã thần sắc 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各 社 敕, Thƣ viện Viện Nghiên

cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A16/ 29, mục Thần sắc xã Vân Cát, ngoại trừ 01 sắc

phong cho Lý Nam Đế ngày Mƣời tám tháng Tƣ năm Cảnh Trị thứ 8 (1670), còn có

53

14 đạo sắc phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng Công chúa, Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh

cung Công chúa, Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Công chúa dƣới thời Lê, gồm: sắc

ngày mùng Ba tháng Bảy năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642), phong cho Liễu Hạnh Mã

Hoàng Công chúa; sắc ngày Mƣời tám tháng Tƣ năm Cảnh Trị thứ 8 (1670), phong

cho Liễu Hạnh Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi bốn tháng Sáu nhuận năm Chính

Hòa thứ 4 (1683), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng… Công chúa; sắc ngày mƣời

sáu tháng Hai năm Vĩnh Thịnh nguyên niên (1705), phong cho Mã Hoàng… Công

chúa; sắc ngày Mƣời hai tháng Bảy năm Bảo Thái thứ 3 (1722), phong cho Mã

Hoàng Công chúa; sắc ngày Mùng mƣời tháng Mƣời hai năm Vĩnh Khánh thứ 2

(1730), phong cho Mã Hoàng… Công chúa; sắc ngày Mƣời sáu tháng Hai năm

Long Đức thứ 2 (1733), phong cho Mã Hoàng Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi bảy

tháng Tám năm Vĩnh Hựu nguyên niên (1735), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng

Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi bảy tháng Giêng năm Cảnh Hƣng nguyên niên

(1740), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng… Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi tám

tháng Ba năm Cảnh Hƣng thứ 2 (1741), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung

Công chúa; sắc ngày mùng Tám tháng Tám năm Cảnh Hƣng thứ 28 (1767), phong

cho Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Công chúa; sắc ngày Mƣời sáu tháng Năm năm

Cảnh Hƣng thứ 44 (1783), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng… Công chúa; sắc ngày

Hai mƣơi hai tháng Ba năm Chiêu Thống nguyên niên (1786), phong cho Liễu

Hạnh Mã Vàng… Công chúa; sắc ngày mùng Bốn tháng Sáu năm Cảnh Thịnh

nguyên niên (1793), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng… Công chúa [177].

Ngoài hệ thống bia ký, đại tự, câu đối sắc phong kể trên, trong phủ còn có

một số văn khắc trên cấu kiện gỗ, chuông, đồ tế tự, con dấu và một số mẫu công

văn - sớ sách, khoa cúng…

Điển qua niên đại của các sắc theo bản kê khai, có thể nhận thấy, các sắc kể

trên của xã Vân Cát đều nằm trong khung niên đại từ nửa đầu thế kỷ XVII đến

khoảng nửa cuối thế kỷ XVIII. Theo đó, nhƣ có căn cứ để phỏng đoán, có lẽ, bản kê

khai này đƣợc thực hiện vào cuối thời Lê (không thể trƣớc năm 1793) hoặc đầu thời

Nguyễn (không có sự xuất hiện của các sắc thời Nguyễn). Tuy nhiên, khi nghiên

cứu kỹ về nội dung chi tiết và đặt trong khung lịch sử đƣơng đại, sẽ thấy một số

điểm “chênh” về tính xác thực lịch sử, cần phải có sự lý giải thỏa đáng. Về vấn đề

54

này, xin đƣợc trở lại làm rõ trong nội dung phần sau.

2.1.4.2. Tư liệu Hán Nôm tại phủ Tiên Hương:

+ Bia ký:

Tại Viện Thông tin khoa học xã hội hiện đang lƣu trữ tài liệu mang ký hiệu

kho: TSHN 2927: Bản kê bia xã Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh

Nam Định (南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 仙 鄉 社 碑 記), đƣợc chức sắc địa phƣơng

kê khai vào khoảng cuối thế kỷ XX. Tại thời điểm kê khai, phủ Chính (Tiên Hƣơng)

có 5 bia dựng ở bên trái phủ (mỗi bia đều 2 mặt) và 3 bia dựng ở bên phải phủ (mỗi

bia cũng đều 2 mặt), tộng cộng 8 bia, gồm: Bản huyện cúng ngân bi ký 本 縣 供 銀

碑 記 (Bia ghi việc cúng tiền của bản huyện), khắc ngày Mƣời tám tháng Sáu năm

Duy Tân thứ 8 (1914); Quan lại cúng ngân bi 官 吏 供 銀 碑 記 (Bia ghi việc cúng

tiền của quan lại), khắc ngày Mƣời tám tháng Sáu năm Duy Tân thứ 8 (1914); Dân

tộc cúng ngân bi ký 民 族 供 銀 碑 記 (Bia ghi việc cúng tiền của ngƣời trong họ),

khắc ngày Mƣời tám tháng Sáu năm Duy Tân thứ 8 (1914); Biền hội phụng điền bia

弁 會 奉 田 碑 (Bia ghi việc cúng ruộng của Hội Biền binh), khắc ngày Hai mƣơi

bốn tháng Hai năm Minh Mệnh thứ 15 (1834); Tiên Hƣơng linh từ bi 仙 鄉 靈 詞

碑 (Bia đền thiêng Tiên Hƣơng), khắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Thành Thái

thứ 4 (1893); Thập phƣơng cúng ngân bi ký 十 方 供 銀 碑 記 (Bia ghi việc cúng

tiền của thập phƣơng), khắc ngày Mƣời tám tháng Sáu năm Duy Tân thứ 8 (1914);

Cung tiến điền thạch bi 恭 薦 田 石 碑 (Bia đá ghi việc cúng ruộng), khắc ngày

mùng Mƣời tháng Tƣ năm Minh Mệnh thứ 9 (1828); Bản hƣơng điền bi 本 鄉 田 碑

(Bia ghi về ruộng đất của bản hƣơng), khắc ngày mùng Bảy tháng Ba năm Thành

Thái thứ tƣ (1893).

Cũng nhƣ nội dung kê khai văn bia đƣơng thời của nhiều địa phƣơng khác,

Bản kê bia xã Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định chỉ kê

đƣợc số lƣợng văn bia, liệt kê tên bia, kèm theo đó là thời điểm khắc, không đề cập

cụ thể đến nội dung văn bia.

Theo kết quả khảo sát thực địa của Dƣơng Văn Vƣợng, tại thời điểm ông

khảo sát, ở phủ Tiên Hƣơng còn 15 bia ký, đƣợc dựng tập trung trong hai tòa

55

phƣơng du, mang niên đại trong khoảng thời Nguyễn (thế kỷ XIX - XX), gắn với

lịch sử hình thành và tồn tại của phủ. Hiện nay, vị trí các bia vẫn đƣợc yên vị tại đó

nhƣng do tác động của nhiều yếu tố, một số bia đã khá mờ, khó có thể nhận diện

đƣợc hết nội dung văn tự.

Kết quả khải cứu, phiên dịch của ông cũng đã đƣợc tập hợp và công bố trong

sách Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua tư liệu Hán Nôm [51]. Trên nền kết

quả này, có thể điểm qua về nội dung cơ bản của văn bia tại phủ Vân Cát sau:

1). Biền hội phụng điền bi 弁 會 奉 田 碑 - Bia cúng ruộng của Hội Biền

binh, khắc năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), do Tri phủ phủ Nghĩa Hƣng

Nguyễn Văn Nghị soạn, với nội dung lƣợc thuật nhƣ sau: Kính ngƣỡng

đền thiêng, đội ơn Thần nữ mà mỗi khi ra biển vào bờ luôn gặp gió

thuận, trời quang, sóng yên, biển lặng, Hội Biền binh thủy quân cung

tiến vào đền số ruộng 1 mẫu 6 sào, 1 đôi tàn màu hồng, 1 chiếc quán tẩy,

1 chiếc sập đá để bày tỏ nỗi niềm, mong tiếp tục nhận đƣợc sự chở che

của Thánh Mẫu.

2). Cung tiến thạch bi 供 進 石 碑 - Bia ghi việc cung tiến, khắc năm

Minh Mệnh năm thứ 19 (1838), ghi việc thanh đồng Nho cung tiến cho

phủ số ruộng 2 sào 6 thƣớc - trị giá 30 quan, lại công đức lo việc dựng

phủ 30 quan cổ tiền, xây xựng bậc đá 100 quan, thanh đồng Hƣơng công

đức 2 quan, thanh đồng Danh công đức 10 quan…

3). Bia không đề, khắc năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), ghi việc ông

Nguyễn Đăng Dung, ngƣời xã Tái Dƣơng, tổng Bằng Lăng, huyện

Thƣợng Phúc, phủ Thƣờng tín tỉnh Hà Nội cùng với vợ con cúng tiến

xây dựng phủ 42 quan; Nguyễn Xuân Hào, Chánh tổng tổng Trọng Vĩnh,

huyện Đại An cung tiến dựng phủ 10 quan, xây bậc đá 5 quan…

4). Bia không đề, khắc năm Tự Đức thứ 14 (1861), do Tiến sĩ Trần Huy

Côn, ngƣời Thiên Bản soạn, ghi việc Vệ Trung Thủy ngẫm rằng, mỗi khi

ra khơi vào bến chẳng biết cầu vọng vào đâu, chỉ biết nƣơng nhờ cửa

Mẫu nên đã cúng ruộng cho phủ để lo giỗ Mẫu…

5). Cung tiến bi ký 供 進 碑 記 - Bia ghi việc cung tiến, khắc năm Tự

56

Đức năm thứ 19 (1866), ghi việc thủ từ của phủ Tiên Hƣơng là Cao Thị

Cẩn cùng dân và họ sửa đền, gồm thƣợng điện, nội điện, hành lang, xong

việc, khắc bia ghi tên ngƣời cúng tiền, trong đó có một nửa là lính thủy ở

Nam Định…

6). Tiến cúng điền bi 供 進 田 碑 - Bia cung tiến ruộng, dựng năm Thành

Thái thứ 4 (1892), ghi việc thủ từ phủ Chính là Ni Cẩn cùng thiện tín

thập phƣơng cúng ruộng cho phủ, trong đó có 3 mẫu 3 sào để dân sở tại

làm lễ và 3 sào giao cho Lý trƣởng gánh việc đốc lễ…

7). Bia không đề, khắc năm Thành Thái thứ 4 (1892), do Cửu phẩm

Phạm Đình Kỳ soạn, ghi việc, phủ Mẫu trong xã trƣớc đây vốn đã có

ruộng hƣơng hỏa nhƣng hoa lợi thu đƣợc không đủ làm lệ, hằng năm tiến

hành phải bổ bán hết sức vất. Vì vậy, quyết định để thêm số ruộng 2 mẫu

1 sào 7 thƣớc, lại thêm 600 quan tiền để cho vay lấy lãi làm giỗ Mẫu.

8). Dân tộc cúng ngân bi ký 民 族 供 銀 碑 記 - Bia ghi việc ngƣời trong

họ cúng tiền, khắc năm Duy Tân năm thứ 8 (1914), ghi tên những ngƣời

trong họ Trần cung tiến vào phủ, trong đó có chép: Trƣởng phái họ Trần

dòng dõi Mẫu là ông Trần Bình Hành - Cử nhân khoa Tân Mão, Huấn

đạo huyện Việt Yên, Hàn lâm viện Biên tu. Lầu vọng nguyệt, lầu

chuông, gác trống trƣớc cửa phủ vốn là ruộng của họ Trần, tổng diện tích

4 sào.

9). Bản huyện cúng ngân bi ký 本 縣 供 銀 碑 記 - Bia ghi việc công đức

tiền trong bản huyện, khắc năm Duy Tân thứ 8 (1914), ghi việc dân xã

Tiên Hƣơng cùng 12 tổng của huyện Vụ Bản, tổng Đồng Đội cúng tiền

vào việc tu sửa đền - phủ, đồng thời liệt kê rõ tên những ngƣời cung

tiến…

10). Thập phƣơng cúng ngân bi ký 十 方 供 銀 碑 記 - Bia ghi việc cúng

tiền công đức của thập phƣơng, khắc năm Duy Tân năm thứ 8 (1914),

ghi việc các thiện tín thập phƣơng cúng tiền tu bổ đền Chính - phủ Tiên

Hƣơng, trong đó có ông Đặng Văn Đốc, Chánh tổng tổng Vỉ Nhuế, nơi

57

Mẫu giáng sinh lần thứ nhất.

11). Quan lại cúng ngân bi ký 官 吏 供 銀 碑 記 - Bia ghi việc các quan

công đức tiền, khắc năm Duy Tân thứ 8 (1914), ghi tên quý quan đóng

góp tiền tu bổ đền Chính - phủ Tiên Hƣơng. Trong đợt tu bổ này, có sự

tham gia của ông Đoàn Triển, Tổng đốc Nam Định, cùng các vị Tổng

đốc, Tuần phủ ở Nghệ An, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hà Nam, Thái Bình,

các quan Đốc học, tiến sĩ về hƣu, các quan Học chính, các quan chủ chốt

của các tỉnh, huyện…

12). Bia không đề, khắc năm Duy Tân thứ 9 (1915), do Đoàn Triển,

Tổng đốc Nam Định soạn, ghi việc khi ông về Nam Định nhậm chức

Tổng đốc, ngƣời họ Trần trong làng đến trình việc xin tu bổ đền và mong

ông ủng hộ. Việc đƣợc chấp thuận, cùng tiến hành xây 4 tòa theo kiểu

mới, sửa 9 tòa lầu tả hữu vu, mở rộng tƣờng bao, đắp hoa biểu, tạo

nguyệt hồ. Trong đợt tu bổ này, những ngƣời đốc công gồm: Huấn đạo

huyện Việt Yên Trần Bình Hành, Tú tài Thanh Oai Nghiêm Đinh Dao và

Bắc Kỳ dân Hội nghị viên Trần Bá Hợp…

13). Tiên Hƣơng phủ từ tự điền bi ký 仙 鄉 府 祠 祀 田 碑 記 - Bia ghi

ruộng hƣơng hỏa đền - phủ Tiên Hƣơng, khắc năm Khải Định thứ 10

(1925), do Tri huyện Vụ Bản Đặng Huy Hoàn soạn, ca ngợi Thánh Mẫu

Tiên Hƣơng là vị thần nữ rất thiêng, giáng sinh xuống đất Thiên Bản.

Dƣới thời Lê, bà Trịnh Thái phi là ngƣời khởi xƣớng lập ra hội hoa

trƣợng để tạ ơn Mẫu, huyện hào có giao số ruộng tƣ diện tích 1 mẫu 8

sào 5 thƣớc cho dân sở tại canh tác lấy hoa lợi lo việc giỗ Mẫu.

14). Bản huyện tập phúc phả tự điền bi 本 縣 集 福 譜 記 田 碑 - Bia ghi

việc cúng ruộng phục vụ việc thờ tự của Hội Tập phúc trong huyện, khắc

năm Bảo Đại thứ 5 (1930), do Trần Lê Thăng, ngƣời làng soạn, ghi:

Dƣới thời Minh Mạng, tiền nhân cúng ruộng có khắc mộc bài biểu

dƣơng, lâu ngày mục nát, nay cho khắc bia ghi lại. Số ruộng vốn đã giao

cho dân sở tại canh tác lấy hoa lợi lo việc giỗ Mẫu vào mùng Ba tháng

Ba, gồm 1 mẫu 5 sào. Cỗ giỗ gồm có 1 lợn con và 100 bánh giày, cùng

58

hoa quả tùy theo điều kiện…

15- Vụ Bản huyện biền bi ký 務 本 縣 弁 碑 記 - Bia ghi việc Hội Biền

binh huyện Vụ Bản, khắc năm Bảo Đại thứ 9 (1934), do Trần Xuân

Thiều, Đốc học Bắc Ninh đã về hƣu soạn, ghi việc: Trƣớc đây, các biền

binh đã cúng ruộng lo việc giỗ Mẫu, mỗi khi tế lễ còn đƣợc biếu lộc. Nay

lại cúng thêm 5 sào và 20 đồng để sửa vọng lâu, lầu chuông, gác trống…

+ Đại tự, câu đối:

Cũng theo kết quả khảo sát của Dƣơng Văn Vƣợng, tại thời điểm ông khảo

sát, ở phủ Tiên Hƣơng hiện còn lƣu giữ 15 bức đại tự và hàng chục câu đối, một số

cuốn thƣ cổ sơn son thếp vàng ca ngợi thân thế, công lao, đức hạnh của Thánh Mẫu

để tỏ lòng kính ngƣỡng của thiện tín thập phƣơng đối với Mẫu.

Gần đây, trong phủ, đã bổ sung thêm khá nhiều hoành phi câu đối mới đƣợc

cung tiến hoặc đắp lại trên nghi môn, cột biểu trong những lần trùng tu gần đây. Về

nội dung và hình thức, đại tự, cuốn thƣ, câu đối tại phủ Tiên Hƣơng cũng rất phong

phú, đa dạng, tập trung ca ngợi Thánh Mẫu, bày tỏ niềm tin, sự kính ngƣỡng Thánh

Mẫu, đặc biệt, còn có một số đại tự do ngƣời Hoa cung tiến, tiêu biểu nhƣ:

Từ ân viễn tí 慈 恩 遠 庇 - Mây lành che phủ muôn nơi.

(Đại tự do Lâm Thông Ký kính dâng năm Tự Đức thứ 31 - 1878).

Từ vân phúc hải 慈 恩 覆 海 - Mây lành che phủ biển khơi.

(Đại tự do Trầm Bính Thành kính dâng năm Quang Tự thứ 19 - 1893)

三 世 輪 迴 于 潙 汭 于 雲 葛 于 峨 山 五 百 餘 年 光 實 錄,

歷 朝 葩 袞 為 帝 女 為 大 王 為 眾 母 亿 千 萬 古 奠 名 邦.

Tam thế luân hồi, vu Vỉ Nhuế, vu Vân Cát, vu Nga Sơn, ngũ bách dƣ niên

quang thực lực,

Lịch triều ba cổn, vi đế nữ, vi đại vƣơng, vi chúng mẫu, ức thiên vạn cổ điện

danh bang.

Ba kiếp luân hồi, xuống Vỉ Nhuế, xuống Vân Cát, xuống đất Nga Sơn, hơn

năm trăm năm qua, sự tích mãi sáng ngời thực lục,

Các triều phong tặng, là con vua, là đại cương, là mẹ tối thượng, dẫu ngàn

59

vạn năm sau, tiếng tăm vẫn vang dội nhân gian.

(Câu đối do Lê Hy Vĩnh, Đốc học tỉnh Thanh Hóa soạn, khắc năm Quý Sửu -

1913).

母 德 本 無 私 但 願 開 众 智 警 群 頑 声 教 五 洲 仝 進 化,

仙 靈 亦 非 幻 惟 此 敦 子 綱 循 歸 道 孝 貞 二 字 尚 傳 名.

Mẫu đức bản vô tƣ, đãn nguyện khai chúng trí, cảnh quần ngoan, thanh giáo

ngũ châu đồng tiến hóa,

Tiên linh diệc phi ảo, duy thử đôn tử cƣơng, tuần quy đạo, hiếu trinh nhị tự

thƣợng truyền danh.

Đức mẹ vốn vô tư, nguyện mở trí, dẹp ngu hèn, mở giáo pháp sánh cùng năm

châu lục,

Dấu tiên nào huyễn ảo, gắng tu tập, giữ cương thường, đạo hiếu trinh hai

chữ giúp rạng danh.

(Câu đối do Từ Đạm, giữ chức Thị lang - Án sát sứ tỉnh Nam Định soạn,

khắc năm Quý Sửu - 1913).

+ Sắc phong:

Theo Bản kê thần sắc: Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng, Tiên

Hƣơng xã thần sắc 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 仙 鄉 社 神 敕, ký hiệu TTHN518,

niên đại cuối thế kỷ XX (Bản kê thần sắc xã Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ

Bản, tỉnh Nam Định), tại thời điểm kê khai, xã Tiên Hƣơng từng đƣợc triều đình

nhà Nguyễn ban tặng 13 đạo sắc phong của các vua Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự

Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, cụ thể nhƣ sau: Ngày Hai mƣơi mốt

tháng Bảy năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) phong 1 đạo; ngày Mƣời sáu tháng Sáu

năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) phong 1 đạo; ngày Mƣời sáu tháng Bảy năm Thiệu Trị

thứ 6 (1846) phong 1 đạo; ngày Mƣời bảy tháng Mƣời hai năm Tự Đức thứ 3

(1850) phong 2 đạo; ngày Hai mƣơi bốn tháng Mƣời một năm Tự Đức thứ 33

(1880) phong 2 đạo; ngày mùng Một tháng Bảy năm Đồng Khánh thứ 2 (1887)

phong 2 đạo; ngày Mƣời tám tháng Mƣời một năm Thành Thái nguyên niên (1889)

phong 2 đạo; ngày Mƣời một tháng Tám năm Duy Tân thứ 3 (1909) phong 2 đạo.

Hiện tại, trong phủ Tiên Hƣơng đang lƣu giữ 15 đạo sắc nằm trong khung

60

niên đại từ thế kỷ XVIII - XX, gồm: Sắc ngày mùng Mƣời tháng Mƣời hai năm

Vĩnh Khánh thứ 2 (1730), phong cho Liễu Hạnh Công chúa; sắc ngày mùng Tám

tháng Tám năm Cảnh Hƣng thứ 28 (1767), phong cho Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung

Duy Tiên Công chúa; sắc ngày Mƣời sáu tháng Năm niên hiệu Cảnh Hƣng thứ 44

(1783), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng Công chúa; sắc ngày Mƣời sáu tháng Năm

niên hiệu Cảnh Hƣng thứ 44 (1783), phong cho Quế Hoa Công chúa; sắc ngày

Mƣời sáu tháng Năm niên hiệu Cảnh Hƣng thứ 44 (1783), phong cho Duy Tiên

Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi mốt tháng Bảy năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), phong

cho Liễu Hạnh Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi mốt tháng Bảy năm Minh Mệnh thứ

2 (1821), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Hoa Công chúa; sắc ngày

Hai mƣơi tháng Năm năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), phong cho Liễu Hạnh Công chúa;

sắc ngày Hai mƣơi tháng Năm năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), phong cho Đệ tam Ngọc

nữ Quảng cung Quế Anh Phu nhân; sắc ngày Hai mƣơi bốn tháng Mƣời một năm

Tự Đức thứ 33 (1880), phong cho Liễu Hạnh Công chúa, Duy Tiên Phu nhân và

Quế Anh Phu nhân; sắc ngày mùng Một tháng Bảy năm Đồng Khánh thứ 2 (1886),

phong cho Liễu Hạnh Công chúa, Duy Tiên Phu nhân và Quế Anh Phu nhân; sắc

ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định thứ 2 (1917), phong cho Thân phụ Lê Đức

Chính; sắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định thứ 2 (1917), phong cho Thân

mẫu Trần Thị Phúc; sắc ngày Hai mƣơi nhăm tháng Bảy năm Khải Định thứ 9

(1924), phong cho Thân phụ Lê Đức Chính; sắc ngày Hai mƣơi nhăm tháng Bảy

năm Khải Định thứ 9 (1924), phong cho Thân mẫu Trần Thị Phúc.

Nhƣ vậy, điểm đặc biệt, là trong hệ thống sắc phong hiện còn tại phủ Tiên

Hƣơng, ngoài các sắc phong cho mẫu Đệ nhất Liễu Hạnh Công chúa, Đệ nhị Ngọc

nữ Quỳnh cung Duy Tiên Công chúa, Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Hoa Công

chúa, còn có những sắc phong cho thân phụ và thân mẫu của Mẫu Liễu Hạnh, đồng

thời giao trách nhiệm cho xã Tiên Hƣơng và họ Trần Lê cùng lo việc thờ tự vào

cuối thời Nguyễn.

Ngoài hệ thống bia ký, đại tự, câu đối, sắc phong kể trên, trong phủ Tiên

Hƣơng còn có một số văn khắc trên cấu kiện gỗ, chuông, đồ tế tự, con dấu và một

số mẫu công văn - sớ sách, khoa cúng…

61

Qua đối chiếu, so sánh, có thể nhận thấy, tại thời điểm kê khai vào cuối thế

kỷ XX (Bản kê thần sắc xã Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam

Định), xã Tiên Hƣơng chỉ kê 13 đạo sắc do triều Nguyễn phong tặng, thuộc các

niên hiệu Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân,

trong khi tại di tích phủ Tiên Hƣơng ngày nay, số sắc còn có thể kiểm đếm đƣợc lại

phong phú đa dạng hơn nhiều. Ngoại trừ một số sắc đã đƣợc kê khai vào khoảng

cuối thế kỷ XX nhƣ đã kể trên (một số đã mất hoặc thất lạc), còn 05 đạo sắc thời Lê

Trung hƣng và 04 đạo sắc đƣợc phong dƣới thời Khải Định.

2.1.4.3. Tư liệu Hán Nôm tại lăng Mẫu Liễu Hạnh

Theo văn bia Sùng tu Thánh lăng bi ký, lăng Mẫu Liễu Hạnh, với kết cấu

hoàn toàn bằng đá, do đệ tử Hội Đào chi, đền Phổ Hóa, kinh đô Phú Xuân cùng với

đồng quan Trần Vũ Thực trùng tu năm Mậu Dần (1938) niên hiệu Bảo Đại, có bình

đồ vuông, với 5 vòng tƣờng bổ trụ vuông, trên trụ tạc hình bút sen. Trong khuôn

viên lăng còn có nhà bia và lầu thờ cô và cậu. Trên mỗi mặt của vòng tƣờng đều trổ

cửa ở chính giữa, hƣớng vào trung tâm - mộ phần hình bát giác. Trên các mặt trụ

khắc câu đối chữ Hán Nôm ca ngợi công lao, đức hạnh của Thánh Mẫu và tên

ngƣời cung tiến, tiêu biểu nhƣ:

生 化 卒 𠀧 番 貞 孝 𦎛 撩 沔 郡 北,

精 神 𠄼 𤾓 礼 英 靈 𩄴 𤎔 准 城 南.

Sinh hóa suốt ba phen, trinh hiếu gương treo miền quận Bắc,

Tinh thần năm trăm lẻ, anh linh bóng rạng chốn thành Nam.

色 色 空 空 仙 聖 佛,

生 生 化 化 孝 貞 慈.

Sắc sắc không không Tiên, Thánh, Phật,

Sinh sinh hóa hóa hiếu, trinh, từ.

Có có, không không, là Tiên, là Thánh, là Đức Phật,

Sinh sinh, hóa hóa, hiếu thuận, trung trinh lại từ bi.

慈 愛 一 心 人 孺 慕,

孝 貞 千 古 女 英 風.

62

Từ ái nhất tâm nhân nhụ mộ,

Hiếu trinh thiên cổ nữ anh phong.

Một lòng từ ái người ngưỡng mộ,

Ngàn năm trinh hiếu nữ phong lưu.

Ngoài ra, trong khuôn viên lăng còn có bia Sùng tu Thánh lăng bi ký, chữ

Nôm, khắc thơ giáng bút của Mẫu Liễu Hạnh giao phó và khen ngợi đệ tử Hội Đào

chi, đền Phổ Hóa, kinh đô Phú Xuân công đức sửa lăng và một bia khắc đôi câu đối

của đồng Quan Trần Vũ Thực nhân dịp khánh thành việc trùng tu lăng Mẫu:

母 儀 望 重 瑰 山 石,

子 育 恩 覃 渭 水 波.

Mẫu nghi vọng trọng Côi sơn thạch,

Tử dục ân đàm Vị thủy ba.

Ngưỡng vọng bậc Mẫu nghi đá núi Côi in dấu,

Đệ tử gội ơn sâu nước sông Vị dạt dào.

2.1.4.4. Tư liệu Hán Nôm tại nhà thờ họ Trần Lê

Kết quả khảo sát thực địa cho thấy, trong nhờ thờ họ Trần Lê hiện còn hàng

chục bộ hoành phi - câu đối, hệ thống bài vị, biển nghi trƣợng, 03 tập gia phả (Thƣ

lâu phả ký 書 樓 譜 記, ghi chép gia phả họ Lê ở xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ

Nghĩa Hƣng - Ông tổ dòng họ là Lê Quý Công, tự Phúc Tiên. Mẫu Liễu Hạnh thuộc

đời thứ 4. Sau khi Mẫu giáng sinh, họ này đổi sang họ Trần…; Trần Lê gia phả 陳

黎 家 譜, kế thừa nội dung “Thƣ lâu phả ký”, tiếp tục biên chép gia phả họ Lê xã

An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng…; Lê tộc lịch đại ngọc phả 黎 族 歷

代 玉 譜, tiếp tục kế thừa nội dung “Thƣ lâu phả ký”, “Trần Lê gia phả” biên chép

gia phả họ Lê ở xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng… Cuối phả có bài

ký “Tiên từ thắng ký” (Bài ký về ngôi đền thờ tiên), tức đền thờ Mẫu Liễu Hạnh...),

01 bia ký, 01 chuông đồng… có khắc chữ Hán Nôm gắn với lịch sử của phủ. Đặc

biệt là 07 đạo sắc phong mang niên đại trong khoảng nửa cuối thế kỷ XVII đến nửa

đầu thế kỷ XX, gồm: Sắc ngày Hai mƣơi bốn tháng Sáu nhuận năm Chính Hòa thứ

63

4 (1683)5, phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng Tề Gia Trị Quốc Hộ Sĩ Cẩn Tiết Hòa

Mỹ Đoan Trang Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi tám tháng Ba năm Cảnh Hƣng thứ

2 (1741), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi

hai tháng Ba năm Chiêu Thống nguyên niên (1786), phong cho Liễu Hạnh Mã

Vàng… Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi tám tháng Sáu năm Thiệu Trị Thứ 4 (1844),

phong cho Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân; sắc ngày Mƣời bảy

tháng Mƣời năm Tự Đức thứ 5 (1852), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung

Quế Anh Phu nhân; sắc ngày Mƣời một tháng Tám năm Duy Tân thứ 3 (1909),

phong cho Dực Bảo Trung Hƣng Đế Thích Tiên Đình Liễu Hạnh Công chúa

Thƣợng đẳng thần, Dực Bảo Trung Hƣng Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên

Phu nhân Trung đẳng thần, Dực Bảo Trung Hƣng Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung

Quế Anh Phu nhân Trung đẳng thần; sắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định

thứ 2 (1917), phong cho Đế Thích Tiên Đình Ngọc nữ Liễu Hạnh Công chúa.

5 Về sắc phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng Tề Gia Trị Quốc Hộ Sĩ Cẩn Tiết Hòa Mỹ Đoan Trang Công chúa 1683, hiện tạm đƣợc coi là “chân bản” khẳng định tƣ cách chính tự của Mẫu Liễu Hạnh tại phủ Giày. Một kết quả nghiên cứu đã đƣợc tác giả Chu Xuân Giao công bố trên Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số 5 (148). 2018, với nhan đề “Căn cước lịch sử của Thánh Mẫu: Phát hiện và luận giải đạo sắc phong cổ nhất mang niên đại 1683 cho Liễu Hạnh công chúa hiện còn nguyên tại phủ Giầy ở Nam Định” (Còn nữa). Tại thời điểm khảo sát đầu năm 2018, nghiên cứu sinh lần đầu có cơ hội tiếp xúc với nhóm tƣ liệu sắc phong gắn với Mẫu Liễu Hạnh tại nhà thờ họ Trần Lê, trong đó, có sắc phong đang đƣợc coi là mang niên đại 1683. Trong quá trình khảo sát đƣợc biết, nhóm nghiên cứu của tác giả Chu Xuân Giao cũng mới xuống đây khảo sát và tiếp xúc với nhóm tƣ liệu này cách đó ít hôm. Sau khảo sát, nghiên cứu sinh xử lý tài liệu, khảo cứu độc lập. Đến tháng 6/2018, nghiên cứu sinh cơ bản đã xử lý và dịch xong tƣ liệu Hán Nôm tại nhà thờ Trần Lê và chuyển giao toàn bộ file cho Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, đồng thời, tập hợp thành một quyển mang tựa đề, Sắc phong, gia phả nhà thờ dòng họ Trần Lê (thôn Tiên Hương, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định), gồm các tập: Phả ký lầu sách (Thư lâu phả ký), Gia phả họ Trần Lê (Trần Lê gia phả), Ngọc phả các đời họ Lê (Lê tộc lịch đại ngọc phả), Tiên từ thắng ký (Truyện ngôi đền thờ tiên), Đơn gửi Ngài Công sứ Nam Định và Tiên từ phả ký (Truyện ngôi đền thờ tiên - GS. Kiều Thu Hoạch dịch), tổng cộng 171 trang, gồm phần dịch nghĩa và ảnh chụp nguyên văn gửi về phủ Tiên Hƣơng và nhà thờ dòng họ Trần Lê, bởi khi chúng tôi khảo sát, thủ từ phủ Tiên Hƣơng và các cụ có trách, các đoàn từ Trung ƣơng tới địa phƣơng cứ đến nghiên cứu, xong rồi đi, sau chúng tôi chẳng biết gì về tƣ liệu cả. Từ thời điểm xử lý tƣ liệu, đối với đạo sắc đang bàn, với tình trạng rách nát, dòng niên đại gần nhƣ bị mất hết. Qua các thao tác xử lý, nghiên cứu sinh chú thích rõ: “Sắc bị tàn khuyết, mất nhiều chữ. Tại dòng ghi niên đại, phía trên mất 2.5 chữ (trong đó, 2 chữ trên ghi niên hiệu; 0.5 chữ mất (ở dưới) hợp với 0.5 chữ còn lại là chỉ số ghi năm của niên hiệu). Căn cứ đặc điểm hoa văn, văn tự, thông lệ về các thời điểm phong sắc trong lịch sử, cùng tư liệu khảo sát điền dã tại di tích, chúng tôi đoán định, sắc này mang niên đại: Chính Hòa tứ niên nhuận lục nguyệt nhị thập tứ nhật (ngày 24 tháng 6 nhuận năm Chính Hòa thứ tư)”. Qua đây, để cùng thấy rằng, phát hiện và nghiên cứu của nghiên cứu sinh và tác giả Chu Xuân Giao là hoàn toàn mang tính độc lập. Lý do, nghiên cứu sinh mới chỉ coi niên đại này là kết quả đoán định, bởi vẫn tồn tại nghi vấn: Lòng sắc có hiện tƣợng chép thừa chữ “Tinh” - Cụm từ “Chƣởng quản Sơn tinh bộ” bị chép thành “Chƣởng quản Sơn tinh tinh bộ” khiến nội dung trở nên tối nghĩa. Nội dung chú thích này cũng đƣợc giữ nguyên khi xuất bản Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua Tư liệu Hán Nôm - Xem thêm: [51, tr. 356- 357].

Ngoài hệ thống bia ký, đại tự, câu đối, sắc phong kể trên, trong phủ còn có

64

một số văn khắc trên cấu kiện gỗ, chuông, đồ tế tự, con dấu và một số mẫu công

văn - sớ sách, khoa cúng, đơn thƣ liên quan đến việc kiện tụng về tranh chấp phủ

vào cuối thờ Nguyễn cho đến gần đây…

2.1.4.5. Tư liệu Hán Nôm tại đền Cây Đa Bóng (Nguyệt Du từ/cung)

Theo truyền thuyết dân gian và văn bia tại đền: Nguyệt Du từ bi ký 月 遊 詞

碑 記 - Bia đền Nguyệt Du và Nguyệt Du Cung từ bi ký 月 遊 宮 詞 碑 記 - Bia đền

Nguyệt Du Cung, khắc năm Bảo Đại 4 (1929), đền này khởi dựng từ thời Lê, đƣợc

trùng tu dƣới thời Thành Thái (1889 - 1906). Tuy nhiên, kiến trúc đền hiện nay chủ

yếu là kết quả trùng tu của các năm 1980, 2000 và 2012. Về tƣ liệu Hán Nôm tại

đền, ngoài 2 văn bia kể trên, còn tấm bia Tiên Hƣơng Thái Linh từ bi ký 仙 鄉 泰

靈 祠 碑 記 - Bia đền Thái Linh ở Tiên Hƣơng, khắc năm Bảo Đại thứ 10, ghi việc

dựng đền dƣới sự hƣng công của ngƣời họ Trần. Ngoài ra, trong đền còn hàng chục

bộ hoành phi câu đối sơn son thếp vàng và một số câu đối nhấn vữa trên cột nghi

môn, một số văn khắc trên cấu kiện gỗ, chuông, đồ tế tự, con dấu và một số mẫu

công văn - sớ sách, khoa cúng…, chủ yếu là sản phẩm đƣợc làm gần đây.

2.2. Hƣớng tiếp cận nội dung tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu

Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ theo loại hình văn bản

Qua khảo sát, thống kê, phân tích, bƣớc đầu đã sơ bộ phân loại tƣ liệu Hán

Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ theo

loại hình nhƣ đã đề cập sơ bộ mở mục trên. Theo đó, tƣơng ứng với tập hợp các văn

bản đƣợc in hoặc viết trên giấy, cơ bản có thể phân thành các nhóm sau: Giáng bút

(kinh giáng bút và thơ văn giáng bút), phả lục, thần tích, văn chầu, thần sắc, công

văn, linh thiêm/tiêm, khoa nghi, các loại hình khác và khảo cứu. Với văn khắc, có

thể phân thành các nhóm: đại tự, câu đối, bia ký, minh chuông, ván khắc (in kinh

sách), ấn triện (con dấu) đang bảo quản tại ở di tích. Đƣơng nhiên, cách phân loại

này cũng chỉ mang tính chất tƣơng đối. Xin đơn cử một vài dẫn dụ cụ thể: Hệ hống

giáng bút còn lại trên giấy, chủ yếu là tác phẩm đƣợc khắc in, theo đó, về nội dung

văn bản, đƣơng nhiên, bản in không có sự sai lạc so với ván khắc, hoặc cũng có thể

xếp văn bia Sùng tu thánh lăng bi ký tại lăng Mẫu Liễu Hạnh vào loại giáng bút, bởi

65

nội dung này đƣợc cho là lời giáng bút của Mẫu Liễu Hạnh, do các đệ tử khắc lại

trên bia đá (Theo nội dung văn bia). Tƣơng tự, theo cách hiểu đơn thuần, cũng có

thể tạm xếp Cát thiên tam thế thực lục vào loại hình giáng bút hoặc thần tích, bởi

nội dung chính đƣợc khắc - in trong sách này đƣợc cho là tập hợp văn giáng bút của

Mẫu Liễu Hạnh, cùng ấn chứng/bút phê của Trần Hƣng Đạo, Nguyễn Bỉnh

Khiêm… xác thực lại sự tích của Mẫu Liễu Hạnh, đƣợc các đệ tử ghi chép, biên tập

lại, chế bản in thành sách (Theo nội dung sách).

Điều quan trọng nhất là mọi hƣớng tiếp cận nội dung tƣ liệu Hán Nôm nói

chung, tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam

phủ, Tứ phủ nói riêng, trƣớc hết cần phải giải quyết những vấn đề về văn bản học

nhằm tái tạo lại nguyên bản, đồng thời, chỉ ra đƣợc quá trình định bản và truyền

bản, cũng nhƣ cốt lõi lịch sử và yếu tố thần kỳ... Theo đó, nhiệm vụ chính của các

thao tác là tập hợp phân tích, so sánh văn bản, bóc tách sự kiện lịch sử để phục

nguyên văn bản…, tạo cơ sở cho các bƣớc nghiên cứu tiếp theo.

2.2.1. Nhóm tư liệu Hán Nôm trên giấy

2.2.1.1. Nhóm tư liệu giáng bút

Trong bối cảnh lịch sử - xã hội cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, năm 1858,

quân viễn chinh Pháp và Tây Ban Nha đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng khởi đầu

cho công cuộc xâm lƣợc Việt Nam. Đến ngày 6/6/1884, hòa ƣớc Pa - tơ - nốt đƣợc

ký kết giữa triều đình Huế và thực dân Pháp, tạo bƣớc ngặt cho việc xác lập quyền

đô hộ của Pháp ở Việt Nam, chia nƣớc ta thành ba miền, với ba chế độ khác nhau.

Sau hòa ƣớc này, vai trò thống trị của triều đình Nguyễn đƣợc xem nhƣ đã hoàn

toàn sụp đổ, hệ tƣ tƣởng Nho giáo dần mất vị trí và vai trò dẫn dắt xã hội, văn hóa

dân tộc bƣớc vào thời kỳ “mƣa Á - gió Âu”. Đó là một trong những nguyên do cơ

bản khiến đội ngũ trí thức Nho học quay lại với văn hóa tín ngƣỡng bản địa nhằm

truyền bá tƣ tƣởng, chủ nghĩa yêu nƣớc và giải phóng tinh thần… Sự hƣng thịnh

của phong trào thiện đàn trong khoảng cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX ở nhiều

tỉnh thành trong nƣớc nhƣ: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dƣơng, Nam Định, Vĩnh Yên…

là minh chứng cụ thể.

Có thể tạm hiểu, thiện đàn là tổ chức dựa vào hoạt động tôn giáo, tín

66

ngƣỡng, dựa vào sự bảo trợ của các vị thần, tiên, phật, thánh nhằm hƣớng tín đồ bỏ

điều ác, làm điều lành, cảnh giới, răn dè con ngƣời về đƣờng phúc họa, nhất quán

với niềm tin ở hiền thì gặp lành, gieo ác thì gặp ác…

Hình thức tuyên truyền chủ yếu của thiện đàn là hoạt động giáng bút, thông

qua các nghi lễ “cầu kinh giáng bút” ở các chùa, miếu, đền, phủ, quán... Thông

thƣờng, mỗi tác phẩm giáng bút, đều đƣợc gán cho đích danh một vị thần, tiên,

phật, thánh cụ thể, thậm chí còn có các vị khác tham gia ấn chức/xác thực, nhƣ

trƣờng hợp Cát thiên tam thế thực lục, đƣợc cho là của Mẫu Liễu Hạnh, có “bút

phê” của Trần Hƣng Đạo, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Theo đó, dƣới tƣ duy tôn giáo tôn

giáo, tín ngƣỡng, các tín đồ sẽ quan niệm, kinh văn giáng bút là những tác phẩm do

các bậc thần, tiên, phật, thánh ban giáng nhằm răn dạy, cảnh giới tín đồ hƣớng theo

chính đạo, ngƣời “cầu kinh giáng bút” chỉ giữ vai trò là cầu nối truyền tải lời của

thần, tiên, phật, thánh xuống nhân gian. Chủ thể sáng tạo kinh giáng bút có thể

thuộc hệ thần Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo, Thánh Mẫu, các vị thần, Thành hoàng

và một số nhân vật lịch sử. Tuy nhiên, dƣới góc độ khoa học thực chứng thì kinh

văn giáng bút thực chất là văn thơ ứng tác của những ngƣời “cầu kinh giáng bút”

qua quá trình thực hành văn hóa tôn giáo, tín ngƣỡng. Chính họ mới thực sự là chủ

thể sáng tạo, dựa vào sự bảo trợ của các vị thần, tiên, phật, thánh dể tuyên truyền và

thể hiện tƣ tƣởng của chính họ.

Với nhóm kinh văn giáng bút thuộc tín ngƣỡng thờ Mẫu, đa số đều đƣợc gán

cho là giáng bút của chƣ vị Thánh Mẫu hoặc các Chúa bà, Công chúa… Qua một số

đặc trƣng cơ bản của kinh văn giáng bút, có thể thấy rằng, ít nhất sẽ có hai hƣớng

tiếp cận nhóm tƣ liệu giáng bút, đó là hƣớng tiếp cận từ góc độ văn hóa tôn giáo, tín

ngƣỡng, coi kinh văn giáng bút là lời giáng của thần linh; và, hƣớng tiếp cận dƣới

góc độ khoa học thực chứng, coi kinh văn giáng bút thuộc thể loại ứng tác tâm linh

của con ngƣời. Tuy nhiên, cho dù tiếp cận theo hƣớng nào thì cũng cần thống nhất

về nhận thức, đó là: kinh văn giáng bút từng giữa vai trò là một phƣơng thức truyền

bá chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa yêu nƣớc, liên kết tinh thần củng cố khối đại

đoàn kết xã hội, đồng thời là phƣơng tiện truyền tải tƣ tƣởng của một số tôn giáo,

tín ngƣỡng qua hoạt động tâm linh ở nƣớc ta, nhằm mục đích hƣớng con ngƣời theo

67

chính đạo, bỏ điều ác, làm điều lành, cảnh giới, răn dè con ngƣời về đƣờng phúc

họa, nhất quán về niềm tin vào lẽ sống ở hiền thì gặp lành, gieo ác thì gặp ác…

2.2.1.2. Nhóm tư liệu phả lục

Về sự tích của các vị thần, qua truyền miệng dân gian và nội dung văn bản

đƣợc định bản trong thần tích, phả lục, khó có thể phủ nhận sự tƣơng đồng về nội

dung cơ bản của ba hình thức tuyền tải này. Vì thế mà có quan điểm xếp thần tích

vào nhóm phả lục hoặc coi phả lục cũng là thần tích. Tuy nhiên, khi xem xét cơ chế

sáng tạo và truyền miệng của thần tích trong dân gian, một đặc điểm dễ nhận thấy,

đó là tính thống nhất trong đa dạng (nhiều dị bản) của thần tích. Qua quá trình lƣu

truyền dƣới hình thức truyền miệng, nội dung thần tích vẫn luôn đƣợc bồi đắp,

chỉnh lý theo ý thức chủ quan của ngƣời kể hoặc kê khai. Điều này có nghĩa là

truyền thuyết dân gian đƣợc lƣu truyền dƣới hình thức truyền miệng luôn ở trong

quá trình định bản, tức là vẫn ở trong quá trình sáng tác, hoàn thiện, bổ sung. Trong

khí đó, sau khi thần tích đƣợc định bản dƣới hình thức chép tay hoặc in khắc, văn

bản sẽ bƣớc vào thời kỳ tƣơng đối ổn định, từ cấu trúc, nội dung đến chi tiết. Có lẽ,

xuất phát từ chính nhu cầu định bản, kê khai, lƣu giữ lâu dài… mà các thần tích vốn

đƣợc truyền miệng dần đƣợc văn bản hóa và đƣợc định danh thể loại là phả lục…

Nhƣ vậy, trong một chừng mực nào đó, phả lục (ghi chép thần phả về các vị

thần) đã định bản thần tích tại một thời điểm cụ thể, nhƣng một đặc trƣng đáng

đƣợc quan tâm, là việc thờ thần của ngƣời Việt, cơ bản đƣợc khu biệt trên nguyên

lý mà dân gian đã tổng kết: Trống làng nào làng ấy đánh/Thánh làng nào làng ấy

thờ. Theo đó, nội dung thần tích về vị thần đƣợc cộng đồng đang tôn thờ, trƣớc hết

phải đƣợc cộng đồng làng xã đó xác lập, thừa nhận, trao truyền trong phạm vi

những ngƣời liên quan thuộc cộng đồng để đảm bảo tính thiêng. Trong nhiều trƣờng

hợp, do tác động của điều kiện lịch sử - xã hội, nhƣ hiện tƣợng chuyển đổi tâm thức

văn hóa tín ngƣỡng diễn ra trong cộng đồng làng xã, có thể dẫn đến hiện tƣợng

cộng đồng làng xã thay việc phụng thờ một vị thần cũ bằng một vị thần mới, hoặc

phối thờ, hoặc hợp tự, khiến cho thần tích của vị thần cũ ít đƣợc quan tâm, bị phai

nhạt dần trong tâm thức cộng đồng. Khi đó, thần tích có thể bị giải thể chức năng

gốc, tức giải thể tính thiêng và trở thành một sáng tác văn học truyền miệng mang

68

yếu tố thần kỳ lƣu truyền trong dân gian…

Trong khoảng thế kỷ XIX - XX, một số thần tích đƣợc san khắc vào phục vụ

mục đích truyền bá văn hóa tôn giáo, tín ngƣỡng đƣợc coi là một hiện tƣợng văn

hóa đặc biệt ở nƣớc ta, giúp cho thần tích của một số vị thần vốn đã có chỗ đứng

trong dân gian đƣợc nhất quán về nội dung, đƣợc phổ biến rộng và nhanh hơn,

nhƣng cũng làm hạn chế phần nào đặc trƣng “đa dị bản” của hình thức truyền

miệng mà trƣờng hợp phả lục về Mẫu Liễu Hạnh (Vân Cát thần nữ lục, chép trong

Truyền kỳ tân phả, đƣợc cho là của Đoàn Thị Điểm) là một ví dụ điền hình, để sau

đó, trên nền cốt truyện này, hàng loạt làng xã có tục thờ Mẫu Liễu Hạnh đã sao y

hoặc thêm bớt một số chi tiết để định bản thần tích về Mẫu cho cộng đồng làng xã

mình, tạo tiền đề cơ sở cho việc xác lập ngôi chính tự (hợp thức hóa) trong việc

phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh…

Đến nay, hầu hết các công trình nghiên cứu về sự tích Mẫu Liễu Hạnh đều ít

nhiều đề cập đến “Vân Cát thần nữ lục” và coi đây là một bản nền để so sánh, quy

chiếu với các bản phả lục, thần tích và các tƣ liệu khác có liên quan bởi tính chân xác

về niên đại định bản (Lạc Thiện đƣờng tàng bản, khắc năm Gia Long thập niên - 1811)

[249]. Trong luận án này, việc lặp lại các thao tác nghiên cứu kể trên khi tìm hiểu về sự

tích Mẫu Liễu Hạnh cũng đƣợc nghiên cứu sinh hết sức chú trọng. Bên cạnh đó, vấn đề

khảo chứng, phân tích một số chi tiết nội dung truyện và đặt chúng trong bối cảnh lịch

sử, không gian văn hóa liên quan cũng đƣợc tiến hành, nhằm góp phần tách bạch các

lớp chồng lịch sử - văn hóa trong Vân Cát thần nữ lục và tục thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ

Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.

2.2.1.3. Nhóm tư liệu thần tích

Theo phân tích ở trên, nghiên cứu sinh đã đề cập tới một đặc điểm mang tính

nguyên lý về tục thờ thần trong cộng đồng làng xã Việt xƣa đƣợc dân gian xác lập:

Trống làng nào làng ấy đánh/Thánh làng nào làng ấy thờ. Theo đó, nội dung thần tích

về vị thần đƣợc một cộng đồng đang tôn thờ, trƣớc hết phải đƣợc cộng đồng làng xã

ấy xác lập, thừa nhận, trao truyền trong phạm vi những ngƣời liên quan thuộc cộng

đồng để đảm bảo tính thiêng. Chiểu theo nguyên lý này, việc tiếp cận thần tích về

Mẫu Liễu Hạnh của các cộng đồng làng xã có liên quan cần thừa nhận “tính dị bản”

69

nhƣ một tồn tại lịch sử. Mọi dẫn dụ hoặc kết luận đƣợc rút ra đều phải dựa trên sự

tham chiếu với tƣ liệu lịch sử và bối cảnh lịch sử - văn hóa đƣơng thời…

2.2.1.4. Nhóm tư liệu văn chầu

Qua khảo sát sơ bộ, nguyên văn các bản văn chầu thƣờng đƣợc viết bằng chữ

Nôm - văn vần, thể song thất lục bát. Văn chầu thƣờng đƣợc trình diễn cùng âm

nhạc và vũ đạo, với nội dung chủ yếu nhằm thỉnh mời chƣ thần giáng đàn chứng

lễ... Với đặc trƣng là một hình thức diễn xƣớng dân gian phục vụ tín ngƣỡng, lƣu

truyền qua hình thức truyền khẩu nên ban đầu, lời các bản văn chầu cũng mang tính

ứng tác rất cao. Trong dân gian vẫn lƣu truyền thuật ngữ 36 giá chầu văn, tức 36

bản văn của 36 giá, nhƣng trong thực tế, đây chỉ là con số ƣớc lệ.

Riêng với tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, Tiên thánh văn tập 仙 聖

文 集 - Tập văn chầu tiên thánh, ghi nhận số bài văn chầu cổ nhiều nhất, với 43 bài

[245]. Trong khi các tập văn chầu khác lại có số lƣợng khiêm tốn hơn, nhƣ Chư vị

văn chầu 諸 位 文 朝 - văn chầu các vị, ký hiệu Thƣ viện Hán Nôm AB.517, tập hợp

24 bản văn…

Qua nội dung văn chầu, có thể nhận diện đƣợc phần nào về vũ trụ quan tôn

giáo - tín ngƣỡng dân gian và hệ thần trong Tứ phủ, dung nhan, đức hạnh, tài năng,

công đức… của vị thần đƣợc dâng văn. Mặt khác, khi liên hệ rộng hơn, một giả

thiết để làm việc đƣợc đặt ra là: Văn chầu hay chầu văn là một thể văn bắt nguồn từ

văn tán, đƣợc định hình khá sớm, hiện vẫn còn thịnh hành trong nhiều khoa cúng

gắn với tôn giáo, tín ngƣỡng ở nƣớc ta… Tuy nhiên, nhƣ đã nói ở trên, văn chầu

thƣờng đƣợc trình diễn cùng âm nhạc và vũ đạo theo thể cách và bài bản riêng. Đây

là một đặc điểm cần hết sức chú ý khi khai thác nguồn tƣ liệu này.

2.2.1.5. Nhóm tư liệu thần sắc

Có thể tạm hiểu, thần sắc là một dạng văn bản hành chính của triều đình

phong cho thần, xác nhận tƣ cách chính thần (ghi trong Tự điển) đƣợc phép thờ tự.

Theo lý, đây là một trong những nguồn tƣ liệu đáng tin cậy trong việc xác thực

truyền thống và lịch sử thờ thần của các cộng đồng làng xã liên quan.

Với tục thờ Mẫu Liễu Hạnh tại khu vực phủ Giày, những vấn đề khái quát

chung nhất về tƣ liệu sắc phong đã đƣợc đề cập ở trên. Tuy nhiên, vì tính phức tạp

70

của nguồn tƣ liệu kê khai, sao lục, trong mục này, nghiên cứu sinh sẽ phân tích một

số điểm tồn nghi để làm rõ mức độ tin cậy, tính xác thực của nguồn tƣ liệu thần sắc

đƣợc kê khai, sao lục…

Kết quả khảo sát cho thấy, theo niên đại ghi trên sắc (kể cả sắc gốc và sắc sao

trên giấy gió dưới dạng tệp tài liệu), Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày đƣợc triều đình phong

sắc lần đầu vào ngày mùng Ba tháng Bảy năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642) - Nam Định

tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã thần sắc 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各 社

敕), mục Thần sắc xã Vân Cát Thƣ viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A16/

29 [177]. Tuy nhiên, nếu chỉ xét về niên đại, đã thấy một số thông tin không đảm bảo

tính chân xác lịch sử, thậm chí, có sắc đƣợc phong trƣớc cả thời điểm vua lên ngôi. Dƣới

đây là một số phân tích cụ thể với Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã

thần sắc 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各 社 敕), mục Thần sắc xã Vân Cát Thƣ viện

Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A16/ 29:

- Với bản sao sắc phong cho Đế Thích Tiên Đình Dựng Tú Phƣơng Phi

Quyền Cai Lục Cung Tần Nƣơng Biến Hiện Vô Cùng Duệ Trí Anh Linh Kiêm

Tri Sơn Lâm Bộ, hiệu viết Mã Hoàng Tề Gia Trị Quốc Hộ Sĩ Cẩn Tiết Hòa Mỹ [Trang Đoan]6 Quang Mục Nhân Minh Thuần Mỹ Công chúa, niên hiệu Vĩnh

Thịnh nguyên niên nhị nguyệt thập lục nhật (ngày Mƣời sáu tháng Hai năm Vĩnh

Thịnh nguyên niên - 1705) - Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục:

Tháng Tƣ năm Ất Dậu (1705), Lê Dụ Tông mới chính thức lên ngôi, đặt niên hiệu

Vĩnh Thịnh. Nhƣ vậy, năm Vĩnh Thịnh nguyên niên bắt đầu từ tháng Tƣ, không có

tháng Giêng, Hai, Ba. Theo đó, tính xác thực về niên đại của sắc này cần đặt trong

sự tồn nghi?

- Với bản sao sắc phong cho Đế Thích Tiên Đình Dựng Tú Phƣơng Phi

Quyền Cai Lục Cung Tần Nƣơng Biến Hiện Vô Cùng Kiêm Tri Sơn Lâm Chƣởng

Quản Sơn Tinh Bộ, hiệu viết Liễu Hạnh Mã Hoàng Tề Gia Trị Quốc Hộ Sĩ Cẩn Tiết

Hòa Mỹ Đoan Trang Quang Mục Nhân Minh Thuần Mỹ Nhàn Tĩnh Trinh Nhất

6 Có lẽ, viết nhầm chữ “Đoan Trang” thành “Trang Đoan”.

Diệu Hóa Đoan Dung Đạt Hạnh Diệu Thông Mẫn Cảm Phổ Tế Chân Tiên Công

71

chúa, niên đại Cảnh Hƣng nguyên niên chính nguyệt nhị thập thất nhật (ngày Hai

mƣơi bảy tháng Giêng năm Cảnh Hƣng nguyên niên - 1740) - Cũng theo Khâm

định Việt sử thông giám cương mục: Tháng Năm năm Canh Thân (1740), Lê Hiển

Tông lên ngôi, đặt niên hiệu Cảnh Hƣng. Nhƣ vậy, năm Cảnh Hƣng nguyên niên

bắt đầu từ tháng Năm, không có các tháng: Giêng, Hai, Ba, Tƣ… Theo đó, tính xác

thực về niên đại của sắc này cũng cần đặt trong sự tồn nghi?

Qua phân tích nôi dung, có thể khai quát cấu trúc cơ bản về nội dung một

lòng sắc trƣớc thời Nguyễn (1802) nhƣ sau: Sắc/Tên thần và thần hiệu nguyên đƣợc

phong tặng/bao phong (khen ngợi công đức, phong tặng hoặc gia phong)/Niên đại

phong sắc. Thông thƣờng, các sắc trƣớc thời Nguyễn (1802) phong cho thần, không

đề cập đến nghĩa vụ thờ thần thuộc về cộng đồng nào, ở phần phong tặng hoặc gia

phong, tên thần và thần hiệu đƣợc nối thêm các mỹ tự đƣợc phong. Theo thời gian,

tên thần và thần hiệu liên tục đƣợc nối dài và bảo lƣu tên thần và thần hiệu của các

lần phong trƣớc. Chiểu theo nguyên lý này, có thể nhận ra chi tiết bất hợp lý trong

nội dung của bản sao sắc phong cho Đế Thích Tiên Đình Dựng Tú Phƣơng Phi

Quyền Cai Lục Cung Tần Nƣơng Biến Hiện Vô Cùng Duệ Trí Anh Linh Kiêm Tri

Sơn Lâm Chƣởng Quản Sơn Tinh Bát Bộ, hiệu viết Mã Hoàng Công chúa, Tề Gia

Trị Quốc Hộ Sĩ Cẩn Tiết Hòa Mỹ Đoan Trang Quang Mục Nhân Minh Uyển Mỹ

Công chúa, phong ngày mùng Ba tháng Bảy năm Dƣơng Hòa thứ 8 - 1642, khi lòng

sắc ghi: Giao nhiệm vụ cho thôn An Thái, Vân Cát, xã Đồng Đội, huyện Thiên Bản,

phủ Nghĩa Hƣng, đạo Sơn Nam đƣợc phụng thờ theo nhƣ lệ cũ hay sắc phong cho

Đế Thích Tiên Đình Liễu Hạnh Công chúa, phong ngày Mƣời tám tháng Tƣ năm

Cảnh Trị thứ 8 - 1670, khi lòng sắc “cố ý” xác nhận Liễu Hạnh Công chúa là thần

tiên trên thƣợng giới, là Thánh Mẫu trong nhân gian, sinh ra ở làng Vân Cát…

Đặc biệt, qua thần tích và phả ký về Mẫu Liễu Hạnh, hầu hết các bản đều ghi

nhận Thánh Mẫu Liễu Hạnh từng đƣợc gia phong “Chế Thắng Hòa Diệu Đại vƣơng”

hoặc “Hòa Diệu Chế Thắng Đại vƣơng”. Tuy nhiên, trên thực tế, những mỹ tự này chỉ

xuất hiện trên sắc phong cho Mẫu Liễu Hạnh tại đền Bà Kiệu (Thiên Tiên điện, hiện

còn bản gốc), quận Hoàn Kiếm, Hà Nội và một sắc khác (bản gốc) thuộc niên hiệu

Cảnh Hƣng cũng phong cho Thánh Mẫu Liễu Hạnh, hiện đang nằm trong sƣu tập của

72

Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam mà không thấy xuất hiện trên các sắc gốc hiện còn lƣu tại

khu vực phủ Giày. Qua đây, cần hiểu thêm rằng, tôn hiệu Đại vƣơng đi kèm thần hiệu

thƣờng giành cho các dƣơng/nam thần (đƣợc thần tích mô tả hiển thị dƣới dạng nam

nhân), còn tôn hiệu Công chúa đi kèm thần hiệu thƣờng giành cho các âm/nữ thần

(đƣợc thần tích mô tả hiển thị dƣới dạng nữ nhân). Nhƣ vậy, có thể tạm hiểu, Đại

vƣơng và Công chúa… là tƣớc/tôn hiệu thần đƣợc phong chứ không nhất thiết vị thần

đƣợc phong tƣớc/tôn hiệu Đại vƣơng hoặc Công chúa vốn xuất thân từ dòng hoàng tộc

nhƣ dân gian thƣờng hiểu. Và, việc Thánh Mẫu Liễu Hạnh (thần tích mô tả hiển thị

dƣới dạng nữ nhân) đƣợc phong tƣớc Đại vƣơng đƣợc coi nhƣ là một trƣờng hợp ngoại

lệ. Trong thực tế, nghiên cứu sinh cũng đã bắt gặp nhiều công thần thời Lê vốn không

thuộc dòng hoàng tộc đƣợc phong tƣớc vƣơng. Nhận thức này càng đƣợc củng cố phần

nào, khi Hiến tổ Chƣơng hoàng đế, năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) quy định:

Các thần hiệu trong cả nƣớc, hoặc đã phong, gián hoặc có những chữ viết là

Đại vƣơng, Thánh phi, Công chúa và công hầu quý phủ, trừ ngoài ra một vị

Liễu Hạnh Công chúa đã phụng thánh chỉ vẫn cho để hiệu cũ và đế vƣơng,

thân phiên các đời trƣớc nguyên có tƣớc hiệu, đều theo nhƣ cũ mà viết vào.

Còn thì đều chiểu tùy văn nghĩa đổi những chữ làm Tôn thần, Chi thần, Phủ

quân, Phu nhân để chính tên gọi [2].

2.2.1.6. Nhóm tư liệu công văn - sớ sách - khoa nghi

Trong sinh hoạt tôn giáo, tín ngƣỡng, công văn là một dạng văn bản ghi lời

khẩn cầu của tín đồ gửi đến thần (qua hóa/đốt) thông qua các nghi thức hành lễ.

Nhƣ vậy, xét về chức năng, công văn trong nghi lễ tôn giáo, tín ngƣỡng (bao gồm

sớ, điệp, cáo, biểu, tấu, khoa nghi…) không khác nhiều so với công văn hành chính.

Do bị quy định chặt chẽ về thể thức nên công văn - sớ sách - khoa nghi thƣờng

đƣợc soạn theo mẫu thức nhất định, vì thế mà tính ổn định về mặt văn bản rất cao.

Qua nhóm tƣ liệu này, có thể hình dung đƣợc phần nào về tính dung hội văn hóa,

nội dung, bài bản của từng khóa lễ, đặc biệt là vũ trụ quan tôn giáo - tín ngƣỡng,

tâm thức văn hóa của cộng đồng qua hoạt động tôn giáo, tín ngƣỡng.

2.2.1.7. Nhóm tư liệu linh thiêm/tiêm (quẻ bói)

Trƣớc đây, xóc thẻ, rút thẻ, xem thẻ là một trong những hoạt động tín ngƣỡng

73

khá phổ biến trong các đền, chùa, miếu, quán… ở nƣớc ta. Về hình thức, thiêm/tiêm

籤 là cái thẻ, trên khắc hoặc viết chữ (lời quẻ) đƣợc gán cho là của thánh thần nên

đƣợc gọi là linh thiêm - Lời thiêm/tiêm là lời của các vị tiên thánh mƣợn những kẻ

phàm để bày tỏ cho chúng sinh kính sợ mà tụng niệm tu hành. Dân gian thƣờng gọi

thẻ thiêm là thẻ xăm, rút thẻ thiêm là rút thẻ xăm hoặc rút xăm, xem thẻ… Số lƣợng

thẻ trong một bộ thiêm tùy thuộc theo từng loại. Trong các đền phủ thờ mẫu, tục rút

thẻ trƣớc đây cũng rất thịnh hành. Hiện nay, tại nhà thờ họ trần Lê (làng Tiên Hƣơng,

xã Kinh Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) và đền Bắc Lệ cũng còn thẻ thiêm (北

例 公 同 靈 祠 靈 籤 Bắc Lệ Công đồng linh từ linh thiêm) [45, tr. 13]. Bộ thiêm liên

quan tới Thánh Mẫu, hiện còn tƣơng đối đầy đủ và nguyên vẹn, gồm 23 quẻ thƣợng

(tốt), 18 quẻ trung (vừa) và 9 quả hạ (xấu). Nội dung 1 quẻ thƣờng gồm 12 mục (mỗi

mục là một bài thơ tứ tuyệt): 1). Tổng đoán (lời đoán chung), 2). Tự thân (bản thân),

3). Gia trạch (nhà cửa, đất đai), 4). Phong thủy (Phong thủy, đất cát đặt mồ mả…), 5).

Cầu mƣu (Toan tính, dự định), 6). Hôn nhân (Cƣới hỏi), 7). Lục giáp (Thai sản, sinh

nở), 8). Xuất hành (Xuất hành, đi xa), 9). Hành nhân (Ngƣời đi xa), 10). Thất vật (Mất của), 11). Quan sự (Việc quan, kiện tụng…), 12). Bệnh hoạn (Đau ốm, bệnh tật)

[45, tr. 11 - 12]. Qua hình thức tổ chức tổng quẻ, một điều thú vị là khi rút bất kỳ 1

trong số 50 quẻ, sắc xuất rút phải quẻ xấu rất nhỏ, chỉ chiếm tỉ lệ 9/50, trong khi đó,

sắc xuất rút đƣợc quẻ tốt là 23/50 và sắc xuất rút đƣợc quẻ vừa là 18/50. Theo đó, tỉ

lệ ngƣời cảm thấy hài lòng sau khi rút thẻ cũng nằm trong một tỉ lệ tƣơng ứng… Phải

chăng, đây là một chế định cần thiết nhằm đảm bảo để số đông tín đồ rút thẻ sẽ cảm

thấy yên tâm và tin rằng, dƣới sự bảo trợ, phù hộ của Thánh Mẫu, có nhiều điềm tốt

đến với tín đồ?

2.2.1.8. Nhóm tư liệu thuộc các loại hình khác

Về cơ bản, nhóm tƣ liệu thuộc các loại hình khác, gồm địa chí, địa bạ, gia

phả, ghi chép về tục lệ, truyện - ký lục, câu đối, thơ văn, ngâm vịnh, tạp ký… liên

quan đến tục thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đều thuộc

nhón tài liệu hỗn hợp, có tác dụng là nguồn tƣ liệu đối sánh, bổ sung cho các nhóm

tƣ liệu trên giấy đã đƣợc tới ở trên. Dƣới góc tiếp cận lịch sử - văn hóa, địa chí, địa

bạ, gia phả, ghi chép về tục lệ phản ánh khá toàn diện về đời sống vật chất, tinh thần

74

của cồng đồng dân cƣ trong một phạm vi nhất định. Đơn cử, qua gia phả (gia phả họ

Lê - Vân Cát/Vân Cát Lê gia ngọc phả và gia phả họ Trần Lê - Tiên Hƣơng), chúng

ta nhƣ thấy đƣợc quá trình nhân hóa thần linh, “thần thánh hóa” con ngƣời và địa

phƣơng hóa hệ thần thần đƣợc thờ phụng tƣơng đối điển hình trong xu thế phát triển

chung của tục thờ thần ở các cộng đồng làng xã Việt dù trong lịch sử, Vân Cát và

Tiên Hƣơng có thời kỳ cùng chung một xã, thờ chung thần (Tam vị/Tam tòa Thánh

Mẫu) nhƣng sau khi biệt xã (tách xã), Vân Cát Lê gia ngọc phả khẳng định:

Cụ Lê Tƣ Vĩnh là con trai thứ 5 của Lê Bang Cơ, tức Lê Nhân Tông. Sau khi

nhà Lê bị họ Mạc cƣớp ngôi, đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ loạn lạc, cụ Lê Tƣ Vĩnh

phải chạy loạn, về định cƣ tại thôn Vân Cát. Tai đây, cụ đã lấy bà Trần Thị Thục

sinh Tƣ Thắng. Sau Tƣ Thắng sinh ra Giáng Tiên, tức Công chúa Liễu Hạnh. Liễu

Hạnh lớn lên lấy Đào Lang, năm 21 tuổi bỗng dƣng không bệnh mà mất [255].

Trong khi đó, nhóm gia phả họ Trần Lê lại khẳng định:

Thánh Liễu Hạnh xuất thân từ họ Trần Lê, thuộc thế hệ thứ 4. Cụ Cao tổ của

dòng họ này là Lê Quý Công, tự Phúc Tiên, vốn ngƣời họ Lê, khi Tiên chúa Liễu

Hạnh (đời thứ 4) giáng sinh, đổi sang họ Trần. Tiên chúa giáng sinh năm Nhâm

Thìn niên hiệu Hoằng Định, lúc giáng sinh, trong nhà tự nhiên có mùi thơm khác lạ,

năm 19 tuổi đƣợc gả chồng - lấy ngƣời họ Trần ở bản hƣơng, thôn Nhị Giáp, sau

một thời gian về ở với ngƣời em ruột, cùng phụng dƣỡng cha mẹ và đổi sang họ

Trần. Giờ Dần ngày mùng Ba tháng Ba năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628), bà không bệnh

tật bỗng dƣng đột tử, hƣởng thọ 21 tuổi, tôn lăng tại xứ Cây Đa, hƣớng Tốn (Đông

Nam). Từ đó u hồn tịch mịch, cha mẹ sớm tối thƣơng nhớ khôn nguôi, bèn lập ban

thờ trong nhà, đèn nhang thờ phụng, vẫn thấy phảng phất nhƣ lúc sinh thời. Một

đêm, bà hiện về trƣớc ban thờ tự thuật lại duyên cớ (sự tích có chép). Trong xóm,

ngoài làng đều cảm thấy kinh hãi. Bà tác yêu, tác quái khiến nhà chồng ngày càng

khánh kiệt, ra sức trấn trị nhƣng ngƣời tin theo ngày càng tôn kính, tiếng tăm ngày

một lẫy lừng, gần thì truyền tai trong xóm, xa thì thiên hạ vang danh. Tiếng đồn đến

tận kinh thành, dƣới thời Lê, năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642), phụng lệnh chỉ dựng

đền lợp ngói. Năm Chính Hòa thứ 4 (1683) đƣợc tặng sắc phong. Từ đó về sau, đền

thiêng hiển hách, đƣợc triều đình nhiều lần phong tặng, thực là chuyện kỳ lạ nhất

75

huyện Thiên Bản dƣới quốc triều...

2.2.1.9. Nhóm tư liệu khảo cứu

Tuy nội dung khảo cứu về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ,

Tứ phủ đƣợc các tài liệu Hán Nôm đề cập mới chỉ dừng ở mức sơ lƣợc nhƣng

không thể phủ nhận, đây là các công trình mang tính chất đặt nền móng cho những

nghiên cứu tiếp theo. Vì tính chất đặc biệt này, tạm thời nghiên cứu sinh xếp tài liệu

khảo cứu thành một nhóm riêng. Trong điều kiện có thể, hiện nghiên cứu sinh mới tiếp

cận đƣợc 02 tài liệu Hán Nôm thuộc nhóm tƣ liệu khảo cứu mang tính “chuyên khảo”,

gồm Thiên Tiên truyện khảo 天 仙 傳 攷 và một tệp khác gồm các mục Khảo đồng sự

ký 攷 童 事 記; Tiền Lí Nam đế tích 前 李 南 帝 跡; Nam Định tỉnh khảo dị 清 化 省

攷 異; Thanh Hóa tỉnh khảo dị 南 定 省 考 異; Khảo vấn tĩnh điện 攷 問 靖 殿.

Ngoài ra, nội dung khảo cứu về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam

phủ, Tứ phủ cũng đƣợc đề cập tới ít nhiều trong một số tài liệu hán Nôm khác. Bên

cạnh đó, nghiên cứu sinh cũng “tạm xếp” nhóm tƣ liệu kê khai thần tích - thần sắc

của các làng xã do “Hội khảo cứu phong tục” thu thập, hiện lƣu trữ tại Viện Thông

tin khoa học xã hội vào nhóm tài liệu điều tra phục vụ khảo cứu.

2.2.2. Nhóm tư liệu văn khắc tại di tích

Nhóm tƣ liệu văn khắc tại di tích gồm đại tự, câu đối, bia ký, minh chuông,

ván khắc (in kinh sách), ấn triện (con dấu) đang bảo quản tại ở di tích, ngoài tính

chất là hiện vật gắn với di tích, đồng thời, cũng là những trang sửa địa phƣơng, trực

tiếp phản ánh truyền thống lịch sử - văn hóa của cộng đồng làng xã liên quan, đặc

biệt là lịch sử thờ thần, cơ sở thờ tự, cùng các thực hành văn hóa quanh tín ngƣỡng

thờ Mẫu Liễu Hạnh. Bên cạnh nguồn tƣ liệu đƣợc khắc in, đây là một trong những

nhóm tài liệu mang niên đại định bản tuyệt đối, có tác dụng cho việc đối sánh, tham

chiếu khi khai thác các nguồn tƣ liệu để góp phần tìm hiểu tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu

Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ qua tƣ liệu Hán Nôm.

2.3. Giá trị lịch sử - văn hóa của tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ

Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ

Qua những nét khái lƣợc về tƣ liệu Hán Nôm liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu

Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, có thể nhận thấy, nguồn tƣ liệu Hán

76

Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đƣợc thể

hiện trên nhiều chất liệu chất liệu (giấy, đá, gỗ, kim loại…), phong phú về số lƣợng, đa

dạng về loại hình và nội dung... Đây là khối di sản tƣ liệu vô giá, phản ánh mọi mặt về

đời sống vật chất, tinh thần của các cộng đồng làng xã có thực hành tín ngƣỡng tín

ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ trƣớc năm 1945. Từ hƣớng tiếp

cận liên ngành và loại hình văn bản cho thấy, giá trị lịch sử - văn hóa của tƣ liệu Hán

Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, cơ bản đƣợc biểu

hiện cụ thể qua một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, do nhiều nguyên nhân, tuy là một nƣớc có bề dày lịch sử nhƣng

những vấn về lịch sử nƣớc ta trƣớc năm 1945 chủ yếu chỉ đƣợc tập hợp, phản ánh qua

một số bộ quốc sử (sử nƣớc/chính sử), dƣới dạng sử biên niên, ghi chép vắn tắt các về

các sự kiện lịch sử. Những bộ giã sử và sử tƣ nhân hiện còn đƣợc biết cũng có số lƣợng

không nhiều. Tài liệu quốc chí (địa chí quốc gia) cũng nằm trong tình cảnh tƣơng tự,

những ghi chép về lịch sử địa phƣơng (địa phƣơng chí: tỉnh chí, huyện chí, xã chí)

cũng rất hiếm hoi. Vì vậy, nguồn tƣ liệu Hán Nôm trong dân gian đƣợc coi nhƣ những

pho “sử làng”, trong đó, có tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và

Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, với sự phong phú, đa dạng nhƣ đã nêu trên, nếu đƣợc khai thác

toàn diện và giải mã tốt có thể sẽ rút ra đƣợc những thông tin xác thực để bổ khuyết

cho chính sử, dã sử, sử tƣ nhân, quốc chí và địa phƣơng chí trong nhiều lĩnh vực…

Thứ hai, dƣới góc nhìn lịch sử và chức năng, tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ

Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, trƣớc hết là những ghi chép trực

tiếp liên quan và phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa tôn giáo, tín ngƣỡng của các cộng

đồng làng xã liên quan, cùng đông đảo tín đồ thập phƣơng. Trong đó, một bộ phận quan

trọng là thần tích ghi chép lại truyền thuyết dân gian, rồi đƣợc định bản và truyền bản

qua các thời kỳ, cho dù có sự can thiệp của triều đình, tồn tại nhiều dị bản hoặc bị thêm

bớt về chi tiết nhƣng không thể phủ nhận, văn bản thần tích là một dạng “hóa thạch văn

hóa” của truyền thuyết dân gian, phản án mọi mặt về đời sống vật chất, tinh thần và các

bƣớc phát triển của lịch sử - xã hội của cộng đồng làng xã, quốc gia, dân tộc…

Thứ ba, thực tiễn đã cho thấy, nhiều tôn giáo, tín ngƣỡng là một trong những

nhân tố quan trọng góp phần định hình và duy trì các mối quan hệ ứng xử giữa con

77

ngƣời với cộng đồng, với xã hội và thế giới tự nhiên. Khởi nguyên, các hình thức sinh

hoạt tôn giáo, tín ngƣỡng trong làng xã Việt có thể mang tính tự phát, xuất phát từ nhu

cầu cá nhân nhƣng trải qua các bƣớc phát triển, các hình thức sinh hoạt này dần trở

thành truyền thống thực hành văn hóa mang tính cộng đồng, đƣợc xác lập và duy trì

trong mối liên kết chặt chẽ giữa các nhân tố cơ bản: hệ thần đƣợc thờ; địa điểm và

không gian thờ tự; thực hành văn hóa tôn giáo - tín ngƣỡng liên quan và đỉnh cao là

đƣợc triều đình công nhận (cấp sắc phong). Nếu tạm coi đây là một mẫu số chung đối

với các tín ngƣỡng truyền thống đƣợc định hình trong không gian làng xã Việt thì có

thể nhận thấy, qua tƣ liệu Hán Nôm liên quan, tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu

Tam phủ, Tứ phủ là một trong những dẫn dụ điển hình.

Thứ tư, dƣới góc độ lý luận, nếu thừa nhận việc xác lập một tôn giáo truyền

thống thƣờng dựa vào ba yếu tố: giáo chủ, giáo luật, giáo hội, thì qua tƣ liệu Hán

Nôm có thể khẳng định, dƣới nhãn quan tôn giáo, tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và

Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đủ tƣ cách là một tín ngƣỡng dân gian tiệm cận tôn giáo, bởi

đã đƣợc triều đình công nhận (qua hệ thống sắc phong), với đầy đủ các thành tố: Giáo

chủ (Thánh Mẫu Liễu Hạnh), giáo luật (kinh giáng bút) và giáo hội (hội, bản hội).

Thứ năm, qua tƣ liệu Hán Nôm, bƣớc đầu đã thống kê đƣợc, trƣớc Cách mạng

Tháng tám (1945), tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh nói riêng và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ

nói chung đã tƣơng đối phổ biến trong không gian văn hóa Bắc bộ và một số địa điểm

liên quan có thể tạm tính từ Thừa Thiên Huế trở ra, với ít nhất 206 làng xã thuộc 21

tỉnh/thành phố thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, trong đó khu vực Nam

Định, Hà Nam, Ninh Bình là những địa bàn tập trung. Qua đây cũng nhƣ phần nào thấy

đƣợc tính phổ quát và sức lan tỏa của tín ngƣỡng này trong bối cảnh lịch sử - văn hóa

đƣơng thời và sức bền của “nguyên lý mẫu” trong văn hóa Việt truyền thống.

Thứ sáu, cũng qua tƣ liệu Hán Nôm có thể khẳng định, không chỉ riêng

với tín ngƣỡng thờ Đức Thánh Trần và một số tín ngƣỡng dân gian khác, “lên

đồng phán truyền” cũng là một phƣơng thức “thông linh” cơ bản trong thực

hành và truyền bá tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.

Theo đó, dƣới sự dẫn dắt của tƣ duy và niềm tin tôn giáo, các tín đồ mặc nhiên

thừa nhận, ông/bà đồng chính là cầu nối trung gian chuyển lời (thánh phán) từ

78

hệ thần Tứ phủ tới họ và ngƣợc lại. Dƣới hình thức này, Cát thiên tam thế thực

lục (Thuyết Vỉ Nhuế khẳng định Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh lần đầu tại Vỉ

Nhuế) và hàng loạt kinh văn giáng bút đƣợc chép lại, định bản, phát hành…

Thậm chí, việc trùng tu lăng Thánh Mẫu cũng đƣợc tiến hành sau khi đệ tử Hội

Xuân kinh Phổ hóa nhận đƣợc lời giáng tứ của Mẫu giao việc trùng tu lăng. Rõ

ràng, hình thức phán truyền có tác dụng nhất định trong việc củng cố niềm tin,

mang lại hiệu quả tức thì, rất dễ đƣợc đông đảo tín đồ cùng đón nhận. Qua dẫn

dụ này, bƣớc đầu có thể lý giải tại sao, trong khoảng cuối thế kỷ XIX - đầu thế

kỷ XX, phong trào thiện đàn ở nƣớc ta lại triệt để “lợi dụng” hình thức cầu cơ

giáng bút để tuyên truyền chủ nghĩa yêu nƣớc và văn hóa dân tộc… Và, phần

nào nhƣ cũng thấy đƣợc nguyên nhân vì sao hoạt động “lên đồng phán truyền”

từng bị nhà nƣớc quân chủ hạn chế hoạt động.

Thứ bảy, khác với những tín ngƣỡng dân gian khác, mọi tƣ liệu Hán Nôm liên

quan chỉ dừng lại ở việc ghi chép đơn thuần, với tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và

Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đã xuất hiện những tƣ liệu Hán Nôm mang tính chất khảo cứu

(nhƣ đã đề cập ở trên) từ đầu thế kỷ XX. Rõ ràng, đƣơng thời, tín ngƣỡng thờ Mẫu

Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đã nhận đƣợc sự quan tâm đặc biệt của đông đảo

cộng đồng, trong đó có đội ngũ tri thức Nho học và Tây học. Đó là bƣớc khai phá, đặt

nền móng cho việc tiếp cận tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ

các giai đoạn tiếp theo…

Tiểu kết

Thừa hƣởng kết quả tập hợp của ngƣời đi trƣớc, Chƣơng 2 luận án đã cơ bản

tập hợp, thống kê tƣơng đối đầy đủ và toàn diện nguồn tƣ liệu Hán Nôm liên quan tới

ín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Qua các thao

tác, bƣớc đầu tiến hành phân loại và đƣa ra hƣớng tiếp cận khai thác tƣ liệu phục vụ

nghiên cứu đối với từng nhóm tƣ liệu cụ thể.

Tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu

Tam phủ, Tứ phủ phong phú về số lƣợng, đa dạng về loại hình, phức tạp về nội

dung và niên đại nhƣng hàm chứa nhiều mặt giá trị, đặc biệt hữu ích trong việc

nghiên cứu, tìm hiểu tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày, Mẫu Tam phủ, Tứ

79

phủ và một số vấn đề về lịch sử - văn hóa liên quan...

Chỉ qua thống kê, phân tích sơ bộ, có thể khẳng định, trƣớc Cách mạng tháng

Tám, khu vực phủ Giày cơ bản vẫn thờ thần Mẫu theo mô hình bộ ba - Tam vị/Tam

tòa Thánh Mẫu theo kết cấu: Đệ nhất Liễu Hạnh Công chúa, Đệ nhị Quỳnh cung

Duy Tiên Phu nhân, Đệ tam Quảng cung Quế Anh Phu nhân, thƣờng đƣợc dân gian

định danh là Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày.

Cũng qua thống kê, trong phạm vi lan tỏa và ảnh hƣởng qua lại, trƣớc Cách

mạng Tháng tám (1945), tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh nói riêng và Mẫu Tam phủ,

Tứ phủ nói chung đã tƣơng đối phổ biến trong không gian văn hóa Bắc Bộ, thậm chí có

thể tính từ địa bàn Thừa Thiên Huế trở ra. Việc thờ tự và thực hành tín ngƣỡng thờ

Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tại hầu hết làng xã đều đã đƣợc triều đình

thừa nhận là hợp pháp. Trong đó, Mẫu Liễu Hạnh nổi lên nhƣ một nhân vật trung tâm

của tín ngƣỡng, nhiều nơi thờ bà với tƣ cách là vị thần chủ.

Qua diễn giải dân gian, nguồn gốc của Mẫu Liễu Hạnh cũng đƣợc phản ánh

tƣơng đối đa dạng, đa số các cộng đồng làng xã thờ phụng cho rằng bà có nguồn gốc

thiên thần. Bên cạnh đó, một số cộng đồng lại thờ bà với tƣ cách là một vị nhân thần.

Đặc biệt, một số cộng đồng còn suy tôn bà làm một vị Thành hoàng làng.

Đặc biệt, với nhiều tín ngƣỡng dân gian khác, tƣ liệu Hán Nôm liên quan chỉ

dừng lại ở việc ghi chép đơn thuần, nhƣng với tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và

Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, từ đầu thế kỷ XX đã xuất hiện một số tƣ liệu Hán Nôm

mang tính chất khảo cứu. Rõ ràng, đƣơng thời, những tín ngƣỡng này đã nhận đƣợc

sự quan tâm đặc biệt của đông đảo cộng đồng, trong đó có đội ngũ tri thức Nho học

và Tây học. Đó là những bƣớc khai phá quan trọng, đặt nền móng cho việc tiếp cận,

tìm hiểu tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ các giai đoạn

tiếp theo…

80

Chƣơng 3

NHẬN DIỆN TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY

QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM

3.1. Lịch sử địa chính và không gian văn hóa phủ Giày

Với hƣớng tiếp cận quen thuộc, khi xem xét một tín ngƣỡng truyền thống

của ngƣời Việt dƣới góc nhìn văn hóa học, cấu trúc cơ bản của một tín ngƣỡng cơ

bản là sự liên kết hữu cơ giữa ba thành tố căn bản, gồm hệ thần đƣợc thờ, kiến trúc

thờ tự và các thực hành văn hóa tín ngƣỡng liên quan. Trong phạm vi tƣ liệu Hán

Nôm, trong chƣơng này, nghiên cứu sinh sẽ tập trung làm rõ về quá trình biến đổi

địa chính, không gian văn hóa liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ

Giày theo diễn trình lịch sử và đặt tín ngƣỡng này trên nền cảnh văn hóa chung của

tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ để xem xét về hệ thần đƣợc thờ, kiến trúc thờ

tự, một số thực hành văn hóa tín ngƣỡng quanh việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở

khu vực phủ Giày trƣớc năm 1945.

Kế thừa chỉ dẫn qua cách đặt câu hỏi, phân tích và đƣa ra giả thiết khoa học về

mối quan hệ giữa Vân Cát và Tiên Hƣơng trong lịch sử Kẻ Giày của GS. Trần Quốc

Vƣợng, giờ đây, khi điều kiện tƣ liệu (Hán Nôm) nhƣ có vẻ sáng hơn, bƣớc đầu nghiên

cứu sinh xin hòa theo mạch tƣ duy của giáo sƣ để nhập vào dòng lịch sử, mong góp

phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề về lịch sử địa chính và không gian văn hóa liên

quan tới khu vực phủ Giày để củng cố cơ sở cho việc tìm hiểu tín ngƣỡng thờ Mẫu ở

khu vực phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.

3.1.1. Lịch sử địa chính liên quan tới khu vực phủ Giày

3.1.1.1. Kẻ Giày

Kẻ Giày, nơi có phủ Giày, là một địa danh cổ gắn với tục thờ Mẫu Liễu

Hạnh, đã khá “mờ” về ngữ nghĩa và phạm vi địa lý... Quanh tên gọi của địa danh

này, theo ngữ âm tiếng Việt, từng tồn tại 4 cách phát âm cơ bản, tƣơng ứng với 4

cách ghi âm: Kẻ Giày, Kẻ Giầy, Kẻ Dày, Kẻ Dầy.

Diễn giải về ý nghĩa của từ Kẻ Giày, trong bài “Về tên đất Kẻ Giầy, phủ

Giầy”, tác giả Cao Xuân Hạo, Trần Thúy Anh, với sự cộng tác của tác giả Trần

Quốc Vƣợng, đã tổng hợp đƣợc 3 thuyết dân gian có đề cập đến ngữ nghĩa và

81

nguồn gốc của từ Kẻ Giày, cụ thể nhƣ sau:

1. Năm 21 tuổi (1557), khi Mẫu Liễu Hạnh trở lại “thƣợng giới” có để lại

dƣới Trần gian một chiếc Hài (Giầy).

2. Vua (Lê?) hay chúa (Trịnh?) đã đi qua làng Mẫu nhặt đƣợc chiếc Hài

(GIẦY) của Mẫu để lại trần gian.

3. Vùng này có nghề bánh GIẦY - GIÒ nổi tiếng. Nay mỗi khi hội phủ

Giầy tháng Ba lịch Trăng, mọi con nhang đệ tử và khách thập phƣơng

vẫn mua bánh giầy (dân chợ Dần (Giầy) giã mang bán) [79, tr. 329].

Phụ thêm về thuyết 2: (Vua (Lê?) hay chúa (Trịnh?) đã đi qua làng Mẫu đã

nhặt được chiếc Hài (GIẦY) của Mẫu để lại trần gian), tại khu vực phủ Giày còn

lƣu truyền đôi câu đối:

萬 家 畫 像 輿 人 傑

幾 處 遺 鞋 陸 地 靈

Vạn gia họa tƣợng dƣ nhân kiệt,

Vạn thế di hài lục địa linh.

Muôn nhà vẽ tranh, tạc tượng, dùng kiệu xe chở người tuấn kiệt,

Mấy nơi hài để lại trên vùng đất linh thiêng này.

Cũng qua tƣ liệu Hán Nôm, còn có một dị bản liên quan tới sự tích Kẻ Giày

qua câu chuyện gặp gỡ và nên duyên chồng vợ giữa Lý Thế Tông (vua Lý) hoặc Trịnh vƣơng7 và cô gái hái dâu (ngƣời xã Xuân Bảng, thuộc bản Tổng), vốn rất xấu

xí nhƣng đƣợc Mẫu thƣơng và phù hộ theo nguyện ƣớc của bố mẹ cô đƣợc ghi chép

bằng chữ Hán trong Khảo đồng sự ký [152]. Motif truyện này có phần giống truyện

Ỷ Lan phu nhân (Phu nhân Ỷ Lan)/Truyện nàng Tấm (theo cách gọi dân gian), có

thể lƣợc thuật nhƣ sau:

Từ thời Tiền Lê, đã có đền thờ Thiên Tiên. Nhiều ngƣời trong thiên hạ đến

cầu tại đền này. Đến đời Lý Thế Tông/Trịnh vƣơng, tại xã Xuân Bảng, thuộc bản

7 Trong Khảo đồng sự ký, nguyên văn kể về chuyện (vua Lý) Lý Thế Tông gặp gỡ và nên duyên với cô gái hái dâu. Sau không hiểu lý do, những chỗ liên quan tới vua Lý đều bị gạch đi và chú cƣớc sang bên cạnh thành Trịnh vƣơng.

tổng có đôi vợ chồng già chỉ sinh đƣợc một cô con gái nhƣng lại rất xấu xí. Vợ

82

chồng ông hay tin đền Thánh Mẫu rất linh thiêng, mọi ngƣời cầu gì đƣợc nấy thì

nghĩ rằng, mình không có con trai, chỉ có một cô con gái nhƣng nhan sắc lại kém thì

đàn ông liệu có lấy con gái mình? Ông bà thƣờng đến lễ ở đền Thánh Mẫu, mong

rằng con gái họ sẽ lấy đƣợc bậc đế vƣơng. Vì ông bà hết mực thành tâm cầu khẩn,

cảm tấc lòng thành, Thánh Mẫu đã hóa thân thành một bà lão đến nhà ông bà ở xã

Xuân Bảng cho con gái của vợ chồng ông bốn viên thuốc để uống. Sau bà lão lại

dạy cho cô gái ca một câu rằng:

“Tay cầm bán nguyệt xênh xang,

Càn khôn chính khí Hán hoàng nghi gia”.

Ngƣời con gái ấy học thuộc câu này. Sau đó, Thánh Mẫu làm một chiếc hài

đem đến chỗ vua Lý/chúa Trịnh. Vua Lý/chúa Trịnh coi là điềm lạ, ngờ rằng Thiên

cung muốn cho nàng Hằng Nga sánh đôi cùng mình. Từ đó, vua/chúa luôn tơ tƣởng

về điều này. Một hôm, vua Lý/chúa Trịnh cùng các quan tuần du trong thiên hạ, đến

châu Xuân Bảng thì bỗng thấy một ngƣời con gái đang hái dâu cất lời ca. Tiếng hát

rất hay, khiến vua/chúa mê mẩn, liền lệnh cho bề tôi đƣa cô gái ấy lên gặp mặt.

Thấy nhan sắc rất đẹp, vua/chúa lấy hài cho cô gái thử đi, thử xong thì thấy vừa

khít. Vua/chúa ƣng lắm, liền đƣa cô gái ấy về cung làm Đệ nhị Cung phi. Cô gái ấy

đã đƣợc nhƣ ƣớc nguyện của bố mẹ, sau khi cùng vua/chúa thành gia thất, cô đã về

làng mời ngƣời trong toàn huyện đến dự tiệc chia vui. Sau đó, Cung phi xin

vua/chúa tạ ơn Thánh Mẫu bằng cách cho ngƣời xếp thành chữ dâng lên Thánh

Mẫu. Vì thế mà ngày nay, toàn huyện tham gia xếp chữ dâng lên Thiên Tiên Thánh

Mẫu. Đến nay, nếu tổng nào không theo di lệnh của vua/chúa từ thời tiền cổ thì

quan huyện sẽ xử tội tổng đó. Vì vậy mà không ai dám bỏ tục xếp chữ [152].

Phụ thêm về thuyết 3: Vùng này có nghề bánh GIẦY - GIÒ nổi tiếng, qua tƣ

liệu Hán Nôm, cũng có một dị bản chữ Hán [152] ghi về tục dân xã Tiên Hƣơng

nhớ ơn làm bánh “dầy” dâng Thánh Mẫu nhƣ sau:

8 Nguyên văn, bánh dầy đƣợc viết bằng chữ Nôm, cấu tạo theo phƣơng pháp ý + âm, với chữ bánh = mễ 米 + bính 丙, dầy = đài 臺 + hậu 厚, bên cạnh chữ “dầy” còn chú thích rõ: “dầy épáis" - bánh dầy)

Ở xã Tiên Hƣơng, hằng năm thƣờng làm bánh hình tròn tế Thánh Mẫu, tục gọi là bánh “dầy”8. Từ thuở xa xƣa, dân xã đã lập một ngôi đền thờ Thánh Mẫu.

83

Thánh Mẫu anh linh, ngƣời ngƣời trong thiên hạ đến đền cầu việc gì cũng thành.

Ngƣời ngƣời sắm sửa gà, xôi, trầu, rƣợu đến đền cầu khấn. Tuy nhiên, vì việc giết

gà không đƣợc thanh tịnh, xôi oản thì ruồi nhặng ăn trƣớc, khi làm lại không đƣợc

sạch sẽ. Tuy mọi ngƣời có lòng thành nhƣng lễ vật lại không thanh tịnh nên Thánh

Mẫu không hƣởng. Khi ấy, Thánh Mẫu đã hóa thân thành một bà cụ làm bánh dầy

bán tại đền. Mẫu lại hóa thân thành vài ba thiếu nữ phao tin với mọi ngƣời rằng:

Nay bảo cho các ngƣời biết, các ngƣời cúng Thánh những xôi, gà không

đƣợc tinh khiết thì Thánh ngài không hƣởng. Các ngƣời có lòng thành cúng Thánh

thì đến hàng bà cụ già đằng kia. Bà cụ ấy bán bánh dầy ngon lắm, các ngƣời mua

lấy mà mang cúng Thánh Mẫu. Mọi ngƣời thấy vài ba thiếu nữ nói vậy thì đổ xô

đến hàng bà cụ để mua bánh dầy vào dâng Thánh Mẫu. Cúng xong, mọi ngƣời hạ

lễ, ăn thấy có vị rất ngọt và béo ngậy, ngon không thể tả. Nếu ai có bệnh, sau khi ăn

bánh, bệnh sẽ thuyên giảm, những ngƣời suy nhƣợc, ăn xong lại khỏe hẳn ra. Ngƣời

đến đền này lễ Thánh Mẫu chỉ tìm đến hàng của bà lão mua bánh nhƣng sau một

thời gian thì chẳng ai biết bà lão ở đâu mà mua. Vì thế mà ngƣời ta gọi đền thờ

Thánh Mẫu là “phủ Dầy”. Sau đó, ngƣời làng và những làng lân cận liền bắt chƣớc

Thánh Mẫu làm bánh “dầy” bán cho khách mua dâng lên Thánh Mẫu nhƣng không

thể ngon bằng bánh do Thánh Mẫu làm. Vì vậy, từ đó về sau, dân xã luôn trích một

mẫu ruộng công giao cho dân làng luân phiên canh tác mỗi ngƣời một năm để lấy

gạo làm bánh. Hằng năm, cứ đến dịp tháng Ba, tức ngày tế Thánh Mẫu, trƣớc đó hai

ngày, tức mùng Một tháng Ba, ngƣời nào đến phiên canh tác ruộng công sẽ cùng gia

đình và ngƣời làng làm sạch gạo rồi đem ngâm. Đến sáng mùng Hai, mọi ngƣời lại

đến nhà ngƣời ấy đem gạo đồ xôi rồi đổ ra một chiếc chiếu sạch, cử hai nam thanh

niên, mỗi ngƣời cầm một chiếc chày gỗ giã cho xôi nhuyễn để mọi ngƣời nặm thành

bánh hình tròn, gọi là “bánh dầy”. Mỗi chiếc to bằng chiếc bát ăn cơm, đƣờng kính

khoảng 2 thốn (20cm), dầy khoảng sáu phân. Phải nặn tất cả thảy đủ 500 cái. Đến

sáng mùng Ba tháng Ba, gia đình ngƣời đƣợc giao làm bánh mang bánh, chuối, trầu

cau và rƣợu đến phủ Chính, chức dịch và phụ lão trong làng mặc trang phục chỉnh

tề tổ chức tế Thánh Mẫu. Tế xong, mỗi ngƣời thuộc diện mặc áo, đội mũ tế Thánh

Mẫu đƣợc thụ hƣởng một cái và một quả chuối, thủ từ đƣợc thụ hƣởng 1 cái, các ni

84

sƣ thụ hƣởng 5 cái, số còn lại chia đều cho dân từ già tới trẻ. Đó là sự tích dân xã

nhớ ơn làm “bánh dầy” dâng Thánh Mẫu [152].

Từ những diễn giải theo kiểu ngữ âm dân gian, bằng phƣơng pháp ngữ âm

học, qua dẫn dụ và phân tích, tác giả Cao Xuân Hạo khẳng định:

Về mặt ngữ âm - lịch sử, cái mà ta viết là D, GI, TR vốn xƣa là một. Kiểu

nhƣ ở nông thôn Bắc Bộ, cho đến nay, dân làng vẫn nói GIẦU CAU chứ

không nói TRẦU CAU (phƣơng ngữ Trung Bộ và nay trở thành ngôn ngữ

văn học)... Ngƣời ta cũng nói “Giần (dần) cho nó một trận” thay vì “Trần

cho nó một trận”. Và, dân miệt biển Bái - Hạ Long gọi con Ngọc trai là

GIÀU trong khi Hán - Việt là Châu (phƣơng ngữ Bắc Bộ, ngƣời ta nói ông

bà GIÀ thì phƣơng ngữ Thanh Hóa gọi là TRA, trong khi phƣơng ngữ

Trung Bộ (và nay là ngôn ngữ văn học) gọi Tráo trở thì phƣơng ngữ Bắc Bộ

gọi là Giáo giở. v.v… và v.v…) [79, tr. 330].

Sau đó, ông xác lập một giả thuyết là: “Việc chuyển biến từ TR - GI (D) là

một hiện tƣợng ở nông thôn châu thổ Băc Bộ, trong khi miền Bắc Trung Bộ

(Thanh- Nghệ - Tĩnh) vẫn giữ đƣợc âm TR của tiếng Việt cổ. Bắc Trung Bộ đƣợc

giới ngôn ngôn ngữ học nhất trí thừa nhận là nơi bảo lƣu đậm đà nhiều từ Việt cổ”

[79, tr. 330].

Dẫn dụ và lý giải thêm qua một số địa danh cổ, cơ cấu dòng họ và vấn đề

lịch sử liên quan đến vùng đất Kẻ Giày, cuối cùng, ông đã đƣa ra một giả thuyết

khoa học: “Kẻ Giầy chính là Kẻ Trần, cùng của họ Trần” [79, tr. 331].

Về dấu tích ngữ âm địa phƣơng qua văn tự (chữ Nôm), trực tiếp liên quan

đến âm vận và ngữ nghĩa của tên đất Kẻ Giày/Dày, phủ Giầy/Dầy, xin dẫn dụ và

phân tích bổ sung qua hai trƣờng hợp sau:

Nhƣ đã chú thích ở trên, chữ dầy = đài 臺 + hậu 厚, bên cạnh chữ này còn chú

thích rõ: “dầy épáis" (bánh dầy) - Cách ghi âm trong tài liệu này đã xuất hiện cách nay

hàng thế kỷ. Xét về cách tạo tự (chữ), rõ ràng, chữ dầy (Nôm) ở đây đƣợc cấu tạo theo

phƣơng pháp kết hợp ý + âm, với hậu 厚 (nghĩa theo chữ Hán là dầy - chỉ độ dầy) chỉ ý,

đài 臺 (âm đài) chỉ âm. Nếu hiểu một cách đơn giản theo ngữ âm hiện nay thì chữ dầy

85

này (Nôm) - (âm dầy = đài 臺 + hậu 厚) mang ý nghĩa chỉ độ dầy, nhƣ có vẻ không liên

quan gì tới nghĩa “giầy” trong bánh “giầy” (giày, dầy, dày), đôi giầy (giày), giầy/giày

xéo…, nhƣng xét trong văn cảnh thì rõ ràng chữ dầy/dày này (Nôm) - (âm dầy/dày = đài

臺 + hậu 厚) lại đƣợc sử dụng để ghi âm để định danh (gọi tên) một loại bánh - bánh dầy

(xin nhắc lại: trong văn bản, bên cạnh chữ dầy còn chú thích rõ: “dầy épáis). Tƣơng tự,

tại phủ Vân Cát, văn bia Vụ Bản huyện đồng huyện cúng trí lệ điều tiền tại Vân Cát, tục

hiệu phủ Dày bi ký 務 本 縣 仝 縣 供 置 例 田 錢 在 雲 葛 俗 号 府 𠫅 碑 記 - Bia ghi

việc cả huyện Vụ Bản tiến cúng tiền ruộng lệ ở phủ Vân Cát, tục gọi là phủ Dầy/Dày,

khắc năm Khải Định thứ 6 (1921), chữ dầy 𠫅 (Nôm) cũng đƣợc cấu tạo theo phƣơng

pháp kết hợp ý âm, với chữ hậu 厚 (nghĩa theo chữ Hán là dầy - chỉ độ dầy) chỉ ý, chữ

đài 苔 (âm đài) chỉ âm.

Trên cơ sở phân tích, biện giải của tác giả Cao Xuân Hạo (việc biến âm từ TR - GI

(D) là một hiện tƣợng ở nông thôn châu thổ Bắc Bộ), cùng với những diễn giải của ngữ âm

dân gian, phân tích ngữ âm địa phƣơng qua văn tự Nôm, theo lịch sử ngữ âm, một giả thiết

để làm việc đƣợc đặt ra là: Trong lịch sử tiếng Việt, vốn dĩ, giầy/giày và dầy/dày tuy khác

âm nhƣng đôi khi tƣơng thông về nghĩa, sau biến thể (dầy/dày) dần đƣợc tách ra và gắn

với ý nghĩa phái sinh, chỉ độ dầy/dày, trái nghĩa với mỏng? Vì vậy, nếu thừa nhận tính đa

dạng và biến thể ngữ âm tiếng Việt trong ngôn ngữ dân gian, với trƣờng hợp Kẻ Giày mà

chúng ta đang bàn, có thể ghi âm “Quốc ngữ” là: Kẻ Giày, Kẻ Giầy, Kẻ Dày, Kẻ Dầy, đều

không sai, miễn sao phải đặt và hiểu chúng trong ngữ cảnh ngữ ân lịch sử.

Nhƣ vậy, trong tâm thức dân gian vùng Kẻ Giày, chữ Giày/Giày trong tên đất

Kẻ Giày (một cách đọc), cơ bản gắn với hai lớp nghĩa chồng lấn: Giày/Giầy là bánh

Giày/Giầy và Giày/Giầy là chiếc Giày/Giày, không gắn với nghĩa dày/dầy trong từ chỉ

độ dầy. Trong khi những kiến giải về đối tƣợng đang bàn là Kẻ Giày/Giầy hay Kẻ

Dày/Dầy, phủ Giày/Giầy hay phủ Dày/Dầy vẫn đang dừng lại ở giả thiết để làm việc,

tôn trọng cách diễn giải của ngữ âm dân gian và nguyên tắc khoa học, việc lựa chọn

cách ghi âm “Kẻ Giày, phủ Giày” của nghiên cứu sinh trong luận án này xin đƣợc coi

là một trƣờng hợp lựa chọn biến thể, đƣợc đƣa ra nhƣ một giả thiết để làm việc. Theo

đó, dƣới góc nhìn đa nguyên (đa nguồn gốc) về văn hóa dân gian, có thể tạm hình

86

dung: Kẻ Giày thuộc vùng đất Kẻ Trần của họ Trần xƣa, nổi tiếng với phủ Giày và

truyền thuyết về Mẫu Liễu Hạnh, trong đó có thuyết Mẫu để lại chiếc giày, nghề làm

bánh giày trên vùng đất này…

Vậy, Kẻ Giày đƣợc chia tách thế nào?

Truyền thuyết dân gian bên làng Tiên Hƣơng kể rằng: “Theo lời truyền lại

thì đó là tại hai cụ nghè (tiến sĩ) ngƣời cùng xã, ngƣời đi trƣớc, ngƣời đỗ sau, tranh

nhau ngôi Tiên chỉ (đứng đầu xã), cho nên ngƣời đỗ sau xin với vua tách quê quán

làng mình ra thành xã riêng” [79, tr. 401].

Tác giả Trần Quốc Vƣợng đã từng gạn hỏi chuyện này qua các cụ ở Tiên

Hƣơng và đƣợc biết nhƣ sau:

Quan nghè "Tiên Hƣơng tên là TRẦN KỲ đỗ thám hoa"…, ngƣời xóm 4

(Giáp tƣ). "Mộ quan Thám mới bị đào gạch và miếu quan Thám ở xóm 4

mới bị phá gần đây thôi và quan Thám không có con trai nối dõi".

Còn cụ nghè Vân Cát tên là TRẦN BÍCH HOÀNH (hay HOẰNG,

HOÀNG) đỗ Bảng nhãn (trên Thám hoa) song đỗ sau, ngƣời xóm Vân

Cầu, Vân Cát.

Vì đỗ sau, nhƣng lại đỗ cao hơn nên cụ nghè Vân Cát (Bảng nhãn) muốn

tranh ngôi Tiên chỉ với cụ nghè - quan Thám hoa Tiên Hƣơng đỗ trƣớc,

nên xin cho… ??? Do vậy mới có xã Vân Cát, vốn trƣớc mới chỉ là một

trại (trại Vân Cát) của xóm (giáp Nhất) Vân Cát của xã An Thái [79, tr.

401 - 402].

Văn bia tại Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) lại cho thấy: Cụ Trần Bích

Hoành/Hoằng, ngƣời phủ Kiến Hƣng, huyện Thiên Bản, đỗ tiến sĩ (Bảng nhãn)

Khoa Mậu Tuất năm Hồng Đức thứ 9 (1478), trong khi cụ Trần Kỳ, ngƣời huyện

Thiên Bản phủ Kiến Hƣng đỗ tiến sĩ (Đồng tiến sĩ xuất thân) Khoa Đinh Mùi năm

Hồng Đức thứ 18 (1487), đỗ sau cụ Trần Bích Hoành 9 năm. Rõ ràng, cụ Trần Bích

Hoành đỗ cao hơn cụ Trần Kỳ. Vậy nếu có chuyện hai cụ tranh nhau chức tiên chỉ

và nếu phải nhƣờng thì phần nhƣờng thuộc về cụ Trần Kỳ?

Đó là những “mảnh vụn” lịch sử trong ký ức dân gian vùng Kẻ Giày xƣa về

sự kiện chia tách xã (biệt xã) mà lâu nay thƣờng đƣợc gán ghép để biện giải cho

87

mối quan hệ biệt xã giữa bên Vân Cát và Tiên Hƣơng.

Tuy nhiên, qua tƣ liệu Hán Nôm, có thể khẳng định, vào khoảng đầu thế kỷ

XIX, câu chuyện biệt xã (tách xã) giữa Vân Cát và Tiên Hƣơng gắn với sự kiện

thôn Vân Cát tách khỏi xã An Thái (mới) để thành lập xã Vân Cát đƣợc phản ánh

rất rõ. Sau đó, xã An Thái (mới) đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng. Trƣớc và sau

mốc thành lập và chia tách xã An Thái (mới), mối quan hệ địa chính và văn hóa

giữa Vân Cát và Tiên Hƣơng tƣơng đối phức tạp, có nhiều điều hấp dẫn, li kỳ. Qua

đây, một giả thiết để làm việc đƣợc đặt ra là: Phải chăng, câu chuyện biệt xã (chia

tách) mà truyền thuyết dân gian bên Tiên Hƣơng lƣu giữ phảng phất bóng dáng của

cuộc chia tách Kẻ Giày (tên gọi Nôm, không phải tên gọi hành chính) trong khoảng

cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI thành những đơn vị địa chính mới, trong đó có xã

Vân Cát và xã An Thái? Về vấn đề này, nghiên cứu sinh sẽ tiếp tục giải mã qua tƣ

liệu Hán Nôm ở phần sau.

3.1.1.2. Vân Cát

Trong điều kiện tƣ liệu hiện nay, cũng chƣa thể xác định đƣợc tuyệt đối về

thời điểm xuất hiện địa danh Vân Cát. Dấu vết “mờ” về sự xuất hiện của Vân Cát

với tƣ cách là đơn vị cấp xã, đƣợc Đại Việt Sử ký toàn thư (Bản Nội các quan bản,

bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 - 1697) ghi nhận nhƣ sau:

Mậu Tuất, [Hồng Đức] năm thứ 9 (1478), (Minh Thành Hóa năm thứ

14). Mùa xuân, tháng 2, ngày 23, ra sắc chỉ cho ba ty Đô, Thừa, Hiến các

xứ, ngƣời nào liêm khiết hay đƣợc xét các quan lại trong bộ thuộc của

mình, ngƣời nào liêm khiết hay tham ô, chuyên cần hay lƣời biếng, cùng

các quan Nho học dạy dỗ nhân tài, hằng năm có ngƣời đƣợc sung Cống

sĩ hay không, nhiều hay ít, đều ghi tên tâu lên [14b] để định việc thăng

hay giáng.

Ra sắc chỉ cho các quan thừa tuyên, phủ huyện các xứ trông nom việc

đồng ruộng, khuyên dân lấy nƣớc vào ruộng để kịp thời gieo cấy.

Tháng 3, tổ chức thi hội cho các cử nhân trong nƣớc. Lấy đỗ bọn Lê

Ninh gồm 26 ngƣời.

(Lê Ninh ngƣời Thụ Ích, Yên Lạc, là ông của Hiến).

88

Mùa hạ, tháng 5, ngày 14, vua ra hiên, ra đề văn sách, hỏi về đế vƣơng

trị thiên, duyệt các bài trả lời. Cho Lê Quảng Chí đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ

cập đệ Đệ nhị danh, Trần Bích Hoành, Lê Ninh đều đỗ Đệ nhất giáp tiến

sĩ cập đệ Đệ tam danh (Quảng Chí ngƣời [xã] Thần Đầu, [huyện] Kỳ

Hoa, làm đến chức Đông Các, đƣợc tặng Thƣợng thƣ, hiệu là Hoành Sơn

Tiên sinh, đƣợc phong Thƣợng đẳng thần, là anh của [Lê Quảng] Ý;

Bích Hoành ngƣời [làng] Vân Cát, [huyện] Thiên Bản. Bọn Nguyễn

[51a] Địch Tâm 9 ngƣời đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân. Bọn Nguyễn

Nghiễm 50 ngƣời đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân [18, tr. 485].

Chứng tích rõ hơn về tên gọi Vân Cát với tƣ cách là đơn vị cấp xã, ít nhất đã

xuất hiện trên sắc phong (bản gốc) hiện đƣợc lƣu ở nhà thờ Trần Bích Hoành (thôn

Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định hiện nay). Tại đây, còn một

số sắc phong, trong đó có 02 sắc thời Lê Trung hƣng, phong cho hậu duệ của cụ

Trần Bích Hoành ghi nhận Vân Cát đƣơng thời là tên địa danh cấp xã, thuộc huyện

Thiên Bản:

1). Sắc niên đại Đức Long năm thứ 3 (1631), sắc cho Phó chánh Đội trƣởng

Trần Bá Cơ, ngƣời xã Vân Cát, huyện Thiên Bản - Sắc Thiên bản huyện, Vân Cát

xã Phó chánh Đội trƣởng Trần Bá Cơ 勑 天 本 縣 雲 葛 社 副 正 隊 長 陳 伯 基;

2). Sắc niên đại Vĩnh Hựu năm thứ 5 (1739), sắc cho Trần Thị Ban, ngƣời xã

Vân Cát, huyện Thiên Bản – Sắc Thiên bản huyện, Vân Cát xã Trần Thị Ban 勑 天

本 縣 雲 葛 社 陳 氏 班.

Nhƣ vậy, qua sắc phong hiện lƣu tại nhà thờ Trần Bích Hoành có thể khẳng

định, ít nhất từ nửa đầu thế kỷ XVII và dƣới thời Lê Trung hƣng, Vân Cát đã tồn tại

với tƣ cách là địa danh cấp xã - xã Vân Cát, thuộc huyện Thiên Bản - Thiên bản

huyện, Vân Cát xã 天 本 縣 雲 葛 社.

Sang thời Nguyễn, năm Gia Long thứ 4 (1805), tài liệu địa bạ vẫn ghi nhận

Vân Cát là đơn vị cấp xã (xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng). Khi ấy,

xã Vân Cát thuộc huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng, xứ Sơn Nam Hạ (山 南 下 處

義 興 府 天 本 縣 雲 葛 社) [119], xã An Thái cũng thuộc huyện Thiên Bản, phủ

89

Nghĩa Hƣng, xứ Sơn Nam Hạ (山 南 下 處 義 興 府 天 本 縣 社 安 泰) [120]. Sau

đó, chƣa rõ lý do nhƣng ít nhất từ năm Gia Long thứ 10 (1811), Vân Cát lại trở

thành một thôn/giáp, thuộc xã An Thái - tạm gọi là xã An Thái (mới).

Sau khi chia tách, xã An Thái (mới) đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng. Từ

đây, hai xã Vân Cát và Tiên Hƣơng giữ tƣ cách là những đơn vị địa chính cấp xã

độc lập về địa chính và thờ tự, ổn định về cơ cấu cho đến khi cùng hợp nhất với xã

Kim Bảng thành xã Kim Thái vào năm 1947.

3.1.1.3. An Thái

Khảo chứng qua tƣ liệu Hán Nôm, về thời điểm xuất hiện của địa danh An

Thái nhƣ vừa mờ vừa tỏ. Trong Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược, Khiếu

Năng Tĩnh, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân Khoa Canh Thân (1880), ngƣời

xã Chân Mỹ (nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cƣờng), huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định,

đƣơng thời là một ngƣời rất am tƣờng lịch sử Nam Định đã gián tiếp khẳng định, từ

cuối thế kỷ XV, An Thái đã tồn tại với tƣ cách là một xã thuộc huyện Thiên Bản,

bởi theo ông, “Trần Kỳ: Ngƣời xã An Thái, huyện Thiên Bản, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ

xuất thân khoa Đinh Mùi năm Hồng Đức 18 (1487), làm quan Đông các Điện đại

học sỹ” [80, tr. 36]. Đành rằng, ghi chép của ông có thể cũng chỉ là ảnh xạ của lịch

sử, bởi khi Khiếu Năng Tĩnh viết những dòng này, cụ Trần Kỳ đã đỗ tiến sĩ cách đó

khoảng 400 năm - Bia đề danh tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức năm thứ

18 (1487) hiện đang dựng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội chỉ ghi ngắn gọn:

Trần Kỳ 陳 琦, ngƣời huyện Thiên Bản, phủ Kiến Hƣng 建 興 府 天 本 縣 đỗ Đệ

nhị giáp Tiến sĩ xuất thân mà không ghi rõ ông là ngƣời xã nào.

Qua thần sắc hiện lƣu tại phủ Tiên Hƣơng, có thể tạm khẳng định, ít nhất từ

nửa đầu thế kỷ XVIII, An Thái đã giữ tƣ cách là một đơn vị địa chính cấp xã - xã

An Thái, thuộc huyện Thiên Bản. Cụ thể, mặt sau sắc phong cho Liễu Hạnh Công

chúa năm Vĩnh Khánh 2 (1730) ghi chú: Thiên Bản huyện, An Thái xã 天 本 縣 安

泰 社 - xã An Thái, huyện Thiên Bản. Ngoài ra, thông tin xã An Thái, thuộc huyện

Thiên Bản còn đƣợc ghi lại trên mặt sau hai sắc phong cho: Quế Hoa Công chúa

năm Cảnh Hƣng 44 (1783) ghi: 天 本縣 安 泰 社 黃 焚 Thiên Bản huyện, An Thái

90

xã hoàng phần - [ý là] xã An Thái, huyện Thiên Bản hóa; và, sắc phong Duy Tiên

Công chúa năm Cảnh Hƣng 44 (1783) ghi: 天 本 縣 安 泰 社 黃 焚 Thiên Bản

huyện, xã An Thái hoàng phần - [ý là] xã An Thái, huyện Thiên Bản hóa. Ngoài ra,

mặt sau sắc phong cho Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên Công chúa năm

Cảnh Hƣng 28 (1767) ghi: 安 泰 殿 第 二 An Thái điện Đệ nhị - (Sắc phong cho)

Mẫu Đệ nhị, điện/đền An Thái. Một điểm cần lƣu ý là: Xét về mặt thể thức thì các

sắc thời Lê chỉ phong trực tiếp cho thần, không ghi thông tin xác nhận sắc ban cho

cộng đồng/đơn vị hành chính nào (không quy định rõ nghĩa vụ thờ cúng cho bất kỳ

xã, tổng, huyện… nào), do đó, những thông tin này không thuộc phạm vi nội dung

lòng sắc mà chỉ có tác dụng ghi để chỉ dẫn/đánh dấu cho dễ nhận biết khi cuộn sắc

vào hoặc cũng có thể đây là những bản phó, sau khi chế xong hoặc tiếp nhận, những

thông tin trên đƣợc ghi vào để khẳng định/đánh dấu các sắc này thuộc về xã An

Thái, huyện Thiên Bản. Vậy tại sao hai thần sắc phong năm Cảnh Hƣng 44 (1783),

với mặt sau ghi rõ: Thiên Bản huyện, An Thái xã hoàng phần 天 本 縣 安 泰 社 黃

焚 - [ý là] xã An Thái, huyện Thiên Bản hóa nhƣng lại không đƣợc hóa mà còn tồn

tại đến tận ngày nay? Rất có thể, vì một lý do nào đó, nhƣ gặp biến cố lớn kéo dài -

do chiến tranh, vỡ đê, lụt lội chẳng hạn mà sau khi rƣớc sắc về, cộng đồng chƣa có

điều kiện tổ chức hành lễ hóa sắc dâng thần?

Nhân đây, xin nói thêm về tục “phần hoàng”, tức hóa sắc gửi cho thần. Tục

xƣa, khi đƣợc ân điển vua phong, thƣờng thì đƣơng sự phải kính cáo với tổ tiên

bằng cách dâng văn tế viết trên giấy vàng, tế xong rồi hóa đi, gọi là phần hoàng, dân

gian gọi là hóa vàng. Đối với việc thờ thần cũng vậy, ngoài việc hóa văn tế còn có

tục tuyên sắc (tuyên đọc sắc) rồi hóa sắc gửi cho thần để thần biết đƣợc sắc lệnh của

vua và tiếp nhận sắc, bởi trong xã hội quân chủ Việt xƣa, vua là thiên tử (con trời),

với ý thức khẳng định, dƣới gầm trời này, không có đất nào không thuộc về vua,

không có ai không phải là bề tôi của vua. Với thần linh cũng vậy, vua có quyền hiệu

triệu thần linh dốc sức hiệu linh phù hộ xã tắc, hoàng gia và thần dân trăm họ. Vua

có quyền ban sắc phong tặng hoặc phế truất thần (không cho thờ phụng).

Trƣớc thời Nguyễn, đến dịp, sau khi nhận bản kê khai của địa phƣơng, đối

91

chiếu quy định, thƣờng là Cục Quản giám bách thần xem xét, lập danh sách các

thần xứng đƣợc phong hoặc gia phong trình vua phê duyệt. Với các vị thần xứng

đƣợc phong hoặc gia phong, triều đình sẽ cấp sắc về địa phƣơng, nơi thờ tự, gồm

bản chính và bản phó với nội dung, hình thức nhƣ nhau (01 bản hóa gửi cho thần,

01 bản giữ lại làm vi bằng - để đối sánh). Về sau, xét thấy việc này tốn kém, gây

lãng phí, triều đình chỉ cấp 01 bản. Vì thế, khi tiếp nhận sắc, dân muốn theo lệ cũ,

nếu hóa sắc gốc thì không có gì giữ lại làm vi bằng (bằng chứng) nên phải tự sao

hoặc thuê ngƣời sao y (số lƣợng tùy nhu cầu hành lễ, thờ tự), tế xong rồi hóa để tỏ

rõ lòng thành kính đối với thần. Tuy nhiên, việc sao y sắc (nhƣ thật) không hề đơn

giản - Xuất phát từ nhu cầu này, “dịch vụ ngầm” sao y sắc dần đƣợc hình thành và

phát triển, len lỏi vào tận cung đình. Ngoài ra, việc sao sắc trong một số cộng đồng

làng xã còn nhằm mục đích phục vụ cho lệ rƣớc sắc và tuyên sắc…

Qua điền dã, thực tế nghiên cứu sinh cũng đã bắt gặp một vài trƣờng hợp tại

di tích hiện còn lƣu cả bản chính và bản phó (sao) thần sắc của triều đình phong cho

cùng một vị thần tại một thời điểm, nhƣ ở miếu Voi Phục, xã Tân Hội, huyện Đan

Phƣợng, thành phố Hà Nội chẳng hạn - Sắc phong cho “Hộ Dân Hoằng Huệ Từ

Quản Giới Hậu Trạch Quảng Tế Hiển Hựu Phổ Trạch Hiển Khánh Hoằng Hƣu

Phù Vận Khuông Quốc Tế Thế Trạch Dân Hậu Đức Chí Nhân Dũng Lƣợc Cƣơng

Chính Phong Công Tá Tích Dƣơng Vũ Phù Tộ Hùng Tài Uy Dũng Diễn Phúc

Đốc Bật Khang Dân Hộ Quốc Tuy Dân Đại vƣơng” ngày Hai mƣơi tám tháng

Mƣời hai năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642), đều đƣợc viết trên giấy sắc vẽ hoa văn

rồng mây, đóng dấu Sắc mệnh chi bảo. Tuy nhiên, khi đối chiếu, so với bản chính,

bản phó (sao y) viết thiếu ba chữ (trong đó có hiện tƣợng kính khuyết một chữ/để

cách nhật ở dòng niên đại).

Dƣới thời Nguyễn, lệ phong thần sắc và hóa sắc vẫn đƣợc duy trì nhƣng có

phần giản lƣợc. Điển khác, là để tránh việc lợi dụng khai man lịch sử thờ tự (tƣ cách

chính thần), lòng sắc thời Nguyễn thƣờng ghi rõ địa chỉ thờ tự (đủ thông tin, xã,

huyện, tỉnh) và giao nghĩa vụ thờ tự cho một cộng đồng cụ thể, thƣờng là cấp xã

hoặc thôn (trƣờng hợp nhất thôn nhất xã - xã chỉ có một thôn).

Một tƣ liệu xác tín nữa ghi nhận sự tồn tại của An Thái, với tƣ cách là đơn vị

92

cấp xã (xã An Thái, thuộc huyện Thiên Bản), đó là sổ ruộng đất (địa bạ triều

Nguyễn, bản Giáp/bản thứ nhất của quốc triều Nguyễn, xƣa lƣu tại Bộ Hộ). Theo

đó, năm Gia Long thứ 4 (1805), An Thái là một xã, thuộc huyện Thiên Bản, phủ

Nghĩa Hƣng, xứ Sơn Nam Hạ (Sơn Nam Hạ xứ, Nghĩa Hƣng phủ, Thiên Bản

huyện, An Thái xã... 山 南 下 處 義 興 府 安 泰 社… [120]. Cùng thời điểm này,

xã Vân Cát cũng thuộc huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng, xứ Sơn Nam Hạ (山 南

下 處 義 興 府 天 本 縣 雲 葛 社) [119] nhƣ đã đề cập ở trên.

Muộn hơn, hai sắc phong cho Liễu Hạnh Công chúa và Quảng cung Quế

Hoa Công chúa, đều có niên đại năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), hiện đang đƣợc lƣu

giữ tại phủ Tiên Hƣơng cũng đều ghi nhận, đƣơng thời (1821) xã An Thái thuộc

huyện Thiên Bản:

- Sắc phong cho Liễu Hạnh Công chúa ngày Hai mƣơi mốt tháng Bảy năm

Minh Mệnh 2 (1821):

敕 帝 釋 僊 庭 柳 杏 公 主 護 國 庇 民 稔 著 功 德 經 有 歷 朝 封 贈. 奉

我 世 祖 高 皇 帝 大 振 英 威 開 拓 疆 土 肆 今 丕 膺 耿 命 光 紹 鴻 圖 緬 念 神

庥 蓋 隆 恩 典 可 加 贈 洪 施 普 度 英 靈 上 等 神 準 許 天 本 縣 安 泰 社 依 舊

奉 事 神 其 相 佑 保 我 黎 民.

故 敕.

明 命 貳 年 柒 月 貳 拾 壹 日.

Sắc cho Đế Thích Tiên Đình Liễu Hạnh công chúa. Thần đã có công hiển

linh cứu nước, giúp dân, đã được các triều phong tặng sắc phong. Nhân dịp Thế Tổ

Cao Hoàng đế triều ta tỏ rõ uy phong, mở mang bờ cõi, nay thừa mệnh lớn, nhớ

đến ơn thần gia ơn ban sắc nối dài tự điển, gia tặng Hồng Thí Phổ Độ Anh Linh

Thượng đẳng thần. Cho phép xã An Thái, huyện Thiên Bản được phụng thờ theo

như lệ cũ. Thần hãy che chở, bảo vệ muôn dân của trẫm.

Vậy nên ban sắc.

Ngày Hai mươi mốt tháng Bảy năm Minh Mệnh 2 (1821).

- Sắc phong cho Quảng cung Quế Hoa Công chúa ngày Hai mƣơi mốt tháng

Bảy năm Minh Mệnh 2 (1821):

93

敕 第 三 玉 女 廣 宮 桂 花 公 主 護 國 庇 民 稔 著 功 德 經 有 歷 朝 封 贈

. 奉 我 世 祖 高 皇 帝 大 振 英 威 開 拓 疆 土. 肆 今 丕 膺 耿 命 光 紹 鴻 圖 緬

念 神 庥 蓋 隆 恩 典 可 加 贈 靈 光 玄 妙 中 等 神. 準 許 天 本 縣 安 泰 社 依 舊

奉 事 神 其 相 佑 保 我 黎 民.

故 敕.

明 命 貳 年 柒 月 貳 拾 壹 日.

Sắc cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Hoa Công chúa. Thần đã có công

hiển linh cứu nước, giúp dân, đã được các triều phong tặng sắc phong. Nhân dịp

Thế Tổ Cao Hoàng đế triều ta tỏ rõ uy phong, mở mang bờ cõi, nay thừa mệnh lớn,

nhớ đến ơn thần gia ơn ban sắc nối dài tự điển, gia tặng Linh Quang Huyền Diệu

Trung đẳng thần. Cho phép xã An Thái, huyện Thiên Bản được phụng thờ theo như

lệ cũ. Thần hãy che chở, bảo vệ muôn dân của trẫm.

Vậy nên ban sắc.

Ngày Hai mươi mốt tháng Bảy năm Minh Mệnh 2 (1821).

Sau niên đại Minh Mệnh, dƣới thời Thiệu Trị, sắc phong cho Liễu Hạnh

Công chúa vào năm Thiệu Trị 4 (1844) và sắc phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng

cung Quế Anh Phu nhân vào năm Thiệu Trị 4 (1844) tại phủ Tiên Hƣơng cũng ghi

nhận, đƣơng thời (1844), An Thái là một xã thuộc huyện Thiên Bản - Cho phép xã

An Thái, huyện Thiên Bản được phụng thờ thần theo như lệ cũ. Thần hảy che chở,

bảo vệ muôn dân của ta (準 許 天 本 縣 安 泰 社 依 舊 奉 事 神 其 相 佑 保 我 黎

民 Chuẩn hứa Thiên Bản huyện, An Thái xã y cựu phụng sự. Thần kỳ tƣơng hựu,

bảo ngã lê dân).

Qua đây, có thể khẳng định, thông tin ghi chú trong Tiên từ phả ký (đƣợc

nhiều làng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh chép hoặc biên soạn lại để làm thần tích), do

Huấn Đạo Việt Yên Trần Bình Hành, ngƣời Tiên Hƣơng) sao, đƣợc khắc in trong

Tiên phả dịch lục khẳng định năm Gia Long thứ 4 (1805), bản triều đổi tên xã An

Thái là xã Tiên Hƣơng (Bản triều Gia Long tứ niên cải An Thái xã vi Tiên Hƣơng

xã 本 朝 嘉 隆 四 年 改 安 泰 社 為 仙 鄉 社) [40] là thông tin không chính xác.

Chƣa rõ, lỗi này là vô tình hay cố ý và thuộc về ai, bởi địa bạ và thần sắc liên quan

94

nhƣ đã đề cập đều là những bản gốc, thuộc loại sổ sách, văn bản hành chính do triều

đình ban hành. Phải đến cuối thời Thiệu Trị - đầu thời Tự Đức, xã An Thái đƣợc đổi

tên thành xã Tiên Hƣơng nhƣ đã khẳng định ở trên.

3.1.1.4. Tiên Hương

So với Vân Cát và An Thái, Tiên Hƣơng là địa danh xuất hiện khá muộn.

Qua Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã tục lệ 南 定 省 務 本縣

同 隊 總 各 社 俗 例, ít nhất từ năm Tự Đức thứ 3 (1850), Tiên Hƣơng với tƣ cách

là đơn vị địa chính cấp xã đã chính thức xuất hiện trong bản kê khai về tục lệ của xã

này (Tục lệ xã Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) [120].

Cũng theo, Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã tục lệ 南 定 省 務

本縣 同 隊 總 各 社 俗 例, năm Tự Đức thứ 10 (1857), Vân Cát với tƣ cách là đơn

vị địa chính cấp xã lại đã xuất hiện trong bản ghi tục lệ của xã này (Tục lệ xã Vân

Cát, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) [129]. Sau khi thôn Vân Cát

đƣợc tác khỏi xã An Thái (mới) (biệt xã) tái lập xã Vân Cát, xã An Thái (mới) mới

chính thức đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng. Từ đây, xã Tiên Hƣơng giữ cơ cấu 1

xã, 3 giáp/thôn (Vân Đình - tức thôn Tiên Hƣơng, La Tây (sau tách thành La Khê

và Tây Cầu) và Nham Miếu), rồi đa dạng hơn nữa, cho đến khi hợp nhất với xã Vân

Cát, xã Kim Bảng thành xã Kim Thái năm 1947.

Từ những trình bày trên, có thể tạm xác lập mối quan hệ địa chính cơ bản

giữa Kẻ Giày - Vân Cát - An Thái - Tiên Hƣơng trong diễn trình lịch sử nhƣ sau:

Kẻ Giày, nơi có nghề làm bánh Giày, vốn thuộc vùng đất Kẻ Trần của họ Trần (Kẻ

Trần), nổi tiếng với phủ Giày và truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh, trong đó

có thuyết Mẫu giáng trần để lại nghề làm bánh giày và chiếc giày trên vùng đất

này... Qua những bƣớc phát triển, có lẽ, đến khoảng cuối thế kỷ cuối XV - đầu thế

kỷ XVI, Kẻ Giày đƣợc chia tách để định hình những đơn vị địa chính nhỏ hơn,

trong đó có xã Vân Cát và xã An Thái. Dƣới thời Lê, xã Vân Cát và xã An Thái đều

thuộc huyện Thiên Bản, phủ Kiến Hƣng (sau đổi thành Nghĩa Hƣng), xứ Sơn Nam

hạ. Hai xã ổn định, độc lập về địa chính ít nhất tới năm Gia Long thứ 4 (1805).

Trong khoảng những năm 1805 - 1811, xã Vân Cát đƣợc sáp nhập với xã An Thái

95

thành xã An Thái (mới) và trở thành thôn/giáp Nhất trong cơ cấu 4 giáp của xã An

Thái (mới). Sau đó, khoảng những năm đầu dƣới thời Tự Đức nhƣng không thể

muộn hơn năm Tự Đức thứ 3 (1850), xã Vân Cát lại đƣợc tách khỏi xã An Thái

(mới), tái lập xã Vân Cát, xã An Thái (mới) đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng. Hai

xã đều thuộc tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, tiếp tục ổn định, hoàn

toàn độc lập về quan hệ địa chính cho đến khi cùng hợp nhất với xã Kim Bảng

thành xã Kim Thái vào năm 1947.

3.1.2. Không gian văn hóa liên quan tới khu vực phủ Giày và danh hiệu

phủ Giày

Trƣớc tiên, xin nhắc lại câu chuyện biệt xã giữa Vân Cát và Tiên Hƣơng mà

GS. Trần Quốc Vƣợng đã dày công lƣợc thuật: Khoảng thế kỷ XV, hai cụ nghè Vân

Cát (Trần Bích Hoành) và Tiên Hƣơng (Trần Kỳ) tranh nhau ngôi tiên chỉ, cuối

cùng, cụ nghè bên Vân Cát thua, phải chạy biệt xã [79].

Nếu cƣỡng khảo, hồi cố này ắt hàm chứa một phần sự thật lịch sử. Lờ mờ

đâu đó nhƣ thoáng thấy câu chuyện tách xã (biệt xã) trong bối cảnh lịch sử - văn

hóa của Kẻ Giày từ khoảng cuối thế kỳ XV - đầu thế kỷ XVI. Vậy câu chuyện biệt

xã hay gọi nôm na là chia làng, tách xã diễn ra ở thời điểm này cụ thể ra sao?

Chuyện biệt xã (tách xã), ắt hẳn phải có từ sau khi hai cụ nghè về làng (trong

khoảng thế kỷ XV)? Không biệt xã, sao có xã Vân Cát và xã An Thái (sau đổi thành

Tiên Hƣơng) đƣợc ghi nhận ít nhất từ đầu thế kỷ XVII, hiện vẫn còn chứng tích?

Một “hóa thạch văn hóa” rất đáng quan tâm, đó là: 2 mẫu, 7 sào, 12 thƣớc, 0

tấc ruộng công của xã Bảo Ngũ và xã Bất Di (tổng Bảo Ngũ, tổng láng giềng của

tổng Đồng Đội) tại xã Vân Cát, đƣợc ghi nhận trong sổ ruộng đất của xã Vân Cát

lập năm Gia Long thứ 4 (1805) [119]. Tại thời điểm này, xã Vân Cát không còn

ruộng công, xã An Thái (sau đổi thành Tiên Hƣơng) cũng chỉ còn: 4 mẫu, 0 sào, 5

thƣớc, 1 tấc [120].

Mối quan hệ thờ phụng Mẫu Liễu Hạnh giữa Vân Cát và dân tổng Bảo Ngũ

(các xã Bảo Ngũ, xã Bất Di, xã Thái Tuyển…), với xã Bảo Ngũ vẫn còn nồng đƣợm

ít nhất đến cuối thời Nguyễn: “Xã Vân Cát, tổng Đồng Đội và xã Thái Tuyển, tổng

Bảo Ngũ có lệ cùng nhau phụng sự Thánh Mẫu ở phủ Cố Trạch. Họ ƣớc với nhau,

96

cứ tới ngày kỵ Mẫu - Mùng Ba tháng Ba thì tới làm lễ, ngày mùng Bảy, mùng Tám,

mùng Chín thì cùng nhau bàn việc lễ bái...” [80, tr. 100]. Đặc biệt, hội giỗ Mẫu Vân

Cát còn có tục rƣớc Mẫu sang chùa Bảo Ngũ thỉnh kinh.

Hội hoa trƣợng (xếp chữ) tại khu vực phủ Giày hiện nay, đƣợc cho là gắn với

bà Thái phi họ Trịnh (ngƣời xã Bảo Ngũ, tổng Bảo Ngũ), từng cầu đảo tại phủ Giày,

đƣợc nhƣ nguyện (làm Thái phi nhà Trịnh), trở về báo đáp ơn Mẫu, nghĩa dân:

“Truyền rằng, Trịnh Thái Phi đến cầu ở đền Mẫu, đƣợc ứng nghiệm rõ rệt, lúc ấy xã

dân đang đắp đê, khơi nƣớc kinh thành, phi muốn tạ ơn bèn miễn sƣu dịch cho dân

về hết, bỏ mai cuốc dùng gậy dƣơng biển kéo chữ “Thánh cung vạn tuế, Mã Vàng

Công chúa, Thái bình ca xƣớng, Quốc thái dân an, Sở cầu nhƣ ý, Vạn thế phúc thần,

Dân lại dĩ an” để đáp lễ Mẫu trong ngày kị. Từ đó thành lệ của đền Vân Cát. Đến

thời Tự Đức thì Vân Cát ít ngƣời không lo đƣợc bèn giao cho đền Tiên Hƣơng. Đến

nay, Tiên Hƣơng vẫn giữ lệ này” [80, tr. 101]. Mờ hơn, giữa Tiên Hƣơng với đất

Xuân Bảng/Kim Bảng xƣa, xã Cái của tổng Đồng Đội thời Nguyễn (nay thuộc xã

Kim Thái), nơi có núi Kim Bảng, gắn với truyền thuyết ra đời của Trạng nguyên

Lƣơng Thế Vinh thời Trần: “Khi bố mẹ ông Lƣơng Thế vinh đến núi này cầu đẻ

đƣợc con trai thi đỗ, ông Lƣơng mới đổi thành núi Kim Bảng. Qua các đời có nhiều

quan lại du ngoạn góp công góp của dựng chùa đền tạo cảnh” [80, tr. 14], nay còn

xóm Già cũng không thể tách rời An Thái - Tiên Hƣơng về địa - văn hóa, mặc dù từ

thế kỷ XVII, dân xã Kim Bảng đã có nhiều ngƣời đi theo Công giáo, nay vẫn còn

Giáo xứ Kim Bảng khá nổi tiếng.

Dƣới đây, xin dẫn thông tin về ruộng đất của xã Vân Cát và xã Tiên Hƣơng

tại thời điểm năm 1805 để cùng nhìn nhận lại một số vấn đề lịch sử liên quan:

Bảng 1: Thống kê ruộng đất của xã Vân Cát và xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ

Nghĩa Hƣng, xứ Sơn Nam hạ theo địa bạ lập năm Gia Long thứ 4 - 1805

Ruộng tƣ (Tƣ điền)

Đất đền (Thần từ thổ)

Gò (Thổ phụ )

Ruộng công (Công điền) của xã khác cùng huyện

Xã Vân Cát

Ruộng công (Công điền)

Nghĩa trang (Tha ma)

Ruộng, đất công và tƣ (Công tƣ điền thổ)

Đất, vƣờn, ao (Thổ trạch viên trì)

Sông ngòi (Khê cừ thủy đạo)

Ruộng của đền, chùa (Thần từ, Phật tự điền)

97

0 mẫu

2 đoạn

2 mẫu, 2 sào, 7 thƣớc, 7 tấc

10 mẫu, 3 sào, 12 thƣớc, 4 tấc

2 mẫu, 3 sào, 13 thƣớc, 3 tấc

21 mẫu, 6 sào, 0 thƣớc, 0 tấc

450 mẫu, 8 sào, 6 thƣớc, 6 tấc

9 gò, tổng: 1 mẫu, 8 sào, 0 thƣớc, 0 tấc

424 mẫu, 6 sào, 0 thƣớc, 6 tấc

Đất đền (Thần từ thổ)

2 mẫu, 7 sào, 12 thƣớc, 0 tấc - Xã Bảo Ngũ: 0 mẫu, 6 sào, 0 thƣớc, 0 tấc; - Xã Bất Di: 2 mẫu, 1 sào, 12 thƣớc, 0 tấc Ruộng công (Công điền) của xã khác cùng huyện

Gò (Thổ phụ )

Xã An Thái

Ruộng tƣ (Tƣ điền)

Ruộng công (Công điền)

Sông ngòi (Khê cừ thủy đạo)

0

0 gò

2 đoạn

0 mẫu, 0 sào, 0 thƣớc, 0 tấc

Ruộng của đền (Thần từ điền) 70 mẫu, 9 sào, 4 thƣớc, 0 tấc

Nghĩa trang và đất mộ) (Tha ma, mộ địa) 20 mẫu, 2 sào, 1 thƣớc, 0 tấc

Ruộng, đất công và tƣ (Công tƣ điền thổ) 668 mẫu, 9 sào, 9 thƣớc, 2 tấc

Đất, vƣờn ao (Thổ trạch viên trì) 79 mẫu, 3 sào, 8 thƣớc, 8 tấc

4 mẫu. 0 sào, 5 thƣớc, 1 tấc

514 mẫu, 6 sào, 7 thƣớc, 3 tấc

Tại thời điểm năm 1805, qua địa bạ của hai xã (Xem Bảng 1), tổng quan về

ruộng đất của hai xã Vân Cát và An Thái (đều thuộc huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa

Hƣng, xứ Sơn Nam Hạ) [119, 120], liên quan trực tiếp đến đền (gồm cả đình, miếu)9 và chùa, nơi thờ tự, có mấy điểm đặc biệt cần chú ý sau:

- Xã Vân Cát có 2 mẫu, 3 sào, 13 thƣớc, 3 tấc ruộng của đền, chùa, trọng khi

xã An Thái có tới 70 mẫu, 9 sào, 4 thƣớc, 0 tấc ruộng của đền.

- Xã Vân Cát có 2 mẫu, 2 sào, 7 thƣớc, 7 tấc đất đền, trong khi xã An Thái

không có.

- Xã Vân Cát có 10 mẫu, 3 sào, 12 thƣớc, 4 tấc đất nghĩa trang (nơi chôn cất),

trong khi xã An Thái có 20 mẫu, 2 sào, 1 thƣớc, 0 tấc đất nghĩa trang và đất mộ.

- Xã Vân Cát có 9 gò đất (tổng: 1 mẫu, 8 sào, 0 thƣớc, 0 tấc), trong khi xã

An Thái không có.

Khi đi sâu phân tích kỹ số liệu, chắc hẳn có thể rút ra đƣợc nhiều điều thú vị,

nhƣng trƣớc hết, có thể nhận thấy, đƣơng thời (1805), địa hình Vân Cát có nhiều gò

(9 gò đất cao), có đất đền, có ruộng đền, miếu, chùa (dù không nhiều) - Đất đền

(Thần từ thổ): 2 mẫu, 2 sào, 7 thƣớc, 7 tấc, trong khi An Thái không có, nhƣng lại

9 - Đền là từ thuần Việt chỉ nơi thờ tự, các loại hình kiến trúc thờ tự gọi theo ghi âm Hán - Việt (đình, đền, miếu, từ, nghè…), các cụ đều dịch và gọi là đền.

có tới 70 mẫu, 9 sào, 4 thƣớc, 0 tấc ruộng đền…

98

Nhƣ vậy, trong mối quan hệ địa chính và văn hóa giữa Vân Cát - An Thái tại

thời điểm lập địa bạ (1805) và Kẻ Gầy trƣớc đó, hai xã Vân Cát và An Thái chỉ độc

lập tƣơng đối về mặt địa chính, bởi hai xã chung đền và thờ tự chung thần - Đất đền

ở xã Vân Cát, ruộng đền phần lớn ở xã An Thái. Đặc biệt, ít nhất, đến năm Tự Đức

thứ 10, Vân Cát vẫn có ngôi đền gồm 2 tòa, thờ Tiền Lý Nam đế Tôn thần, với bên

tả (trái) thờ quan Thám hoa Trần Kỳ, bên hữu (phải) thờ quan Giáo thụ [186]. Ắt

hẳn, khi hai xã sáp nhập vào khoảng những năm đầu thời Gia Long (1805- 1811),

trong quá trình thƣơng lƣợng, thỏa hiệp, mỗi bên đều phải nắm chắc và tận dụng

triệt để lợi thế của mình. Cuối cùng, An Thái lắm ruộng, đặc biệt là ruộng đền, đƣợc

bảo lƣu tên xã (An Thái) sau sáp nhập, Vân Cát có đất đền giữ ngôi Giáp Nhất trong

xã An Thái (mới).

Trong mối quan hệ thờ tự chung lắm thăng trầm giữa Vân Cát - An Thái -

Tiên Hƣơng, Trần Bình Hành, Huấn đạo Việt Yên, ngƣời xã Tiên Hƣơng, huyện Vụ

Bản, đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1891), là ngƣời có công lớn trong việc xác lập

hình tƣợng Mẫu Liễu Hạnh gắn riêng với bên Tiên Hƣơng. Ông chép Tiên từ phả

ký - Phả ký đền thiêng (Trong sách này có khắc Tiên từ phả ký của Trần Bình

Hành, Khiếu Năng Tĩnh hiệu đính), sau đƣợc Kiều Oánh Mậu (1854 - 1911), đỗ Phó bảng, từng làm Tri phủ phủ Xuân Trƣờng, tỉnh Nam Định dịch Nôm, Khiếu

Năng Tĩnh (1833 - 1915) đỗ Hội nguyên tiến sĩ, là Tả Tham tri Bộ Lễ, Tế tửu Quốc Tử Giám hiệu đính, san khắc dƣới thời Thành Thái (1889 - 1907), với tựa đề Tiên

phả dịch lục, khẳng định sự tích Mẫu Liễu Hạnh gắn riêng với xã Tiên Hƣơng

(trƣớc là An Thái). Nhƣng trong chuyện này, dù cố tình hay hữu ý, cũng không thể

phủ nhận đƣợc vai trò của Vân Cát với tƣ cách là Giáp Nhất/thôn Giáp Nhất trong

xã An Thái (mới). Cụ thể, ngay sau mấy câu mở đầu Tiên từ phả ký ông đã viết: Xã

An Thái là vùng quê nổi tiếng ở huyện Thiên Bản. Đất đai bằng phẳng, phong tục

thuần phác. Đồi núi liền một dải, uốn lƣợn lƣợn quanh, nƣớc tụ hội về nhƣ chuỗi

ngọc trai. Xã có bốn giáp: Giáp Nhất - thôn Vân Cát; Giáp Nhị - thôn Vân Đình;

Giáp Tam - thôn La Tây; Giáp Tứ - thôn Nham Miếu. Trong đoạn này, ông ghi chú

thêm: Bản triều Gia Long năm thứ tƣ (1805), xã An Thái đổi thành xã Tiên Hƣơng

[244], trong khi Nam Định tỉnh địa dư chí lại khẳng định: “Xã Tiên Hƣơng: trƣớc là

99

Yên (An) Thái, năm Tự Đức thứ 14 (1861) đổi là Tiên Hƣơng” [80, tr. 39]. Tuy

nhiên, cần khẳng định lại, là chuyện xã An Thái đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng

ở đây là có thật nhƣng không phải vào năm Tự Đức thứ 14 (1861) hoặc năm Tự

Đức thứ 15 (1862) mà diễn ra trong khoảng những năm 1844 - 1850 (cuối thời

Thiệu Trị - đầu thời Tự Đức) nhƣng không thể muộn hơn ngày Hai mƣơi nhăm

tháng Giêng năm Tự Đức thứ 3 - 1850, bởi sắc cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung

Quế Anh phu nhân Trung đẳng thần phong ngày Hai mƣơi tháng Năm năm Thiệu

Trị 4 (1844) hiện lƣu tại phủ Tiên Hƣơng xác nhận: Ngày Hai mƣơi tháng Năm

năm Thiệu Trị 4 (1844) An Thái vẫn là đơn vị cấp xã; Tục lệ xã Tiên Hƣơng, tổng

Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định lập xong ngày Hai mƣơi nhăm tháng

Giêng năm Tự Đức thứ 3 (1850) xác nhận: Ngày Hai mƣơi nhăm tháng Giêng năm

Tự Đức thứ 3 (1850) xã Tiên Hƣơng đã chính thức xuất hiện [186], tức xã An Thái

đã đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng - Tiên Hƣơng, với nghĩa là làng của Tiên/quê

của Tiên, ý khẳng định: xã này (Tiên Hƣơng) là làng của Tiên/quê của Tiên, tức

Thánh Mẫu Liễu Hạnh). Đây là một chi tiết đáng tin cậy, đƣợc rút ra trong quá trình

khảo cứu tƣ liệu Hán Nôm, có thể góp phần bổ sung, đính chính cho địa chí Nam

Định và chính sử (Đồng Khánh Địa dư chí).

Rõ ràng, dòng ghi chú (Bản triều Gia Long năm thứ tƣ (1805), xã An Thái

đổi thành xã Tiên Hƣơng) trong Tiên từ phả ký - Phả ký đền thiêng nhƣ hàm chứa

điều gì “uẩn khúc”? Mặt khác, thần tích/huyền tích về Mẫu Liễu Hạnh, dù đã có

hàng trăm dị bản còn truyền đến nay, cơ bản đều lấy cốt truyện Vân Cát thần nữ -

Thần nữ ở Vân Cát làm nền và không phủ mờ bóng dáng của Nữ thần ở Vân Cát -

Khi Vân Cát trở thành một giáp/thôn, thuộc xã An Thái (mới) thì Vân Cát vẫn luôn

giữ vai trò Giáp Nhất, oai nhất chốn đình chung.

Vậy tại sao xã An Thái lại đƣợc đổi thành xã Tiên Hƣơng?

Nếu hồi cố lại từ bối cảnh sáp nhập hai xã Vân Cát và An Thái thành xã An

Thái (mới) vào đầu thời vua Gia Long (những năm 1805 - 1811) thì đây là câu hỏi

không khó trả lời.

Khi ấy, trƣớc khi sáp nhập, mỗi bên đều giữ đƣợc lợi thế riêng để đi đến hạ

hồi phân định - An Thái giữ tên, Vân Cát giữ ngôi Giáp Nhất trong xã An Thái

100

(mới) sau sáp nhập (nhƣ đã đề cập ở trên). Sự kiện sáp nhập hai xã ở giai đoạn này,

cũng là một tiền đề đặc biệt quan trọng cho việc xác lập truyền thống thờ Thánh

Mẫu ở phủ Tiên Hƣơng, để sau xã Tiên Hƣơng có đƣợc tƣ cách chính tự riêng do

triều đình xác nhận.

Tân Biên Nam Định tỉnh Dư địa chí lược cho biết: “Đến thời Tự Đức thì Vân

Cát ít ngƣời không lo đƣợc bèn giao cho đền Tiên Hƣơng, đến nay Tiên Hƣơng vẫn

giữ lệ này” [80, tr. 101]. Vậy nội tình sự thật câu chuyện này thế nào?

Bia Cả huyện Vụ Bản tiến cúng tiền ruộng lệ ở phủ Vân Cát, tục gọi là phủ

Giày, tại phủ Vân Cát, khắc vào mùa xuân niên hiệu Khải Định thứ 6 (1921), do Đệ

tam giáp Tiến sỹ Khoa Tân Sửu, Đốc học Hải Phòng Nguyễn Văn Tính soạn, cho

biết nhƣ sau:

Hai đền Vân Cát và Tiên Hƣơng vốn dĩ chung nguồn gốc. Làng (hƣơng) này

trƣớc hợp, sau phân - Xã An Thái, thôn Vân Cát, vốn dĩ là một, sau đƣợc tách làm

đôi. Sau tách làm đôi lại nhập về làm một.

Tục truyền, hội “hoa trƣợng” bắt nguồn từ Thái phi của chúa Trịnh. Dƣới

thời Lê Trung hƣng, bà đến cầu ở đền Tiên Thánh, sau đƣợc ứng nghiệm, đã tâu lên

trên miễn cho dân huyện nghĩa vụ đắp đê khơi nƣớc ở Hà Thành. Dân huyện nhớ ơn

ấy bèn đổi mai cuốc thành gậy kéo chữ. Hằng năm, cứ đến kỳ lễ kị thì kính cẩn làm

lễ tạ, hội hợp chụm đầu, lâu ngày dần thành lệ.

Khoảng năm Tự Đức, bên Vân Cát vì thấy dân đinh thƣa ít, lo việc không

nổi, bèn đem nguyên lệ giao cho bên Tiên Hƣơng nhận làm. Tới nay đã hơn 60

năm, việc này mọi ngƣời còn biết cả.

Vào năm Khải Định thứ 3, thứ 4 (1918 - 1919), ngƣời quý tổng thăng thụ

Chánh Bát phẩm, Nghị viên Tƣ vấn xứ Bắc Kỳ, Chánh tổng Trần Khắc Kiệm

thƣơng lƣợng với chức sắc kỳ dịch xã ấy, có lời với lý dịch và Chánh Phó tổng mới,

cũ của cả huyện, thỏa thuận về các điều lệ, có văn bản đóng dấu của huyện quan,

lấy đó chiểu theo lệ trƣớc làm hội “hoa trƣợng” ở đền, ngõ hầu cùng đội ơn thần, tỏ

ý kính thành. Trong huyện bàn bạc thống nhất, ký kết, trình quan Đốc Bộ đƣờng

bản tỉnh Phạm Tƣớng công thƣơng lƣợng với Quý tòa chuẩn duyệt thi hành….

Trở lại bối cảnh lịch sử địa chính giữa Vân Cát và An Thái vào đầu thời

101

Nguyễn. Sau sáp nhập, có thể nhận thấy, trong cơ cấu xã/làng An Thái (mới), ban

đầu, bên Vân Cát giữ ngôi Giáp Nhất, “oai” nhất chốn đình chung, có đền thờ Mẫu

(chung cho cả An Thái (mới)), đã đƣợc triều đình chứng nhận tƣ cách chính tự,

chính từ đóng trên địa bàn, trong khi Tiên Hƣơng lại là bên giữ mộ phần, có nhiều

đất hƣơng hỏa. Lâu dần, vị thế của Vân Cát bị lung lay khi bên An Thái ngày càng

của đông, ngƣời lắm, lại có điều kiện thờ tự ngày một tốt hơn (nhiều ruộng hƣơng

hỏa), để rồi: “Đến thời Tự Đức thì Vân Cát ít ngƣời không lo đƣợc (khoản đóng góp

chung) bèn giao cho đền Tiên Hƣơng, đến nay, Tiên Hƣơng vẫn giữ lệ này” nhƣ

văn bia đền Vân Cát dãi bày. Sau khi thôn Vân Cát tách tách khỏi xã An Thái (mới)

tái lập xã Vân Cát, đƣơng nhiên, xã Vân Cát sở hữu riêng đền thờ Mẫu của xã An

Thái trƣớc khi chia tách vì đền nằm trên đất Vân Cát. Bên An Thái sau khi tách

(Vân Cát) nghiễm nhiên cũng đƣợc thừa hƣởng tƣ cách chính chính tự (thờ tự hợp

pháp) Thánh Mẫu Liễu Hạnh từ truyền thống xã An Thái trƣớc khi chia tách (Vân

Cát và An Thái) do chính các triều trƣớc đó xác nhận qua sắc phong. Từ đó, hai bên

cùng thờ riêng Thánh Mẫu. Đó là tiền đề quan trọng để bên An Thái sau khi tách

(Vân Cát) củng cố vai trò và cơ sở thờ tự Thánh Mẫu bên mình. Và, sau khi chia

tách không lâu, bên An Thái sau khi tách (Vân Cát) đổi tên thành xã Tiên Hƣơng,

với ý khẳng định: Tiên Hƣơng có nghĩa là làng của Tiên/quê của Tiên, ý khẳng

định: xã này (Tiên Hƣơng) là làng của Tiên/quê của Tiên, tức Thánh Mẫu Liễu

Hạnh. Bên Vân Cát thì “dƣơng cao và khuếch trƣơng” biển đề tên đền thờ Thánh

Mẫu - “Đền Cố Trạch”, với ý khẳng định, đền này (Đền Cố Trạch) là nhà ở của

Mẫu khi xƣa. Có lẽ, cũng trong bối cảnh lịch sử địa - văn hóa và quan hệ làng xã

giữa hai bên nhƣ vậy mà những huyền tích về Mẫu Liễu Hạnh gắn riêng với mỗi

bên đƣợc gia cố không ngừng, dẫn đến việc “co kéo” ngôi vị thờ tự, tƣ cách chính

tự của bản đền. Bên Vân Cát, nơi gắn với truyền thuyết về Thần nữ ở Vân Cát ra

sức củng cố thuyết Mẫu giáng sinh ở Vân Cát. Bên Tiên Hƣơng, vốn giữ đất mộ

phần (tƣơng truyền là mộ của Thánh Mẫu), với nòng cốt là họ Trần Lê (mà theo họ

là dòng dõi Mẫu), từng bƣớc, từng bƣớc “đƣa” Mẫu, cùng lai lịch, thế thứ rất rõ vào

trong gia phả, sau còn đƣợc triều đình xác nhận (phong sắc), giao cho thờ tự. Cuối

cùng, bên Vân Cát có phần “hụt hơi” khi việc thờ tự chính là việc gánh vách nghĩa

102

vụ không hề nhẹ mà triều đình giao phó, đành đem “nguyên lệ giao cho Tiên

Hƣơng”, sau lại xin chính quyền cho phép mở lại hội và đƣợc đồng thuận nhƣ văn

bia phủ Vân Cát ghi nhận, trong khi truyền thống thờ Mẫu bên Tiên Hƣơng kế thừa

An Thái liên tiếp đƣợc kéo dài qua hàng loạt sắc của các triều phong cho xã Tiên

Hƣơng, qua các thời Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải định:

- Sắc ngày Mƣời bảy tháng Mƣời năm Tự Đức thứ 5 (1852), phong cho Đệ

tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Anh Phu nhân (Hiện lƣu tại nhà thờ họ Trần Lê);

- Sắc ngày Hai mƣơi bốn tháng Mƣời một năm Tự Đức thứ 33 (1880), phong

cho Liễu Hạnh Công chúa, Duy Tiên Phu nhân và Quế Anh Phu nhân (Hiện lƣu tại

phủ Tiên Hƣơng);

- Sắc ngày mùng Một tháng Bảy năm Đồng Khánh thứ 2 (1886), phong cho

Liễu Hạnh Công chúa, Duy Tiên Phu nhân và Quế Anh Phu nhân (Hiện lƣu tại phủ

Tiên Hƣơng);

- Sắc ngày Mƣời một tháng Tám năm Duy Tân thứ 3 (1909), phong cho Liễu

Hạnh Công chúa Thƣợng đẳng thần, Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên Phu

nhân Trung đẳng thần, Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Anh Phu nhân Trung

đẳng thần (Hiện lƣu tại nhà thờ họ Trần Lê);

- Sắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định thứ 2 (1917), phong cho Đế

Thích Tiên Đình Ngọc nữ Liễu Hạnh Công chúa (Hiện lƣu tại nhà thờ họ Trần Lê).

- Sắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định thứ 2 (1917), phong cho Thân

phụ Lê Đức Chính (Hiện lƣu tại phủ Tiên Hƣơng);

- Sắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định thứ 2 (1917), phong cho Thân

mẫu Trần Thị Phúc (Hiện lƣu tại phủ Tiên Hƣơng);

- Sắc ngày Hai mƣơi nhăm tháng Bảy năm Khải Định thứ 9 (1924), phong

cho Thân phụ Lê Đức Chính (Hiện lƣu tại phủ Tiên Hƣơng);

- Sắc ngày Hai mƣơi nhăm tháng Bảy năm Khải Định thứ 9 (1924), phong

cho Thân mẫu Trần Thị Phúc (Hiện lƣu tại phủ Tiên Hƣơng)…

… Chuyện “co kéo” huyền tích Mẫu về bên mình (Vân Cát - Tiên Hƣơng)

còn đƣợc phản ánh qua nhiều giai thoại li kỳ khác nữa, mà điển hình là sự kiện Phát

103

hiện cuốn sách đồng tại đền Sòng Thanh Hóa ghi về gia phả Thánh Mẫu Mẫu Liễu

bên Vân Cát gây chấn động cả nƣớc và giới nghiên cứu Đông Dƣơng vào năm 1939

[69] nhƣng thiết nghĩ không tiện nói thêm tại đây…

Nhƣ vậy, qua những ảnh xạ văn hóa hiếm hoi còn rơi rớt, đâu đó nhƣ thoáng

thấy bóng giáng của vùng lõi văn hóa Kẻ Giày xƣa trong cơ cấu 4 giáp phân đôi =

Vân Cát + Bảo Ngũ và An Thái + Kim Bảng/Xuân Bảng (đâu đó vào khoảng cuối

thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI). Đó là màn mở đầu trong câu chuyện văn hóa làng xã

li kỳ giữa Vân Cát và An Thái ở Kẻ Giày trong mối quan hệ vốn thờ chung thần, để

rồi, tới khoảng đầu thứ kỷ XIX, xã Vân Cát sáp nhập với xã An Thái thành xã An

Thái (mới), sau lại tách ra thành xã Vân Cát và xã An Thái (sau đổi thành Tiên

Hƣơng) trong cơ chế hợp - phân (từ một thành hai, tuy hai mà một), để rồi, sau hợp

thêm xã Kim Bảng thành xã Kim Thái (năm 1947), nơi có hai phủ Giày, thuộc

huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định hiện nay.

Đó là lƣợc sử vùng lõi không gian văn hóa gắn với tín ngƣỡng thờ Thánh

Mẫu Liễu Hạnh tại khu vực phủ Giày Nam Định. Nếu xét trên phạm vi mở rộng thì

không gian văn hóa gắn với tín ngƣỡng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam

phủ, Tứ phủ trƣớc Cách mạng tháng Tám đã bao trùm không gian văn hóa của khu

vực Bắc Bộ và một số địa bàn khác có liên quan, thậm chí có thể tạm tính ít nhất từ

Thừa Thiên Huế trở ra.

Trong lịch sử, phủ Giày - phủ Vân Cát - phủ Tiên Hƣơng đều đƣợc gọi/gọi

đƣợc là phủ Giày, gắn với nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh trong ý thức về cội nguồn và tƣ

duy hồi cố dân gian của cộng đồng làng xã liên quan, đến nay vẫn vậy. Đó là

“thƣơng hiệu văn hóa” của phủ Giày ở Kẻ Giày, thuộc sở hữu chung, không của

riêng ai, riêng của bên nào dù đã trải qua nhiều bƣớc thăng trầm hợp - li/li hợp.

Theo đó, câu hỏi “Vì sao Vân Cát - Tiên Hƣơng là một hồi sau tách đôi và rồi đã

đang lần kết đôi?” [79. 398] mà tác giả Trần Quốc Vƣợng đặt ra cách đây gần 20

năm vẫn là một tồn tại lịch sử, phần nào cũng phản ánh câu chuyện biến đổi văn

hóa của các cộng đồng liên quan quanh việc thờ Thánh Mẫu ở phủ Giày Nam Định

trong diễn trình lịch sử.

3.2. Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày qua tƣ liệu Hán Nôm

104

Theo thần tích thần sắc của xã Vân Cát, xã Tiên Hƣơng và Hƣơng ƣớc của

hai xã này thì đến cuối thời Nguyễn, phủ Giày (ở Vân Cát và Tiên Hƣơng) phụng

Tam vị/Tam tòa Thánh Mẫu, gồm Mẫu Đệ nhất - Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Đệ nhị -

Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân, Mẫu Đệ tam - Quảng cung Quế Anh Phu nhân.

Ngoài ra, còn phối thờ đức Khải sinh Thánh phụ, Khải sinh Thánh Mẫu, tức thờ cha

và mẹ của Mẫu Liễu Hạnh và con của Thánh Mẫu…

Tƣ liệu Hán Nôm và tâm thức dân gian khu vực Kẻ Giày cùng khẳng định,

từ khi đƣợc phụng thờ, Mẫu Liễu Hạnh đã đƣợc suy tôn là vị thần chủ ở phủ Giày.

Qua sắc phong, ít nhất là từ thế kỷ XVII, hệ Mẫu Tam vị/Tam tòa ở phủ Giày đã

đƣợc định hình. Tuy nhiên, trong tƣ liệu Hán Nôm, ghi chép về Mẫu Liễu Hạnh đặc

biệt chiếm ƣu thế, còn ghi chép về Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân, Quảng cung

Quế Anh Phu nhân và các nhân vật khác lại khá mờ, thƣờng chỉ đƣợc chép cùng

thần tích Mẫu Liễu, với thông tin tƣơng đối khái lƣợc...

Theo thời gian huyền thoại, qua tƣ liệu Hán Nôm, về sự tích về Thánh Mẫu

Liễu Hạnh, cơ bản có thể tổng hợp thành một số thuyết cơ bản sau:

3.2.1. Thuyết Mẫu giáng sinh thời Lý Nam Đế

Chuyện Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh dƣới thời Lý Nam Đế (thế kỷ VI)

đƣợc phản ánh qua phong tục và thần tích xã Di Trạch, tổng Kim Thi, huyện Đan

Phƣợng tỉnh Hà Đông, đƣợc ghi chép trong Khảo đồng sự ký [152], có thể lƣợc

thuật nhƣ sau:

Từ xa xƣa, dân xã Di Trạch, tổng Kim Thi, huyện Đan Phƣợng, tỉnh Hà Đông đã

có đền thờ Lý Nam Đế và Hoàng hậu Cung phi - bạn của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Vì

trong xã có một bà vợ quan, một hôm bà đi gốc mộc trèo lên mái nhà đi lại nhƣ thƣờng

mà không bị ngã nên mọi ngƣời cho rằng, hồn của Địa Tiên (Thánh Mẫu Liễu Hạnh)

nhập vào ngƣời này nên mới làm đƣợc nhƣ vậy. Từ đó, trong xã luôn có nhiều làm đồng

thờ Thiên Tiên, Địa Tiên và Thủy Tiên và có lệ bầu ra một bà đồng chính. Hằng năm,

vào ngày Ba mƣơi tháng Mƣời hai, dân làng và ngƣời làm đồng chính sắm sửa lễ vật

mang ra đền cúng Lý Nam Đế và Hoàng hậu Cung phi, sau đó chuẩn bị kiệu, cờ, quạt

rƣớc bát hƣơng thờ Lý Nam Đế tại đền về điện thờ của bà đồng chính để phụng thờ.

Đúng sáu giờ sáng ngày mùng Bảy tháng Giêng, già trẻ trong làng cùng các bà đồng

105

đóng khăn, mặc áo chỉnh tề đến nhà bà đồng chính, đƣa bát hƣơng lên kiệu rƣớc về đền

thờ Lý Nam đế an vị. Sau khi rƣớc xong thì dâng bánh chay để tế. Tế xong, bà đồng

chính vào đền, trƣớc tiên lễ thánh, sau múa hƣơng, múa quyết, múa bông, múa cờ, múa

trƣợng, múa kiếm, vừa múa vừa hát chúc tụng thần để cầu cho dân đƣợc an khang,

trƣờng thọ. Nếu năm nào không rƣớc bát hƣơng từ đền về điện thờ tại nhà bà đồng chính

thì bà đồng chính sẽ không lên đồng tại đền, không chúc tụng thần, năm đó nhân dân bất

an, vật thƣờng mắc bệnh. Vì vậy, năm nào xã này cũng tổ chức rƣớc bát hƣơng và mời

bà đồng chính lên đồng chúc tụng thần để cầu cho toàn dân một năm luôn đƣợc an khang

trƣờng thọ.

3.2.2. Thuyết Mẫu giáng sinh thời Lý

Thuyết Mẫu giáng sinh thời Lý đƣợc chép trong Liễu Hạnh Băng Nƣơng

Công chúa ngọc phả cổ lục 柳 杏 冰 娘 公 主 玉 譜 古 籙 (bản chữ Hán), thuộc tập

Hà Đông tỉnh, Thanh Trì huyện, Vĩnh Ninh tổng các xã thần tích đệ thập sách 河 東

青 池 縣 永 寧 總 各 社 神 蹟 第 十 冊, AE.A2/86 [123]. Về thuyết này, có thể

lƣợc thuật nhƣ sau:

Dƣới thời Lý Thánh Tông, tại khu Đài, phƣờng An Thái, huyện Thiên

Bản, phủ Nghĩa Hƣng, đạo Sơn Nam có ông Lê Công Thƣởng, thuộc

dòng dõi thi thƣ, lấy bà Trần Thị Hiên. Ông là ngƣời tinh thông nghề

thuốc, tin theo đạo pháp, làm nhiều việc thiện, lại hay trợ cấp ngƣời

nghèo, trong nhà thờ Phật chẳng dứt khói hƣơng nhƣng đến quá ngũ tuần

(50) mà vẫn chƣa có một mống con nối dõi…

Một hôm gió mát, trong lúc thanh nhàn dƣ hứng, ông bà ngủ thiếp bên

đƣờng. Trong giấc mộng, bỗng ông mơ thấy mình lên trời, đƣợc hai vị

quan báo rằng: “Vâng lệnh Ngọc Hoàng, triệu ông vào Long môn bái

yết”. Ngọc hoàng phán bảo: “Nguyệt Tiên Công chúa bƣng chén ngọc, lỡ

tay đánh vỡ, nay cho giáng xuống trần gian làm con của nhà họ Lê”.

Ngọc hoàng sai các tiên nữ dẫn nàng Nguyệt Tiên giao cho ông đƣa về

dƣơng thế theo hƣớng Nam cửa Long môn. Sau đó, Thái bà cảm động

mang thai, đúng ngày Hai mƣơi chín tháng Một năm Giáp Thân, sinh hạ

đƣợc một cô con gái vô cùng xinh đẹp, đặt tên là Băng Nƣơng. Lên 3

106

tuổi, không may cha mẹ đều mất, Băng Nƣơng trở thành con gái nuôi của

ngƣời cậu ruột là Thái phó Trần Công Bình. Gia đình Thái phó yêu

thƣơng nàng nhƣ con ruột. Năm 13 tuổi, Băng Năng đã có tài sắc, đức độ

nổi trội trong đám nữ nhi. Trên ngƣời tỏa ra hƣơng thơm tự nhiên, thƣờng

thích hoa thơm, đồ chay, thích nghe đàn ca, làm thơ vịnh cảnh… Thấy

vậy, Thái phó liền cho con theo học Đặng công Tiên sinh. Học đƣợc mấy

năm thì tinh thông kinh điển Nho gia, Phật đạo, thấu hiểu huyền cơ, văn

võ song toàn. Năm 17 tuổi, nàng đƣợc gả cho vị thƣ sinh tên là Minh, từng

thi đỗ Tam trƣờng, có tài văn chƣơng tuyệt thế, vốn là đồng hƣơng. Vợ

chồng hòa hợp, loan phƣợng thành bầy, sắt cầm hòa hợp.

Khi Trần công nhậm chức Phủ Doãn ở phủ Phụng Thiên, có nhà ở Nam Phố,

trƣớc của thành Thăng Long. Một lần Băng Nƣơng trên đƣờng từ quê lên

kinh thành thăm cha mẹ, đến huyện Thanh Trì, phủ Thƣờng Tín, xứ Sơn

Nam Thƣợng, đúng lúc trời vừa xẩm tối, nàng trú chân ở lại huyện nha. Quan

dịch của khu Vĩnh Bảo, tổng Vĩnh Đặng và các viên chức huyện nha tiếp đón

rất long trọng, nhƣng khi thấy nhan sắc của nàng thì có ý đùa cợt, ai cũng

mong lấy đƣợc nàng làm vợ. Khi đang đùa cợt thì bỗng nhiên ai cũng nôn ọe

rồi phát bệnh, nóng, lạnh thất thƣờng, nói năng lảm nhảm, bò lăn ra đất, uống

thuốc mãi mà bệnh tình không thuyên giảm. Sau đó, họ lập đàn cầu khấn thì

đƣợc một vị thần báo mộng rằng: “Ta phụng mệnh Thƣợng đế, quyền làm

chúa tể của khu nói cho các ngƣơi biết: Băng Nƣơng vốn là con gái của Ngọc

hoàng Thƣợng đế, không phải ngƣời chốn nhân gian, nay đến huyện nha, các

ngƣơi cƣời cợt thị phi nên bị trách tội, phát bệnh, phát cuồng. Nếu muốn

đƣợc yên thì mau tìm Băng Nƣơng tạ tội”. Nghe biết vậy thì dân chúng bái

tạ, hành lễ cầu khấn, tới quan huyện trình rõ đầu đuôi, rồi lễ tạ mà đƣợc bình

yên… Năm 19 tuổi, Băng Nƣơng sinh đƣợc một ngƣời con trai, sau đó không

bệnh tự nhiên mà hóa. Từ đó, nàng thƣờng hiện về thăm thú gia đình bên

chồng và con cái, lại thƣờng biến hóa khôn lƣờng, giao du nay đây mai đó

ban phúc, giáng họa khắp nơi. Vua hay tin vô cùng tức giận, nhiều lần sai

binh mã đến Hoành Sơn diệt trừ nhƣng đều thất bại, đành lệnh cho ngƣời tạ

107

lễ, cầu đƣợc bình yên, phong làm Thƣợng đẳng Đệ nhất Chúa tiên, đƣợc

hƣởng hƣơng hỏa muôn đời, sau lại gia phong Liễu Hạnh Tiên Băng Công

chúa Hòa Diệu đại vƣơng… [37, tr. 175 - 183].

Cũng liên quan tới chuyện Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh thời Lý, trong luận

văn thạc sĩ Hán Nôm, Lê Tùng Lâm còn đề cập tới văn bản Hà đông tỉnh, Sơn Lãng

huyện, Bạch Sam tổng các xã thần tích 河 東 省 山 郎 縣 白 杉 總 各 社 神 蹟, kí

hiệu AE.A2/48, Viện Nghiên Cứu Hán Nôm [37].

3.2.3. Thuyết Vỉ Nhuế - Ghi trong Cát thiên tam thế thực lục

Đây là một cuốn sách đƣợc định bản qua một cuộc lên đồng, thỉnh Thánh

Mẫu Liễu Hạnh về kể lại sự tích của Mẫu, có ấn chứng/bút phê của Trần Hƣng Đạo,

Nguyễn Bỉnh Khiêm… “xác thực” lại sự tích của Mẫu Liễu Hạnh, rồi đƣợc san định

và khắc vào tháng trọng xuân năm Qúy Sửu niên hiệu Duy Tân (1913) - Bản lƣu tại

phủ Quảng Nạp). Theo thuyết này, Thánh Mẫu Liễu Hạnh trải qua ba kiếp giáng

sinh với lai lịch nhƣ sau:

- Kiếp thứ nhất, Mẫu giáng sinh tại thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế huyện Thái An,

phủ Nghĩa Hƣng, trấn Sơn Nam, trong nhà thái ông họ Phạm hiệu là Huyền Viên,

thái bà hiệu là Thuần hai ngƣời cùng một quê. Ở kiếp này mẫu cũng luôn giữ chữ

Trinh hiếu thảo thờ phụng cha mẹ, sau trở về chốn linh tiêu, mẫu tại thế từ năm

Giáp Dần niên hiệu Thiệu Bình nguyên niên (1434) cho tới năm Quí Tỵ niên hiệu

Hồng Đức thứ 4 (1473).

- Kiếp thứ hai, của Mẫu giáng sinh vào nhà thái công họ Lê tại xã Vân Cát,

huyện Vụ Bản, phủ Nghĩa Hƣng, thái công họ Lê tên húy là Đức Chinh. Tới

tuổi trƣởng thành đƣợc gả cho Trần Đào Lang ở thôn An Thái (sau đổi là

Tiên Hƣơng), sinh đƣợc một con trai tên là Nhâm. Ở kiếp này Mẫu tại thế từ

năm Đinh Tỵ niên hiệu Thiên Hựu nguyên niên (1555) cho tới năm Đinh

Sửu niên hiệu Gia Thái thứ 5 (1577).

- Kiếp thứ ba, Mẫu giáng sinh tại xã Tây Mỗ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa,

lấy chồng họ Mai (là tái hợp với hậu thân của Đào Lang), sinh đƣợc một con

trai tên là Cổn, đƣợc hơn một năm mẫu quay gót trở về đế hƣơng. Sau Ngọc

hoàng chuẩn cho mẫu đƣợc trắc giáng xuống cõi trần thƣờng xuyên tiêu dao

108

khắp nơi, đƣợc miễn vòng sinh tử luân hồi [11].

3.2.4. Thuyết Kẻ Giày (với nòng cốt là Truyện Vân Cát thần nữ, được cho là

của Đoàn Thị Điểm)

Về thuyết này, hiện tồn tại nhiều dị bản nhất, tuy có khác nhau về tiểu tiết

nhƣng cơ bản có thể lƣợc thuật nhƣ sau: Mẫu Liễu (Đệ nhị Tiên chúa Quỳnh Nƣơng)

vốn là con gái Ngọc hoàng. Trong hội bàn đào, vì lỡ tay đánh rơi chén ngọc, bị trích

đày xuống trần, giáng sinh làm con một gia đình họ Lê ở đất Kẻ Giày vào khoảng năm

Thiên Hựu (1557), đời vua Lê Anh Tông. Dựa theo điềm mộng (ngủ thiếp mơ lên thiên

đình đƣợc Ngọc hoàng hứa ban tặng đứa con gái), ông bố họ Lê đã đặt tên con là

Giáng Tiên, sau cho làm con nuôi của ngƣời họ Trần (ngƣời cùng làng, sát vách). Lớn

lên, Giáng Tiên có tài có sắc, giỏi về thơ phú, từ chƣơng, đàn hát, kết duyên cùng Đào

Lang (con nuôi của bố nuôi họ Trần), sinh đƣợc một ngƣời con trai và một cô con gái.

Năm 21 tuổi, đột nhiên không bệnh mà mất, nàng trở về trời.

Sau khi về trời, vì duyên trần chƣa hết, tơ tình còn vƣơng, Chúa thƣờng sầu não.

Các nàng tiên động lòng ái ngại tâu lên Thƣợng đế. Thƣợng đế đồng ý, phong làm Liễu

Hạnh Công chúa, lại cho xuống trần gian. Nàng thƣờng về nơi chốn cũ gặp ngƣời thân

(mẹ, bố, bố nuôi, anh) vào lúc chiều tối hoặc đêm (gặp chồng hẹn sẽ nối duyên). Sau

tung tích bất định, dạo chơi khắp nơi thắng cảnh (Lạng Sơn, Trƣờng An, Báo Thiên,

Đình Ngang, Bến Đông…, Tây Hồ, Nghệ An), rồi kết duyên với chàng Nho sinh (hậu

kiếp của ngƣời chồng cũ là Đào Lang), rồi lại sớm trở về trời. Nàng lại tâu với Thƣợng

đế xin đƣợc xuống trần vì duyên nợ ba sinh chƣa dứt. Thƣợng đế ƣng thuận, cho nàng

xuống vùng Phố Cát, Thanh Hóa cùng hai nàng Quế, Thị, thƣờng hiển linh ban phúc cho

ngƣời lành, giáng họa cho kẻ ác. Dân kính sợ bèn lập đền thờ. Khoảng năm Cảnh Trị

(1663 - 1671), triều đình nghe tin, cho quân và thuật sĩ đến tiễu trừ, giao tranh khốc liệt

nhƣng chẳng phân thắng bại. Khoảng vài tháng sau, bệnh dịch hoành hành, cả ngƣời và

vật đều bị giáng họa. Dân sợ hãi lập đàn cầu cúng, bỗng trong đám đông đang lễ bái có

một ngƣời chạy ra, nhảy vọt lên đàn cao ba tầng, tự xƣng là tiên nữ trên trời hiển thánh

dƣới cõi trần, sai dân tâu với triều đình xin lập đền phụng thờ làm phúc thần, bằng không

sẽ tiếp tục bị giáng họa. Vua chuẩn y, cho lập đền thờ tại Phố Cát, sắc phong Mã Hoàng

Công chúa. Sau vì có công phò vua giúp giặc mà đƣợc gia phong Chế Thắng Hòa Diệu

109

Đại vƣơng.

Trên nền thuyết này, vào cuối thời Nguyễn, bên Vân Cát và bên Tiên Hƣơng,

lại “sáng tạo” ra hai dị bản về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp Thánh Mẫu Liễu Hạnh

gắn với bên mình. Cụ thể:

- Bên Vân Cát (Vân Cát Lê gia ngọc phả) cho rằng: Tổ họ là Lê ở Vân Cát là

Lê Tƣ Vĩnh, là con thứ 5 của Lê Bang Cơ (Lê Nhân Tông). Sau khi nhà Lê bị họ

Mạc cƣớp ngôi, Lê Tƣ Vĩnh di cƣ về Vân Cát, lấy bà Trần Thị Thục, sinh ra Tƣ

Thắng. Tƣ Thắng sinh ra Giáng Tiên, tức Công chúa Liễu Hạnh. Liễu Hạnh lớn lên

lấy Đào Lang, mất năm 21 tuổi, u hồn tịch mịch, sau thƣờng hiển linh đƣợc lập đền

thờ trên nền nhà cũ, gọi là đền Cố Trạch, tức phủ Giày tại Vân Cát hiện nay [255].

Về tƣ liệu Hán Nôm ghi nhận hành trạng của Mẫu Liễu Hạnh gắn với bối cảnh

lịch sử thời Mạc, ngoài Vân Cát Lê gia ngọc phả, Vân Cát Thần Nữ cổ lục, Vân Cát cổ

lục diễn âm cũng đề cập sơ lƣợc đến hành trạng của Mẫu liên quan tới bối cảnh lịch sử

thời Lê Anh Tông và sự kiện Mạc Phúc Nguyên đóng quân tại Cao Bằng [253], [256].

- Bên Tiên Hƣơng lại cho rằng: Mẫu Liễu Hạnh là hậu duệ đời thứ 4 của Lê Quý Công, tự Phúc Tiên - tổ họ Trần ở An Thái, vốn là họ Lê. Năm Nhâm Thìn10 niên

hiệu Lê Hoằng Định (1600 - 1619), Tiên chúa (Liễu Hạnh) giáng sinh, họ này đƣợc đổi

sang họ Trần. Sinh thời, Mẫu Liễu Hạnh tên là Thắng, là con của ông Đức Chính, mẹ

là Phúc (ngƣời họ Trần), giáng sinh năm Nhâm Thìn niên hiệu Hoằng Định. Năm 19

tuổi, Mẫu lấy ngƣời họ Trần ở bản hƣơng, thôn Nhị Giáp, sau một thời gian về ở với

ngƣời em ruột, cùng phụng dƣỡng cha mẹ, đổi sang họ Trần. Giờ Dần ngày Mùng ba

tháng Ba năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628), Mẫu không bệnh tật bỗng dƣng hóa, hƣởng thọ

21 tuổi, lăng tại xứ Cây Đa. Từ đó u hồn tịch mịch, cha mẹ sớm tối thƣơng nhớ khôn

nguôi bèn lập ban thờ trong nhà, đèn nhang thờ phụng, vẫn thấy phảng phất nhƣ lúc

sinh thời. Một đêm, Mẫu hiện về trƣớc ban thờ tự thuật lại duyên cớ (sự tích có chép).

Trong xóm, ngoài làng đều cảm thấy kinh hãi. Mẫu tác yêu, tác quái khiến nhà chồng

ngày càng khánh kiệt, ra sức trấn trị nhƣng ngƣời tin theo ngày càng tôn kính, tiếng

tăm ngày một lẫy lừng, gần thì truyền tai trong xóm, xa thì thiên hạ vang danh. Tiếng 10 Trong niên hiệu Hoằng Định (1600 - 1619), không có năm Nhâm Thìn. Có lẽ, ở đây có sự nhầm lẫn về năm sinh hoặc niên hiệu vua? Dƣới niên hiệu Hoằng Định có năm Nhâm Dần - 1602 và năm Giáp Thìn - 1604

110

đồn đến tận kinh thành, dƣới thời Lê, năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642), dân phụng lệnh

chỉ dựng đền thờ lợp ngói. Năm Chính Hòa thứ 4 (1683) đƣợc tặng sắc phong. Từ đó

về sau, đền thiêng hiển hách, đƣợc triều đình nhiều lần phong tặng, thực là chuyện kỳ

lạ nhất huyện Thiên Bản dƣới quốc triều.

3.2.5. Thuyết Nội đạo tràng (Theo Nội đạo tràng)

Theo thuyết này, cơ bản sự tích về Mẫu Liễu Hạnh giống nhƣ thuyết Vân

Cát, tuy nhiên, chỉ khác là có thêm phần “Đại chiến Sòng Sơn” ghi việc Mẫu Liễu

Hạnh đại chiến với Tiền Quan Thánh tại Tam Điệp bị tiền Quan Thánh khuất phục,

Mẫu xin tha và vào chùa tu hành đắc đạo…, sau điện thờ phái Nội đạo cũng lập ban

thờ Mẫu Liễu Hạnh ở bên tả (trái).

Trên thực tế, mỗi thuyết đều có dị bản nhƣng có thể khẳng định, đây là

những “hồi quang” trong tín niệm dân gian về lai lịch của Thánh Mẫu Liễu Hạnh từ

những truyền thuyết đƣợc văn bản hóa. Đƣơng nhiên, phải thừa nhận rằng, dù

truyền thuyết là sáng tạo dân gian, thƣờng có những yếu tố tƣởng tƣợng kì ảo nhƣng

các nhân vật, sự kiện ít nhiều đều liên quan đến vấn đề lịch sử. Vậy, hạt nhân lịch

sử trong những truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở đây là gì?

Nếu để ý thì các thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh hầu hết đều có chung một

đặc điểm không khó nhận ra, đó là: Chi tiết thân phụ của Thánh Mẫu gặp Đạo sĩ rồi

chìm vào giấc mơ, thấy mình đƣợc lên trời gặp Ngọc Hoàng Thƣợng đế và đƣợc

Thƣợng đế ban cho nàng tiên (Quỳnh Nƣơng) giáng thế đầu thai làm con hoặc khi

Mẫu mất về thăm lại ngƣời thân (mẹ, chồng…)… nhƣ đều phảng phất bóng giáng

của những cuộc lên đồng thiếp/đồng mê. Đặc biệt, dù Mẫu là Tiên (con của Thƣợng

đế/Đế Thích, Ngọc hoàng gắn với Đạo giáo thần tiên/tu tiên) nhƣng đều trải qua

kiếp trần gian, có tài sắc, đức độ, sau khi mất, xuất hiện nhiều điềm báo lạ. Những

điềm lạ này thƣờng đƣợc Mẫu hiển linh nhập vào một ngƣời “phán truyền” cho

ngƣời đời hoặc đƣợc phản ánh qua tƣ duy liên tƣởng trong mối liên hệ giữa ngƣời

còn sống và ngƣời đã khuất qua thực hành đồng thiếp/mê. Đặc biệt, hầu hết các

thuyết còn có một điểm chung là xây dựng hình tƣợng Mẫu theo một motif: Mẫu

xuất thân là Thiên tiên ở chốn Thiên đình, qua ba kiếp hóa sinh và trở thành Địa

tiên tiêu giao nơi trần thế. Phải chăng, đó là một con đƣờng thiêng hóa Mẫu, thông

111

qua hình thức lên đồng, cầu tiên để con ngƣời liên hệ với thế giới siêu nhiên thuộc

cơ chế sáng tạo dân gian trong tục thờ thần của ngƣời Việt khi họ tin rằng, mỗi

ngƣời đều có một hoặc vài vị thần thủ mệnh, chi phối và quyết định vận mệnh và

cuộc sống của họ trong suốt cuộc đời...

Thần thủ mệnh, đơn giản khi chỉ đƣợc hình dung là hai khí âm - dƣơng lƣu

chuyển trong ngũ hành hoặc 12 con giáp, khi đƣợc kết hợp giữa thiên can (10) địa

chi (12) để hợp thành lục thập hoa giáp (60 năm) hoặc đƣợc hình dung là sao nọ,

sao kia… Với tín ngƣỡng thờ Mẫu cũng không phải là ngoại lệ, thậm chí còn phong

phú hơn nhiều nếu để ý tới tục đội bát hƣơng - tôn nhang phụng sự chƣ vị cai quản

bản mệnh theo lục thập hoa giáp. Theo tín đồ thờ Mẫu, bản mệnh của họ cũng bị chi

phối bởi các Mẫu và hệ thần quanh Mẫu, vì thế mà họ chỉ thực sự trở thành con của

Mẫu, đƣợc Mẫu che chở sau khi họ đƣợc tôn nhang bảng mệnh, tức đội bát hƣơng

thờ phụng ít nhất một vị thần thuộc hệ Mẫu… Phải chăng, nguyên lý Mẹ và tính mở

của “quy ƣớc” này và hình thức lên đồng/nhập đồng phán truyền đã tạo điều kiện

thuận lợi để các vị thần vốn thuộc tôn giáo, tín ngƣỡng khác đễ dàng dung hội vào

hệ thần tín ngƣỡng thờ Mẫu và ngƣợc lại, tạo tiền đề cho tín ngƣỡng này phát triển,

dễ dàng thâm nhập vào nhiều dạng thức kiến trúc thờ tự khác ở giai đoạn sau, đặc

biệt là các ngôi chùa…

Về Mẫu Đệ nhị (Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân) và Mẫu Đệ tam (Quảng cung

Quế Hoa Công chúa): Thần hiệu của hai Mẫu đã đƣợc sắc phong (hiện còn bản gốc)

tại khu vực phủ Giày đề cập đến ít nhất từ thế kỷ XVIII. Trong khi, Vân Cát Thần nữ

truyện và hầu hết các bản thần tích liên quan đều chỉ ghi nhận hai bà là những vị tùy

tùng của Thánh Mẫu Liễu Hạnh - Vân Cát thần nữ truyện ghi nhận Thánh Mẫu Liễu

Hạnh dẫn hai nàng Quế, Thị giáng xuống vùng Phố Cát, Thanh Hóa nhƣng bóng dáng

của hai bà lại tƣơng đối mờ nhạt [249]. Qua các bản thần tích, danh tính hai vị lại phức

tạp hơn nhiều. Theo khảo cứu của Lê Tùng Lâm, hiện có tới 13 bản thần tích chép hai

vị có tên là Quảng và Quế; 3 bản thần tích chép hai bà có tên là Quảng cung Quế Anh

và Quỳnh cung Duy Tiên; 1 bản thần tích chép hai bà có tên là Quảng cung Quế Hoa

và Quỳnh cung Duy Tiên; 2 bản thần tích chép hai nàng có tên Quỳnh Hoa, Quế Hoa;

1 bản thần tích chép hai bà có tên Quế, Hồng; 1 bản thần tích chép hai bà có tên Quế,

112

Hòe; 1 bản thần tích chỉ chép 1 nàng có tên Quý Thị và Lê Tùng Lâm ngờ rằng - do tên

hai nàng Quế, Thị gộp lại mà thành [37].

Theo Thư lâu phả ký thì Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân vốn là chị dâu của

Mẫu Liễu Hạnh, húy là Sâm, tự là Duy Tiên. Sinh thời, bà thích làm việc thiện,

đoan trang, thuần khiết, phụng sự cô Thắng (em dâu) nhƣ phụng sự cha mẹ. Ngày

Mùng Chín tháng Ba, bỗng dƣng không bệnh tật mà mất, hƣởng thọ 51 tuổi, u hồn

tịch mịch, linh khí tích tụ, giữa đêm mƣợn mồn ngƣời khác tự xƣng là Ngọc nữ

Quỳnh cung Duy Tiên Công chúa và đƣợc phối thờ cùng Liễu Hạnh Công chúa…

Quảng cung Quế Hoa Công chúa vốn là con của anh trai Mẫu Liễu Hạnh, gọi Mẫu

Liễu Hạnh là cô. Bà húy là Liên, tự Quế Anh. Sinh thời là ngƣời đoan trang, công

dung trọn vẹn, năm 9 tuổi, đúng ngày Rằm tháng Ba, không bệnh tự nhiên hóa, u

hồn tịch mịch, giữa ban ngày (mƣợn mồm ngƣời khác) tự xƣng là Ngọc nữ Quảng

cung Quế Hoa Công chúa, đƣợc phối thờ cùng với hai vị là Liễu Hạnh Công chúa

và Duy Tiên Công chúa. Điểm đặc biệt là có một sự tƣơng đồng đến lạ kỳ về thân

phận, danh vị của Mẫu Đệ nhị (Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân) và Mẫu Đệ tam

(Quảng cung Quế Hoa Công chúa) giữa ghi chép trong Tiên từ phả ký và hệ thống

sắc phong cho hai bà mang niên đại từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX, hiện còn đƣợc

lƣu giữ trong phủ Tiên hƣơng và nhà thờ họ Trần Lê. Theo đó, tại khu vực phủ

Giày, Mẫu Đệ nhất - Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Đệ nhị - Quỳnh cung Duy Tiên Phu

nhân, Mẫu Đệ tam - Quảng cung Quế Anh Phu nhân đã đƣợc cấu trúc, kết hợp

thành bộ ba, dạng Tam vị/Ba ngôi nhất thể - Mẫu Tam vị/Tam tòa, đều thuộc Thiên

Tiên (phủ), không phải dạng Tam phủ (Thiên, Địa, Thủy) và thƣờng đƣợc dân gian

định danh là Ba vị Thánh Mẫu Vân Hƣơng (Có thể hiểu là Ba vị Thánh Mẫu ở Vân

Cát và Tiên Hƣơng)…

Về sự “mờ nhạt” của Mẫu Mẫu Đệ nhị - Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân,

Mẫu Đệ tam - Quảng cung Quế Anh Phu nhân trong bộ ba dạng Tam vị nhất thể -

Mẫu Tam vị/Tam tòa tại phủ Giày, hiện chƣa có điều kiện lý giải thỏa đáng. Trong

kiến giải dân gian, có quan điểm cho rằng, ba vị Thánh Mẫu phủ Giày là hiện thân

của ba kiếp hóa sinh của Mẫu Liễu Hạnh. Tuy nhiên, với Đạo giáo dân gian, 瓊 宮

Quỳnh cung là thuật ngữ thƣờng dùng để chỉ chốn thiên cung hoặc đạo viện (cơ sở

113

Đạo giáo), 廣 宮 Quảng cung thƣờng chỉ cung trăng hoặc miền thanh hƣ. Từ lớp

nghĩa này, liên tƣởng tới các lần giáng thế của Thánh Mẫu Liễu Hạnh (nhiều tài liệu

ghi nhận Mẫu từng tự xƣng là Đệ nhị Quỳnh Nƣơng hoặc Quỳnh Nƣơng…) và bối

cảnh lịch sử xã hội, tôn giáo - tín ngƣỡng ở nƣớc ta đƣơng thời, một giả thiết để làm

việc đƣợc đặt ra là: Phải chăng, trong câu chuyện Mẫu Liễu giáng sinh, ngoài

những phản ánh về sự trỗi dậy mạnh mẽ của tín ngƣỡng bản địa để trở về với

nguyên lý Mẫu trong văn hóa Việt, đâu đó, nhƣ còn phảng phất lớp văn hóa đạo

giáo thần tiên trong bối cảnh biến đổi lịch sử xã hội và chuyển đổi tôn giáo vào

khoảng thế kỷ XVI - XVII, vì thế mới có chuyện Mẫu chán cảnh Thiên Tiên, ba lần

xuống trần rồi làm kiếp Địa Tiên để rồi trụ lại thế gian, tiêu dao bất định?

Trên đây là những nét cơ bản về hành trạng thần kỳ của ba vị Thánh mẫu

phủ Giày qua phản ánh của tƣ duy tôn giáo và niềm tin tín ngƣỡng đƣợc tổng hợp

và phân tích qua nguồn tƣ liệu Hán Nôm mà nghiên cứu sinh tạm định danh là

“hành trạng thần tiên”. Vậy có hay không một “hành trạng thế tục” về cuộc đời của

Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày? Câu trả lời là có. Về vấn đề này, qua tƣ liệu sắc

phong, nghiên cứu sinh xin đƣợc trở lại diễn giải làm rõ trong chƣơng 4.

Nhƣ vậy, theo diễn giải dân gian và ý thức hệ tƣ tƣởng chính thống thời

Nguyễn (triều đình xác nhận), bên cạnh “hành trạng thần tiên”, nguồn gốc Thiên

Tiên, ba vị Thánh Mẫu phủ Giày còn có “hành trạng thế tục”, với đầy đủ những

cung bậc thác ghềnh của một vòng đời thân phận nữ, để rồi, sau hợp lại thành một

thiên truyền kỳ nổi tiếng khắp vùng Thiên Bản, dƣới gầm trời Nam. Đây là một

minh chứng cụ thể về xu hƣớng “thần thánh hóa” con ngƣời bên cạnh xu hƣớng

nhân hóa thần linh trong tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời Việt, với điểm đặc biệt

là đã đƣợc chính triều đình thừa nhận

3.3. Lịch sử kiến trúc phủ Giày qua tƣ liệu Hán Nôm

Nhƣ trên đã trình bày, Vân Cát Thần nữ truyện có đề cập đến chuyện triều

đình cho dân lập đền thờ Mẫu Liễu Hạnh trong vùng Phố Cát (Thanh Hóa) dƣới

thời Cảnh Trị (1663 - 1671) nhƣng không đề cập tới chuyện xây dựng phủ Giày tại

thời điểm này. Vậy thực chất phủ Giày xuất hiện từ khi nào?

Với phủ Giày Vân Cát, văn bia Thánh Mẫu cố trạch linh từ bi ký, khắc năm

114

Tân Sửu (1901) triều vua Thành Thái (hiện lƣu tại phủ), cho biết: Đền ở Vân Cát

đƣợc dựng trên khu đất ứng giáng điềm lành từ niên hiệu Cảnh Trị thời Lê (1663 -

1671), với quy mô nhỏ hẹp. Dƣới thời Tây Sơn, niên hiệu Cảnh Thịnh (1793 -

1801), Hội nguyên Trần Gia Du, Tả Thiếu giám Trần Công Bản mở rộng quy mô.

Dƣới thời Tự Đức, vào năm Kỷ Mão (1879), Huyện doãn Lê Cơ cho sửa sang lại.

Đến tháng Sáu năm Thành Thái thứ 10 (1898) lại khởi công tu bổ, tôn tạo. Đến năm

Thành Thái thứ 12 (1900) thì hoàn thành, quy mô to lớn, rộng rãi hơn xƣa. Trong

đợt tu bổ, tôn tạo này có sự tham gia của Hiệp biện Đại học sĩ, Phó Tổng tài Quốc

sử quán kiêm quản Quốc giám, An Xuân nam, Cổ Hoan Cao Long Cƣơng, Cao

Xuân Dục. Đặc biệt, Tục lệ xã Vân Cát do quan viên, chức sắc, kỳ lão, hƣơng thôn,

giáp trƣởng toàn xã Vân Cát lập ngày mùng Một tháng Mƣời một năm Tự Đức thứ

10 (1857) còn cho biết, đƣơng thời (năm 1857), diện mạo cơ bản của các kiến trúc

thờ tự trong xã Vân Cát nhƣ sau: chùa: 1 ngôi; phủ từ phụng thờ Tiên Chúa: trong

ngoài 4 tòa, cùng hành lang, lầu gác; điện từ: 2 tòa, thờ Tiền Lý Nam đế Tôn thần,

bên tả (trái) thờ quan Thám hoa, bên hữu (phải) thờ quan Giáo thụ; đền: 1 tòa, thờ

Cẩn Hoa Công chúa; đền thờ Bản Cảnh Thành hoàng: 1 tòa [186].

Kết quả khảo sát sắc phong hiện còn tại khu vực phủ Giày cho thấy, phủ

Tiên Hƣơng hiện đang lƣu giữ 15 đạo, nhà thờ dòng họ Trần Lê còn lƣu giữ 07.

Trong đó, sắc sớm nhất (tại nhà thờ dòng họ Trần Lê) phong ngày Hai mƣơi bốn

tháng Sáu nhuận năm Chính Hòa thứ 4 (1683), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng Tề

Gia Trị Quốc Hộ Sĩ Cẩn Tiết Hòa Mỹ Đoan Trang Công chúa.

Trở lại với bối cảnh lịch sử địa chính và văn hóa khu vực phủ Giày và quan hệ

phụng thờ thần giữa Vân Cát - An Thái - Tiên Hƣơng. Vân Cát và An Thái vốn cùng

thuộc Kẻ Giày, sau Vân Cát và An Thái đƣợc tách ra thành hai xã độc lập vào khoảng

cuối thế thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI, sau lại sáp nhập lại thành xã An Thái (mới) vào

đầu thời Gia Long (khoảng từ 1805 - 1811). Tuy nhiên, đây chỉ là sự tách hợp về mặt

địa chính. Về văn hóa tín ngƣỡng, hai bên vẫn thờ chung thần và chung đền ít nhất đến

cuối thời Thiệu Trị - đầu thời Tự Đức nhƣng không thể muộn hơn năm Tự Đức thứ 3

(1850) - Thời điểm xã An Thái (mới) đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng. Tục lệ xã

Vân Cát lập năm Tự Đức thứ 10 (1857) ghi nhận, tại thời điểm lập bản tục lệ này

115

(1857), trong số các đền bên Vân Cát vẫn có ngôi đền gồm 2 tòa, thờ Tiền Lý Nam đế

Tôn thần, bên tả (trái) thờ quan Thám hoa (ngƣời Vân Cát), bên hữu (phải) thờ quan

Giáo thụ [186]… Khi ấy, bên xã Vân Cát vì đinh thƣa, dân ít không lo đƣợc việc thờ

Mẫu đã đem nguyên lệ chuyển giao cho Tiên Hƣơng. Phải chăng, trong cuộc chuyển

giao nguyên lệ này, linh vị hoặc linh tƣợng các Mẫu (nếu có), sắc phong, cùng một số

đồ thờ tự liên quan cũng đƣợc chuyển giao lại cho bên Tiên Hƣơng thờ tự? Thần nữ

(Thánh Mẫu Liễu Hạnh) vốn ở vân Cát, vì vậy, các sắc phong cho Tam vị/Ba ngôi

Thánh Mẫu đang đề cập có niên đại trƣớc khi Vân Cát tách khỏi xã An Thái (mới) tái

lập xã Vân Cát ắt hẳn vốn hoặc thuộc về xã Vân Cát hoặc thuộc về xã An Thái (mới)

(trong đó có Vân Cát). Chính vì vậy mà số sắc triều đình phong cho các Mẫu hiện còn,

nay đều thuộc về bên Tiên Hƣơng. Những ghi chép Hán Nôm về sắc phong hoặc kê

khai sắc phong của Vân Cát và Tiên Hƣơng cũng phần nào cho thấy điều này (bản

chép sắc phong của xã Vân Cát chỉ có các sắc thời Lê dù tính chân xác về nội dung có

nhiều điểm nghi vấn nhƣ đã đề cập ở trên, bản kê sắc phong xã Tiên Hƣơng chỉ có các

sắc thời Nguyễn)…

Qua đây có thể tạm khẳng định, từ khoảng thế kỷ XVI tín ngƣỡng thờ Mẫu

Liễu Hạnh đã đƣợc định hình. Tƣơng ứng với khoảng thời gian này, ở khu vực Kẻ

Giầy đã tồn tại một ngôi đền riêng thờ Mẫu Liễu Hạnh với quy mô tƣng xứng

nhƣng ít nhất từ thế kỷ XVII, phủ Vân Cát/đền Cố Trạch đã đƣợc xây dựng tƣơng

đối quy mô. Sau đó, vào năm Thành Thái thứ 10 (1898), đền này đƣợc đại trùng tu,

với sự trợ duyên của Hiệp biện Đại học sĩ, Phó Tổng tài Quốc sử quán kiêm quản

Quốc giám, An Xuân nam, Cổ Hoan Cao Long Cƣơng, Cao Xuân Dục, dân xã,

cùng thiện tín thập phƣơng. Diện mạo kiến trúc của phủ hiện nay, cơ bản là sản

phẩm của các đợt trùng tu vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX trở về sau.

Với phủ Giày Tiên Hƣơng, Thư lâu phả ký (Gia phả họ Trần Lê ở xã An

Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng), phần chép về Tổ cô húy Thắng, tự Liễu

Hạnh Công chúa, cho biết: Giờ Dần ngày mùng Ba tháng Ba năm Vĩnh Tộ thứ 10

(1628), Mẫu Liễu Hạnh không bệnh mà hóa, hƣởng thọ 21 tuổi, tôn lăng tại xứ Cây

Đa... Từ đó u hồn tịch mịch, cha mẹ sớm tối thƣơng nhớ không nguôi bèn lập ban

thờ trong nhà, đèn nhang thờ phụng phảng phất nhƣ lúc sinh thời. Bỗng một đêm,

116

mẫu hiện về trƣớc ban thờ tự thuật lại duyên cớ (sự tích có chép). Trong xóm, ngoài

làng đều cảm thấy kinh hãi, tác yêu, tác quái khiến nhà chồng ngày càng khánh kiệt,

ra sức trấn trị nhƣng ngƣời tin theo ngày càng tôn kính, tiếng tăm ngày một lẫy

lừng, gần thì truyền tai trong xóm, xa thì thiên hạ vang danh. Tiếng đồn đến kinh

thành, dƣới thời Lê, năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642), phụng lệnh chỉ dựng đền thờ lợp

ngói. Năm Chính Hòa thứ 4 (1683) đƣợc tặng sắc phong. Từ đó về sau, đền thiêng

hiển hách, đƣợc triều đình nhiều lần phong tặng, thực là chuyện kỳ lạ nhất huyện

Thiên Bản dƣới quốc triều.

Cũng theo Thư lâu phả ký, phần chép về Hiển khảo húy Đức, tự Huyền

Nhân, lại có tên húy khác là Mạn, cho biết, sinh thời, vào năm Quý Mùi (1703) niên

hiệu Chính Hòa (1680 - 1705), ông đã tiến hành cải tạo phủ từ bố cục 1 tòa thành 3

tòa, mỗi tòa 3 gian, lợp cỏ tranh, đúc tƣợng Tiên Thánh bằng đồng, sau lại cùng

thập phƣơng cung tiến đúc thêm hai vị - thành ba vị...

Ngoài ra, văn bia tại phủ khắc tháng Giêng năm Duy Tân thứ 9 (1915), do

Hiệp biện Đại học sỹ Tổng đốc tỉnh Nam Định Thanh Oai Đoàn Triển soạn cho

biết: Mùa thu năm Nhâm Tý (1912), ông về nhận việc Đốc học Nam Đinh, đƣợc

ngƣời trong làng, trong họ và thân hào trong huyện bàn việc tập hợp tiền của tu sửa

đền... Ông đã ủy thác cho huyện đoãn Vũ Duy Đê đứng ra đốc công. Mùa đông năm

ấy bắt tay vào việc xây dựng, từ nội phủ đến bái đƣờng, gồm bốn tòa làm theo kiểu

mới, phía trƣớc thì các lầu tả hữu giải vũ gồm chín tòa, đều nhân theo nếp cũ, rồi

xây rộng tƣờng vây đắp hoa trên đầu cột, xây nguyệt hồ, khuôn khổ rộng rãi, so với

trƣớc có mở mang… Đến tháng Tám năm Quý Sửu (1913) thì hoàn công. Diện mạo

kiến trúc của phủ hiện nay, cơ bản là sản phẩm của các đợt trùng tu từ đầu thế kỷ

XX trở về sau.

Nhƣ vậy, theo lịch sử địa chính và văn hóa khu vực phủ Giày, đặc biệt là

nguồn địa bạ thì có thể tạm coi những ghi chép về phủ Giày thuộc xã Tiên Hƣơng

dƣới thời Lê, nhƣ Thư lâu phả ký phản ánh là ảnh ảnh xạ của phủ Giày An Thái khi

chƣa phân tách. Về diện mạo của phủ này trong khoảng đầu thế kỷ XX, Khảo đồng

sự ký cho biết nhƣ sau: Đền chính thờ Thánh Mẫu không gọi là đền mà tôn trọng

Thánh Mẫu gọi là phủ Chính. Phủ này gồm bốn cung. Cung Đệ nhất thờ Thánh

117

Mẫu, có một long ngai. Cung này đóng kín không cho ngƣời nào trông vào. Cung

Đệ nhị giáp cung Đệ nhất, trong cung này cũng có một long ngai thờ Thánh Mẫu và

một long ngai thờ con trai của Thánh Mẫu. Ở cung Đệ nhị, mọi ngƣời có thể dâng

sớ cúng tại đây nhƣng không đƣợc ngồi đồng. Cung Đệ tam cũng có một long ngai

thờ Thánh Mẫu, mọi ngƣời thƣờng mang xôi, gà, trầu, rƣợu, vàng mã, oản quả cúng

và ngồi đồng tại đây. Cung Đệ tứ cũng có một tòa long ngai thờ Thánh Mẫu cùng

các cô hầu Thánh Mẫu. Tại cung Đệ tam, mọi ngƣời ngồi đồng rất đông, nếu hết

chỗ sẽ ra ngồi đồng ở cung Đệ tứ [152].

Ngoài ra, liên quan tới địa điển và sinh hoạt văn hóa (hội, lệ) gắn với Mẫu

Liễu Hạnh tại khu vực Kẻ Giày trƣớc năm 1945, không thể bỏ qua lăng Mẫu Liễu

Hạnh và phủ Tổ (Thánh tổ từ) thờ Thánh phụ và Thánh Mẫu bên Vân Cát và Tiên

Hƣơng và phủ Bóng (Nguyệt Du cung)…

3.4. Hội phủ Giày và một số sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngƣỡng

thờ Mẫu Liễu Hạnh qua tƣ liệu Hán Nôm

Qua ghi chép của tƣ liệu Hán Nôm, tại khu vực phủ Giày Nam Định xƣa, các

sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh, thƣờng đƣợc tổ

chức theo thông lệ định kỳ và gắn với các dịp lễ tiết, cơ bản gồm, lễ kỵ đức Khải

thánh (tháng Giêng); lễ tế trong ngày hóa của Thánh Mẫu Liễu Hạnh (Mùng Ba

tháng Ba) và mở hội đến hết Rằm tháng Ba; tế hạ điền mùa hạ, lễ khánh đản (Rằm

tháng Tám)… Tuy nhiên, vì lý do tƣ liệu (Hán Nôm) ghi chép rất giản lƣợc nên

chƣa thể hình dung đƣợc diện mạo cụ thể các lễ tiết và sinh hoạt văn hóa liên quan

đƣợc tổ chức nhƣ thế nào kể từ khi tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh đƣợc xã lập ở

khu vực kẻ Giầy (khoảng thế kỷ XVI) đến trƣớc thời điểm thôn Vân Cát đƣợc tách

khỏi xã An Thái (mới) để tái lập xã Vân Cát và xã An Thái (mới) đƣợc đổi tên

thành xã Tiên Hƣơng vào khoảng những năm 1844 - 1850 (cuối thời Thiệu Trị - đầu

thời Tự Đức), tức thời điểm phủ Giầy ở Kẻ Giầy chính thức đƣợc “nhân đôi” và thờ

tự độc lập, với một bên là phủ Giầy Vân Cát (đền Cố Trạch), thuộc xã Vân Cát và

một bên là phủ Giầy Tiên Hƣơng, thuộc xã Tiên Hƣơng.

Trong điều kiện tƣ liệu có thể khảo, dƣới đây, nghiên cứu sinh xin giới thiệu

sơ lƣợc về hội phủ Giầy Vân Cát và hội phủ Giầy Tiên Hƣơng cùng một số sinh

118

hoạt văn hóa liên quan từ khoảng nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX.

3.4.1. Hội phủ Giày Vân Cát và một số sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín

ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh qua tư liệu Hán Nôm

Tục lệ xã Vân Cát do quan viên, chức sắc, kỳ lão, hƣơng thôn, giáp trƣởng

toàn xã Vân Cát lập ngày mồng Một (1) tháng Mƣời một (11) năm Tự Đức thứ 10

(1857) cho biết: Đƣơng thời, các cơ sở sinh hoạt văn hóa tôn giáo, tín ngƣỡng của

bản xã gồm, chùa: 1 ngôi; phủ từ phụng thờ Tiên Chúa: Trong ngoài 4 tòa, cùng

hành lang, lầu gác; điện từ: 2 tòa, thờ Tiền Lý Nam đế Tôn thần, bên tả (trái) thờ

quan Thám hoa, bên hữu (phải) thờ quan Giáo thụ. Đất và vƣờn trong khuôn viên

ƣớc khoảng 1 mẫu, giao cho các thủ từ canh tác lấy tiền lo hƣơng đèn, bao xái,

trông nom, qoét dọn; đền: 1 tòa, thờ Cẩn Hoa Công chúa; đền thờ Bản Cảnh Thành

hoàng: 1 tòa [186]. Các lễ tiết chính và sinh hoạt văn hóa trực tiếp liên quan tới việc

thờ Mẫu Liễu Hạnh đƣợc liệt kê nhƣ sau:

Hằng năm vào dịp tháng Ba, dịp giỗ Tiên Thánh, mở hội 10 ngày theo tuần tự:

- Ngày mùng Một: Thân hào trong bản huyện đến tế, cỗ gồm: trâu 1 con,

bánh 100 đấu, cùng trầu rƣợu, ƣớc khoảng 50 nguyên.

- Ngày mùng Hai: Chánh phó quan và viên chức Đội Biền binh trong bản huyện

đến tế. Lễ gồm: lợn1 con, bánh 50 đấu, cùng trầu rƣợu, giá khoảng 30 nguyên.

- Ngày mùng Ba: Bản xã cúng giỗ, lễ gồm: 1 trâu, bánh 100 đấu và trầu,

rƣợu, ƣớc khoảng 40 nguyên.

- Ngày mùng Bốn: Quan bản huyện và chánh phó tổng mới, cũ đến tế. Lễ

gồm: 1 trâu, bánh 100 đấu, cùng trầu, rƣợu, giá khoảng 60 nguyên.

- Ngày mùng 5 thỉnh kinh tại chùa Bảo Ngũ.

- Ngày mùng Sáu, mùng Bảy: Chánh phó tổng, lý dịch trong bản tổng đem

dân phu cùng gậy hoa, chiêng, cờ, trống, kéo chữ trƣớc cửa phủ.

- Ngày mùng Tám: Tân cựu chánh phó tổng, lý dịch trong bản huyện đem

dân phu cùng gậy hoa, cờ, trống, chiêng xếp chữ trƣớc cửa phủ.

- Ngày mùng Chín, mùng Mƣời: Mở hội cờ có thƣởng tại trƣớc phủ.

Từ mùng Một đến mùng Mƣời, khách thập phƣơng đến bày đồ mua bán. Bản

xã cúng tạ lễ vào ngày rằm (tháng Ba) [186].

119

Hồi cố về nguồn gốc của hội phủ Giầy Vân Cát, Tân Biên Nam Định tỉnh Dư

địa chí lược cho biết nhƣ sau: “Truyền rằng Trịnh Thái phi đến cầu ở đền Mẫu, đƣợc

ứng nghiệm rõ rệt, lúc ấy xã dân đang đắp đê, khơi nƣớc kinh thành, Phi muốn tạ ơn

bèn miễn sƣu dịch cho dân về hết, bỏ mai cuốc dùng gậy dƣơng biển kéo chữ “Thánh

cung vạn tuế, Mã Vàng Công chúa, thái bình ca xƣớng, quốc thái dân an, sở cầu nhƣ

ý, vạn thế phúc thần, dân lại dĩ an” để đáp lễ đang trong ngày kị. Từ đó thành lệ của

đền Vân Cát, đến thời Tự Đức thì Vân Cát ít ngƣời không lo đƣợc bèn giao cho đền

Tiên Hƣơng, đến nay Tiên Hƣơng vẫn giữ lệ này” [80, tr. 101]. Bên cạnh đó, còn có

một thuyết khác cũng đƣợc văn bản Hán Nôm Khảo đồng sự ký ghi lại sự tích của

hội phủ Giầy gắn với tích truyện một cô gái xấu xí đƣợc Mẫu thƣơng Mẫu độ sau khi

Mẫu cảm thông lời thỉnh cầu của cha mẹ cô gái, Mẫu đã phù hộ. Sau khi lấy đƣợc

vua Lý/chúa Trịnh, cô đã về lập ra hội hoa trƣợng để tạo ơn Mẫu nhƣ đã đề cập ở trên

[152]. Về tính chân xác lịch sử và các lớp chồng văn hóa trong hai thuyết này, hiện

nghiên cứu sinh chƣa có điều kiện để khảo, xin đƣợc hẹn trở lại vào một dịp khác.

Tuy nhiên, một điểm đặc biệt cần lƣu ý rằng, sau khi tái lập vào khoảng

những năm 1844 - 1850 (cuối thời Thiệu Trị - đầu thời Tự Đức), không lâu sau,

cũng vào đầu thời Tự Đức, bên xã Vân Cát khi này ít ngƣời không lo đƣợc hội lệ đành

chuyển giao nguyên lệ cho bên Tiên Hƣơng và đến khoảng năm 1918- 1919, hội Vân

Cát lại đƣợc phép phục hồi, tiếp tục đƣợc duy trì sau khi bị gián đoạn hơn 60 năm. Sau

khi đƣợc phép mở lại hội, diện mạo hội Vân Cát đƣợc Vân Cát hàng hội bi ký, khắc

năm Khải Định thứ 10 (1925) phản ánh nhƣ sau: Theo lệ, hằng năm vào dịp tháng

Ba, dân của 12 tổng trong huyện (Vụ Bản), gồm: Vụ Bản, La Xá, Phú Lão, Hiển

Khánh, Đồng Đội, Vân Côi, Bảo Ngũ, An Cự, Trình Thƣợng, Trình Hạ, Hào Kiệt,

Hổ Sơn cùng tham gia hội kéo chữ (hội hoa trƣợng). Sáu tổng miền thƣợng tham gia

kéo chữ ở Tiên hƣơng, vào ngày mùng Bảy, sáu tổng thuộc miền hạ tham gia kéo chữ

ở Vân Cát vào ngày mùng Tám. Lý dịch các địa phƣơng có trách nhiệm lo phu hội và

gậy hoa, rƣớc về Tiên Hƣơng và Vân Cát.

Trên đây là những nét cơ bản nhất có thể hình dung về hội phủ Vân Cát cùng

một số lễ tiết, sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh qua

tƣ liệu Hán Nôm.

120

3.4.2. Hội phủ Giày Tiên Hương và một số sinh hoạt văn hóa liên quan

đến tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh qua tư liệu Hán Nôm

Tục lệ xã Tiên Hương do tiên thứ chỉ, kỳ mục, quan viên chức dịch lập ngày

ngày Hai mƣơi nhăm tháng Giêng năm Tự Đức thứ 3 (1850) ghi nhận, đƣơng thời,

các lễ tiết, sinh hoạt văn hóa gắn với việc phụng thờ Thánh Mẫu tại phủ Tiên

Hƣơng đƣợc phản ánh nhƣ sau:

Xã Tiên Hƣơng có một chợ, tục gọi là chợ Thiên Tiên hay chợ Trời, hằng năm chỉ

họp duy nhất một phiên vào ngày mùng Tám tháng Giêng. Ngƣời trong vùng và các vùng

khác, cùng khách thập phƣơng đến đây mua bán hoặc lễ bái rất đông. Lý dịch đi tuần tại

chợ kiểm soát, tùy theo hàng hóa, thu mỗi ngƣời 10 văn thanh tiền. Thu đƣợc bao nhiêu thì

giao cho lý trƣởng để đến ngày Ba mƣơi (30) tháng Mƣời hai (12) làm lễ tất niên. Lễ sắm

2 con gà, giá tiền khoảng 3 quan, 50 oản, 50 quả chuối, 1 vò rƣợu, cùng tiền vàng, hoa,

trầu cau 30 quả. Sắm lễ xong rƣớc ra đền tề tựu lễ bái, sau cùng hƣởng lộc. Bản xã biếu thủ

từ một phần thịt, 1 oản, 1 quả chuối, 2 quả cau; biếu tiên chỉ 1 oản, 1 chân gà, 1 quả chuối,

1 quả cau; biếu thứ chỉ 1 oản, 1 quả chuối, 1 quả cau; biếu lý trƣởng 1 oản, 1 quả chuối, 1

quả cau. Số còn lại chia đều.

Hằng năm, vào dịp mùng Ba tháng Ba là ngày giỗ Tiên Thánh, dân xã luân

phiên cắt cử 13 ngƣời, mỗi ngƣời chuẩn bị một lễ, gồm bánh chay, mỗi ngƣời một

mâm, mỗi mâm 60 chiếc, mỗi chiếc giá tiền 2 mạch, lợn 1 con, giá 5 quan hoặc cỗ

trâu, hoa quả, tùy theo điều kiện. Những ngƣời đến phiên sắm lễ đƣa đến đền tế bái.

Tế xong thì cùng hƣởng lộc. Biếu các chánh phó tổng trong bản huyện: Chánh tổng

biếu thủ, phó tổng biếu một đoạn cổ, lý trƣởng biếu chân giò, phó lý trƣởng biếu

thịt, các tiên thứ chỉ biếu thịt và biếu biền binh trong khắp huyện.

Ngày Bảy tháng Ba, toàn dân trong xã mặc quần áo chỉnh tề, mang theo cờ,

trống, tán, lọng đến Côi Sơn rƣớc kinh. Nếu ngƣời nào chậm trễ hoặc không tham

gia thì bị phạt tiền 5 quan và 1 vò rƣợu, trầu cau 50 miếng. Cũng trong ngày mồng

Bảy tháng Ba, các chánh phó tổng, lý dịch trong bản huyện cắt cử dân phu mỗi xã 1

ngƣời, mỗi ngƣời mang theo 1 gậy hoa. Các lý trƣởng đích thân đốc suất dân phu

dẫn đến đền nhập hội. Chánh phó tổng kiểm soát, nếu xã nào không tham gia thì sau

tróc tiền lý trƣởng, số tiền 5 quan, trầu cau 100 miếng. Sau khi đã tập hợp đầy đủ,

121

kiểm soát xong thì tổ chức xếp chữ. Lễ xong, biếu lý dịch 5 tổng thượng 100 oản.

Các lý dịch căn cứ theo cơ cấu từng xã mà chia nhau. Biếu dân phu mỗi ngƣời một

oản, một quả chuối (trong ngày này có 500 gậy hoa).

Ngày mùng Tám tháng Ba, lý dịch 6 tổng thƣợng đích thân dẫn dân phu, mỗi

xã 1 ngƣời đến đền nhập hội. Mỗi ngƣời phải cầm theo một gậy hoa để tham gia

xếp chữ. Lễ xong, cũng kính biếu lý dịch và dân phu oản quả nhƣ lệ.

Ngày mùng Bảy và ngày mùng Tám tháng Ba, việc hội xếp chữ, bản xã đã

bố trí 3 mẫu ruộng thuộc địa phận của bản xã giao cho nhân dân, lý dịch và các

dòng họ thay phiên nhau canh tác. Hằng năm, đến dịp thì chuẩn bị oản, quả để cúng

trong hai ngày này theo lệ. Phần tô thuế do ngƣời canh tác phải nộp do toàn dân

cùng đóng góp.

Ngày mùng Bảy tháng Ba, dân phu trong bản xã, mỗi ngƣời 1 gậy hoa tổ

chức xếp chữ. Trong ngày này, bản xã bố trí 300 gậy. Dân phu các ấp tham gia xếp

chữ xong thì vào đền lễ tạ.

Trong ngày Mƣời hai tháng Ba, toàn dân mở tiệc đánh chén. Số tiền thu

đƣợc trong hội giao cho lý trƣởng mua một con lợn - giá 15 quan, xôi 1 mâm -

tƣơng đƣơng 30 đấu, rƣợu 1 vò - giá 1 quan, trầu cau 100 miếng, tiền vàng 500. Sau

khi tạ lễ cùng hƣởng lộc thần. Biếu tiên chỉ 1 thủ lợn, biếu thứ chỉ một đoạn cổ lợn,

biếu lý trƣởng, phó lý trƣởng mỗi ngƣời 1 chân giò, biếu thủ bạ một miếng thịt, còn

lại thì làm cỗ, dành cho đội nhạc một hai cỗ, còn lại cùng nhau hƣởng lộc.

Ngày Rằm tháng Ba, bản xã luân phiên cắt cử hai ngƣời làm lễ. Lễ dùng

bánh giầy 80 chiếc - mỗi chiếc giá tiền 3 mạch, lợn 1 con - giá 10 quan, rƣợu 1 vò -

giá tiền 5 mạch, trầu cau 50 miếng và tiền vàng, hoa rƣớc đến đền yết tế. Tế xong

cùng hƣởng lộc thần. Mang đến nhà tiên chỉ biếu tiên chỉ 1 bánh giầy, 1 đoạn cổ

lợn, 3 miếng trầu; biếu thứ chỉ 1 chân giò, 1 bánh giày, 2 miếng trầu; biếu lý trƣởng

và phó lý trƣởng mỗi ngƣời 1 miếng thịt, 1 bánh giầy; biếu thủ từ 1 bánh giầy, 1

miếng trầu, một miếng thịt, còn lại chia đều cho trên dƣới.

Ngoài ra, cũng qua tƣ liệu Hán Nôm, hội Tiên Hƣơng vào cuối thời Nguyễn

còn đƣợc ghi nhận nhƣ sau:

… Hội rƣớc thần thì xã Tiên Hƣơng là vui nhất. Hằng năm vào ngày 7,

122

8, 9 tháng Ba, nhân dân lại tụ họp tế lễ. Đồng bóng bốn phƣơng kéo về

làm lễ. Ngƣời hàng tổng hàng xã đều cầm gập dán giấy hoa, sắp thành

hàng chữ. Dân các làng mặc đẹp đến xem, tạo ra không khí vui tuơi, náo

nhiệt ở địa phƣơng. Các vị Đệ nhị muội Quỳnh cung Hoài Tiên Phu

nhân, Đệ tam muội Quảng cung Quế Anh Phu nhân đều đƣợc phong làm

Trung đẳng phúc thần [80, tr. 43].

Hồi cố về nguồn gốc hội phủ Giầy Tiên Hƣơng, dân Tiên hƣơng cũng đồng

thời thừa nhận hai thuyết nhƣ bên Vân Cát. Chi tiết hơn, Hội hoa trƣợng vào cuối

thời Nguyễn còn đƣợc Khảo đồng sự ký mô tả nhƣ sau: Huyện Vụ Bản có tục cho

ngƣời cầm gậy xếp chữ thờ Thánh Mẫu. Trong huyện có 15 tổng, hằng năm, vào ngày

mùng Một tháng Ba là dịp hội Thánh Mẫu phủ Chính. Vào ngày mùng Một, xã sở tại

(Tiên Hƣơng) mang cờ, trống đến chùa Côi Sơn thỉnh kinh Dƣợc Sƣ về phủ Thánh

Mẫu để cúng tế. Ngày mùng Ba tháng Ba, tổ chức làm các loại bánh tế Thánh Mẫu tại

phủ Chính. Đến ngày mùng Sáu, mùng Bảy, mùng Tán tháng Ba thì dùng gậy xếp chữ,

mỗi ngày 5 tổng xếp chữ. Mỗi tổng 15 gậy, tổng cộng là 500 gậy. Nếu tổng nào, ngƣời

nào đến lƣợt sắm gậy xếp chữ thờ Thánh thì trƣớc đó 5 ngày phải lấy một gậy trúc dài

10 thƣớc, đầu búi tua rua nhƣ chổi lông gà, thân gậy quấn giấy ngũ sắc từ đầu đến cuối

để làm thành gậy hoa. Đến ngày vào cuộc xếp chữ, ngƣời của các tổng cùng mang gậy

đến phủ Thánh Mẫu - Ví dụ: Trong ngày mùng 7, vào khoảng 12 giờ, mọi ngƣời sẽ

đem gậy hội họp trƣớc phủ, chức sắc, lý dịch mặc áo, đội khăn chỉnh tề, tề tịu tại phủ

Thánh Mẫu, trƣớc tiên, là để lễ Thánh, mỗi ngƣời sẽ vái bốn vái. Vái xong thì thanh

niên trai tráng mặc áo đỏ, mỗi ngƣời tự cầm gậy của mình xếp thành ba hàng trƣớc

phủ. Kỳ mục, chức sắc cùng mọi ngƣời tới phủ tập hợp trƣớc nghi môn, ngồi ở gian

giữa. Các thanh niên trai tráng cẩm gậy đi nhiễu ba vòng, sau đó cùng đứng trƣớc nghi

môn. Một ngƣời kỳ mục thông báo cho mọi ngƣời cầm gậy biết hôm đó xếp bốn chữ:

“Dân hòa thần phúc”. Sau khi mọi ngƣời nắm rõ, ông kỳ mục cầm một chiếc cờ lệnh

nhỏ đến trƣớc mặt những ngƣời cầm gậy. Lát sau, ông phất cờ hƣớng dẫn mọi ngƣời

xếp chữ. Xếp xong, ông kỳ mục lại đánh ba hồi trống. Đánh xong, những ngƣời cầm

gậy lại ngồi xuống. Đánh ba tiếng thì mọi ngƣời hạ gậy xếp thành chữ. Nhƣ bốn chữ:

“Dân hòa thần phúc”. Đầu tiên, xếp chữ Dân sao cho thật ngay ngắn. Sau đó, kỳ mục

123

lại đánh ba tiếng trống thì mọi ngƣời cùng đứng dậy và cùng nhau nhiễu trƣớc phủ ba

vòng. Nhiễu xong, lại đến trƣớc nghi môn, nơi xếp chữ, rồi xếp chữ Hòa. Cách thức

xếp giống nhƣ xếp chữ Dân. Tiếp đó, xếp đến chữ Thần. Xếp xong thì xếp chữ Phúc.

Xếp xong bốn chữ, những ngƣời xếp chữ lại đi nhiễu trƣớc phủ ba vòng. Nhiễu xong,

mọi ngƣời vào trong phủ bái tạ Thánh Mẫu. Mỗi ngƣời tạ lễ bốn vái. Vái xong, ngƣời

của xã Tiên Hƣơng lấy oản chia cho những ngƣời xếp chữ, mỗi ngƣời một cái oản và

một quả chuối. Sau đó, mọi ngƣời lại mang gậy về nhà. Nếu trong nhà mà có tà ma thì

sẽ đều sợ chạy, không dám ở lại trong nhà có gậy này. Có ngƣời chƣa đến phiên cầm

gậy xếp chữ thì bỏ tiền ra mua lại gậy đã từng xếp chữ đem về. Có ngƣời thì mua

nhƣng cũng có ngƣời không mua. Đại khái là gậy này xếp chữ cúng Thánh Mẫu, tức là

gậy của Thánh Mẫu. Thế cho nên, những ngƣời không có gậy này muốn mua lại để

đem về nhà. Tà ma thấy gậy này không dám vào nhà.

Ngoài ra, trong hội Tiên Hƣơng, còn có lệ rƣớc Mẫu thỉnh kinh và nhiều hoạt

động văn hóa - thƣơng mại tƣơng đối đặc sắc, nhƣ làm bánh giày tế Thánh Mẫu,

nặn bánh trâu, bánh lợn bằng bột bán cho khách mua lễ Mẫu đem về làm khƣớc,

làm đèn hoa đăng bằng giấy dâng Thánh Mẫu. Đặc biệt là hoạt động lên đồng: Bà

đồng, cô đồng về chầu Thánh Mẫu; trẻ em nam, nữ làm đồng; chế ấn, làm bùa bán

cho khách; đồng thờ Đức Thánh Trần xiên lình, cắt lƣỡi hầu Thánh Mẫu…[152].

Tiểu kết

Kẻ Giày thuộc vùng đất Kẻ Trần của họ Trần xƣa, nổi tiếng với phủ Giày và

truyền thuyết về Mẫu Liễu Hạnh. Trong khoảng cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI,

Kẻ Giày đƣợc chia tách thành những đơn vị địa chính nhỏ hơn, trong đó có xã Vân

Cát và xã An Thái. Hai xã ổn định, độc lập về địa chính ít nhất tới năm Gia Long

thứ 4 (1805). Trong khoảng những năm 1805 - 1811, xã Vân Cát đƣợc sáp nhập với

xã An Thái thành xã An Thái (mới) và trở thành thôn/giáp của xã An Thái (mới).

Sau đó, khoảng những năm đầu dƣới thời Tự Đức, xã Vân Cát lại đƣợc tách khỏi xã

An Thái (mới), tái lập xã Vân Cát, xã An Thái (mới) đƣợc đổi tên thành xã Tiên

Hƣơng. Hai xã tiếp tục ổn định, hoàn toàn độc lập về quan hệ địa chính cho đến khi

cùng hợp nhất với xã Kim Bảng thành xã Kim Thái vào năm 1947.

Tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Kẻ Giày đƣợc định hình từ khoảng thế kỷ

124

XVI. Đến thế kỷ XVII, hệ Mẫu Tam vị/Tam tòa ở phủ Giày đã đƣợc xác lập và thừa

nhận tƣ cách chính tự. Theo diễn giải dân gian và ý thức hệ tƣ tƣởng chính thống

thời Nguyễn, bên cạnh “hành trạng thần tiên”, ba vị còn có “hành trạng thế tục”, với

đầy đủ những cung bậc thác ghềnh của một vòng đời thân phận nữ, để rồi, sau hợp

lại thành một thiên truyền kỳ nổi tiếng khắp vùng Thiên Bản, dƣới gầm trời Nam.

Cũng từ thế kỷ XVII, đền Vân Cát đã đƣợc xây dựng tƣơng đối quy mô. Vào

năm Thành Thái thứ 10 (1898), đền này đƣợc đại trùng tu Diện mạo kiến trúc của

phủ hiện nay, cơ bản là sản phẩm của các đợt trùng tu vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế

kỷ XX trở về sau.

Với phủ Giày Tiên Hƣơng, những ghi chép về phủ Giày thuộc xã Tiên

Hƣơng dƣới thời Lê, nhƣ Thư lâu phả ký phản ánh là ảnh ảnh xạ của phủ Giày An

Thái khi chƣa phân tách. Về diện mạo kiến trúc của phủ này hiện nay đều là sản

phẩm của những đợt tu bổ vào cuối thời Nguyễn và những năm gần đây.

Tại khu vực phủ Giày xƣa, các sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngƣỡng

thờ Mẫu Liễu Hạnh, thƣờng đƣợc tổ chức theo thông lệ định kỳ và gắn với các dịp

lễ tiết. Trong điều kiện tƣ liệu có thể khảo, có thể nhận thấy, trong khoảng nửa cuối

thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, ngoại trừ việc thực hành lên đồng, cơ bản, tín

ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy có nhiều điểm tƣơng đồng với tín ngƣỡng

thờ thần gắn với nông nghiệp trong các cộng đồng làng xã thuộc châu thổ Bắc Bộ

đƣơng thời, mặc dù yếu tố văn hóa thƣơng mại trong hội này đã tƣơng đối đậm nét.

125

Chƣơng 4

BÀN LUẬN THÊM VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VĂN HÓA LIÊN QUAN TỚI

TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY VÀ

MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM

4.1. Câu chuyện tiếp cận văn hóa quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh

ở phủ Giày qua khảo chứng Vân Cát Thần nữ truyện

Vân Cát Thần nữ truyện (Truyện Vân Cát Thần nữ) khắc trong Truyền kỳ

tân phả (đƣợc cho do Hồng Hà Phu nhân - Đoàn Thị Điểm sáng tác, tàng bản tại

Lạc Thiện đƣờng), khắc năm Gia Long thứ 10 (1811) [249] là bản in đƣợc định bản

sớm nhất, ổn định về mặt văn bản từ năm 1811 đến nay.

Mở đầu truyện, có câu: An Thái Vân Cát Thiên Bản chi danh hƣơng 安 泰

雲 葛 天 本 之 名 香. Về câu này, hầu hết các ấn phẩm xuất bản tiếng Việt thƣờng

tham khảo hoặc đối chiếu bản dịch của Ngô Lập Chi và Trần Văn Giáp (công bố lần

đầu năm 1962) đều thống nhất bản dịch và hiểu là: Thôn/Làng An Thái, xã Vân Cát

là một làng nổi tiếng của/ở huyện Thiên Bản [58, 67, 70]. Theo tinh thần này,

những nghiên cứu về Mẫu Liễu Hạnh đã “vô tƣ” trích lại, dần trở thành một cách

hiểu “truyền thống” và mặc nhiên khẳng định, trong lịch sử, An Thái từ giữ thân

phận là một thôn của xã Vân Cát. Cách hiểu này, vô tình đã ít nhiều góp phần làm

méo mó vai trò và tƣ cách thờ tự Thánh Mẫu Liễu Hạnh giữa đôi bên và bản chất

câu chuyện thờ Mẫu Liễu Hạnh trong hơn nửa thế kỷ qua. Thiết nghĩ, đã đến lúc,

chi tiết này cần đƣợc đính chính.

Nếu đọc kỹ lại văn bản chữ Hán và tìm hiểu về lịch sử địa chính khu vực Kẻ Giày

xƣa, liên tƣởng tới những bản tiếng Việt đã tham khảo, rõ ràng nhƣ thấy có điều “ngờ

ngợ”, bởi trong cấu trúc câu: An Thái/Vân Cát/Thiên Bản chi danh hƣơng 安 泰/雲 葛/

天 本 之 名 香 thì An Thái, Vân Cát là hai địa danh trong quan hệ thuộc cấp trên/dƣới.

Vậy quan hệ thuộc cấp giữa An Thái và Vân Cát ở đây ra sao?

Hiện nay, khi nghe thầy chùa, thày cúng… tuyên sớ Hán - Việt văn đoạn: Việt

Nam quốc/A tỉnh/B huyện/C xã/D thôn… mọi ngƣời đều có thể hiểu là: Thôn D/xã C,

huyện B, tỉnh A, nƣớc Việt Nam... Trong ngữ pháp Hán văn cổ, với quan hệ địa danh

126

thuộc cấp, khi liệt kê, thông thƣờng thì cấp địa chính trên kê trƣớc, cấp địa chính dƣới

kê sau. Ngữ pháp tiếng Việt nay thì ngƣợc lại. Mặt khác, tên và nội dung Truyện Vân

Cát Thần nữ đã khẳng định, Nữ thần ở Vân Cát, nếu xác định, Vân Cát ở đây là đơn vị

cấp xã thì cần gì phải thêm thôn An Thái thuộc xã này vào để làm gì cho rƣờm rà, thực

sự không cần thiết và thừa thãi? Thôn An Thái không liên quan! Nội dung truyện cũng

không hề đề cập tới chi tiết Thần nữ giáng sinh ở thôn An Thái hoặc đền thờ ở thôn An

Thái hoặc có bất kỳ chi tiết gì gắn với thôn An Thái? Trong trƣờng hợp, nếu tạm coi

An Thái và Vân Cát là địa danh cùng cấp thôn, cùng cấp làng hoặc cùng cấp xã thì lại

càng vô lý, bởi khi xác định tên truyện là Vân Cát Thần nữ (Thần nữ ở Vân Cát) thì

không cần “khoác” thêm An Thái vào để làm gì? Nhƣ vậy, có thể thấy, theo cấu trúc

ngữ pháp Hán văn cổ, câu An Thái Vân Cát Thiên Bản chi danh hƣơng 安 泰 雲 葛 天

本 之 名 香 phải đƣợc hiểu đúng là: Thôn Vân Cát, xã An Thái là một làng nổi tiếng

của/ở huyện Thiên Bản. Và, một giả thiết làm việc đƣợc đặt ra, là đƣơng thời, nếu

Đoàn Thị Điểm chép truyện Vân Cát thần nữ, Vân Cát giữ tƣ cách là địa danh cấp xã

nhƣng khi “Nhà xuất bản” Lạc Thiện đƣờng san khắc truyện này (năm 1811), Vân Cát

đã mang thân phận là một thôn trong xã An Thái - xã Vân Cát đã sáp nhập (hợp xã) với

xã An Thái. Để dễ biện biệt và phân tích, nghiên cứu sinh tạm gọi xã An Thái sau khi

sáp nhập xã Vân Cát là xã An Thái (mới). Sau đó, vào khoảng cuối thời Thiệu Trị - đầu

thời Tự Đức, thôn Vân Cát lại đƣợc tách khỏi xã An Thái mới (biệt xã), tái lập xã Vân

Cát, sau xã An Thái (mới) đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng. Khi chƣa tiếp cận đƣợc

với tài liệu Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã tục lệ 南 定 省 務 本

縣 同 隊 總 各 社 俗 例 - Tục lệ các xã thuộc tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh

Nam Định (do chức sắc, kỳ mục, hƣơng lão các xã Trang Nghiêm Hạ, xã Xuân Bảng,

xã Tiên Hƣơng, xã Vân Cát lập và xác thực), ký hiệu AF. A11.35, Viện Nghiên cứu

Hán Nôm, căn cứ văn bia tại phủ Vân Cát, Nam Định tỉnh địa dư chí (“Xã Tiên

Hƣơng: trƣớc là Yên (An) Thái, năm Tự Đức thứ 14 đổi là Tiên Hƣơng” [80, tr. 39]),

Đồng Khánh Địa dư chí (“Xã Tiên Hƣơng: Đầu Nguyễn về trƣớc là xã An Thái 安 泰.

Từ năm Tự Đức thứ 15 (1862) kiêng huý Ngãi vƣơng Nguyễn Phúc Thái, đổi là Tiên

Hƣơng 仙 鄉” [20]), nghiên cứu sinh từng phỏng đoán, sự kiện thôn Vân Cát tách khỏi

127

xã An Thái mới (biệt xã), tái lập xã Vân Cát, xã An Thái đƣợc đổi tên thành xã Tiên

Hƣơng diễn ra vào khoảng năm Tự Đức thứ 14 (1861) [80, tr. 39] hoặc năm Tự Đức

thứ 15 (1862) [20]. Tuy nhiên, qua Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Đồng Đội tổng các

xã tục lệ 南 定 省 務 本縣 同 隊 總 各 社 俗 例, có thể khẳng định lại, ít nhất từ năm

Tự Đức thứ 3 (1850), Tiên Hƣơng với tƣ cách là đơn vị địa chính cấp xã đã chính thức

xuất hiện (Tục lệ xã Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định)

[186]. Cũng theo, Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã tục lệ 南 定 省

務 本縣 同 隊 總 各 社 俗 例, năm Tự Đức thứ 10 (1857), Vân Cát với tƣ cách là đơn

vị địa chính cấp xã lại xuất hiện trong bản ghi tục lệ của xã này (Tục lệ xã Vân Cát,

tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) [186]. Qua đây, có thể khẳng định,

thôn Vân Cát đã đƣợc tách khỏi xã An Thái (mới) - biệt xã muộn nhất là vào năm Tự

Đức thứ 3 (1850).

Một tài liệu khác góp phần xác thực, Vân Cát từng là một thôn của xã Am Thái

(mới), đó là bản khắc Thiên Bản Vân Hương Lê triều Thánh Mẫu ngọc phả 天 本 雲鄉

黎 朝 聖 母 玉 譜 (Ngọc phả Thánh Mẫu triều Lê ở Vân Hƣơng, Thiên Bản), khắc năm

Bảo Đại thứ 9 (1934), do thanh đồng Vũ Xuân Lan san khắc, ván khắc vốn lƣu tại đền

Cố Trạch (đền/phủ Vân Cát), xã Vân Cát. Theo bản khắc này, phần mở đầu của Ngọc

phả Thánh Mẫu triều Lê ở Vân Hƣơng, Thiên Bản khẳng định: Dƣới triều Lê, ở thôn

Vân Cát (nay đổi thành xã), xã An Thái (nay đổi thành Tiên Hƣơng), huyện Thiên Bản

(nay đổi thành Vụ Bản), phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định có Lê Thái Công… 南 定 省

義 興 府 天 本 縣 (今 改 務 本) 安 泰 社 (今 改 仙 鄉) 雲 葛 村 (今 改 為 社) 辰 黎

朝 有 黎 太 公… Nam Định tỉnh, Nghĩa Hƣng phủ, Thiên Bản huyện (kim cải Vụ Bản),

Vân Cát thôn (kim cải vi xã) thời Lê triều hữu Lê Thái Công…

Cũng trong chuyện này, cuối truyện có chi tiết, sau đại chiến ở Phố Cát,

Thanh Hoa/Hóa đƣợc phản ánh dƣới thời Cảnh Trị (1663 - 1671), Tiên nữ trên trời

hiển thánh - Thƣợng Thiên Tiên nữ hiển thánh 上 天 仙 女 顯 聖 (Danh hiệu do

Mẫu nhập vào một ngƣời nhảy lên đàn ba tầng và tự xƣng), tức Thánh Mẫu Liễu

Hạnh yêu cầu dựng lại đền, đƣợc triều đình ƣng thuận và đƣợc phong Mã Hoàng

Công chúa 禡 黃 公 主, sau lại đƣợc gia phong Hòa Diệu Chế Thắng Đại vƣơng 和

128

妙 制 勝 大 王 (có bản thần tích chép là Chế Thắng Hòa Diệu Đại vƣơng 制 勝 和

妙 大 王), đƣợc đƣa vào Tự điển/Điển thờ tự. Để rồi sau đó, nhà nhà vẽ tranh, nơi

nơi dựng đền để cầu phúc ấm. Bám vào chi tiết này, không ít nghiên cứu dẫn lại để

đi đến khẳng định Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đã đƣợc triều đình thừa nhận tƣ cách

chính tự (cho phép thờ cúng) từ thời Cảnh Trị. Tuy nhiên, trong thực tế lại không

hẳn nhƣ vậy.

Qua khảo cứu, các sắc phong trƣớc thời Nguyễn (1802) phong cho thần, qua

các đợt phong, tên thần và thần hiệu ở lần gia trƣớc thƣờng đƣợc giữ nguyên và

ghép thêm mỹ tự đƣợc gia phong thuộc đợt sau, chỉ đến thời Nguyễn (từ 1802) trở

đi, nguyên tắc này mới bị bãi bỏ. Theo đó, nếu Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở Phố Cát

hoặc bất kỳ địa điểm nào thờ Mẫu đƣợc vua Lê Cảnh Trị (1663 - 1671) gia phong

các mỹ tự Hòa Diệu Chế Thắng Đại vƣơng 和 妙 制 勝 大 王 hoặc Chế Thắng Hòa

Diệu Đại vƣơng 制 勝 和 妙 大 王, thì các sắc thuộc các đợt phong sau dƣới thời Lê

và thời Tây Sơn ắt phải bảo lƣu các mỹ tự này. Trên thực tế, trong số các sắc gốc

phong cho Thánh Mẫu Liễu Hạnh hiện còn mang niên đại trƣớc thời Nguyễn (1802)

mà nghiên cứu sinh đƣợc biết, chỉ có sắc tại đền Bà Kiệu (Thiên Tiên điện), thuộc

quận Hoàn Kiếm, Hà Nội và một sắc khác có niên đại thời Lê Trung hƣng - khoảng

từ năm Cảnh Hƣng 44 (1783) trở về sau, hiện đang trong sƣu tập của Bảo tàng Phụ

nữ Việt Nam gắn với sự xuất hiện của các mỹ tự này. Cụ thể, tại đền Bà Kiệu, bản

sắc phong cho Thánh Mẫu Liễu Hạnh vào ngày 26 tháng 7 năm Cảnh Hƣng thứ 44

(1783), các mỹ tự Chế Thắng Hòa Diệu Đại vƣơng 制 勝 和 妙 大 王 lần đầu tiên

xuất hiện. Sau đó, các mỹ tự này còn đƣợc kế thừa trong các sắc phong cho Thánh

Mẫu Liễu Hạnh năm Chiêu Thống nguyên niên (1787), năm Quang Trung thứ 4

(1791), dƣới thời Cảnh Thịnh (1793), hiện vẫn đƣợc bảo quản tại đền. Sắc phong

cho Mẫu Liễu Hạnh tại Bảo tàng phụ nữ Việt Nam cũng góp phần xác nhận các mỹ

tự Chế Thắng Hòa Diệu Đại vƣơng 制 勝 和 妙 大 王 đƣợc phong cho Mẫu Liễu

Hạnh vào khoảng thế kỷ XVIII…

Nhƣ vậy, có nghĩa, Thánh Mẫu Liễu Hạnh đƣợc phong các mỹ tự Chế Thắng

制 勝 và Hòa Diệu 和 妙, tƣớc 大 王 không sớm nhƣ bản in Truyện Nữ thần ở Vân

129

Cát - 雲 葛 神 女 傳 Vân Cát thần nữ truyện khắc năm Gia Long thứ 10 (1811) và

nhiều bản thần tích về Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở các địa phƣơng khác khẳng định -

thời Cảnh Trị (1663 - 1671). Tuy nhiên, trong các thần tích về Thánh Mẫu Liễu

Hạnh, thuyết Mẫu đƣợc phong các mỹ tự Chế Thắng 制 勝 và Hòa Diệu 和 妙, tƣớc

大 王 từ thời Cảnh Trị (1663 - 1671) lại rất phổ biến. Rõ ràng, nếu tạm thừa nhận

“Vân Cát Thần nữ truyện” do đoàn Thị Điểm chép (trƣớc năm 1743), thì chi tiết

Thánh Mẫu Liễu Hạnh đƣợc phong các mỹ tự Chế Thắng 制 勝 và Hòa Diệu 和 妙,

tƣớc 大 王 từ thời Cảnh Trị (1663 - 1671) là “phi thực”? Có lẽ, đây là một chi tiết

đƣợc bổ sung sau khi Mẫu Liễu Hạnh đƣợc phong các mỹ tự Chế Thắng 制 勝 và

Hòa Diệu 和 妙, tƣớc 大 王 vào năm Cảnh Hƣng thứ 44 (1783), sau khi Đoàn Thị

Điểm đã mất tới 35 năm. Một điều thú vị nữa, là dƣới thời Lê, tôn hiệu Đại vƣơng

thƣờng đƣợc phong cho các nam thần, còn tôn hiệu Công chúa, Thánh phi… thƣờng

đƣợc phong cho các nữ thần. Nhƣ vậy, có thể tạm hiểu, tôn hiệu Đại vƣơng và

Công chúa gắn với Thánh Mẫu Liễu Hạnh nói riêng, các vị thần/thánh khác đƣợc

phong trƣớc thời Nguyễn (1802) nói chung là tƣớc phong, địa vị đƣợc phong,

không hẳn là chi tiết xác nhận, vị thần/thánh ấy vốn là ngƣời thực sinh thời mang

thân phận ông hoàng, bà chúa…

Đến đây, càng có lý do để đặt vấn đề tồn nghi cho chi tiết vua Lê Cảnh Trị

(1663 - 1671) gia phong các mỹ tự Hòa Diệu Chế Thắng Đại vƣơng 和 妙 制 勝 大

王 hoặc Chế Thắng Hòa Diệu Đại vƣơng 制 勝 和 妙 大 王 cho Mẫu Liễu Hạnh,

bởi lẽ nhiều chi tiết trong chính sử đã gián tiếp phủ nhận, cụ thể:

Đại việt sử ký toàn thư ít nhất hai lần chép việc vua Cảnh Trị cấm đồng cốt mà

đồng cốt lại là “căn cốt” của tín ngƣỡng thờ Mẫu”: “Năm Quý Mão, [Cảnh Trị] năm thứ

1 [1663], (Minh Vĩnh Lịch năm thứ 17; Thanh Khang Hy năm thứ 2) vào “mùa thu,

tháng 7, nhắc lại 47 điều giáo hoá, đại ý nói: Làm tôi hết lòng trung, làm con giữ đạo

hiếu, anh em hoà thuận, vợ chồng kính yêu nhau làm điều nhân, cha mẹ sửa mình để dạy

con, thầy trò đối xử với nhau bằng đạo, gia trƣởng dạy ngƣời bằng lễ, con em cung kính

cha anh, vợ không đƣợc trái chồng, đàn bà chồng chết không con đƣợc chuyển riêng của

cải đi, ở làng xóm thì ngƣời lớn nhỏ phải kính yêu nhau, cùng nhau làm lợi trừ hại;

130

không đƣợc cậy mạnh mà lấn áp kẻ yếu; không đƣợc gây kiện tụng để kiếm lợi riêng;

hào cƣờng không đƣợc xét kiện, trai gái không đƣợc bừa bãi thói dâm; ngƣời làm chứng

việc kiện phải nói thực, không đƣợc ham tiền của nói sai; nhà trọ nên đề phòng kẻ gian

nhƣng không đƣợc cự tuyệt ngƣời đến ngủ trọ; không đƣợc chiếm đƣờng đi làm vƣờn

[3a] tƣợc, không đƣợc lấn khe ngòi làm hồ ao, mối lợi của rừng núi sông chằm mọi

ngƣời đều cùng hƣởng, ngƣời đứng đầu phƣờng, xã, thôn, trang chọn ngƣời tốt mà làm;

sinh nghiệp phải siêng năng, hƣởng ẩm nên tiết kiệm; không đƣợc cậy quyền thế mà gửi

gắm việc kiện tụng, không đƣợc cố ý đem ngƣời già yếu mà gieo vạ cho ngƣời lƣơng

thiện; không đƣợc giả cách làm sƣ sãi để tránh sai dịch; không đƣợc xui ngƣời kiện tụng

để lấy tiền của, ngƣời đi thƣa kiện không đƣợc thêu dệt mà vu cho ngƣời; kẻ buôn bán

không đƣợc tụ họp bè đảng mà làm trộm cƣớp; cầu cống đƣờng sá chỗ nào hỏng nát thì

sửa đắp kịp thời; sổ sách việc quan không đƣợc điên đảo; đền mộ lăng miếu không đƣợc

lấn phá; con trai, con gái không được làm phường đồng cốt, nhà có tang không đƣợc hát

xƣớng trong lễ Trung nguyên; không đƣợc ngạo mạn với ngƣời quan trƣởng; không

đƣợc dụ dỗ đem ngƣời đi bán; lấy nhau nên phân biệt tộc loại, không đƣợc đòi tiền của;

tang lễ phải tuỳ giàu nghèo [3b] không đƣợc yêu sách ăn uống; cấy ruộng xâm canh

không đƣợc đòi nhau tiền thóc, cùng ở một làng không đƣợc cƣớp đoạt tài vật của nhau.

Những điều trên đây, ban bố khắp nƣớc, các nha môn Thừa Hiến các xứ và phủ, châu,

huyện đều phải làm sao thành một bản treo ở nơi coi việc và chuyển gửi tới các xã sở

thuộc, mỗi xã đều viết ra bảng treo ở đình, cho các quan viên, giám sinh, sinh đồ, xã

trƣởng, cứ đến ngày có việc làng thì hội họp đàn ông, đàn bà, ngƣời già, ngƣời trẻ đến

giảng giải hiểu thị, để đƣợc tai mắt thấm nhuần, biết sự khuyên răn. Từ đây lòng ngƣời

dần dần theo về tục thiện” [74, tr. 688 - 689].

Và, “Giáp Thìn, [Cảnh Trị] năm thứ 2 [1664], (Minh Vĩnh Lịch năm thứ 18;

Thanh Khang Hy năm thứ “Có lệnh chỉ [12b] nhắc lại lệnh cấm chọi gà, đánh cờ,

đánh bạc và các việc đồng cốt, sư sãi” [74, tr. 693].

Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thƣ, từ năm Đinh Mùi (1247), thời Minh

Tuyên Đức năm thứ 2, ở nƣớc ta, chính quyền đã từng “Cấm những kẻ xƣng là

đồng cốt, tà đạo, mƣợn tiếng ma quỷ, thần thánh, gieo rắc hoang mang, bịa đặt mê

hoặc lòng ngƣời” [74, tr. 344].

131

Một đều thú vị, là qua đoạn truyện này và những phân tích trên, có thể tạm

rút ra một số vấn đề sau:

1). Chuyện Thánh Mẫu Liễu Hạnh hiển linh ở Phố Cát, Thanh Hoa/Hóa

đƣợc diễn giải mang màu sắc thần kỳ, huyền ảo dƣới hình thức mà dân gian thƣờng

gọi là “nhập đồng phán truyền”. Đây cũng là hình thức chung để diễn giải sự tích

Thánh Mẫu, truyền lời Thánh Mẫu trong thuyết gắn với ba lần Thánh Mẫu giáng

sinh và nhiều thực hành tín ngƣỡng gắn với tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu

Tam phủ, Tứ phủ, cùng một số tín ngƣỡng dân gian khác (thờ Đức Thánh, Trần, gọi

hồn, gọi rí/dí, áp vong…).

2). Nếu quả thực có việc triều đình cho phép dựng đền và phong sắc cho

Mẫu Liễu Hạnh (công nhận việc thờ tự hợp pháp) dƣới thời Cảnh Trị nhƣ Truyện

Vân Cát thần nữ và nhiều bản thần tích về Mẫu Liễu Hạnh tại các địa phƣơng khác

đề cập thì nhất định đây là chuyện diễn ra ở (đền) Phố Cát, Thanh Hoa/Hóa, nhất

định không phải cho tất cả các địa điểm đƣơng thời có thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh

trên toàn cõi Việt.

3). Ít nhất, từ khoảng thế kỷ XVIII - XIX, việc phụng thờ Thánh Mẫu Liễu

Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đã rất phổ biến trong không gian văn hóa Bắc Bộ,

đặc biệt là tại tƣ gia, với hình thức phổ biến là treo tranh thờ.

Qua phân tích hai ví dụ tiêu biểu trong một văn bản Hán Nôm về Mẫu Liễu

Hạnh đƣợc khắc in và ghi rõ niên đại có thể khẳng định, những lớp chồng văn hóa

và tính tính chân xác lịch sử qua các thông tin là điều rất đáng quân tâm và cần phải

đƣợc khảo chứng và bóc tách rành mạch trƣớc khi dẫn dụ để minh chứng cho một

sự kiện lịch sử hay một hiện tƣợng văn hóa liên quan.

4.2. Hành trạng thế tục của Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày

Trong tâm thức dân gian khu vực kẻ Giày xƣa và tƣ liệu Hán Nôm liên quan,

đâu đó, nhƣ vẫn phảng phất một “hành trạng thế tục” của ba vị Thánh Mẫu phủ

Giày, dù khá mờ và đậm màu huyền ảo. Qua diễn giải dân gian khu vực kẻ Giày, có

thể lƣợc thuật về “thân phận thế tục” của ba vị Thánh Mẫu nhƣ sau:

Về Mẫu Đệ nhất, tức Mẫu Liễu Hạnh, xin đƣợc điểm lại nhƣ sau: Mẫu vốn là

Tiên Tiên giáng trần, đâu đó vào khoảng thế kỷ XVI, đầu thai làm con của một gia

132

đình họ Lê giàu có, lại làm con nuôi của một vị quan họ Trần. Lớn lên, Mẫu nức danh

nhan sắc, nổi tiếng tài hoa, thích thơ phú từ chƣơng, thích đàn ca ngâm vịnh. Lớn lên,

Mẫu lấy chồng, làm dâu nhà quan (họ Trần, cũng là bố nuôi), vui thú sắt cầm hòa hợp,

sinh con rồi mất sớm (bạc mệnh). U hồn tịch mịch (không siêu thoát), cha mẹ sớm tối

thƣơng nhớ không nguôi, bèn lập ban thờ trong nhà, đèn nhang thờ phụng vẫn thấy

phảng phất nhƣ lúc sinh thời. Bỗng một đêm, mẫu hiện về trƣớc ban thờ tự thuật lại

duyên cớ. Trong xóm, ngoài làng đều cảm thấy kinh hãi, tác yêu, tác quái khiến nhà

chồng ngày càng khánh kiệt, ra sức trấn trị nhƣng ngƣời tin theo ngày càng tôn kính,

tiếng tăm ngày một lẫy lừng, gần thì truyền tai trong xóm, xa thì thiên hạ vang danh.

Tiếng đồn đến kinh thành, dƣới thời Lê, năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642), phụng lệnh chỉ

dựng đền thờ lợp ngói. Năm Chính Hòa thứ 4 (1683) đƣợc tặng sắc phong. Từ đó về

sau, đền thiêng hiển hách, đƣợc triều đình nhiều lần phong tặng…

Với Mẫu Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Công chúa và Mẫu Đệ tam Quảng

cung Công chúa, theo gia phả họ Trần Lê (Tiên Hƣơng), “hành trạng thế tục” cũng

đƣợc diễn giải gắn bó rất mật thiết mới Mẫu Liễu Hạnh:

Mẫu Đệ nhị (là chị hoặc em dâu của Mẫu Liễu Hạnh): Họ Trần, húy Sâm,

sinh thời thích làm việc thiện, đoan trang, thuần khiết, phụng sự thân cô (cô Thắng,

tức Liễu Hạnh) nhƣ phụng sự cha mẹ, hƣởng thọ 51 tuổi, ngày mùng Chín tháng

Ba, bỗng dƣng không bệnh tật mà mất, u hồn tịch mịch, linh khí tích tụ, giữa đêm

mƣợn mồn ngƣời khác tự xƣng là Ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên Công chúa và

đƣợc phối thờ cùng Liễu Hạnh Công chúa, tôn lăng tại xứ Chợ Sại, tọa Càn (Tây

Bắc), hƣớng Tốn (Đông Nam).

Mẫu Đệ tam (cháu của Mẫu Liễu Hạnh): Húy Liên, tự Quế Anh, sinh thời là

ngƣời đoan trang, công dung trọn vẹn, năm 9 tuổi, đúng ngày Rằm tháng Ba, không

bệnh tự nhiên mà mất, u hồn tịch mịch, giữa ban ngày ban mặt (mƣợn mồm ngƣời

khác) tự xƣng là Ngọc nữ Quảng cung Quế Hoa Công chúa, đƣợc phối thờ cùng với

hai vị là Liễu Hạnh Công chúa và Duy Tiên Công chúa, tôn lăng tại xứ Đồng Sau,

hƣớng Khôn (Tây Nam).

Biện giải về “hành trạng thế tục” của ba vị Thánh Mẫu, nhiều đời nay, các

tín đồ vẫn gọi đền thờ Mẫu ở Vân Cát là đền Cố Trạch. Mẫu yên nghỉ tại gò Cây Đa

133

Bóng, cạnh phủ Bóng, nay vẫn còn lăng. Họ Trần Lê ở Tiên Hƣơng, thuộc dòng dõi

Mẫu, đã lập đền thờ Thân phụ và Thân mẫu của Mẫu nhiều đời nay, phối thờ Mẫu

là bà cô tổ. Bên Vân Cát cũng có đền thờ Thân phụ và Thân mẫu của Mẫu. Đặc

biệt, vào cuối thời Nguyễn, họ Trần Lê còn đƣợc triều đình sắc phong, giao trách

nhiệm cho cùng xã Tiên Hƣơng thờ Mẫu?

Qua diễn giải dân gian, một điểm chung dễ nhận thấy là: Mẫu Đệ nhất, Đệ

nhị, Đệ tam đều là những nhân vật đƣợc đƣợc dân gian cho là mất đột ngột (chết bất

đắc kỳ tử) chết giờ thiêng nên sau khi mất rất thiêng. Đặc biệt, Mẫu Đệ nhất và Mẫu

Đệ tam mất khi còn rất trẻ. Sau khi mất, u hồn của họ đều tịch mịch, không siêu

thoát, thƣờng hiện về hoặc “nhập đồng” mƣợn mồm ngƣời khác giao tiếp với dƣơng

gian, thậm chí, Mẫu Liễu còn nhiều lần tác yêu tác quái, khiến cho làng nƣớc không

yên, ngƣời ngƣời khiếp sợ mà sinh lòng kính trọng...

Dƣới góc nhìn thế tục, đằng sau chuyện ba Mẫu họ Trần dồn dập hiển linh

(chết trẻ) nhƣ phảng phất đâu đó một bi kịch tang thƣơng trong gia đình Mẫu, mà

gân gian thƣờng nọi nôm na là “họa trùng tang”. Trong tín niệm dân gian, khi rơi

vào hoàn cảnh này thì việc kêu cầu hồn ngƣời chết nhập đồng hoặc xem bói, gọi

hồn… đƣợc xem nhƣ một giải pháp tâm linh hóa giải tối ƣu, để âm dƣơng cách trở

có thể giao tiếp với nhau tỏ rõ sự tình. Phải chăng, đây chính là cái lõi “hành trạng

thế tục” của ba vị Thánh Mẫu phủ Giày, với quan niệm sống khôn - chết thiêng, đặc

biệt đối với những ngƣời trẻ và thƣờng đƣợc gán cho là thần tiên giáng thế, đến hẹn

phải về trời, để khi hội đủ các điều kiện về lịch sử - kinh tế - xã hội, các Mẫu dần

đƣợc thiêng hóa và mang căn cƣớc thần linh, nhập vào cõi Tiên, đất Thánh lẫy lừng

trong Tứ phủ?

Góp phần xác thực về “hành trạng thế tục” của ba vị Thánh Mẫu phủ Giày,

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cho biết, năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), vua Thiệu

Trị quy định: “Các thần hiệu trong cả nƣớc, hoặc đã phong hoặc chƣa phong, gián

hoặc có những chữ nguyên viết là Đại vƣơng 大 王 , Thánh phi 聖 妃, Công chúa

公 主 và công hầu quý phủ, trừ ngoài ra một vị Liễu Hạnh Công chúa đã phụng

Thánh chỉ cho vẫn để hiệu cũ, và đế vƣơng, thân phiên các đời đƣợc phong tƣớc ấy,

cùng khai quốc công thần đời trƣớc, nguyên có tƣớc hiệu, đều theo nhƣ cũ mà viết

134

vào. Còn thì đều chiểu tùy văn nghĩa đổi những chữ làm Tôn thần 尊 神, Chi thần

之 神, Phủ quân 府 君, Phu nhân 夫 人 để chính tên gọi” [25, tr. 56].

Với hiệu lực của quy định này, tƣớc hiệu Công chúa trong các sắc phong cho

ba vị Thánh Mẫu tại phủ Giày vốn đƣợc phong trƣớc đó (1842), chỉ có trƣờng hợp

Mẫu Đệ nhất Liễu Hạnh Công chúa đƣợc bảo lƣu, Mẫu Đệ nhị và Mẫu Đệ tam đều

đƣợc đổi sang mang tƣớc Phu nhân (sắc ngày Hai mƣơi tháng Năm năm Thiệu Trị

thứ 4 (1844), phong cho Liễu Hạnh Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi tháng Năm năm

Thiệu Trị thứ 4 (1844), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Anh Phu

nhân; sắc ngày Hai mƣơi bốn tháng Mƣời một năm Tự Đức thứ 33 (1880), phong

cho Liễu Hạnh Công chúa, Duy Tiên Phu nhân và Quế Anh Phu nhân; sắc ngày

mùng Một tháng Bảy năm Đồng Khánh thứ 2 (1886), phong cho Liễu Hạnh Công

chúa, Duy Tiên Phu nhân và Quế Anh Phu nhân…).

Cũng theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, vào năm Tự Đức thứ 3 (1850),

vua Tự Đức ban hành quy định:

Vị nào liệt ở Thƣợng đẳng thì Thiên thần gia tặng chữa Túy mục 粹 穆,

Thổ thần gia tặng chữ Hàm quang 含 光, Sơn thần gia tặng chữ Tuấn tĩnh

峻 靜, Thủy thần gia tặng chữ Hoành/Hoằng hiệp 浤 洽, Dƣơng thần

(Nhân thần nam) gia tặng chữ Trác vĩ 卓 偉, Âm thần (Nhân thần nữ) gia

tặng chữ Trang huy 莊 徽. Vị nào liệt ở Trung đẳng thì Thiên thần gia

tặng chữ Linh thúy 靈 邃, Thổ thần gia tặng chữ Tĩnh hậu 靜 厚, Sơn thần

gia tặng chữ Tủng bạt 聳 拔, Thủy thần gia tặng chữ Uông nhuận 汪 潤,

Dƣơng thần gia tặng chữ Quang ý 光 懿, Âm thần gia tặng chữ Trai thục

齋 淑. Vị nào liệt ở hàng Hạ đẳng thì Thiên thần gia tặng chữ Thuần chính

純 正, Thổ thần gia tặng chữ Đôn ngƣng 敦 凝, Sơn thần gia tặng chữ Tú

nghi 秀 嶷, Thủy thần gia tặng chữ Trừng trạm 澄 湛, Dƣơng thần gia

tặng chữ Đoan túc 端 肅, Âm thần gia tặng chữ Nhàn uyển 嫻 婉. Mỗi

thần hiệu đều đƣợc gia tặng hai chữ, các thần hiệu dự ở phong tặng đều

xét từng hạng viết điền vào, nhƣng trong khi viết sắc, đem cả những chữ

135

tích phong trƣớc kia và mỹ tự gia tặng lần này viết liền, cho hợp với việc

làm trƣớc [25, tr. 56].

Qua khảo sát, mỹ tự trong sắc phong thần thời Nguyễn tuy đã đƣợc giản lƣợc

nhiều so với thời Lê nhƣng cơ bản vẫn tuân thủ nguyên tắc, triều sau kế thừa triều

trƣớc, lần phong sau kế thừa lần phong trƣớc, thƣờng bảo lƣu nguyên mỹ tự đã

phong và gia phong thêm. Chiểu theo nguyên tắc này và định chế kể trên (quy định

của triều đình), có thể nhận thấy, mỹ tự phong cho các thần trong những thần sắc

đƣợc phong từ năm Tự Đức thứ 3 (1850) trở về sau, mang thông tin vô cùng quý

giá mà có thể dựa vào đây để xác định nguồn gốc xuất thân của vị thần đƣợc phong

theo ý thức hệ đƣơng thời.

Trở lại với sắc phong cho ba vị Thánh Mẫu phủ Giày, liên quan tới tƣớc vị

và nguồn gốc xuất thân của ba vị Thánh Mẫu, có thể điểm qua các bản thần sắc sau:

- Sắc ngày Mƣời bảy tháng Mƣời năm Tự Đức thứ 5 (1852) phong cho Mẫu

Đệ nhị Quỳnh cung, hiện lựu tại nhà thờ họ Trần Lê xác nhận, tại thời điểm đƣợc

phong (1852), Mẫu Đệ Tam phủ Giày mang tƣớc Phu nhân (dù thời Lê Mẫu từng

đƣợc phong tƣớc Công chúa), gắn với mỹ tự Trai thục 齋 淑, thuộc hệ Âm thần,

nguồn gốc Nhân thần nữ, hàng Trung đẳng.

- Sắc ngày mùng Một tháng Bảy năm Đồng Khánh 2 (1886) phong cho ba vị

Thánh Mẫu, hiện lƣu tại phủ Tiên Hƣơng xác nhận, tại thời điểm đƣợc phong (1886),

Mẫu Liễu Hạnh vẫn đƣợc giữ tƣớc Công chúa, gắn với mỹ tự Trang huy 莊 徽, thuộc

hệ Âm thần, nguồn gốc Nhân thần nữ, hàng Thƣợng đẳng; Mẫu Đệ nhị giữ tƣớc Phu

nhân (dù thời Lê Mẫu từng đƣợc phong tƣớc Công chúa), gắn với mỹ tự Trai thục 齋

淑, thuộc hệ Âm thần, nguồn gốc Nhân thần nữ, hàng Trung đẳng; Mẫu Đệ tam giữ

tƣớc Phu nhân (dù thời Lê Mẫu từng đƣợc phong tƣớc Công chúa), gắn với mỹ tự Trai

thục 齋 淑, thuộc hệ Âm thần, nguồn gốc Nhân thần nữ, hàng Trung đẳng:

- Sắc ngày Mƣời một tháng Tám năm Duy Tân thứ 3 (1909) phong cho ba vị

Thánh Mẫu, hiện lƣu tại nhà thờ họ Trần Lê xác nhận, tại thời điểm đƣợc phong

(1909): Mẫu Liễu Hạnh vẫn đƣợc giữ tƣớc Công chúa, gắn với mỹ tự Trang huy 莊

136

徽, thuộc hệ Âm thần, nguồn gốc Nhân thần nữ, hàng Thƣợng đẳng; Mẫu Đệ nhị

giữ tƣớc Phu nhân, gắn với mỹ tự Trai thục 齋 淑, thuộc hệ Âm thần, nguồn gốc

Nhân thần nữ, hàng Trung đẳng; Mẫu Đệ tam giữ tƣớc Phu nhân, gắn với mỹ tự

Trai thục 齋 淑, thuộc hệ Âm thần, nguồn gốc Nhân thần nữ, hàng Trung đẳng.

Nhƣ vậy, qua những phân tích trên, “hành trạng thế tục” của Tam vị Thánh

Mẫu phủ Giày đã bƣớc đầu đƣợc “giải ảo”. Đặc biệt, vấn đề này một lần nữa lại

đƣợc khẳng định rõ hơn khi triều đình phong sắc cho Thánh phụ và Thánh Mẫu của

Mẫu Liễu Hạnh:

敕 南 定 省 務 本 縣 僊 鄉 社 陳 黎 族 仝 奉 事 啟 生 僊 父 黎 德 正 之 神

稔 著 靈 應 肆 今 丕 丞 耿 命 緬 念 神 庥 著 封 為 翊 保 中 興 靈 扶 之 神 準 其

奉 事 庶 幾 神 其 相 佑 保 我 黎 民.

欽 哉!

啟 定 貳 年 參 月 拾 捌 日.

Sắc cho họ Trần Lê và xã Tiên Hƣơng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định cùng

phụng thờ thần là đức Khải sinh Tiên phụ Lê Đức Chính, có công hiển linh rõ rệt.

Nay thừa mệnh lớn, nhớ đến ơn thần, phong là Dực Bảo Trung Hƣng Linh Phù chi

thần. Những mong, thần hãy phù giúp, che chở muôn dân.

Kính cẩn thay!

Ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định 2 (1917).

敕 南 定 省 務 本 縣 僊 鄉 社 陳 黎 族 仝 奉 事 啟 生 僊 母 陳 氏 妙 福 之

神 稔 著 靈 應 肆 今 丕 丞 耿 命 緬 念 神 庥 著 封 為 翊 保 中 興 靈 扶 之 神 準

其 奉 事 庶 幾 神 其 相 佑 保 我 黎 民.

欽 哉!

啟 定 貳 年 參 月 拾 捌 日.

Sắc cho họ Trần Lê và xã Tiên Hƣơng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định cùng

phụng thờ thần là đức Khải sinh Tiên mẫu Trần Thị Diệu Phúc, có công hiển linh rõ

rệt. Nay thừa mệnh lớn, nhớ đến ơn thần, phong là Dực Bảo Trung Hƣng Linh Phù

chi thần. Những mong, thần hãy phù giúp, che chở muôn dân.

137

Kính cẩn thay!

Ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định 2 (1917)…

4.3. Vai trò của các cộng đồng làng xã trực tiếp liên quan trong việc

phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy

Trong quản lý hoạt động thờ tự thần linh (quản giám bách thần), thần sắc

là một dạng văn bản hành chính của triều đình phong, gia phong cho thần, xác

nhận tƣ cách chính thần (đƣợc ghi trong Tự điển/Điển thờ tự), cho phép thờ tự.

Qua tƣ liệu Hán Nôm và trong sự hiểu biết hiện nay, chƣa thể xác định Tự

điển/Điển thờ tự của các triều quân chủ ở nƣớc ta chính thức đƣợc xác lập từ

khi nào, nhƣng có thể tạm hình dung: Tự điển/Điển thờ tự là một tập hợp danh

sách các vị thần đã đƣợc triều đình công nhận tƣ cách chính thần, chính tự

(đƣợc phép thờ tự qua thẩm định lý lịch) dƣới các triều đại. Đƣơng nhiên, triều

đại sau sẽ kế thừa triều đại trƣớc, kèm theo đó là những quy định để áp dụng,

vận hành, nhƣ cơ chế xác định việc thờ thần và lý lịch của thần nhƣ thế nào thì

đƣợc đƣa vào Tự điển, căn cứ để thăng cấp, giáng cấp đền thờ, thăng cấp, giáng

cấp của thần hoặc xóa bỏ tƣ cách chính thần, chính tự/thờ tự…

GS. Hà Văn Tấn từng khẳng định, lệ phong thần sắc ở nƣớc ta ít nhất đã có

từ thời Lý Thái Tổ (năm Thuận Thiên thứ 7 - 1016) [55, tr. 42 - 50]. Qua thƣ tịch

Hán Nôm, có thể tạm tin, lệ phong thần sắc ở nƣớc ta đƣợc ghi nhận ít nhất từ thời

Trần - Sách Việt điện u linh tập cho biết: Năm Trùng Hƣng thứ nhất (1285), thứ tƣ

(1288), đời Trần Nhân Tông (1285) và năm Hƣng Long thứ 20 (1312), triều đình đã

phong thần sắc và gia phong mỹ tự cho các thần [70, tr. 60 - 91]. Tuy nhiên, hiện

chƣa có cứ liệu để xác định rõ về hình thức và nội dung cụ thể của một đạo thần sắc

dƣới thời Trần ra sao, nhƣng có thể khẳng định, lệ này đƣợc các triều sau tiếp tục

duy trì cho đến tận cuối thời Nguyễn.

Qua khảo sát điền dã, thần sắc sớm nhất hiện còn, là các sắc phong mang

niên hiệu Hồng Đức (thế kỷ XV), hiện đƣợc lƣu trữ tại 02 di tích thuộc tỉnh Thái

Bình hiện nay. Muộn hơn, còn một vài thần sắc mang niên đại thời Mạc (thế kỷ

XVI). Điều đáng tiếc là hầu hết các sắc này đều trong tình trạng tàn khuyết khá

nhiều, cần sớm có phƣơng án bảo tồn, phát huy giá trị. Về cơ bản, đa phần thần sắc

138

trong các di tích hiện nay, có thể khảo đƣợc, chủ yếu nằm trong khung niên đại từ

thế kỷ XVII trở về sau.

Về nội dung, có thể khái lƣợc nhƣ sau: Thần sắc thời Lê là văn bản hành

chính của triều đình phong hoặc gia phong (mỹ tự) cho thần, mặc nhiên thừa

nhận tƣ cách chính tự cho thần và tƣ cách chính từ cho ngôi đền thờ thần, không

đề cập đến nghĩa vụ thờ tự thần thuộc về cộng đồng dân cƣ nào. Chƣa rõ, khi

phong sắc, đƣơng thời, triều đình có ban hành kèm theo sắc phong văn bản quy

định rõ nghĩa vụ thờ tự hay không. Khắc phục nhƣợc điểm trong quy cách quản

lý bách thần thời Lê - lòng sắc phong không ghi rõ địa chỉ cụ thể của cộng đồng

dân cƣ chịu trách nhiệm thờ tự, lần gia phong sau kế thừa mỹ tự lần phong trƣớc

và ban tặng thêm, khiến mỹ tự không ngừng đƣợc nối dài, dần trở thành huyền bí

và tối nghĩa, triều Nguyễn đã cho sát hạch lại lý lịch các thần, lịch sử thờ tự, chia

rõ hệ thần, giản lƣợc mỹ tự, rút ngắn tên thần khi đƣa vào lòng sắc, đồng thời,

quy định rõ trách nhiệm thờ tự thần thuộc cộng đồng dân cƣ nào (thƣờng là cấp

làng xã, nhƣng cũng có một số ngoại lệ, nhƣ phong sắc cho công thần, nhân thần

đƣợc thờ tự trong nhà thờ dòng họ chẳng hạn…).

Lịch sử cũng cho thấy, khởi nguyên, các đền thờ thần trong dân gian thƣờng

đƣợc cộng đồng làng xã lập nên mang tính tự phát nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm

linh, tôn giáo, tín ngƣỡng của cộng đồng. Qua các bƣớc phát triển, truyền thống thờ

thần đƣợc cộng đồng xác lập, duy trì qua các đời, dần trở thành tục lệ, đƣợc dung

dƣỡng bởi nền tảng tâm thức văn hóa tín ngƣỡng, với các thành tố căn bản không khó

nhận diện, đó là: Hệ thần, địa điểm và không gian thờ tự, các thực hành văn hóa tín

ngƣỡng liên quan (hội, lệ).

Tuy nhiên, đây mới chỉ là bƣớc xác lập truyền thống văn hóa tín ngƣỡng ở

phạm vi cộng đồng làng xã, chƣa đƣợc triều đình (chính quyền) công nhận chính thức

theo chuẩn chung của quốc gia. Theo đó:

- Hoạt động thờ tự và sinh hoạt văn hóa tín ngƣỡng liên quan của cộng đồng

làng xã gắn với ngôi đền thờ thần vẫn có thể bị coi là dâm tự (thờ tự trái phép);

- Vị thần đƣợc cộng đồng làng xã tôn thờ vẫn có thể bị coi là dâm thần (thần

chƣa đƣợc công nhận tƣ cách chính thần);

139

- Đền thờ thần của cộng đồng làng xã vẫn có thể bị coi là dâm từ (đền thờ

xây dựng trái phép).

Từ nhu cầu thờ tự công khai và nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngƣỡng chính

đáng, việc “làm đẹp” lý lịch thần thƣờng theo xu hƣớng “nhân hóa”, “lịch sử hóa”,

“bản địa hóa” để vị thần đƣợc thờ phụng trong cộng đồng dân cƣ dần trở thành một

nhân vật kiệt xuất, có công với cộng đồng, với dân, với nƣớc, đặc biệt là với triều

đình đã trở thành một motif mang tính phổ quát (qua thần tích). Đặc biệt, sau khi tín

ngƣỡng thờ cúng tổ tiên phát triển, trong dân gian còn xuất hiện xu hƣớng “thần

thánh hóa” con ngƣời để thờ tự và hợp thức hóa thờ tự. Đó là một con đƣờng chính

danh thần, với lý lịch sạch/đẹp, một cơ sở quan trọng để triều đình xem xét công

nhận tƣ cách chính thần, phong sắc (đƣa vào Điển thờ tự), cho phép phụng thờ công

khai, đƣờng đƣờng chính chính, kèm theo đó là việc đƣợc hƣởng cơ chế ruộng đất

duy trì hƣơng hỏa, đƣợc các triều đại sau tiếp tục thừa nhận. Phải chăng, đó chính là

một cơ chế sáng tạo văn hóa tín ngƣỡng để xác lập và duy trì truyền thống thờ thần

trong cộng đồng làng xã Việt cổ truyền?

Trong Tự điển (祀 典 - Điển thờ tự) xƣa không có khái niệm phụ tự (thờ phụ)

đối lập với chính tự (thờ chính) hay phụ từ (đền phụ) đối lập với chính từ (đền chính).

Theo đó, với trƣờng hợp phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở khu vực phủ Giày - Kẻ Giày

xƣa, khái niệm chính từ - phủ chính từ - phủ chính mang ý nghĩa khẳng định:

- Việc thờ tự Mẫu Liễu Hạnh (tại phủ Giày) của cộng đồng là hợp pháp và

chính đáng;

- Mẫu Liễu Hạnh là chính thần (đã đƣợc triều đình thẩm định lại lịch qua

thần tích), đã đƣợc triều đình ban tặng sắc phong, ghi trong Tự điển (Điển thờ tự).

- Đền/phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh tại Kẻ Giày - phủ Giày là chính từ/chính phủ

mà dân gian quen gọi là phủ Chính.

Qua đây, có thể nhận thấy, trong việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh tại phủ

Giày, thuật ngữ phủ chính mang ý nghĩa là phủ thờ tự hợp pháp và chính đáng theo

quy định của triều đình, đƣợc triều đình giao nghĩa vụ, trách nhiệm thờ từ cho một

cộng đồng cụ thể, ít nhất từ cấp xã, nơi có bản phủ, hoàn toàn không mang ý nghĩa

khẳng định, ngôi phủ này (phủ Giày) là phủ chính còn các phủ khác cũng thờ Thánh

140

Mẫu Liễu Hạnh mang thân phận phủ phụ. Đƣơng nhiên, đối với những ngôi đền

thuộc hàng thƣợng đẳng thần từ/đền hàng thƣợng đẳng (thời Lê) hoặc những vị thần

thuộc hàng thƣợng đẳng thần/thần thƣợng đẳng (thời Nguyễn) chẳng hạn thì nghĩa

vụ, trách nhiệm thờ tự không chỉ giới hạn ở phạm vi cấp xã mà có khi thuộc về

hàng tổng, huyện, tỉnh/trấn, thậm chí là cấp quốc gia, đối với các ngôi đền có lễ tế

tự đƣợc liệt vào hạng quốc gia - quốc tế tự.

Vậy, với trƣờng hợp tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy, ngôi vị

chính tự chính thức đƣợc xác lập từ khi nào?

Liên tƣởng tới nguyên bản “Truyện Nữ thần ở Vân Cát” đƣợc nhiều ngƣời

cho là của Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748), nếu quả thực truyện này do bà chép về

“Nữ thần ở Vân Cát” từ truyền thuyết lƣu truyền ở Vân Cát thì ắt hẳn, khi chép

truyện này (trƣớc năm 1743), về lý, Vân Cát phải đƣợc ghi nhận với tƣ cách là tên

một địa danh cấp xã, nhƣng tại sao trong “Truyện Vân Cát thần nữ”, đƣợc khắc

trong Truyền kỳ tân phả vào năm Gia Long thứ 10 (1811) [249] lại ghi nhận Vân

Cát ở thời điểm này (1811) giữ vị trí là đơn vị cấp thôn. Qua chi tiết này, có thể

khẳng định, so với nguyên bản tạm coi là của Đoàn Thị Điểm, nội dung Truyện Nữ

thần ở Vân Cát - Vân Cát thần nữ truyện 雲 葛 神 女 傳 khắc năm Gia Long thứ 10

(1811) đã đƣợc biên tập, điều chỉnh ít nhiều về chi tiết, nếu khảo và phân tích kỹ

lƣỡng trong sự đối sánh, ắt hẳn sẽ rút ra đƣợc nhiều điều thú vị liên quan tới lịch sử

- văn hóa đƣơng thời, quá trình định bản, truyền bản của truyền thuyết về Thánh

Mẫu Liễu Hạnh trong dân gian... Đó chính là sự phức tạp của văn bản này cần đƣợc

lƣu ý khi sử dụng để minh chứng hoặc dẫn dụ trong nghiên cứu.

Trở lại với vấn đề sắc phong cho Tam vị Thánh Mẫu ở phủ Giầy và chƣ vị

liên quan, qua khảo sát thực địa, bƣớc đầu thống kê đƣợc 22 sắc gốc có niên đại từ

nửa cuối thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XX, gồm: 07 đạo tại nhà thờ họ Trần Lê

(Sắc ngày Hai mƣơi bốn tháng Sáu nhuận năm Chính Hòa thứ 4 (1683), phong cho

Liễu Hạnh Mã Hoàng Tề Gia Trị Quốc Hộ Sĩ Cẩn Tiết Hòa Mỹ Đoan Trang Công

chúa; sắc ngày Hai mƣơi tám tháng Ba năm Cảnh Hƣng thứ 2 (1741), phong cho Đệ

tam Ngọc nữ Quảng cung Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi hai tháng Ba năm Chiêu

Thống nguyên niên (1786), phong cho Liễu Hạnh Mã Vàng… Công chúa; sắc ngày

141

Hai mƣơi tám tháng Sáu năm Thiệu Trị Thứ 4 (1844), phong cho Đệ nhị Ngọc nữ

Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân; sắc ngày Mƣời bảy tháng Mƣời năm Tự Đức thứ 5

(1852), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Anh Phu nhân; sắc ngày Mƣời

một tháng Tám năm Duy Tân thứ 3 (1909), phong cho Dực Bảo Trung Hƣng Đế

Thích Tiên Đình Liễu Hạnh Công chúa Thƣợng đẳng thần, Dực Bảo Trung Hƣng

Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân Trung đẳng thần, Dực Bảo Trung

Hƣng Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Anh Phu nhân Trung đẳng thần; sắc ngày

Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định thứ 2 (1917), phong cho Đế Thích Tiên Đình

Ngọc nữ Liễu Hạnh Công chúa) và 15 đạo tại phủ Tiên Hƣơng (Sắc ngày mùng

Mƣời tháng Mƣời hai năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1730), phong cho Liễu Hạnh Công

chúa; sắc ngày mùng Tám tháng Tám năm Cảnh Hƣng thứ 28 (1767), phong cho Đệ

nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên Công chúa; sắc ngày Mƣời sáu tháng Năm niên

hiệu Cảnh Hƣng thứ 44 (1783), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng Công chúa; sắc

ngày Mƣời sáu tháng Năm niên hiệu Cảnh Hƣng thứ 44 (1783), phong cho Quế Hoa

Công chúa; sắc ngày Mƣời sáu tháng Năm niên hiệu Cảnh Hƣng thứ 44 (1783),

phong cho Duy Tiên Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi mốt tháng Bảy năm Minh

Mệnh thứ 2 (1821), phong cho Liễu Hạnh Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi mốt tháng

Bảy năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế

Hoa Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi tháng Năm năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), phong

cho Liễu Hạnh Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi tháng Năm năm Thiệu Trị thứ 4

(1844), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Anh Phu nhân; sắc ngày Hai

mƣơi bốn tháng Mƣời một năm Tự Đức thứ 33 (1880), phong cho Liễu Hạnh Công

chúa, Duy Tiên Phu nhân và Quế Anh Phu nhân; sắc ngày mùng Một tháng Bảy

năm Đồng Khánh thứ 2 (1886), phong cho Liễu Hạnh Công chúa, Duy Tiên Phu

nhân và Quế Anh Phu nhân; sắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định thứ 2

(1917), phong cho Thân phụ Lê Đức Chính; sắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải

Định thứ 2 (1917), phong cho Thân mẫu Trần Thị Phúc; sắc ngày Hai mƣơi nhăm

tháng Bảy năm Khải Định thứ 9 (1924), phong cho Thân phụ Lê Đức Chính; sắc

ngày Hai mƣơi nhăm tháng Bảy năm Khải Định thứ 9 (1924), phong cho Thân mẫu

Trần Thị Phúc).

142

Điểm đặc biệt, là tất cả các sắc phong cho Mẫu Liễu Hạnh không hề xuất

hiện cụm mỹ tự Hòa Diệu Chế Thắng Đại vƣơng. Trong đó, sắc phong cho Mẫu

Liễu Hạnh ở phủ Giầy mang điện đại sớm nhất đƣợc ghi nhận vào ngày Hai mƣơi

bốn tháng Sáu nhuận năm Chính Hòa thứ 4 (1683). Điều này càng góp phần khẳng

định rõ, là trong lịch sử không có chuyện vua Lê Cảnh Trị (1663 - 1671) phong sắc

cho Mẫu Liễu Hạnh nhƣ bản in Truyện Nữ thần ở Vân Cát - 雲 葛 神 女 傳 Vân

Cát thần nữ truyện khắc năm Gia Long thứ 10 (1811) đề cập. Và, tƣ cách chính tự,

chính từ, chính thần quanh tục thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy chính thức đƣợc

triều đình thừa nhận chỉ từ nửa cuối thế kỷ XVII mà thôi. Đây là một căn cứ xác

đáng, là cơ sở tin cậy để nhìn nhận về lịch sử phụng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở

phủ Giầy nói riêng và Tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh nói chung.

Theo đó, khi đặt mối quan hệ thờ tự Mẫu Liễu Hạnh giữa Vân Cát - An Thái-

Tiên Hƣơng trong sự biến đổi về địa - văn hóa của Kẻ Giày, có thể sơ kết mối quan

hệ chính tự và chính từ giữa các cộng đồng trực tiếp liên quan trong lịch sử nhƣ sau:

- Trên đất Kẻ Giày, nơi có phủ Giày, ngôi vị chính tự (đƣợc phép thờ tự),

chính từ, chính thần của Tam vị/Ba ngôi Thánh Mẫu (Mẫu Liễu Hạnh, Đệ nhị

Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân, Đệ tam Quảng cung Quế Anh Phu nhân) đƣợc xác

lập từ khoảng nửa cuối thế kỷ XVII (không thể sớm hơn).

- Sau khi đƣợc triều đình công nhận tƣ cách chính tự, chính từ, chính thần, ban

đầu, việc thờ tự Tam vị/Ba ngôi Thánh Mẫu có thể thuộc trách nhiệm chung của hàng

huyện hoặc hàng phủ, trong đó có vai trò nòng cốt của xã Vân Cát và xã An Thái...

- Sau khi hai xã Vân Cát và An Thái sáp nhập thành xã An Thái (mới) (khoảng từ

1805 - 1811), bên Vân Cát có đất đền giữ ngôi Giáp Nhất, bên An Thái (sau đổi thành

Tiên Hƣơng) giữ nhiều ruộng đền. Xã An Thái (mới), trong đó có Vân Cát và An Thái

giữ vai trò nòng cốt trong việc thờ tự Tam vị/Ba ngôi Thánh Mẫu.

- Đến khoảng cuối thời Thiệu Trị - đầu thời Tự Đức nhƣng không thể muộn hơn

năm Tự Đức thứ 3 (1850), xã Vân Cát tách khỏi xã An Thái (mới), tái lập xã Vân Cát,

xã An Thái (mới) đổi thành xã Tiên Hƣơng, bên Vân Cát ít ngƣời không lo đƣợc, đã

chuyển giao nguyên hội lệ cho bên Tiên Hƣơng. Từ đây, việc thờ Mẫu và đền Mẫu

riêng bên xã Tiên Hƣơng chính thức đƣợc công nhận ngôi vị chính tự và chính từ - Tƣ

143

cách chính từ - phủ chính từ - phủ chính bên xã Tiên Hƣơng cũng chính thức đƣợc xác

lập - Qua thần sắc hiện còn, Tiên Hƣơng chính thức đƣợc phong sắc thờ riêng riêng ít

nhất từ năm Tự Đức thứ 33 (1880). Trên văn khắc tại phủ Tiên Hƣơng, tƣ cách chính

từ - phủ chính từ - phủ chính bắt đầu xuất hiện muộn nhất từ thời Thành Thái. Đƣơng

nhiên, trong mối quan hệ địa - văn hóa chung, sau khi tái lập xã, việc thờ Mẫu và đền

thờ Mẫu riêng bên xã Vân Cát vẫn đƣợc kế thừa từ truyền thống Kẻ Giày - Vân Cát -

An Thái cũ - An Thái (mới), duy chỉ có điều, đầu thờ Tự Đức, bên xã Vân Cát vì ít

ngƣời không lo đƣợc hội lệ đành chuyển giao nguyên lệ cho bên Tiên Hƣơng. Đến

khoảng năm 1918 - 1919, hội Vân Cát lại đƣợc phép phục hồi, tiếp tục đƣợc duy trì, dù

có lúc thăng trầm cho đến khi cùng Tiên Hƣơng hợp nhất với Kim Bảng thành xã Kim

Thái... và vẫn tồn tại đến tận ngày nay.

Thực chất, câu chuyện chính tự - chính từ - chính phủ - phủ chính tại phủ Giày

còn đƣợc phản ánh qua một số văn bia, hiện vật có khắc chữ trong phủ Tiên Hƣơng,

không đơn giản chỉ liên quan đến tƣ cách chính tự - chính từ - chính phủ - phủ chính

giữa Vân Cát - An Thái - Tiên Hƣơng trong lịch sử phụng thờ Tam vị Thánh Mẫu mà

còn bắt nguồn từ sự vận động nội tại trong chính cộng đồng dân xã/thôn An Thái - Tiên

Hƣơng - giữa họ Trần Lê và cộng đồng làng xã Tiên Hƣơng…

4.4. Vấn đề Tam phủ, Tứ phủ và Tam tòa Tứ phủ

Qua tƣ liệu Hán Nôm, trong mục này, nghiên cứu sinh xin đề cập đến một

“góc khuất”, đó là văn cúng Tứ phủ trình đồng, sớ văn, thần sắc… liên quan để

phác lại diện mạo cơ bản của hệ thần Tứ phủ, qua đó, góp phần làm rõ một số vấn

đề về Tam phủ, Tứ phủ và Tam tòa Tứ phủ.

Trong tôn giáo, tín ngƣỡng dân gian, vũ trụ quan chia thế giới làm 3

tầng/miền (Trời/Thiên phủ, Đất/Địa phủ, Nƣớc/Thủy phủ) 4 cõi (Trời/Thiên phủ,

Đất/Địa phủ, Nƣớc/Thủy phủ, Núi/Nhạc phủ, có trƣờng hợp coi Dƣơng phủ là Nhạc

phủ…) đƣợc xem nhƣ là một hiện tƣợng đồng quy văn hóa. Vậy, một giả thiết để

làm việc đƣợc đặt ra là: Trong lịch sử, từng tồn tại quan niệm, coi thế giới thần linh

là tối thƣợng, là nơi an trụ của những đấng có quyền năng tối cao, có sức mạnh siêu

nhiên, chi phối hoàn toàn cuộc sống của con ngƣời. Và, theo các bƣớc phát triển, vũ

trụ quan chia thế giới thành 2 miền Trời/Thiên phủ và Đất/Địa phủ cũng đƣợc định

144

hình, mà dấu tích văn hóa còn sót lại qua cách xác định nguồn gốc thần linh tối cổ -

chia các thế lực siêu nhiên thành Thiên thần và Địa kỳ, tức thế lực siêu nhiên ở trên

trời đƣợc gọi là thần (Thiên thần), thế lực siêu nhiên ở dƣới đất đƣợc gọi là kỳ (Địa

kỳ). Ngoài ra, theo nguyên lý Âm - Dƣơng, cũng từng tồn tại thế giới quan tôn giáo,

tín ngƣỡng chia vũ trụ thành hai miền: Âm phủ và Dƣơng phủ mà con ngƣời, vạn

vật ở vị trí trung gian, là thể hợp nhất giữa Âm và Dƣơng. Theo vũ trụ quan tôn

giáo dạng này, hệ thần còn đƣợc chia thành Âm thần (nữ) và Dƣơng thần (nam). Có

lẽ, đây cũng là những dạng thức thế giới quan tôn giáo, tín ngƣỡng sơ khai qua các

bƣớc phát triển của lịch sử, gắn với nhiều tộc ngƣời, vẫn tồn tại đến tận ngày nay

trong từng con ngƣời, nhóm ngƣời cụ thể, thậm chí trong những cộng đồng.

Trong các văn bản Hán Nôm, vũ trụ 3 tầng 4 thế giới thƣờng đƣợc mã hóa

bằng thuật ngữ Tam phủ 三 府, Tứ phủ 四 府. Ứng với mỗi miền vũ trụ là hệ thần

thuộc về miền đó, cụ thể: Thần linh thuộc miền Trời (Thiên phủ 天 府) đƣợc gọi là

Thiên thần, thần linh ở miền Đất (Địa phủ 地 府) đƣợc gọi là Thổ thần, thần linh ở

miền Nƣớc (Thủy phủ 水 府) đƣợc gọi là Thủy thần, thần linh ở miền Núi (Nhạc

phủ 嶽 府) đƣợc gọi là Sơn thần... Vì sự phức tạp của vấn đề, tạm thời, luận án chƣa

đặt ra tham vọng truy nguyên để tìm về nguồn gốc lịch sử của từng dạng thức vũ trụ

quan tôn giáo, tín ngƣỡng ở đây.

Khởi thủy, các vị thần linh đã đƣợc con ngƣời gán ghép cho là tinh anh của đất,

trời, sông, núi, biển cả…, là lực lƣợng vô hình làm chủ tự nhiên, có thể chi phối tự

nhiên, vận mệnh và cuộc sống của con ngƣời, muôn loài, muôn vật... Vì vậy mà con

ngƣời cần phải phụng thờ để cầu thần linh ban phúc, che chở, giúp cho con ngƣời, vật

nuôi, cây trồng nảy nở, sinh sôi, bình an trong cuộc sống... Từ yêu cầu của lịch sử - xã

hội và quan niệm vật linh, hồn linh, với tƣ duy liên tƣởng, hình tƣợng thần linh dần

đƣợc con ngƣời vật chất hóa, gán với hình dạng cụ thể của một dạng vật chất đƣợc

thiêng hóa (cây, con, sông, biển, núi, rừng…). Và, một đỉnh cao, nhƣ một mẫu số

chung của văn hóa nhân loại, đó là hình thức thờ thần đƣợc nhân hóa, lịch sử hóa, địa

phƣơng hóa, với thần tƣợng đƣợc nhập linh yên vị trong các kiến trúc thờ tự để bảo hộ,

che chở cho con ngƣời, cộng đồng, giang sơn - xã tắc... Đặc biệt, theo hệ tƣ tƣởng Nho

145

giáo, một số nhân vật lịch sử tiêu biểu thuộc hàng “Tam bất hủ”, có thành tựu lập công

(có công với dân, với nƣớc), lập đức (có đức độ lớn), lập ngôn (để lại trƣớc tác, học

thuyết có tầm ảnh hƣởng rộng) hoặc dân gian coi những ngƣời mất vào giờ thiêng, có

điềm báo lạ cũng là thần linh, phải đƣợc tôn thờ, sau cũng có thể đƣợc vua phong sắc,

cho hƣởng hƣơng hỏa muôn đời. Đó là hiện tƣợng “thần thánh hóa” con ngƣời, một

hiện tƣợng rất phổ biến sau khi tục thờ cúng tổ tiên đƣợc định hình và phát triển. Với

ngƣời Việt cũng không phải là một ngoại lệ.

Ngày nay, chúng ta vẫn còn bắt gặp đầy đủ các hình thức thờ thần từ thuở sơ

khai, nhƣ thờ thần vô hình (không có thần tƣợng), thờ thần dƣới hình thái vật linh

(vật thiêng) và thờ thần nhân dạng… Qua các dạng thức thờ cúng, có thể nhận thấy,

thần linh thƣờng đƣợc dân gian quan niệm là lực lƣợng vô hình hoặc thực thể linh

thiêng, đƣợc hợp nhất giữa hai bộ phận thần và tƣợng, tƣơng tự nhƣ hồn và xác

trong thực thể con ngƣời nƣơng tựa vào nhau. Bằng chứng cụ thể, là trong văn hóa

tâm linh của ngƣời Việt hiện nay, các dạng thức thờ thần qua hình tƣợng, nhƣ thờ

bát hƣơng, bài vị hay pho tƣợng cụ thể, trƣớc khi thờ phụng, đều tiến hành nghi lễ

nhập linh, hô thần nhập tƣợng…

Về ý nghĩa tâm linh, qua tƣ duy liên tƣởng có thể nhận thấy, theo lý sự dân

gian, hiện tƣợng “Thần nhập tƣợng” cũng không khác nhiều so với hiện tƣợng

“Thánh nhập đồng”. Tuy chỉ có điều, “Thần nhập tƣợng” mang tính vĩnh cửu hơn,

đƣợc xem nhƣ thuật yên vị tƣợng, tức hợp nhất thần với tƣợng nhằm giữ thần

thƣờng trụ nơi cõi tục để thờ tự, cầu thần che chở, phù hộ con ngƣời, còn hiện

tƣợng “Thánh nhập đồng” lại mang tính lâm thời, tức bóng của thánh nhập vào xác

đồng để giải quyết việc trần, xong việc thánh lại thăng.

Với tín ngƣỡng dân gian truyền thống Việt, đồng có hai phái: Phái thờ Thánh

và phái thờ Tiên. Phái thờ Thánh thờ Trần Hƣng Đạo (Trần Quốc Tuấn) và các bộ

tƣớng thân cận của ngài làm Thánh bảo hộ bản mệnh, sát quỷ trừ tà đem lại sự bình

an, chủ yếu gắn với đàn ông. Phái thờ Tiên (Mẫu), sau thƣờng đƣợc dân gian gọi là

phái thờ Mẫu (Tiên Mẫu, Tiên Thánh, Thánh Mẫu) thờ Thiên Tiên (Mẫu Thƣợng

Thiên), Địa Tiên (Mẫu Địa), Thủy Tiên (Mẫu Thủy Thoải), Nhạc/Sơn Tiên (Mẫu

Nhạc/Sơn), chủ yếu thƣờng gắn với phụ nữ [152]…

146

Tín đồ thờ Tiên (Mẫu) thƣờng quan niệm, những ngƣời có biểu hiện bị hệ

thần linh thuộc hệ Thiên Tiên, Địa Tiên, Thủy Tiên hành… (dân gian thƣờng gọi là

bị cơ đày), sinh ra bệnh tật, chữa bằng thuốc mãi không khỏi, sau khi đi xem bói,

biết rõ vị Tiên nào hành thì sắm lễ đến phủ, điện thờ của bà đồng cựu có thờ vị Tiên

ấy, nhờ bà làm lễ đội bát hƣơng (tôn nhang bản mệnh). Nếu ngƣời đó có căn đồng

số lính, có thể làm lễ xin khất nhƣng đến kỳ hạn thì bắt buộc phải sắm đủ lễ vật nhờ

bà đồng cựu cúng trình đồng, có điều kiện thì về nhà lập điện thờ thì sẽ đƣợc Tiên,

Thánh Mẫu bảo hộ, ban cho sức khỏe, tài lộc [152]…

Về nghi thức trình đồng xƣa, hiện tại nghiên cứu sinh mới chỉ phát hiện đƣợc tƣ

liệu Hán Nôm (trƣớc năm 1945) đề cập sơ lƣợc về trình đồng Tam phủ (trình đồng mở

Tam phủ: Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ), không mở Nhạc phủ, mặc dù đƣơng thời

những ông, bà đồng vẫn thờ, lễ và thỉnh mời đủ hệ thần Tứ phủ (Thiên phủ, Địa phủ,

Thủy phủ, Nhạc phủ/Dƣơng phủ). Về lý do chỉ mở ba phủ, không mở cả bốn phủ, tạm

thời chƣa giải thích sâu ở đây, nhƣng qua quan sát tham dự, hiện nay, nhiều ông, bà đồng

lại thƣờng làm lễ trình đồng Tứ phủ (trình đồng mở Tứ phủ: Thiên phủ, Địa phủ, Thủy

phủ, Nhạc phủ), tức là mở thêm Nhạc phủ, do họ quan niệm Nhạc phủ đã đƣợc tách khỏi

Địa phủ để trở thành một phủ độc lập nhƣ các phủ khác. Nhạc phủ cũng gắn với sắc

phục riêng (khăn lam, áo lam, đai lam). Dƣới đây, xin phác họa sơ lƣợc về nghi lễ trình

đồng Tam phủ của phụ nữ theo Thánh làm đồng nhƣ sau:

Trình là trình cúng Tam phủ. Tam phủ tức Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ.

Không trình Tam phủ không thể thành đồng.

Ví nhƣ một ngƣời nào đó bị Thiên Tiên (Thiên Tiên Thanh Vân Cửu Trùng

Công chúa) chấm đồng thì đến kỳ phải sắm một khăn xanh, một áo xanh, một đai

xanh, tức y phục của đồng Thiên Tiên. Ngƣời nào làm đồng Địa Tiên (Liễu Hạnh

Công chúa) thì sắm một khăn đỏ, một áo đỏ, một đai đỏ, một váy yếm đỏ, tức y

phục của đồng Địa Tiên. Ngƣời nào làm đồng Thủy Tiên (Thủy Tinh Lân Nữ Công

chúa) thì sắm một áo trắng, một khăn trắng, một đai trắng, một yếm váy trắng, tức

trang phục của đồng Thủy Tiên.

Khi trình đồng, ngƣời trình đồng phải vận trang phục chỉnh tề, dâng lễ vật để

cúng Tam phủ. Cụ thể, cúng Thiên phủ một ngựa xanh, một tán xanh, một ghế

147

xanh, một lọng xanh, một bút, một miếng son. Cúng Địa phủ một tán đỏ, một ngựa

đỏ, một ghế đỏ, một lọng đỏ, một bút, một phiến son, một thỏi mực. Cúng Thủy phủ

một tán trắng, một ngựa trắng, một ghế trắng, một lọng trắng, một bút, một thỏi

mực, một phiến son. Cúng mỗi phủ 500 tiền vàng mã, một con gà, một thủ lợn, một

con vịt, cùng hƣơng, hoa… [152].

Bày biện lễ xong, trƣớc tiên, bà đồng cựu sai đệ tử cúng Tam phủ, rồi cúng

các vị tiên. Khi cúng Tam phủ, ắt phải thỉnh mời Tam phủ, tức Tam phủ Công đồng

về chứng đàn, giám lễ. Về bản chất, cúng trình Tam phủ hay cúng trình Tứ phủ đều

mang ý nghĩa là cúng trình thế giới thần linh, bao gồm tất cả thần linh. Vì chƣa tìm

đƣợc khoa lễ trình đồng Tam phủ Công đồng trong tƣ liệu Hán Nôm, dƣới đây xin

giới thiệu khoa lễ trình đồng Tứ phủ Công đồng trong sách Tứ phủ Công đồng khoa

nghi sớ văn hợp tập 四 府 公 同 科 儀 疏 文 合 集, một cuốn sách Hán Nôm tập

hợp khoa cúng, sớ văn thông dụng trong lễ Tứ phủ, khắc in năm Bảo Đại thứ 14

(1938), xƣa đƣợc bày bán rộng rãi ở khu vực phủ Giày cho giới hành đồng. Qua các

đƣờng thỉnh, hệ thần đại diện trong Tam/Tứ phủ (trong lễ thỉnh này Dƣơng phủ, tức

Nhạc phủ đã đƣợc tách khỏi Địa phủ, cũng đƣợc thỉnh riêng nhƣng cơ bản thì hệ

thần Tam/Tứ phủ đều bao gồm tất cả thần linh) đƣợc hiện diện nhƣ sau:

Thiên phủ thỉnh:

Thiên phủ Thiên Tàng Bồ tát, Đại Thiên Giới Chủ Ma Hê Thủ La Thiên

vƣơng, Trung Thiên Giới Chủ Đại Phạn Thiên vƣơng, Tiểu Thiên Giới Chủ Tam

Thập Tam Thiên chúa, Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh đế, Vô Sắc Giới Trung Tứ

Thiên Thƣợng đế, Sắc Giới Nhất Thập Bát Đại Thiên đế, Dục Giới Thiên Trung

Lục Đại Thiên đế, Hạo Thiên Chí Tôn Ngọc Hoàng Thƣợng đế, Nam Cực Thiên

Hoàng Đại đế, Bắc Cực Tử Vi Đại đế, Tứ Phƣơng Tam Thập Nhị Thiên đế, Bắc

Đẩu Chúng Tinh quân, Nam Đẩu Lục Tinh Chân quân, Thập Nhất Đại Diệu Chân

quân, Chu Thiên Nhị Thập Bát Tú Tinh quân, Tam Nguyên Ngũ Lão Đế quân, Thập

Nhị Cung Phận Thiên tôn, Thiên Tào Dẫn Tiên Chân quân, Thái Ất Tƣ Mệnh Chân

quân, Bản Mệnh Nguyên Thần Tinh quân, Bản Hạn Chủ Chiếu Tinh quân, Chu

Thiên Tam Bách Lục Thập Ngũ Triền Độ Tinh quân, Hộ Trì Quốc Giới Tứ Đại

Thiên vƣơng, Bát Bộ Kim cƣơng, Bát Bộ Hộ pháp, Thiên Long Dƣợc phụ, Càn

148

Thát Bà vƣơng, A Tu La vƣơng, Ca Lâu La vƣơng, Khẩn Na La vƣơng, Ma Hầu La

Ca vƣơng, Nhân phi nhân và chƣ thần tùy tùng.

Hợp thỉnh:

Thiên Tiên Thánh Mẫu, Cửu Trùng Thiên Thanh Vân Công chúa, Thiên Tiên

Cửu Thiên Huyền Nữ, Đô Thống Thánh Mẫu Công chúa, Thiên Tiên Bán Thiên

Mão Dậu Công chúa, Thiên Tiên Thiên Hoàng Hoa Chi và 36 bộ Động Tiên cung

và chúng tiên tùy tùng.

Địa phủ thỉnh:

Địa phủ Địa Tạng Vƣơng Bồ tát, Địa phủ Chí Tôn, Bắc Âm Phong Đô Đại

đế, Tá Lý Thái Thƣợng Lão Quân, Trợ Lý Huyền Tƣ Chân quân, Phong Đô Thƣợng

Tƣớng quân, Phong Đô Thái Phó quân, Tứ Minh Chân quân, Địa phủ U Ti Thập

điện Thánh vƣơng, Tần Quảng Đô Tào Minh vƣơng, Sở Giang Quy Lộc Minh

Vƣơng, Tống Đế Minh Tào Minh vƣơng, Ngũ Quan Nguyên Lâm Minh vƣơng,

Diêm Lam Minh Hiền Minh vƣơng, Biến Thành Hạc Đình Minh vƣơng, Thái Sơn

Bảo Huề Minh vƣơng, Bình Đẳng Quy Nguyên Minh vƣơng, Đô Thị Tử Khí Minh

vƣơng, Chuyển Luân Phối Sinh Minh vƣơng, Đạo Minh Hòa Thƣợng Đại Biện

Trƣởng giả, Vô Độc Quỷ vƣơng, Địa phủ Tào liêu, U Âm Chủ tể, Mã Diện Ngƣu

đầu, Ngục tốt, Ngục lại cùng các tùy tùng.

Hợp thỉnh:

Ba vị Thánh Mẫu chí tôn ở Vân Hƣơng: Địa Tiên Thánh Mẫu, hiển thánh ở

Sòng Sơn, giáng thần ở Vân Cát, Quỳnh Hoa Dung Liễu Hạnh Công chúa, đƣợc

tặng phong Chế Thắng Hòa Diệu Đại vƣơng, lại đƣợc gia phong Mã Hoàng Bồ tát,

Đệ nhị Quảng cung, Đệ tam Quế cung, các bộ Tiên nƣơng và chƣ vị tùy tùng.

Thủy cung thỉnh:

Thủy phủ Chí Tôn, Phù Tang Cam Lâm Đại đế, Dƣơng Cốc Đế quân, Giang

Độc Quảng Nguyên Thuận Tế vƣơng, Hà Độc Linh Nguyên Hoằng Tế vƣơng, Hoài

Độc Trƣờng Nguyên Hầu Tế vƣơng, Tế Độc Thanh Nguyên Hán Tế vƣơng, Đông

Hải Nguyên Thánh Quảng Đức vƣơng, Nam Hải Hồng Thánh Quảng Lợi vƣơng,

Tây Hải Thông Thánh Quảng Nguyên vƣơng, Bắc Hải Xung Thánh Quảng Trạch

vƣơng, Cửu Giang Đại đế, Bát Đại Long vƣơng, chƣ vị quyến thuộc của Long cung,

149

Tinh linh suối, vực, đầm, hồ, vùng ngập nƣớc, thần kỳ trong 84 miếu ven sông, chƣ

vị thần quân trong miền Thủy phủ.

Hợp thỉnh:

Thủy Tiên Thánh Mẫu, Xích Lân Long Nữ, Bạch Ngọc Động Hồ trung,

Thủy Tiên Công chúa, cùng bộ chúng tùy tùng.

Dương phủ thỉnh:

Dƣơng Phủ Chí tôn, Đông Nhạc Thiên Tề Đại Sinh Nhân Thánh Đế quân,

Nam Nhạc Tƣ Thiên Đại Hóa Chiêu Thánh Đế quân, Tây Nhạc Kim Thiên Đại Lợi

Thuận Thánh Đế quân, Bắc Nhạc An Thiên Đại Chân Nguyên Thánh Đế quân,

Trung Nhạc Trung Thiên Đại Ninh Sùng Thánh Đế quân và môn hạ của Nhạc phủ

trong 72 ti, các vị tôn thần thuộc hệ Tản Lĩnh, Nhị Hà, núi thiêng, sông lớn nƣớc

Nam, Đô Đại Thành hoàng Đại vƣơng trong thiên hạ, chƣ vị Thành hoàng Tôn thần

bản tỉnh, phủ, châu, huyện, Bản cảnh xã ti Phúc Đức Tôn thần, uy linh trong các

miếu mạo và thần kỳ đƣợc hƣởng tế tự.

Hợp thỉnh:

Sơn Tiên Thánh Mẫu, Diệu Tín Thiền sƣ, Thƣợng Ngàn Công chúa Lê Mại

Đại vƣơng, cùng tám vạn Sơn trang, Thập nhị Tiên nƣơng, 72 động, chƣ vị tiên nga

trong các gác tía, lầu son, cùng bộ chúng tùy tùng.

Ngoài ra còn thỉnh thêm các vị sứ giả và quyến thuộc: Thiên phủ môn hạ -

Tứ Thiên Sứ giả, Địa phủ môn hạ Diêm Ma Sứ giả, Thủy phủ môn hạ - Không

Hành Sứ giả, Dƣơng phủ môn hạ - Thổ Địa Sứ giả, cùng bộ chúng quyến thuộc.

Lễ xong, bà đồng cựu sai đệ tử đốt đồ mã cho Tam phủ, sau đó mở tiệc...

Tiệc xong, bà đồng cựu sai ngƣời trình đồng sửa sang khăn áo ngồi đồng. Nếu là

đồng Thiên Tiên thì đội khăn xanh, mặc áo xanh, thắt đai xanh. Sau khi ngƣời trình

đồng vận trang phục chỉnh tề thì ngồi trƣớc ban thờ Thiên Tiên. Bà đồng cựu khấn

mời hồn Thiên Tiên nhập vào ngƣời trình đồng. Nếu nhƣ Thiên Tiên đã giáng vào

thân ngƣời trình đồng thì đầu ngƣời trình đồng sẽ lắc lƣ. Từ hôm ấy, ngƣời trình

đồng chính thức trở thành đồng tân, đƣợc Thiên Tiên giáng xuống nhập vào và

đƣợc Tam phủ chứng minh. Khi mọi ngƣời đều biết Thiên Tiên đã giáng vào ngƣời

trình đồng thì thừa nhận ngƣời trình đồng là bà đồng. Sau đó, tuy ngƣời này làm

150

đồng Thiên Tiên nhƣng cũng có thể làm đồng Thủy Tiên, đồng Địa Tiên. Các vị

tiên đều có những cô hầu, nhƣ cô Lan, cô Quế... Tuy làm đồng Tiên Thánh nhƣng

sau ngƣời này có thể ngồi đồng các cô…

Ngƣời mới trình đồng phải cúng Tam phủ tại điện nhà bà đồng cựu. Cúng

Tam phủ xong, lại ngồi đồng tại điện của bà đồng cựu. Nếu ngƣời ngồi đồng đƣợc

Tiên giáng nhập thì lấy hƣơng, hoa, trầu cau ban cho mọi ngƣời. Những ngƣời đƣợc

ban đều nói: “Thánh ban lộc cho”. Nhƣ vậy, muốn làm đồng, trƣớc tiên phải cúng

trình đồng tại điện của đồng cựu. Cúng trình xong, nếu giầu thì về lập một điện tại

gia, mua một bức tranh Thiên Tiên, một bức Địa Tiên, một bức Thủy Tiên, một bức

Phật Quan Âm, một bức Ngũ hổ để phụng thờ. Dựng điện xong, nếu đã cúng Tam

phủ trình đồng tại nhà đồng cựu thì sau khi dựng điện tại gia, không cần phải cúng

Tam phủ trình đồng nữa, mà chỉ cúng Phật, Tiên, thỉnh mời các vị về điện mới mà

thôi. Nếu đồng đó nghèo, sau khi cúng trình đồng tại nhà đồng cựu rồi thì cũng

đƣợc tự xƣng là bà đồng. Tuy không lập đƣợc điện thờ tại gia, mọi ngƣời vẫn gọi là

bà đồng [152].

Đó là một số nét cơ bản về lễ cúng Tam phủ trình đồng đƣợc tiền nhân ghi

chép lại qua quan sát tham dự, phỏng vấn cách đây trên dƣới một thế kỷ.

Chƣa vội bàn đến tính hỗn dung tôn giáo, tín ngƣỡng giữa Đạo giáo, Phật

Giáo, Hindu giáo/Ấn Độ giáo và tín ngƣỡng dân gian, đặc biệt là sự chi phối và ảnh

hƣởng của Nho giáo… trong hệ thần Tam/Tứ phú nhƣng qua những ghi chép Hán

Nôm về lễ trình đồng, quan sát tham dự, khảo sát điền dã, phân tích tƣ liệu…, bƣớc

đầu có thể tạm rút ra một số vấn đề và biện giải nhƣ sau:

1). Trong tín ngƣỡng thờ Mẫu, trình đồng là trình Tam/Tứ phủ, tức trình tất cả

thần linh trong Tam/Tứ phủ, bao gồm Tam/Tứ phủ Ông và Tam/Tứ phủ Bà. Điều này

có nghĩa, trong tín niệm dân gian, sau khi trình đồng, con đồng chính thức trở thành đệ

tử của thần linh trong Tam/Tứ phủ chứ không chỉ thuộc về riêng một phủ nào. Sau lễ

trình đồng, con đồng lập điện thờ Tam/Tứ phủ, hành đồng trƣớc sự chứng giám của tất

cả thần linh Tam/Tứ phủ. Vì vậy, hình tƣợng thần linh (tƣợng, tranh, bài vị) trong các

điện, phủ thờ Mẫu Tam/Tứ phủ nhƣ chúng ta thƣờng thấy, cơ bản là hình ảnh đại diện

cho hệ thần Tam/Tứ phủ. Và, về bản chất, trình đồng, ngồi đồng vốn là một liệu pháp

151

tâm linh nhằm cầu thần chữa bệnh, đƣợc dân gian thƣờng gọi là chữ bệnh âm. Trong

tín ngƣỡng dân gian, “lên đồng phán truyền” là một phƣơng thức thông linh cơ bản

trong thực hành và truyền bá tín ngƣỡng, trong đó có tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh

và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Theo đó, dƣới sự dẫn dắt của tƣ duy và niềm tin tôn giáo,

các tín đồ mặc nhiên thừa nhận, đồng chính là cầu trung gian chuyển lời (thánh phán)

từ hệ thần Tam/Tứ phủ tới họ và ngƣợc lại.

2). Cũng theo những mô tả trên, có thể tạm hiểu, với đồng thờ Tiên/Mẫu, ban

đầu, một ngƣời nhập vào giới đồng và hành đồng thƣờng đƣợc xác định mang căn

một phủ hoặc hai phủ, thậm chí ba phủ, bốn phủ nhƣng khi cúng Tam phủ/Tứ phủ

trình đồng, bà đồng cựu sẽ mở cả Tam phủ hoặc Tứ phủ. Theo đó, con đồng dù ban

đầu mang căn một phủ nhƣng sau khi trình Tam/Tứ phủ sẽ là con/đệ tử của Tam

phủ/Tứ phủ và thờ cả Tam/Tứ phủ và có thể ngồi đồng các phủ. Góp phần lý giải

hiện tƣợng này, quan niệm hành đồng trong dân gian cho rằng: Tùy theo căn mệnh,

sau trình đồng, con đồng sẽ dựng một điện thờ Tam/Tứ phủ, nếu có điều kiện thì có

thể sắm đủ 5 loại sắc phục để hành đồng (Thiên tiên Thanh Vân Cửu Trùng Công

chúa dùng sắc phục màu xanh; Thiên phủ Chí Tôn Ngọc Hoàng Huyền Khung Cao

Thƣợng Đế dùng sắc phục màu vàng; Địa tiên Quỳnh Hoa Dung Liễu Hạnh Công

chúa dùng sắc phục màu đỏ; Thủy tiên Lân Nữ Bạch Ngọc Thủy Tinh Công chúa

dùng sắc phục màu trắng; Thủy tiên Thƣợng Ngàn Lê Mại Đại Vƣơng dùng sắc

phục màu lam), nếu không có điều kiện thì chỉ cần sắm một bộ khăn áo thuộc về

phủ trực tiếp nắm bản mệnh để ngồi đồng phủ đó hành đồng chữa bệnh, sau khi

ngồi đồng chữa đƣợc cho ngƣời bệnh do phủ khác làm ra, con bệnh khỏi bệnh sẽ

mua khăn áo dâng lễ tạ phủ tác bệnh đã cho mình khỏi bệnh, dâng xong biếu lại cho

bà đồng. Theo thời gian, lâu dần, ngƣời hành đồng ấy sẽ có đủ năm sắc phục hành

đồng [152]. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, trong tín niệm dân gian, Tam/Tứ phủ là một

hệ liên thông, đƣợc tổ chức nhƣ một tổ chức xã hội thực thụ.

3). Về cơ cấu, có thể liên tƣởng hệ thần Tứ phủ Công đồng với mô hình

“Nhà nƣớc quân chủ chuyên chế do vua đứng đầu” trong xã hội phƣơng Đông thời

cổ đại, cụ thể nhƣ sau: Trong Tứ phủ, Thiên phủ giữ vai trò chí tôn, nắm quyền

sáng tạo và điều hành chung, theo cách diễn giải thiên hƣớng nam, thƣờng đƣợc

152

cho là do Thiên phủ Thiên Tàng Bồ tát, Đại Thiên Giới Chủ Ma Hê Thủ La Thiên

vƣơng, còn có tôn hiệu khác là Thiên phủ Chí tôn Hạo Thiên Kim Khuyết Ngọc

Hoàng Huyền Khung Cao Thƣợng đế đứng đầu Tứ phủ, dƣới đó là hàng Thiên

vƣơng, Thiên chúa, Thánh đế, Thƣợng đế, Thiên đế, Đại đế, Tinh quân, Chân quân,

Đế quân, Thiên tôn, Chân quân, Tinh quân, Kim cƣơng, Hộ pháp… chƣ thần tùy

tùng (thuộc hệ nam) và chƣ vị Thánh Mẫu, Công chúa, tiên trong 36 bộ Động Tiên

cung, chúng tiên tùy tùng (thuộc hệ nữ) và sứ giả, quyến thuộc…; Địa phủ giữ vai

trò thừa hành, cai quản Địa phủ, do Địa phủ Địa Tạng Vƣơng Bồ tát, Địa phủ Chí

Tôn, Bắc Âm Phong Đô Đại đế, còn có tôn hiệu khác là Địa phủ Diêm La Thiên tử

đứng đầu, dƣới đó là hàng Lão quân, Chân quân, Tƣớng quân, Phó quân, Chân

quân, Thánh vƣơng, Minh vƣơng, Trƣởng giả, Quỷ vƣơng, Tào liêu, Chủ tể, Mã

Diện Ngƣu đầu, Ngục tốt, Ngục lại, tùy tùng (thuộc hệ nam) và Ba vị Thánh Mẫu

chí tôn ở Vân Hƣơng - Quỳnh Hoa Dung Liễu Hạnh Công chúa, Đệ nhị Quảng

cung, Đệ tam Quế cung, các bộ Tiên nƣơng, chƣ vị tùy tùng và sứ giả, quyến

thuộc…; Thủy phủ giữ vai trò thừa hành, cai quản Thủy phủ, do Thủy phủ Chí Tôn,

Phù Tang Cam Lâm Đại đế, còn có tôn hiệu khác là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm

Đại đế đứng đầu, dƣới đó là hàng Đế quân, Tế vƣơng, vƣơng, Long vƣơng, chƣ vị

quyến thuộc của Long cung, Tinh linh suối, vực, đầm, hồ, vùng ngập nƣớc, thần kỳ

trong 84 miếu ven sông, chƣ vị thần quân trong miền Thủy phủ (hệ nam) và Thủy

Tiên Thánh Mẫu, Xích Lân Long Nữ, Bạch Ngọc Động Hồ trung, Thủy Tiên Công

chúa, cùng bộ chúng tùy tùng và sứ giả, quyến thuộc...; Dương phủ/Nhạc phủ giữ

vai trò thừa hành, cai quản Dương phủ/Nhạc phủ, do Dƣơng Phủ/Nhạc phủ Chí

tôn, Đông Nhạc Thiên Tề Đại Sinh Nhân Thánh Đế quân, còn có tôn hiệu khác là

Nhạc phủ Chí tôn Thiên Tề Đại Sinh Nhân Thánh Đế quân đứng đầu, dƣới đó là

Nam Nhạc Tƣ Thiên Đại Hóa Chiêu Thánh Đế quân, Tây Nhạc Kim Thiên Đại Lợi

Thuận Thánh Đế quân, Bắc Nhạc An Thiên Đại Chân Nguyên Thánh Đế quân,

Trung Nhạc Trung Thiên Đại Ninh Sùng Thánh Đế quân, môn hạ của Nhạc phủ

trong 72 ti, các vị tôn thần thuộc hệ Tản Lĩnh, Nhị Hà, núi thiêng, sông lớn nƣớc

Nam, Đô Đại Thành hoàng Đại vƣơng trong thiên hạ, chƣ vị Thành hoàng Tôn thần

bản tỉnh, phủ, châu, huyện, Bản cảnh xã ti Phúc Đức Tôn thần, uy linh trong các

153

miếu mạo, thần kỳ đƣợc hƣởng tế tự… và Sơn Tiên Thánh Mẫu, Diệu Tín Thiền sƣ,

Thƣợng Ngàn Công chúa Lê Mại Đại vƣơng, cùng tám vạn Sơn trang, Thập nhị

Tiên nƣơng, 72 động, chƣ vị tiên nga trong các gác tía, lầu son, cùng bộ chúng tùy

tùng và sứ giả, quyến thuộc…

4). Trong các khóa lễ Tứ phủ (Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ, Dƣơng

phủ/Nhạc phủ), không phải vị nào cũng có văn chầu và đƣợc dâng văn chầu, bởi

theo quan niệm dân gian, Tứ phủ là “Tứ phủ vạn linh”, tức vô số thần linh, không

thể kiểm đếm hết đƣợc (“Vạn” là con số phiếm chỉ, chỉ số nhiều). Vì thế, chỉ có thể

thỉnh mời, dâng văn đại diện nhƣng không thể để thiếu sót. Theo đó, trong các điện

thờ, việc tạc tƣợng hoặc vẽ tranh thờ hoặc lập bài vị thờ đại diện đƣợc xem nhƣ một

giải pháp tối ƣu, với ban Công đồng thờ tất cả chƣ vị thần linh đƣợc thờ hoặc mời

về chứng đàn, giám lễ…, có thể chọn lựa một số vị thần đại diện vẽ tranh, làm

tƣợng hoặc bài vị để thờ. Đây cũng là một truyền thống thờ chung, phổ biến trong

các cơ sở thờ tự ở nƣớc ta vẫn tồn tại đến tận ngày nay.

5). Nếu tạm chia hệ thần trong Tứ phủ theo giới thì mỗi phủ đều có các vị

thần nam và các vị thần nữ, ứng với Tứ phủ sẽ có Tứ phủ Nam, tôn xƣng có thể gọi

là Tứ phủ Ông và Tứ phủ Nữ, tôn xƣng có thể gọi là Tứ phủ Bà, Tứ phủ Mẫu, Mẫu

Tứ phủ. Do đó, Tứ phủ Ông, Tứ phủ Bà đều thuộc về Tứ phủ Công đồng, tức Tứ

phủ (thế giới thần linh).

Với tín ngƣỡng thờ Mẫu, xƣa dân gian thƣờng gọi là thờ Chƣ vị, thờ các Bà.

Theo đó, hệ Thần/Thánh/Mẫu - Tứ phủ Bà, tôn xƣng có thể gọi là Tứ phủ Mẫu,

Mẫu Tứ phủ, ắt cũng thuộc Tứ phủ, bao gồm các Nữ/Mẫu thần thuộc bốn miền cai

quản của bốn Mẫu đứng đầu bốn phủ: Mẫu Thƣợng Thiên (thuộc Thiên phủ), Mẫu

Địa (thuộc Địa phủ), Mẫu Thoải/Thủy (thuộc Thủy Phủ), Mẫu Thƣợng Ngàn (thuộc

Nhạc phủ). Nếu gọi theo danh xƣng đại diện thì có thể tạm hiểu: Tứ phủ Mẫu/Mẫu

Tứ phủ chỉ bốn Mẫu đứng đầu các Mẫu trong Tứ phủ, thƣờng đƣợc khái quát gồm:

Thiên Tiên Thánh Mẫu, Cửu Trùng Thiên Thanh Vân Công chúa, Thiên Tiên Cửu

Thiên Huyền Nữ (Thiên phủ Thiên Tiên Thanh Vân Cửu Trùng Công chúa); Địa

Tiên Thánh Mẫu, Quỳnh Hoa Dung Liễu Hạnh Công chúa (Địa phủ Quỳnh Hoa

Dung Liễu Hạnh Công chúa); Thủy Tiên Thánh Mẫu, Xích Lân Long Nữ , Bạch

154

Ngọc Động Hồ trung, Thủy Tiên Công chúa (Thủy phủ Thủy Tiên Lân Nữ Bạch

Ngọc Thủy Tinh Công chúa); Sơn Tiên Thánh Mẫu, Diệu Tín Thiền sƣ, Thƣợng

Ngàn Công chúa Lê Mại Đại vƣơng (Nhạc phủ Thƣợng Ngàn Công chúa Lê Mại

Đại vƣơng). Nhƣ vậy, nên hiểu, chỉ có Mẫu đứng đầu các Mẫu (chúng mẫu chi mẫu

眾 母 之 母), các Bà trong Tam/Tứ phủ. Trong bối cảnh lịch sử - xã hội Mẫu hệ

(nếu có), quan điểm khẳng định có Mẫu đứng đầu Tam/Tứ phủ, làm chủ Tam/Tứ

phủ, cai quản Tam/Tứ phủ, nắm quyền tối thƣợng trong Tam/Tứ phủ… nhƣ cách

diễn giải của một ngƣời và một số tín đồ có thể đúng. Tuy nhiên, trong bối cảnh lịch

sử - xã hội phụ hệ, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, quan điểm này nhƣ có phần

“suy tôn thái quá”, không nên cổ súy, bởi “suy tôn thái quá” chính là căn nguyên

sâu xa dẫn đến xung đột tôn giáo - tín ngƣỡng, thậm chí dẫn đến xung đột xã hội,

bởi Tam/Tứ phủ bao gồm tất cả chƣ vị thần linh.

Tứ phủ Ông cũng thuộc về Tứ phủ, bao gồm các vị thần nam thuộc bốn miền cai

quản của bốn Ông đứng đầu bốn phủ. Theo danh xƣng đại diện còn có thể tạm hiểu: Tứ

phủ Ông là bốn Ông đứng đầu các ông trong Tứ phủ, thƣờng đƣợc khái quát gồm: Thiên

phủ Thiên Tàng Bồ tát, Đại Thiên Giới Chủ Ma Hê Thủ La Thiên vƣơng (Thiên phủ Chí

tôn Hạo Thiên Kim Khuyết Ngọc Hoàng Huyền Khung Cao Thƣợng đế; Địa phủ Địa

Tạng Vƣơng Bồ tát, Địa phủ Chí Tôn, Bắc Âm Phong Đô Đại đế (Địa phủ Diêm La

Thiên tử); Thủy phủ Chí Tôn, Phù Tang Cam Lâm Đại đế (Thủy phủ Phù Tang Cam

Lâm Đại đế), Nhạc phủ Chí tôn, Đông Nhạc Thiên Tề Đại Sinh Nhân Thánh Đế quân

(Nhạc phủ Chí tôn Thiên Tề Đại Sinh Nhân Thánh Đế quân).

6) Tƣơng tự, trong hệ thần Tam phủ, theo giới, cũng có thể chia thành, Tam

phủ Ông và Tam phủ Bà. Dân gian tôn xƣng gọi Tam phủ Bà là Tam phủ Mẫu, Mẫu

Tam phủ (Thiên - Địa - Thủy). Có thể tạm hiểu đây là mô hình một phủ, một

Bà/Mẫu kiêm tri, với Tam tòa đại diện cho Tứ phủ.

7). Trong khoa lễ Tứ phủ Công đồng, có khi Thánh Mẫu Liễu Hạnh giữ vị trí

đứng đầu hàng nữ Địa Tiên/Mẫu trong Địa phủ, cùng Đệ nhị Quảng cung, Đệ tam

Quế cung, các bộ Tiên nƣơng, chƣ vị tùy tùng, sứ giả, quyến thuộc và Thiên phủ

Thiên tiên Thanh Vân Cửu Trùng Công chúa (đứng đầu hàng nữ Thiên Tiên/Mẫu

trong Thiên phủ), Thủy phủ Thủy tiên Lân Nữ Bạch Ngọc Thủy Tinh Công chúa

155

(đứng đầu hàng nữ Thủy Tiên/Mẫu trong Thủy phủ), Nhạc phủ Thƣợng Ngàn Công

chúa Lê Mại Đại vƣơng (đứng đầu hàng nữ Nhạc Tiên/trong Nhạc phủ) hợp thành

hệ Mẫu Tứ phủ, cai quản các vị nữ thần, gắn với chức phận nữ trong Tứ phủ.

Tuy nhiên, riêng với phủ Giày, Thánh Mẫu Liễu Hạnh cùng Đệ nhị Quảng

cung, Đệ tam Quế cung lại đƣợc diễn giải đều thuộc hàng Thiên Tiên, hội lại thành

hệ Mẫu Tam vị/Tam tòa - ba ngôi Thánh Mẫu phủ Giày muộn nhất cũng phải từ thế

kỷ XVII. Sắc phong ngày Hai mƣơi bốn tháng Sáu nhuận năm Chính Hòa thứ 4

(1683) lại xác nhận, Thánh Mẫu Liễu Hạnh thuộc hệ Thiên Tiên, còn đƣợc phong

cai quản tiên nữ sáu cung…, kiêm quản Bộ Sơn Tinh thuộc miền Núi - Rừng (權 該

六 宮 嬪 娘… 兼 知 山 林 掌 管 山 精 部).

Nhƣ vậy, qua diễn giải dân gian và thần sắc, có thể nhận thấy, Thánh Mẫu

Liễu Hạnh từng hiện diện với tƣ cách là Mẫu Thiên Tiên, Mẫu Địa Tiên và Mẫu

Nhạc Tiên (Nhạc phủ), tức Bà mang tƣ cách kiêm tri. Vì thế, sau khi vai trò của

Nhạc phủ đƣợc đề cao và tách khỏi Địa phủ thành một phủ độc lập, Thánh Mẫu

Liễu Hạnh đƣợc suy tôn làm Mẫu Đệ nhất Thƣợng Thiên, vai trò gắn với Địa tiên

của Bà không hẳn mất đi, mà chỉ bị “ẩn”, tức là Bà vẫn kiêm tri đứng đầu hàng nữ

Địa phủ. Có lẽ, chính vì lý do này mà trong mô hình thờ Mẫu bộ ba phổ biến trong

dân gian (Thiên - Nhạc - Thủy), với Đệ nhất Thƣợng Thiên (Thánh Mẫu Liễu

Hạnh), Đệ nhị Thƣợng Ngàn, Đệ Tam Thoải phủ, thƣờng chỉ thấy sự hiện diện linh

tƣợng của Tam tòa Thánh Mẫu trong Tứ phủ. Nghiên cứu sinh tạm gọi đây là mô

hình một phủ, một Bà/Mẫu kiêm tri - Địa phủ thuộc/theo Thiên phủ trong bộ ba

(Thiên - Nhạc - Thủy). Vì thế mà dân gian vẫn thƣờng thỉnh “Tam tòa Thánh Mẫu,

Tứ phủ Công đồng” mỗi khi kêu cầu.

Về qúa trình xác lập mô hình Tứ phủ và mô hình Tam phủ, với một phủ

kiêm tri, với kết cấu Tam tòa đại diện cho Tứ phủ (Tam tòa Thánh Mẫu - Tứ phủ

Công đồng) trong tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt, bƣớc đầu nghiên cứu sinh

tạm đƣa ra một giả thiết mang tính diễn giải để làm việc nhƣ sau:

Thờ Mẫu Tứ phủ là một tín ngƣỡng bản địa, gắn liền với lịch sử dân tộc từ

buổi khởi nguyên khi ngƣời Việt còn tụ cƣ ở miền rừng núi với phƣơng thức kiếm

sống chủ yếu là hái lƣợm và săn bắt/bắn. Với phƣơng thức kiếm sống chủ yếu gắn

156

với núi rừng, qua sự phân công lao động nhƣ theo thiên chức tự nhiên, với đàn ông

thiên về săn bắt - bắn (động - dƣơng), tuy công việc nặng nhọc nhƣng kết quả thu

đƣợc lại khá bấp bênh, trong khi đó, phụ nữ lại đảm đƣơng và khẳng định vai trò tốt

hơn, bởi hoạt động hái lƣợm (tĩnh - âm) đơn giản là kiếm rau, củ, quả, cây, hạt…

trong núi rừng nhƣng đem lại nguồn sống ổn định.

Trong môi trƣờng sinh sống và phƣơng thức khai thác tự nhiên nhƣ vậy thì

việc định hình một tín ngƣỡng sùng bái các vị thần thuộc miền Rừng Núi (Nhạc

phủ) theo nguyên lý Mẫu mà truyền thuyết dân gian về thời kỳ Hùng Vƣơng giải

thích sự hình thành ngồn gốc dân tộc Việt cho là vốn thuộc dòng Mẹ Tiên (仙 -

ngƣời trên núi) là một điều tất yếu.

Qua các bƣớc phát triển, vì yêu cầu cuộc sống, ngƣời Việt dần rời xa miền

đất cũ, gắn với rừng núi vùng cao, tiến xuống khai thác rừng núi ở vùng châu thổ

cao, rồi đến rừng và đầm lầy (cũng là rừng) ở vùng châu thổ thấp.

Trong điều kiện tự nhiên - xã hội mới, với nền kinh tế trồng lúa nƣớc sử

dụng nƣớc tại chỗ (chủ yếu là sông, ngòi, đầm, hồ, ao…), phụ thuộc nhiều vào thiên

nhiên, thì một hệ quả tất yếu là tín ngƣỡng sùng bái các vị thần nông nghiệp, với hệ

thần đại diện cho ba miền Trời, Đất, Nƣớc đƣợc định hình là điều dễ hiểu. Đó là

một tiền đề để hệ thần thuộc ba miền này hội với tín ngƣỡng khởi nguyên (thờ Nhạc

phủ) mà ngƣời Việt mang theo trong hành trang từ vùng cao tiến xuống khai phá và

làm chủ châu thổ sông Hồng hợp thành hệ Tứ phủ, một dạng thức khái quát hóa

thiên về nguyên lý Âm - Mẹ, bởi theo quan niệm âm dƣơng dân gian: Bốn là số

chẵn, thuộc âm, gắn với nữ/mẫu - theo nguyên lý Mẫu/Mẫu hệ).

Đƣơng nhiên, cũng trong quá trình tiến xuống khai thác và làm chủ châu thổ

Sông Hồng, quá trình giao lƣu, hội nhập văn hóa của ngƣời Việt với khu vực đã

diễn ra tƣơng đối mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển của công cụ lao động và phƣơng

thức sản xuất, trên nền cảnh này, xu hƣớng trọng nam (theo Phụ hệ), dần đƣợc

khẳng định và đề cao. Trong khi đó, đặc tính xa rừng của ngƣời Việt ngày càng

đậm, khiến cho nguyên lý Mẫu ngày một nhạt nhòa. Dƣới sự tác động, ảnh hƣởng

của các tôn giáo ngoại nhập, nhƣ Ấn Độ giáo, Phật giáo, Đạo giáo, đặc biệt là sự chi

phối mạnh mẽ của hệ tƣ tƣởng Nho giáo…, hệ thần nông nghiệp với những vị thần

157

đại diện cho Thiên phủ - Địa phủ - Thủy phủ chiếm vị trí tối thƣợng. Đó là một biểu

hiện cụ thể về sự xác lập và thắng thế của nguyên lý Phụ hệ - Theo quan niệm âm

dƣơng dân gian, ba là số lẻ, thuộc dƣơng, gắn với nam/Cha - theo nguyên lý

Cha/Phụ hệ). Lúc này, cƣ dân nông nghiệp Việt nhƣ “vô tình” để chƣ thần Nhạc

phủ “ẩn” đi với lý sự dân gian giải thích nôm na: Núi trên đất nhƣng thuộc đất (đất

chở) để hƣớng sự tôn thờ tập trung vào hệ thần đại diện cho bộ ba: Thiên (phủ), Địa

(phủ), Thủy (phủ) nhƣ một hiện tƣợng đồng quy văn hóa. Tuy nhiên, trong thực

tiễn, ít nhất là qua hệ thần và các dạng thức thờ tự, thực hành văn hóa, nguyên lý

Mẫu không hẳn đã mất đi, bởi thực chất đây (bộ ba Thiên - Địa - Thủy) vẫn bao

quát Tứ phủ, tức mô hình Tam phủ với một phủ kiêm tri, bởi Địa phủ kiêm tri Nhạc

phủ (trong Tứ phủ: 3 hiển, 1 ẩn).

Cũng qua các bƣớc phát triển của lịch sử và biến động xã hội…, vào khoảng

thế kỷ XVI, trong bối cảnh nội chiến, hệ tƣ tƣởng Nho giáo và nhiều tôn giáo ở

nƣớc ta dần rơi vào đà khủng hoảng, trong khi kinh tế thƣơng mại và Đạo giáo lại

có phần trỗi dậy và đƣợc đề cao, tầng lớp thƣơng nhân, đặc biệt là thị dân, vốn là

nông dân và cũng chƣa hẳn đã thoát li hoàn toàn cội rễ nông dân, với quan niệm

tiền rừng bạc biển (thuộc miền Nƣớc), đã đề cao hệ thần thuộc Nhạc phủ. Trên nền

tín ngƣỡng bản địa, hệ thần đại diện thuộc ba miền: Thiên (phủ), Nhạc (phủ), Thủy

(phủ) trong Tứ phủ đƣợc tôn lên. Theo đó, với tầng lớp thƣơng nhân và thị dân, hệ

thần đại diện cho miền Đất, nghiễm nhiên trở nên yếu thế, sau bị “ẩn” đi - Đất nhập

với Trời, bởi theo nguyên lý âm dƣơng và nguyên lý Phụ hệ (nặng về Nho giáo) thì

trời thuộc dƣơng - là cha/chồng, đất thuộc âm - là mẹ/vợ - Thuyền theo lái, gái theo

chồng là điều dễ hiểu. Đây cũng là mô hình Tam phủ, với một phủ kiêm tri, bởi

Thiên phủ kiêm tri Địa phủ (trong Tứ phủ: 3 hiển, 1 ẩn).

Tuy nhiên, dù hệ thần gắn với thƣơng mại (Thiên - Nhạc - Thủy) có phần

đƣợc đề cao nhƣng trên nền cảnh chung của văn hóa xã hội, với cơ cấu kinh tế chủ

yếu là nông nghiệp thì hệ thần nông nghiệp gắn với bộ ba Thiên - Địa - Thủy đƣợc

định hình trƣớc đó, cơ bản vẫn đƣợc đông đảo cộng đồng làng xã phụng thờ.

Phải chăng, cũng trên nền cảnh lịch sử - xã hội, tôn giáo, tín ngƣỡng ấy, để

đáp ứng nhu cầu đa dạng và thống nhất trong xã hội, đòi hỏi phải có một vị thần có

158

sức quy tụ thần linh trong Tứ phủ ra đời. Có thể coi đây là một tiền đề để Mẫu Liễu

Hạnh, một vị Thần nữ vốn thuộc dòng Thiên Tiên đã nhập vào hệ thần Tứ phủ để

quy tụ thần linh bản địa nhƣ một sự trỗi dậy của tín ngƣỡng bản địa và nguyên lý

Mẫu trong văn hóa Việt vào khoảng thế kỷ XVI.

Đến đây, một câu hỏi cũng hết sức thú vị cần đặt ra là: Vậy trong Tứ phủ,

thực tế Tứ phủ ông và Tứ phủ Bà/Mẫu hiện diện thế nào trong các điện thờ?

Nhƣ trên đã trình bày, trong tín niệm dân gian, Tứ phủ là một hệ liên thông,

có cơ cấu tổ chức nhƣ một “Nhà nƣớc quân chủ chuyên chế do vua đứng đầu”.

Theo chức năng và cơ cấu về giới, có thể chia thành hệ Tứ phủ ông và Tứ phủ bà.

Tuy nhiên, đó chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài “yếu tố hiển”. Tùy thuộc vào

điều kiện lịch sử - xã hội mà nảy sinh những hình thức thờ tự đại diện tƣơng ứng,

phù hợp trong từng thần điện, nghi thức hành lễ.

Với tín ngƣỡng thờ Mẫu, trong tiềm thức tín đồ, đặc biệt là qua văn cúng và

cách thức bài trí thờ tự. Trong các điện Mẫu không thể thiếu ban Công đồng thờ tất

cả chƣ vị thần linh trong Tứ phủ. Và, đây cũng là vị trí đắc địa mà các tín đồ thƣờng

hay ngồi đồng (trƣớc ban Công đồng), với sự cung kính thỉnh mời chƣ vị thần linh

trong Tứ phủ về chứng đàn, giám lễ trong mọi khóa lễ. Dƣờng nhƣ, có thể nhận

thấy, ẩm hiện đâu đó, nhƣ vẫn thấy bóng dáng của Tam/Tứ phủ ông, dù là đại diện

qua cách bài trí thờ tự và hành lễ trong các điện Mẫu, nhƣ sự xuất hiện của Đức

Thánh Trần (nhiều khi đƣợc đồng nhất với vua cha Ngọc hoàng), vua cha Ngọc

hoàng (thƣờng đƣợc gán cho là nhân vật có địa vị chí tôn đại diện cho Tam/Tứ phủ,

cũng là đại điện cho Tam/Tứ phủ ông) hoặc Tam vị Đức vua Cha (vua ca Ngọc

Hoàng - đại diện cho Thiên phủ, vua Cha Bát Hải - đại diện cho Thủy phủ, vua Cha

Diêm Vƣơng - đại diện cho Địa phủ)… và nhiều vị khác nữa mà theo cơ cấu giới

thuộc về Tam/Tứ phủ ông. Ở một một chiều kích khác, thực tế còn thấy rõ sự hiện

diện đại diện của Tứ phủ Ông (vua Cha Ngọc Hoàng - Thiên phủ, Thập Diện Diêm

Vƣơng - Địa phủ), Tứ phủ Bà (Tam tòa thánh Mẫu, một vị kiêm tri) trong nhiều

ngôi chùa hay sự xuất hiện của Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong điện thờ Nội đạo (qua

thần tích). Đặc biệt là sự xuất hiện của ban Công đồng trong nhiều ngôi chùa nhiều

điện thờ thuộc tín ngƣỡng dân gian hiện nay…

Phải chăng, đó là những biểu hiện của “yếu tố mật”, khẳng định sức bền của

159

nguyên lý nguyên lý Mẫu, nguyên lý Âm - Dƣơng/ MẸ - CHA, nguyên lý thờ đa

thần, nguyên lý thờ thần đa chức năng… trong tâm tâm thức tôn giáo - tín ngƣỡng

của ngƣời Việt..

Tiểu kết

Phân tích và bàn lại câu chuyện tiếp cận văn hóa quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu

Liễu Hạnh ở phủ Giày qua khảo chứng Vân Cát Thần nữ truyện, nghiên cứu một

làn nữa khẳng định lại mối quan hệ địa chính và văn hóa giữa Vân Cát - An Thái và

Tiên Hƣơng trong lịch sử phụng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Theo đó, Một số vấn

đề liên quan trong Vân Cát Thần nữ truyện “cũng đƣợc giải ảo”. Vấn đề tƣ cách

chính tự (đƣợc triều đình công nhận thờ tự hợp pháp từ thế kỷ XVII) của phủ Giày,

cơ bản đã đƣợc giải quyết một cách thấu đáo. Câu chuyện phủ Chính và vai trò thờ

tự Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy của các cộng đồng làng xã trực tiếp liên quan thực

chất là câu chuyện chính tự (đƣợc triều đình công nhận việc thờ tự hợp pháp).

Cũng qua tổng hợp, phân tích tƣ liệu Hán Nôm, nghiên cứu sinh đã bƣớc đầu

phác lại một nghi lễ trình đồng Tứ trƣớc năm 1945, qua đó, từng bƣớc “giải ảo” để góp

phần làm rõ vị trí, vai trò của Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Tam phủ, Tứ phủ trong hệ thần

Tứ phủ và một số vấn đề lịch sử - văn hóa có liên quan.

Với Tứ phủ, có thể tạm coi, hệ thần Tứ phủ là một hệ liên thông, gần với mô

hình “Nhà nƣớc quân chủ chuyên chế do vua đứng đầu” trong xã hội phƣơng Đông

thời cổ đại, với đầy đủ tầng lớp, đẳng cấp trên dƣới.

Nếu tạm lấy hệ Tứ phủ làm hệ quy chiếu thì Mẫu Tam phủ thuộc mô hình

một phủ, một vị kiêm tri. Tuy một phủ “ẩn” nhƣng vẫn có thể nhận diện đƣợc đầy

đủ đại diện của hệ thần Tứ phủ (hệ thần “hiển”). Theo đó, trong tín ngƣỡng thờ Mẫu

của ngƣời Việt, dạng thức Tam tòa Thánh Mẫu - Tứ phủ Công đồng là mô hình phổ

biến. Trong mô hình này, vai trò kiêm tri của Thánh Mẫu Liễu Hạnh hiện lên rất rõ.

Thông qua việc phân định hệ thần Tứ phủ theo giới, qua hình thức thờ tự và

thực hành nghi lễ, bƣớc đầu nghiên cứu cũng đặt vấn đề tìm hiểu mối quan hệ giữa

Tứ phủ Ông và Tứ phủ Bà trong các điện thờ Mẫu, trong các ngôi chùa…, nhằm

góp phần làm rõ, “yếu tố hiển” và “yếu tố mật” trong hiện tƣợng văn hóa này.

160

KẾT LUẬN

Tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ

phủ phong phú về số lƣợng, nội dung, đa dạng về loại hình, hàm chứa đầy đủ giá trị

của loại hình di sản văn hóa tƣ liệu, có thể khai thác để tìm hiểu về tín ngƣỡng thờ

Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ nói riêng, những vấn đề về lịch sử - văn

hóa dân tộc nói chung, đặc biệt là lịch sử khai thác làm chủ tự nhiên, quan hệ ứng

xử với tự nhiên - xã hội; lịch sử tín ngƣỡng dân gian bản địa, vũ trụ quan tôn giáo -

tín ngƣỡng dân gian; lịch sử sắc phục; lịch sử âm nhạc nghi lễ dân gian, múa nghi lễ

dân gian, ngôn ngữ, văn học dân gian...

Trên nền lịch sử và địa chính chung, mối quan hệ vốn thờ chung thần, đặc

biệt là Thánh Mẫu Liễu Hạnh giữa hai cộng đồng Vân Cát và Tiên Hƣơng cũng

biến đổi theo những bƣớc thăng trầm, giãn co của không gian địa chính để đi đến

phân dịnh và chấp nhận một tồn tại lịch sử nhƣ thấy hiện nay: phủ Giày - phủ Vân

Cát - phủ Tiên Hƣơng đều đƣợc gọi/gọi đƣợc là phủ Giày, gắn với nơi thờ Mẫu

Liễu Hạnh trong ý thức về cội nguồn và tƣ duy hồi cố dân gian của cộng đồng làng

xã liên quan, đến nay vẫn vậy. Đó là “thƣơng hiệu văn hóa” của phủ Giày ở Kẻ

Giày, thuộc sở hữu chung, không của riêng ai, riêng của bên nào dù đã trải qua

nhiều bƣớc thăng trầm hợp - li/li hợp.

Cũng giống nhƣ một số vị thần khác, các vị Thánh Mẫu phủ Giày cũng có

một “hành trạng thần tiên”. Bên cạnh đó, các Mẫu còn nhƣ có một “hành trạng thế

tục”. Đây là một minh chứng cụ thể về xu hƣớng “thần thánh hóa” con ngƣời bên

cạnh xu hƣớng nhân hóa thần linh trong tín ngƣỡng truyền thống Việt.

Tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Giày có thể đƣợc định hình từ thế kỷ

XVI, đã đƣợc định hình quy mô kiến trúc muộn nhất cũng từ thế kỷ XVII, xác lập

cặp đôi vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Diện mạo kiến trúc của hai phủ hiện nay, chủ

yếu mang đặc trƣng kiến trúc từ niên đại Thành Thái, Duy Tân trở lại đây.

Hội phủ Giày là một hội lớn, có thể mang quy mô hàng phủ ở dƣới thời Lê.

Trong hội có nhiều sinh hoạt văn hóa đặc sắc, hàm chứa nhiều lớp văn hóa chồng

lấn - thờ đa thần, đa tín ngƣỡng (thờ Thần Cây - Mẹ Núi Rừng, Mẹ Nông nghiệp,

thần Y, thần Buôn…) trong sự dung hội với nhiều tôn giáo và hệ tƣ tƣởng khác (Ấn

161

Độ giáo, Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo) nhƣng cơ bản trƣớc năm 1945 vẫn là lễ hội

gắn với nông nghiệp, khát vọng cầu mƣa, cầu mùa mặc dù yếu tố gắn với thƣơng

mại tiểu thƣơng, nghề buôn đã đƣợc định hình khá rõ.

Vai trò chủ thể của các cộng động trong việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở

phủ Giày chủ yếu gắn với Vân Cát - An Thái - Tiên Hƣơng cũng không thể tách rời

lịch sử địa chính và văn hóa khu vực Kẻ Giày. Theo đó, trên đất Kẻ Giày, ngôi vị

chính tự, chính từ, chính thần của ba vị Thánh Mẫu đƣợc xác lập tƣơng đối sớm, ít

nhất là từ thế kỷ XVII - Trên thực tế lịch sử có lẽ phải sớm hơn? Sau khi đƣợc triều

đình công nhận, ban đầu, việc thờ tự thuộc trách nhiệm chung, ít nhất của cả khu

vực Kẻ Giày cổ/xƣa. Chính từ thuộc Kẻ Giày (cộng đồng chủ thể). Sau khi Kẻ Giày

phân tách (trƣớc thế kỷ XVII), trách nhiệm thờ tự chính vẫn thuộc về hai xã Vân

Cát và An Thái. Sau khi xã Vân Cát và An Thái sáp nhập thành xã An Thái (mới)

(khoảng từ 1805 - 1811), việc thờ tự ba vị thuộc trách nhiệm chung cả dân xã An

Thái (mới). Đến khoảng cuối thời Thiệu Trị - đầu thời Tự Đức nhƣng không thể

muộn hơn năm Tự Đức thứ 3 (1850), xã Vân Cát tách khỏi xã An Thái (mới), tái

lập xã Vân Cát, xã An Thái đổi thành xã Tiên Hƣơng, bên Vân Cát chuyển giao

nguyên hội lệ cho bên Tiên Hƣơng. Từ đây, việc thờ Mẫu và đền Mẫu riêng bên xã

Tiên Hƣơng chính thức đƣợc công nhận ngôi vị chính tự và chính từ - Tƣ cách

chính từ - phủ chính từ - phủ chính bên xã Tiên Hƣơng cũng chính thức đƣợc xác

lập. Đến khoảng năm 1918 - 1919, hội Vân Cát lại đƣợc phép phục hồi (sau khi bị

gián hơn 60 năm). Hiện nay, hai cộng đồng đều thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản,

tỉnh Nam Định vẫn duy trì việc thờ riêng Mẫu Liễu Hạnh.

Với tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tại

phủ Giày, từ khoảng thé kỷ XVI - XVII đã định hình dạng thức thờ Mẫu bộ ba (hiển

hiện) đại diện cho hệ Thƣợng thiên (Đệ nhất Liễu Hạnh, Đệ nhị Quỳnh cung, Đệ tam

Quảng cúng) trong Tứ phủ (ẩn tàng), dù cũng thuộc mô hình thờ Mẫu đại diện, gồm

Tam tòa đại diện cho Tứ phủ nhƣng đây lại là điểm khác biệt căn bản so với mô hình

thờ Mẫu đại diện với Tam tòa (Thiên - Địa - Thủy hoặc Thiên - Nhạc - Thủy) - Tứ

phủ (Thiên - Địa - Thủy - Nhạc) trƣớc đó và về sau tại nhiều địa điểm khác. Thực

chất, đây đều là mô hình biến thể mà xƣa nay dân gian thƣờng đúc kết và định danh

162

là mô hình thờ Tam tòa đại diện cho Tứ phủ - Thực tế, các mô hình thờ này khi

hành lễ đều thỉnh mời đầy đủ chƣ vị thần linh trong Tứ phủ nhƣng vì không thể tạc

tƣợng, vẽ tranh, làm bài vị nhập linh tất cả chƣ vị vị thần linh trong Tứ phủ để

phụng thờ nên phải tạc và thờ đại diện. Theo đó, hình thức thờ đại diện đƣợc xem là

một giải pháp tối ƣu. Có thể coi mô hình thờ Tam tòa đại diện cho Tứ phủ là một

biến thể của thờ Tứ phủ, tức một phủ kiêm tri (trong Tứ phủ: 3 phủ hiển hiện, 1 phủ

ẩn tàng) nhƣng tính chất thờ Tứ phủ không thay đổi. Đó là một biểu hiện rất cụ thể

về tín ngƣỡng thờ đa thần và sức bền của nguyên lý Mẫu trong văn hóa Việt.

Từ khoảng thế kỷ XVII - XVIII, tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh phủ Giày đã

có sự lan tỏa tƣơng đối mạnh mẽ trong không gian văn hóa Bắc Bộ. Đến khoảng đầu

khoảng đầu thế kỷ XX, tín ngƣỡng này đã lan tỏa trong một không gian có thể tạm

tính từ Thừa Thiên Huế, với các hình thức thờ đại diện cũng rất đa dạng: thờ bài vị,

thờ tranh, thờ thần tƣợng. Về nguồn gốc, dƣới sự diễn giải của tƣ duy tôn giáo dân

gian, hình tƣợng Mẫu Liễu Hạnh cơ bản đƣợc dân gian cho là gắn với Thiên phủ

(thiên thần), cá biệt, một số cộng đồng cho là gắn với nguồn gốc nhân thần. Đặc biệt,

trong sự giao lƣu và tiếp biến văn hóa, một số cộng đồng làng xã đã bê nguyên mô

hình thờ Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày/Tam vị Thánh Mẫu Sòng Sơn vào điện thờ,

thậm chí tôn thờ làm Thành hoàng làng.

Cũng thông qua việc tìm hiểu về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh qua tƣ liệu

Hán Nôm, một số vấn đề liên quan tới tín ngƣỡng thờ Tứ phủ, Mẫu Tam phủ, Tứ phủ

nói riêng và lịch sử - văn hóa dân tộc nói chung tạm đƣợc rút ra là:

- Tại phủ Giày nói riêng, các điện thờ Mẫu ở nơi khác nói chung, cũng nhƣ

trong một số kiến trúc tôn giáo, tín ngƣỡng khác của ngƣời Việt, không thể thiếu

ban thờ Tứ phủ Công đồng, nơi thờ tất cả thần linh. Theo đó, hình tƣợng các Mẫu

và một số vị liên quan đƣợc thể hiện qua tƣợng pháp, bài vị, tranh thờ trong các

điện Mẫu cũng nhƣ nhiều cơ sở thờ thực khác chỉ mang tƣ cách là các vị thần đại

diện - Yếu tố hiển. Về bản chất, sau khi hệ thần Tứ phủ đƣợc định hình, các điện

thờ Mẫu và nhiều kiến trúc tôn giáo, tín ngƣỡng khác của ngƣời Việt đều thờ tất cả

thần linh Tứ phủ (Thiên - Địa - Thủy - Nhạc) - Yếu tố mật. Đó là một biểu hiện cụ

thể về tín ngƣỡng thờ đa thần và sức bền của nguyên lý Mẫu trong văn hóa Việt.

163

- Hệ thần Tứ phủ đƣợc định hình theo các bƣớc phát triển lịch sử - xã hội của

ngƣời Việt nhƣ một tổ chức xã hội liên thông, có nhiều nét tƣơng đồng với mô hình

“Nhà nƣớc quân chủ chuyên chế do vua đứng đầu”, với đầy đủ đặc trƣng của hai

giới. Theo đó, dƣới diễn giải của thế giới quan tôn giáo theo thiên hƣớng nam hoặc

nữ sẽ dẫn đến cách hiểu khác nhau, nhƣng cơ bản gồm Tứ phủ Nam và Tứ phủ nữ.

Cụ thể, với cách diễn giải nặng về thiên hƣớng nam, thế giới thần linh do Thiên phủ

(Nam) đứng đầu, cai quản Tứ phủ. Các phủ khác thừa hành, thực hiện chức trách,

phận vị của mình trong địa hạt. Ứng với mỗi phủ, hệ thần lại đƣợc chia theo hai

giới, với bên nam có đủ vua quan nam và bộ phận thừa hành…, nhóm nữ tƣơng ứng

với đám hậu cung, do một vị thần nữ cai quản, cũng đầy đủ cơ cấu nhƣ bên nam…

Tƣơng tự, theo cách diễn giải nặng về thiên hƣớng nữ, có lẽ sẽ đƣợc hiểu ngƣợc lại

dù dấu vết còn hiện diện khá mờ. Đó là một biểu hiện cụ thể về sự dung hội của hai

xu hƣớng sáng lập và diễn giải về thế giới tự nhiên và thần linh theo vũ trụ quan hai

giới từng song hành tồn tại, sau hội lại theo triết lý âm dƣơng để phản ánh về tôn ti,

trật tự trong cơ cấu tổ chức xã hội với đầy đủ đặc trƣng hai giới còn có thể nhận

diện đƣợc qua hệ thần Tứ phủ Việt.

- Hệ thần Mẫu Tứ phủ, Mẫu Tam phủ không thể tách rời hệ thần Tứ phủ và

nằm trong Tứ phủ. Về bản chất, đây là cách gọi tôn xƣng mang tính đại diện, đƣợc

thể hiện dƣới hình thức tôn thờ ba vị Thánh Mẫu (hiển hiện) trong hệ thần Tứ phủ

(ẩn tàng) mà dân gian đã khái quát, đó là mô hình Tam tòa Thánh Mẫu - Tứ phủ

công đồng.

- Trong tín ngƣỡng dân gian, tùy theo yêu cầu lịch sử và xu hƣớng tôn giáo,

tín ngƣỡng, vị trí, vai trò của các vị thần trong Tứ phủ cũng nhƣ các phủ trong Tứ

phủ đƣợc kết hợp và diễn giải khác nhau./.

164

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Đạt Thức (2017), “Về hủ tục và mê tín dị đoan trong lễ hội truyền

thống”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 4 (61), tr. 87 - 97.

2. Nguyễn Đạt Thức (2019), “Về công đức xây dựng, tu bổ, tôn tạo di tích qua

tƣ liệu Hán - Nôm tại quần thể di tích phủ Giầy, tỉnh Nam Định”, Tạp chí Di

sản văn hóa, số 9 (69), tr. 46 - 49.

3. Nguyễn Đạt Thức (2020), “Kẻ Giầy - Vân Cát - Tiên Hƣơng trong sự biến đổi cơ

cấu làng xã có thể khảo”, Tạp chí Văn hóa học, số 3 (49), tr. 77 - 82.

4. Nguyễn Đạt Thức (2020), “Chính tự - chính từ - chính thần quanh tục thờ Thánh

Mẫu Liễu Hạnh trên vùng đất kẻ Giầy”, Đặc san Di sản văn hóa, số 2 (02), tr. 57 - 61.

5. Nguyễn Đạt Thức (2020), “Về cơ chế xác lập, duy trì truyền thống thờ thần trong

cộng đồng làng xã Việt xƣa”, Đặc san Di sản văn hóa, số 3 (03), tr. 39 - 44.

165

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Ban Quản lý Di tích và Danh thắng tỉnh Nam Định (2019), "Báo cáo kết quả

khảo sát, nghiên cứu tên gọi các di tích thuộc quần thể di tích lịch sử -

văn hoá phủ Dầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định", Hồ sơ

xếp hạng di tích (tài liệu bổ sung), Tƣ liệu lƣu trữ tại Cục Di sản văn

hóa.

2. Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 8, Nxb. Thuận hóa,

1992.

3. Nguyễn Chí Bền (2018), Văn hóa Việt Nam nghiên cứu và tiếp cận, tập 1 (Quyển

1): Về văn hóa dân gian, Nxb. KHXH, H.

4. Nguyễn Chí Bền (2018), Văn hóa Việt Nam nghiên cứu và tiếp cận, tập 1 (Quyển

2): Về văn hóa đƣơng đại, Nxb. KHXH, H.

5. Nguyễn Chí Bền (2018), Văn hóa Việt Nam nghiên cứu và tiếp cận, tập 1 (Quyển

3): Về văn học, Nxb. KHXH, H.

6. Nguyễn Chí Bền (2018), Văn hóa Việt Nam nghiên cứu và tiếp cận, tập 2: Các

chuyên luận, Nxb. KHXH, H.

7. Trần Lâm Biền (2018), Đồ thờ trong di tích của người Việt, Nxb. Thế giới, H.

8. Trần Lâm Biền (2020), Văn hóa nghệ thuật chùa Việt vài nét cơ bản, Nxb. Đại

học Quốc gia, H.

9. Phan Kế Bính (2004), Việt Nam phong tục, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Thành

phố Hồ Chí Minh.

10. Phan Kế Bính, Nam Hải dị nhân, Nxb. Trẻ, xuất bản năm 1988. 11. Cát thiên tam thế thực lục11 (bản lƣợc thuật và giới thiệu bằng tiếng Việt của

Nguyễn Văn Thanh, cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm) - Xem thêm :

Nguyễn Văn Thanh (2007), "Cát thiên tam thế thực lục và việc nghiên

cứu đạo Mẫu” Thông báo Hán Nôm học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, H.

11 Bản gốc chữ HánCát Thiên tam thế thực lục 葛 天 三 世 實 錄, hiện lƣu tại phủ Nấp, tức phủ Quảng Cung, thuộc xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

xuất bản năm 2008 hoặc có thể truy cập:

166

http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1444&Catid=597

12. Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb. Văn

hóa dân tộc và Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật xuất bản, H.

13. Nguyễn Đổng Chi (1980), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nxb. KHXH, H,

xuất bản năm 1980.

14. Phan Huy Chú, Lịch triều hiếu chương loại chí, tập 1, Nxb. Giáo dục, H, 2007.

15. Phan Huy Chú, Lịch triều hiếu chương loại chí, tập 2, Nxb. Giáo dục, H, 2007.

16. Trƣơng Văn Chung (2017), Chuyển đổi tôn giáo Một số vấn đề lý thuyết và lịch

sử, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, TPHCM.

17. Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (2002), Những vấn đề về Hán Nôm học,

tập 1, Nxb. Đại học Quốc gia, H.

18. Đại Việt sử ký toàn thư (1993) (Bản dịch), Nxb. Khoa học xã hội, H - Bản điện

tử, chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy, Tuyết

Mai, Hồng Ty, Nguyễn Quang Trung, năm 2001.

19. Nguyễn Xuân Diện (2016), Kiều Oánh Mậu Cuộc đời và tác phẩm, Nxb. Thế

giới, H.

20. Đồng Khánh Địa dư chí, Nxb. Thế giới, H, 2003.

21. Dƣơng Ngọc Dũng (2016), Tôn giáo nhìn từ viễn cảnh xã hội học, Nxb. Hồng

Đức, H.

22. Trần Quang Dũng chủ biên (2017), Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ Chốn thiêng

nơi cõi thực, Nxb. Thế giới, H.

23. Mai Thị Hạnh (2018), Bản hội trong Đạo Mẫu: Tạo lập vốn xã hội trong bối

cảnh chuyển đổi, Luận án tiến sĩ văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội,

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

24. Nguyễn Thị Hiền (2014), Đức thánh Trần qua kinh giáng bút, Luận văn thạc sĩ,

chuyên ngành Hán Nôm, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.

25. Đinh Thanh Hiếu (2018), “Định chế và mô thức sắc phong thần triều Nguyễn”,

Tạp chí Hán Nôm, số 1 (146).

26. Hồ sơ xếp hạng Khu di tích kiến trúc - nghệ thuật phủ Dầy (1975), ký hiệu NĐ.

10, Tƣ liệu lƣu trữ tại Cục Di sản văn hóa.

167

27. Hồ sơ đề cử di sản văn hóa phi vật thể Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam

phủ của người Việt (2015), Tƣ liệu lƣu trữ tại Cục Di sản văn hóa.

28. Kiều Thu Hoạch (2019), Văn hóa dân gian người Việt góc nhìn so sánh, Nxb.

KHXH, H.

29. Kiều Thu Hoạch, “Tiếp cận thực hành tín ngưỡng Tam phủ của người Việt từ

góc nhìn lịch sử, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam, số 4/2019 - Số

chuyên đề Kỷ niệm 40 năm thành lập Viện Nghiên cứu Văn hóa.

30. Hội đồng biên tập Tổng tập Văn học Việt Nam (1994), Tổng tập Văn học Việt

Nam, tập 3B, Nxb. KHXH, H.

31. Vũ Thị Minh Hƣơng, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin (2000), Địa danh và

tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc - Kỳ, Nxb. Văn hóa Thông tin, H.

32. Trần Quang Huy (2016), Nghiên cứu kinh giáng bút của thiện đàn cuối thế kỷ

XIX đầu thế kỷ XX, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Hán Nôm, Học viện

Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

33. Trần Quang Huy (2014), Quốc văn Nôm trong kinh giáng bút của phong trào

thiện đàn đầu thế kỷ XX, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Hán Nôm, Đại

học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

34. Nguyễn Văn Huyên (2018), Hội hè lễ tết của người Việt (Đỗ Quang Trọng -

Trần Đỉnh dịch), Nxb. Thế giới, H.

35. Nguyễn Văn Huyên, “Sự thờ cúng các vị thần tiên ở Việt Nam và Một trƣờng

đạo sỹ ở Việt Nam”, in trong Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam,

tập 2, Nxb. KHXH, H, 1996.

36. Đinh Thị Lệ Huyền (2007), Tìm hiểu Đạo Mẫu ở Việt Nam qua tư liệu Hán

Nôm, Luận án thạc sĩ khoa học, chuyên nghành Hán Nôm, Đại học Khoa

học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

37.Lê Tùng Lâm (2011), Văn bản Truyền kỳ tân phả và mối quan hệ với các thần

tích (qua trường hợp Hải khẩu linh từ và Vân Cát thần nữ), Luận văn

thạc sĩ Hán Nôm, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.

38. Võ Hoàng Lan (2012), Tục thờ nước của người Việt ở châu thổ sông Hồng,

Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam.

168

39. Nguyễn Ngọc Mai (2013), Nghi lễ lên đồng Lịch sử và giá trị, Nxb. Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

40. Kiều Oánh Mậu, Tiên phả dịch lục (bản dịch của Nguyễn Xuân Diện), in trong

Nguyễn Xuân Diện (2016), Kiều Oánh Mậu Cuộc đời và tác phẩm, Nxb.

Thế giới, H, tr. 234 - 280.

41. Trần Nghĩa, Prancoi Gros (1997), Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu,

Nxb. KHXH. H.

42. Trần Nghĩa (Chủ biên) (2003), Di sản Hán Nôm Việt Nam Thư mục đề yếu - Bổ

di I (Quyển Hạ Và Quyển Thượng), Nxb.KHXH, H.

43. Nguyễn Ôn Ngọc, Nam Định tỉnh địa dư chí (Phòng Địa chí Thƣ viện tỉnh

dịch)- Bản điện tử của Thƣ viện tỉnh Nam Định.

44. Nhiều tác giả (2016), Văn hóa học Những phương pháp tiếp cận, Nxb. Thế giới,

H.

45. Olivier Tessier (Tổ chức biên soạn) - Phạm Văn Ánh, Nguyễn Thị Hiệp (dịch

vào giới thiệu) (2020), Thánh Mẫu linh tiêm, Nxb. Tổng hợp TPHCM.

46. Olivier Tessier (Tổ chức biên soạn) - Nguyễn Thị Hiệp - Marcus Durand -

Philippe Papin (dịch vào giới thiệu) (2020), Điện thần và nghi thức hầu

đồng Việt Nam, Nxb. Tổng hợp TPHCM.

47. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục,

tập 1, Nxb. Giáo dục, H.

tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam

48. Nguyễn Minh San (1996), Việc phụng thờ Mẫu Liễu ở phủ Giầy, Luận án Phó

49. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam Định, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc

gia Việt Nam (2017), Tuyển tập những bài hát văn, Nxb. Thế giới, H.

50. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam Định và Viện Văn hóa Nghệ thuật

quốc gia Việt Nam (2019), Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt - Những

công trình nghiên cứu, Nxb. Thế giới, H.

51. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam Định, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc

gia Việt Nam (2019), Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua tư liệu

Hán Nôm, Nxb. Thế giới, H.

169

52. Bùi Văn Tam (2017), Nguyệt du cung (Đền Cây Đa Bóng), Nxb. Văn hóa dân

tộc, H.

53. Bùi Văn Tam (khảo cứu, biên soạn) (2007), Phủ Dầy và tín ngưỡng mẫu Liễu

Hạnh, Nxb. Văn hóa dân tộc.

54. Tân - Dân Thƣ - quán (1929), Văn chầu Các bài văn chầu đủ các vị, Tân - Dân

Thƣ - quán xuất bản, H.

55. Hà Văn Tấn (1999), “Bài bia của Trƣơng Hán Siêu và vấn đề phong thành

hoàng”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1 (302), tr. 42 - 50.

56. Bùi Quang Thắng (2017), Hành trình vào văn hóa học, Nxb. Thế giới, H.

57. Bùi Quang Thắng (chủ biên) (2008), 30 thuật ngữ Nghiên cứu văn hóa học,

Nxb. KHXH, H.

58. Trần Thị Băng Thanh (Sƣu tập và giới thiệu), (2017), Một Điểm tinh hoa Thơ

văn Hồng Hà nữ sĩ, Nxb. Phụ nữ, H.

59. Bùi Quang Thanh (2008), Văn hóa dân gian Việt Nam Một cách tiếp cận, Nxb.

KHXH, H.

60. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TPHCM,

TPHCM.

61. Ngô Đức Thịnh (2010), Đạo mẫu Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, H.

62. Ngô Đức Thịnh (2010), Lên đồng hành trình của thần linh và thân phận, Nxb.

Thế giới, H.

63. Ngô Đức Thịnh (2012), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb.

Trẻ, TPHCM.

64. Ngô Đức Thịnh (2014), Đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, Nxb. Dân trí, H.

65. Phan Cẩm Thƣợng, Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lƣợc (2011), Đồ họa cổ Việt

Nam, Nxb. Mỹ thuật, H.

66. Trung tâm Lƣu trữ Quốc gia I (2017), Địa danh làng xã Việt Nam qua tài liệu

địa bạ triều Nguyễn, tập 1: Bắc Kỳ, Nxb. Thông tin và Truyền thông.

67. Truyền kỳ tân phả (Bản dịch của Ngô Lập Chi), Nxb. Giáo dục, 1962.

68. Nguyễn Văn Tuân (dịch chú) (2017), Bách thần lục, Nxb Đại học sƣ phạm, H.

69. Ty Văn hóa Hà Nam Ninh (1976), Đây thực chất hội phủ Giày.

170

70. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập

1, Nxb. Thế giới, H.

71. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập

2, Nxb. Thế giới, H.

72. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập

3, Nxb. Thế giới, H.

73. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập

4, Nxb. Thế giới, H.

74. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại việt sử ký toàn thư , Nxb. KHXH,

H.

75. Viện Thông tin khoa học xã hội, Sở Văn hóa thông tin tỉnh Hà Nam (2004),

Thần tích thần sắc Hà Nam, Nxb. KHXH, H.

76. Trần Quốc Vƣợng (2001), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn

học, H.

77. Trần Quốc Vƣợng, “Vì sao Vân Cát - Tiên Hƣơng là một hồi sau tách đôi và rồi

đã và đang lần kết đôi?”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4 (76) - 2001.

78. Trần Quốc Vƣợng (2003), Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn

học, H.

79. Trần Quốc Vƣợng (2018), Theo dòng lịch sử, Những vùng đất, thần và tâm thức

người Việt, Nxb. Hồng Đức.

80. Dƣơng Văn Vƣợng (dịch), Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược - Bản điện

tử của Thƣ viện tỉnh Nam Định.

81. Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh, Nxb. Văn học, xuất bản năm 1972.

Tài liệu tiếng nƣớc ngoài

82. A.Lagrèze (1941), “Documents concernant le temple dên-song, au thanh-hoa”

Bulletin des amis du vieux Hue, B.A.V.H, tập XXVIII, N0 1, 1941.

83. 王 可 Vƣơng Khả (1999), 中 國 道 教 基 破 知 識 Trung Quốc đạo giáo cơ phá

tri thức, 宗 教 文 化 出 版 社 Tông giáo văn hóa Xuất bản xã, 北 京 Bắc

Kinh.

84. 馬 書 田 Mã Điền Thƣ (1999), 華 夏 諸 神 Hoa hạ chƣ thần, 安 山 出 版 社

171

Yên Sơn, 北 京 Bắc Kinh.

85. 陳 益 源 Trần Ích Nguyên, 裴 光 雄 Bùi Quang Hùng (2007), 雲 南 与 越 南

Vân Nam và Việt Nam, 樂 學 書 局 印 行 Lạc học Thƣ cục ấn hành.

Tài liệu Hán Nôm

86. Bắc Giang tỉnh Lạng Giang phủ Phất Lộc huyện Đào Quan tổng Tiên Lục xã

thần tích 北 江 省 諒 江 府 弗 祿 縣 桃 觀 總 仙 錄 社 神 蹟, Viện

Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A14/11.

87. Bắc Ninh tỉnh Gia Lâm huyện các xã thần tích 北 寧 省 嘉 林 縣 各 社 神 蹟,

Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A7/12.

88. Bắc Ninh tỉnh, Quế Dƣơng huyện, Cựu Tự xã thần sắc 北 寧 省 桂 陽 縣 舊 寺

社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A7/24.

89. Bách tƣờng hoa chân kinh 百 祥 花 真 涇, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AB.242.

90. Bách hạnh thiện thƣ 百 行 善 書, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.42

91. Bách thần lục 百 神 錄, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.1276/2, VHv.

1276/4.

92. Bản thiện kinh ản 本 善 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.355.

93. Bản quốc dị văn 本 國 異 文 [Bản quốc dị văn lục 本 國 異 文 錄], Viện

Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.3178, A.3197 (bản sao).

94. Báo ân quốc âm chân kinh 報 恩 國 音 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký

hiệu AB.519.

95. Bảo xích tục biên chân kinh 寶 赤 續 編 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký

hiệu AB.503.

96. Bảo Hán Châu Liên 保 漢 珠 聯 , Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

VHv.2450/1.

97. Càn khôn định vị chân kinh 乾 坤 定 位 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký

hiệu AB.252.

98. Cát sự đối liên 吉 事 對 聯, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.2660.

172

99. Chấp trung quốc âm chân kinh 執 中 國 音 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AB.504.

100. Chí đạo quốc âm chân kinh 志 道 國 音 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký

hiệu AB.260.

111. Chí trung chân kinh 致 中 真 涇, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.515.

112. Chƣ vị tán văn toàn tập 諸 位 贊 文 全 集, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký

hiệu AB.601.

113. Chƣ vị văn chầu 諸 位 文 朝, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.517.

114. Công văn quyển 攻文卷, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.629.

115. Công văn tổng quyển 攻 文 總 卷, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

A.2777.

116. Đại Nam quốc âm ca khúc 大 南 國 音 歌, “Liễu Hạnh công chúa diễn âm”,

Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.146.

117. Đàn văn 彈 文, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.365.

118. Dân gian cổ ngâm 民 間 古 吟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VNb.58.

119. Địa bạ xã Vân Cát 雲 葛 社 地 簿 - Trung tâm Lƣu trữ quốc gia I, Phông Địa

bạ triều Nguyễn, hồ sơ số 6529, lập năm Gia Long thứ 4 (1805).

120. Địa bạ xã An Thái 安 泰 社 地 簿 - Trung tâm Lƣu trữ quốc gia I, Phông Địa

bạ triều Nguyễn, hồ sơ số 6525, lập năm Gia Long thứ 4 (1805).

121. Hà Nam tỉnh Kim Bảng huyện Thụy Lôi tổng các xã thần tích 河 南 省 金 榜

縣 瑞 雷 總 各 社 神 蹟 , Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AE.A13/21.

122. Hà Nam tỉnh Duy Tiên huyện Tiên Xá tổng các xã thần tích 河 南 省 維 先 縣

先 舍 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A13/12.

123. Hà Đông tỉnh, Thanh Trì huyện, Vĩnh Ninh tổng các xã thần tích đệ thập

sách 河 東 青 池 縣 永 寧 總 各 社 神 蹟 第 十 冊, Viện Nghiên cứu

Hán Nôm, ký hiệu AE.A2/86.

124. Hà Đông tỉnh, Sơn Lãng huyện, Bạch Sam tổng các xã thần tích 河 東 省 山

173

郎 縣 白 杉 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AE.A2/48.

125. Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Thổ Ốc tổng các xã thần tích 河

南 省 里 仁 府 南 昌 縣 土 沃 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán

Nôm, ký hiệu AE.A13/29.

126. Hà Đông tỉnh, Thƣờng Tín phủ, Thƣợng Phúc huyện, Tín Yên tổng các xã thần

tích, 河 東 省 常 信 府 上 福 縣 信 安 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu

Hán Nôm, ký hiệu AE.A2/96.

127. Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Công Xá tổng các xã thần tích 河

南 省 里 仁 府 南 昌 縣 公 舍 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán

Nôm, ký hiệu AE.A13/25.

128. Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Thổ Ốc tổng Đồng Bàn xã thần

tích 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 土 沃 總 銅 盤 社神 蹟, Viện Nghiên

cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A13/28.

129. Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Cao Đà tổng các xã thần tích 河

南 省 里 仁 府 南 昌 縣 高 陀 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán

Nôm, ký hiệu AE.A13/23.

130. Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Hoàng Trung, Tri Chỉ nhị tổng các xã thần

tích 河 東 省 富 川 縣黃 中 知 止 二 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu

Hán Nôm, ký hiệu AE.A2/45.

131. Hà Đông tỉnh, Thƣờng Tín phủ, Thƣợng Phúc huyện, Tín Yên tổng các xã tục

lệ 河 東 省 常 信 府 上 福 縣 信 安 總 各 社俗 例, Viện Nghiên cứu

Hán Nôm, ký hiệu AF.A2/99*.

132. Hà Nam Tỉnh, Duy Tiên huyện, Trác Bút tổng các xã thần tích 河 南 省 維 先

縣 卓 筆 總 各 社 神 蹟 , Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AE.A13/14.

133. Hà Đông tỉnh, Hoài Đức phủ, Từ Liêm huyện, La Nội tổng các xã thần tích 河

東 省 懷 德 府 慈 廉 縣 羅 內 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán

174

Nôm, ký hiệu AE.A2/65.

134. Hà Nam tỉnh, Duy Tiên huyện, An (Yên) Khê tổng các xã thần tích 河 南 省

維 先 縣 安 溪 總 各 社神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AE.A13/1.

135. Hà Đông tỉnh, Phú Xuyên huyện các xã thần tích 河 東 省 富 川 縣 各 社神

蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A2/43.

136. Hà Đông tỉng, Ứng Hòa phủ, Sơn Lãng huyện, Trầm Lộng tổng các xã thần

tích 河 東 省 應 和 府 山浪 縣 沉 弄 總 各社神 蹟, Viện Nghiên cứu

Hán Nôm, ký hiệu AE.A2/57.

137. Hà Đông tỉnh, Phú Xuyên huyện, Thƣờng Xuyên tổng các xã thần tích 河 東

省 富 川 縣常 川 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AE.A2/44.

138. Hà Đông, Thanh Trì huyện, Ninh Xá tổng các xã thần tích 河 東 青 池 縣 寧

舍 總 各 社神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A2/81.

139. Hà Nam tỉnh, Lý Nhân phủ, Nam Xang huyện, an Trạch tổng các xã thần sắc

河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 安 宅 總 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán

Nôm, ký hiệu AD.a13/16.

140. Hà Nam tỉnh, Lý Nhân phủ, Nam Xang huyện Công xá tổng các xã thần sắc 河

南 省 里 仁 府 南 昌 縣 公 舍 總各社 神敕, Viện Nghiên cứu Hán

Nôm, ký hiệu AD.a13/18.

141. Hà Nam tỉnh, Duy Tiên huyện an (Yên) Khê tổng các xã thần sắc 河 南 省 維

先 縣 安 溪 總 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD.

A13/1.

142. Hà Đông tỉnh, Hoài Đức phủ, Từ Liêm huyện, Thƣợng Ốc tổng các xã thần sắc

河 東 省 懷 德 府 慈 廉 縣 上 沃 總 各 社村 神 敕, Viện Nghiên cứu

Hán Nôm, ký hiệu AD. A2/50.

143. Hà Đông tỉnh, Sơn Lãng huyện, Đại Bối tổng các xã thần sắc 河 東 省 山 郎

縣大 貝 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A2/28.

175

144. Hà Đông tỉnh, Thanh Trì huyện, Cổ Điển tổng các xã thần sắc 河 東 省 青 池

縣 古 典 總 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD.

A2/53.

145. Hải Dƣơng tỉnh, Thanh Hà huyện, Hạ Vĩnh tổng, Hạ Vĩnh xã thần tích 海 陽

省 青 河 縣下 永 總 下 永 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký

hiệu AE.A6/21.

146. Hóa ngoan tân kinh 化 頑 新 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.524.

147. Hồi xuân bảo tập 回 春 寶 集, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.237.

148. Hƣng Yên tỉnh Khoái Châu phủ Đông An Huyện Kim Động huyện Phù Cừ

huyện các xã thần tích 興 安 省 快 卅 府 東 安 縣 金 洞 縣 芙 渠 縣 各

社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A3/5.

149. Hƣng Yên tỉnh, Kim Động huyện các xã thần sắc 興 安 省金洞 縣 各 社 神 敕

, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A3/3

150. Kê chính lập mệnh minh thiện nhị kinh tiết yếu hợp biên 乩 正 立 命 明 善 二

經 節 要 合 編, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.139.

151. Kê bút văn sao tập 乩筆 文 抄 集, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

A.2630.

152. Khảo đồng sự ký 考 童 事 記, Paris.SA.PD.2379.

153. Khôn nghi chân kinh 坤 儀 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AB.502.

154. Kiến An tỉnh, Thủy Nguyên huyện, Trịnh Xá tổng các xã thần tích 建 安 省 水

源 縣 鄭 舍 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AE.A12/26.

155. Kiến An tỉnh, Tiên Lãng huyện, Cẩm Khê tổng, Mỹ Lộc xã thần sắc 建 安 省

先 郎 縣 錦 溪 總 美 祿 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AD. A12/7.

156. Kim giám chân kinh 金 鑑 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

176

AB.249.

157. Lạng Sơn tỉnh Cao Lộc châu Trinh Nữ tổng các xã thần tích 諒 山 省 高 祿 州

貞 女 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A17/1.

158. Lạng Sơn tỉnh, Cao Lộc châu, Trinh nữ tổng các xã thần tích 諒 山 省 高麓 州

貞 女 總 各社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A17/1.

159. Lão song thô lục 老 窗 粗 錄, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2818.

160. Liệt thánh châm biếm chân kinh 列 聖 鍼 砭 真 經, Viện Nghiên cứu Hán

Nôm, ký hiệu A.2522.

161. Liễu Hạnh Công chúa diễn âm 柳 杏 公 主 演 音, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AB 146 (bản Nôm).

162. Linh tâm quốc âm chân kinh 零 心 國 音 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AB.246.

163. Lƣơng tâm quốc âm chân kinh 良 心 國 音 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AB.560/a-b.

164. Mai Hoa điểm tuyết chân kinh 梅 花 點 雪 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AB.244.

165. Minh Đức chân kinh 明 德 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AB.498.

166. Minh Tâm độ kiếp chân kinh 明 心 度 劫 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AB.525.

167. Minh đạo thƣợng kinh 明 道 上 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

A.2385.

168. Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Bảo Ngũ tổng các xã thần tích 南 定 省 務 本

縣 保 伍 總 各 社 神 蹟 , Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AE.A15/27.

169. Nam Định tỉnh, Xuân Trƣờng phủ, Giao Thủy huyện, Lạc Thiện tổng, Hoành

Lộ ấp thần tích 南 定 省 春 長 府 膠 水 縣 樂 善 總 黃 路 邑神 蹟,

Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A15/3.

177

170. Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, An Cự tổng các xã thần tích 南 定 省 務 本 縣

安 巨 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A15/26.

171. Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện, Kiên Trung tổng thần tích 南 定 省 海 後 縣

堅 忠 總 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A15/4.

172. Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã thần tích 南 定 省 務 本

縣 同 隊 總 各 社 神 蹟 , Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AE.A15/28.

173. Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện, Quế Hải tổng các xã thần tích 南 定 省 海 後

縣 桂 海 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A15/8.

174. Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Phú Lão tổng các xã thôn thần tích 南 定 省 務

本 縣 富 老 總 各 社 村 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AE.A15/32.

175. Nam Định tỉnh Hải Hậu huyện Tân Khai tổng các xã thần tích 南 定 省 海 後

縣 新 開 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A15/9.

176. Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện, Kiến Trung xã thần tích 南 定 省 海 後 縣 堅

忠 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.a15/4.

177. Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Đồng Đội tổng các xã thần sắc 南 定 省 務 本

縣 同 隊 總 各 社 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A16/29.

178. Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện, Nhƣ Thức tổng các xã thần sắc 定 省 美 祿 縣

如 式 總 各 社 神敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD.a16/18.

179. Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện, Tân Khai tổng các xã thần sắc 南 定 省 海 後

縣 新 開 總 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD.

A16/8.

180. Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện, Đồng Phù tổng các xã thần sắc 南 定 省 美 祿

縣 同 符 總 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD.

A16/14.

181. Nam Định tỉnh, Xuân Trƣờng phủ, Giao Thủy huyện, Lạc Thiện tổng các ấp

178

thần sắc 南 定 省 春 長 府 膠 水 縣 l 樂 善 總 各 邑 神 敕, Viện Nghiên

cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A16/3.

182. Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện, Quế Hải tổng các xã thần sắc 南 定 省 海 後

縣 桂 海 總 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD.

A16/7.

183. Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện, Cao Đài tổng các xã thần sắc 南 定 省 美 祿

縣 高 臺 總 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD.

A16/11.

184. Nam Định tỉnh đại dƣ chí 南 定 省 地 輿 誌, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký

hiệu A.609.

185. Nam Hải dị nhân liệt truyện diễn âm 南 海 異 人 列 傳 演 音, Viện Nghiên

cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.472.

186. Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Đồng Đội tổng các xã tục lệ 南 定 省 務 本縣

同 隊 總 各 社 俗 例, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AF. A11.35.

187. Nghệ An tỉnh Hƣng Nguyên phủ Thông Lãng tổng Ƣớc Lễ xã thần tích 乂 安

省 興 元 府 通 朗 總 約 禮 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký

hiệu AE.B1/11.

188. Ngọc luật hồi xuân chân kinh 玉 律 回 春 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AB.243.

189. Ngọc Thành Nam âm chân kinh 玉 成 南 音 真 經, Viện Nghiên cứu Hán

Nôm, ký hiệu AB.245.

190. Nguyên Từ quốc mẫu lập mệnh quốc âm chân kinh 元 慈 國 母 立 命 國 音 真

經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.436, AB.253, AB.459.

191. Nguyệt Phách chân kinh âm dƣơng toàn tập 月 魄 真 經 陰 陽 全 集, Viện

Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.258.

192. Nhật tụng luyện thần chân kinh 日 誦 練 神 真 經, Viện Nghiên cứu Hán

Nôm, ký hiệu A.2888, A.1348.

193. Nhƣ Khuê thị học ngữ tập 如 珪 氏 學 語 集 = Vĩnh Hồ Nhƣ Thị học ngữ 永

179

湖 如 珪 氏 學 語, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.293.

194. Ninh Bình tỉnh, Yên Mô huyện, Quảng Phúc tổng các xã thần tích 寧 平 省 安

謨 縣 廣 福 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AE.A4/37.

195. Ninh Bình tỉnh Yên Mô huyện Bạch Liên tổng các xã thôn thần tích 寧 平 省

安 謨 縣 白 蓮 總 各 社村 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AE.A4/33.

196. Ninh Bình tỉnh, Gia Viễn, Đại Hữu tổng các xã thần tích 寧 平 省 嘉 遠 大 有

有 總 各 社神蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A4/9.

197. Nội đạo tràng 內 道 場, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2975.

198. Phổ độ âm dƣơng bảo kinh 普 度 陰 陽 寶 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký

hiệu A.1997.

199. Phổ độ âm dƣơng bảo kinh 普 度 陰 陽 寶 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký

hiệu A.2494.

200. Phú Thọ tỉnh, Cẩm Khê huyện các xã thần tích 富 壽 省 錦 溪 縣 各 社 神 蹟,

Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A9/1.

201. Phú Thọ tỉnh, Cẩm Khê huyện, Vân Bán tổng, Thụy Liễu, Khổng Tƣớc nhị xã

thần tích 富 壽 省 錦 溪 縣 雲 半 總 瑞 柳 孔 雀 二 社 神 蹟, Viện

Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A9/7.

202. Phú Thọ tỉnh, Thanh Ba huyện, Mạn Lạn tổng các xã thần tích 富 壽 省 青 波

縣熳爛 總 各 社神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A9/38.

203. Phúc địa tài hoa chân kinh 福 地 裁 花 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký

hiệu A.261.

204. Phúc Yên tỉnh Yên Lãng phủ Bạch Trữ tổng các xã thần tích 福 安 省 安 郎 府

白 宁 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A11/6.

205. Phúc Yên tỉnh, Đông Anh huyện, Xuân Nộn tổng các xã thần tích 福 安 省 東

英 縣 春 嫩 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

180

AE.A11/4.

206. Phƣợng sơn nữ kính bảo lục 鳳 山 女 鏡 寶 錄, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AB.501.

207. Sơn Tây tỉnh, Phúc Thọ huyện, Phù Long tổng, Hát Môn xã thần sắc 山 西 省

福 壽 縣 扶 龍 總 喝 門 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AD. A10/4.

208. Tam vị Thánh Mẫu cảnh thế chân kinh 三 位 聖 母 警 世 真 經, Viện Nghiên

cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2412, A.2475, A.2585.

209. Tam ngũ trình tƣờng quốc âm kinh 三 五 呈 祥 國 音 經, Viện Nghiên cứu

Hán Nôm, ký hiệu AB.264.

210. Tam bảo quốc âm 三 寶 國 音, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu Vnv.529.

211. Tâm pháp thiết yếu chân kinh 心 法 切 要 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu VHv.1076.

212. Tân Tây tỉnh, Phúc Thọ huyện, Phù Sa tổng các xã Liên Chiểu, Tiền Huân thần

tích 山 西 省 福 壽 縣 浮 沙 總 各 社 蓮 沼 清 沼 前 勳 神 蹟, Viện

Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A10/5.

213. Tăng Quảng Minh Thiện quốc âm chân kinh 增 廣 明 善 國 音 真 經, Viện

Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.143.

214. Thái Bình tỉnh Quỳnh Côi huyện Quỳnh Ngọc tổng Quỳnh Ngọc xã thần

tích 太 平 省 瓊 魁 縣 瓊 玉 總 瓊 玉 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán

Nôm, ký hiệu AE.A5/32.

215. Thái Bình tỉnh Thƣ Trì huyện Cự Lâm tổng các xã Hữu Lộc Cự Lâm Thanh

Bản thần tích 太 平 省 舒 池 縣 巨 林 總 各 社 有 祿 巨 林 青 板 神 蹟,

Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/61.

216. Thái Bình tỉnh Tiên Hƣng Hƣng Nhân huyện các xã thần tích 太 平 省 先 興

府 興 仁 縣 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/28.

217. Thái Bình tỉnh Duyên/Diên Hà huyện các xã thần tích 太 平 省 延 河 縣 各 社

神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/12.

181

218. Thái Bình tỉnh Thái Ninh phủ Thanh Quan huyện Cát Đàm tổng các xã thần

tích 太 平 省 太 寧 府 青 關 縣 葛 覃 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu

Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/36.

219. Thái Bình tỉnh Thƣ Trì huyện An Lão Tổng các xã Kiến Xá An Lão thần

tích 太 平 省 舒 池 縣 安 老 總 各 社 建 舍 安 老 神 蹟, Viện Nghiên

cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/58.

220. Thái Bình tỉnh Quỳnh Côi huyện Đồng Trực tổng các xã thần tích 太 平 省 瓊

魁 縣 同 直 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AE.A5/30.

221. Thái Bình tỉnh, Trực Định huyện, An Bồi tổng thần tích 太 平 省 直 定 縣 安

培 總 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/1.

222. Thái Bình tỉnh, Hƣng Nhân huyện các xã thần tích 太 平 省 興 仁 縣 各 社 神

蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/27.

223. Thái Bình tỉnh, Trực Định huyện, Xuân Vũ tổng thần tích 太 平 省 直 定 縣

春 宇 總 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/8.

224. Thanh tâm kinh 清 心 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.1091.

225. Thanh tâm đồ 清 心 圖, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2476.

226. Thanh Hóa tỉnh Đông Sơn huyện Quang Chiếu tổng các xã thôn thần tích 清

化 省 東 山 縣 光 照 總 各 社村 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký

hiệu AE.B2/3.

227. Thanh Hóa tỉnh Đông Sơn huyện Quảng Chiếu tổng các xã thần tích 清 化 省

東 山 縣 廣 照 總 各 社村 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AE.B2/5.

228. Thanh Hóa tỉnh Thiệu Hóa phủ Đông Sơn huyện Tuyên Hóa tổng các xã thần

tích 清 化 省 東 山 縣 宣 化 總 各 社神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AE.B2/7.

229. Thanh Hóa tỉnh Đông Sơn huyện Thọ Hạc tổng các xã thôn thần tích 清 化 省

東 山 縣 壽 鶴 總 各 社村 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

182

AE.B2/18.

230. Thanh Hóa tỉnh, Thọ Xuân phủ, Quảng An tổng các xã thần tích 清 化 省 壽

春 府 廣 安 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AE.B2/11.

231. Thanh Hóa chƣ thần lục 清 華 諸 神 錄, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

VHv. 1290.

232. Thánh Mẫu linh tiêm 聖 母 靈 韱, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

A.2431.

233. Thập nhị tiên nƣơng thỉnh luyện bí pháp 十 二 仙 娘 請 練 秘 法, Viện

Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.508.

234. Thi ca tạp ký 詩 歌 雜 記, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VNv.78

MF.1708.

235. Thiên thu kim giám chân kinh 天 秋 金 鑑 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AB.250.

236. Thiên thu kim giám chân kinh 天 秋 金 鑑 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AB.250.

237. Thiên hoa phóng nhị Nam âm chân kinh 天 花 放 蕊 南 音 真 經, Viện Nghiên

cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.262.

238. Thiên trƣờng cung huấn 天 長 宮 訓, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AB.302.

239. Thiên Bản Vân Hƣơng Lê triều Thánh Mẫu ngọc phả 天 本 雲 鄉 黎 朝 聖 母

玉 譜, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2978.

240. Thiên Tiên truyện khảo 天 仙 傳 攷, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

A.3094.

241. Thính văn dị lục 聽 聞 異 錄, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2954.

242. Thọ thế phƣơng đan 壽 世 方 丹, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2521.

243. Thƣơng hải độ mê chân kinh 傷 海 度 迷 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AB.520.

183

244. Tiên phả dịch lục 仙 譜 譯 錄, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.289.

245. Tiên thánh văn tập 仙 聖 文 集, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.458.

246. Tỉnh mộng chân kinh hạ tập 醒 夢 真 經 下 集, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AB.561.

247. Tỉnh mê phú 醒 迷 賦, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.644.

248. Trạch thiện chân kinh 擇 善 真 涇, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AB.529.

249. Truyền kì tân phả 傳 奇 新 譜 [Tục truyền kì lục] 續 傳 奇 錄, “Vân Cát Thần

nữ lục” , Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.48, VHv.2959.

250. Tự ký văn thƣ tạp tập 序 記 文 書 雜 集, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

A.2929.

251. Tuyên Quang tỉnh, Yên Bình phủ, Yên Sơn huyện các xã thần tích 宣 光 省 安

平 府 安 山 縣 褚 市 埔 神 蹟, “Thần tích phố Chử Thị, huyện Yên Sơn,

tỉnh Tuyên Quang”, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A16/1.

252. Vân Hƣơng Liễu Hạnh công chúa tâm căn chân kinh 雲 鄉 柳 杏 公 主 心 根

真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.1249 b/1 - 3.

253. Vân Cát Thần nữ cổ lục 雲 葛 神 女 古 錄, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký

hiệu A.1927.

254. Vân Cát Thần nữ truyện 雲 葛 神 女 傳, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

A.2215.

255. Vân Cát Lê Gia Ngọc Phả 雲 葛 黎 家 玉 譜, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký

hiệu A.3181.

256. Vân Cát Thần nữ cổ lục diễn âm 雲 葛 神 女 古 錄 演 音, Viện Nghiên cứu

Hán Nôm, ký hiệu AB 352.

257. Văn đế bách hạnh thiên 文 帝 百 行 篇, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AC.266.

258. Văn đế bách hạnh thiên 文 帝 百 行 篇, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

AC.238.

184

259. Văn Đế bách hạnh thiên diễn nghĩa 文 帝 百 行 篇 演 義, Viện Nghiên cứu

Hán Nôm, ký hiệu VNv.166.

260. Văn chầu 文 朝 = Văn chầu các bà 文 朝 各 婆 = Văn chầu tập 文 朝 集, Viện

Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.267, AB.466, AB.624

261. Vạn hóa quy nguyên chân kinh 萬 化 歸 原 真 京, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AB.263, AB.257.

262. Vạn bảo Quốc âm chân kinh 萬 寶 國 音 真 京, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

ký hiệu AB.505.

263. Việt điện u linh 越 甸 幽 靈, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.1503.

264. Việt Nam danh nhân sự tích liệt truyện 越 南 名 人 事 跡 列 傳, Viện Nghiên

cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.2407.

265. Vƣơng Giả Hƣơng Nam Âm chân kinh 王 者 香 南 音 真 經 (Vƣơng Giả

Hƣơng 王 者 香), Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.225/1-2.

266. Yên Đổ tiến sĩ thi tập 安 堵 進 士 詩 集, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

VHv.1864.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIẦY

QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM

PHỤ LỤC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HOÁ HỌC

Hà Nội - 2020

186

MỤC LỤC

PHỤ LỤC 1: THƢ MỤC TƢ LIỆU THẦN TÍCH - THẦN SẮC LIÊN QUAN TỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ TẠI VIỆN THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI (THEO THƢ MỤC THẦN TÍCH - THẦN SẮC, VIỆN THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI) .................................. 187 PHỤ LỤC 2: THƢ MỤC TƢ LIỆU HÁN NÔM LIÊN QUAN TỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIẾU HẠNH VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ ........... 200 QUA THƢ MỤC SÁCH HÁN NÔM (VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM) .... 200 PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ TƢ LIỆU HÁN NÔM LIÊN QUAN TỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ ........... 285 TẠI CÁC ĐƠN VỊ LƢU TRỮ KHÁC VÀ NGUỒN SƢU TẦM .................... 285 PHỤ LỤC 4: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ DI TÍCH VÀ DI SẢN TƢ LIỆU HÁN NÔM ................................................................................................................... 289

187

PHỤ LỤC 1: THƢ MỤC TƢ LIỆU THẦN TÍCH - THẦN SẮC LIÊN QUAN TỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ TẠI VIỆN THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI (THEO THƢ MỤC THẦN TÍCH - THẦN SẮC, VIỆN THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI)12

STT

Nơi thờ tự

Duệ hiệu tôn thần

Ký hiệu

Số đăng ký

Thần tích - thần sắc

Nam Định: 49 thôn/làng

1.

7388

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 27

2.

7391

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 30

3.

7413

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 34

4.

7417

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 33

5.

7475

1 thần tích

Q40 18/VII, 28

Thiên thần Liễu Hạnh, đệ tam Thánh Mẫu

6.

7485

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 63

7. 8. 9.

7497 7509 7555

Thiên thần Liễu Hạnh Thiên thần Thƣợng Ngàn Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích

Q40 18/VII, 55 Q40 18/VII, 20 Q40 18/VII, 50

10.

7605

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 16

11.

7608

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 17

12.

7609

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 18

13.

7611

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 17

14.

7612

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 17

15.

7614

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 16

Giáo Phòng (làng), tổng Hà Cát, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, 1938 Nam Thành (làng), tổng Hà Cát, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, 1938 Hoành Lộ (làng), tổng Lạc Thiện, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, 1938 Trừng Uyên (làng), tổng Lạc Thiện, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, 1938 Trung Phƣơng (làng), tổng Quế Hải, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, 1938 Bến (thôn), làng Tiểu Liêm, tổng Cao Đài, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Khả Lực (làng), tổng Cao Đài, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Đa Mễ (làng), tổng Đặng Xá, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Đại An (làng), tổng Giang Tả, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Lƣơng (thôn), làng Bảo Long, tổng Nhƣ Thức, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Nha (thôn), làng Phú Ốc, tổng Nhƣ Thức, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Thát Đông (thôn), làng Bảo Long, tổng Nhƣ Thức, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Thỏ (thôn), làng phú Ốc, tổng Nhƣ Thức, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Thƣợng (thôn), làng phú Ốc, tổng Nhƣ Thức, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Bảo Long Xá (làng), tổng Nhƣ Thức, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938

12 Tham khảo thống kê: Đinh Thị Lệ Huyền (2007), Tìm hiểu đạo Mẫu ở Việt Nam qua tư liệu Hán Nôm, Luận văn thạc sĩ, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, tr. 27 - 36.

188

STT

Nơi thờ tự

Duệ hiệu tôn thần

Ký hiệu

Số đăng ký

16.

7662

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 65

Thần tích - thần sắc 1 thần tích 1 sắc phong

17.

7665

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 92

18.

7720

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 36

1 thần tích, 5 sắc phong

19.

7774

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 42

20.

7806

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 42

21.

7818

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 33

22.

7823

Nhân thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 78

23.

7864

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 71

24.

7875

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 54

25.

7988

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 33

26.

8024

Nhân thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 47

27.

8035

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 52bis

Thứ Nhất (làng), tổng Cổ Gia, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định , 1938 Nội (thôn), làng Tƣơng Nam, tổng Cổ Nông, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, 1938 Trung Khánh Thƣợng (làng), tổng Lạc Thiên, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, 1938 Đông Châu (thôn), làng An Hạ, tổng Trung Thƣợng, phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định, 1938 Hƣng Lộc (làng), tổng Hƣng Nghĩa, phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định, 1938 Quần Lạc (làng), tổng Sỹ Lâm, phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định, Nam Định, 1938 Dƣơng Phạm (làng), tổng Thanh Khê, phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định - Nam Định, 1938 Vụ Sài (làng), tổng Trạng Vĩnh, phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định - Nam Định, 1938 Quảng Nạp (thôn), làng Vỷ Nhuế, tổng Vỷ Nhuế, phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định - Nam Định, 1938 Vân Cát (làng), tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938 Tiên Chƣởng (làng), tổng Hiển Khánh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938 Duyên (thôn), làng Duyên Trƣờng, tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938

28.

8038

Bịch Thôn (làng), tổng Phú Lão, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938 Dƣơng thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 38

29.

8047

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 52

30.

8055

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 53

Độ Lộng (làng: tên Nôm), làng Nhị Thôn, tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938 Kho (làng: tên Nôm), làng Phú Lão, tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938

31.

8056

Kinh Đào (làng), tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 41

1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích, có sắc phong

189

STT

Nơi thờ tự

Duệ hiệu tôn thần

Ký hiệu

Số đăng ký

Thần tích - thần sắc

32.

8058

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 42

Lƣờn (làng: tên Nôm), làng Liên Xƣơng, tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938

33.

8061

Phú Lão (làng), tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 53

34.

8063

Phú Thôn (làng), tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 47

35.

8066

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 44

1 thần tích 1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, có sắc phong

36.

8157

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VII, 28

Thọ Trƣờng (làng), tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938 Nam Điền làng, tổng Trà Lũ, huyện Xuân Trƣờng, tỉnh Nam Định, 1938

37.

8179

Đằng Động (làng), tổng An Lộc, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 49

1 thần tích, có sắc phong

38.

8183

Nhân thần Liễu Hạnh

1 thần tích,

Q40 18/VII, 44

39.

8247

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 31

40.

8253

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 31

41.

8261

Nhân thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 40

42.

8273

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 58

Hƣng Thƣợng (làng), tổng An Lộc, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938 Mua (làng: tên Nôm), làng Vũ Xuyên, tổng Mỹ Dƣơng, Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938 Vũ Xuyên (làng), tổng Mỹ Dƣơng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938 Ngô Xá (làng), tổng Ngô Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938 Dũng Quyết (làng), tổng Phú Khê, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938

43.

8285

An Liêm (làng), tổng Phùng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 55

44.

8291

Vạn Điểm (làng), tổng Phùng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VII, 50

45.

8670

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 31

46.

8672

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 24

47.

8675

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 23

Hàm Lạc Đàn (thôn), làng Lạc Thiện, tổng Hƣớng Đạo, huyện Kim Sơn, tỉnh Nam Định, 1938 Thái Bình (thôn), làng Kiến Thái, tổng Hƣớng Đạo, huyện Kim Sơn, tỉnh Nam Định, 1938 Đồng Đắc (làng), tổng Hƣớng Đạo, huyện Kim Sơn, tỉnh Nam Định, 1938

1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích

190

STT

Nơi thờ tự

Duệ hiệu tôn thần

Ký hiệu

Số đăng ký

Thần tích - thần sắc

48.

8685

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 25

Trung Qui (làng), tổng Hƣớng Đạo, huyện Kim Sơn, tỉnh Nam Định, 1938

49.

8696

Tuy Lai (làng), tổng Lai Thành, huyện Kim Sơn, tỉnh Nam Định, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 54

1 thần tích 1 thần tích

Hà Nam: 41 thôn/làng

50.

3176

Nhân thần Liễu Hạnh

Q40 18/II, 131

51.

3180

1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích

Nhân thần Liễu Hạnh

Q40 18/II, 119

52.

3204

Nhân thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/II, 138

53. 54.

3222 3226

Thành Hoàng Liễu Hạnh Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích 1 thần tích

Q40 18/VI, 68 Q40 18/VI, 54

55.

3232

Thành Hoàng Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 78

56. 57. 58.

3249 3260 3280

Thiên thần Liễu Hạnh Nhân thần Liễu Hạnh Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích

Q40 18/VI, 70-71 Q40 18/VI, 14 Q40 18/VI, 95

59.

3285

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 94

60. 61.

3289 3300

Thiên thần Liễu Hạnh Thiên thần Thánh Mẫu

1 thần tích 1 thần tích

Q40 18/VI, 93 Q40 18/VI, 90b

62.

3304

Nhân thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 114

63.

3324

Nhân thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 29

64.

3344

Nhân thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 22

65.

3349

Thiên thần Thánh Mẫu

1 thần tích

Q40 18/VI, 52

66.

3438

Thiên thần Thánh Mẫu

1 thần tích

Q40 18/VI, 26

Thƣợng Thọ (thôn), làng Mỹ Thọ, tổng Bồ Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Bồ Xá (làng), tổng Bồ Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Thƣợng Thọ (làng), xã La Hào, tổng Bồ Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Hàn Mặc (làng), tổng Cố Viễn, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, 1938 Tử Thanh (làng), tổng Cố Viễn, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, 1938 Hạ (thôn), làng Thứ Nhất, tổng Mai Động, Huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, 1938 Yên Lão (làng), tổng Mai Động, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Bỉnh Trung (làng), tổng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Bùi (thôn), làng Trịnh Xá, tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam Nguyễn (thôn), làng Trịnh Xá, tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam Tràng (thôn), làng Trịnh Xá, tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam Tái Khê (làng), tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Cƣơng (thôn), làng Ngô Khê, tổng Vân Mỹ, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Chánh Bản (thôn), làng Vụ Bản, tổng Vụ Bản, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Vụ Bản (làng), tổng Vụ Bản, tổng Vụ Bản, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Bối Cầu (thôn), làng An Tập, tổng Yên Đổ, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Chịnh (thôn), làng Động Linh, tổng Hoàng Đạo, huyện Duy Tiên, Hà Nam, 1938

191

STT

Nơi thờ tự

Duệ hiệu tôn thần

Ký hiệu

Số đăng ký

Thần tích - thần sắc

67.

3444

Thiên thần Thánh Mẫu

1 thần tích

Q40 18/VI, 17

68.

3487

1 thần tích

Q40 18/VI, 76

Nhân thần Thƣợng Ngàn công chúa

69.

3505

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 100

70.

3506

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 102

71.

3530

Nhân thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 91

72.

3541

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 32

73.

3564

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 62

74.

3655

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 77

75. 76. 77.

3657 3682 3705

1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích

Q40 18/VI, 78 Q40 18/VI, 32 Q40 18/VI, 2

78.

3711

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 58

79.

3715

Tam Giáp (thôn), làng Dƣỡng Hòa, tổng Hoàng Đạo, huyện Duy Tiên, Hà Nam, 1938 Hạ (thôn), làng Hoàn Dƣơng, tổng Mộc Hoàn, huyện Duy Tiên, Hà Nam, 1938 Chung (thôn), làng Đồng Bào, tổng Tiên Xá, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, 1938 Doãn Xá (thôn), làng Lục Nộn, tổng Tiên Xá, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, 1938 Lạc Hà (làng), tổng Trác Bút, huyện Duy Tiên, Hà Nam, 1938 Đệp (làng: tên Nôm), làng Điệp Sơn, tổng Yên Khê, huyện Duy Tiên, Hà Nam, 1938 Thƣợng (thôn), làng Kim Bảng, tổng Kim Bảng, huyện Kim Bảng, Hà Nam, 1938 Hà (thôn), làng Đà Xuyên, tổng Cao Đà, Phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, 1938 Thiên thần Thánh Mẫu Cao Đà (làng), tổng Cao Đà, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, 1938 Nhân Giả (làng), tổng Công Xá, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh Phu Cốc (làng), tổng Đồng Thủy, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, 1938 Nhân thần Liễu Hạnh Bảng (thôn), làng Ngu Nhuế, tổng Ngu Nhuế, huyện Lý Nhân, Hà Nam, 1938 Mão Cầu (làng), tổng Ngu Nhuế, huyện Lý Nhân, Hà Nam, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VI, 62

Q40 18/VI, 21

80.

3735

Bồ Hƣng (làng), tổng Thổ Ốc, Phủ Lý Nhân, Hà Nam, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

81. 82.

3767 3770

Thiên thần Thánh Mẫu Thiên thần Thánh Mẫu

1 thần tích 1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích 1 thần tích

Q40 18/VI, 91 Q40 18/VI, 89

83.

3773

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 39

84. 85.

3781 3818

Thiên thần Liễu Hạnh Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích 1 thần tích

Q40 18/VI, 49 Q40 18/VI, 88

86.

3872

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 75

Quan Hạ (làng), tổng Văn Quan, huyện Lý Nhân, Hà Nam, 1938 Quan Trung (làng), tổng Văn Quan, huyện Lý Nhân, Hà Nam, 1938 Cao Xá (thôn), làng Thọ Yên, tổng Vũ Điện, phủ Lý Nhân, Hà Nam, 1938 Nội (thôn), làng Phú Ích, tổng Vũ Điện, phủ Lý Nhân Hà Nam, 1938 Đức Bản (làng), tổng Yên Trạch, phủ Lý Nhân, Hà Nam, 1938 Trạch (thôn), làng Sơn Nga, tổng Động Xá, huyện Thanh Liêm, Hà Nam, 1938

192

STT

Nơi thờ tự

Duệ hiệu tôn thần

Ký hiệu

Số đăng ký

Thần tích - thần sắc

87.

3915

Nhân thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 63

88.

3916

Nhân thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 64

89.

3960

Nhân thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 44

90.

3972

Nhân thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 37

Giáp Nhất (thôn), làng Kỷ Cầu, tổng Vũ Điện, huyện Thanh Liêm, Hà Nam, 1938 Giáp Nhì (thôn), làng Kỷ Cầu, tổng Vũ Điện, huyện Thanh Liêm, Hà Nam, 1938 Quy Lƣu (phố), làng Thị Xã, tổng Mễ Tràng, huyện Thanh Liên, Hà Nam, 1938 Trại (thôn), làng Ngọc Trì, tổng Mễ Tràng, huyện Thanh Liên, Hà Nam, 1938

Ninh Bình: 35 thôn/làng

91.

8556

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 53

92.

8599

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 30

93.

8738

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 38

94.

8748

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 44

95.

8757

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 42

96.

8763

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 44

97.

8775

Q40 18/XXVI, 52

Đái Nhân (làng), tổng Đa Giá, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938 Đại Phong (làng), tổng Yên Phong, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938 Đồn Điền (thôn), làng Phúc Lƣơng, tổng Lạng Phong, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Phong Lạc (phố), Lạng Phong (làng), phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Thái Sơn (thôn), làng Yên Mông, tổng Lạng Phong, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Lang Phong (làng), tổng Lạng Phong, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Tam Đồng (làng), tổng Lạng Phong, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938

Thiên thần Thƣợng Ngàn công chúa

98.

8817

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 29

Thƣờng Sung (làng), tổng Tam Đồng, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938

99.

8823

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 8

100.

8824

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 3

101.

8826

Chủ (thôn), làng yên Lại, tổng Văn Luận, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Đồi Khoái (thôn), làng Yên Lão, tổng Văn Luận, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Hái (thôn), làng Văn Luận, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích

Q40 18/XXVI, 2

193

STT

Nơi thờ tự

Duệ hiệu tôn thần

Ký hiệu

Số đăng ký

Thần tích - thần sắc

102.

8829

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 3

Linh Phƣợng (thôn), làng Yên Lão, tổng Văn Luận, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938

103.

8831

Nang (thôn), làng Văn Luận, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 2

104.

8838

Thiên thần Thánh Mẫu

Q40 18/XXVI, 8

105.

8850

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 10

106.

8880

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 38

107.

8882

Q40 18/XXVI, 42

Nhân thần Tam vị Thánh Mẫu phủ Sòng

108.

8892

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 38

1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích

109.

8920

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/XXVI, 18

Xa Rịa (thôn), làng Yên Lai, tổng Văn Luận, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Lại Các và Yên Lại (làng), tổng Văn Luận, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Hƣng Vƣợng (thôn), làng Phụng Công, tổng Bồng Hải, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938 Phƣơng Đình (thôn), làng Nho Lâm, tổng Bồng hải, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938 Phụng Công (làng), tổng Bồng Hải, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938 Phú Mỹ (làng), tổng Xuân Dƣơng, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938

110.

8931

Bồ Vy (làng), tổng Yên Liễu, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 26

111.

8949

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 2

Văn Thịnh (làng), tổng Yên Ninh, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938

112.

8995

Lại Hiền (làng), tổng Bạch Liên, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 60

113.

8996

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 59

114.

9013

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 87

Mã Chiến (làng), tổng Bạch Liên, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938 Lý Nhân (làng), tổng Đàm Khánh, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938

thần Liễu Hạnh,

115.

9027

Côi Khê (làng), tổng Lân Khê, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938

Q40 18/XXVI, 26

Thiên Thủy Tinh, Thƣợng Ngàn

116.

9052

Khƣơng Dụ (làng), tổng Quảng Phúc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích, 3 sắc phong 1 thần tích

Q40 18/XXVI, 50

194

Nơi thờ tự

Duệ hiệu tôn thần

Ký hiệu

STT

Thần tích - thần sắc

Số đăng ký

Tam vị Thƣợng ngàn

117.

9057

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 19

118.

9059

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 20

119.

9066

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 8

120.

9069

Q40 18/XXVI, 7

121.

9070

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVI, 4

1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích

122.

9075

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/XXVI, 42

1938 Đông Cao (làng), tổng Thần Phù, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938 Ngọc Lâm (làng), tổng Thần Phù, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938 Chùa (làng: tên nôm), làng Duyên Phúc, tổng Thổ Mật, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938 Hà Thành (làng), tổng Thổ Mật, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh Phƣơng Nại (làng), tổng Thổ Mật, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938 Đông (thôn), làng Cổ Lâm, tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938

123.

9082

Côi Trì (làng), tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938

1 thần tích

Q40 18/XXVI, 39

124.

9087

Thọ Thái (làng), tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938

1 thần tích

Q40 18/XXVI, 32

125.

9091

Yên Tế (làng), tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938

Nhân thần Tam vị Thánh Mẫu Nhân thần Tam vị Thánh Mẫu Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/XXVI, 43

Hải Dƣơng: 14 thôn/làng

126.

4415

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/IX, 46

127.

4417

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/IX, 46

Thái Khƣơng (làng), tổng Ngọc Cục, huyện Bình Giang, Hải Dƣơng, 1938 Thƣợng (làng: tên Nôm), làng Thái Khƣơng, tổng Ngọc Cục, huyện Bình Giang, Hải Dƣơng, 1938

1 thần tích, 1 thần tích,

128.

4596

Cửu Thành (phố), tỉnh Hải Dƣơng, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

129. 130.

4601 4617

Thiên thần Liễu Hạnh Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/IX, 15 Q40 18/IX, 14 Q40 18/IX, 15

131.

4786

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/IX, 20

Hàn Giang (phố), huyện Chí Linh, Hải Dƣơng,1938 Ninh Trấp (làng), tổng Đông Đôi, huyện Chí Linh, Hải Dƣơng, 1938 Bảng (thôn), làng Thanh Khai, tổng Phƣơng Duy, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dƣơng, 1938

thần Thiên Tiên

132.

4874

Q40 18/IX, 3

Thái Hòa (giáp), phố Đông Mỹ, thị xã Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng, 1938

Thiên Thánh Mẫu

1 thần tích, 1 thần tích, 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, 1 sắc phong

195

STT

Nơi thờ tự

Duệ hiệu tôn thần

Ký hiệu

Số đăng ký

Thần tích - thần sắc

133.

4875

Nhân thần Mẫu Phủ Dầy

1 thần tích

Q40 18/IX, 2

Thuần Mỹ (giáp) phố Đông Mỹ, thị xã Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng, 1938

134.

4878

Đông Kiều (phố) thị xã Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng, 1938

Nhân thần Liễu Hạnh

Q4018/IX, 1

135.

4882

Đông Thuần (phố), thị xã Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng, 1938

Q40 18/IX, 11

Thiên thần Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Nhân Thần Thánh Mẫu

136.

4886

Q40 18/IX, 41

Nhân thần Liễu Hạnh

137.

5606

Q40 18/IX, 28

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích, 2 sắc phong 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích

138.

5657

Q40 18/IX, 64

139.

5664

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/IX, 65

An Thái (làng), tổng Bất Nạo, huyện Kim Thanh, tỉnh Hải Dƣơng, 1938 Bía (làng: tên Nôm), làng Quảng Bí, tổng Ngọc Lâm, phủ Tứ Kì, tỉnh Hải Dƣơng, 1938 Hòa Nhuệ B (làng), tổng Tất Lại, phủ Tứ Kì tỉnh Hải Dƣơng, 1938 Rài (làng: tên Nôm), làng Tất Lại, tổng Tất Lại, phủ Tứ Kì, tỉnh Hải Dƣơng, 1938

Hà Đông: 13 thôn/làng

140.

2035

1 thần tích

Q40 18/II, 55c

141.

2148

Quế Dƣơng (làng), tổng Dƣơng Liễu, huyện Đan Phƣợng, Hà Đông, 1938 Hòa Mục (làng), tổng Dịch Vọng, phủ Hoài Đức, Hà Đông, 1938

Thiên thần Đế Thích Tiên Đình Liễu Hạnh công chúa Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

142.

2163

Phú Thứ (làng), tổng Đại Mỗ, phủ Hoài Đức, Hà Đông, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

143.

2312

Tây Hồ (làng), tổng Thƣợng, huyện Hoàn Long, Hà Đông, 1938

Nhân thần Liễu Hạnh

1 thần tích

144.

2358

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/II, 16 Q40 18/II, 30 Q40 18/II, 33 Q40 18/II, 31

145.

2381

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/II, 64

146.

2412

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/II, 78

147.

2856

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/II, 43

148.

2910

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/II, 75

Trại Đầm (làng: tên Nôm), làng Hanh Lợi, tổng Bột Xuyên, phủ Mỹ Đức, Hà Đông, 1938 Cút (làng: tên Nôm), làng Thƣợng Quất, tổng Phù Lƣu Tế, Mỹ Đức, Hà Đông, 1938 Rót (làng: tên Nôm), làng Phú Duy, tổng Trinh Tiết, Mỹ Đức, Hà Đông, 1938 Thụy Ƣng (làng), tổng Cổ Hiên, Phủ Thƣờng Tín, Hà Đông, 1938 Giền (làng: tên Nôm), làng Duyên Yết, tổng Thụy Phú, Thƣờng Tín, Hà Đông, 1938

196

STT

Nơi thờ tự

Duệ hiệu tôn thần

Ký hiệu

Số đăng ký

Thần tích - thần sắc

149.

2926

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/II, 85

Nhị Giáp (thôn), làng Đông Duyên, tổng Tín An, phủ Thƣờng Tín, Hà Đông, 1938

150.

3048

Phí Trạch (làng), tổng Đạo Tú, phủ Ứng Hòa, Hà Đông, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/II, 27

151. 152.

3066 4099

Tiêu thiều (làng), tổng Đạo Tú, phủ Ứng Hòa, Hà Đông, 1938 Hàng Hòm (phố), 2c quartier, thành phố Hà Nội, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh Thiên thần Mẫu Thoải

1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích 1 thần tích

Q40 18/II, 51b Q40 18/VI, 63

Thái Bình: 11 thôn/làng

153.

11043

Nhân thần Liễu Hạnh

Q40 18/VIII, 33

154.

11060

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VIII, 2

155.

11065

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VIII, 28

156.

11102

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VIII, 5

157.

11128

Nhân thần Liễu Hạnh

Q40 18/VIII, 14

Vè (làng: tên Nôm) làng An Vy, tổng Phƣơng Quan, huyện Đông Quan, Thái Bình, 1938 Hà Lão (làng), tổng Hà Lão, huyện Hƣng Nhân, Thái Bình, 1938 Chiều Quyến (làng), tổng Hiệu Vũ, huyện Hƣng Nhân, Thái Bình, 1938 Nhữ Khê (làng), tổng Tống Xuyên, huyên Hƣng Nhân, Thái Bình, 1938 Đào Xá (thôn), làng Đào Tạo, tổng Đào Xá, huyện Phụ Dực, Thái Bình, 1938

158.

11277

Sa Cát Lƣơng (làng), tổng Cát Đàm, phủ Thái Ninh, Thái Bình, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VIII, 60

159.

11420

Đông Trại (làng), tổng Trực Nội, phủ Thái Ninh, Thái Bình, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VIII, 101

160.

11495

Thanh Bản (làng), tổng Cự Lâm, huyện Thƣ Trì, Thái Bình, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VIII, 53

161.

11562

Lũ Phong (làng), tổng Cao Mỗ, phủ Tiên Hƣng, Thái Bình, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VIII, 45

162.

11707

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/VIII, 23

Trung Lang (làng), tổng Đông Thành, huyện Tiền Hải, Thái Bình, 1938

163.

11714

Nho Lâm (làng), tổng Tân An, huyện Tiền Hải, Thái Bình, 1938

Q40 18/VIII, 51

Thiên thần Đệ nhất, nhị, tam, tứ Thánh Mẫu

1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích 1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, 14 sắc phong

Phú Thọ: 8 thôn/làng

164.

9165

Hƣng Long (làng), tổng Cẩn Độ, phủ Đoan hùng, tỉnh Phú Thọ, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XVI, 43

165.

9166

Quả Cảm (làng), tổng Cẩn Độ, phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích,

Q40 18/XVI, 38

197

STT

Nơi thờ tự

Duệ hiệu tôn thần

Ký hiệu

Số đăng ký

166.

9168

Tân Tập (làng), tổng Cẩn Độ, phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XVI, 42

167.

9170

Văn Phú (làng), tổng Cẩn Độ, phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XVI, 37

Thần tích - thần sắc 2 sắc phong 1 thần tích 1 thần tích 1 sắc phong

168.

9200

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/XVI, 43

169.

9206

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/XVI, 4

170.

9585

Q40 18/XVI, 24

Xuân Áng (làng), tổng Ngọc Chúc, phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, 1938 Đồng Chiêm (thôn), làng Lang Đĩa, tổng Vân Nham, phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, 1938 Lãng Xƣơng (làng), tổng Tu Vũ, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, 1938

Nhân thần Đức Thánh Mẫu Tản

171.

4873

Nhân thần Liễu Hạnh

Q40 18/IX, 4

Phú Thọ (giáp), phố Đông Mỹ, thị xã Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng, 1938

1 thần tích 1 sắc phong 1 thần tích, 1 sắc phong

Hà Nội: 5 thôn/làng

172.

4111

Hàng Vải (phố), 2c quartier, thành phố Hà Nội, 1938

1 thần tích

Q40 18/VI, 67

173.

4114

Khán Xuân (phố), 6c quartier, thành phố Hà Nội, 1938

Q40 18/VI, 13

1 thần tích, 12 sắc phong

174.

4128

Thiên thần Liễu Hạnh Nhân thần Liễu Hạnh Thủy Tinh công chúa và Thiên thần Cửu thiên Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 17

175.

4203

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 58

176.

4215

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VI, 75

Sinh Từ (phố), 6c quartier, thành phố Hà Nội, 1938 Cổ Lƣơng (làng), tổng Đồng Xuân, huyện Thọ Xƣơng, Phủ Hoài Đức, Hà Nội, 1938 Sơ Trung (làng), tổng Phúc Lâm, huyện Thọ Xƣơng, Phủ Hoài Đức, Hà Nội, 1938

Quảng Yên: 5 thôn/làng

177.

10143

Hòa Hy (làng), tổng Đôn Lƣơng, huyện Cát Hải, Quảng Yên, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVII, 56

178.

10144

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVII, 64

Hoàng Châu (làng), tổng Đôn Lƣơng, huyện Cát Hải, Quảng Yên, 1938

179.

10177

Khoái Lạc (làng), tổng Hà Bắc, huyện Yên Hƣng, Quảng Yên, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXVII, 7

180.

10178

La Khê (làng), tổng Hà Bắc, huyện Yên Hƣng, Quảng Yên, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, 7 sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích

Q40 18/XXVII, 3bis

198

STT

Nơi thờ tự

Duệ hiệu tôn thần

Ký hiệu

Thần tích - thần sắc

181.

Số đăng ký 10190

Vị Dƣơng (làng), tổng Hà Nam, huyện Yên Hƣng, Quảng Yên, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/XXVII, 18

Yên Bái: 4 thôn/làng

182. 183.

12845 12854

Thiên thần Thƣợng Ngàn

1 thần tích 1 thần tích

Q40 18/XXXVI, 18 Q40 189/XXXVI, 40

184.

12858

Thiên thần Thánh Mẫu

1 thần tích

Q40 189/XXXVI, 36

185.

12860

Minh Quán (làng), tổng Bách Lãm, phủ Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh Đại An (làng), tổng Đông Cuông, phủ Trấn yên, tỉnh Yên Bái, 1938 Đông Cuông (làng), tổng Đông Cuông, phủ Trấn yên, tỉnh Yên Bái, 1938 Ngòi Hóp (làng), tổng Đông Cuông, phủ Trấn yên, tỉnh Yên Bái, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 189/XXXVI, 32

Hƣng Yên: 4 thôn/làng

186.

5960

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/XII, 14

187.

5987

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XII, 48

188.

6293

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XII, 9

189.

6332

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XII, 33

Thƣợng (thôn), làng Đào Xá, tổng Đặng Xá, phủ Ân Thi, Hƣng Yên, 1938 Hạ Lễ (làng) tổng Nhân Vũ, Phủ Ân Thi, Hƣng Yên, 1938 Hà Quang (thôn), làng Hà Linh, tổng Hoàng Tranh, huyện Phù Cừ, tỉnh Hƣng Yên, 1938 Thọ Lão (làng), tổng Viên Quang, huyện Phù Cừ, tỉnh Hƣng Yên, 1938

1 thần tích 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích , có sắc phong

Bắc Ninh: 4 thôn/làng

190.

605

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/IV, 68

191.

838

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/IV, 43

192.

1173

Q40 18/II, 38

193.

1323

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/IV, 53

Lâm Du (làng), tổng Gia Thụy, huyện Gia Lâm, Bắc Ninh, 1938 Vân Cần (làng: tên Nôm), làng An Trạch, tổng Phù Lƣơng, huyện Quế Dƣơng, tỉnh Bắc Ninh, 1938 Đông Trù (làng), tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, 1938 - 2 trang Thiên thần Liễu Hạnh Khúc Toại (làng), tổng Châm Khê, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh, 1938

1 thần tích 1 sắc phong, 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích, 1 sắc phong

Thái Nguyên 3 thôn/làng

194.

11829

Q40 18/XV, 8

195.

12099

Q40 18/XV, 34

Tràng Lang (làng), tổng Yên Lãng, huyện Đại Từ, Thái Nguyên, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh La Hiên (phố), làng La Hiên, tổng Vân Lăng, châu Vũ Nhai, Thái Nguyên, 1938

Thiên thần Thƣợng Thiên, Thƣợng Ngàn công chúa

196.

12102

Q40 18/XV, 28

Hích Min (thôn), làng Đặc Khê, tổng Vân Lăng, châu Vũ Nhai, Thái Nguyên, 1938

Thiên thần Thƣợng Ngàn công chúa

1 thần tích 1 thần tích, 2 sắc phong 1 thần tích, 1 sắc phong

Hà Tĩnh: 2 thôn/làng

197.

4291

Tam Xuân (làng), tổng Tam Xuân, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, 1937

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích,

Q40 18/XXI, 11

199

STT

Nơi thờ tự

Duệ hiệu tôn thần

Ký hiệu

Số đăng ký

198.

4294

Hậu Môn (làng), tổng Canh Hoạch, phủ Thạch Hà, Hà Tĩnh, 1937

Nhân thần Liễu Hạnh

Thần tích - thần sắc 1 sắc phong 1 thần tích

Q40 18/XXI, 16

Nghệ An: 2 thôn/làng

199.

8372

Yên Lại (làng), tổng Yên Lãng, phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An, 1937

Thiên thần Thánh Mẫu

Q40 18/VIII, 51

1 thần tích

200.

8446

Nhân thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/VIII, 6

Thƣợng (thôn), làng Kim Khê, tổng Kim Nguyên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, 1937

Bắc Giang: 1 thôn/làng

201.

320

Thiên thần Thánh Mẫu

Q40 18/V, 16

Bún (làng: tên Nôm), làng Phấn Trì, tổng Phấn Sơn huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, 1938

1 sắc phong, 1 thần tích

Hải Phòng: 1 thôn/làng

202.

5874

Thiên thần Liễu Hạnh

Q40 18/XXIV, 10

Hạ (làng: tên Nôm), làng Hạ Lý, tổng Quartier, thành phố Hải Phòng, 1938

1 thần tích, 6 sắc phong,

LaoKay: 1 địa điểm

203.

7079

LaoKay (làng), châu Bảo Thắng, tỉnh LaoKay, LaoKay 1938

1 thần tích

Q40 18/XXIV, 2

Thành Hoàng Thánh Mẫu Phủ Dầy

Sơn Tây: 1 thôn/làng

204.

10500

Vân Lôi (làng), tổng Đại Đồng, huyện Thạch Thất, Sơn Tây, 1938

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/III, 36

Thanh Hóa: 1 thôn/làng

205.

10735

Thiên thần Liễu Hạnh

1 thần tích

Q40 18/XXIII, 3

Chợ Dầu (làng: tên Nôm), tổng Du Trƣờng, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, 1937

Tuyên Quang: 1 thôn/làng

206.

12263

Chàng Đà (làng), tổng Yên Lĩnh, phủ Yên Sơn, Tuyên Quang, 1938

1 thần tích

Q40 18/XXVIII, 45

Thiên thần Mẫu Thoải (Thủy cung công chúa)

200

PHỤ LỤC 2: THƢ MỤC TƢ LIỆU HÁN NÔM LIÊN QUAN TỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIẾU HẠNH VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ QUA THƢ MỤC SÁCH HÁN NÔM (VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM)13

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

GIÁNG BÚT (KINH VÀ THƠ VĂN)

1.

AB.498

Giáp (1864)

Các tín chủ phụng san

Nôm và Hán

Thơ, văn... giáng bút của Tiên, Thánh, Phật…, khuyên làm điều lành, không cờ bạc, không hút xách...

Minh Đức chân kinh 明 德 真 經

Đàn Lạc Đạo in 1 bản in, 128 trang, 1 bạt

2.

Paris SA.PD.2343

Nôm và Hán

Thành Thái Canh Tý (1900)

Minh thiện quốc âm chân kinh 明 善 國 音 真 經

Văn giáng bút của đệ nhất (Công chúa Liễu Hạnh), đệ nhị và đệ tam Thánh Mẫu, khuyên thiện làm gốc: vợ kính chồng; trẻ giúp già, con thờ kính cha mẹ, em tôn trọng anh; trong nhà ngoài làng nói năng phải theo đúng đạo lí.

Đàn Khuyến Thiện, Đồng Lạc, Nam Định in 1 bản in, 144 trang, 1 dụ, 1 tán

Hoàng Trác Quan// 黃 卓 冠 , Phan Doãn Chấp// 潘 允 贄 , Trần Xuân Bảng// 陳 春 榜 ghi chép.

tín nữ

3.

Hán

A.1249 b/1 - 3

Các phụng san

Thành Thái Giáp Thìn (1904)

Vân Hƣơng Liễu Hạnh công chúa tâm căn chân kinh 雲鄉柳杏公主心 根真經

Đàn Khuyến Thiện, Đồng Lạc, Nam Định in 1 bản in, 198 trang

A.1249 b/1 - 3. A.1249 b/1 gồm: 1.Vân Hƣơng Liễu Hạnh Công Chúa tâm can chân kinh (52 trang): Kinh giáng bút của Công Chúa Liễu Hạnh khuyên mọi ngƣời phải rèn luyện tâm tính. A.1249 b/2: A.1249 b/3:

4.

AB.143

Nôm

Thành Thái 16 (1904)

Các tín chủ phụng san

Văn giáng bút của Vân Hƣơng Thánh Mẫu khuyên sống hiếu dễ, trung tín, nói nãng cẩn thận, dạy con cái biết quý thóc gạo… 39 bài ca, huấn… của Phạm Văn Toán, Vƣơng Duy Trinh… Bản Thánh tích.

Tăng Quảng Minh Thiện quốc âm chân kinh 增 廣 明 善 國 音 真 經

Đồng Lạc, Khuyến Thiện Đàn in, 1 bản in, 228 trang, 1 tựa, 1 bạt

5.

Nguyên Từ quốc AB.436

Thành Thái Các tín chủ Nôm

Thơ ca khuyến huấn,giáng bút của thánh mẫu, công chúa, tiên AB.436: đền

13 Tham khảo: Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thƣ mục đề yếu, Di sản Hán Nôm - Thƣ mục đề yếu (bổ di) và http://www.hannom.org.vn/

201

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

phụ san

AB.253 AB,459

mệnh

trong

thổ

lập

lập mệnh mẫu quốc chân âm kinh 元 慈 國 母 立 命 國 音 真 經

phật…, khuyên sống hiếu đễ, trung tín khoan hoà... tránh bạc ác, ghen ghét lẫn nhau. Xem thêm phần Nguyên từ quốc mẫu lập mệnh quốc âm chân kinh kinh địa VNV.167 từ trang 46.

Niên đại định bản Giáp Thân (1904) Bính Ngọ (1906) Đinh Mùi (1907)

6.

Hán

Các tín chủ phụng san

A.2412 A.2475 A.2585

Tam vị Thánh Mẫu thế cảnh chân kinh 三 位 聖 母 警 世 真 經

Văn giáng bút (cáo, tán, kinh, kệ…) của Vân Hƣơng Thánh Mẫu, Mai Hoa Công Chúa và Thƣợng Ngàn Công Chúa khuyên làm điều thiện, bỏ điều ác. A. 2412 và A. 2585 đều do Hƣớng Thiện Đàn khắc in. Bản A. 2585 khắc theo bản A. 2412.

A.2412: Thành Thái Bính Ngọ (1906) A.2475: Thành Thái Bính Ngọ (1906) A.2585: Duy Tân 1 (1907)

in

7.

AB.246

Nôm

Các tín chủ phụng san

Tân Duy Mậu Thân (1908)

Linh tâm quốc âm chân kinh 零 心 國 音 真 經

52 bài tựa, dụ, ca, thơ, ngâm, dẫn... giáng bút của các Thánh Mẫu, Công Chúa... khuyên ngƣời đời (chủ yếu là phụ nữ) hiếu nghĩa, tiết hạnh, giữ luân thƣờng, làm điều thiện, bỏ điều ác... Bảng kê tên nhiều ngƣời viết chữ, khắc ván và đóng góp kinh phí để in sách.

Hƣơng Sơn, Bắc Ninh in, 106 trang AB.253: Lạc Khuyến đƣờng in, 100 trang AB.459: Công Thiện Đƣờng Hà Nội in, 76 trang 36 A.2412: trang, 1 tựa in tại Chùa Hƣng Phúc, Bắc Ninh, 36 trang 30 A.2475: in trang, tại Thiên Chủ Sơn đƣờng, Tây, 30 trang 36 A.2585: trang, 1 tựa Công Thiện Đƣờng in, 36 trang Hội Lạc Thiện tại Khắc Hòa Xuân xã đƣờng, Xuân Cốc, tổng Bắc Tạ,

202

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Nôm

8.

AB.260

Duy Tân 2 (1908)

Các tín chủ phụng san

94 bài văn, thơ giáng bút của Công chúa Liễu Hạnh và chƣ tiên, khuyên về những điều trung hiếu, tiết nghĩa, đức hạnh...

Chí đạo quốc âm chân kinh 志道國 音 真 經

9.

Các tín chủ phụng san

Hán và Nôm

A.2888 A.1348

Duy Tân Mậu Thân (1908)

Nhật tụng luyện thần chân kinh 日 誦 練 神 真 經

Kinh tụng niệm hàng ngày để luyện cho tinh thần trong sáng, tâm trí yên tĩnh... Sách gồm các chƣơng: Lạc thiện với việc thiện), An mệnh (ở yên với mệnh của mình), Tiết tính (kiềm chế cá tính của mình), Đào Tình (rèn luyện lòng yêu, ghét, vui, buồn, ham muốn, giận dữ, ƣa thích), Tồn chân (giữ bản tính tự nhiên), Khử ngụy (bỏ điều giả dối), Thủ nhân (giữ điều nhân), Bảo nghĩa (giữ điều nghĩa), Hoài hiếu (ấp ủ đạo hiếu), Tƣ đễ (nghĩ đến tình anh em), Đốc tín (dốc lòng tin), Tri lễ (biết điều lễ), Lệ liêm (cố gắng giữ điều liêm khiết), Tri sỉ (biết điều nhục), Lí khiêm (sửa đức khiêm nhƣờng)... Thơ giáng bút của Tiên, Thánh

10.

AB.242

75 bài giảng bút (thơ, ca, phú, vịnh…) của Phật, Thánh, Tiên khuyên làm điều thiện, tu dƣỡng đạo đức

Các tín chủ phụng san

Duy Tân 3 (1909)

Nôm và Hán

Bách tƣờng hoa chân kinh 百祥 花 真涇

huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dƣơng. 1 bản in, 168 trang Hƣớng Thiện đƣờng, xã Lê Hải Xá, Dƣơng in, 1 in, 122 bản trang, 1 tựa, 1 bạt A.2888 Đền Thủ Thiện Nam Định in 1 bản in, 1 bản viết, 1 bản tựa, 1 bạt, 1 dẫn, 1 phàm lệ, 1 tán, 1 mục lục, có hình vẽ, 176 trang A. 1348, 14 trang. Vi Thiện Đàn ở Đa Phúc, Phúc Yên. 1 in, 90 bản trang, 4 bài chỉ thị, 1 tựa, 1 bạt Duy Tân Kỉ Các tín chủ Nôm và Thơ, ca, huấn, văn giáng bút, thể thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ Vĩnh

Phong

11.

Trạch thiện chân AB.529

203

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

phụng san

Hán

tuyệt và 6-8, nhằm khuyên làm việc thiện, bỏ việc ác.

Niên đại định bản Dậu (1909)

kinh 擇善真涇

in, Ngũ Thạch Sơn 152

12.

AB.244

Nôm

Duy Tân 3 (1909)

Các tín chủ phụng san

205 bài thơ, ca, ngâm, kệ, huấn, dụ, phú... giáng bút của Tiên, Phật, Thánh, chúa... khuyên sống trung hiếu, tiết nghĩa, làm điều thiện, bỏ điều ác, chăm đọc kinh…

Mai Hoa điểm tuyết chân kinh 梅 花 點 雪 真 經

13.

A.2522

Hán

Các tín chủ phụng san

Long phi Nhâm Tuất (1922)

Liệt thánh châm biếm chân kinh 列 聖 鍼 砭 真 經

217 bài gồm thi, thoại, thị, dụ, châm, tán, ca, văn, kệ... giáng bút của Trần Hƣng Đạo, Phạm Ngũ Lão, thái Thƣợng Lão Quân, Ddức Thánh Mẫu, công chúa... khuyên giữ luân thƣờng đạo lí , tránh làm điều ác.

14.

AB.560/a-b

Các tín chủ phụng san

Nôm và Hán

Duy Tân Canh Tuất (1910)

Thơ, ca, phú, tựa, bạt, dẫn... giáng bút của Thánh Mẫu, Tiên Cô, Công Chúa... khuyên trung, hiếu, giữ đạo luân thƣờng, khuyên phụ nữ giữ đạo tam dòng, tứ đức...

Lƣơng tâm quốc kinh chân âm 良 心 國 音 真 經

trung chân

15.

AB.515

Các tín chủ phụng san

Nôm và Hán

Trí kinh 致中真涇

Duy Tân Canh Tuất (1910)

126 bài thơ, văn giáng bút, thác danh Tiên, Thánh, Phật, Đế Quân, Công Chúa… khuyên bồi dƣỡng nết tốt, chăm làm việc, tránh cờ bạc, rƣợu chè, đó là con đƣờng tốt nhất để đi lên cõi phúc.

đàn Xá, Thất, Tây, trang. Đàn Phúc Thiện, Bắc Giang in, 1 in, 162 bản trang, 1 tựa, 1 bạt Đàn Khuyến Thiện, Khoái Châu, Hƣng Yên in, 172 trang Hội Tập Thiện, huyện Tiên Lãng, Kiến An in. 1 bản in, 152 trang, có ảnh Thánh Mẫu 1 bản in, 162 trang, có 4 bức vẽ cùng lời tán (tƣợng tán), 1 kinh tán, 1 tựa, 1 mục lục, có chữ Hán.

204

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

AB.225/1-2

16.

Canh Tuất (1910)

Các tín chủ phụng san

Nôm và Hán

Hơn 130 bài thơ, ca, ngâm, phú… giáng bút của Đổng Thiên Vƣơng, Tản Viên Đại Vƣơng, Hai Bà Trƣng, Đức Thánh Trần Hƣng Đạo, Vân Hƣơng Thánh Mẫu… khuyên hiếu nghĩa, tôn trọng đạo đức, tránh xa hoa, xu nịnh…

Hƣớng Thiện Đàn in. 1 bản in, 122 trang, 1 tựa, 1 dẫn, 1 bạt

Giả Vƣơng Hƣơng Nam Âm chân kinh 王者香 南音真經 (Vƣơng Giả Hƣơng 王 者 香)

17.

Hán

Paris.SAPD. 2346

Các tín chủ phụng san

Văn giáng bút khuyên ngƣời đời làm theo các điều trung, hiếu, tiết nghĩa và nhân, nghĩa, lễ, trí

Tân Duy Canh Tuất (1910)

linh Thiên Nam giáng chân kinh 天南靈降真經

18.

AB.250

Duy Tân 5 (1911).

Nôm và Hán

Thiên thu kim giám chân kinh 天 秋金鑑真經

75 bài thơ, ca, tán… giáng bút của Trần Đại Vƣơng (Trần Hƣng Đạo), Phạm Điển Súy (Phạm Ngũ Lão), Cao Sơn Đại Vƣơng, Vân Hƣơng Thánh Mẫu (Liễu Hạnh)… khuyên ngƣời đời bỏ đƣờng tà dục, quay về với thiện đạo để đƣợc hƣởng phúc lâu dài.

19.

AB.249

Nôm

Duy Tân 5 (1911)

Các tín chủ phụng san

Kim giám chân kinh 金 鑑 真 經

Các bài thơ, ca, ngâm, từ, phú, thoại, thuyết, tán tự của Tiên, Phật, Thánh, Công chúa... khuyên mọi ngƣời tránh rƣợu chè, cờ bạc, trai gái, tham lam. Khuyên tăng ni đúng năm diều răn (ngũ giới) của nhà Phật; khuyên thợ thủ công trau dồi nghề nghiệp cho tinh xảo để truyền lại đời sau.

20.

AB.243

Nôm

Duy Tân 5 (1911)

Các tín chủ phụng san

Văn, thơ, phú, luận, kệ, chú... giáng bút của Phật, Thánh, Thần, Tiên... khuyên làm điều lành, tránh điều ác.

hồi luật Ngọc xuân chân kinh 玉 律 回 春 真 經

Lễ Học đƣờng Hƣơng ở Sơn Canh, Thạch in. 1 bản, 90 trang Lạc Hƣớng Hợp Đƣờng, Thái Nguyên in 1 bản in, 90 trang, 25 x 15, 2 tựa, 1 dẫn, 1 bạt, 1 mục lục, có chữ Hán Thiện Tập in. 1 Đƣờng bản in, 116 trang. 1 tựa, 1 bạt, 1 dẫn Đàn Bảo Thiện, Bắc Lí, Việt Yên, Bắc in. 1 Giang bản in, 58 trang, 1 tựa, 1

205

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

21.

AB.245

Nôm

Duy Tân 5 (1911)

Các tín chủ phụng san

Ngọc Thành Nam âm chân kinh 玉 成 南 音 真 經

Thơ, phú, ca, luận... Giáng bút của Thánh, Tiên, Phật... khuyên giữ tính tốt, bỏ tính xấu, chớ ham mê rƣợu chè, sắc dục; chớ buôn bán lứa đảo, gian lận...

22.

AB.561

Tân Hợi

Các tín chủ phụng san

Nôm và Hán

Duy Tân (1911)

163 bài thơ, ca, phú, giáng bút của Phật, Tiên, Thánh… khuyên ngƣời đời tỉnh cơn mê, bỏ thói xấu, xa sắc dục, tránh rƣơu chè, làm điều lành, sửa mình trở nên ngƣời tốt tính

Tỉnh mộng chân kinh hạ tập 醒夢 真經下集

23.

AB.263 AB.257

Duy Tân 5 (1911)

Các tín chủ phụng san

Nôm và Hán

Khoảng 200 bài thơ, ca, ngâm, huấn giáng bút của các vị Thần, Thánh, Tiên, Phật khuyên sống có đạo đức, gắng làm điều thiện để hƣởng phúc lâu dài…

Vạn quy hóa nguyên chân kinh 萬化歸原真京

24.

AB.250

Duy Tân 5 (1911)

Các tín chủ phụng san

Nôm và Hán

Thiên thu kim giám chân kinh 天 秋金鑑真經

75 bài thơ, ca, tán… giáng bút của Trần Đại Vƣơng (Trần Hƣng Đạo), Phạm Điển Súy (Phạm Ngũ Lão), Cao Sơn Đại Vƣơng, Vân Hƣơng Thánh Mẫu (Liễu Hạnh)… khuyên ngƣời đời bỏ đƣờng tà dục, quay về với thiện đạo để đƣợc hƣởng phúc lâu dài.

tấu Đàn Học Đạo, thôn Vƣơng Thiều, Đông huyện Lỗ, Việt Yên, Bắc Giang. 1 bản in, 68 trang Thiện Lạc Đàn, Thái Bình in. 1 bản 178 viết, trang, 1 tựa, 1 bạt Lạc Hƣớng đƣờng, Hợp huyện Đồng Hỉ, tỉnh Thái Nguyên in AB.263:nội tập 84tr AB.257: ngoại tập, 88 tr Lạc Hƣớng đƣờng, Thái Nguyên in, 1 bản in, 90 trang, 2 tựa, 1 dẫn, 1 bạt, 1 mục lục

206

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Hợi

25.

A.261

Tân (1911)

Các tín chủ phụng san

Hán và Nôm

Văn giáng bút: thơ, ca, vịnh, ngâm, giải... của Thiên Vƣơng, Thánh Mẫu, Công Chúa... khuyên tu nhân tích đức, tránh điều ác, chăm làm việc thiện.

Phúc địa tài hoa chân kinh 福 地 裁 花 真 經

26.

AB.252

Duy Tân 5 (1911)

Các tín chủ phụng san

Nôm và Hán

109 bài thơ, ca, phú thác danh Tiên, Thánh, Vƣơng Mẫu, Công Chúa... khuyên ngƣời đời làm điều thiện, bỏ điều ác.

Càn khôn định vị chân kinh 乾坤定 位真經

Đàn Phƣơng Lan, xã Bác tổng Vọng, Tăng Long, phủ Đa Phúc, Phúc Yên in. 1 bản in, 84 trang, 1 tựa, 1 bạt Chính Thiện (Bắc Đƣờng in. 1 Giang) bản in, 128 trang 1 bạt, 1 dẫn, 1 chỉ thị, 1 mục lục

27.

AB.525

Tân Tân

Nôm

Văn giáng bút của Thiên Tôn, Tây Vƣơng Mẫu, Quan Thánh Đế, Trần Hƣng Đạo, khuyên làm điều lành, tránh điều ác.

Duy năm Hợi (1911)

Minh Tâm độ kiếp chân kinh 明 心 度 劫 真 經

Quan Đền Thánh, Hà Nội in 1 bản in, 142 trang

Nguyễn Tƣờng, Nguyễn Đào, Phạm Nhân biên soạn

28.

AB.503

Duy Tân 6 (1912)

Các tín chủ phụng san

Hán và Nôm

Bảo xích tục biên chân kinh 寶赤續 編真經

80 bài thơ, ca, tán, dụ, huấn văn, chỉ thị do Thánh Mẫu, Quốc Mẫu, Tiên, Thánh giáng bút, khuyên giữ đạo hiếu trung, lƣơng thiện, nhƣờng nhịn... Bài tán Cúc Hoa Công Chúa, Bạch Hoa Công Chúa, Hoàng Mai Công Chúa...

Thiện Hội Đàn, Hải Dƣơng in lại theo nguyên bản của Phổ Thiện Đƣờng, Thái Bình. 1 bản in, 198 trang, 1 bạt, 3 tán, 13 bài chỉ thị, 1 huấn

207

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

29.

AB.504

Các tín chủ phụng san

Nôm và Hán

Khải Định Kỉ Mùi (1919)

Chính Hải in, 1 in, 196

Chấp trung quốc âm chân kinh 執 中國音真經

Văn giáng bút của Quan Thánh Đế Quân, Vân Hƣơng Thánh Mẫu, Ngũ Lĩnh Đại Tiên... bằng thơ, ca, từ, dụ, ngâm, thoại, huấn, phú... khuyên bỏ điều ác, làm điều thiện, yêu thƣơng nhau... Có trích dẫn nhiều câu ca dao, tục ngữ nói về cách sống, cách đối nhân xử thế.

30.

AB.502

Khải Định 8 (1923)

Nôm và Hán

Thơ, ca, huấn giáng bút của Phật, Tiên, Thánh, Đức Chúa... khuyên dạy phụ nữ về công, dung, ngôn, hạnh, trung, hiếu...

Khôn nghi chân kinh 坤儀真經

31.

VHv.1076

Bảo Đại Ất Hợi (1935)

Hán và Nôm

Thơ, câu ðối, chiếu, ca, tán… của Thần, Thánh… khuyên rèn luyện tâm tính ðể hƣởng phúc lành. Bài ca Nôm cầu nguyện cho ngƣời sống và độ trì cho ngƣời chết

Tâm pháp thiết yếu chân kinh 心 法 切 要 真 經

văn, 1 dẫn, 1 biểu tạ, 3 hình vẽ Đức Thánh Mẫu Đàn Tâm, Dƣơng bản trang, 1 tựa. Đền Tam Thánh Hà nội 1 bản in, 114 trang, 1 tựa, 1 bạt 1 bản in, 100 trang, 1 mục lục, 1 phàm lệ, 1 tựa, 1 dẫn

32.

AB.505

Đầu thế kỷ XX

Nôm và Hán

1 bản viết, 130 trang, 1 tựa, 1 dụ

Vạn bảo Quốc âm chân kinh 萬寶國 音真京

60 bài thơ, ca, ngâm, huấn giáng bút của các bậc Thánh, Thần: Trần Hƣng Đạo, Trình Quốc Công, Tản Viên Đại Vƣơng, Vân Hƣơng Thánh Mẫu… khuyên ăn ở hiếu trung, hoà thuận, tin cậy lẫn nhau, giữ vững tƣ cách đạo đức, không đam mê cờ bạc rƣợu chè, cố gắng tu dƣỡng thành ngƣời tốt

33.

AB.262

Đầu thế kỷ XX

Nôm và Hán

85 bài giáng bút (thơ, ca, ngâm, dụ, biểu…) của Tiên, Phật, Thánh… khuyên nên tu nhân tích đức, ở hiền sẽ đƣợc gặp lành…

Thiên hoa phóng nhị Nam âm chân kinh 天花放蕊南 音真經

34.

AB.520

Hán

Đầu thế kỷ XX

85 bài kinh, thơ, ca, ngâm huấn giáng bút của 26 vị Thần, Thánh, Tiên, Phật… khuyên chớ ngông cuồng, mê muội, phải tu tỉnh để vƣợt qua lỗi lầm và hƣởng phúc lâu bền…

Thƣơng hải độ mê chân kinh 傷海度 迷真經

1 bản in, 180 trang 1 tựa, 1 bạt, 1 mục lục Tam Đền Thánh, Nam Định in, 1 bản in, 106 trang,

208

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

1 tựa, 1 dẫn, 1 mục lục

35.

AB.258

Nôm

Đầu thế kỷ XX

Văn giáng bút của các Đại Vƣơng, Thánh Mẫu, Tƣớng Quân, Đế Quân, Công Chúa... khuyên giữ tính thiện, theo thuần phong mĩ tục, thận trọng trong việc làm.

1 bản viết, 70 trang 1 tựa, 1 mục lục

36.

AB.519

Đầu thế kỷ XX

Nôm và Hán

Kinh giáng bút của thần thánh (soạn theo các thể 6 - 8, ngâm, vịnh, từ, thị, thoại, hát nói... ) khuyên giữ đạo, hết lòng đền ơn cha, mẹ, vua, thầy...

Phách Nguyệt âm kinh chân dƣơng toàn tập 月 魄 真 經 陰 陽 全 集 Báo ân quốc âm chân kinh 報恩國 音真經

tâm kinh

37.

VHv.1091

Hán

Các tín chủ phụng san

Thanh 清心經

Thành Thái Giáp Thìn (1904)

Thơ văn giáng bút ( 23 bài thoại, 16 bài dụ, 13 bài thơ, 1 bài từ, 1 bài văn ) của Quan Thánh Đế Quân, Huyền Thiên Trấn Vũ, Vân Hƣơng Liễu Tiên, Thành Hoàng, Minh Vƣơng… khuyên không nên chạy theo danh lợi, sắc dục, phải ra sức trau dồi bản thân để thành ngƣời tốt

38.

AB.355

Hán

Duy Tân 2 (1908)

Các tín chủ phụng san

Bản thiện kinh ản 本善經

Kinh giáng bút của Thiên Vƣơng, Tiên, Chúa, Thánh, Thần... gồm 118 bài thơ, ca, ngâm, phú, văn, thán, tán, chỉ thị... khuyên tu thân, lập chí, tỉnh mê, sửa lỗi, nhẫn nại...

tại

39.

AB.264

Duy Tân 2 (1908)

Các tín chủ phụng san

Nôm và Hán

120 bài kinh giáng bút gồm: thơ, ca, phú, bạt, kê, từ… của Tiên, Thánh.. khuyên làm ðiều thiện, tránh điều ác, thuận theo lẽ tự nhiên. Nhiều bài có lời bình bằng chữ Hán.

Tam ngũ trình tƣờng quốc âm kinh 三 五 呈 祥 國 音 經

1 bản in, 66 trang, 1 tựa, 1 mục lục Công Thiện chùa đƣờng, Phúc Liên in, 1 bản in, 160 trang, 23 bài dụ, 13 bài thơ, 1 bài từ, 1 bài văn, 1 tựa, 1 dẫn, 1 mục lục Đền Phổ Tế, Hà Đông. 1 bản in. 208 trang, 1 mục lục, 1 dẫn, 1 bạt đàn In Hoa, Thiên Phúc Yên, 1 bản in, 116 trang

40. Minh đạo thƣợng A.2385

Duy Tân 3 Các tín chủ Nôm và Thơ, ca, ngâm thoại... giáng bút của các bậc Thánh, Đế, Đàn An Thiện

209

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

(1909)

phụng san

Hán

Vƣơng... khuyên ngƣời làm điều thiện, tránh điều ác.

kinh 明 道 上 經

41.

AB.139

Duy Tân 3 (1909)

Các tín chủ phụng san

Nôm và Hán

Hợp biên kinh Lập mệnh tiết yếu, gồm các bài thơ, văn, ca phú... giáng bút của Tiên, Thánh khuyên ngƣời đời trung, hiếu, thuận, giữ lễ và tín, tránh rƣợu chè, cờ bạc, sắc dục.

in. 1 bản in, 186 trang, 1 tựa, 1 mục lục Tam Đền Thánh, Hà Nội. 1 bản in, trang 1 92 lục, có mục chữ Hán

42.

A.1997

Nôm

Các tín chủ phụng san

Văn giáng bút của Thánh Mẫu khuyên làm điều nhân, nghĩa, lễ, trí và xa lánh lợi, dục, tửu, sắc.

Duy Tân 6 (1912)

43.

A.2494

Nôm

Khải Định 6 (1921)

Các tín chủ phụng san

Văn giáng bút của Thánh Mẫu khuyên làm điều nhân nghĩa, lễ trí, xa lánh lợi, dục, tửu, sắc.

1 bản. in tại Thái bình, 62 trang. 1 bản in, 78 trang tại Đàn Hoa Thiện

Kê lập chính mệnh minh thiện nhị kinh tiết yếu hợp biên 乩正 立 命明善二經節要 合編 Phổ độ âm dƣơng bảo kinh 普 度 陰 陽 寶 經 Phổ độ âm dƣơng bảo kinh 普 度 陰 陽 寶 經

tân

44.

AB.524

Nhâm Tuất (1922)

Hán và Nôm

Hóa ngoan kinh 化頑新經

Đàn Đăng Thiện ở Hải Đông ghi. 1 in, 156 bản trang, 4 tựa

Văn giáng bút của Quan Thán Đế Quân, Văn Xƣơng Đế Quân, Lã Tổ, Tản Viên Đại Vƣơng, Phật Quan Âm, Công Chúa Thƣợng Ngàn; Thánh Mẫu Vân Hƣơng.. viết dƣới hình thức tự, dụ, ca bằng chữ Hán và chữ Nôm, nhằm khuyên tu sửa tâm tính ngay từ khi còn nhỏ, siêng năng học tập, chăm chỉ làm ruộng, làm thợ, phải thật thà, sửa bỏ mọi tội lỗi…

in Đàn

45.

VHv.42

Hán

Bách hạnh thiện thƣ 百行善書

Thành Thái Tân Sửu (1901)

Văn giáng bút của Văn Xƣơng Đế Quân, Chu Hi, Văn Thiên Tƣờng, Trần Hƣng Đạo, Liễu Hạnh Công Chúa khuyên nên kính sợ mệnh trời, tu dƣỡng đạo đức.

Tƣơng Mai Nguyễn Mạnh Gia sao

Theo bản của Khuyến Thiện, Đồng Lạc, Nam Định 1 bản viết, 102 trang, có 2 tựa, 1 luận, 1 bạt

210

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

46.

Hán

AC.266 AC.238

Các tín chủ phụng san

Văn đế bách hạnh thiên 文帝百行篇

Thành Thái Sửu Tân (1901)

Sửu

Hơn 100 bài thơ giáng bút, khuyên phải biết sợ mệnh trời, lễ độ với thần minh, có hiếu với cha mẹ, trung với vua, để chí ở thánh hiền, trung thành với đạo học …

Tam Hà

47.

A.2476

Thánh Thái 17 (1905)

Các tín chủ phụng san

Nôm và Hán

Thanh tâm đồ 清 心圖

Trên 100 bài giáng bút ( thơ ca, kệ, từ, tán, huấn… ) của Tiên, Thánh, Thần, Phật ( Quan Thánh Đế Quân, Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử, Chu Hi… ) khuyên giữ đạo cƣơng thƣờng, tích thiện trừ ác, thận trọng trong lời nói và việc làm, cha mẹ phải nãng dạy con cái trở thành ngƣời tốt…

48.

Nôm

AB.644 MF.1682

Tỉnh mê phú 醒迷 賦

Thành Thái Ất Tị (1905)

Văn giáng bút của Vân Hƣơng Thánh Mẫu (Liễu Hạnh) khuyên ãn ở phải đạo. Có sử dụng nhiều ca dao, tục ngữ, nhƣ “cha chung không ai khóc”, “mẹ hát con khen hay”, “lấy chồng cho đáng tấm chồng”…

49.

Vnv.529

Nôm

Các tín chủ phụng san

Tam bảo quốc âm 三 寶 國 音

Thành Thái Bính Ngọ (1906)

Thơ ca, huấn giáng bút của Vân Hƣơng Thánh Mẫu (Liễu Hạnh), Liên Hoa Công Chúa, Quỳnh Hoa Công Chúa, Hai Bà Trƣng…khuyên phụ nữ sống theo ðạo dức truyền thống.

in, 1 2 bản tựa, 1 bạt, một số hình vẽ. AC.266: 132 trang, Khuyến Thiện Đƣờng (Nam Định) in năm Thành Thái Tân (1901). AC.238: 122 trang, Kế Thiện Đƣờng (Hải Dƣơng) in năm Duy Tân 2 (1908) Đền Thánh, Nội in 1 bản in, 256 trang, 4 tựa, 1 dần Ván khắc tại đến Ngọc Sơn, Hà Nội, 1 bản in, 14 trang Hoa Thiên đƣờng, xã Đông Đồ in. 1 bản in, 144 trang

211

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

50.

AC.238

Hán

Duy Tân 2 (1908)

Các tín chủ phụng san

Thiện in. 1 in, 122

Văn đế bách hạnh thiên 文帝百行篇

Hơn 100 bài thơ giáng bút khuyên phải lễ độ với thần minh, có hiếu với cha mẹ. Trong có 6 chƣơng giáng bút của Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vƣơng Đệ nhất Thánh Mẫu Liễu Hạnh khuyên ngƣời phụ nữ giữ đạo đức, công dung ngôn hạnh

51.

AB.237

Nôm

Canh Tuất (1910)

Các tín chủ phụng san

Hồi xuân bảo tập 回 春 寶 集

63 bài thơ, ca, phú, dụ, thán, luận... giáng bút của Tam Thánh, Liễu Hạnh khuyên làm điều lành, bỏ điều ác, coi trọng trung hiếu, tiết nghĩa.

Kế Đƣờng bản trang Đàn Phổ Thiện, xã Xuân Kì, huyện Kim Phúc Anh, Yên in 1 bản, 106 trang, 1 tựa, 1 bạt

52.

VNv.166

Duy Tân 4 (1910)

Các tín chủ phụng san

Nôm Hán

Thiện (Nam in. 1 in, 212

Văn Đế bách hạnh thiên diễn nghĩa 文帝百行篇演義

Khai Đàn Định) bản trang

Diễn Nôm các lời khuyên của Văn Xƣơng Đế Quân: đối với mẹ cha phải biết hiếu đễ; ăn ở phải biết trung tín, cần kiệm, liêm sỉ, có nhƣ vậy mới hƣởng phúc lâu dài. 6 bài ca của Vân Hƣơng Thánh Mẫu (Liễu Hạnh) nói về công, dung, ngôn, hạnh. Có chú giải chữ khó và điển tích.

53.

AB.302

Duy Tân 4 (1910)

Các tín chủ phụng san

Nôm và Hán

Thơ, ca… giáng bút của các Tiên, Thánh, Đế Quân, Thánh Mẫu đời Trần… khuyên ngƣời đời nên làm điều lành, bỏ điều ác…

Thiên trƣờng cung huấn 天長宮訓

54.

AB.501

Duy Tân 6 (1912)

Các tín chủ phụng san

Hán và Nôm

131 bài thơ, ca, tán, huấn... giáng bút của Phật, Thánh, Tiên Chúa... dạy về công, dung, ngôn, hạnh.

Phƣợng sơn nữ kính bảo lục 鳳 山 女 鏡 寶 錄

55.

A.2630

Thành Thái - (1889

Các tín chủ phụng san

Hán và Nôm

Thơ giáng bút của Phật, tiên, thánh... vào các năm Thành Thái (1889-1907) và Duy Tân (1907-1916), khuyên làm điều lành,

Tính Phản in, 1 đƣờng bản in, 70 trang. 1 mục lục, 1 tựa, 1 tiểu dẫn Quang Hi in. 1 đƣờng bản in, 144 trang, 1 tựa, 3 chỉ thị, 1 thoại 1 bản viết, 402 trang

Kê bút văn sao tập 乩筆文抄集

212

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

tránh điều ác.

và Tân -

1907) Duy (1907 1916)

56.

A.2521

Hán

Khải Định 7 (1922)

40 bài thuốc giáng bút bằng thơ 5 chữ của Vân Hƣơng Thánh Mẫu (Liễu Hạnh).

Thọ in. 1 in, 66

Thọ thế phƣơng đan 壽世方丹

Xuân Đƣờng bản trang, 1 tựa

PHẢ LỤC

57.

Hà phu

Hán

Gia Long 10 (1811)

Hồng Đoàn nhân soạn

In từ bản khắc của Lạc Thiện Đƣờng

Những chuyện kì lạ do Đoàn Thị Điểm sƣu tầm (tiếp sau Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ): Ngƣời liệt nữ ở An Ấp; Cuộc gặp gỡ lạ lùng ở Bích Câu… Trong câu chuyện, thƣờng có xen thơ ca, từ khúc, với một vài chú thích khi cần, và có lời phẩm bình của Đạm Nhƣ Phủ, anh của Hồng Hà Đoàn Thị Điểm. Trong tập này có Vân Cát thần nữ lục

Truyền tân phả 傳 奇 新 譜 [Tục truyền kì lục] 續 傳 奇 錄 , “Vân Cát Thần nữ lục”

A.48 VHv.2959 VHv.1487: Paris. EFEO. MF. II/6/1096 (A. 48).

58.

AB.289 MF.1874

Nôm và Hán

Tiên phả dịch lục 仙譜譯錄

in, 114 Bản trang, 1 tựa, 1 bạt

Khắc năm Duy Tân canh Tuất (1910).

Sự tích Liễu Hạnh thờ ở đền An Thái, tỉnh Nam Định: Liễu Hạnh tên thật là Giáng Tiên, ngƣời đẹp, thơ văn giỏi. Nãm 18 tuổi, kết duyên với Đào Lang. Nãm 20 tuổi, Liễu Hạnh tự nhiên chết, thƣờng biến hiện linh thiêng, đƣợc nhân dân lập đền thờ ở nhiều nơi. Bài văn chầu ca ngợi sự linh thiêng của Công chúa Liễu Hạnh.

Kiều Oánh Mậu 喬 瑩 懋 biên tập. Giá Sơn 蔗 山 Khiếu Năng Tĩnh 叫 能 靜 duyệt bình.

59.

A.2978

Hán

Duy Tân 5 (1911)

Cử nhân Trần Điền thuật, Chi Trần Thứ Chi viết

Thiên Bản Vân triều Hƣơng Lê Thánh Mẫu ngọc phả 天 本 雲 鄉 黎 朝聖母玉譜

Sự tích Công chúa Vân Hƣơng (Liễu Hạnh): bà là con gái của Ngọc Hoàng, vì đánh vỡ chén ngọc mà bị giáng xuống trần đầu thai ở nhà Lê Thái Công, một ngƣời chuyên làm việc thiện. Công chúa tƣ chất thông minh, làm thơ, gảy đàn đều thạo. Sau khi hết hạn đày trở về Trời. Công chúa vẫn đi lại chãm sóc cha mẹ, con cái ở dƣới trần, hiển ứng linh thiêng… Phùng Khắc

Lãng Uyên linh từ in. Ni sƣ chùa Hoa Cựu, tự Tâm Nhuận san khắc. 1 bản in,

213

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

64 trang, 1 tán

Khuyết danh Hán

60.

A.1927 MF.3274

Cuối thế kỷ XIX

1 bản viết, 74 trang, kiêng húy chữ Thời

Vân Cát thần nữ Cổ lục 雲葛神女 古錄

AB.352

Khuyết danh Nôm

61.

Đầu thế kỷ XX

1 bản viết, 46 trang

Vân Cát cổ lục diễn âm 雲葛神女 古錄演音

Khoan từng đàm đạo về thơ với Vân Hƣơng tại Hồ Tây (sách có chép những bài thơ xƣớng hoạ giữa hai bên). Sự tích vị nữ thần ở thôn Vân Cát, huyện. Vụ Bản thời Lê Anh Tông: nữ thần tên là Giáng Tiên, lấy một ngƣời họ Đào, sinh đƣợc 1 trai, 1 gái. Năm 21 tuổi, Giáng Tiên chết, sau lại đầu thai lấy một ngƣời thƣ sinh (chính là ngƣời chồng cũ cũng đầu thai). Ngƣời chồng thi đỗ tiến sĩ, làm quan ở Viện hàn lâm. Sau khi mất, Giáng Tiên rất linh thiêng, nhân dân làm đền thờ ở Phố Cát Bản diễn Nôm, thể thơ 7 - 7/6 - 8, sự tích Công Chúa Liễu Hạnh chép trong Vân Cát thần nữ cổ lục. Về sự tích: Xem Vân Cát thần nữ cổ lục A.1927 và Vân cát thần nữ truyện A.2215.

62.

A.2215

Khuyết danh

Truyện Thần nữ Vân Cát (Vân Cát Thần nữ truyện)

Đầu thế kỷ XX

Hán và Nôm

Vân Cát thần nữ truyện 雲 葛 神 女 傳

63.

A.3181

Hán

Đầu thế kỷ XX

Vân Cát Lê Gia Ngọc Phả 雲葛黎 家玉譜

Hƣơng cống Nguyễn Quốc Trinh biên soạn

Gia phả họ Lê ở thôn Vân Cát, xã An Thái, huyện Vụ Bản: Thủy Tổ là Lê Tƣ Vĩnh, con thứ 5 của Lê Bang Cơ (Nhân Tông). Sau khi họ Mạc cƣớp ngôi vua Lê, Tƣ Vĩnh chạy về thôn Vân Cát lấy vợ là Trần Thị Thục, sinh Tƣ Thắng. Thắng sinh ra Giáng Tiên, tức công chúa Liễu Hạnh. Có 3 bài thơ vịnh Liễu Hạnh

1 bản viết, 56 trang. Vân Cát thần nữ truyện (24 trang): xem Vân Cát thần nữ cổ lục A.1927. 1 bản viết, 11 trang, 1 bài chí Ghi là soạn năm Lê Vĩnh Tộ 5 (1623). Sao chéo lại năm Bảo Đại 15 (1940)

THẦN TÍCH

214

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

64.

AE.A15/27

Hán

1 bản viết, 90 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

tỉnh, Nam Định Vụ Bản huyện, Bảo Ngũ tổng các xã thần tích 南 定 省 務 本 縣 保 伍 總 各 社 神 蹟

Thần tích 6 xã thuộc tổng Bảo Ngũ và tổng An Cự 安 巨 , huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. I. Tổng Bảo Ngũ 保 伍: 1. Xã Thái La 綵 羅: 10 trang, gồm sự tích: Đoàn Thƣợng 段 尚 triều Lý; Nguyễn Tuấn 阮 俊 triều Hùng. 2. Xã Bối La 貝 羅: 16 trang, sao năm 1883; về sự tích Phùng Bạo 馮 暴 (Cƣờng Bạo Đại Vƣơng 強 暴 大 王) triều Đinh. 3. Xã Bất Di 不 移: 8 trang, về sự tích Linh Lang Cù Lộ Đại Vƣơng 靈 郎 。 露 大 王 triều Lý. 4. Xã Đắc Lực 得 力: 6 trang, về sự tích Thiên Khai Hộ Quốc Đại Vƣơng 天 開 護 國 大 王. 5. Xã Bảo Ngũ 保 伍: 38 trang, gồm sự tích: Hoàng Xúc 黃 ? (Đệ Nhị Vị Tiên Chúa 第 二 位 仙 主 triều Lê; Hoàng Đức 黃 德 (Đức Ông Thổ Kỳ Bản Đình Linh Ứng Đại Vƣơng 德 翁 土 。 本 亭 靈 應 大 王) triều Trƣng Vƣơng; Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. II. Tổng An Cƣ: 1. Xã Đại Đê 大堤: 10 trang, về sự tích Thiên Khai Hộ Quốc Đại Vƣơng 天 開 護 國 大 王.

65.

AE.A15/3

Hán

1 bản viết, 50 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thần tích ấp Hoành Lộ thuộc tổng Lạc Thiện, huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trƣờng, tỉnh Nam Định, do Nguyễn Hiền sao năm 1735, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主.

66.

tỉnh AE.A5/32

Đầu thế kỷ

Hán

Thần tích xã Quỳnh Ngọc thuộc tổng Quỳnh Ngọc, huyện 1 bản viết, 52

Nam Định tỉnh, Xuân Trƣờng phủ, Giao Thủy huyện, Lạc Thiện tổng, Hoành Lộ ấp thần tích 南 定 省 春 長 府 膠 水 縣 樂 善 總 黃 路 邑神 蹟 Thái Bình

215

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

trang

Niên đại định bản Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, gồm sự tích Nghị Công 毅 公 (Hộ Quốc Cƣơng Nghị Đại Vƣơng 護 國 剛 毅 大 王), thời Lý Cao Tông, do Nguyễn Bính soạn năm 1572; và sự tích Vân Cát Thần Nữ 雲 葛 神 女 (Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主).

Quỳnh Côi huyện Quỳnh Ngọc tổng Quỳnh Ngọc xã thần tích 太 平 省 瓊 魁 縣 瓊 玉 總 瓊 玉 社 神 蹟

67.

AE.A5/61

Hán

1 bản viết, 40 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thái Bình tỉnh Thƣ Trì huyện Cự Lâm tổng các xã Hữu Lộc Cự Lâm Thanh Bản thần tích 太 平 省 舒 池 縣 巨 林 總 各 社 有 祿 巨 林 青 板 神 蹟

68.

AE.B2/3

Hán

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

1 bản viết, 88 trang

Thanh Hóa tỉnh Đông Sơn huyện Quang Chiếu tổng các xã thôn thần tích 清 化 省 東 山 縣 光 照 總 各 社村 神 蹟

Thần tích 3 xã thuộc tổng Cự Lâm, huyện Thƣ Trì, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Hữu Lộc 有 祿: 15 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Bí Công 賁 公 (Tiền Lý Nam Đế Hoàng Đế 前 李 南 帝 皇 帝) và bà Khƣơng Nƣơng 羌 娘 (Linh Nhân Hoàng Thái Hậu 靈 仁 皇 太 后 ) thời Tiền Lý. 2. Xã Cự Lâm 巨 林: 8 trang, sao năm Duy Tân 9 (1915), về sự tích Lam Công 藍 公 (Dũng Lƣợc Lam Quân Thái Bảo Đại Vƣơng 勇 略 藍 君 太 保 大 王 ) thời Đinh Tiên Hoàng. 3. Xã Thanh Bản 青 板 : 12 trang, gồm sự tích Lý Nhân Tông 李 仁 尊 , vua thứ ba của triều Lý; sự tích Trần Thái Tông 陳 太 尊 , vua đầu tiên của triều Trần; và sự tích Vân Cát Thiên Tiên Thánh Mẫu 雲 葛天仙 聖 母 (Liễu Hạnh) thời Lê. Thần tích 4 thôn thuộc xã Quang Chiếu, tổng Quang Chiếu, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 1. Thôn Văn Ba 文 波 , xã Quang Chiếu 光 照: 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Quý Công 貴 公 (Bản Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 本 境 城 隍... 大 王), âm phò giúp Lê Thái Tổ đánh giặc Minh. 2. Thôn Thạch Thất 石 室 , xã Quang Chiếu 光 照: 20 trang, gồm sự tích: Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王: ông họ Cao 高 , tên Hiển 顯 , tự Văn Trƣờng 文 長 , ngƣời Bảo Sơn, quận Quảng Nam, nƣớc Đại Tống , có công đánh dẹp Man di. Khi

216

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

69.

AE.A17/1

Hán

1 bản viết, 70 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

tỉnh Lạng Sơn Cao Lộc châu Trinh Nữ tổng các xã thần tích 諒 山 省 高 祿 州 貞 女 總 各 社 神 蹟

Mất, vua Tống bắt các chƣ hầu lập miếu phụng thờ. Có văn bia viết về Cao Sơn, đề năm Hồng Thuận 2 (1510); Bản Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 本 境 城 隍... 大 王 (không rõ danh tính), do Nguyễn Bính soạn năm 1572. Thần là ngƣời do trời ban xuống ở miếu bản trang, giúp dân yên vật thịnh, phò giúp Lê Lợi đánh quân Minh. 3. Thôn Văn Khê 文 溪, xã Quang Chiếu 光 照: 44 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主: Nữ thần tên là Giáng Hƣơng 降 香 , ngƣời đời Lê Anh Tông, lấy chồng họ Đào 陶 , sinh đƣợc 1 trai, 1 gái. Năm 21 tuổi nàng qua đời, sau đầu thai lấy ngƣời họ Lƣu 劉 (tức ngƣời chồng cũ, cũng đầu thai), sinh thêm 1 gái. Từ đó nàng có nhiều linh ứng, dân lập đền thờ ở phố Cát, huyện Thiên Bản. 4. Thôn Chiếu Trung 照 中, xã Quang Chiếu 光 照: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích: Cao Các 高 閣 , ngƣời Bắc quốc, tỵ loạn sang nƣớc ta, mở trƣờng dạy học ở trang Chiếu Trung. Sau thần về nƣớc và mất tại Bắc quốc. Dân thôn lập đền thờ. Thần đƣợc phong Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王; và Khánh (hoặc Thụy), ngƣời quận Quảng Đông, Bắc quốc, tỵ loạn sang nƣớc ta, trú cƣ tại bản trang. Sau khi mất, có linh ứng, âm phù giúp Lê Lợi đánh quân Minh, đƣợc phong là Bản Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 本 境 城 隍... 大 王. Thần tích 5 xã thuộc các tổng Trinh Nữ, Hoàng Đồng 黃 同 , Mỹ Liệt 美 烈 , Phú Xá 富 舍 , của các châu Cao Lộc, Điềm Hy 恬 熙 , Văn Uyên 文 淵 , tỉnh Lạng Sơn. 1. Xã Trinh Nữ 貞 女 , tổng Trinh Nữ, châu Cao Lộc: 14 trang, ghi sự tích Nội Đạo Tam Quan 內 道 三 官: tiền quan, hữu quan, tả quan.

217

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

70.

Hán

AE.A13/21

1 bản viết, 192 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Nam tỉnh Kim Bảng huyện Thụy Lôi tổng các xã thần tích 河 南 省 金 榜 縣 瑞 雷 總 各 社 神 蹟

2. Xã Chính Lũ 正 屨 tổng Trinh Nữ, châu Cao Lộc: 30 trang, ghi sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. 3. Xã Hoàng Đồng 黃 同 , tổng Hoàng Đồng, châu Cao Lộc: 4 trang, ghi sự tích Xích Long Vƣơng 赤 龍 王. 4. Xã Vân Mộng 雲 夢 , tổng Mỹ Liệt, Châu Điềm Hy: 4 trang, ghi sự tích Đinh Khác Nguyên Đại Vƣơng 丁 恪 元 大 王. 5. Xã Xuân Lũng 春 隴 , tổng Phú Xá 富 舍 , Châu Văn Uyên: 14 trang, gồm sự tích: Diệu Hòa Chế Thắng Đại Vƣơng 妙 和 制 勝 大 王; Quý Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王. Thần tích 6 xã thuộc tổng Thụy Lôi, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Mã Não 瑪 瑙: 67 trang, gồm sự tích Điện Công 殿 公 (Chính Thiện Hiển ứng... Thông Điện Đại Vƣơng 正 善 顯 應... 通 殿 大 王) triều Hán Văn Đế, do Dƣơng (?) Tung soạn năm Hồng Đức 2 (1471), có phần phụ lục về nhà Triệu; và sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. 2. Xã Thụy Sơn 瑞 山: 21 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Nga Công 娥 公 (Nga Sơn Hiển Linh Đại Vƣơng 娥 山 顯 靈 大 王) triều Đinh Tiên Hoàng. 3. Xã Trung Hòa 中 和: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Tiêu Sơn Độc Cƣớc Chu Văn Minh Quỉ Độc Đại Thần 蕉 山 獨 腳 朱 文 明 鬼 。 大 神 triều Lý. 4. Xã Thụy Lôi 瑞 雷: 33 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Tứ vị Thánh Nƣơng là: Hƣơng Liên Quốc Mẫu 香 蓮 國 母; Nguyệt Chiêu Công Chúa 月 昭 公 主 ; Nguyệt Độ Công Chúa 月 度 公 主; Hồng Nƣơng Thị Nữ 鴻 娘 侍 女; và sự tích Tản Viên Quốc Chủ... Thƣợng Đẳng Thần 傘 圓 國 主 ... 上 等 神 ; Cao Sơn Hiển Thánh Đại Vƣơng 高 山 顯 聖 大 王.

218

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

71.

AE.A13/12

Hán

1 bản viết, 93 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Nam tỉnh Duy Tiên huyện Tiên Xá tổng các xã thần tích 河 南 省 維 先 縣先 舍 總 各 社 神 蹟

72.

AE.B2/5

Hán

1 bản viết, 103 trang

Thanh Hóa tỉnh Đông Sơn huyện Quảng Chiếu tổng

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

5. Xã Đinh Xá 丁 舍 : 26 trang, chép năm Cảnh Hƣng 13 (1752), về sự tích Nam thiên tứ Pháp đại thánh: Pháp Vân Thạch Quang Vƣơng Phật 法 雲 石 光 王 佛; Pháp Vũ Thạch Quang Vƣơng Phật 法 雨 石 光 王 佛; Pháp Lôi Thạch Quang Vƣơng Phật 法 雷 石 光 王 佛; Pháp Điện Thạch Quang Vƣơng Phật 法 電 石 光 王 佛 . 6. Xã Phƣơng Khê 芳 溪: 17 trang, ghi về triều Đinh Tiên Hoàng. Thần tích 1 thôn, 4 xã, thuộc tổng Tiên Xá, huyện Dung Tiên, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Bạch Xá 白 舍: 19 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hiển Công 顯 公 (Hƣng Thƣợng Sĩ Quý Minh Đại Vƣơng 興 上 善 士 貴 明 大 王). 2. Xã Yên Bảo 安 保 : 30 trang, chép năm Thành Thái 16 (1904); về sự tích Mạ Vàng Công Chúa 禡 。 公 主. 3. Thôn Thƣợng 上 , xã Yên Bảo 安 保: 33 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Kiến Đức Công 建 德 公 (Hiển Ứng Kiến Hƣng Khuông Quốc Đại Vƣơng 顯 應 建 興 匡 國 大 王); Ân Công 恩 公 (Tế Thế Lã Đông Ân Đại Vƣơng 濟 世 呂 東 恩 大 王); Hồng Nƣơng 紅 娘 (Hồng Nƣơng Hoàng Thái Hậu 紅 娘 皇 太 后 ); Cẩn Nƣơng 謹 娘 (Phƣơng Phi Cẩn Tiết Công Chúa 芳 菲 謹 節 公 主 ). 4. Xã Đồng Bào 同 胞: 5 trang, về sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王). 5. Xã Lục Non 綠 。: 4 trang, chép năm Tự Đức 19 (1866), về sự tích Đông Bảng 東 榜. Thần tích 7 thôn thuộc tổng Quảng Chiếu, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 1. Thôn Vi Giang 圍 江: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm

219

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

thần xã các tích 清 化 省 東 山 縣 廣 照 總 各 社村 神 蹟

1572, về sự tích Nguyệt Nƣơng 月 娘 (Nguyệt Nga Công Chúa Phu Nhân 月 娥 公 主夫 人), con ông họ Nguyễn và bà họ Trần, ngƣời phƣơng Bắc, sang định cƣ ở nƣớc ta, có sắc đẹp, đƣợc Tống Nghệ Tông vời về Bắc quốc, lập làm Cung phi thứ 3. Sau nàng về nƣớc, mất tại bản quán, đƣợc dân lập đền thờ. 2. Thôn Thiều Sơn 韶 山: 10 trang, về sự tích Mang Công 芒 公 (Câu Mang Đại Vƣơng 勾 芒 大 王) công thần thời Hùng Duệ Vƣơng. 3. Thôn Miếu 廟: 26 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thành Công 誠 公 (Trung Thành Đại Vƣơng 忠 誠 大 王 ), công thần thời Hùng Duệ Vƣơng; và Linh Lang 靈 郎 (Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王) công thần thời Lý. 4. Thôn Lộc Giang 祿 江: 10 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hiển Công 顯 公 (Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王), ngƣời Bảo Sơn, quận Quảng Đông, nƣớc Tống. 5. Thôn Trƣờng Tuế 長 歲 : 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm1572, về sự tích Khánh Công 慶 公 và Thụy Công 瑞 公, ngƣời nƣớc Minh, do tỵ loạn nên lánh sang nƣớc ta, định cƣ ở trang Trƣờng Tuế. Sau khi mất, có linh ứng phù giúp Lê Thái Tổ đánh quân Minh, đều đƣợc phong là Bản Cảnh Thành Hoàng Đại Vƣơng 本 境 城 隍 大 王. 6. Thôn Quảng Nạp 廣 納: 9 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王 (không rõ danh tính), do trời ban xuống làm thần linh cho trang Đài Sơn (tên cũ của thôn Quảng Nạp). Thần có linh ứng giúp dân khang vật thịnh, sau âm phò Lê Thái Tổ đánh quân Minh. 7. Thôn Đồng Duệ 同 曳: 50 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主: tên thực là Giáng

220

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

73.

AE.A15/26

Hán

1 bản viết, 72 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, An Cự tổng các xã thần tích 南 定 省 務 本 縣 安 巨 總 各 社 神 蹟

74.

AE.A2/86

Hán

1 bản viết, 150 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Đông tỉnh, Thanh Trì huyện, Vĩnh Ninh tổng các xã thần tích đệ thập sách 河 東 青 池 縣 永 寧 總 各 社 神 蹟 第 十 冊

Hƣơng ngƣời thời Lê Anh Tông, lấy chồng họ Đào 陶 , sinh 1 trai, 1 gái. Năm 21 tuổi, qua đời, đầu thai lấy ngƣời họ Lƣu 劉 (cũng là ngƣời chồng cũ đầu thai), sinh thêm 1 gái. Nàng có tài về thơ phú. Dân lập đền thờ chính ở phố Cát huyện Thiên Bản. Thần tích 4 xã thuộc tổng An Cự, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. 1. Xã Võng Cổ 網 罟: 42 trang, gồm sự tích 3 vị thần Tản Viên thời Hùng Vƣơng: Tản Viên Sơn Thánh 傘 圓 山 聖; Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山大 王; Quý Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王; và Linh Lang Cù Lộ Đại Vƣơng 靈 。 。 。 大 王 triều Lý. 2. Xã Khả Chính 可 政: 10 trang, về sự tích Bạch Hạc Tam Kỳ Giang... Thƣợng Đẳng Đại Vƣơng 白 鶴 三 岐 江... 上 等 大 王. 3. Xã Lƣơng Mỹ 良 美: 26 trang, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. 4. Xã Đồng Lạc 同 樂: 18 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Phùng Bạo 馮 暴 (Cƣờng Bạo Đại Vƣơng 強 暴 大 王) triều Đinh. Thần tích 1 thôn, 3 xã thuộc tổng Vĩnh Ninh, huyện Thanh Trì, Hà Đông. 1. Xã Vĩnh Ninh 永 寧 38 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích: Bạch Xà Nguyên Soái Thần Vƣơng 白 蛇 元 帥 神 王 , Thổ Địa Linh Ứng Thần Vƣơng 土 地 靈 應 神 王 và Tử Nƣơng Trinh Thục... Thần Nữ 紫 娘 貞 淑... 神 女 thời Trƣng Nữ Vƣơng. 2. Xã Đại Áng 大盎: 42 trang, gồm sự tích: Phùng Hƣng 馮 興 (Bố Cái Đại Vƣơng 布 蓋 大 王 ); Phúc thần là Công chúa đời Lý; Tản Viên Sơn Thánh 傘 圓 山 聖 ; Cao Sơn Đại

221

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Vƣơng 高 山 大 王 triều Hùng. Tất cả đều do Nguyễn Bính soạn năm 1572. 3. Thôn Vĩnh Trung 永 中: 28 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Đức Ông Cả Xạ Thần Đại Vƣơng 德 翁 奇 射 神 大 王; Đức Ông Hai Xạ Thần Đại Vƣơng 德 翁 。 射 神 大 王 và Đức Ông Ba Xạ Thần Đại Vƣơng 德 翁 。 射 神 大 王. 4. Xã Vĩnh Thịnh 永 盛: 40 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Xạ Thần Đại Vƣơng 當 境 城 隍 射 神 大 王 (thời Trần); Liễu Hạnh Tiên Băng Công Chúa 柳 杏 仙 冰 公 主.

75.

AE.A14/11

Hán

1 bản viết, 12 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thần tích xã Tiên Lục 仙 籙 thuộc tổng Đào Quan, huyện Phất Lộc, tỉnh Bắc Giang: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王 (Cao Sơn Thần Truyện 高 山 神 傳 ) và Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主 (Vân Cát Thần Nữ 雲 葛 神 女 ).

Bắc Giang tỉnh Lạng Giang phủ Phất Lộc huyện tổng Đào Quan Tiên Lục xã thần tích 北 江 省 諒 江 府 弗 祿 縣 桃 觀 總 仙 錄 社 神 蹟

76.

AE.A2/48

Hán

1 bản viết, 76 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Đông tỉnh, Sơn Lãng huyện, tổng Bạch Sam các thần xã tích 河 東 省 山 郎 縣 白 杉 總 各 社 神 蹟

Thần tích 4 xã thuộc tổng Bạch Sam, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Đông. 1. Xã Thanh Sam 青 杉: 22 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Quảng Uy Vĩ Liệt.... Đại Vƣơng 廣 威 偉 烈 ... 大 王 và Vƣơng Phi Hoàng Hậu Liễu Hạnh Thuần Mỹ Công Chúa 王 妃 皇 后 柳 杏 純 美 公 主. 2. Xã Thành Vật 成 物: 20 trang, do Nguyễn Hiền viết năm 1735, gồm sự tích 5 vị thần triều Hùng: Quý Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王; Thái A Đại Vƣơng 泰 阿 大 王; Phủ Hộ

222

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

77.

AE.A13/29

Hán

1 bản viết, 173 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Thổ Ốc tổng các xã thần tích 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 土 沃 總 各 社 神 蹟

78.

Hán

Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện,

Cuối thế kỷ XIX - đầu

Cuối thế kỷ XIX - đầu

1 bản viết, 142 trang

Đại Vƣơng 撫 護 大 王; Thủy Thần Đại Vƣơng 水 神 大 王 và Liễu Hạnh Chúa Tiên... Đại Vƣơng 柳 杏 主 僊... 大 王. 3. Xã Họa Đống 畫 棟: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Cao Sơn Linh Ứng Đại Vƣơng 高 山 靈 應 大 王 triều Hùng. 4. Xã Yên Trƣờng 安 長 大: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Trƣng Vƣơng: Chiêu Trung Chƣơng Tín... Đại Vƣơng 昭 忠 彰 信... 大 王 và Đỗ Lý Đại Liệu... Đại Vƣơng 杜 哩 大 料... 大 王 Thần tích 3 xã, thuộc tổng Thổ Ốc, huyện Nam Xang, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Thổ Ốc 土 沃: 24 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đoàn Đại Vƣơng 東 海 段 大 王); Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王; và Ngũ Phong Tinh Khiết Phu Nhân 五 峰 精 潔 夫 人 triều Lý. 2. Xã Nhƣ Trác 如 琢: 60 trang, gồm sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主 , Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王, Câu Mang Đại Vƣơng 勾 芒 大 王 triều Hùng, Đền Lý Đại Vƣơng 。 。 。 大 王 triều Lý Thái Tông, Sĩ Công 仕 公 (Vị Sĩ Đại Vƣơng 位 仕 大 王); Lan Nƣơng 蘭 娘 (Hoàng Thái Hậu Lan Nƣơng 皇 太 后 蘭 娘 ); Thủy Tinh Công Chúa 水 晶 公 主 triều Lê; đều do Nguyễn Bính soạn năm 1572. 3. Xã Trần Thƣơng 陳 倉: 87 trang, chép lại vào năm Tự Đức 16 (1863); về sự tích Hƣng Đạo Vƣơng Trần Quốc Tuấn 興 道 王 陳 國 峻. * Có một số thơ văn ca tụng thần. Thần tích 5 xã thuộc tổng Kiên Trung, huyện Hải Hậu, phủ Xuân Trƣờng 春 長 , tỉnh Nam Định.

223

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản thế kỷ XX

thế kỷ XX

Kiên Trung tổng thần tích 南 定 省 海 後 縣堅 忠 總 神 蹟

1. Xã Kiên Trung 堅 忠: 18 trang, gồm sự tích Thục Phán 蜀 泮 (Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王); Hàm Hoằng Quang Đại Vƣơng... Thƣợng Đẳng Thần 含 弘 光 大 王... 上 等 神. 2. Xã Lạc Nam 樂 南: 24 trang, gồm sự tích: Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王; Quý Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王 triều Hùng; Hƣng Đạo Đại Vƣơng 興 道 大 王 triều Trần; Lê Châu 黎 珠 (Thƣợng Trụ Quốc Lê Cảnh Quận Công 上 柱 國 黎 景 郡 公 ) triều Tiền Lê; Trần Xuân Trạch 陳 春 澤 triều Nguyễn; Phạm Bàn 范 盤 triều Nguyễn; Lê Thế Vinh 黎 世 榮 (Minh Nghĩa Đô Úy Chƣ Quân Quản Cơ 明 義 都 尉 諸 軍 管 奇 ). 3. Xã Hà Lạn 霞 爛 : 52 trang, gồm sự tích: Tứ Vị Thánh Nƣơng 四 位 聖 娘 (là Hoàng Hậu, Công Chúa... nhà Tống); Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主; Triệu Việt Vƣơng 趙 越 王 . 4. Xã Hà Nam 霞 南: 16 trang, gồm sự tích: Hoàng Hậu họ Dƣơng nhà Tống 宋 后; Thục Phán 蜀 泮 (văn bản viết là ) (Nam Hải Phạn Đại Vƣơng 南 海 梵 大 王). 5. Xã Trà Trung 茶 中: 30 trang, gồm sự tích: Triệu Quang Phục 趙 光 復 (Triệu Việt Vƣơng 趙 越 王); Hoàng Tử Minh Lang 皇 子 明 郎 (Minh Lang Uy Linh Đại Vƣơng 明 郎 威 靈 大 王) triều Hùng; Linh Lang Vƣơng 靈 郎 王 triều Lý.

79.

AE.A2/96

Hán

1 bản viết, 170 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thần tích 2 xã thuộc tổng Tín Yên, huyện Thƣợng Phúc, phủ Thƣờng Tín, tỉnh Hà Đông. 1. Xã Yên Duyên 安 沿: 40 trang, gồm sự tích Đông Phƣơng Tƣớng Soái... Thành Quốc Công 東 方 將 師... 成 國 公 triều Trƣng Vƣơng và các vị Đại Vƣơng triều Hùng, do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Trung Thành Đại Vƣơng 忠 誠 大 王,

Hà Đông tỉnh, Thƣờng Tín phủ, Thƣợng Phúc huyện, Tín Yên tổng các xã thần tích 河 東 省 常 信

224

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

府 上 福 縣 信 安 總 各 社 神 蹟

80.

AE.A4/37

Hán

1 bản viết, 110 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Ninh Bình tỉnh, Yên Mô huyện, Quảng Phúc tổng các thần xã tích 寧 平 省 安 謨 縣 廣 福 總 各 社 神 蹟

Phù Vận Đại Vƣơng 扶 運 大 王, Ngọ Lang Đại Vƣơng 午 郎 大 王 Đại Thánh Tổ Sƣ 大聖 祖 師 thời nhà Tùy. 2. Xã Đông Duyên 東 沿: 128 trang, gồm sự tích 3 vị thần đời Lê: Thắng Lực Thƣợng Sĩ Đại Vƣơng 勝 力 尚 仕 大 王; Ngô Mãnh Hùng Lƣợc... Đại Vƣơng 吳 猛 雄 略... 大 王 và Linh Thông Khai Đạo... Đại Vƣơng 靈 通 開 道... 大 王; đều do Nguyễn Bính soạn năm 1572; 1 vị Đại Vƣơng triều Hùng: Chàng Ất Uyên Nguyên Linh Ứng Đại Vƣơng 幢 乙 淵 源 靈 應 大 王 và Vân Cát Thần Nữ 雲 葛 神 女. Thần tích 1 giáp, 2 thôn, 2 xã thuộc tổng Quảng Phúc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. 1. Thôn Yên Thái 安 泰 , xã Quảng Phúc 廣 福: 14 trang, gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Anh Vũ Uy Linh Ngọ Vƣơng 英 武 威 靈 午 王; Hiển Ứng Hộ Dân Ngọ Vƣơng 顯 應 護 民 午 王; Phu Cảm Phổ Hóa Ngọ Vƣơng 孚 感 普 化 午 王 , và Phạm Lân 范 麟 triều Lê, Lê Khắc Nghệ Hài 黎 克 詣 諧 triều Lê. 2. Giáp Vân Mộng 雲 夢 , xã Quảng Phúc: 2 trang, về sự tích Nguyễn Phục 阮 復 triều Lê. 3. Thôn Phúc Lại 福 賴 , xã Quảng Phúc: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thƣợng Đẳng Tối Linh Đệ Nhất Triệu Đại Hiển Hựu Hoàng Đế 上 等 最 靈 第 一 趙 代 顯 佑 皇 帝. 4. Xã Khƣơng Dụ 羌 裕: 72 trang, về sự tích Triệu Quang Phục 趙 光 復 (Triệu Vƣơng Hoàng Đế 趙 王 皇 帝); Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主; Duy Tiên Công Chúa 維 仙 公 主; Quế Hoa Công Chúa 桂 花 公 主; Thƣợng Ngạn Lê Mại Đại Vƣơng 上 岸 黎 邁 大 王; Đinh Dung Công Chúa 釘 容 公 主; Xuân Tông Công Chúa 春 宗 公 主; Trƣởng Minh Ngọ Đại

225

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

81.

AE.A15/28

Hán và Nôm

1 bản viết, 222 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, tổng Đồng Đội các xã thần tích 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各 社 神 蹟

Vƣơng 長 明 午 大 王; Thứ Minh Ngọ Công Chúa 次 明 午 公 主; Quý Minh Ngọ Đại Vƣơng 貴 明 午大 王; Huệ Nƣơng Công Chúa 惠 娘 公 主; Tĩnh Nƣơng Công Chúa 靜 娘 公 主 ; Tân Nƣơng Công Chúa 嬪 娘 公 主 . 5. Xã Cổ Đà 古 陀: 4 trang, gồm sự tích Lôi Công Tôn Thần 檑 公 尊 神 (Lâm Lịch Linh Ứng... Đại Vƣơng 林 靂 靈 應... 大 王); Nguyễn Phục 阮 復 (Phổ Thiên Đông Hải Thanh Đế Tôn Thần 普 天 東 海 青 帝 尊 神); Mỹ Liễu Công Chúa 美 柳 公 主 (Hiển Thần Hựu Bảo Dân... Đại Vƣơng 顯 神 佑 保 民... 大 王). Thần tích 2 thôn, 2 xã thuộc tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. 1. Xã Châu Bạc 珠 泊: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Vũ Nghị 武 毅 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Vũ Nghị Đại Vƣơng 當 境 城 隍 武 毅 大 王). 2. Thôn Thƣợng 上 , xã Trang Nghiêm 莊 嚴: 78 trang, gồm sự tích 2 vị thần triều Lý: Lê Dũng 黎 勇 (Dũng Mãnh Uy Linh Hiển Ứng Đại Vƣơng 勇 猛 威 靈 顯 應 大 王), Lê Sĩ 黎 仕 (Thái Thƣợng Thƣợng Sĩ Đại Vƣơng 綵 上 尚 仕 大 王) do Nguyễn Bính soạn năm 1735 (?); 3 vị Đại Vƣơng triều Trƣng Vƣơng do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Đô Thống Đại Vƣơng 都 統 大 王; Chiêu Hiển Đại Vƣơng 昭 顯 大 王; Tam Lang Đại Vƣơng 三 郎 大 王; 3 vị thần triều Hùng do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王; Trung Thành Phổ Tế Đại Vƣơng 忠 誠 普 濟 大 王; Hoàng Tử Câu Mang Đại Vƣơng 皇 子 勾 茫 大 王; và sự tích Cao Lỗ 皋 魯 (Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần Đại Vƣơng 大灘 都 魯 石 神 大 王) thời An Dƣơng Vƣơng.

226

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

82.

AE.A15/8

Hán

1 bản viết, 108 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện, Quế Hải tổng các xã thần tích 南 定 省 海 後 縣 桂 海 總 各 社 神 蹟

83.

AE.A16/1

Tuyên Quang tỉnh, Yên Bình

Cuối thế kỷ XIX - đầu

Hán và Nôm

1 bản viết, 13 trang

3. Thôn Hạ 下 , xã Trang Nghiêm: 56 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Trần: Trần Minh Phúc 陳 明 福 (Minh Phúc Đại Vƣơng 明 福 大 王); Trần Hải 陳 海 (Minh Hải Đại Vƣơng 明 海 大 王); 2 vị thần triều Đinh: Đinh Nga 丁 峨 (Nga Sơn Hiển Linh Đại Vƣơng 峨 山 顯 應 大 王); Phạm Hạp 范 盍 (Linh Ứng Đại Vƣơng 靈 應 大 王). 4. Xã Vân Cát 雲 葛: 66 trang, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. Có bài văn chầu thần soạn bằng văn Nôm. Thần tích 5 xã thuộc tổng Quế Hải, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. 1. Xã Thanh Trà 青 茶: gồm sự tích Quế Hoa Công Chúa 桂 花 公 主 triều Trần; Triệu Quang Phục 趙 光 復 (Triệu Việt Vƣơng Hoàng Đế 趙 越 王 皇 帝 ). 2. Xã Trung Phƣơng 中 芳: 50 trang, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. 3. Xã Liên Phú 連 富: 16 trang, gồm sự tích 3 vị thần triều Đinh: Phùng Gia Đại Vƣơng 馮 加 大 王; Đào Hoàng Thái Hậu 陶 皇 太 后; Đại Mộc Đại Vƣơng 大 木 大 王. 4. Xã Trùng Quang 重 光: 16 trang, gồm sự tích Hoàng Hậu nhà Tống, Trần Dũng 陳 踴 (Dũng Dƣợc Thần Long Thành Hoàng Đại Vƣơng 踴 躍 神 龍 城 隍 大 王) triều Hùng. 5. Xã Doanh Châu 瀛 洲: 10 trang, gồm sự tích 2 vị thần triều Trƣng Vƣơng: Nguyễn Cung 阮 恭 (Thiên Thƣợng Linh Ứng Đại Vƣơng 天 上 靈 應 大 王); Nguyễn Lƣơng 阮 良 (Linh Ứng Đại Vƣơng 大 王). Thần tích phố Chử Thị, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang: về sự tích Quế Hoa Công Chúa 桂 花 公 主 (Thiên Tiên Công

227

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản thế kỷ XX

Chúa 天 仙 公 主 ) thời Trƣng Nữ Vƣơng.

phủ, Yên Sơn huyện các xã thần tích 宣 光 省 安 平 府 安 山 縣 褚 市 埔 神 蹟 , tích “Thần phố Chử Thị, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang”

84.

AE.A5/28

Hán

1 bản viết, 99 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thái Bình tỉnh Tiên Hƣng Hƣng Nhân huyện các xã thần tích 太 平 省 先 興 府 興 仁 縣 各 社 神 蹟

Thần tích 5 thôn, 2 xã thuộc tổng Tống Xuyên 宋 川 , huyện Hƣng Nhân, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Tống Xuyên 宋 川: 10 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Bảo Hoa Công Chúa 寶 花 公 主 âm phù Cao Sơn 高 山 (Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王), đánh giặc Chiêm Thành, thời Lý Nhân Tông. 2. Thôn Trình 呈 xã Tống Xuyên: 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Độ Lộ 度 路 (Bản Cảnh Độ Lộ Đại Vƣơng 本 境 都 路 大 王) và Ả Nam 婀 南 (Đƣơng Cảnh Ả Nam Phu Nhân 當 境 婀 南 夫 人) phù giúp Trƣng Trắc đánh Tô Định. 3. Thôn Cao 高 , xã Phúc Hải 福 海: 18 trang, do Nguyễn Hiền sao năm 1737, về sự tích Thánh Mẫu Quế Hoa Công Chúa 桂 花 公 主; cùng 3 vị công thần Quốc Công 國 公 (Hộ Quốc... Đại Vƣơng 護 國... 大 王); Sinh Công 生 公 (Linh Ứng Bảo Sinh... Đại Vƣơng 靈 應 寶 生... 大 王) và Mãnh Công 猛 公 (Dũng Mãnh... Đại Vƣơng 勇 猛... 大 王) thời Hùng Duệ Vƣơng. 4. Thôn Bản 板 , xã Phúc Hải 福 海: 18 trang, gồm sự tích Hoa

228

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

85.

AE.A5/12

Hán

1 bản viết, 140 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thái Bình tỉnh Duyên/Diên Hà huyện các xã thần tích 太 平 省 延 河 縣 各 社 神 蹟

Quận Công 華 郡 公 , họ Trƣơng 張, húy Bạch Ngọc Hoa 白 玉 花 , ngƣời xã Ngọc Tiến, huyện Lƣơng Giang, phủ Thiệu Thiên, có công đánh giặc Nguyên; và sự tích Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 thời Lý (rút từ các tài liệu nhƣ Sử ký, Ngoại truyện, Phả ký...). 5. Thôn Nguyễn 阮 , xã Phúc Tiên 福 仙: 8 trang, sao năm Thiệu Trị (1843), về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. 6. Xã Hà Nguyên 何 元: 17 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Khánh Công 慶 公 (Khánh An Hiển Ứng Đại Vƣơng 慶 安 顯 應 大 王) thời Trƣng Nữ Vƣơng. 7. Thôn Hƣơng Xá 香 舍, xã Khánh Mỹ 慶 美: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王 thời Hùng Duệ Vƣơng. Thần tích 4 thôn, 6 xã thuộc tổng Duyên Hà 延 河 , huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Xuân La 春 羅 : 14 trang, về sự tích Đƣờng Lô 塘 壚 (Cao Sơn Đƣờng Lô Đại Vƣơng 高 山 塘 壚 大 王) và Đá Công 。 公 (Thiên Đá Đại Vƣơng 天 。 大 王) thời Hùng Huy Vƣơng. 2. Xã Lộc Thọ 祿 壽: 18 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Nhân Từ... Hoàng Thái Hậu 仁 慈 皇 太 后 ; An Quốc... Đại Vƣơng 安 國 ... 大 王 ; Tá Quốc... Đại Vƣơng 佐 國... 大 王 và Sát Lĩnh... Đại Vƣơng 察 領... 大 王; Phán Thủ... Đại Vƣơng 判 守... 大 王 thời Đinh. 3. Xã Cổ Trai 古 齋: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Lý Bí 李 賁 thời Tiền Lý và Linh Lang 靈 郎 thời Lý Thái Tông. 4. Thôn Phú Vinh 富 榮: 16 trang, về sự tích Phƣợng Hoàng Công Chúa 鳳 凰 公 主; Đạo Đạo... Đại Vƣơng 大 道... 大

229

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

王 và Đức Đại Vƣơng Thần Tƣớng 德 大 王神 將 thời Lý. 5. Thôn Thọ Phú 壽 富 xã Thọ Bùi 壽 裴: 14 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Kiền Công 虔 公 (Kiền Tế Thế Đại Vƣơng 虔 濟 世 大 王); Đức Công 德 公 (Đức Bác... Đại Vƣơng 德 博... 大 王); Đê Công 低 公 (Lý Lâm Đê... Đại Vƣơng 李 臨 低... 大 王) và Tía Công 紫 公 (Áo Tía... Đại Vƣơng 。 紫... 大 王) thời Tiền Lý. 6. Thôn Bùi Xá 裴 舍 , xã Thọ Bùi 壽 裴: 18 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hoàng Lang 皇 郎 (Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王); Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王) và Sùng Công 崇 公 (Đông Bắc Đại Vƣơng 東 北 大 王) thời Lý. 7. Xã Thanh Lãng 青 朗: 14 trang, do Nguyễn Hiền chép lại, về sự tích Hùng Công 雄 公 (Dũng Dƣợc... Đại Vƣơng 踴 躍... 大 王) và Ngọc Nƣơng 玉 娘 (Bà Ngọc Nƣơng Công Chúa 婆 玉 娘 公 主 ), thời Trƣng Nữ Vƣơng; Đức Thiên Quan Bến Đò Đại Vƣơng 德 天 官 。 渡 大 王. 8. Thôn Lãng 朗 , xã Duyên Lãng 延 朗: 10 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Lục Tục 陸 續 (Hồng Bàng Linh Thánh Đại Vƣơng 鴻 。 靈 聖 大 王) thời Hồng Bàng. 9. Xã Thƣởng Duyên 賞 延: 10 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thục An Dƣơng Vƣơng 蜀 安 陽 王 Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王); Phúc Công 福 公 (Bút Tải Đại Vƣơng 筆 載 大 王); Đề Công 。 公 (Đề Lại Công Thành Hoàng 。 吏 公 城 隍 ) và Linh Công 靈 公 (Linh Lại... Thành Hoàng 靈 賴... 城 隍 ), Đức Bà Đại Vƣơng 德 婆 大 王 thời Thục An Dƣơng Vƣơng. 10. Xã Long Nãi 隆 乃: 20 trang, gồm sự tích Cát Công 吉

230

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

86.

AE.A5/36

Hán

1 bản viết, 42 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thái Bình tỉnh Thái Ninh phủ Thanh Quan huyện Cát Đàm tổng các xã thần tích 太 平 省 太 寧 府 青 關 縣 葛 覃 總 各 社 神 蹟

87.

AE.A5/58

Hán

1 bản viết, 18 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thái Bình tỉnh Thƣ Trì huyện An Lão Tổng các xã Kiến Xá An Lão thần tích 太 平 省 舒 池 縣 安 老 總 各 社 建 舍 安 老 神 蹟

公 (Hƣng Cát Đại Vƣơng 興 吉 大 王); Hoàn Công 丸 公 (Mộc Hoàn Đại Vƣơng 木 丸 大 王); Lang Công 榔 公 (Lang Công Đại Vƣơng 榔 公 大 王); Lang Đƣờng 榔 堂 (Lang Đƣờng Đại Vƣơng 榔 堂 大 王) thời Hùng Duệ Vƣơng; và Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主 thời Lê. Thần tích 2 xã thuộc tổng Cát Đàm, huyện Thanh Quan, phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Vĩnh Quan 榮 關 , xã Hƣng Quan 興 關 và Trƣờng Quan 長 關: 14 trang, do Nguyễn Hiền sao năm 1736, về sự tích Thủy Thần Mang Công 芒 公 (Thiên Quan Hiển Ứng Tôn Thần 天 官 顯 應 尊 神) thời Hùng Duệ Vƣơng; Thanh Tĩnh Tam Quang... Đại Vƣơng 清 淨 三 光... 大 王. 2. Xã Phƣơng Cúc 芳 菊: 28 trang, gồm sự tích Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần Quốc Tuấn 興 道 大 王 陳 國 俊 và Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. Thần tích 2 xã thuộc tổng An Lão, huyện Thƣ Trì, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Kiến Xá 建 舍: 8 trang, do Lê Quảng Đức soạn năm 1479, gồm sự tích Gia Thục Công Chúa 嘉 淑 公 主 , húy Thanh Diệu 清 耀 , ngƣời đời Lê Quang Thuận, có đức hạnh, khi mất đƣợc dân lập đền thờ; và sự tích Liễu Hạnh Công . Chúa 2. Xã An Lão 安 老﹕10 trang, gồm sự tích Thánh Mẫu Quang Thục Hoàng Thái Hậu 圣 母 光 淑 皇 太 后 , ngƣời xã Đông Bàng, huyện An Định, tỉnh Thanh Hóa, đƣợc Lê Thái Tông tuyển làm Cung phi, sinh Lê Tƣ Thành (Lê Thánh Tông) khi mất dân xã đúc tƣợng thờ; sự tích Gia Thục Thái Trƣởng Công Chúa 嘉 淑 泰 長 公 主 , húy Thanh Bảo 清 寶 , ngƣời đời Lê, có đức hạnh, đƣợc dân lập đền thờ; và sự tích Thục An Dƣơng

231

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

88.

AE.A5/30

Hán

1 bản viết, 256 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thái Bình tỉnh Quỳnh Côi huyện Đồng Trực tổng thần xã các tích 太 平 省 瓊 魁 縣 同 直 總 各 社 神 蹟

Vƣơng 蜀 安 陽 王 (Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王) Thần tích 12 xã, thuộc tổng Đồng Trực, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Đồng Trực 同 直: 12 trang, Nguyễn Hiền sao năm 1737, về sự tích Đào Thị Phú 陶 侍 富 (Diệu Phú Đại Vƣơng 妙 富 大 王), thời Trƣng Nữ Vƣơng. 2. Xã An Trực 安 直: 16 trang, về sự tích Thống Công 統 公 (Đức Thánh... Đại Vƣơng 德 聖... 大 王) và Phái Công 派 公 (Phụng Thiên... Đại Vƣơng 奉 天... 大 王) thời Hùng Duệ Vƣơng. 3. Xã Thƣợng Phán 上 泮: 24 trang, gồm sự tích Thiên Bồng 天 蓬 (Thiên Bồng Đại Vƣơng 天 蓬 大 王) thời Lý; và sự tích Minh Công 明 公 (Phò Mã Tả Quan Đại Vƣơng 。 馬 左 官 大 王) cùng Công Chúa triều Trần (không rõ tên) (Đức Chủ Trần Triều Đại Vƣơng 德 主 陳 朝 大 王), do Nguyễn Bính soạn năm 1572. 4. Xã Hạ Phán 下 泮: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Trần Hậu Nƣơng 陳 后 娘 (Thánh Hậu Tiền Triều Thế Gia Công Chúa 聖 后 前 朝 世 家 公 主 ) thời Trƣng Nữ Vƣơng. 5. Xã Cần Phán 芹 泮: 22 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Đông Thiên 東 天 (Đông Thiên... Đại Vƣơng 東 天... 大 王); Thái Thƣợng 太 上 (Thái Thƣợng... Đại Vƣơng 太 上 ... 大 王 ); Sùng Công 崇 公 (Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王) và Đào Lang 陶 榔 (Đào Lang... Đại Vƣơng 陶 榔 ... 大 王 ) thời Hùng Duệ Vƣơng. 6. Xã Đông Châu 東 洲: 1 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Tuyên Minh 宣 明 (Thiên Khai Tuyên Minh Đại Vƣơng 天 開 宣 明 大 王 ) thời Hùng Duệ Vƣơng.

232

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

trang, về sự

89.

AE.A7/12

Hán

1 bản viết, 90 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Bắn Ninh tỉnh Gia Lâm huyện các xã thần tích 北 寧 省

7. Xã Đông Quynh 東 扃: 52 trang, gồm sự tích Trinh Công 貞 公 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王) và Không Lộ Đại Thánh 空 路 大 聖 , do Nguyễn Bính soạn năm 1572; và sự tích Vân Cát Thần Nữ (Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主). 8. Xã Nguyên Xá 阮 舍: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Minh Công 明 公 (Đức Vua Anh Triết... Đại Vƣơng 德 。 英 哲... 大 王) và Hùng Công 雄 公 (Đức Vua Thông Duệ... Đại Vƣơng 德 。 通 睿... 大 王) thời Trƣng Nữ Vƣơng. 9. Xã Nghi Phú 儀 富: 10 trang, về sự tích 2 vị thủy thần là Đức Vua Cả 德 。 奇 và Đức Vua Hai 德 。 。 thời Hùng Duệ Vƣơng. 10. Xã Hy Hà 熙 河: 18 trang, về sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王 ); Trân Công 珍 公 (Thiên Trân... Đại Vƣơng 天 珍... 大 王); Nghị Công 毅 公 (Thông Nghị... Đại Vƣơng 通 毅... 大 王) và Cơ Công 機 公 (Thông Thiên... Đại Vƣơng 通 天... 大 王) thời Lý. 11. Xã Trƣợng Đỗ 杖 杜: 32 trang, gồm sự tích Thủy Thần Phúc Công 福 公 (Phúc Giang Đại Vƣơng 福 江 大 王), thời Hùng Huy Vƣơng; và sự tích Trữ Công 貯 公 (Thiên Đế Dịch Trữ Tối Linh Đại Vƣơng 天 帝 驛 貯 最 靈 大 王) thời Kinh Dƣơng Vƣơng. 12. Xã Hạ Đồng 下 同 : 17 tích Kỳ Công 棋 公 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Cửa Ải Đại Vƣơng 當 境 城 隍。 隘 大 王) thời Hùng Duệ Vƣơng. Thần tích 5 xã thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh 1. Xã Đông Dƣ 東 畬: 4 trang, gồm sự tích Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 , con Lý Thái Tông; Cao Sơn Đại

233

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

嘉 林 縣 各 社 神 蹟

90.

AE.A3/5

Hán

1 bản viết

Vƣơng 高 山 大 王 , ngƣời Bảo Sơn, nƣớc Đại Minh, có linh ứng, đƣợc các nƣớc chƣ hầu của nhà Minh phụng thờ; và Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主 , ngƣời đời Lê. 2. Xã Kim Quan 金 關: 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần có linh ứng (không rõ danh tính và công trạng) thời Đƣờng Ý Tông; và sự tích Thạch Việt Nguyễn Tôn thần 石 越 阮 尊 神 thời Lý Cao Tông. 3. Xã Xuân Quan 春 關: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Sùng Công 崇 公 (Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王 ) thời Hùng Duệ Vƣơng; và sự tích Uy Công 威 公 , Vũ Công 武 公 thời Lý Thánh Tông. 4. Xã Đa Tốn 多 遜: 3 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đô Công 都 公 (Đô Thống Đại Vƣơng 都 統 大 王 ), Hiển Công 顯 公 (Chiêu Hiển Đại Vƣơng 昭 顯 大 王 ), Lang Công 郎 公 (Tam Lang Đại Vƣơng 三 郎 大 王 ) thời Trƣng Nữ Vƣơng; và sự tích Không Thuyền Công 空 船 公 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王), Nam Công 南 公 (Nam Đô Đại Vƣơng 南 都 大 王 ), Triền Công 廛 公 (Khúc Triền Đại Vƣơng 曲 纏 大 王 ), Hàn Công 寒 公 (Chính Hàn Đại Vƣơng 正 翰 大 王 ) thời Hùng Duệ Vƣơng. 5. Xã Kiêu Kỵ 驍 騎 : 24 trang, về sự tích Nguyễn Chế Nghĩa 阮 制 義 (Nhập Nội Hành Khiển... Đại Vƣơng 入 內 行 譴 ... 大 王 ) Sùng Phúc 崇 福 (Hoàng Thái Tử Phối Đại Vƣơng 皇 太 子 配 大 王) và Nguyệt Hoa Công Chúa 月 花 公 主 đời Trần. Thần thích 13 xã thuộc 3 huyện của phủ Khoái Châu, tỉnh Hƣng Yên. I. Huyện Đông An:

Hƣng Yên tỉnh Khoái Châu phủ Đông An Huyện

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

234

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Kim Động huyện Phù Cừ huyện các xã thần tích 興 安 省 快 卅 府 東 安 縣 金 洞 縣 芙 渠 縣 各社 神 蹟

1. Xã Duyên Linh: 32 trang, gồm sự tích 2 vị thần đời Lê, do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Hùng Dũng Mƣu Lƣợc... Khoan Nghị Đại Vƣơng 雄 勇 謀 略... 寬 毅 大 王; Quận Phu Nhân... Phi Nƣơng 郡 夫 人... 妃 娘; và 1 vị thần thời Trần, ghi năm 1706: Đệ Nhất Âm Cung Ngọc Nữ... Thủy Tinh Công Chúa 第 一 陰 宮 玉 女... 水 晶 公 主. 2. Xã Xuân Quan 椿 關: 6 trang, soạn năm 1572, về sự tích Thuận Thánh Bảo Từ Thái Thƣợng Hoàng Hậu 順 聖 保 慈 太 上 皇 后 (vợ của Trần Anh Tông). 3. Xã Trƣơng Xá 張 舍: 16 trang, chép năm 1696, gồm sự tích 3 vị thần triều Lý: Đông Hải Đoàn Đại Vƣơng 東 海 段 大 王; Câu Mang Minh Triết Đoàn Đại Vƣơng 勾 茫 明 哲 段 大 王; Sùng Chân Thông Duệ Đoàn Đại Vƣơng 崇 真 聰 睿 段 大 王. 4. Xã Đa Hòa 多 禾: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Chử Công Đồng Tử Thƣợng Đẳng Đại Vƣơng 褚 公 童 子 上 等 大 王; Tiên Dung Công Chúa Thƣợng Đẳng Thiên Tiên 仙 容 公 主 上 等 天 仙; Nội Trạch Tây Cung Công Chúa 內 澤 西 宮 公 主. 5. Xã Thuần Lễ 純 禮: 10 trang, sao năm 1740, về sự tích Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 triều Lý. 6. Xã Phú Trạch 富 澤: 6 trang, sao năm 1783, gồm sự tích: Lê Bí 黎 秘 (Đế Quân Linh Thông Cảm Ứng Đại Vƣơng 帝 君 靈 聰 感 應 大 王) triều Lý; Thuấn Hoa Công Chúa 舜 花 公 主 ; Triều Hoa Công Chúa 朝 花 公 主. 7. Xã Nhạn Tháp 雁 塔: 2 trang, sao năm 1794, về sự tích Thái Úy Sơn Quốc Công 太 尉 山 國 公 (Trung Mẫn Hiển Ứng Đại Vƣơng 忠 敏 顯 應 大 王). 8. Xã Yên Vỹ 安 偉: 10 trang, sự tích Trần Công Xán 陳 公

235

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

91.

AE.A13/25

Hán

1 bản viết, 105 trang

Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Công

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

粲 triều Lê. * Có bài văn bia lập ngày tháng Giêng năm Cảnh Thịnh 2 (1794). 9. Xã Cốc Phong 穀 豐: 6 trang, về sự tích Trâu Canh Tổng Thống Quân Vụ Đại Thần 鄒 庚 總 統 軍 務 大 臣 triều Tiền Lý. II. Huyện Kim Động 金 洞: 1. Xã Phƣợng Lâu 鳳 樓: 34 trang, sao năm 1705, gồm sự tích 5 vị Đại Vƣơng triều Hùng: Dực Thánh Đại Vƣơng 翼 聖 大 王 , Hoằng Tổ Đại Vƣơng 弘 祖 大 王 , Trung Thành Đại Vƣơng 忠 誠 大 王, Linh Uyên Đại Vƣơng 靈 淵 大 王, Quý Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王. III. Huyện Phù Cừ: 1. Xã La Tiến 羅 進: 42 trang, gồm sự tích Thiên Khai Đại Vƣơng 天 開 大 王 (Linh Ứng Hộ Quốc... Thƣợng Đẳng Phúc Thần 靈 應 護 國... 上 等 福 神 triều Hùng, do Nguyễn Bính soạn năm 1572; và 3 vị thần triều Lý, chép năm 1629: Đại Bàng Nguyên Soái Linh Lang Đại Vƣơng 大 旁 元 帥 靈 郎 大 王; Đinh Thống 丁 統 (Đô Thống Đại Vƣơng 都 統 大 王); Đinh Minh 丁 明 (Hiến Minh Đại Vƣơng 獻 明 大 王). 2. Xã Phan Xá 潘 舍: 8 trang, sao năm 1741, về sự tích Bảng nhãn Nguyễn Thái Bạt 阮 太 拔 (Thái Bạt Linh Ứng Đại Vƣơng 太 拔 靈 應 大 王). 3. Xã Trúc Giản 竹 簡: 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Cao Đô Nha Đại Vƣơng 高 都 衙 大 王 triều Hùng. Thần tích 5 xã thuộc tổng Công Xá, huyện Nam Xƣơng, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Mạc Thƣợng 幕 上: 32 trang, do Nguyễn Bính soạn năm

236

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Xá tổng các xã thần tích 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 公 舍 總 各 社 神 蹟

1572, gồm sự tích Đông Bảng Phổ Tế Đại Vƣơng 東 榜 普 濟 大 王; Tây Hải Quảng Tế Đại Vƣơng 西 海 廣 濟 大 王, triều Trần; và sự tích Thủy Tinh Công Chúa 水 晶 公 主. 2. Xã Vĩnh Trụ 永 柱: 8 trang, do Nguyễn Hiền sao năm Vĩnh Hựu 10 (1744), gồm sự tích: Bảng Công 榜 公 (Bảng Công Đại Vƣơng 榜 公 大 王); Cát Công 吉 公 (Minh Cát Đại Vƣơng 明 吉 大 王) và Vũ Khang Công 武 康 公 (Ngũ Lôi Đại Vƣơng 五 雷 大 王) và Vũ Tuấn Công 武 俊 公 (Linh Ứng Đại Vƣơng 靈 應 大 王). 3. Xã Dũng Kim 湧 金: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đức Vua Linh Lang Đại Vƣơng 德 。 靈 郎 大 王; Đức Vua Đại Quốc Thần Chính Tâm Cƣ Sĩ... Đại Vƣơng 德 。 大 國 神 正 心 居 士... 大 王; và Hiếu Túc Uy Vũ... Đại Vƣơng 孝 肅 威 武... 大 王 triều Hùng Vƣơng. 4. Xã Hội Động 會 洞: 25 trang, gồm sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王 ); Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王; Đông Phƣơng Đại Vƣơng 東 方 大 王; Đông Bảng Đại Vƣơng 東 榜 大 王; Thiên Quan Cửa Chùa Đại Vƣơng 天 官 。 廚 大 王; Thiên Quan Đầu Cầu Đại Vƣơng 天 官 頭 梂 大 王, triều Lý. 5. Xã Mạc Hạ 幕 下: 22 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Tứ Vị Hồng Nƣơng Phu Nhân 四 位 洪 娘 夫 人.

92.

AE.A13/28

Hán

1 bản viết, 36 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thần tích xã Đồng Bàn, tổng Thổ Ốc, huyện Nam Xang, tỉnh Hà Nam, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王; Thiên Quan Viên Quán Đại Vƣơng 天 官 園 館 大 王; Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主 ; Quế Anh Phu Nhân 桂 英 夫 人; và Lự Nƣơng Tôn Thần 濾 娘 尊 神 triều Lý.

Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Thổ tổng Đồng Ốc Bàn thần xã tích 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 土

237

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

沃 總 銅 盤 社神 蹟

93.

AE.B2/7

Hán

1 bản viết, 85 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thanh Hóa tỉnh Thiệu Hóa phủ Đông Sơn huyện Tuyên Hóa tổng các xã thần tích 清 化 省 東 山 縣 宣 化 總 各 社神 蹟

Thần tích 5 thôn 2 xã thuộc tổng Tuyên Hóa, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 1. Xã Mai Xuyên 枚 川: 10 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Dĩnh Công 穎 公 (Bản Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 本 境 城 隍... 大 王) công thần thời Lê. 2. Thôn Liệu 料 , xã Y Xá 伊 舍: 4 trang, gồm 2 bản kê khai đề năm Minh Mệnh (1840), về việc thôn này chƣa có thần tích. 3. Xã Tuyên Hóa 宣 化: 19 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Mang Công 芒 公 (Trung Thành Đại Vƣơng 忠 誠 大 王), công thần thời Hùng Duệ Vƣơng và Linh Lang 靈 郎 (Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 ) công thần thời Lý. 4. Thôn Xuân Lƣu 春 留 , xã Phúc Khê 福 溪 : 14 t.r, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Nguyệt Nƣơng 月 娘 (Nguyệt Nga Công Chúa Phu Nhân 月 娥 公 主 夫 人), gốc ngƣời phƣơng Bắc, sang định cƣ ở nƣớc ta, đƣợc Tống Nghệ Tông vời về Bắc quốc, lập làm Cung phi thứ 3. Sau nàng về nƣớc, mất tại bản quán, đƣợc dân lập đền thờ. 5. Thôn Nhuệ Thâm (Sâm) 銳 琛, xã Phúc Khê 福 溪: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích: Văn Lƣơng 文 良 (Chu Lƣơng Tế Thế... Đại Vƣơng 周 良 濟 世... 大 王) công thần thời Trần Thái Tông; Uy Công 威 公 (Bản Cảnh Thành Hoàng Uy Linh... Đại Vƣơng 本 境 城 隍 威 靈... 大 王) và Thành Công 成 公 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Chàng Út... Đại Vƣơng 當 境 城 隍 。 。... 大 王), đều là công thần thời Lý. 6. Thôn Cáo 告 xã Phúc Khê 福 溪: 6 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thƣợng Ngàn Công Chúa 上 岸 公

238

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

94.

AE.A13/23

Hán

1 bản viết, 67 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Cao Đà tổng các xã thần tích 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 高 陀 總 各 社 神 蹟

主 , từng âm phò Lê Thái Tổ đánh quân Minh. 7. Thôn Phúc Hậu 福 厚 , xã Phúc Khê 福 溪: 16 trang, gồm bài Cao Sơn Đại Vƣơng thần từ bi minh tịnh tự, soạn năm Hồng Thuận (1510) và 1 bản ngọc phả, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, đều viết về Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王, có công giúp nƣớc, giúp dân. Thần tích 4 xã thuộc tổng Cao Đà, huyện Nam Xang, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Đông Trụ 東 柱: 26 trang, do Nguyễn Bính soạn, sao lại vào năm Vĩnh Hựu 3 (1737), gồm sự tích Dũng Nhiên Đại Vƣơng 勇 燃 大 王; Sát Nhiên Đại Vƣơng 察 燃 大 王; Siêu Nhiên Đại Vƣơng 超 燃 大 王; Lợi Nhiên Đại Vƣơng 利 燃 大 王; và Nhƣợc Nhiên Đại Vƣơng 若 燃 大 王. 2. Xã Cao Đà 高 陀: 20 trang, gồm sự tích Nam Hải Thƣợng Đẳng Thánh Vƣơng Tối Linh Hoàng Đế 南 海 上 等 聖 王 最 靈 皇 帝; Hổ Mang Tế Quốc Đại Vƣơng 虎 茫 濟 國 大 王; Du Dƣợc Tá Quốc Đại Vƣơng 油 藥 佐 國 大 王; Phổ Tế Dực Vận Đại Vƣơng 普 濟 翊 運 大 王; Thánh Mẫu Thuần Mỹ Đoan Trang Công Chúa 聖 母 純 美 端 莊 公 主 triều An Dƣơng Vƣơng và sự tích Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 triều Đinh. 3. Xã Đà Xuyên 陀 川: 9 trang, soạn năm Cảnh Trị 8 (1670), về sự tích Mạ Vàng Công Chúa 禡 。 公 主. 4. Xã Đại Hoàng 大黃: 10 trang, do Nguyễn Bính soạn, sao lại vào năm Vĩnh Hựu 4 (1738), gồm sự tích Mỹ Đạo Đại Vƣơng 美 帽 大 王; Chàng Hộ Tấu Đại Vƣơng 撞 護 奏 大 王; và Quận Chúa Phu Nhân Đại Vƣơng 郡 主 夫 人 大 王 triều Trƣng Nữ Vƣơng. Thần tích 2 thôn, 2 xã thuộc tổng Bách Liên, huyện Yên Mô, 1 bản viết, 132

95.

Ninh Bình

tỉnh AE.A4/33

Cuối thế kỷ

239

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

trang

Niên đại định bản XIX - đầu thế kỷ XX

Yên Mô huyện Bạch Liên tổng các xã thôn thần tích 寧 平 省 安 謨 縣 白 蓮 總 各 社 村 神 蹟

bằng

chầu

thần

văn

bài

96.

AE.A15/32

1 bản viết, 168 trang

Hán và Nôm

Đ Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Phú Lão tổng các xã thôn thần tích 南 定 省 務 本 縣 富 老 總 各 社 村 神 蹟

tỉnh Ninh Bình. 1. Thôn Tiên Dƣơng 先 揚 xã Bạch Liên 白 蓮: 36 trang, gồm sự tích 4 vị thần triều Hùng, do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Trƣởng Minh Ngọ Đại Vƣơng 長 明 午 大 王; Thứ Minh Ngọ Đại Vƣơng 次 明 午 大 王; Quý Minh Ngọ Đại Vƣơng 貴 明 午 大 王; Trung Đẳng Lý Ngƣ Đại Thần 中 等 鯉 魚 大 神 , và sự tích Trần Khát Chân 陳 渴 真 triều Trần. 2. Xã Trƣờng Khê 長 溪: 30 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Hùng: Nguyễn Hổ Sùng 阮 虎 崇 (Cao Sơn Mãnh Hổ... Thƣợng Đẳng Thần 高 山 猛 虎... 上 等 神 ); Bạch Diện Sơn Tinh Tinh Khiết Phu Nhân 白 面 山 精 精 潔 夫 人. 3. Thôn La Phù 羅 浮 , xã Bồ Xuyên 蒲 川: 14 trang, gồm sự tích Trần Giản Định Hoàng Đế 陳 簡 定 皇 帝, soạn năm 1478; Tạ Nghĩa 謝 義 triều Lê. 4. Xã Mã Tiên 馬 鞭: 50 trang, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主 (Thiên Tiên Thánh Mẫu 天 仙 聖 母 ). Thần tích 5 thôn, 1 xã thuộc tổng Phú Lão, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. 1. Thôn Phú Cốc 富 穀: 60 trang, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. chữ Nôm. * Có 2. Thôn Bích Phu 甓 敷: 14 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Câu Mang Đại Vƣơng 勾 芒 大 王 triều Hùng. 3. Thôn Phú Lão 富 老 xã Hành Nhân 行 仁: 52 trang, gồm sự tích: Nữ Hoa Nƣơng Công Chúa 女 花 娘 公 主 Quế Hoa Nƣơng Công Chúa 桂 花 娘 公 主 triều Trƣng Vƣơng, do Nguyễn Bính soạn năm 1572; Tản Viên Sơn Thánh 傘 圓 山 聖 triều Hùng, Nguyễn Hiền sao năm 1736; Linh Lang Cù Lộ

240

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Đại Vƣơng 靈 。 。 露 大 王 triều Lý. 4. Xã Bàn Kết 盤 結: 10 trang, về sự tích Lang Lang Cù Lộ Đại Vƣơng 靈 。 。露 大 王 triều Lý. 5. Thôn Phú 富: 10 trang, về sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚 triều Lý. 6. Thôn Duyên, Duyên Trƣờng 延 長: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích 2 vị thần triều Hùng: Diêm La Đại Vƣơng 閻 羅 大 王, Tề Thiên Đại Vƣơng 齊 天 大 王.

97.

AE.B1/11

Hán

1 bản viết, 47 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thần tích xã Ƣớc Lễ thuộc tổng Thông Lãng, phủ Hƣng Nguyên, tỉnh Nghệ An: 47 trang, gồm sự tích Cao Hiển 高 顯 (Cao Các Đại Vƣơng 高 閣 大 王); Phật Đƣờng Cƣơng Khấu Linh Ứng Hách Trạc Tôn Thần 佛 堂 剛 叩 靈 應 赫 濯 尊 神; và Liễu Hạnh Công Chúa Ngọc Phả 柳 杏 公 主玉 譜.

Nghệ An tỉnh Hƣng Nguyên phủ Thông Lãng tổng Ƣớc Lễ xã thần tích 乂 安 省 興 元 府 通 朗 總 約 禮 社 神 蹟

98.

AE.A11/6

Hán

1 bản viết, 196 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Phúc Yên tỉnh Yên Lãng phủ Bạch Trữ tổng các xã thần tích 福 安 省 安 郎 府 白 宁 總 各 社 神 蹟

Thần tích 5 xã thuộc tổng Bạch Trữ, phủ Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên. 1. Xã Tháp Miếu 塔 廟: 53 trang, gồm sự tích Cao Biền 高 駢 (An Nam Đô Hộ Đƣờng Cao Vƣơng Đại Vƣơng 安 南 都 護 唐 高 王 大 王); Đô Đài Minh Tự Công Đại Vƣơng 都 薹 明 字 公 大 王, Ngọc Thanh Hoàng Hậu Chính Cung Tôn Thần 玉 清 皇 后 正 宮 尊 神, Huệ Nƣơng Cung Phi Phu Nhân Tôn Thần 惠 娘 宮 妃 夫 人 尊 神, soạn năm Hồng Phúc 1 (1572); Thái Trƣởng Hƣơng Nƣơng Công Chúa 太 長 興 娘 公 主 triều Trần, sao lại năm Tự Đức 21 (1868). 2. Xã Thịnh Kỷ 盛 紀: 76 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Hối Công 晦 公 (Đông Hối Đại Vƣơng 東 晦 大 王); Vũ Đống Thần Vƣơng 武 棟 神 王 triều Hùng Vƣơng; và Nƣơng Tử 娘 子 (Nƣơng Tử Công Chúa 娘 子 公 主 ); Tam

241

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

99.

AE.B2/18

Hán

1 bản viết, 75 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

tỉnh Thanh Hóa Đông Sơn huyện Thọ Hạc tổng các thần thôn xã tích 清 化 省 東 山 縣 壽 鶴 總 各 社村 神 蹟

Giang Đại Vƣơng 三 江 大 王 (Trƣơng Hống 張 吼 , Trƣơng Hát 張 喝 ); Đông Tây Nam Bắc Tứ Bộ Nhự Tuy Chi Thần 東 西 南 北 四 部 茹 綏 之 神 triều Lý. 3. Xã Bạch Trữ 白 苧: 28 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Thiên Tiên 天 僊 (Thái Hậu Quốc Chính Thiên Tiên Công Chúa 太 后 國 正 天 僊 公 主 ); và Cống Sơn Đại Vƣơng 貢 山 大 王 triều Trƣng Nữ Vƣơng. 4. Xã Đạm Nội 淡 內: 30 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hựu Công 祐 公 (Hựu Thiện Tối Linh Đại Vƣơng 祐 善 最 靈 大 王). 5. Xã Đạm Xuyên 淡 川: 7 trang, gồm sự tích Cao Bi Hùng Vƣơng Đại Thánh 高 碑 雄 王 大 聖; Thủy Tinh Thần Nữ Công Chúa 水 晶 神 女 公 主; và Dƣơng Uy Phấn Vũ Đại Vƣơng 揚 威 奮 武 公 主. Thần tích 4 thôn, 2 xã thuộc tổng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 1. Thôn Đông Sơn 東 山: 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Uy Công 威 公 (Bản Cảnh Thành Hoàng Uy Linh... Đại Vƣơng 本 境 城 隍 威 靈... 大 王) và Chàng Út... (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Chàng Út... Đại Vƣơng 當 境 城 隍。 。... 大 王), đều là công thần thời Lý. 2. Xã Nam Ngạn 南 岸: 9 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về Văn Lƣơng 文 良 (Chu Lƣơng Tế Thế... Đại Vƣơng 周 良 濟 世... 大 王) công thần thời Trần Thái Tông. 3. Thôn Hạc Song 鶴 窗: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Nguyệt Nƣơng 月 娘 (Nguyệt Nƣơng Công Chúa Phu Nhân 月 娘 公 主夫 人), ngƣời phủ Kiến Xƣơng, đạo Sơn Nam, có sắc đẹp, từng đƣợc vua Tống lập làm Cung

242

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

lập

nơi

đền

nhiều

100.

AE.A15/9

Hán

1 bản viết, 100 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Nam Định tỉnh Hải Hậu huyện Tân Khai tổng các xã thần tích 南 定 省 海 後 縣 新 開 總 各 社 神 蹟

phi thứ 3. Do có công đức với dân, sau khi mất (tại nƣớc ta), bà đƣợc thờ. 4. Thôn Định Hòa 定 和: 14 trang, về: Kiều Lộ 橋 路 , vị thần do trời ban xuống, có linh ứng, dân cầu nguyện đều đƣợc nhƣ ý; Thƣợng Ngàn Công Chúa 上 岸 公 主 , từng âm phù Lê Thái Tổ đánh quân Minh; Trang Quốc Công 莊 國 公 họ Đỗ 杜 , húy Thành 誠 , ngƣời xã Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, công thần thời Lê sơ, từng giúp Lê Lợi đánh quân Minh, đƣợc ban quốc tính, sau khi mất, đƣợc dân lập đền thờ; Từ Thiện Phu Nhân 慈 善 夫 人: họ Nguyễn 阮 , húy Hà 河, ngƣời thôn Định Hòa, Phu Nhân của Trang Quốc Công; và Trinh Liệt Phu Nhân 貞 烈 夫 人: họ Nguyễn 阮 , húy Kỳ 奇 , Phu Nhân của Trang Quốc Công. * Sự tích 3 vị thần sau cùng đều do Nguyễn Bính soạn năm 1572. 5. Thôn Vĩnh Quần 永 群: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về Trung Thành 忠 誠 (Trung Thành Đại Vƣơng 忠 誠 大 王), công thần thời Hùng Duệ Vƣơng, và Linh Lang 靈 郎 (Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王) công thần thời Lý. 6. Xã Sơn Viện 山 院: 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về Hiển Công 顯 公 (Bắc Quốc Quảng Đông Trấn Đông Nhạc Hiển Linh... Đại Vƣơng 北 國 廣 東 鎮 東 岳 顯 靈... 大 王) ngƣời Bắc quốc. Thần tích 1 trại, 1 ấp, 2 xóm, 1 xã thuộc tổng Tân Khai, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. 1. Xã Thƣơng Điền 滄 田: 8 trang, về sự tích Lê Ngọc Tảo 黎 玉 藻 (Lƣơng Quốc Quốc Trƣởng Công Chúa Lê Thị Ngọc Tảo Phúc Thần 梁 國 國 長 公 主 黎 氏 玉 藻 福 神 ). 2. Xóm Kiên Chính 堅 正: 12 trang, gồm sự tích 2 vị thần triều

243

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

101.

AE.A2/45

Hán

1 bản viết, 96 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Hoàng Trung, Tri Chỉ nhị tổng các xã thần tích 河 東 省 富 川 縣黃 中 知 止 二 總 各 社 神 蹟

Lý: Nguyễn Trung 阮 忠 (Nội Tấu Đại Vƣơng 內 奏 大 王); Nguyễn Thành 阮 誠 (Ngoại Tấu Đại Vƣơng 外 奏 大 王). 3. Xóm Tang Điền 桑 田: 10 trang, gồm sự tích 2 vị thần triều Hùng: Hùng Hải 雄 海 (Thủy Hải Ô Long Đại Vƣơng 水 海 烏 龍 大 王); Đỗ Huy 杜 徽 (Chiêu Huy Linh Ứng Đại Vƣơng 昭 徽 靈 應 大 王). 4. Ấp Văn Lý 文 理: 10 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Trƣng Vƣơng: Nguyễn Cung 阮 恭 (Thiên Thƣợng Uy Linh Tá Quốc Đại Vƣơng 天 上 威 靈 佐 國 大 王), Nguyễn Lƣơng 阮 良 (Linh Ứng Hiển Hựu Đại Vƣơng 靈 應 顯 佑 大 王). 5. Trại Hòa Định 和 定: 48 trang, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. Thần tích 4 thôn, 2 xã thuộc 2 tổng Hoàng Trung, Tri Chỉ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông. I. Tổng Hoàng Trung: 1. Thôn Thanh Xuyên 青 川 , xã Hoàng Trung 黃 中: 8 trang, về sự tích vị tiên thánh (không ghi tên) đời Lý. 2. Xã Hoàng Đông 黃 東: 6 trang, gồm sự tích Tô Lịch 蘇 瀝 (Quốc Đô Thành Hoàng Đại Vƣơng 國 都 城 隍 大 王) và Thủy Tinh Công Chúa 水 晶 公 主. 3. Thôn Nội 內 , xã Hoàng Hạ 黃 下: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hoàng Lang 皇 郎 triều Lý. 4. Xã Vân Hoàng 鄖 黃 : 58 trang, sự tích Tản Viên Sơn Thánh 傘 圓 山 聖. II. Tổng Tri Chỉ: 1. Thôn Đông 東 , thôn Thƣợng 上 , xã Hoàng Lƣu 黃 流: 10 trang, gồm sự tích Sĩ Nhiếp 士 燮 (Gia Ứng Thiện Uy Linh Vũ Sĩ Vƣơng 嘉 應 善 威 靈 武 士 王 ) và Lý Phục Man 李 服

244

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

102.

Hán

1 bản viết, 142 trang

AE.a15/4

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

tỉnh, Nam Định Hải Hậu huyện, Kiến Trung xã thần tích 南 定 省 海 後 縣 堅 忠 神 蹟

103.

AE.A17/1

Hán

1 bản viết, 70 trang

Lạng Sơn tỉnh, Cao Lộc châu, Trinh nữ tổng các

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

蠻 (Chứng An Minh Ứng... Đại Vƣơng 証 安 明 應... 大 王). Thần tích 5 xã thuộc tổng Kiên Trung, huyện Hải Hậu, phủ Xuân Trƣờng 春 長, tỉnh Nam Định. 1. Xã Kiên Trung 堅 忠: 18 trang, Gồm sự tích Thục Phán 蜀 泮(Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王); Hàm Hoằng Quang Đại Vƣơng ... Thƣợng Đẳng Thần 含 弘 光 大 王 ... 上 等 神. 2. Xã Lạc Nam 樂 南: 24 trang, Gồm các sự tích: Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王; Quý Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王 triều Hùng; Hƣng Đạo Đại Vƣơng 興 道 大 王 triều Trần; Lê Châu 黎 珠 (Thƣợng Trụ Quốc Lê Cảnh Quận Công 上 柱 國 黎 景 郡 公 ) triều Tiền Lê; Trần Xuân Trạch 陳 春 澤 triều Nguyễn; Phạm Bàn 范盤 triều Nguyễn; Lê Thế Vinh 黎 世 榮 (Minh Nghĩa Đô Úy Chƣ Quân Quản Cơ 明 義 都 尉 諸 軍 管 奇). 3. Xã Hà Lạn 霞 爛: 52 trang, Gồm sự tích: Tứ Vị Thánh Nƣơng 四 位 聖 娘 (là Hoàng Hậu, Công Chúa ... nhà Tống); Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主 ; Triệu Việt Vƣơng 趙 越 王. 4. Xã Hà Nam 霞 南: 16 trang, Gồm các sự tích: Hoàng Hậu họ Dƣơng nhà Tống 宋 后; Thục Phán 蜀 泮 (văn bản là) (Nam Hải Phạn Đại Vƣơng 南 海 梵 大 王). 5. Xã Trà Trung 茶 中: 30 trang, Gồm các sự tích: Triệu Quang Phục 趙 光 復(Triệu Việt Vƣơng 趙 越 王); Hoàng Tử Minh Lang 皇 子 明 郎(Minh Lang Uy Linh Đại Vƣơng 明 郎 威 靈 大 王) triều Hùng; Linh Lang Vƣơng 靈 郎 王 triều Lý. Thần tích 5 xã thuộc of total Trinh Nữ, Hoàng Đồng 黃同, Mỹ Liệt 美烈, Phú Xá 富舍, of the châu Cao Lộc, Điềm Hy 恬熙, Văn Uyên 文淵, tỉnh Lạng Sơn.

245

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

xã thần tích 諒 山 省 高麓 州貞 女 總 各社 神 蹟

104.

AE.A9/1

Hán

1 bản viết, 108 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Phú Thọ tỉnh, Cẩm Khê huyện các xã thần tích 富 壽 省 錦 溪 縣 各 社 神 蹟

1. Xã Trinh Nữ 貞 女, tổng Trinh Nữ, châu Cao Lộc: 14 trang, Ghi sự tích Nội Đạo Tam Quan 內 道 三 官: tiền quan, chủ quản, tả quan. 2. Xã Chính Lũy 正 屨 tổng Trinh Nữ, châu Cao Lộc: 30 trang, Ghi sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. 3. Xã Hoàng Đồng 黃 同, tổng Hoàng Đồng, châu Cao Lộc: 4 trang, Ghi sự tích Xích Long Vƣơng 赤 龍 王. 4. Xã Vân Mộng 雲 夢, tổng Mỹ Liệt, Châu Điềm Hy: 4 trang, Ghi sự tích Đinh Khác Nguyên Đại Vƣơng 丁 恪 元 大 王. 5. Xã Xuân Lũng 春 隴, tổng Phú Xá 富 舍, Châu Văn Uyên: 14 trang, Gồm sự tích: Diệu Hòa Chế Thắng Đại Vƣơng 妙 和 制 勝 大 王; Quý Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王. Thần tích 6 xã thuộc huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. 1. Xã Huân Trầm 勳 沉: 22 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Chu Sĩ 周 士 (Chu Sĩ Đại Vƣơng 周 士 大 王), công thần thời Trƣng Nữ Vƣơng. 2. Xã Thanh Nga 青 峨: 24 trang, do Nguyễn Bính soạn, về sự tích: Kiều Sứ quân 喬 使 君 (họ Kiều 喬 , húy Thuận 順 , hiệu Tƣ Tín 思 信 , ngƣời Tiết Xá, Hồi Hồ, một trong 12 Sứ quân nổi lên chiếm giữ đất Cẩm Khê, thời Thập Nhị Sứ quân, sau bị Đinh Tiên Hoàng tiêu diệt); Tôn Thần Mai Thị 尊 神 枚 氏 (họ Mai 枚 , húy là Trinh Nƣơng 貞 娘 , tự Thủy Tinh 水 精 , ngƣời xã Trƣơng Xá, huyện Hạ Hoa, thiếp của Kiều Thuận, tƣơng truyền bà đội lốt ếch). 3. Xã Hiền Đa 賢 多: 18 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về Hà Lang 何 郎 (Hà Lang Đại Vƣơng 何 郎 大 王), công thần thời Trần. 4. Xã Thạch Đê 石 堤: 10 trang, về sự tích Quảng Đại Công 廣 大 公 (Thủy Tộc... Quảng Đại Tối Linh Đại Vƣơng 水 族... 廣

246

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

105.

AF.A2/99*

Hán

1 bản viết, 168 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Đông tỉnh, Thƣờng Tín phủ, Thƣợng Phúc huyện, Tín Yên tổng các xã tục lệ 河 東 省 常 信 府 上 福 縣 信 安 總 各 社俗 例

大 最 靈 大 王), Hải Tế Công 海 濟 公 (Thủy Tộc... Hải Tế Tối Linh Đại Vƣơng 水 族... 海 濟 最 靈 大 王) và Đoan Lƣơng Công 端 良 公 (Thủy Tộc... Đoan Lƣơng Tối Linh Đại Vƣơng 水 族... 端 良 最 靈 大 王), đều là công thần thời Hùng Duệ Vƣơng. 5. Xã Văn Khúc 文 曲: 10 trang, về Tiên Dung 仙 蓉 , Quế Hoa 桂 花 , Liễu Hoa 柳 花 , thời Hùng Duệ Vƣơng, đều đƣợc phong Phúc Thần 福 神. 6. Xã Điêu Lƣơng 雕 梁: 24 trang, về Hùng Cán 雄 幹 (Cao Bình Đại Vƣơng 高 平 大 王) và Hùng Đăng 雄 登 (Đăng Sơn Đại Vƣơng 登 山 大 王), đều là công thần thời Hùng Duệ Vƣơng. Thần tích 5 thôn, 1 xã thuộc tổng Tín Yên, huyện Thƣợng Phúc, phủ Thƣờng Tín, tỉnh Hà Đông. 1. Thôn Yên Định 安 定 , xã Tín Yên 信 安: 38 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Trung Thành Đại Vƣơng 忠 誠 大 王; Duệ Công 睿 公 (Linh Ứng Đại Vƣơng 靈 應 大 王) và Bạch Công 白 公 (Bạch Đế Đại Vƣơng 白 帝 大 王) thời Hùng Duệ Vƣơng. 2. Thôn Minh Nga 明 娥 , xã Tín Yên: 48 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Hạnh Nƣơng 杏 娘 (Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主) và Quế Nƣơng 桂 娘 (Quế Hoa Công Chúa 桂 花 公 主 ) thời Lê Trang Tông; sự tích Nhã Công 雅 公 (Thiên La Đại Vƣơng 天 羅 大 王), Đổng Trình Đại Vƣơng 董 程 大 王, Uy Dũng Đại Vƣơng 威 勇 大 王 và Linh Lang 靈 郎 (Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王) thời Hùng Duệ Vƣơng. 3. Thôn Phúc Trạch 福 澤 , xã Tín Yên: 22 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đại Liệu Uy Dũng Tƣớng

247

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

106.

AE.A13/14

Hán

1 bản viết, 122 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Nam Tỉnh, Duy Tiên huyện, Trác Bút tổng các xã thần tích 河 南 省 維 先 縣 卓 筆 總 各 社 神 蹟

Quân 大 料 威 勇 將 軍 và Đỏ Nƣơng 。 娘 (Đỏ Nƣơng Trinh Thục Công Chúa 。 娘 貞 淑 公 主 ) thời Thục An Dƣơng Vƣơng. 4. Thôn Hoàng Xá 黃 舍 , xã Lƣu Khê 留 溪: 10 trang, về sự tích Cao Hiển 高 顯 , tên tự là Văn Trƣờng 文 長 (Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王) thời Hùng Vƣơng. 5. Thôn Giáp 甲 , xã Lƣu Khê: 44 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Đổng Thủy Đại Vƣơng 董 水 大 王 thời Hùng Duệ Vƣơng. 6. Xã Hà Vĩ 河 尾: 6 trang, sao lại vào năm Gia Long 3 (1804), gồm sự tích Sĩ Nhiếp 士 燮 và Bố Cái Đại Vƣơng 布 蓋 大 王. * Văn bản này thuộc loại thần tích, đúng ra phải mang ký hiệu AE. Thần tích 4 xã, thuộc tổng Trác Bút, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Hòa Mạc 和 莫: 52 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Ngã Ba Cây Nhội Chi Thần 我 。 。 。 之 神; Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 (Thanh Lãng Linh Lang Đại Vƣơng 清 朗 。 。 大 王) triều Lý; Địa Dã Cây Đa Đại Vƣơng 地 野 。 。 大 王; và Phƣơng Dung Công Chúa 芳 容 公 主. 2. Xã Lệ Thủy 麗 水: 11 trang, về sự tích Trâm Nƣơng 簪 娘 (Mạ Vàng Công Chúa 禡 。 公 主 ). 3. Xã Trác Bút 卓 筆: 27 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 và Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王 triều Lý. 4. Xã Văn Bút 文 筆: 30 trang, soạn năm 1572, gồm sự tích Quỳnh Nƣơng 瓊 娘 (Quốc Mẫu Quỳnh Dung Ngọc Tinh Công Chúa 國 母 瓊 容 玉 晶 公 主 ); Minh Nƣơng 明 娘 (Cao Minh

248

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

107.

AE.A9/7

Hán

1 bản viết, 16 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Phú Thọ tỉnh, Cẩm Khê huyện, Vân Bán tổng, Thụy Liễu, Khổng Tƣớc nhị xã thần tích 富 壽 省 錦 溪 縣 雲 半 總 瑞 柳 孔 雀 二 社 神 蹟

108.

AE.B2/11

Hán

1 bản viết, 35 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thanh Hóa tỉnh, Thọ Xuân phủ, Quảng An tổng các xã thần tích 清 化 省 壽 春 府 廣 安 總 各 社 神 蹟

Công Chúa 高 明 公 主 ); Đậu Nƣơng 竇 娘 (Sát Hạng Thủy Đâu Công Chúa 察 項 水 竇 公 主 ); Sinh Công 生 公 (Hàn Sinh Cửa Sĩ Đại Vƣơng 翰 牲 。 仕 大 王); Hãn Công 捍 公 (Hãn Thần Đại Vƣơng 捍 神 大 王); Già Công 伽 公 (Thiên Quan Cửa Già Đại Vƣơng 天 關 。 伽 大 王) triều Trƣng Nữ Vƣơng. Thần tích 2 xã thuộc tổng Vân Bán, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. 1. Xã Thụy Liễu 瑞 柳: 12 trang, chép về Quý Minh 貴 明(Quý Minh Thánh 貴 明 聖 ) và Cao Sơn 高 山(Nam Thiên Thánh Tổ Đột Ngột Cao Sơn... Thƣợng Đẳng Thần 南 天 聖 祖 突 屹 高 山... 上 等 神 ) thời Hùng Vƣơng. 2. Xã Khổng Tƣớc 孔 雀: 4 trang, sao năm Trung Tông 2 (?), về Đột Ngột Cao Sơn Thánh Vƣơng 突 屹 高 山 聖 王 , Đại Hải Thủy Tề Long Vƣơng Đại Vƣơng 大 海 水 齊 龍 王 大 王, và Đại Từ Quốc Mẫu Mỹ Ngọc Nga My Thiên Tiên Công Chúa 大 慈 國 母 美 玉 蛾 眉 天 仙 公 主 , đều thuộc họ Hồng Bàng. Thần tích 3 xã thuộc tổng Quảng An, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. 1. Xã Phúc Cƣơng 福 崗: 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thạch Long 石 龍 và Viêm Long 炎 龍 , cả hai đều do trời ban xuống âm phù Lê Thái Tổ đánh quân Minh, và đều đƣợc phong là Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王. 2. Xã Yên Lạc 安 樂: 15 t.r, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hoa Nƣơng 花 娘 (Hiển Tế Anh Linh... Thiên Tiên Thánh Nữ Công Chúa 顯 濟 英 靈... 天 仙 聖 女 公 主 ) triều Trần; Đoạn Công 鍛 公 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại

249

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

109.

AE.A2/65

Hán

1 bản viết, 40 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

tỉnh, Hà Đông Hoài Đức phủ, Từ Liêm huyện, La Nội tổng các xã thần tích 河 東 省 懷 德 府 慈 廉 縣 羅 內 總 各 社 神 蹟

110.

AE.A9/38

Hán

1 bản viết, 35 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Phú Thọ tỉnh, Thanh Ba huyện, Mạn Lạn tổng các xã thần tích 富 壽 省 青 波 縣熳爛 總 各 社神 蹟

Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王) công thần thời Lý. 3. Xã Long Thịnh 隆 盛: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về Phúc Công 福 公 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王), công thần thời Trần, và Hoằng Lực 弘 力 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王) công thần thời Lê. Thần tích 4 xã thuộc tổng La Nội, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. 1. Xã La Khê 羅 溪: 8 trang, sao năm 1810, gồm sự tích Thiên Thần Hắc Diện Đại Vƣơng 天 神 黑 面 大 王 và Thiên Tiên Bảo Hoa Công Chúa 天 仙 寶 化 公 主. * Có bài Hoàng Việt Bảo Huy phi bi 皇 越 寶 徽 妃 碑 , chép về bà phi Bảo Huy Trần Thị Tú. 2. Xã La Nội 羅 內 và xã Ỷ La 綺 羅: 18 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Đô Đốc Linh Ứng Đại Vƣơng 當 境 城 隍 都 督 靈 應 大 王 , Tả Cung Trung Hoàng Hậu Phu Nhân 左 宮 中 皇 后 夫 人 và Hữu Cung Trung Hoàng Hậu Phu Nhân 右 宮 中 皇 后 夫 人. 3. Xã Nghĩa Lộ 義 路: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần thời Trƣng Vƣơng: Quốc Vƣơng 國 王 , và Ả Lã Nàng Đê 婀 呂 娘 低. Thần tích 2 xã thuộc tổng Mạn Lạn, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. 1. Xã Mạn Lạn 熳 爛: 21 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Tuấn Vƣơng 俊 王, tục gọi là Đại Cả 大 奇 (Tuấn Vƣơng Đại Cả ... Đại Vƣơng 俊 王 大 哿 .. . 大 王 , Âm phù Sơn Thánh 山 聖 đánh giặc thời Hùng Duệ Vƣơng; và sự tích 4 vị thần là Thiên Tiên Công Chúa 天 仙 公 主, Hầu

250

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

111.

AE.A11/4

Hán

1 bản viết, 221 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

tỉnh, Phúc Yên Đông Anh huyện, tổng Xuân Nộn các thần xã tích 福 安 省 東 英 縣 春 嫩 總 各 社 神 蹟

Nƣơng Cả Đƣờng ... Công Chúa 侯 娘 哿堂...公 主, Hầu Nƣơng Cầu Phiên ... Công Chúa 侯 娘。 。. .. 公 主, Hầu Nƣơng Di Phiên ... Công Chúa 侯 娘 姨 璠 ... 公 主 giúp Trƣng Nữ Vƣơng đánh Tô Định. 2. Xã Kiều Tùng 橋 松: 14 trang, Gồm 2 bản sự tích, đều nói về Đoàn Thƣợng 段 尚(Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王), công thần thời Lý. Thần tích 4 thôn, 5 xã thuộc tổng Xuân Nộn, huyện Đông Anh, Yên. Phúc tỉnh 1. Xã Nhạn Tái 雁 塞: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Lý Xá Lỵ 李 舍 利 húy Bí 李 賁 (Xá Lại 舍 賴 , Lý Phật Tử 李 佛 子 , Thánh Phụ Xá Lại Sùng Nghiệp An Dân Đại Vƣơng 聖 父 舍 賴 崇 業 安 民 大 王); Lý Nhã Lang 李 雅 郎 (Quốc Vƣơng Thiên Tử Nhã Lang Nam Đế Vƣơng 國 王 天 子 雅 郎 南 帝 王 ), Ả Lã 婀 。 (Thánh Mẫu Ả Lã Phi Nhân Hoàng Hậu 聖 母 婀 。 皇 后); Hỗn Độn 渾 沌 (Hỗn Độn Uy Linh Cảm Ứng Đại Vƣơng 渾 沌 威 靈 感 應 大 王); Đỗ Nhuận 杜 潤 (Tá Phụ Minh Quân Đại Vƣơng 佐 輔 明 君 大 王) triều Lý. 2. Thôn Mạnh Tân 孟 津 , xã Thƣ Lâm 書 林: 27 trang, gồm sự tích Ả Thuần Nƣơng Công Chúa 婀 純 娘 公 主 triều Lý, do Nguyễn Bính soạn năm 1572; Phạm Thị Tiên 范 氏 仙 (Tiên Phi Nhân 僊 妃 人 , Lý Quốc Hoàng Thái Hậu 李 國 皇 太 后 ) triều Lý; và Đại Đƣơng Giang Minh Thiên Tá Phụ Đại Vƣơng 大 當 江 明 天 佐 輔 大 王 triều Đinh Tiên Hoàng. 3. Thôn Biểu Khê 表 溪 , xã Thƣ Lâm 書 林: 13 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Đƣơng Giang 當 江 (Tiểu Đƣơng Giang Phụ Tá Đại Vƣơng 小 當 江 輔 佐 大 王) triều Đinh Tiên Hoàng.

251

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

4. Thôn Cổ Miếu 古 廟 , xã Thƣ Lâm 書 林 : 30 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Ngọc Thanh Công Chúa 玉 清 公 主 triều Trƣng Nữ Vƣơng; Ả Nguyệt Nga Công Chúa 婀 月 娥 公 主 triều Lý Thánh Tông; và Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王). 5. Thôn Hƣơng Trầm 香 沉 , xã Thƣ Lâm 書 林: 18 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Quý Minh 貴 明 (Quý Minh Hiển Ứng Linh Thông Đại Vƣơng 貴 明 顯 應 靈 通 大 王) triều Hùng Duệ Vƣơng. 6. Xã Đào Thục 陶 熟: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đƣơng Giang 當 江 (Đƣơng Giang Tá Phụ Minh Thiên... Đại Vƣơng 當 江 佐 輔 大 王); Hoàng Hậu Mặc Tƣớng... Phi Nƣơng Phu Nhân 皇 后 默 將... 妃 娘 夫 人 triều Đinh Tiên Hoàng; và Tam Giang 三 江 (Tam Giang Khƣớc Địch Linh Ứng Đại Vƣơng 三 江 卻 敵 靈 應 大 王) triều Triệu Việt Vƣơng. 7. Xã Kim Tiên 金 僊: 14 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Hoàng Hậu Linh Thông Túy Tinh Phu Nhân 皇 后 靈 通 粹 精... 夫 人 triều Trƣng Nữ Vƣơng; Hùng Công 雄 公 (Đô Hộ Hùng Uy Đại Vƣơng 都 護 雄 威 大 王); Uy Công 威 公 (Đô Hộ Uy Hùng Đại Vƣơng 都 護 威 雄 大 王 ) thời Đƣờng Thái Tông, Vũ Đế. 8. Xã Nguyên Khê 沅 溪: 30 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Tam Giang Linh Ứng Đại Vƣơng 三 江 靈 應 大 王 (tức Trƣơng Hống, Trƣơng Hát); và Cao Hiển 高 顯 (Cao Sơn Hiển Ứng Đại Vƣơng 高 山 顯 應 大 王) triều Hùng Duệ Vƣơng. * Có bài văn bia và tựa do Lê Tung soạn năm Hồng Thuận 2 (1510).

252

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

112.

AE.A10/5

Hán

1 bản viết, 60 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Tân Tây tỉnh, Phúc Thọ huyện, Phù Sa tổng các xã Liên Chiểu, Tiền Huân thần tích 山 西 省 福 壽 縣 浮 沙 總 各 社 蓮 沼 清 沼 前 勳 神 蹟

113.

AE.A5/1

Hán

1 bản viết, 50 trang

Thái Bình tỉnh, Trực Định huyện, An Bồi tổng thần

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

9. Xã Xuân Nộn 春 嫩: 77 trang, gồm sự tích Vũ Định 武 定 và Thiên Trí 天 置 triều Hùng Duệ Vƣơng; Trƣơng Hống 張 吼 (Đại Đƣơng Giang Hộ Quốc Đại Vƣơng 大 當 江 護 國 大 王 ); Trƣơng Hát 張 喝 (Tiểu Đƣơng Giang Hộ Quốc Đại Vƣơng 小 當 江 護 國 大 王); Đông A Thế Phả Hành Trạng 東 阿 世 譜 行 狀 (Hành trạng Trần Quốc Tuấn, Nguyên từ quốc mẫu, Trần Quang Khải...); sự trạng của Hiển Thánh Đại Vƣơng (Trần Quốc Tuấn đánh quân Nguyên); bài hịch của Hiển Thánh Đại Vƣơng dụ các quân tƣớng; hành trạng một số bộ tƣớng của Trần Quốc Tuấn nhƣ: Đỗ Khắc Chung 杜 克 終 , Trần Bình Trọng 陳 平 仲 , Trần Khánh Dƣ 陳 慶 餘 , Phạm Ngộ 范 遇 , Yết Kiêu 歇 驍 , Nguyễn Khoái 阮 蒯 , Đỗ Hành 杜 衡 , Trần Thời Kiến 陳 時 見 , Trƣơng Hán Siêu 張 漢 超 , v.v... Thần tích 3 xã thuộc tổng Phù Sa, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây. 1. Xã Liên Chiểu 蓮 沼: 37 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1573, gồm sự tích Bạch Nƣơng 白 娘 (Bạch Ngọc Thánh Mẫu Công Chúa 白 玉 聖 母 公 主 ); Chiêu Công 昭 公 (Chiêu Ứng Hộ Quốc An Dân Đại Vƣơng 昭 應 護 國 安 民 大 王) triều Hùng Vƣơng. 2. Xã Thanh Chiểu 清 沼: 17 trang, sao lại vào năm 1894; về sự tích Tản Viên Sơn Thánh Thƣợng Đẳng Thần Quốc Chủ Đại Vƣơng 傘 圓 山 聖 上 等 神 國 主 大 王 triều Hùng Vƣơng. 3. Xã Tiền Huân 前 勳: 5 trang, soạn vào năm Cảnh Thống 2 (1499), về sự tích Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Thánh Bà Thánh Triết Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 聖 婆 聖 哲 大 王. Thần tích 3 xã thuộc tổng An Bồi, huyện Trực Định, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Công Bồi 功 培: 22 trang, gồm sự tích Thục An Dƣơng

253

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

tích 太 平 省 直 定 縣 安 培 總 神 蹟

114.

AE.A6/21

Hán

1 bản viết, 10 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

115.

AE.A4/9

Hán

1 bản viết, 108 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hải Dƣơng tỉnh, Thanh Hà huyện, Hạ Vĩnh tổng, Hạ Vĩnh xã thần tích 海 陽 省 青 河 縣 下 永 總 下 永 社 神 蹟 Ninh Bình tỉnh, Gia Viễn, Đại Hữu tổng các xã thần tích 寧 平 省 嘉 遠 大 有 有 總 各 社神蹟

Vƣơng 蜀 安 陽 王 (Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王); sự tích Chân Nƣơng 真 娘 hiệu Thục Nƣơng 淑 娘 (Thánh Mẫu Vua Bà Cao Thiện Đại Vƣơng 聖 母 。 婆 高 善 大 王), thiếp của Thục An Dƣơng Vƣơng; sự tích Mỵ Châu 媚 珠 , tên hiệu Tinh Nhất Nƣơng 精 一 娘 (Thánh Tử Hoàng Phi Vua Nƣơng Đại Vƣơng 聖 子 皇 妃 。 娘 大 王), vợ của Trọng Thủy; sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đoàn Đại Vƣơng 東 海 段 大 王) triều Lý. 2. Xã An Bồi 安 培 : 14 trang, về sự tích Nhà Nƣơng 茹 娘 (Cao Thiên Hoàng Bà... Đại Vƣơng 高 天 皇 婆... 大 王), thời Trƣng Vƣơng, do Nguyễn Hiền sao năm 1739. Phụ chép thần tích khu Đoài Duyệt 兌 悅 , thờ vị thần ngƣời xã Hạ Bì, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dƣơng. 3. Xã Thƣ Điền 書 田: 14 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Nguyệt Nƣơng 月 娘 (Tống Hậu Phu Nhân 宋 后 夫 人), vợ Tống Nghệ Tông, đắm thuyền ở Cửa Cờn. Thần tích xã Hạ Vĩnh thuộc tổng Hạ Vĩnh, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dƣơng, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Chân Công 真 公 (Bản Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 本 境 城 隍... 大 王); Khang Nƣơng 康 娘 (Thánh Mẫu Bồ Tát... Công Chúa 聖 母 菩 薩... 公 主 ); và Trí Công 智 公 (Bản Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 本 境 城 隍... 大 王) thời Đinh Tiên Hoàng. Thần tích 4 xã thuộc tổng Đại Hữu, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. 1. Xã Đại Hữu 大 有: 44 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đinh Tiên Hoàng Đế 丁 先 皇 帝; Thánh Mẫu 聖 母; Nguyễn Tùng 阮 松(Tản Viên Sơn Thánh 傘 圓 山 聖); Tam Giang Bạch Hạc Chiêu Dung ... Đại Vƣơng 三 江 白

254

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

116.

AE.A5/27

Hán

1 bản viết, 114 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

tỉnh, Thái Bình Hƣng Nhân huyện các xã thần tích 太 平 省 興 仁 縣 各 社 神 蹟

鶴 昭 融 ... 大 王 triều Hùng; Quốc Mẫu Hoàng Bà ... Phù Nhân 國 母 皇 婆 ... 夫 人 triều Hùng; Hoằng Hóa Uy Linh Quý Lang ... Đại Vƣơng 弘 化 威 靈 貴 廊 ... 大 王 triều Hùng. 2. Xã Vân Lung 雲 籠: 30 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Nguyễn Ngọ Lang 阮 午 郎(Ngọ Sơn Đại Vƣơng 午 山 大 王) triều Hùng; Tứ Vị Hồng Nƣơng 四 位 紅 娘(4 chị, không rõ tên) triều Trƣng Vƣơng. 3. Xã Điềm Xá 恬 舍 và xã Điềm Giang 恬 江: 32 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần đời Lý: Nguyễn Minh Không thiền sƣ 阮 明 空 禪 師; Tô Hiến Thành Thái sƣ 蘇 憲 誠 太 師 (Trung Nghĩa Đại Vƣơng 忠 義 大 王). Thần tích 3 thôn, 6 xã, thuộc tổng Quan Bế , huyện Hƣng Nhân, tỉnh Thái Bình. 1. Thôn Côn 昆, xã Tảo Sơn 早 山: 16 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Minh Công 明 公(Cao Minh Chính Trực Đại Vƣơng 高 明 正 直 大 王) và Đông Hải Đà La. .. Đại Vƣơng 東 海 陀 羅 ... 大 王 Thời Lý. 2. Thôn Nhiễm 染, xã Tảo Sơn 早 山: 12 trang, Do Nguyễn Hiền sao năm 1736, về sự tích Hoa Nƣơng 花 娘, Cung phi thứ hai của Lý Thái Tông, và Hoàng Lang 皇 郎(Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王) thời Lý. 3. Thôn Tảo 早, xã Tảo Sơn 早 山: 4 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Tấu Công 奏 公(Hoàng Tấu Đại Vƣơng 黃 奏 大 王). 4. Xã An Nhân 安 仁: 16 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thánh Phụ (Ông Lâu 翁 樓); Thánh Mẫu (Bà. .... ( thiều 1 đồng) 琶 樓 梂 哩 侯 Quan Cầu Lý ... Đại Vƣơng 天 官 梂 哩 ... 大 王); Cầu Ngói Hầu 梂瓦侯(Thiên

255

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Quan Cầu Ngói ... Đại Vƣơng 天 官 勾 。... 大 王; Viên Thẩn Hầu 園 矧 侯(Thiên Quan Viên Thẩn ... Đại Vƣơng 天 官 園 矧 ... 大 王); Bát Bộ Hầu 八 步 侯(Thiên Quan Bát Bộ ... Đại Vƣơng 天 官 八 步 ... 大 王); Hƣơng Thần Hầu 鄉 神 侯(Thiên Quan Hƣơng Thần ... Đại Vƣơng 天 官 鄉 神 ... 大 王); Lôi Công Hầu 雷 公 侯(Thiên Quân Lôi Đa ... Đại Vƣơng 天 官 雷 多. .. 大 王) và Quý Minh Hầu 貴 明 侯(Thiên Quan Quý Minh ... Đại Vƣơng 天 官 貴 明 ...大 王) thời Hùng Vƣơng. 5. Xã Thọ Khê 壽 溪: 16 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Đại Đạo 大 道 (Đại Đạo Đại Vƣơng 大 道 大 王) và Đại Hải 大 海(Đại Hải Đại Vƣơng 大 海 大 王 ) thời Hùng Vƣơng. 6. Thôn Nhiễm 染, xã Lƣơng Khê 良 溪: 6 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Minh Khê Đại Vƣơng 明 溪 大 王 Triệu Việt Vƣơng và Thiên Tinh Công Chúa 天 晶 公 主 (không rõ big time). 7. Xã Hà Thanh 河 清: 12 trang, Về sự tích Sơn Hồ Công 山 瑚 公(Sơn Hồ ... Đại Vƣơng 山 瑚 ... 大 王); Khổng Lộ Nguyễn Công 孔 路 阮 公(Khổng Nguyễn ... Đại Vƣơng 孔 阮 ... 大 王 ) và Minh Nghị Công 明 誼 (Minh Nghị ... Đại Vƣơng 明 誼 ... 大 王) thời Hùng Duệ Vƣơng. 8. Xã Lƣơng Ngọc 良 玉 : 28 trang, Gồm có Bát nạn Phu nhân 扒 難 夫 人(Trinh Thục Công Chúa 貞 淑 公 主) thời Trƣng Nữ Vƣơng; sự tích Thục An Dƣơng Vƣơng 蜀 安 陽 王 (Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王); và sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚(Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王) thời Lý. 9. Xã Quan Hà 關 河: 4 trang, Về sự tích Triệu Việt Vƣơng 趙

256

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

117.

AE.A13/1

Hán

1 bản viết, 90 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Nam tỉnh, Duy Tiên huyện, An (Yên) Khê tổng các xã thần tích 河 南 省 維 先縣 安 溪 總 各 社神 蹟

118.

AE.A2/43

Hán

1 bản viết, 154 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Đông tỉnh, Phú Xuyên huyện các xã thần tích 河 東 省 富 川 縣 各 社神 蹟

越 王 và Triệu Đà 趙 陀(Triệu Đà Quốc Vƣơng 趙 陀 國 王). Thần tích 2 thôn, 2 xã, thuộc tổng An (Yên) Khê, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. 1. Xã An (Yên) Khê 安 溪: 30 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Trung Thành Đại Vƣơng 中 誠 大 王 ; Đông Bảng Đại Vƣơng 東 榜 大 王; Linh Lang đại vƣơng 靈 榔大 王; Nam Bính đại vƣơng 南 柄 大 王; Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王. 2. Thôn Thƣợng 上, xã Mang Sơn 茫 山: 24 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 và Linh Hựu Đại Vƣơng 靈 佑 大 王 triều Lý. 3. Thôn Thủy Cơ 水 機, xã Mang Sơn 茫 山: 15 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Linh Lang Đại Vƣơng Thƣợng Đẳng Thần 靈 郎 大 王 上 等 神; Quận Hoa Công Chúa 郡 花 公 主 triều Lý. 4. Xã Quan Nha 關 衙 19 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Thánh Mẫu Cửa Nhà Công Chúa Phù Nhân 聖 母。衙 公 主 夫 人; Thánh Linh Lang Cửa Trƣớc Đại Vƣơng 聖靈郎.. 大王; Thánh Hồi Chính Cƣ Sĩ Cửa Sau Đại Vƣơng 聖 洄 正 居 士。。大 王. Thần tích 3 thôn, 5 xã thuộc tổng Thịnh Đức 盛 德, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông. I. Tổng Thịnh Đức Thƣợng: 1. Xã Bối Khê 貝 溪: 14 trang, Do Lê Tung soạn năm 1510, về sự tích Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王. 2. Xã Nhụy Khê 蕊溪: 18 trang, Gồm có Đoàn Thƣợng Đại Vƣơng 段 尚 大 王(Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王) và Phạm Cƣ Sĩ 范 居 士, đều ở triều Lý. 3. Thôn Thƣợng 上, xã Kim Lũng 籠: 38 trang, Gồm có Đoàn

257

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Thƣợng 段 尚(Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王) triều Lý và Đô Thiên Thái Giám Linh Nhân Đại Vƣơng 都 天 太 監 靈 仁 大 王, Uy Mãnh Tƣớng Quân Giác Hải Đại Vƣơng 威 猛 將 軍 角 海 大 王 triều Hùng, do Nguyễn Bính soạn năm 1572. 4. Thôn Hạ 下, xã Chuyên Mỹ 專 美: 8 trang, Về sự tích Thánh Mẫu Cung Phi Tả Hoàng Hậu 聖 母宮 妃 左 皇 后(vợ của Trần Quốc Tuấn) triều Trần. II. Tổng Thịnh Đức Hạ: 1. Xã Giới Đức 界 德: 8 trang, Về sự tích Cao Minh bảo quốc Đại Vƣơng 高 明 保 國 大 王. 2. Thôn Ngũ 五, xã Thịnh Đức 盛 德: 10 trang, Gồm sự tích 5 vị thần thời Hùng: Quảng Xung Linh Tế Đại Vƣơng 廣 沖 靈 濟 大 王; Quảng Bác Uyên Dung Đại Vƣơng 廣 博 淵 融 大 王 ; Quảng Xuyên Linh Quang Đại Vƣơng 廣 川 靈 光 大 王 ; Quảng Tế Linh Ứng Đại Vƣơng 廣 濟 靈 應 大 王 và Quảng Hóa Cƣ Sĩ Đại Vƣơng 廣 化 居 士 大 王. 3. Xã Nam Chính 南 正: 4 trang, Về sự tích Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王. 4. Xã Quán Châm 官 箴: 52 trang, Gồm 5 vị thần phục Hùng: Sơn Thánh Tuấn Kiệt ... Đại Vƣơng 山 聖 俊 傑 ... 大 王; Cao Sơn Linh Ứng ... Đại Vƣơng 高 山 靈 應 ... 大 王; Quý Minh Hiển Ứng Đại Vƣơng 貴 明 顯 應 大 王; Trấn Quốc Minh Hƣng Đại Vƣơng 鎮 國 明 興 大 王(do Nguyễn Bính soạn năm 1572); và Thánh Trị Hồng Tán Thái Sƣ 聖 治 洪 贊 太 師.

119.

AE.A2/57

Hán

1 bản viết, 40 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thần tích 2 xã thuộc tổng Trầm Lộng, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Đông. 1. Xã Trạch Bái 澤 沛: 20 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Nhã Công 雅 公(Thiên

tỉng, Hà Đông Ứng Hòa phủ, Sơn Lãng huyện, Trầm Lộng tổng các xã thần tích

258

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

河 東 省 應 和 府 山浪 縣 沉 弄 總 各社神 蹟

120.

AE.A2/44

Hán

1 bản viết, 110 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Đông tỉnh, Phú Xuyên huyện, Thƣờng Xuyên tổng các xã thần tích 河 東 省 富 川 縣常 川 總 各 社 神 蹟

La Đại Vƣơng 天 羅 大 王), Đổng Trình 董 程 và Uy Dũng 威 勇. 2. Xã Cống Khê 貢 溪: 18 trang, Do Nguyễn Hiền viết năm 1735, gồm sự tích 2 vị thần nhà Lê: Thánh Mẫu Hoàng Hậu Quế Hoa ... Phù Nhân Đại Vƣơng 聖 母 皇 后 桂 花 ...大 王 và Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Thái Giám Cảm Ứng ... Đại Vƣơng 當 境 城 隍 太 監 感 應 ... 大 王. Thần tích 2 thôn, 6 xã thuộc tổng Thƣờng Xuyên, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông. 1. Xã Thƣợng Yên 上 安 : 16 trang, gồm sự tích Hoàng Lang (Hoàng tử thứ 4 triều Lý) và Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 cũng triều Lý. 2. Xã Viên Hoàng 鄖 黃: 8 trang, gồm sự tích Đại Đô Thành Hoàng... Đại Vƣơng 大 都 城 隍... 大 王; Bảo Quốc Thần Uy... Đại Vƣơng 保 國 神 威... 大 王; Bảo Ninh Trấn Quốc... Đại Vƣơng 保 寧 鎮 國... 大 王; Thạch Linh Quảng Đức... Đại Vƣơng 石 靈 廣 德 ... 大 王 ; Lý Thiên Hộ Quốc... Đại Vƣơng 里 天 護 國... 大 王; Thiên Quan Thắng Đức... Đại Vƣơng 天 官 勝 德... 大 王. 3. Xã Đa Chất 多 質: 38 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Trung Thành Phổ Tế... Đại Vƣơng 忠 誠 普 濟 ... 大 王 triều Hùng. 4. Xã Cầu Đoài 梂 兌: 64 trang, sao năm 1808, về sự tích Tản Viên Sơn Thánh 傘 圓 山 聖 triều Hùng. * Có bài chí nói về đền thờ Đức Quận Công 德 郡 公. 5. xã Thƣờng Xuyên Thƣợng 常 川 上: 22 trang, về sự tích Đông Bảng Đại Vƣơng 東 榜 大 王. 6. Xã Từ Thuận 慈 順: 8 trang, soạn năm 1573, gồm sự tích 4 vị thần đời Lê: Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Trung Thành Tuấn

259

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

121.

AE.A5/8

Hán

1 bản viết, 78 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thái Bình tỉnh, Trực Định huyện, tổng Xuân Vũ thần tích 太 平 省 直 定 縣 春 宇 總 神 蹟

Triết... Đại Vƣơng 當 境 城 隍 忠 誠 峻 哲... 大 王, Thánh Ông Cây Gia Ông Doanh... Tôn Thần 聖 翁 。 枷 翁 楹... 尊 神 , Thánh Mẫu Khánh Phu Nhân... Nhàn Uyển... Tôn Thần 聖 母 慶 夫 人... 嫻 婉... 尊 神 và Thổ Thành Hoàng Binh Lý... Thần 土 城 隍 兵 裡... 神. 7. Thôn Ba Lai 巴 來 , và thôn Thái 泰 , xã Thƣờng Xuyên: 16 trang, về sự tích Trung Thành Phổ Tế Đại Vƣơng 忠 誠 普 濟 大 王. Thần tích 8 xã, thuộc tổng Xuân Vũ, huyện Trực Định, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Đông Nhuế 東 汭: 22 trang, về sự tích Thƣợng Đẳng Thiên Thần 上 等 天 神 (dẫn theo sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, cho đây là vị thần từ núi Tam Đảo phi ngựa tới Đông Nhuế, rồi thăng thiên; lại có thuyết nói có cây Bạch đàn hƣơng từ Vân Nam theo Nhĩ Hà trôi về đây, dân thấy linh ứng lập đền thờ). 2. Xã Cổ Ninh 古 寧 : 6 trang, về sự tích Bạch Hoa Tiên Chúa 白 花 僊 主: tại xã có cây cổ thụ bốn mùa tƣơi tốt, hễ ai cầu đảo là đƣợc linh ứng. Đến niên hiệu Thái Hòa triều Lê, nhân dân lập miếu, thấy một đóa hoa của cây có 4 chữ „Bạch Hoa Tiên Chúa“, nên lấy đó làm duệ hiệu để thờ. 3. Xã Luật Nội 律 內: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thạch Công 石 公 (Thạch Thần Hộ Quốc Đại Vƣơng 石神 護 國 大 王) và Thánh Mẫu Phƣơng Dung Quận Phu Nhân 聖 母 芳 蓉 郡 夫 人 thời Hùng Duệ Vƣơng. 4. xã Đông Vinh 東 榮: 2 trang, gồm sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王) công thần thời Lý; Thục An Dƣơng Vƣơng (Nam Hải Tôn Thần 南 海 大 王); Tây Hải Tôn Thần 西 海 尊 神, có công hộ đê thời Hồng Đức; và Bắc

260

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

122.

AE.A2/81

Hán

1 bản viết, 170 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Đông, Thanh Trì huyện, Ninh Xá tổng các xã thần tích 河 東 青 池 縣 寧 舍 總 各 社神 蹟

Hải Tôn Thần 北 海 尊 神, vị thần biển. 5. Xã Động Trung 洞 中: 26 trang, về sự tích An Cốc Hải Khẩu... Đại Vƣơng 安 谷 海 口 ... 大 王 . Phụ lục: Lãng Quận Công 朗 郡 公 , Xuân Quận Công 春 郡 公 , Vĩ Quận Công 偉 郡 公 và Đoan Trang Hoa Nhan Công Chúa 端 莊 花 顏 公 主. 6. Xã Luật Ngoại 律 外: 6 trang, về sự tích vị Thạch Công 石 公 và Thánh Mẫu Phƣơng Dung Quận Phu Nhân 聖 母 芳 蓉 郡 夫 人 thời Hùng Vƣơng. Thần tích 6 xã thuộc tổng Ninh Xá, huyện Thanh Trì, Hà Đông. 1. Xã Phúc Am 福 庵: 100 trang, gồm sự tích 2 vị thần triều Hùng: Bảo Hựu Đại Vƣơng 保 佑 大 王 và Quí Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王. 2. Xã Yên Phú 安 富: 14 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần triều Trƣng Vƣơng: Thánh Mẫu Phƣơng Dung Trinh Thục... Hoàng Thái Hậu 聖 母 芳 蓉 貞 淑 ... 皇 太 后; Trung Vũ Tế Thế... Đại Vƣơng 忠 武 濟 世... 大 王 và Đài Liệu Tế Thế... Đại Vƣơng 薹 料 濟 世... 大 王. 3. Xã Nhụy Châu 蕊 珠: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Đệ Nhất Hoàng Cả Anh Minh... Đại Vƣơng 第 一 皇 奇 英 明... 大 王, Đệ Nhị Hoàng Hai Khoan Minh... Đại Vƣơng 第 二 皇 。 寬 明... 大 王 và Đệ Tam Hoàng Ba Cƣơng Minh... Đại Vƣơng 第 三 皇 。 剛 明... 大 王. 4. Xã Phƣơng Nhụy 芳 蕊 : 14 trang, sự tích Cao Biền 高 駢 (Cao Đô Hộ Bột Hải Quận Vƣơng 高 都 護 渤 海 郡 王 ) thời Đƣờng. 5. Xã Duyên Trƣờng 延 長: 8 trang, sự tích Bùi Sĩ Lƣợng 裴 仕

261

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

123.

AE.A12/26

Hán

1 bản viết, 38 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

tỉnh, Kiến An Thủy Nguyên huyện, Trịnh Xá tổng các xã thần tích 建 安 省 水 源 縣 鄭 舍 總 各 社 神 蹟

諒 triều Lê. 6. Xã Nội Am 內 庵 : 22 trang, sự tích Nguyễn Phục 阮 復 (Đông Hải Nguyễn Đại Vƣơng 東 海 阮 大 王 ) triều Lê. Thần tích 4 xã, thuộc tổng Trịnh Xá, huyện Thủy Nguyên, tỉnh Kiến An. 1. Xã Trịnh Xá 鄭 舍: 7 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hùng Công 雄 公(Đƣờng Cảnh Thành Hoàng Linh Quang Đại Vƣơng 當 境 城 隍 靈 光 大 王). 2. Xã Thiên Đông 千 冬: 11 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Uy Công 公(Gia Hiến Dực Tán Thƣợng Đỉnh Uy Minh Đại Vƣơng 嘉 獻 翊 贊 尚 挺 威 明 大 王 ); Thành Công 成 公(Bảo Tiến Đề Phúc Mộc Hoàn Đại Vƣơng 保 進 提 福 木還大 王); Thiện Công 善 公(Điển Quốc Khuông Phất Thiện Hộ Cƣ Sĩ Đại Vƣơng 典 國 匡 副 善 護 居 仕 大 王 ) và Thiên Cung Thánh Mẫu Sùng Đức Bác Thí Công Chúa 天 宮 聖 母 崇 德 博 施 公 主. 3. Xã Kiền Bái 虔 拜: 9 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Ngọc Công 玉 公(Trung Quốc Cảm Ứng Thƣợng Đẳng Phúc Thần 忠 國 感 應 上 等 福 神) và Bích Công 璧 公( Lôi Công Uy Diệu Thƣợng Đẳng Phúc Thần 雷 公 威 妙 上 等 福 神). 4. Xã Trinh Hƣởng 貞 享: 9 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Tế Công 濟 公(Hộ Quốc Anh Uy Đại Vƣơng 護 國 英 威 大 王); Lại Công 賴 公(Quảng Hộ Khai Quốc Đại Vƣơng 廣 護 開 國 大 王) và Độ Công 度 公(Tộ Quốc Anh Triết Đại Vƣơng 祚 國 英 哲 大 王).

VĂN CHẦU

124.

Tiên

thánh văn AB.458

Nhuận

sắc Các tín chủ Nôm

43 bài văn hát chầu các Thánh, Chúa… và 6 bài văn, phú chép 1 bản viết, 363

262

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

phụng san

sự tích các vị trên.

tập 仙聖文集

trang, 1 mục lục

125.

AB.601

Nôm

18 bài văn chầu soạn theo thể thơ 7-7/6-8 dùng trong dịp cúng lễ các vị Tiên, Thánh.

1 bản in, 56 trang, 1 mục lục.

Chƣ vị tán văn toàn tập 諸 位 贊 文 全 集

Niên đại định bản Mậu Thân (1908) Chùa Mỹ Quang, xã Khâm thiên, Hà tỉnh Đông in năm Nhâm Tuất (1922).

517

126.

Nôm

Đầu thế kỷ XX

23 bài văn chầu dùng trong các dịp cúng lễ Tiên, Thánh, Chúa... tại các đền, miếu.

1 bản viết, 122 trang

Chƣ vị văn chầu 諸 位 文 朝

AB.

127.

Nôm

Đầu thế kỷ XX

AB.267 AB.466 AB.624 MF.1872 (AB.267)

Văn chầu 文朝 = (Văn chầu các bà 文朝各婆) = (Văn chầu tập 文 朝集)

Văn chầu Đức Thánh Mẫu, Công Chúa, Vƣơng Cô, Đại Vƣơng, Hoàng Tử… soạn theo thể thơ 6 - 8 và 7 - 7/6 - 8. AB.624: còn có các bài tụng dâng hƣơng, phép khai quang điểm nhãn, cách phụ đồng, cách sai Ngũ Hổ đi bắt tà ma, các bài văn cầu an, văn cúng các tiết, cúng tiên, cúng tiên thánh, gia tiên, Long Thần Thổ Địa. Bảng kê tên can chi ứng với các vị tiênh thánh. Các bài luyện văn chữa bệnh đậu mùa. Một số thơ, câu đối mừng thọ, mừng thi đỗ…

128.

AB.629

Nôm

Đầu thể kỷ XX

3 bản viết AB.267: Văn chầu các bà, 26 trang AB.466: Văn chầu tập, 38 trang AB.624: 252 trang 1 bản viết, 96 trang

Công văn quyển 攻文卷

129.

AB.365

Hán

Đàn văn 彈文

Đầu thế kỷ XX

1 bài viết, 36 trang

20 bài hát chầu văn (thể 7 - 7/6 - 8) dùng trong dịp cúng tế Cửu Trùng Thánh Mẫu, Thƣợng Ngàn Thánh Mẫu ... Bài văn chầu nói về thần nữ Vân cát huyện. Vụ Bản, tỉnh Nam Định (Hà Nam Ninh). Có khoa cúng thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ.

130.

AB.508

Nôm

Đầu thế kỷ XX

1 bản viết, 102 trang

Những bài ca, văn, sắc bằng Quốc âm, thƣờng đƣợc phù thủy sử dụng để luyện âm binh, âm tƣớng và thỉnh mời các nàng Tiên, các vị Thần linh giáng đồng.

tiên nhị Thập nƣơng thỉnh luyện bí pháp 十二仙娘 請練秘法

263

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

131.

Trứ

Nôm

AB.146 MF. 1831

Giữa thế kỷ XIX

Nguyễn Công soạn

1. Các bài ca Nôm theo các điệu Nam và Bắc nhƣ Hát mƣỡu, Nam bằng, Nam ai, Kê Khang khúc, Tƣ Mã phụng cầu khúc, Nam thiên tụng, Phú lục bản… Có phần chữ Nôm ghi chép về công chúa Liễu Hạnh

Đại Nam quốc âm ca khúc 大南國音 歌 , “Liễu Hạnh công chúa diễn âm”

1 bản viết, 232 Phần trang. Hạnh Liễu chúa công âm” diễn thuộc trong tập Đại Nam Quốc âm ca khúc….

THẦN SẮC

132.

AD. A16/29

Hán

Đầu thế kỷ XIX

1 bản viết, 147 trang

Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện tổng Đồng Đội các xã thần sắc 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各 社 敕

Thần sắc 2 thôn và 1 xã thuộc tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. 1. Thôn Thung Khê 樁 溪 , xã Đồng Đội 同 隊: 37 trang, phong cấp vào các năm Phúc Thái (1 đạo), Thịnh Đức (3 đạo), Vĩnh Thọ (2 đạo), Cảnh Trị (1 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (2 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Hâm Hứa (Hấm Hứ) Đại Vƣơng 歆 許 大 王; Kim Quang Lục Đại Vƣơng 金 光 錄 大 大 王; Bùi Đại Liệu Đại Tƣớng Quân 裴 大 料 大 將 軍 ; Hâm Hỉ (Hấm Hí) Đại Vƣơng 歆 嘻 大 王. 2. Xã Châu Bạc 珠 泊: 5 trang, phong cấp vào các năm Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Thiên Đê... Đại Vƣơng 天 堤...大 王. 3. Thôn Trào 潮 , xã Trừng Uyên 澄 淵: 5 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Cao Các... Đại Vƣơng 高 閣...大 王; Tây Hải... Đại Vƣơng 西 海...大 王; Quý Minh... Đại Vƣơng 貴 明...大 王 ; Triệu Vƣơng... Đại Vƣơng 趙 王...大 王; Phúc Hải... Hoàng Hu 福 海...皇 后; Chiêu Túc... Công Chúa 昭 肅...公 主.

264

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

133.

AD.a16/18

Hán

1 bản viết, 18 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

tỉnh, Nam Định Mỹ Lộc huyện, Nhƣ Thức tổng các xã thần sắc 定 省 美 祿 縣如 式 總 各 社 神敕

134.

AD.a13/16

Hán

1 bản viết, 32 trang

Hà Nam tỉnh, Lý Nhân phủ, Nam Xang huyện, an

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

4. Thôn Tiền 前 , xã Xuân Bảng 春 榜: 67 trang, phong cấp vào các năm Dƣơng Hòa (3 đạo), Phúc Thái (2 đạo), Khánh Đức (1 đạo), Thịnh Đức (3 đạo), Vĩnh Thọ (2 đạo), Cảnh Trị (2 đạo), Dƣơng Đức (2 đạo), Chính Hòa (2 đạo), Vĩnh Thịnh (2 đạo), Vĩnh Khánh (2 đạo), Cảnh Hƣng (6 đạo), Chiêu Thống (2 đạo), Cảnh Thịnh (2 đạo), Bảo Hƣng (2 đạo). * Phong cho Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王. 5. Xã Vân Cát 雲 葛: 31 trang, phong cấp vào các năm Dƣơng Hòa (1 đạo), Cảnh Trị (2 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Bảo Thái (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Long Đức (1 đạo), Vĩnh Hựu (1 đạo), Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Liễu Hạnh Mạ Vàng Công Chúa 柳 杏 *璜 公 主 ; Lý Nam Đế Thƣợng Đại Vƣơng 李 南 帝 尚 大 王; Đệ Tam Ngọc Nữ Quỳnh Cung Công Chúa 第 三 玉 女 瓊 宮 公 主. Thần sắc 2 xã thuộc tổng Nhƣ Thức, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. 1. Xã Nhƣ Thức : 如 式 9 trang, Phong cấp vào các niên hiệu Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (3 đạo). * Phong cho Phong Bá Vũ Sƣ ... Đại Vƣơng 封 伯 雨 師 ... 大 王; Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主; Quảng Cung Quải Anh Phù Nhân 廣 宮 桂 英 夫 人. 2. Xã Quang Xán 光 燦: 7 trang, Phong cấp vào năm Cảnh hƣng (3 đạo). * Phong cho Nhập Nội Lã Thôi Quí Công ... Đại Vƣơng 入 內 呂 推 貴 公 ... 大 王; Quách Thái Phi ... Công Chúa 郭 太 妃 ... 公 主. Thần sắc 2 xã thuộc tổng An Trạch, huyện Nam Xang, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Nam Xá 南 舍: 9 trang, Phong cấp vào các năm Chính

265

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Trạch tổng các xã thần sắc 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 安 宅 總 各 社 神 敕

135.

AD.a13/18

Hán

1 bản viết, 82 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Nam tỉnh, Lý Nhân phủ, Nam Xang huyện Công tổng các xã xá thần sắc 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 公 舍 總各社 神 敕

Hòa (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo). * Phong cho Liễu Hạnh ... Công Chúa 柳 杏 ... 公 主; Chiêu Dung ... Công Chúa 昭 融 ... 公 主; Quế Hoa ... Công Chúa 桂 花 ... 公 主. 2. Xã An Trạch 安 宅: 23 trang, Phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (5 đạo). * Phong cho Khâm Thiên Minh Đạo ... Hoàng Đế 欽 天 明 道 ... 皇 帝; Liễu Hạnh Mạ Vàng ... Công Chúa 柳 杏瑪 璜... 公 主. Thần sắc 6 xã thuộc tổng Công Xá, huyện Nam Xang, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Thƣợng Vĩ 上 偉: 9 trang, Phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (4 đạo). * Phong cho Liễu Hạnh Mạ Vàng ... Công Chúa 柳 杏瑪 璜... 公 主; Đệ Nhị Ngọc Nữ ... Chiêu Dung Công Chúa 第 二 玉 女 ... 昭 容 公 主; Đệ Tam Ngọc Nữ ... Tiên Dung Công Chúa 第 三 玉 女 ... 仙 容 公 主; Cao Minh Đại Vƣơng 高 明 大 王 ; Chàng ả Đô Hồ Đại Vƣơng 撞 婀 都 湖 大 王; Gia Nỗi Đại Vƣơng 茄 餒 大 王 ; Linh Động Đại Vƣơng 靈 洞 大 王 ; Phƣơng Dung ... Công Chúa 芳 容 ... 公 主. 2. Xã Hội Động 會 洞: 9 trang, Phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Linh Lang ... Đại Vƣơng 靈 郎 ... 大 王. 3. Xã Mạc Thƣợng 幕 上: 13 trang, Phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (6 đạo). * Phong cho Đông Bảng đại vƣơng 東 榜 大 王 ; Tây Hải ... Đại Vƣơng 西 海 ... 大 王; Thủy Tinh ... Công Chúa 水 晶 ... 公 主. 4. Xã Dũng Kim 涌 金: 5 trang, Phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (2 đạo).

266

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

136.

AD. A13/1

Hán

1 bản viết, 68 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Nam tỉnh, Duy Tiên huyện an (Yên) Khê tổng các xã thần sắc 河 南 省 維 先 縣 安 溪 總 各 社 神 敕

* Phong cho Linh Lang ... Đại Vƣơng 靈 郎 ... 大 王; Chính Tâm Cƣ Sĩ 正 心 居 仕. 5. Xã Mạc Hạ 幕 下: 33 trang, Phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (10 đạo), Quang Trung (4 đạo), Cảnh Thịnh (2 đạo). * Phong cho Tây Hải Đại Vƣơng 西 海 大 王; Đông Bảng ... Đại Vƣơng 東 榜 ... 大 王; Bàn Quận Công 磐 郡 公; Quốc Mẫu Tứ Vị Hồng Nƣơng 國 母 四 位 鴻 娘; Bảo Phúc ... Đại Vƣơng 保 福 ... 大 王; Bảo Lộc ... Đại Vƣơng 保 祿 ... 大 王. 6. Xã Mai Xá 枚 舍: 13 trang, Phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (4 đạo), Cảnh Thịnh (3 đạo). * Phong cho Chàng Ả Đô Thiên Đại Vƣơng 撞 婀 都 天 大 王 ; Ngũ Lôi Đại Tƣớng Quân Đại Vƣơng Thần sắc 4 xã thuộc tổng An (Yên) Khê, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Thận Tu 慎 修: 13 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Cảnh Thịnh (3 đạo). * Phong cho Lục Lai Chiêu Nghĩa Đại Vƣơng 六 來 昭 義 大 王; Nam Hải Đại Càn Nguyên Soái Tứ vị Hồng Nƣơng 南 海 大 乾 元 帥 四 位 洪 娘. 2. Xã Lũng Xuyên 隴 川: 25 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (3 đạo), Cảnh Thịnh (3 đạo), Bảo Hƣng (3 đạo). * Phong cho Cao Sơn... Đại Vƣơng 高 山 ... 大 王 ; Minh Quang... Đại Vƣơng 明 光...大 王; Bùi Thủy Chủ Thánh Đức Đại Vƣơng 裴 水 主 聖 德 大 王. 3. Xã An Khê 安 溪: 11 trang, phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (3 đạo). * Phong cho Linh Hƣơng... Đại Vƣơng * 鄉 ... 大 王 ; Đông Bảng... Đại Vƣơng 東 榜...大 王; Đông Bính... Đại Vƣơng 東

267

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

137.

AD. A16/8

Hán

1 bản viết, 116 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

tỉnh, Nam Định Hải Hậu huyện, Tân Khai tổng các xã thần sắc 南 定 省 海 後 縣 新 開 總 各 社 神 敕

丙...大 王. 4. Xã Đôn Lƣơng 敦 良: 17 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (4 đạo). * Phong cho Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主; Bảng Công Đại Vƣơng 榜 公 大 王; Sơn Thần Thủy Hải Đại Vƣơng 山 神 水 海 大 王; Thiên Long Đại Vƣơng 天 龍 大 王. Thần sắc 1 ấp, 1 trại, 1 xã và 2 lý thuộc tổng Tân Khai, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. 1. Ấp Văn Lý 文 理: 17 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Thịnh (1 đạo), Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Thủy Hải Dực Thánh... Đại Vƣơng 水 海 翊 聖... 大 王. 2. Xã Thƣơng Điền 滄 田: 13 trang, phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (6 đạo). * Phong cho Cao Mang... Đại Vƣơng 皋 芒...大 王; Thánh Mẫu Trần Thị Ngọc Chân 聖 母 陳 氏 玉 珠; Đệ Tam Ngọc Nữ Quảng Cung Công Chúa 第 三 玉 女 廣 宮 公 主. 3. Lý Kiên Chính 堅 正: 13 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Quốc Mẫu Vƣơng Bà... Tứ Vị Thánh Nƣơng 國 母 王 婆...四 位 聖 娘. 4. Lý Tang Điền 桑 田 : 27 trang, phong cấp vào các năm Dƣơng Hòa (1 đạo), Chính Hòa (4 đạo), Vĩnh Thịnh (2 đạo), Cảnh Hƣng (5 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo). * Phong cho Hổ Mang Đại Vƣơng 虎 芒 大 王; Cƣơng Nghị... Đại Vƣơng 剛 毅...大 王; Vũ Huân Tƣớng Quân 武 薰 將

268

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

138.

AD. A16/14

Hán

1 bản viết, 27 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện, tổng Đồng Phù các xã thần sắc 南 定 省 美 祿 縣 同 符 總 各 社 神 敕

公 Chánh Đội Trƣởng Hƣng Tƣờng Hầu Lê Côn 正 隊 長 興 祥 候 黎 琨; Khƣơng Quận Công Lê Trân 姜 郡 公 黎 珍; Lập Quận Công Lê Châu 立 郡 公 黎 珠; Vũ Thị Bàng 武 氏 旁. 5. Trại Hòa Định 和 定: 27 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Tộ (1 đạo), Đức Long (1 đạo), Dƣơng Hòa (1 đạo), Phúc Thái (1 đạo), Thịnh Đức (1 đạo), Vĩnh Thọ (1 đạo), Cảnh Trị (1 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Cảnh Hƣng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Viên Dung... Đại Vƣơng 圓 融...大 王. Thần sắc 5 xã thuộc tổng Đồng Phù, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. * Phong cho Thánh Mẫu Đệ Tam Trần Thị Ngọc Chân... Công Chúa 聖 母 第 三 陳 侍 玉 真...公 主; Đệ Tam Ngọc Nữ Quảng Cung Công Chúa 第 三 玉 女 廣 宮 公 主. 2. Xã Hạnh Khẩu 杏 口: 9 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Thịnh (1 đạo), Cảnh Hƣng (1 đạo). * Phong cho Linh Lang Đô Đại Vƣơng 靈 郎 都 大 王 大 王. 3. Xã Vô Hoạn 無 患: 5 trang, phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (2 đạo). * Phong cho Thánh Mẫu Trần Thị Ngọc Chân... Công Chúa 聖 母 陳 侍 玉 真 公 主; Đệ Tam Ngọc Nữ Quảng Cung Công Chúa 第 三 玉 女 廣 宮 公 主. 4. Xã Đồng Vân 彤 雲 3 trang, phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (1 đạo). * Phong cho Đô Đức Đông Hải... Đại Vƣơng 都 德 東 海...大 王. 5. Xã Thƣợng Hữu 尚 友: 3 trang, phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (1 đạo). * Phong cho Cao Mang... Đại Vƣơng 高 芒...大 王.

269

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

139.

AD. A16/3

Hán

1 bản viết, 76 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Nam Định tỉnh, Xuân Trƣờng phủ, Giao Thủy huyện, Lạc Thiện tổng các ấp thần sắc 南 定 省 春 長 府 膠 水 縣 l 樂 善 總 各 邑 神 敕

140.

AD. A7/24

Hán

1 bản viết, 32 trang

tỉnh, Bắc Ninh Quế Dƣơng huyện, Cựu Tự xã

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thần sắc 2 ấp thuộc tổng Lạc Thiện, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. 1. Ấp Hoành Lộ 橫 路: 35 trang, phong cấp vào các năm Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (2 đạo), Cảnh Hƣng (8 đạo), Chiêu Thống (5 đạo), Quang Trung (1 đạo). * Phong cho Cao Vƣơng Chi Thần 高 王 之 神; Tây Thị Công Chúa 西 侍 公 主; Đức Kế Đại Vƣơng 德 繼 大 王; Trấn Quốc Đại Vƣơng 鎮 國 大 王; Nhậm Trung Hầu... Đại Vƣơng 任 忠 候...大 王; Vũ Huân Tƣớng Quân 武 薰 將 公; Thánh Mẫu Đệ Tam Trần Thị Ngọc... Quế Hoa Công Chúa 聖 母 第 三 陳 氏 玉...桂 花 公 主; Đệ Tam Ngọc Nữ Quảng Cung Công Chúa 第 三 玉 女 廣 宮 公 主; Cao Mang... Đại Vƣơng 高 芒...大 王 ; Đông Hải... Đại Vƣơng 東 海...大 王; Đô Hồ... Đại Vƣơng 都 胡...大 王. 2. Ấp Trừng Nguyên 澄 源: 39 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Trị (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (10 đạo), Chiêu Thống (2 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Đô Hồ... Đại Vƣơng 都 胡... 大 王; Đệ Tam Ngọc Nữ Quảng Cung Công Chúa 第 三 玉 女 廣 宮 公 主; Thánh Mẫu Trần Thị Ngọc... Quế Hoa Công Chúa 聖 母 陳 氏 玉...桂 花 公 主; Thủy Hải Dực Thánh... Đại Vƣơng 水 海 翊 聖...大 王; Linh Lang... Đại Vƣơng 靈 郎...大 王; Quý Minh Đông Hải Đại Vƣơng 貴 明 東 海 大 王; Lập Quận Công Lê Châu 立 郡 公 黎 珠; Minh Nghị Tƣớng Quân Lê Côn 明 毅 將 軍 黎 琨 ; Cao Mang... Đại Vƣơng 高 芒...大 王. Thần sắc 3 xã thuộc huyện Quế Dƣơng, tỉnh Bắc Ninh. 1. Xã Cựu Tự 舊 寺: 28 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Khánh (2 đạo), Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Cảnh

270

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

thần sắc 北 寧 省 桂 陽 縣 舊 寺 社 神 敕

141.

AD. A2/50.

Hán

1 bản viết, 234 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Đông tỉnh, Hoài Đức phủ, Từ Liêm huyện, Thƣợng Ốc tổng các xã thần sắc 河 東 省 懷 德 府 慈 廉 縣 上 沃 總 各 社村 神 敕

Thịnh (1 đạo). * Phong cho Đôn Hậu Dũng Mãnh... Đại Vƣơng 惇 厚 勇 猛... 大 王; Khai Thiên Phúc Nguyên... Hoàng Đế 開 天 福 元...皇 帝. 2. Xã Châu Cầu 珠 球: 2:trang, phong cấp vào năm Quang Trung (1 đạo). * Phong cho Thiên Tiên Thánh Mẫu... Công Chúa 天 仙 聖 母 ...公 . 3. Xã An Trạch 安 宅: 2 trang, phong cấp vào năm Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Thiện Dục Phi Nhân... Hoàng Thái Hậu 善 欲 妃 仁...皇 太 后 Thần sắc 3 thôn và 5 xã thuộc tổng Thƣợng Ốc, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. 1. Thôn An Hạ 安 下, xã Thƣợng Ốc 上 沃: 32 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho 5 Thành Hoàng. 2. Thôn Ngự Câu 御 溝, xã Thƣợng Ốc: 14 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho 5 Thành Hoàng. 3. Thôn Đào Nguyên 桃 源, xã Thƣợng Ốc: 8 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho 5 Thành Hoàng. 4. Xã Đông Lao 東 牢: 94 trang, phong cấp vào các năm Thịnh Đức (2 đạo), Vĩnh Thọ (1 đạo), Vạn Khánh (5 đạo), Cảnh Thịnh (3 đạo), Dƣơng Đức (3 đạo), Vĩnh Trị (1 đạo), Chính

271

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Hòa (10 đạo), Vĩnh Thịnh (4 đạo), Vĩnh Khánh (3 đạo), Cảnh Hƣng (10 đạo), Chiêu Thống (4 đạo). * Phong cho Uy Linh... Đại Vƣơng 威 靈...大 王; Thôi Tốc... Đại Vƣơng 崔 速...大 王; Trƣờng Lạc Công Chúa 長 樂 公 主; Kiêm Quận Công Nguyễn Minh Triều 兼 郡 公 阮 明 朝 ; (Nguyễn Công Triều 阮 公 朝 ) và ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, bố mẹ của Nguyễn Công Triều; Nghiêm Vũ Hầu Nguyễn Công Hàn 阮 公 翰 * Có bài chế thăng Kiêm Lộc hầu Nguyễn Minh Triều là Đề đốc, tƣớc Quận công. 5. Xã Lại Dụ 瀨 裕: 30 trang, phong cấp vào các năm Phúc Thái (1 đạo), Khánh Đức (1 đạo), Thịnh Đức (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (5 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo), Bảo Hƣng (1 đạo). * Phong cho Thiên Tiên... Công Chúa 天 仙 ... 公 主 . 6. Xã Thanh Quang 清 光: 6 trang, phong cấp vào các năm Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho 5 vị Quốc Chủ Đại Vƣơng: Vƣợng Trên 旺?; Vƣợng Tế 旺 濟... 7. Xã Phƣơng Quan 芳 關: 24 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Khánh (2 đạo), Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (2 đạo), Cảnh Thịnh (2 đạo). * Phong cho Vua Cả Cây Roi Đại Vƣơng *奇核 檑...大 王; Nôi Cả Nôi Hai Nôi Ba Đại Vƣơng *奇 *...大 王; Đại Quân... Đại Vƣơng 大 軍 ... 大 王; Đại Lang Nhị Lang Tam Lang Đại Vƣơng 大 郎 二 郎 三 郎 大 王. 8. Xã Vân Côn 雲 疆: 24 trang, phong cấp vào các năm Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (2 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo), Quang Trung (3 đạo).

272

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

142.

AD. A3/3

Hán

1 bản viết, 126 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hƣng Yên tỉnh, Kim Động huyện các xã thần sắc 興 安 省金洞 縣 各 社 神 敕

* Phong cho: Hùng Tài... Đại Vƣơng 雄 才...大 王; Thiên Hỏa Lôi Công Đại Vƣơng 天 火 雷 公 大 王; Trần Quốc... Đại Vƣơng 陳 國...大 王. Thần sắc 10 xã thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hƣng Yên. 1. Xã Nho Lâm 儒 林: 8 trang, phong cấp vào các năm Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (1 đạo). * Phong cho Bảo Trung... Đại Vƣơng 保 忠 ... 大 王 . 2. Xã Đức Triêm 德 霑: 14 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (2 đạo), Minh Mệnh (1 đạo). * Phong cho Thiên Trung Đại Tƣớng Chủ Thuyên Linh Thần Đại Vƣơng 天 中 大 將 主 耑 靈 神 大 王; Đô Thiên Phụ Quốc Quản Chính Thƣợng Sĩ Đại Vƣơng 都 天 輔 國 管 正 上 仕 大 王; Uy Linh.... Đại Vƣơng 威 靈...大 王 và Chế Thắng Công Chúa 制 勝 公 主; Phổ Hộ Phù Tộ Lƣu Lang... Đại Vƣơng 普 度 扶 祚 劉 郎...大 王; Hùng Nghị... Đại Vƣơng 雄 毅...大 王. 3. Xã Kim Đằng 金 藤: 10 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Ông Điền Quý Công Đại Vƣơng 翁 佃 貴 公 大 王. 4. Xã Đào Xá 陶 舍: 14 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (2 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Vũ Thiên... Đại Vƣơng 武 天...大 王. 5. Xã Bồng Châu 蓬 洲: 40 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Phổ Hộ Thƣợng Sĩ Đại Vƣơng 普 護 上 仕 大 王. 6. Xã Yên Xá 安 舍: 6 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Quảng Hựu Thông Linh Mãnh Lang Quan

273

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Tƣớng... Đại Vƣơng 廣 佑 通 靈 猛 郎 官 將...大 王. 7. Xã Đằng Man 藤 蔓: 10 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Ông Điền Quý Công Đại Vƣơng 翁 佃 貴 公 大 王. 8. Xã Lai Hạ thƣợng 來 賀 上: 4 trang, phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (1 đạo). * Phong cho Uy Linh... Đại Vƣơng 威 靈 ... 大 王 . 9. Xã Lai Hạ 來 賀: 4 trang, phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (1 đạo). * Phong cho Du Tiên... Đại Vƣơng 遊 仙...大 王. 10. Xã Mậu Giang 茂 江: 14 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Long Quân Ngọc Nữ Linh ứng Diệu Huyền Hoàng Thái Hậu Hoa Dƣơng... Công Chúa 龍 君 玉 女 靈 應 妙 玄 皇 太 后 花 楊...公 主.

143.

AD. A10/4

Hán

1 bản viết, 24 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Thần sắc xã Hát Môn, tổng Phù Long, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (5 đạo), Chiêu Thống (2 đạo), Quang Trung (2 đạo), Cảnh Thịnh (2 đạo). * Phong cho Dực Thiên Chế Thắng Bảo Tín... Phu Nhân 翊 天 制 勝 保 信... 夫 人.

Sơn Tây tỉnh, Phúc Thọ huyện, Phù Long tổng, Hát Môn xã thần sắc 山 西 省 福 壽 縣 扶 龍 總 喝 門 社 神 敕

144.

AD. A16/7

Hán

1 bản viết, 83 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Nam ĐỊnh tỉnh, Hải Hậu huyện, Quế Hải tổng các xã thần sắc 南 定 省 海 後 縣 桂 海

Thần sắc 3 xã thuộc tổng Quế Hải, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. 1. Xã Thanh Trà 青 茶: 29 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (9 đạo), Chiêu Thống (2 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Quí Minh Đông Hải... Đại Vƣơng 貴 明 東 海...大

274

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

總 各 社 神 敕

145.

AD. A16/11

Hán

1 bản viết, 130 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện, Cao Đài tổng các xã thần sắc 南 定 省 美 祿 縣 高 臺 總 各 社 神 敕

王; Linh Lang Đô Đại Vƣơng 泠 郎 都 大 王; Đô Hộ Uy Linh... Đại Vƣơng 都 護 威 靈...大 王. 2. Xã Trung Phƣơng 中 芳: 39 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Trị (1 đạo), Chính Hòa (2 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Cảnh Hƣng (8 đạo), Chiêu Thống (2 đạo), Quang Trung (2 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Vũ Huân Tƣớng Quân 武 勳 將 軍; Minh Nghị Tƣớng Quân... Lê Côn 明 毅 將 軍...黎 琨; Lập Quận Công... Lê Châu 立 郡 公...黎 珠; Câu Mang... Đại Vƣơng 勾 芒...大 王; Linh Lang Đô Đại Vƣơng 靈 郎 都 大 王; Hiếu Túc Đại Vƣơng 孝 肅 大 王. 3. Xã Liên Phú 連 富: 13 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Tây Thị Tiên Cung Thánh Mẫu Đại Vƣơng 西 侍 仙 宮 聖 母 大 王. Thần sắc 3 thôn, 1 giáp và 5 xã thuộc tổng Cao Đài, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. 1. Xã Dị Sử 易 使: 7 trang, phong cấp vào năm Cảnh Trị (2 đạo). * Phong cho Lập Quận Công Lê Châu 立 郡 公 黎 珠. * Có bài chế của Hoàng thƣợng ca ngợi công đức của Lập Quận Công, viết năm Thịnh Đức 5 (1657). 2. Thôn Diên 延, xã Lƣơng Xá 良 舍: 7 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Quí Minh Đông Hải... Đại Vƣơng 貴 明 東 海...大 王. 3. Thôn Mai Xá 枚 舍: 7 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh

275

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Thịnh (1 đạo), Cảnh Hƣng (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Thủy Hải... Đại Vƣơng 水 海...大 王. 4. Thôn Đồng Nhuệ 同 銳, xã Lê Xá 黎 舍: 11 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Tộ (1 đạo), Long Đức (1 đạo), Cảnh Hƣng (2 đạo). * Phong cho Thƣợng Tƣớng Quân... Lê Nhƣ Duệ 上 將 軍...黎 如 睿; Tán Trị Công Thần... Lê Quang Tịnh 贊 治 功 臣...黎 光 靖; Tán Quốc Công Lê Khôi 贊 國 公 黎 魁; Đông Hải... Đại Vƣơng 東 海...大 王. 5. Xã Động Phấn 洞 粉: 25 trang, phong cấp vào các năm Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (7 đạo), Vĩnh Thịnh (3 đạo), Cảnh Hƣng (1 đạo). * Phong cho Lập Quận Công Lê Châu 立 郡 公 黎 珠; Khƣơng Vũ Hầu... Lê Trân 姜 武 候 ... 黎 珍 ; Vũ Thị Bàng 武 氏 旁 (Khƣơng Quận Phu Nhân); Chánh Đội Trƣởng Hƣng Tƣờng Hầu Lê Côn 正 隊 長 興 祥 候 黎 琨. 6. Xã Đặng Xá 鄧 舍: 33 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (8 đạo), Chiêu Thống (8 đạo). * Phong cho Hựu Đức Đại Vƣơng 祐 德 大 王; Quỳnh Phi Công Chúa 瓊 妃 公 主; Bạch Mã... Đại Vƣơng 白 馬...大 王 ; Tây Thị Tiên Cung Thánh Mẫu Đại Vƣơng 西 侍 仙 宮 聖 母 大 王; Đức Kế Đại Vƣơng 德 繼 大 王; Vũ Thành Trấn Quốc Đại Vƣơng 武 城 鎮 國 大 王. 7. Xã Tiểu Liêm 小 廉: 23 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (4 đạo), Cảnh Thịnh (2 đạo), Chiêu Thống (2 đạo). * Phong cho Đông Hải... Đại Vƣơng 東 海...大 王; Câu Mang... Đại Vƣơng 勾 芒...大 王; Khiếu Thiên Đại Vƣơng 叫 天 大 王 ; Bảo Hối Đại Vƣơng 寶 誨 大 王. 8. Xã Lƣơng Xá 良 舍: 5 trang, phong cấp vào các năm Cảnh

276

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

146.

AD. A12/7

Hán

1 bản viết, 24 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

tỉnh, Kiến An Tiên Lãng huyện, Cẩm Khê tổng, Mỹ Lộc xã thần sắc 建 安 省 先 郎 縣 錦 溪 總 美 祿 社 神 敕

(1

147.

AD. A2/28

Hán

1 bản viết, 28 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Hà Đông tỉnh, Sơn Lãng huyện, Đại Bối tổng các xã thần sắc 河 東 省 山 郎 縣大 貝 各 社 神 敕

148.

AD. A2/53.

Hán

1 bản viết, 264 trang

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

tỉnh, Hà Đông Thanh Trì huyện, Cổ Điển tổng các xã thần sắc 河 東

Hƣng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Thƣợng Tƣớng Quân Nhậm Trung Hầu... Đại Vƣơng 上 將 軍 任 忠 候...大 王. 9. Giáp Thƣợng 上, xã Mai Xá 枚 舍: 17 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Đô Hồ... Đại Vƣơng 都 湖...大 王. Thần sắc xã Mỹ Lộc thuộc tổng Cẩm Khê, huyện Tiên Lãng, tỉnh Kiến An, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (3 đạo), Quang Trung (3 đạo), Cảnh Thịnh (3 đạo). * Phong cho Cao Sơn... Đại Vƣơng 高 山...大 王; Thánh Mẫu Nguyên Quân Đại Vƣơng 聖 母 元 君 大 王; Bạt Hải... Đại Vƣơng 拔 海...大 王. Thần sắc 3 xã thuộc tổng Đại Bối, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Đông. 1. Xã Triều Khê 潮 溪: 8 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), đạo). Thịnh Cảnh * Phong cho Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王. 2. Xã Ngoại Đô 外 都: 8 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Gia đạo). (1 Long 3. Xã Thọ Vực 壽 域: 8 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主... 完 正 居 士 Thần sắc 7 xã thuộc tổng Cổ Điển, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. 1. Xã Cổ Điển 古 典: 48 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Tộ (1 đạo), Đức Long (1 đạo), Dƣơng Hòa (1 đạo), Thịnh Đức (1

277

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

省 青 池 縣 古 典 總 各 社 神 敕

đạo), Vĩnh Thọ (1 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Phu gia... Đại Vƣơng 夫 嘉...大 王; Trang Nhất Phu Nhân 莊 一 夫 人. 2. Xã Ích Vịnh 益 詠: 14trang, phong cấp vào các năm Dƣơng Đức (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo). * Phong cho Trung Thiên Quảng Độ Thƣợng Sĩ Tô Đại Liệu Tƣớng Quân 中 天 廣 度 上 士 蘇 大 料 將 軍; Gia Hạnh... Công Chúa 嘉 行...公 主. 3. Xã Ngọc Hồi 玉 回: 22 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Trị (1 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (5 đạo). * Phong cho Thành Hoàng là Quảng Hóa Cƣ Sĩ 廣 化 居 士. 4. Xã Cƣơng Ngô 崗 梧: 48 trang, phong cấp vào các nămVĩnh Tộ (1 đạo), Đức Long (1 đạo), Dƣơng Hòa (1 đạo), Thịnh Đức (1 đạo), Vĩnh Thọ (1 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Phu Gia... Đại Vƣơng 孚 嘉...大 王; Trang Nhất Phu Nhân 莊 一 孚 人. 5. Xã Đông Trì 同 池: 48 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Tộ (1 đạo), Đức Long (1 đạo), Dƣơng Hòa (1 đạo), Thịnh Đức (1 đạo), Vĩnh Thọ (1 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Phu Gia... Đại Vƣơng 孚 嘉...大 王; Trang Nhất Phu Nhân 莊 一 孚 人. 6. Xã Lƣu Phái 劉 派: 26 trang, phong cấp vào các năm Cảnh

278

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Trị (1 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (7 đạo). * Phong cho Uy Linh Lang Đại Vƣơng 威 靈 郎 大 王; Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. 7. Xã Văn Điển 文 典: 48 trang, phong cấp vào các năm Dƣơng Hòa (2 đạo), Phúc Thái (3 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Phu Gia... Đại Vƣơng 孚 嘉...大 王; Trang Nhất Phu Nhân 莊 一 夫 人.

CÔNG VĂN

tổng

Hán

149.

A.2777

1 bản in, 288 trang

Đầu thể kỷ XX

Công văn quyển 攻文總卷

1. Nghi thức các lễ chầu văn, kì an, cầu thọ, nhƣơng tinh, giải ách... 2. Văn chầu, sớ, biểu, hịch, diệp, khải, cáo, trạng... dùng trong cúng lễ.

LINH THIÊM (QUẺ BÓI)

150.

Hán

Cuối thế kỷ XIX

50 thẻ bói ở miếu Thánh Mẫu, dùng để bói các việc xuất hành, mất của, bệnh tật, gia trạch, cƣới xin…

1 bản viết, 108 trang, 1 tựa

Thánh Mẫu linh tiêm 聖母靈韱

A.2431 Paris. EFEO.MF.II/ 6/93

CÁC LOẠI HÌNH KHÁC (ĐỊA CHÍ, TRUYỆN - KÝ LỤC, CÂU ĐỐI, GHI CHÉP VỀ TỤC LỆ, THƠ VĂN, NGÂM VỊNH, TẠP KÝ…)

151.

A.609 MF.1341

Hán và Nôm

Thành Thái 5 (1893)

1 bản viết, 308 trang, 1 tựa, 1 mục lục

Nam Định tỉnh đại dƣ chí 南 定 省 地 輿 誌

Nhuệ Khê Ôn Ngọc//銳 溪 溫 玉 soạn

Địa chí tỉnh Nam Định, gồm thành trì, núi sông, cầu cống, đƣờng sá, nhân vật, phong tục, phƣơng ngôn, cổ tích, kĩ nghệ, sản vật.. Thơ đề vịnh, cảm hoài, và văn bia, minh, tán... ở các đề chùa, Văn Miếu... Bài phú của TN Nguyễn Hiền.

152.

VHv.1503

Hán

Đầu thế kỷ XX

Tóm lƣợc các chuyện trong Việt điện u linh, liệt kê các nữ thần hiển linh trong đó có Liễu Hạnh Công chúa

Việt điện u linh 越甸幽靈

54 trang, 1 tựa của tác giả, 1 bạt của Lê Thuần Phủ đề Vĩnh nãm

279

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

8

Thịnh (1712).

153.

A.2975

Hán

Đầu thế kỷ XX

1 bản in, 70 trang

Nội đạo tràng 內 道 場

Truyện Thƣợng sƣ Phật tổ tên là Lành, tự Ngọc Trân, ngƣời Châu ái (Thanh Hóa), tu hành đắc đạo, trừ đƣợc ma tà yêu quái, giúp dân yên ổn làm ăn. Sau có công chữa bệnh cho vua Lê Thần Tông (1619-1662), đƣợc tặng danh hiệu "Nội Đạo Tràng". Truyện có liên quan tới Công chúa Liễu Hạnh

Nguyễn Tảo// 阮 藻 , tự Pháp Ngôn// 法 言 , biệt hiệu Văn Trai//文 齋 biên tập. Nhà in Đông Kinh in năm Thành Thái Nhâm Dần (1902).

154.

Đầu thế kỷ XX

Hán và Nôm

1 bản viết, 100 trang

Thính văn dị lục 聽聞異錄

A.2954. Paris.EFEO. MF.II/6/1004 ( A.593 )

37 truyện nhân vật lịch sử, văn hoá, ma quái, thần linh: Nguyễn Xí, Nguyễn Nghiêu Tƣ, Phùng Khắc Khoan, TN Giáp Hải, Bùi Sĩ Tiêm, Nguyễn (Đoàn) Thị Điểm, Triều Khẩu linh từ, ngƣời tiên Phạm Viên, đầm Đỗ Lân, Khách chôn vàng, chó trắng 3 chân… Thơ cảm thán thời thế. Trong đó có Liễu Hạnh sự tích ký (Sự tích Liễu Hạnh)

155.

Nôm

AB.472 MF.1013

Tập truyện về những anh hùng hào kiệt, những bậc tài hoa, những danh hiền mãnh tƣớng, những sƣ tăng đạo sĩ có tiếng tăm... của Việt Nam. Trong đó có Tiên chúa Liễu Hạnh

2 bản viết, 296 trang 1 tựa, 1 tiểu dẫn, 1 mục lục.

Nam Hải dị nhân liệt truyện diễn âm 南 海 異 人 列 傳 演 音

Phan Kế Bính 潘 繼 柄 diễn Nôm tựa và viết năm Duy Tân Nhâm Tí Lê (1912). Văn Phúc 黎 文 福 hiệu chính. Chép

280

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

lại năm Khải Định thứ nhất (1916).

156.

Hán

VHv.1276/2 VHv. 1276/4

Cuối thế kỷ XIX

Bách thần lục 百 神錄

Sự tích 560 vị thần thờ ở các nơi trong nƣớc. Mỗi vị thần đều có ghi rõ sự tích (họ tên, quê quán, sự tích, linh ứng, mĩ tự bao phong của các triều đại phong kiến) và nơi thờ cúng. (Bộ sƣu tập này hiện chỉ còn T2 gồm 300 vị thần, và T4 gồm 260 vị thần).

2 bản viết (4 tập): VHv. 1276/2: 170 trang VHv. 1276/4: 334 trang

157.

Hán

VHv. 1290. MF. 1754

Danh hiệu, sự tích và nơi thờ các vị thần trong t. Thanh Hoa (Thanh Hoá)

1 bản viết, 192 trang

Chép năm Thành Thái 15 (1903)

Thanh Hóa chƣ thần lục 清華諸神 錄

158.

VHv.2407

Cuối thế kỷ XIX

Hán và Nôm

1 bản viết, 32 trang

Việt nam danh nhân sự tích liệt truyện 越 南 名 人 事跡列傳

159.

A.2818

Đầu thế kỷ XX

Hán và Nôm

Lão song thô lục 老 窗 粗 錄

1 bản viết, 165 trang. Ghi là Nguyễn Bính soạn 1572, Nguyễn Hiền sao 1736

160.

Nôm

Đầu thế kỷ XX

A.3178 A.3197 (bản sao)

Bản quốc dị văn 本 國 異 文 [Bản quốc dị văn lục 本 國 異 文 錄]

Những truyện ngắn về các nhân vật lịch sử và các di tích lịch sử nổi tiếng ở Việt Nam: Nguyễn Trãi, Phùng Khắc Khoan, Giáp Hải, chùa Quang Minh, chùa Bối Khê, đền thiêng ở Thanh Hóa… (Sách thiếu trang đầu và một số trang cuối). 1. 19 truyện về vua chúa, danh nhân triều Lê; Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Liễu Hạnh, Nguyễn Bỉnh Khiêm... 2. Các khoa thi Đình triều Lê và những ngƣời đỗ TN trong các kì thi ấy. 3. Sự tích Chử Đồng Tử và Tiên Dung do Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất (1572) và Nguyễn Hiền chép lại năm Vĩnh Hựu 2 (1736). 30 truyện lạ: truyện dân gian (Tiếc vàng chôn mẹ, Vua đến nhà, Chó trắng ba chân...); truyền thuyết lịch sử (Đƣợc thần báo mộng tại đền Trấn Vũ); giai thoại, truyền thuyết về các nhân vật lịch sử (Nguyễn Quốc Công, Ngô Tuấn Cung, Nguyễn Nghiêu Tƣ, Trần Danh Tiêu, Đỗ Lâm Đàm, Trần Bá Xƣởng, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Công Hãng, Lí Trần Quán, Bùi Sĩ Tiêm, Tiên nhân Phạm Viên, Giáp Hải, Đại Vƣơng ốc...).

2 bản viết: A. 3178: Bản quốc dị văn lục, 67 trang. A. 3197: Bản quốc dị văn, trang, 1 73

281

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Trong có giai thoại, truyền thuyết về nhân vật lịch sử Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan hội ngội Liễu Hạnh công chúa

mục lục, chữ viết trái từ sang phải, sao từ bản A. 3178.

161.

VHv.2450/1

Khải Định 8 (1923)

Lê Trọng Hàm biên tập

Bảo Hán Châu Liên 保漢珠聯

Hán và Nôm, Quốc ngữ, Pháp

1 bài tựa đề Thành năm Thái 19 (1907), 1 bài tựa đề năm Duy Tân 6 (1912). 1 bản viết, (bộ 11 tập) 682 trang, 1 mục lục, 3 tựa, có chữ Nôm, chữ Quốc ngữ, chữ Pháp.

162.

VHv.2660

Hán

Đầu thế kỷ XX

Cát sự đối liên 吉 事對聯

1 bản viết, 72 trang, 1 mục lục

163.

AF. A11.35

Hán

1 bản viết, 292 trang

Cuối thế kỷ XIX

Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Đồng Đội tổng các xã tục lệ 南 定 省 務 本縣 同

Bộ sƣu tập về câu đối, trƣớng, hoành phi chữ Hán và chữ Nôm, gồm: Tập 1: Các câu đối, hoành phi, trƣớng ở đền, chùa, quán miếu... Tập 2 và 3: Các loại câu đối mừng tặng nhau trong khi có việc vui. Tập 4, 5, 6 và 7: Các loại câu đối phúng viếng, dùng trong dịp chia buồn. Tập 8: Đề vịnh. Tập 9: Văn Trung Quốc. Tập 10: Văn Việt Nam. Tập 10b: 106 vận bộ tiếng Hán. Những kiến thức về thiên văn, địa lý; các nƣớc châu á; núi cao sông lớn của toàn cầu; niên biểu lịch sử Việt Nam... viết theo thể ca 6 8. Hán học chỉ nam, sách giáo khoa dạy chữ Hán dùng trong bậc tiểu học. Sách hiện thiếu các tập 2, 3, 4, 5, 6, 7, 9. Phần Nôm, có một số câu đối của Hồ Xuân Hƣơng và Đoàn Thị Điểm. Phần Phụ lục, cho biết Đặng Xuân Viện có soạn sách Tân thƣ Những câu đối, liễn để ở cung điện (19câu), Vƣơng phủ triều Lê (7 câu), Đông cung (14câu), Cung mẫu (14 câu), đền ở Vƣơng phủ (13 câu) v. v Một số câu đối để ở các dinh thự thuộc tỉnh Sơn Tây, hoặc ở các đền chùa. Tục lệ 4 xã thuộc tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định: 1. Xã Trang Nghiêm Hạ : 24 trang, gồm 29 điều, lập ngày 20 tháng Giêng năm Tự Đức 4 (1851). 2. Xã Xuân Bảng : 102 trang, gồm 44 điều lệ về việc tế tự và 26 điều lệ của hội Tƣ văn, lập ngày tháng mạnh xuân năm Tự Đức

282

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

隊 總 各 社 俗 例

164.

VHv.1864

Hiên Sinh

Đầu thế kỷ XX

Hán và Nôm

1 bản in, 141 trang

Thƣ Tiên điểm duyệt

Yên Đổ tiến sĩ thi tập 安 堵 進 士 詩 集

20 (1867). * Có một số bài văn tế. 3. Xã Tiên Hƣơng : 62 trang, gồm 63 điều, lập ngày 25 tháng Giêng năm Tự Đức 3 (1850). * Có một số bài văn tế. 4. Xã Vân Cát : 106 trang, gồm 75 điều, lập ngày 1 tháng 11 năm Tự Đức 10 (1857). * Có một số bài văn tế. Thơ Yên Đổ (Nguyễn Khuyến): thơ đề vịnh, thù đáp, tiễn tặng bạn bè; thơ vịnh Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tô Hiến Thành, Chu An, Nguyễn Trực…; thơ vịnh Gia Cát Lƣợng, Quan Công, Tào Tháo, Giả Nghị, Tô Vũ, Mã Viện…; thơ vịnh đền Trƣng Vƣơng, miếu Liễu Hạnh Thánh Mẫu, đền Mị Ê… 2 bài thơ Nôm: tặng bạn; tặng anh rể. Có thơ vịnh miếu Liễu Hạnh Thánh Mẫu

165.

AB.293

Đầu thế kỷ XX

Nôm và Hán

1 bản viết, 84 trang, 2 tựa, 2 bạt, 2 chí

Nhƣ Khuê thị học ngữ tập 如 珪 氏 學 語 集 = Vĩnh Hồ Nhƣ Thị học ngữ 永 湖 如 珪 氏 學 語

1. 10 bài thơ Nôm vịnh Kiều: Vƣơng Quan kể về Đạm Tiên; Thúy Kiều xúc động về chuyện Đạm Tiên; gặp nhau trong tiết Thanh minh, tiễn Kim Trọng, tự than... 2. Tạp thi (chữ Hán, trang 84): xƣớng họa với ni cô, với bạn; tiễn bạn đi Sơn Tây; nói chuyện với trăng, vịnh cúc, tự than, tự cƣời, tƣơng tƣ... 3. Các bài văn Nôm, văn phả khuyến, văn bia hậu Phật...

Nguyễn Nhƣ Khuê soạn và viết tựa. Trƣơng sĩ Côn cƣ triều Thanh viết tựa. Nguyễn Cung và Lê Trai Thúc mỗi ngƣời viết 1 bài bạt Đặng Bằng Lâm và Trần Nhiên Ái mỗi ngƣời viết 1 bài chí.

283

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

166.

A.2929

Niên đại định bản Đầu thế kỷ XX

Hán và Nôm

1 bản viết, 128 trang

Tự ký văn thƣ tạp tập 序記文書雜集

167.

VNb.58

Nôm

Đầu thế kỷ XX

1 bản viết, 52 trang

Dân gian cổ ngâm 民間古吟

168.

Nôm

VNv.78 MF.1708

Đầu thế kỷ XX

1 bản viết, 130 trang

Thi ca tạp ký 詩 歌雜記

Tự, dẫn, kí, thi, từ, văn cúng, văn tế, trƣớng, câu đối, hoành phi, thơ giáng bút... sƣu tầm tại xã Dũng Liệt, huyện Thanh Trì 4 bài hát ru con theo 4 mùa (Tứ thời bão tử) và một số thơ giáng bút của Tiên, Thánh, Chúa... khuyên ngƣời đời phải biết sửa mình, ăn ngay, ở thật tình 1. Thơ (Nôm): thơ giáng bút của Tiên, Thánh, Phật khuyên ngƣời đời sống lƣơng thiện, đồng bào phải biết thƣơng yêu nhau, kẻ giàu phải giúp đỡ ngƣời nghèo, có lòng yêu nƣớc và quyết tâm cứu nƣớc. 2. Văn (Hán): truyện họ Trần nhờ sắc đẹp đƣợc làm vua; Đinh Tiên Hoàng; Cƣờng Bạo Đại Vƣơng chống Thiên Lôi; Yết Kiêu đục thuyền đánh quân Nguyên; TS Vũ Hồn, Trạng Vật (Vũ Phong); Trạng Cơm (Lê Nhƣ Hổ); Quách Giai; Lê Cảnh Tuân; Đại Hƣng Hầu… Sách chép lên mặt sau của giấy đã có chữ.

KHẢO CỨU

169.

Hán

Bảo Đại 10 (1935)

Thiên Tiên truyện khảo 天仙傳攷

A.3094 Paris.EFEO. MF.II/6/994.

1 bản viết, 80 trang, 1 tựa, 1 dẫn, 1 mục lục

Nhàn Vân Đình Trần Duy Vôn 閒 雲 亭 陳 維 ? soạn

Khảo về Công chúa Liễu Hạnh: bà là con gái Lê Đức Chính và Trần Thị Phúc, ở thôn An Thái, xã Vân Cát, huyện. Vụ Bản, tỉnh Nam Định, là một trong số 4 ngƣời “bất tử” (Liễu Hạnh, Tiên Dung, Chử Đồng Tử và Phù Đổng Thiên Vƣơng) ở Việt Nam. 41 bài thơ, 6 bài văn tế, 27 câu đối, 1 bài văn bia, 1 bài giáng bút trích từ Phổ tế chân kinh.

170.

1 bản viết

Paris.SA.PD. 2379

Hán và Nôm

1. Khảo Đồng sự ký (176 trang, 1 tựa, chữ Hán): khảo cứu về "Cô Đồng": "Cô Đồng" là vật trung gian liên hệ giữa thần linh với con ngƣời. Có cô đồng của đạo thánh và cô đồng của đạo Tiên. Quá trình của ngƣời nhận mệnh thánh ngồi đồng và hành vi cử chỉ, trang phục... của cô đồng. 2. Tiền Lí Nam Đế sự tích (11 trang, chữ Hán): Sự trạng Lí Bôn, vua nhà Tiền Lí nƣớc Nam. Lí Bôn xuất thân trong một gia đình quyền thế, nhân Vũ Lâm Hầu bạo ngƣợc, đã khởi binh chống lại và xƣng đế, ở ngôi 8 năm, sau khi chết quần thần truy

Khảo đồng sự ký 考 童 事 記 ; Tiền Lí Nam đế tích 前李南帝跡; Nam Định tỉnh khảo dị 清化省考 異 ; Thanh Hóa tỉnh khảo dị 南定 省考異; Khảo vấn

284

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

tĩnh điện 考 問 靖 殿

tặng tên thụy là Tiền Lí Nam Đế. 3. Nam Định tỉnh khảo dị (12 trang, chữ Hán): thần tích và tục lệ của dân ở xã Tiên Hƣơng, tổng. Đồng Đội, huyện. Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Gồm sự tích thiên Tiên Thánh Mẫu, các quan trong phủ Tiên Thánh Mẫu, lệ thờ cúng Thánh Mẫu, nhƣ làm loại bánh để cúng tế... 4. Thanh Hóa tỉnh khảo dị (44 trang, chữ Hán và chữ Nôm): thần tích và tục lệ của dân ở xã Cổ Đam, tổng. Trung Bạn, huyện. Tống Sơn, ph. Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Gồm tục lệ thờ cúng Tiên Thánh, sự tích Thiên Tiên Thánh Mẫu ở Sùng Sơn Linh Từ, 4 cung ở đền Sùng Sơn, các miếu Cô ở trƣớc đền, tục lệ làm bánh cúng tế và con trai con gái "ngồi đồng" chầu Thánh. 5. Khảo vấn tĩnh điện (10 trang, chữ Hán): giải thích ý nghĩa các danh từ nhƣ tĩnh, đàn, điện, công văn, đạo tràng, đồng thiếp, phù thủy, làm phép, pháp sƣ.

285

PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ TƢ LIỆU HÁN NÔM LIÊN QUAN TỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ TẠI CÁC ĐƠN VỊ LƢU TRỮ KHÁC VÀ NGUỒN SƢU TẦM

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

1.

Hán

Thành Thái Bính Ngọ (1906)

tử đền Đệ Ngọc Giang khắc in

Tam vị thánh mẫu cảnh chân thế kinh 三位聖母警 世真經

Mã hiệu số hóa nlvnpf-0244 Mã kho R.5069

Sau tờ bìa sách in 3 hình minh hoạ của Vân Hƣơng đệ nhất Thánh mẫu 雲香第一聖母, Đệ nhị Thánh mẫu 第二聖母, Đệ tam Thánh mẫu 第三聖母. Sau mỗi hình minh hoạ có bài tán. Tiếp đến là các bài giáng kinh, bảo cáo, khai kinh của tam vị Thánh mẫu.

1 bản in, 18 trang. Chủ Thiện đƣờng, Sơn Tây tàng bản - Thƣ viện quốc gia Việt Nam

2.

Nôm

Đại Bảo bát Thập niên (1933)

Văn giáng bút bao gồm các bài cáo, tán, kệ, minh văn, của Vân Hƣơng Thánh Mẫu, Mai Hoa Công Chúa và Thƣợng Ngàn Công Chúa khuyên làm điều thiện, bỏ điều ác.

in, 30 Bản trang - Thƣ viện quốc gia Việt Nam

Mã hiệu số hóa nlvnpf-0194 Mã kho R.2233

Vân Hƣơng tam vị Thánh Mẫu cảnh chân thế kinh diễn âm 雲鄉 三位聖母警世真 經演音

Chánh Cửu phẩm Văn giai Nguyễn Ngọc Du và vợ Trần Thị Miễn khắc, cung tiến cho Phú đền Xuân, xã Hữu Bằng, tổng Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây

3.

Hán

Đầu thế kỷ XX

1 bản chép tay, 26 trang - Thƣ viện quốc gia Việt Nam

Vân hƣơng thánh mẫu linh thiêm 雲 鄉聖母灵韱

4.

Vân Cát thần nữ truyện 雲 葛 神 女 傳

1 bản viết tay, 26 trang - Thƣ viện quốc gia Việt Nam

Mã hiệu số hóa nlvnpf-1498 Mã kho R.3378 Mã hiệu số hóa nlvnpf-1023 Mã kho R.22

Một bài tựa theo thể giáng bút của Dao trì vƣơng mẫu, nói rằng lời Tiêm là lời của các vị tiên thánh mƣợn những kẻ phàm để bày tỏ cho chúng sinh kính sợ mà tụng niệm tu hành. Nay giáng đàn nơi Vĩnh Phong đàn ở Phúc Xá đề cho ngƣời đời chiêm nghiệm. “Nội dung: Sự tích vị nữ thần ở thôn Vân Cát, huyện Vụ Bản thời vua Lê Anh Tông: nữ thần tên thật là Giáng Hƣơng, lấy một ngƣời họ Đào, sinh đƣợc một con trai, 1 con gái. Năm 21 tuổi, Giáng Hƣơng chết. Sau lại đầu thai lấy một ngƣời họ Lƣu (chính là chồng cũ, cũng đầu thai), sinh thêm một con gái.

286

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

Hán

5.

Truyền kỳ tân phả 傳奇新譜

Chép lại khoảng đầu thế kỷ XX

1 bản chép tay, 79 trang - Thƣ viện quốc gia Việt Nam

Mã hiệu số hóa nlvnpf-0285 Mã kho R.1611

Ngƣời chồng thi đỗ, làm quan ở Viện Hàn lâm. Sau khi mất, Giáng Hƣơng rất linh thiêng, nhân dân làm đền thờ ở Phố Cát” Chép lại Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm (Bản khắc năm Gia Long thứ 10 - 1811 ), gồm 7 câu chuyện kì lạ do Đoàn Thị Điểm 段氏點 sƣu tầm (tiếp sau Truyền kì mạn lục 傳奇漫錄 của Nguyễn Dữ 阮嶼): Hải khẩu linh từ lục 海口靈祠錄, Vân Cát thần nữ truyện 雲葛神女傳, An ấp liệt nữ lục 安邑烈女錄, Bích Câu kì ngộ kí 碧溝奇遇記, Tùng bách thuyết thoại 松栢 説話, Long hổ đấu kì kí 龍虎鬪奇記.

số

Hán

Địa bạ xã Vân Cát

6.

Hồ 6529

Đầu thế kỷ XIX

Bản viêt tay - Trung tâm Lƣu trữ quốc gia 1

thứ

số

XIX

Hán

Địa bạ xã Yên/An Thái

7.

hồ 6525

Bản viết tay- Trung tâm Lƣu trữ quốc gia 1

thứ

Tổng tập khoa nghi và sớ văn khoa cúng tứ phủ công dồng

8.

Hán và Nôm

Năm Mão hiệu Đại

Kỷ niên Bảo năm

in, Bản nguyên bản (khắc) lƣu tại đền Phú Chí,

Phông Địa bạ triều Nguyễn: hồ sơ số 6529, lập năm Gia Long thứ 4 (1805), sao lại vào năm Minh 11 Mệnh (1830) - Địa bạ xã Vân Cát Phông Địa bạ triều Nguyễn: hồ sơ số 6525, lập năm Gia Long thứ 4 (1805), sao lại vào năm Minh Mệnh 11 (1830) - Địa bạ xã Yên/An Thái. Tứ phủ công đồng khoa nghi sớ văn hợp tập 四府公同 科儀疏文合集

287

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

14

thứ (1939)

Hán

Sự tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh (Vân Cát - Tiên Hƣơng)

9.

Năm Bảo Đại 9 (1934)

Thanh đồng Vũ Xuân Lan san khắc

Thiên Bản Vân Hƣơng Lê triều Thánh Mẫu Ngọc phả 天 本 雲 鄉 黎 朝聖母玉譜

Chƣơng Văn, - Hà Đông Nguồn sƣu tầm bản Nguyên (khắc) lƣu tại đền Cố Trạch, xã Vân Cát - sƣu Nguồn tầm

10.

Hán và Nôm

Cát Thiên tam thế thực lục 葛 天 三 世 實 錄

Khắc năm Sửu Quí hiệu niên Duy Tân (1913)

Bản in từ ván khắc đền Quảng cung - Nguồn sƣu tầm

Sách gồm các phần: Thánh Mẫu bảo cáo; Quảng Nạp linh từ phả ký; Cát Thiên tam thế thực lục tự; Cát Thiên tam thế thực lục tự tự; Cát Thiên tam thế thực lục; Cát Thiên tam thế tổng tự; Cát Thiên tam thế thực lục quốc âm; Phụ lục đề Tiên hƣơng từ thi; Cát Thiên thực lục hoàn mộc ân đệ tử tạ biểu; Cát Thiên tam thế thực lục hậu tự; Mộng thụ ký; Phụ lục Tiên hƣơng từ đối liên; Phụ lục Quảng Nạp từ linh nghiệm ký; Thánh Mẫu tán văn; Bách hoa văn; Bách dƣợc luyện văn; Tế văn.

11.

Thế kỷ XIX

Hán

Thƣ lâu phả ký 書 樓譜記

Ghi chép gia phả họ họ Lê xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng. Ông tổ dòng họ là Lê Quý Công, tự Phúc Tiên. Mẫu Liễu Hạnh thuộc đời thứ 4. Sau khi mẫu giáng sinh, họ này đổi sang họ Trần…

12.

Hán

Trần Lê gia phả 陳黎家譜

Đầu thế kỷ XX

Kế thừa nội dung “Thƣ lâu phả ký”, tiếp tục biên chép gia phả họ Lê xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng…

lƣu tại Phả thờ họ nhà Trần Lê (Tiên Hƣơng, Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định) lƣu tại Phả nhà thờ họ Trần Lê (Tiên Hƣơng, Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định)

13. Lê

tộc

lịch đại

Đầu thế kỷ

Hán

Kê thừa nội dung “Thƣ lâu phả ký”, “Trần Lê gia phả” tiếp tục Phả

lƣu

tại

288

STT

Tên tƣ liệu

Ký hiệu

Tác giả

Chữ

Nội dung lƣợc thuật

Ghi chú

Niên đại định bản

XX

ngọc phả 黎族歷 代玉譜

biên chép gia phả họ Lê xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng… Cuối phả có bài ký “Tiên từ thắng ký” (Bài ký về ngôi đền thờ tiên), tức Thánh Mẫu Liễu Hạnh

thờ họ nhà Trần Lê (Tiên Hƣơng, Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định)

289

PHỤ LỤC 4: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ DI TÍCH VÀ DI SẢN TƢ LIỆU HÁN NÔM

Hình 5.1. Phủ Tiên Hƣơng (2019) - Ảnh: Tác giả

Hình 5.2. Phủ Tiên Hƣơng (2019) - Ảnh: Tác giả

290

Hình 5.3. Đại tự Từ vân tại vọng (phủ Tiên Hƣơng, 2019)

Hình 5.4. Đại tự Từ ân viễn tí (phủ Tiên Hƣơng, 2019)

Ảnh : Tác giả

Ảnh : Tác giả

291

Hình 5.5. Khảo sát lăng Thánh Mẫu, 2017 - Ảnh : Tác giả

Hình 5.6. Bình phong lăng Thánh Mẫu, 2017 - Ảnh : Tác giả

292

Hình 5.7. Mặt trƣớc phủ Vân Cát, 2017 - Ảnh : Tác giả

Hình 5.8. Bia phủ Vân Cát, 2017 - Ảnh : Tác giả

293

Hình 5.9. Câu đối nghi môn phủ Vân Cát, 2017 - Ảnh : Tác giả

294

Hình 5.10. Sắc phong cho Mẫu Liễu Hạnh năm Chính hòa Tứ niên (1683), 2018 - Ảnh: Tác giả

295

Hình 5.11. Sắc phong cho Mẫu Liễu Hạnh năm Cảnh Hƣng thứ 44 (1783) - Ảnh: Nguyễn Tô Li cung cấp

296

Hình 5.12. Sắc phong cho Mẫu Liễu Hạnh khoảng thế kỷ XVIII - Ảnh: Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam