BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Nguyễn Đạt Thức
TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội - 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Nguyễn Đạt Thức
TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM
Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 9229040
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. KIỀU THU HOẠCH
Hà Nội - 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
- Luận án này là kết quả nghiên cứu bƣớc đầu của riêng tôi dƣới sự hƣớng
dẫn tận tình của ngƣời hƣớng dẫn khoa học, chƣa đƣợc công bố trong các công trình
nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc.
- Luận án đƣợc tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu thị.
- Kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu trƣớc đã đƣợc luận án
tiếp thu hết sức cẩn trọng và chân thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận án
Nguyễn Đạt Thức
ii
MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................. i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................. iv MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .................................................................................................................... 6 1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu .............................................................................. 6 1.1.1. Một số nghiên cứu cơ bản ...................................................................................... 6 1.1.2. Một số tập hợp, giới thiệu tư liệu và tiếp cận qua tư liệu Hán Nôm ................... 13 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn ....................................................................................... 22 1.2.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................................ 22 1.2.2. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................................... 29 1.3. Một số khái niệm liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu qua tƣ liệu Hán Nôm .......... 30 1.3.1. Mẫu ..................................................................................................................... 30 1.3.2. Đồng ..................................................................................................................... 30 1.3.3. Cốt ........................................................................................................................ 30 1.3.4. Bóng ..................................................................................................................... 30 1.3.5. Chính tự ................................................................................................................ 31 1.3.6. Phủ ....................................................................................................................... 31 1.3.7. Tam phủ ................................................................................................................ 32 1.3.8. Tứ phủ .................................................................................................................. 32 Tiểu kết .......................................................................................................................... 32 Chƣơng 2. TƢ LIỆU HÁN NÔM VỀ TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ............................................................................. 34 2.1. Khái lƣợc về nguồn tƣ liệu Hán Nôm gắn với tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ ............................................................................... 34 2.1.1. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tại Viện Thông tin khoa học xã hội ............................................................ 34 2.1.2. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ qua di sản Hán Nôm - Viện Nghiên cứu Hán Nôm ........................... 37 2.1.3. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tại một số cơ sở lữu trữ khác ............................................................... 43 2.1.4. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở khu vực phủ Giày ................... 46 2.2. Hƣớng tiếp cận nội dung tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ theo loại hình văn bản .......................................... 64 2.2.1. Nhóm tư liệu Hán Nôm trên giấy ......................................................................... 65 2.2.2. Nhóm tư liệu văn khắc tại di tích ......................................................................... 75
iii
2.3. Giá trị lịch sử - văn hóa của tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ ............................................................................... 75 Tiểu kết .......................................................................................................................... 78 Chƣơng 3. NHẬN DIỆN TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM .......................................................................................... 80 3.1. Lịch sử địa chính và không gian văn hóa phủ Giày ................................................ 80 3.1.1. Lịch sử địa chính liên quan tới khu vực phủ Giày ............................................... 80 3.1.2. Không gian văn hóa liên quan tới khu vực phủ Giày và danh hiệu phủ Giày ..... 95 3.2. Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày qua tƣ liệu Hán Nôm ............................................. 103 3.2.1. Thuyết Mẫu giáng sinh thời Lý Nam Đế ............................................................ 104 3.2.2. Thuyết Mẫu giáng sinh thời Lý .......................................................................... 105 3.2.3. Thuyết Vỉ Nhuế - Ghi trong Cát thiên tam thế thực lục ..................................... 107 3.2.4. Thuyết Kẻ Giày ................................................................................................... 108 3.2.5. Thuyết Nội đạo tràng ......................................................................................... 110 3.3. Lịch sử kiến trúc phủ Giày qua tƣ liệu Hán Nôm ................................................. 113 3.4. Hội phủ Giày và một số sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh qua tƣ liệu Hán Nôm .......................................................................................... 117 3.4.1. Hội phủ Giày Vân Cát và một số sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh qua tư liệu Hán Nôm.......................................................................... 118 3.4.2. Hội phủ Giày Tiên Hương và một số sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh qua tư liệu Hán Nôm ................................................................... 120 Tiểu kết ........................................................................................................................ 123 Chƣơng 4. BÀN LUẬN THÊM VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VĂN HÓA LIÊN QUAN TỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM ............................................................................... 125 4.1. Câu chuyện tiếp cận văn hóa quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày qua khảo chứng Vân Cát Thần nữ truyện .................................................................... 125 4.2. Hành trạng thế tục của Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày ........................................... 131 4.3. Vai trò của các cộng đồng làng xã trực tiếp liên quan trong việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy .................................................................................................. 137 4.4. Vấn đề Tam phủ, Tứ phủ và Tam tòa Tứ phủ ............................................................ 143 Tiểu kết ........................................................................................................................ 159 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 160 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ .................................. 164 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 165 PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 185
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Nxb: Nhà Xuất bản
TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh
KHXH: Khoa học xã hội
H: Hà Nội
GS: Giáo sƣ
PGS: Phó Giáo sƣ
TS: Tiến sĩ
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói, trong văn hóa dân gian của ngƣời Việt, không nhiều tín ngƣỡng
thu hút đƣợc sự quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu trong và ngoài nƣớc nhƣ tín
ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh. Đặc biệt, sau khi di sản văn hóa phi vật thể Thực hành
tín ngƣỡng Thờ Mẫu Tam phủ của ngƣời Việt chính thức đƣợc UNESCO vinh danh
tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (2016), tín ngƣỡng
thờ Mẫu Liễu Hạnh càng nhận đƣợc sự quan tâm đặc biệt của xã hội và giới nghiên
cứu… Chỉ tính riêng với tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh, đến nay, đã có hàng ngàn
công trình sƣu tầm, nghiên cứu lần lƣợt đƣợc công bố, xuất bản.
Với một khối lƣợng công trình nghiên cứu đồ sộ nhƣ vậy, rất khó có thể điểm
lại nội dung tất cả các công trình, bài viết về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh. Đặc
biệt, khi tiếp cận tìm hiểu những vấn đề Mẫu Liễu Hạnh cũng không thể bỏ qua
những tƣ liệu Hán Nôm có liên quan. Vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn hƣớng kế
thừa thành tựu tập hợp, phân tích của những ngƣời đi trƣớc và điểm lại một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu, mang tính chất nghiên cứu cơ bản, cùng một số nghiên
cứu trực tiếp giải quyết vấn đề liên quan tới tín ngƣờng thờ Mẫu Liễu Hạnh và thông
qua tƣ liệu Hán Nôm để góp phần làm rõ thêm một số vấn đề nghiên cứu để đƣa ra
hƣớng tiếp cận phù hợp, từ một giới hạn tƣơng đối hẹp - tiếp cận tín ngƣỡng thờ Mẫu
Liễu Hạnh ở phủ Giày qua tƣ liệu Hán Nôm.
Đến nay, tuy các công trình nghiên cứu về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh dù
rất phong phú, với khối lƣợng lớn nhƣ vậy nhƣng chƣa có tác giả nào dày công tập
hợp, khảo cứu để tiếp cận nghiên cứu tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày qua
tƣ liệu Hán Nôm với góc nhìn văn hóa học, trong khi nguồn tƣ liệu này lại vô cùng đa
dạng, với khối lƣợng lớn, cũng có thể nói là cực lớn mà theo nghiên cứu sinh bƣớc
đầu tìm hiểu thì có những vấn đề trƣớc nay các công trình nghiên cứu trƣớc chƣa giải
đáp một cách thỏa đáng, nhƣ vấn đề tên gọi phủ Giày, vấn đề lịch sử phủ Giầy, vấn
đề Tam phủ, Tứ phủ, vấn đề đặc trƣng giới trong Tam phủ, Tứ phủ, vấn đề Tam tòa
Tứ phủ, vấn đề vị trí và vai trò của Mẫu Liễu Hạnh trong hệ thần Tứ phủ,… Theo đó,
nếu đầu tƣ khảo cứu, biện giải qua tƣ liệu Hán Nôm và tiếp cận vấn đề dƣới góc nhìn
văn hóa học thì những vấn đề này đều có thể giải đáp đƣợc trên cơ sở khoa học.
2
Vì những lý do trên, nghiên cứu sinh coi đây là tính cấp thiết và hƣớng mở của
đề tài và xác định việc tìm hiểu tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày qua tƣ
liệu Hán Nôm làm tên đề tài luận án nhƣ một hƣớng tiếp cận hẹp.
Tuy nhiên, cũng cần phải giới thuyết rằng, những vấn đề liên quan tới tín
ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày đƣợc công bố trong công trình này mới chỉ là
kết quả thu đƣợc bƣớc đầu từ một hƣớng tiếp cận hẹp (chỉ thông qua tƣ liệu Hán
Nôm) nên mức độ bao quát đối với từng khía cạnh cụ thể của tín ngƣỡng thờ Mẫu
Liễu Hạnh ở phủ Giày ắt sẽ có chỗ tỏ tƣờng, đậm nhạt khác nhau, tùy thuộc vào mức
độ phản ánh của tƣ liệu và điều kiện, khả năng thu thập, khai thác tƣ liệu. Mặt khác,
cũng do sự quy định bởi góc nhìn hẹp, những kết quả nghiên cứu đƣợc công bố trong
công trình này tƣơng đối phù hợp khi đƣợc xem xét trong bối cảnh lịch sử xã hội từ
khi tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày đƣợc định hình (khoảng thế kỷ XVI)
đến năm 1945 (niên điểm giới hạn khai thác tƣ liệu Hán Nôm, đồng thời cũng là mốc
lịch sử văn tự Hán Nôm chính thức kết thúc sứ mệnh lịch sử với tƣ cách là hệ văn tự
chính thống lƣu hành trong xã hội quân chủ Việt Nam thời trung đại).
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc tìm hiểu về giá trị của tƣ liệu Hán Nôm gắn với tín ngƣỡng thờ
Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày, đặt tín ngƣỡng này trong không gian văn hóa liên quan và
môi cảnh văn hóa chung của tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ để khảo lại lịch sử
địa chính và văn hóa khu vực phủ Giày quanh việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh, qua đó,
nhận diện tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày trƣớc năm 1945 trên các phƣơng
diện cơ bản (hệ thần đƣợc thờ, thần điện và không gian thực hành tín ngƣỡng, các thực
hành văn hóa tín ngƣỡng) và một số vấn đề lịch sử - văn hóa liên quan từ góc nhìn văn
hóa học, nhằm củng cố cơ sở cho việc nghiên cứu tín ngƣỡng này cũng nhƣ tín ngƣỡng
thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ trong các bƣớc nghiên cứu tiếp theo…
Để làm rõ mục đích nêu trên, luận án sẽ tiến hành các theo tác nghiên cứu
nhằm tập trung giải đáp một số câu hỏi sau:
Thứ nhất, tƣ liệu Hán Nôm có giá trị gì trong lịch sử hình thành và phát triển
của tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày?
3
Thứ hai, di sản tƣ liệu Hán Nôm gắn với tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở
phủ Giày có tác dụng gì trong việc nghiên cứu văn hóa tín ngƣỡng này trong bối
cảnh hiện nay?
Thứ ba, thông qua tƣ liệu Hán Nôm liên quan lịch sử địa chính và văn hóa khu
vực Kẻ Giày quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh đƣợc phản ánh chân thực ra sao?
Thứ tư, thông qua tƣ liệu Hán Nôm liên quan, các phƣơng diện văn hóa cơ
bản của tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày trƣớc năm 1945 đƣợc nhận diện
nhƣ thế nào?
Thứ năm, có thể thông qua nghiên cứu tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ
Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ để làm sáng tỏ những vấn đề
gì liên quan?
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu đặt ra, luận án sẽ thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, kế thừa và tập hợp, hệ thống lại kết quả nghiên cứu của một số
công trình đi trƣớc, rút ra những chỉ dấu cần đƣợc kế thừa, tiếp tục nghiên cứu bổ
khuyết từ góc độ tƣ liệu Hán Nôm và văn hóa học;
Thứ hai, kế thừa kết quả nghiên cứu của ngƣời đi trƣớc, thông qua tƣ liệu
Hán Nôm xác lập một số khái niệm liên quan.
Thứ ba, kế thừa và tập hợp, hệ thống lại di sản tƣ liệu Hán Nôm gắn với tín
ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, chỉ ra các mặt giá trị và
hƣớng tiếp cận khai thác.
Thứ tư, thông quan tƣ liệu Hán Nôm nhận diện các phƣơng diện cơ bản (hệ
thần đƣợc thờ, thần điện và không gian thực hành tín ngƣỡng, các thực hành văn
hóa tín ngƣỡng) và một số vấn đề lịch sử - văn hóa liên quan đến tín ngƣỡng thờ
Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày dƣới góc nhìn văn hóa học.
Thứ năm, phân tích, biện giải một số vấn đề, hiện tƣợng văn hóa liên quan
đang đặt ra quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở khu vực phủ Giày qua Tƣ liệu Hán Nôm từ
4
góc nhìn văn hóa học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Thông qua tƣ liệu Hán Nôm, luận án nghiên cứu tín ngƣỡng thờ
Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày trƣớc năm 1945 trong không gian văn hóa liên quan và
môi cảnh văn hóa chung của tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ theo diễn trình
lịch sử.
Về không gian: Thông qua tƣ liệu Hán Nôm, luận án đặt đối tƣợng nghiên
cứu trong không gian văn hóa Kẻ Giầy, với vùng lõi là quần thể di tích phủ Giày,
bao gồm các di tích liên quan đến quần thể di tích này, nay thuộc địa bàn xã Kim
Thái, huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định. Trong một số thao tác phân tích, so sánh, đối
chiếu, dẫn dụ…, cần thiết đặt đối tƣợng nghiên cứu trong phạm vi mở rộng, tƣơng
ứng với không gian văn hóa Bắc Bộ.
Về thời gian: Do hƣớng tiếp cận tƣơng đối nghiên cứu tƣơng đối hẹp (chỉ thông
qua tƣ liệu Hán Nôm để nhìn nhận về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày). Theo
đó, về lý thuyết và lịch sử vấn đề, đối tƣợng nghiên cứu đƣợc đặt trong khung niên đại từ
khi tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày đƣợc định hình đến năm 1945 (đây cũng
là thời điểm văn tự Hán Nôm chính thức bị thay thế bởi chữ Quốc ngữ).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án tiếp cận đối tƣợng nghiên cứu dƣới góc độ tổng thể và liên ngành để
nhìn nhận, phân tích các hiện tƣợng văn hóa. Trong đó, hai hƣớng tiếp cận chính là
văn bản học và văn hóa học. Bên cạnh đó, cách tiếp cận liên ngành gồm sử học,
ngôn ngữ học, tôn giáo học… cũng sẽ đƣợc sử dụng trong các phân tích cụ thể…
5. Những đóng góp mới của luận án
- Kế thừa đƣợc thành tựu tập hợp tƣ liệu Hán Nôm của các tác giả đi
trƣớc, khảo sát, tập hợp bổ sung một cách có hệ thống và toàn diện nguồn tƣ
liệu Hán Nôm hiện có về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu
Tam phủ, Tứ phủ. Đồng thời, chỉ ra đƣợc những giá trị cơ bản của hệ thống tƣ
liệu và hƣớng tiếp cận khai thác phục vụ cho nghiên cứu.
- Thông qua tƣ liệu Hán Nôm, đƣa ra đƣợc một số khái niệm liên quan
đến tín ngƣỡng thờ Mẫu.
5
- Khảo qua tƣ liệu Hán Nôm xác lập lại lịch sử địa chính và văn hóa khu
vực Kẻ Giày trong mối quan hệ phụng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đồng thời, góp
phần cải chính một số chi tiết về lịch sử địa phƣơng.
- Thông qua tƣ liệu Hán Nôm, diễn giải một cách có hệ thống về tín
ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy trƣớc năm 1945 thông qua hệ thần đƣợc
thờ, thần điện và không gian thực hành tín ngƣỡng, các thực hành văn hóa tín
ngƣỡng. Kết quả nghiên đƣợc công bố có giá trị tham khảo, đối sánh, đặc biệt
trong việc nghiên cứu lịch sử, sự biến đổi và diễn biến của tín ngƣỡng thờ Mẫu
Liễu Hạnh ở phủ Giầy và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ...
- Phân tích, biện giải về một số vấn đề lịch sử và văn hóa có liên quan đến tín
ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đang đặt ra, nhƣ câu chuyện văn
hóa quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày qua khảo chứng Vân Cát
Thần nữ truyện, hành trạng thế tục của Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày, vai trò của các
cộng đồng làng xã trực tiếp liên quan trong việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ
Giầy trong lịch sử và vấn đề Tam phủ, Tứ phủ và Tam tòa Tứ phủ…
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu (5 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham khảo (19
trang), Phụ lục (111 trang), nội dung chính của luận án gồm 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan về lịch sử nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn (29 trang).
Chƣơng 2: Tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày
và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ (45 trang).
Chƣơng 3: Nhận diện tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày qua tƣ liệu
Hán Nôm (44 trang)
Chƣơng 4: Bàn luận thêm về một số vấn đề văn hóa liên quan tới tín ngƣỡng thờ
Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ qua tƣ liệu Hán Nôm (34 trang).
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu
1.1.1. Một số nghiên cứu cơ bản
Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, của
Nguyễn Minh San, bảo vệ thành công năm 1996. Có lẽ, đây là một trong những công
trình nghiên cứu trong nƣớc đề cập tƣơng đối toàn diện về việc phụng thờ Mẫu Liễu ở
phủ Giầy tƣơng đối sớm, mang tính khai phá và gợi mở, đặt nền móng cho nhiều công
trình nghiên cứu tiếp theo, cụ thể:
1. Từ việc nghiên cứu tổng hợp, luạn án đã phác dựng lên một hoạt động văn
hóa dân gian tổng thể qua truyền thuyết, di tích và điện thần, nghi lễ thờ cúng
và lễ hội ở phủ Giầy; bƣớc đầu đƣa ra những đặc trƣng của tín ngƣỡng thờ
Mẫu Liễu ở vùng đất này.
2. Bằng sự so sánh phủ Giầy với một số nơi thờ Mẫu khác của ngƣời Việt ở
Trung và Nam Bộ, luận án cho rằng, phủ Giầy với việc thờ cúng Mẫu Liễu, đã
hội tụ đầy đủ các yếu tố, xứng đáng là trung tâm tín ngƣỡng thờ Mẫu lớn nhất,
nơi phản ánh rõ nét nhất sự biến chuyển của một tín ngƣỡng dân gian tiến tới
một tôn giáo bản địa sơ khai; đồng thời đƣa ra những nhận xét bƣớc đầu về
quy luật vận động, phát triển, đặc tính cơ bản về tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời
Việt trên bƣớc đƣờng mở cõi về phía Nam.
3. Kết quả nghiên cứu việc thờ phụng Mẫu Liễu ở phủ Giầy đã góp một
tiếng nói vào việc bảo tồn, phát huy vốn văn hóa truyền thống ở một địa bàn
cụ thể, ở một lĩnh vực phức tạp, tế nhị khi kế thừa vốn di sản của các thế hệ
trƣớc để lại [48, tr. 4].
Tuy nhiên, việc khai thác tƣ liệu Hán Nôm để phục vụ nghiên cứu trong công
trình này cũng chỉ đƣợc coi nhƣ một nguồn tài liệu tham khảo, một số vấn đề về văn
bản học Hán Nôm và lịch sử địa chính - văn hóa, vai trò của từng cộng đồng trực tiếp
liên quan đến việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày trong lịch sử chƣa có điều
kiện bàn luận sâu.
Trƣớc tiên, xin đề cập tới công trình Việc phụng thờ Mẫu Liễu ở phủ Giầy,
7
Tiếp theo, phải kể đến Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt - Những công trình
nghiên cứu, do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam Định và Viện Văn hóa Nghệ
thuật quốc gia Việt Nam biên soạn, Nxb. Thế giới ấn hành năm 2019 [50].
Đây là một quyển trong bộ 4 quyển: Tuyển tập những bài hát văn, Tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua Tư liệu Hán Nôm, Tín ngưỡng thờ Mẫu
của người Việt - Những công trình nghiên cứu, Tín ngưỡng thờ Mẫu của người
Việt - Những công trình của các tác giả nước ngoài, do Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch tỉnh Nam Định và Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam biên
soạn “Nhằm phục vụ cho việc tìm hiểu, nghiên cứu và quảng bá giá trị di sản
văn hóa tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt, trên cơ sở ấy góp phần vào công
cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
văn hóa dân tộc” [50, tr. 9].
Theo thống kê trong công trình này, tại thời điểm xuất bản và công bố, đã
thống kê đƣợc 658 tài liệu sƣu tầm, nghiên cứu về tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời
Việt ở khu vực Bắc Bộ. Đây là một công trình biên soạn công phu, đã tập hợp và hệ
thống tƣơng đối đầy đủ các công trình nghiên về tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời
Việt ở Bắc Bộ của các nhà nghiên cứu trong nƣớc, đề cập đến hều hết nhiều khía
cạnh liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt. Tuy nhiên, những nghiên
cứu tiếp cận từ góc độ Hán Nôm đƣợc tuyển chọn lại hết sức khiêm tốn. Điểm qua
nội dung các nghiên cứu đƣợc tuyển chọn trong sách, có thể nhận thấy, hầu hết các
tác giả thƣờng dẫn tƣ liệu Hán Nôm nhƣ một nguồn tài liệu tham khảo và mặc
nhiên thừa nhận về giá trị nội dung trích dẫn, trong khi các công trình nghiên cứu từ
góc tiếp cận hẹp - “Nhìn nhận tín ngƣỡng thờ Mẫu” hoặc vấn đề liên quan qua tƣ
liệu Hán Nôm chƣa mấy đƣợc chú trọng hoặc ít ngƣời tiếp cận.
Về nghiên cứu nền mang tính nguyên lý khi tìm hiểu văn hóa Việt nói chung,
phải kể đến “Nguyên lý Mẹ của nền văn hóa Việt Nam” của tác giả Trần Quốc Vƣợng
đƣợc tập hợp trong sách. Qua các thao tác nghiên cứu và lập luận, ông khẳng định:
“Nền văn hóa truyền thống Việt Nam đã từng có NGUYÊN LÝ MẸ”. Đây là
một phát hiện đặc biệt quan trọng, có tính chất chỉ dẫn và gợi mở khi tiếp cận lịch
sử - văn hóa truyền thống Việt Nam, đặc biệt là đối với tín ngƣỡng thờ Mẫu.
8
Một nghiên cứu nền tiêu biểu khác cũng mang đậm dấu ấn của tác giả Trần
Quốc Vƣợng (viết cùng Nguyễn Hồng Kiên) cũng đƣợc tập hợp trong Tín ngƣỡng
thờ Mẫu của ngƣời Việt - Những công trình nghiên cứu, đó là: “Vị thế và bản sắc
địa - văn hóa của khu vực phủ Giầy”. Trong nghiên cứu này, ông đã đƣa ra một số
nhận xét mang tính kết luận về vị thế và bản sắc địa - văn hóa “cổ truyền” vùng quê
Mẫu dƣới cái nhìn địa - khảo cổ và địa - lịch sử hết sức độc đáo. Theo đó, ông
khẳng định, khu vực phủ Giày có bề dày lịch sử - văn hóa đáng kể trong tiến trình
lịch sử dân tộc:
1. Từ cuối thời đá mới, cách đây 4000 năm, con ngƣời đã xuất hiện ở
khu vực Kẻ Giầy, dấu tích vật chất còn lƣu lại ở chân núi Lê, núi Ngăm
ở Tiên Hƣơng, nhƣng chủ nhân của nó chủ yếu là dân chài ven biển hơn
là dân ruộng vƣờn.
2. Đã từng phát hiện đƣợc 6 trống đồng Đông Sơn ở chân núi Gôi dƣới thời
Pháp thuộc. Các trống này đều mang niên đại cách đây hơn 2000 năm. Trong
nền cảnh đƣơng thời, Kẻ Giầy và toàn miền xung quanh (khu vực Ninh Bình,
Nam Định ngày nay) vẫn là một miền ven biển, dân Việt cổ Đông Sơn mới tụ
cƣ ở chân đồi núi giáp biển.
3. Vùng Kẻ Giầy vẫn có dân tụ cƣ dƣới thời Bắc thuộc qua chứng tích
mộ Hán rải rác trên sƣờn núi, đồi cát. Bằng chứng tinh thần là huyền tích
về thời Lý Nam Đế - Triệu Quang Phục chống quân Bắc thuộc vào
khoảng thế kỷ VI.
4. Vùng này tiếp tục đƣợc khai khẩn dƣới thời Lý - Trần. Chứng cứ là
đền thờ Minh Không - Không Lộ, Chùa Keo trên - dƣới, cùng những
“vết chân ông Khổng Lồ” - Đó chính là hệ thủy lợi ao chuôm, đầm hồ
giữa những cánh đồng.
5. Trƣớc khi Mẫu ra đời, dòng họ Mẫu, gốc Trần tránh loạn (?) chạy về
Kẻ Giầy - Côi Sơn đổi sang họ Lê (Song, sau đó, dòng họ này vẫn mang
tên chính thức là họ Trần Lê. Đa phần dân Tiên Hƣơng và Vân Cát đều
thuôc dòng họ Trần Lê). Sau đó, dòng họ này và các dòng họ khác tiếp
tục khai phá vùng này… Nếu tạm tin Mẫu giáng trần vào năm 1557 thì
9
dòng họ Mẫu đã tới vùng này vào khoảng cuối thế kỷ XV… Khi ấy, văn
hóa làng, văn minh dân giã cùng các tín ngƣỡng tính linh, đa thần giáo,
Phật giáo… đều phát triển.
6. Vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVI, các cố đạo Thiên Chúa giáo thuộc dòng
Tên đã truyền đạo ở vùng Quần Anh, Ninh Cƣờng (Hải Hậu), Trà Lũ, Hoành
Nha (Giao Thủy) ở miệt biển Hà Nam, Ninh Bình, mang theo bà Maria và
Chúa Jésus Chritst…
7. … Tại vùng Kẻ Giầy, ngoài thờ Mẫu Liễu, Mẫu Thƣợng Ngàn ở trên
núi Tiên Hƣơng, cùng hệ thống đền, miếu thờ các Mẫu, Tôn Ông, Chầu
Bà, Quan Lớn, các Cô… của đạo Tam phủ, Tứ phủ của Việt Nam, vẫn
tồn tại hệ thống thờ thần Mây, Mƣa, Sấm, Gió của ngƣời dân trồng lúa
nƣớc từ thời Nguyên Thủy…
8. Kẻ Giầy thờ “Thánh Khổng Minh Không” tại đình với tƣ cách là vị
Thành hoàng... [50, tr. 166 - 170].
Cũng trong mạch tìm hiểu, nghiên cứu về Kẻ Giày, phủ Giày, đi vào vấn đề
chi tiết hơn, rất đáng chú ý là: Trên Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4 (76) - 2001,
trong bài “Vì sao Vân Cát - Tiên Hƣơng là một hồi sau tách đôi và rồi đã đang lần
kết đôi?” [77] (sau đƣợc tuyển chọn in trong Theo dòng lịch sử, Những vùng đất,
thần và tâm thức người Việt [79]), tác giả Trần Quốc Vƣợng đã rất khéo rào trƣớc,
đón sau quanh câu hỏi do ông tự đặt ra, cũng là nhan đề bài viết. Thừa nhận, “Đây
là MỘT VẤN - NẠN (câu hỏi khó khăn) đặt ra: trƣớc toàn thể nhân dân hai làng
Vân Cát và Tiên Hƣơng, trƣớc các nhà lãnh đạo địa phƣơng và Trung ƣơng, trƣớc
các nhà khoa học mong và muốn tìm hiểu SỰ THẬT LỊCH SỬ ở vùng ĐẤT PHỦ
GIẦY - KẺ GIÀY của MẪU LIỄU HẠNH” [79, tr. 398].
Từ cách đặt vấn đề:
Bất cứ ai, khi đến hành hƣơng hay tham quan vùng Phủ Giầy đều thấy:
Lạ một điều, sao chỉ có một PHỦ GIẦY mà lại, từ một vài thế kỷ trƣớc
cho đến hôm nay, thấy là hai phủ.
- Phủ Vân Cát (với phức hợp Tứ phủ Công đồng) bằng nhau, với đền
Đức Vua Lý Nam Đế - anh hùng dân tộc thế kỷ VI - …
10
- Phủ Tiên Hương (cùng với cả một phức hợp đền vua Lý Nam đế, phủ
Chúa (chúa Liễu), đền Công núi (đền Quan lớn Đệ tam ở chân núi
Ngăm), đình Công đồng (thờ thần Sấm - tả Lôi công), đình Ông Khổng
(thờ Thành hoàng - thần làng - KHỔNG LỒ - KHÔNG LỘ - KHỔNG
MINH KHÔNG)…
Phủ Vân Cát, thì dân ta cứ gọi tắt là PHỦ VÂN.
Nhƣng PHỦ TIÊN HƢƠNG - thì có nhiều ngƣời cứ gọi là PHỦ CHÍNH.
Mà có chính (chánh) thì sẽ có phụ (phó). Vậy PHỦ VÂN là PHỦ PHỤ
của Mẫu Liễu hay sao? [79, tr. 398 - 399].
Sau khi đi điền dã và tham khảo sách của bà Đoàn Thị Điểm, ông đƣa ra một
giả thuyết khoa học về Kẻ Giày nhƣ sau:
Xã Vân Cát vốn có cơ cấu 4 giáp: Đông, Tây, Nam, Bắc - là bốn gò
(cồn) cát ven biển xƣa. Sau đó, hai giáp Tây, Nam tách ra thành thôn,
(làng) An Thái trong cơ cấu "nhất xã, nhị thôn", rồi sau đó nữa (không đã
chắc phải ở thế kỷ XV (Mẫu xuất hiện sau hai ông nghè Vân Cát - An
Thái 100 năm và trƣớc bà Hồng Hà nữ sử họ Đoàn 150 năm. Thời hai cụ
nghè chƣa hề có phủ Mẫu Vân Cát - Tiên Hƣơng) nhƣng cũng không quá
thế kỷ XVIII (đầu thế kỷ XVIII, bà Đoàn nói Mẫu "giáng trần" ở thôn
An Thái xã Vân Cát, thế kỷ XIX đã có tên An Thái), An Thái đã chạy
biệt xã [79, tr. 404].
Giả thiết về câu chuyện địa chính giữa Vân Cát và Tiên Hƣơng trong mối
quan hệ thờ chung Mẫu Liễu Hạnh do giáo sƣ đặt ra cũng chính là một nguồn cảm
hứng chủ đạo dẫn dắt nghiên cứu sinh thực hiện đề tài này.
Trong “Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hóa dân gian ở Việt Nam”,
cũng đƣợc tập hợp trong sách Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt - Những công
trình nghiên cứu, qua những phân tích, tác giả Đinh Gia Khánh đã đƣa ra một nhận
định hết sức tinh tế: “Tục thờ Mẫu đầy sức sống đã dựng nên hình tƣợng Mẫu Liễu
Hạnh, tức chúa Liễu Hạnh và đã kéo thần linh (mà đạo Tam phủ bắt đầu đẩy lên
cao, xa vời đối với con ngƣời) trở về với cõi nhân gian, với muôn mặt đời thƣờng”
[50, tr. 33]… Và “Tục thờ Mẫu gắn với những truyền thống văn hóa dân gian của
11
nhân dân ta từ buổi đầu dựng nƣớc, trải qua trƣờng kỳ lịch sử cho tới tận ngày nay.
Và, đến nay, đó vẫn là một hiện tƣợng đầy sức sống…” [50, tr. 34].
Tác giả Ngô Đức Thịnh nổi tiếng với nhiều công trình riêng về tín ngƣỡng thờ
Mẫu, trong nghiên cứu Đạo Mẫu Việt Nam (Từ thờ Nữ thần, Mẫu thần đến Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ), cũng đƣợc tập hợp trong Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt - Những
công trình nghiên cứu, đã đƣa ra những khái quát về lịch sử các hình thức thờ Mẫu của
ngƣời Việt. Theo ông, lịch sử này khởi nguồn từ việc thờ Nữ thần, qua các bƣớc phát
triển, hệ Mẫu thần đƣợc xác lập, và, đỉnh cao của sự phát triển đạt tới mức độ khái quát
là hệ Mẫu Tam, Tứ phủ. Đây là dạng thức thờ Mẫu tiêu biểu của ngƣời Việt ở khu vực
Bắc Bộ, bên cạnh dạng thức thờ Mẫu Trung Bộ, Mẫu Nam Bộ… [50, tr.35 - 67]. Thực
chất, đây là quan điểm xuyên suốt trong nhiều công trình đã công bố trƣớc đó, đƣợc
nhiều ngƣời đón nhận, tham khảo và trích dẫn… [61], [62], [63], [64].
Cũng trong nghiên cứu này, tác giả Ngô Đức Thịnh khẳng định:
Thoát thai từ đạo thờ Thần và chịu ảnh hƣởng của Đạo giáo Trung Quốc,
Đạo Mẫu với tƣ cách là một biến thể của Đạo giáo Việt Nam đã và đang
thâm nhập và ảnh hƣởng tới các tín ngƣỡng tôn giáo khác.
Cùng một loại hình Đạo giáo, Đạo Mẫu rất gần gũi với đạo thờ Thần
Tiên trong cả quan niệm, thần điện và nghi thức thờ cúng. Hơn thế nữa,
vị thần chủ Đạo Mẫu là Liễu Hạnh đồng thời là một vị Tiên tiêu biểu của
Việt Nam. Đấy là chƣa kể các hình thức nghi lễ cầu Tiên, luyện đồng
giáng bút của hai loại đạo này cũng có rất nhiều nét vay mƣợn của
nhau… [50, tr. 64].
Cũng thuộc nghiên cứu cơ bản về địa danh - từ hƣớng tiếp cận ngữ âm học,
diễn giải về ý nghĩa của từ Kẻ Giầy, trong nghiên cứu “Về tên đất Kẻ Giầy, phủ
Giầy”, tác giả Cao Xuân Hạo, Trần Thúy Anh, với sự cộng tác của tác giả Trần
Quốc Vƣợng, đã tổng hợp đƣợc 3 thuyết dân gian có đề cập đến ngữ nghĩa và
nguồn gốc của từ Kẻ Giầy, cụ thể nhƣ sau:
1. Năm 21 tuổi (1557), khi Mẫu Liễu Hạnh trở lại “thƣợng giới” có để lại
dƣới Trần gian một chiếc Hài (Giầy).
2. Vua (Lê?) hay chúa (Trịnh?) đã đi qua làng Mẫu đã nhặt đƣợc chiếc
12
Hài (GIẦY) của Mẫu để lại trần gian.
3. Vùng này có nghề bánh GIẦY - GIÒ nổi tiếng. Nay mỗi khi hội phủ
Giầy tháng Ba lịch Trăng, mọi con nhang đệ tử và khách thập phƣơng
vẫn mua bánh giầy (dân chợ Dần (Giầy) giã mang bán) [79, tr. 329].
Qua những phân tích và dẫn dụ, cuối cùng, ông đã đƣa ra một giả thuyết
khoa học: “Kẻ Giầy chính là Kẻ Trần, vùng của họ Trần” [79, tr. 332].
Đây là một chỉ dẫn quan trọng cho nghiên cứu sinh tiếp tục tìm hiểu thêm về
ý nghĩa lịch sử - văn hóa của vùng đất Kẻ Giầy.
Một nghiên cứu cơ bản khác nhƣng lại đƣợc triển khai từ góc độ khảo cứu tƣ
liệu Hán Nôm, đó là “Đối thoại với Hát Văn và Hầu đồng” của GS. Kiều Thu
Hoạch, cũng đƣợc tập hợp trong Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt - Những công
trình nghiên cứu [50]. Với không khí “đối thoại” hiếm hỏi nhƣng lại rất cởi mở, qua
khảo cứu tƣ liệu Hán Nôm, phân tích và diễn giải, ông đi đến một số nhận định trên
cơ sở tƣ liệu:
Tín ngƣỡng thờ Mẫu thuộc loại hình tín ngƣỡng Vu Hích (Đồng Cốt)…
Qua tƣ liệu Hán Nôm, tín ngƣỡng Đồng Cốt mới chỉ thấy xuất hiện từ
thời Lý… Nhiều tƣ liệu Hán Nôm đều cho thấy, tín ngƣỡng thờ Mẫu
đƣợc quy tự vào Thánh Mẫu Liễu Hạnh từ thời Lê Trịnh (thế kỷ XVII).
Và, nếu nhìn từ tín ngƣỡng Vu Hích thì Liễu Hạnh cũng có thể coi nhƣ
một nữ vu (magicienne)… [50, tr. 648].
Đây cũng là một trong những chỉ dẫn mang tính căn lề cho nghiên cứu sinh
triển khai các bƣớc trong đề tài này.
Đặc biệt, trong “Tiếp cận thực hành tín ngƣỡng Tam phủ của ngƣời Việt từ
góc nhìn lịch sử”, tác giả Kiều Thu Hoạch, từ một hƣớng tiếp cận độc đáo, ông đã
khẳng định: Việt vu là nguồn gốc của tục lên đồng của ngƣời Việt, đồng thời, ông
cũng chỉ ra tiến trình lịch sử của lên đồng. Theo đó, lên đồng cần phải đƣợc tiếp cận
trong bức tranh tổng thể và toàn cảnh, bao gồm các hoạt động vu thuật/ma thuật của
tín ngƣỡng này, cụ thể nhƣ phù kê/phụ tiên giáng bút, bói toán [29]…
Một nghiên cứu khác cũng rất đáng quan tâm, đó là Cult, Culture and
Authority Princess Liễu Hạnh in Vietnamese Hítory của Olga Dror, một học giả
13
ngƣời gốc Nga, hiện đang định cƣ tại Mỹ, nguyên bản tiếng Anh, đã đƣợc Viện Văn
hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam tuyển dịch. Tiếp cận nguồn tƣ liệu trên diện
rộng, gồm cả tƣ liệu Hán Nôm, truyền thuyết dân gian, ghi chép của các học giả đi
trƣớc, Olga Dror đã khảo rất kỹ về nguồn gốc và thời điểm định hình tín ngƣỡng
thờ Mẫu Liễu Hạnh ở khu vực phủ Giầy qua một loạt giả thuyết để đi đến khẳng
định, thế kỷ XVI là tƣơng đối thích hợp cho thời điểm định hình tín ngƣỡng này.
Ngoài ra, cũng trong công trình này, Olga Dror còn đƣa ra nhiều nhận xét khá thú vị
khác, nhƣ về tính chất đặc trƣng giới nữ trong tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và
cho rằng, Mẫu Liễu Hạnh là một vị thần đƣợc sáng tạo bởi những ngƣời bình dân…
1.1.2. Một số tập hợp, giới thiệu tư liệu và tiếp cận qua tư liệu Hán Nôm
Trƣớc tiên, phải đề cập tới nguồn tƣ liệu Hán Nôm liên quan tới hệ thống di
tích thờ Mẫu Liễu Hạnh tiêu biểu trên địa bàn Nam Định, đã đƣợc sƣu tầm, chỉnh
lý, phiên âm, dịch nghĩa, chú thích với sự đầu tƣ công sức của các tác giả Dƣơng
Văn Vƣợng, Trần Việt Anh, Nguyễn Xuân Cao, sau đƣợc Bảo tàng Nam Định tập
hợp thành những tập tài liệu phục vụ cho công tác quản lý, nghiên cứu, bảo tồn và
phát huy giá trị di tích. Đây là bộ tài liệu sƣu tầm tƣơng đối toàn diện và đầy đủ
nguồn tƣ liệu Hán Nôm tại di tích phủ Giày và phủ Nấp. Trong khuôn khổ phối hợp
thực hiện việc biên soạn cuốn sách Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua Tư
liệu Hán Nôm (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam Định và Viện Văn hóa
Nghệ thuật quốc gia Việt Nam biên soạn, Nxb. Thế giới ấn hành năm 2019), tác
giả luận án cùng nhóm thực hiện đã đƣợc Bảo tàng tỉnh Nam Đinh, cung cấp cho
một số tệp tài liệu Hán Nôm (bản đánh máy) có giá trị tham khảo, cụ thể:
- Kết quả nghiên cứu các đạo sắc phong tại phủ Tiên Hƣơng, xã Kim Thái,
huyện Vụ Bản, tập hợp 14 đạo sắc lƣu tại phủ Tiên Hƣơng, với sắc sớm nhất có
niên đại năm Vĩnh Khánh 2 (1730), sắc muôn nhất có niên đại năm Khải Định 9
(1924) - Ngoài phần nguyên văn, phiên âm, dịch nghĩa, mỗi sắc đều có phần khảo tả
ngắn gọn về đặc điểm, hiện trạng. Phần phiên âm, dịch nghĩa do Nguyễn Xuân Cao,
cán bộ Bảo tàng Nam Định thực hiện.
- Lăng Công chúa liễu Hạnh, sƣu tầm, tập hợp văn khắc Hán Nôm tại lăng
Thánh Mẫu Liễu Hạnh, do Dƣơng Văn Vƣợng dịch nghĩa và chú giải.
14
- Phủ Tiên Hương, thôn Tiên Hương, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Hà, với nội dung tập hợp tƣ liệu Hán Nôm tại phủ Tiên Hƣơng (ngoại trừ sắc
phong), do Dƣơng Văn Vƣợng dịch nghĩa và chú thích.
- Phủ Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà, với nội dung tập
hợp tƣ liệu Hán Nôm tại phủ Vân Cát, do Dƣơng Văn Vƣợng dịch nghĩa và chú
thích.
- Tƣ liệu Hán Nôm tại di tích phủ Quảng Cung, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên,
Nam Định, tập hợp tƣ liệu Hán Nôm tại phủ Quảng Cung, do Trần Việt Anh phiên
âm, dịch nghĩa, chú giải.
Những tài liệu này đã đƣợc chỉnh lý và tập hợp, giới thiệu trong sách Tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua Tư liệu Hán Nôm [51], chú thích rõ nguồn
gốc và tác giả.
Một công trình tập hợp, giới thiệu tƣ liệu theo nhóm, cần đƣợc điểm tới là
Tuyển tập những bài hát văn [49], do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam
Định và Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam biên soạn, Nxb. Thế giới ấn
hành năm 2017. Đây cũng là một quyển trong bộ 4 quyển: Tuyển tập những bài hát
văn, Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua Tư liệu Hán Nôm, Tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Việt - Những công trình nghiên cứu, Tín ngưỡng thờ Mẫu của người
Việt - Những công trình của các tác giả nước ngoài, do Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Nam Định và Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam biên soạn.
Sách tập hợp 225 bản hát Văn (có phần phụ lục: cờn oán, hát dọc, xá cờn,
phú dầu) gắn với tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt, đƣợc tập hợp từ nhiều nguồn.
Trong đó, có nhiều bài bản hát văn đƣợc tuyển chọn từ bản phiên dịch từ nguyên
bản Hán Nôm có niên đại vào khoảng đầu thế kỷ XX, nhƣ Trần Triều hiển thánh
tán văn, ký hiệu thƣ viện Hán Nôm A.900, do giáo sƣ Kiều Thu Hoạch thực hiện,
Chư vị tán văn toàn tập, ký hiệu thƣ viện Hán Nôm AB601, do nghiên cứu sinh
thực hiện. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu
tín ngƣỡng thờ Mẫu, trong đó có lĩnh vực âm nhạc gắn với tín ngƣỡng thờ Mẫu, hệ
thần gắn với tín ngƣỡng thờ Mẫu, ngôn ngữ, văn học dân gian và nhiều khía cạnh
khác liên quan khác [49].
15
Cũng từ góc độ tập hợp, giới thiệu tƣ liệu về tín ngƣỡng thờ Mẫu của
ngƣời Việt, có lẽ, Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua Tư liệu Hán Nôm
[51], do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam Định và Viện Văn hóa Nghệ
thuật quốc gia Việt Nam biên soạn, Nxb. Thế giới ấn hành năm 2019 là xuất bản
phẩm tập hợp và công bố đƣợc lƣợng tƣ liệu Hán Nôm đáng kể nhất. Đây cũng
là một quyển trong bộ 4 quyển: Tuyển tập những bài hát văn, Tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Việt qua Tư liệu Hán Nôm, Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt -
Những công trình nghiên cứu, Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt - Những công
trình của các tác giả nước ngoài, do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam
Định và Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam biên soạn, tập hợp và hệ
thống tƣơng đối về tƣ liệu Hán Nôm liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời
Việt, mặc dù trƣớc đó có một số sách khác đã tập hợp nhƣng chƣa thực sự thành
hệ thống.
Sách đã bƣớc đầu tập hợp và công bố bản dịch tiếng Việt tƣơng đối đầy đủ
các mảng tƣ liệu Hán Nôm liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Nam
Định, gồm thần tích, sắc phong, văn bia và gia phả. Tuy nhiên, về cơ bản, đây mới
chỉ là cuốn sách mới sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu đƣợc một số tƣ liệu Hán
Nôm liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Nam Định, có giá trị về mặt tài
liệu tham khảo nghiên cứu. Tuy nhiên, những tƣ liệu hán Nôm Nôm liên quan đến
các vị Thánh Mẫu khác và hệ thần liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu chƣa có điều
kiện tập hợp, đặc biệt là những vấn đề, nhƣ nhìn nhận, đánh giá, kết luận về các vấn
đề liên quan tới “Tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt qua Tƣ liệu Hán Nôm” hoặc
đánh giá về giá trị, nội dung tƣ liệu Hán Nôm, hƣớng khai thác tƣ liệu Hán Nôm
cũng chƣa có điều kiện đề cập đến tới [51].
Trƣớc đây, xóc thẻ, rút thẻ, xem thẻ là một trong những hoạt động tín
ngƣỡng khá phổ biến trong các đền, chùa, miếu, quán, phủ… ở nƣớc ta. Với tín
ngƣỡng thờ Mẫu, ấn phẩm Thánh Mẫu linh thiêm, do Olivier Tessier (Tổ chức biên
soạn), Phạm Văn Ánh, Nguyễn Thị Hiệp (dịch vào giới thiệu), là một ấn phẩm tập
hợp, giới thiệu tƣ liệu tƣ liệu rất đáng chú ý. Bộ sách giới thiệu khá đầy đủ chi tiết
về tục bói thẻ, đặc biệt đã công bố toàn văn (dạng ảnh chụp) và phần phiên âm, dịch
16
nghĩa chú giải cho từng quẻ... [45].
Từ góc tiếp cận Hán Nôm, quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ
Giày, Dƣơng Văn Vƣợng là tác giả có công rất lớn trong việc sƣu tầm, tập hợp tƣ
liệu Hán Nôm. Trên nền tảng này, hầu hết các nghiên cứu liên quan của ông thƣờng
dựa trên việc khảo cứu tƣ liệu Hán Nôm để phân định - Xin lấy ra một dẫn dụ liên
quan để cùng thấy đƣợc điều này: Trong “Tìm hiểu lịch sử Mẫu Liễu qua một số
thơ văn cổ”, cũng đƣợc tập hợp trong Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt - Những
công trình nghiên cứu [50]. Trên nền tảng tƣ liệu, ông đã tìm cách đặt và giải quyết
vấn đề lịch sử Mẫu Liễu rất đáng chú ý:
Từ câu đối của Giám sát Ngự sử Đồng Công Viện, viết năm Vĩnh Thịnh
thứ 8 (1712) tại chùa Hải Lạng, huyện Đại An nói về ba kiếp giáng sinh
của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, bằng những kinh nghiệm điền dã và dịch
thuật Hán Nôm, ông tin và lần lƣợt diễn giải về ba lần giáng sinh xuống
trần của thánh Mẫu Liễu Hạnh nhƣ sau:
- Lần thứ nhất, Mẫu giáng sinh tại Vỉ Nhuế (Đại An).
- Lần thứ hai, Mẫu giáng sinh ở Yên Thái (Thiên Bản).
- Lần thứ ba, Mẫu giáng sinh ở Tây Mỗ (Nga Sơn)…
Điểm thú vị là khi đề cập tới Vân Cát thần nữ truyện (trong Truyền kỳ Tân phả),
ông đƣa ra khẳng định, Vân Cát thần nữ truyện nguyên do Trần Mại từng đỗ Đệ Tam
giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, niên hiệu Bảo Thái thứ 2 - 1721, làm quan
chức Công bộ Thị Lang viết. Theo ông, ghi chép của Trần Mại nhƣ sau:
Ở Yên Thái có bà con gái linh thiêng, hiển hiện nói cùng dân thôn và thân
nhân trong những đêm trăng sáng dƣới khu gò Đa, nơi có xác phàm, rằng
mình là con gái của Thƣợng đế bị trích xuống trần vào nhà họ Lê ở xóm
Vân Cát, lấy chồng là Trần Duy Đào, sinh đƣợc một trai, một gái, năm 21
tuổi về trời. Dân sở tại thấy cô chỉ bảo giúp địa phƣơng tìm lành tránh dữ,
nên lập miếu thờ. Em trai của cô là Lâm thay cô phụng dƣỡng hai thân,
dòng dõi họ Trần giữ gìn hiếu nhân tín nghĩa [50, tr. 224 - 225].
Tuy nhiên, một điểm đáng tiếc là ông chƣa chú thích rõ “Theo ghi chép của
Trần Mại” là theo tƣ liệu nào, tính xác thực lịch sử và văn bản của tƣ liệu ra sao.
17
Bên cạnh đó, cần thiết phải đặt vấn đề tính xác thực cửa tƣ liệu hoặc bản dịch khi
xét lại chi tiết (lời ông Trần Mại) cho rằng: “Ở Yên Thái có bà con gái linh thiêng,
hiển hiện nói cùng dân thôn và thân nhân trong những đêm trăng sáng dƣới khu gò
Đa” - Nếu hiểu, “dân thôn” trong câu này là dân thôn Yên/An Thái thì nguồn tƣ liệu
chƣa hẳn đã chính xác, bởi qua khảo cứu và đối chiếu nguồn tƣ liệu Hán Nôm, đặc
biệt là qua các tài liệu gốc mang tính chân xác cao, nhƣ sắc phong (hiện lƣu tại nhà
thờ họ Trần Lê và phủ Tiên Hƣơng), địa bạ lập năm Gia Long thứ 4 - 1805 (hiện
lƣu tại Trung tâm Lƣu trữ quốc gia 1, Cục Văn thƣ và Lƣu trữ nhà nƣớc - Bộ
Nội vụ), xã An/Yên Thái, bản xác thực của Bộ Lễ triều Nguyễn, tục lệ xã Tiên
Hƣơng, do hội đồng chức dịch xã Tiên Hƣơng (trƣớc là An/Yên Thái) lập năm Tự
Đức thứ 3 - 1850) chƣa thấy khi nào An/Yên Thái ở đây giữ tƣ cách là một
xóm/thôn.
Cũng theo Dƣơng Văn Vƣợng:
Trần Mại không đề cập tới tiền thân và hậu thân của Mẫu. Tuy nhiên,
Đoàn Thị Điểm và em trai của bà là Đoàn Doãn Luân đều là học trò của
Trần Mại sau khi ông trí sĩ về hƣu sớm. Đoàn Thị Điểm tiếp thu đƣợc
chuyện này đã thêm phần trên dƣới có sự linh dị, làm sống thêm cuộc
đời, sự nghiệp thơ văn, hiển thánh ra oai tác phúc…. Tuy nhiên, khi đến
Giá Sơn Kiều Oánh Mậu (ngƣời xã Đông Sàng, huyện Phúc Thọ) biên
tập lại, có đƣa cho Khiếu Năng Tĩnh xem, sau khắc bản in vào năm Canh
Tuất (1910), đã chú trọng đến việc thánh Mẫu chống trọi với quan triều
đình nhƣ còn thấy trong tác phẩm này [50, tr. 225 - 226].
Tiếp theo, dẫn lời của Lý Văn Phức (ngƣời xã Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận,
đỗ Hƣơng Cống năm Gia Long 18 - 1819), ông để đi đến khẳng định: “Bà Điểm là
ngƣời yếu ớt, biết phụng sự chồng, nuôi nấng con cháu, là ngƣời học hành uyên bác
nhƣng chẳng dám đi đâu, nên tập biên mã vàng công chúa đã thiếu mất tiền thân và
hậu thế” [50, tr. 226].
Cũng trong nghiên cứu này, Dƣơng Văn Vƣợng khẳng định:
Ông từ Trần Đắc Tuyên, trong một lần ngồi đồng năm Gia Long thứ 15
(1806), đã viết: Ta (Mẫu Liễu) tiền kiếp ở Vỉ Nhuế - Đại An, trung khiếp ở
18
An Thái - Thiên Bản, hậu kiếp ở Tây Mỗ - Nga Sơn, đều có từ 20 đến 40
năm nơi trần thế, việc trinh hiếu là nhân bản không thể thiếu, việc du ngoạn
là việc cảnh tỉnh lũ ô trọc, há lại cho là vô bổ, còn việc họa xƣớng ở Tây Hồ
là loài hồ yêu mê hoặc không nên gán ghép cho ta… [50, tr. 226].
Đó là một chi tiết khá thú vị, để qua đó có thể đặt ra một giả thiết để làm việc là:
Phải chăng, trƣớc đây, ngoài mục đích thông linh (con đồng bắc cầu để con ngƣời và
thần linh giao tiếp với con ngƣời), “lên đồng phán truyền” còn đƣợc sử dụng với mục
đích xây dựng, đắp bồi hành trạng, thân thế của Mẫu và thần linh?
Sau khi dẫn thêm tƣ liệu sắc phong, Dƣơng Văn Vƣợng khẳng định:
Trong mối quan hệ với Mẫu, ông Lê Công Tiên là bố đẻ và bà Từ Huệ
(Trần Thị Phúc) là mẹ đẻ, ông Lê Công Lâm là em ruột, bà Sâm, tức Duy
Tiên phu nhân là em dâu, bà Liên tức Quế Anh hay Quế Hoa là cháu.
Về phía chồng, ở xóm Vân Đình (Giáp Nhì) đều có bài vị thờ ở phủ Tiên
Hƣơng, mà đời cho là quê chồng mới, là nơi có cửa nhà và nơi gửi xác.
Mộ phát tích thì tại xứ Cây Đa Bóng, có mộ cha đẻ tại xứ La Hào (Giáp
ba) là mộ tổ tứ đại, còn cồn cây Đa là mộ Mẫu, nơi chôn cất xác phàm,
nơi sau này ba chị em họ Lê thuộc hội Đào Chi (Huế) đã xây lăng đá
năm Mậu Dần (1938) [50, tr. 229].
Cuối cùng, ông đƣa ra nhận định:
Có thể nói vị đàn bà mà thời xƣa phong là chúa Liễu, về nguồn gốc là
ngƣời thực việc thực, có ba giai đoạn, mà kết hợp lại thì do lời của ông
đồng bà cốt, thần thánh hóa uy đức của ngƣời phụ nữ.
Về thực chất có ba ngƣời phụ nữ ở ba vùng, lần thì không lấy chồng, lần
thì có chồng con, đều nêu cao tính chất nhân từ nhu thuận, treo gƣơng
trinh hiếu, mà các quan lại là chồng, là thần thích, nên đã vì vợ, em, ngƣời
yêu quý, góp tay xây dựng tô điểm, để bà thành vị nữ thần đệ nhất thời
Việt Nam đầy biến cố [50, tr. 235].
Nhƣ vậy, tạm bỏ qua những tiểu tiết, có thể nhận thấy, qua khảo cứu, Dƣơng
Văn Vƣợng đã phần nào khẳng định, với Mẫu Liễu, ngoài “hành trạng Thần Tiên”,
còn có một “hành trạng thế tục”. Tuy nhiên, một điều đáng tiếc là ông chƣa khai
19
thác nguồn tƣ liệu sắc phong để củng cố cho nhận định này. Vậy có hay không một
motif hành trạng Mẫu, vốn từ ngƣời thực chết thiêng, sau đƣợc huyền thoại hóa để
mang những yếu tố thần kỳ. Và, phải chăng, đây là một xu hƣớng “thần thánh hóa”
con ngƣời bên cạnh xu hƣớng nhân hóa thần linh trong tín ngƣỡng truyền thống
Việt? Đó là những câu hỏi nhỏ cũng đƣợc nghiên cứu sinh đặt ra và thử tìm câu trả
lời trong luận án này?
Trong Luận văn thạc sĩ Hán Nôm, Đại học Quốc gia Hà Nội, với đề tài Văn bản
Truyền kỳ tân phả và mối quan hệ với các thần tích, bảo vệ thành công năm 2011, Lê
Tùng Lâm đã rất dày công điểm lại lịch sử nghiên cứu và dịch thuật Truyền kỳ tân phả,
trong đó có truyện Vân Cát Thần nữ. Qua đó, một số vấn đề văn bản và truyền bản văn
bản này đã đƣợc làm rõ. Với thao tác tập hợp tƣ liệu theo thiên hƣớng khảo cứu, bƣớc
đầu tác giả đã thống kê đƣợc 29 văn bản thần tích liên quan tới Vân Cát Thần nữ. Sau
phân tích văn bản, tác giả đã khái quát về hình tƣợng và hành trạng của Thánh Mẫu
Liễu Hạnh qua Truyền kỳ Tân phả và các bản thần tích dƣới các góc độ: danh hiệu, tên
trên thiên đình, tục danh và sự giáng sinh, thần hiệu, ngày sinh và ngày mất, quê
hƣơng, bố mẹ, anh em, chồng con… và đƣa ra một nhận xét khá thú vị là:
Đoàn Thị Điểm đã thu thập nhiều tích truyện trong dân gian để viết nên Vân
Cát Thần nữ theo motip tài tử giai nhân. Truyện có sức lan tỏa mạnh mẽ,
khi thâm nhập vào khắp các miền quê lại có thay đổi ít nhiều cho phù hợp
điều kiện mới. Và, để thống nhất thần quyền, cầu cho vận nƣớc dài lâu,
triều đĩnh đã ban sắc, dựng đền đƣa vào hàng quốc tế. Theo đó, ảnh hƣởng
của tín ngƣỡng thờ Mẫu ngày càng lớn mạnh… [37].
Tuy nhiên, một điều đáng tiếc, là khi khảo văn bản Vân Cát thần nữ lục và tham
khảo các bản dịch trƣớc đó, cách diễn giải “truyền thống” vô tình vẫn bóp méo sự thật
lịch sử vẫn chƣa đƣợc phát lộ, nên trong các diễn giải về đất giáng sinh của Mẫu Liễu
Hạnh vẫn đƣợc cho là ở Thôn/làng An Thái, thuộc xã Vân Cát, trong khi trong cấu trúc
câu “An Thái Vân Cát Thiên Bản chi danh hƣơng…, về quan hệ địa chính giữa Vân
Cát và An Thái tại thời điểm định bản Vân Cát Thần nữ lục trong Truyền kỳ tân phả
khắc năm Gia Long 10 (1811) thì Vân Cát chính là một thôn của xã An Thái. Trong
khi đó, nhiều bản thần tích liên quan do chính tác giả công bố trong phụ lục lại mô tả
20
đúng, là khi ấy, thôn Vân Cát, thuộc xã An Thái. Và, sự kiện một số văn bản ghi năm
Gia Long thứ 4 (1805) xã An Thái đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng cũng mặc nhiên
đƣợc thừa nhận nhƣng trong khi thực tế đây là câu chuyện lịch sử vào cuối thờ Thiệu
Trị - đầu thời Tự Đức. Về vấn đề này, nghiên cứu sinh xin đƣợc làm rõ trong chƣơng 3
khi đề cập đến biến đổi địa chính khu vực Kẻ Giày trong lịch sử.
Một điểm đóng góp đáng kể nữa của luận văn này là tác giả đã công bố khá
nhiều bản dịch dị bản truyện Vân Cát Thần nữ, trong đó có Nội Đạo tràng và các bản
thần tích: AE.A2/86, AE.A2/48, ghi Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh từ thời Lý… [37].
Có lẽ, một tác giả có công lớn nhất trong việc đặt tiền đề khai phá tìm hiểu Tín
ngưỡng thờ Mẫu (tác giả công trình này gọi là Đạo Mẫu) ở Việt Nam qua tƣ liwwuj
Hán Nôm, phải kể đến là thạc sĩ Đinh Thị Lệ Huyền, với luận văn thạc sĩ Hán Nôm
mang tên Đạo Mẫu từ nguồn tư liệu Hán Nôm, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn,
bảo vệ thành công năm 2007.
Đây là công trình có đóng góp về khía cạnh tập hợp, chỉ dẫn tƣ liệu Hán Nôm
và khảo cứu dị bản các văn bản liên quan tới tục thờ Mẫu trên phạm vi cả nƣớc. Qua
khảo sát tƣ liệu, tác giả đã thống kê (dù chỉ qua sách thƣ mục) đƣợc 85 đầu mục tƣ liệu
Hán Nôm liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu nói chung qua Thư mục đề yếu, kèm theo
các thông cơ bản về tên văn bản, ký hiệu, niên đại, tác giả, ngôn ngữ nội dung (khái
lƣợc) và ghi chú. Riêng với nhóm thần tích, tác giả cũng đã thống kê đƣợc 31 đơn vị tài
liệu, với các thông tin cơ bản về tên văn bản, ký hiệu, hiệu duệ tôn thần, niên đại và tác
giả, địa danh lƣu trữ thần tích và ghi chú về số tờ, văn tự đƣợc thể hiện trên văn bản.
Đáng chú ý, công trình này đã công bố danh mục 220 bản khai thần tích - thần sắc của
các chức dịch làng xã kê khai năm 1938, hiện đang lƣu tại Viện Thông tin khoa học xã
hội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, với các thông tin khái quát về số đăng
ký, nơi có thần tích và sắc phong, duệ hiệu tôn thần, số lƣợng, số ký hiệu [36].
Qua các tổng hợp phân tích văn bản, phân loại văn bản theo nhóm loại hình, tác
giả đã đƣa ra một số nhận xét về lịch sử văn hóa rất đáng lƣu tâm, cụ thể:
- Về thời gian, quá trình văn bản hóa truyền thuyết về Mẫu ở nƣớc ta đƣợc
bắt đầu từ thời Lê Trung hƣng, dƣới thời vua Lê Anh Tông (1571 - 1573),
sau đƣợc kế tục qua các triều đại sau.
21
- Điểm đáng chú ý là bên cạnh ghi chép bằng chữ Hán, với sự ra đời và phát
triển hình thức ghi chép bằng chữ Nôm, đã góp phần giúp cho điều kiện
truyền bá, phổ cập tín ngƣỡng thờ Mẫu dễ dàng hơn.
- Tính dị bản trong các văn bản Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu là hệ quả
tất yếu của việc tƣờng lƣợc bất đồng (chỗ mờ chỗ tỏ).
- Nguồn tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu trực tiếp phản ánh nhiều
mặt về đời sống tín ngƣỡng thờ Mẫu… [36].
Nhân đây, xin nói rõ thêm, là quá trình văn bản hóa truyền thuyết về Mẫu ở nƣớc ta
đƣợc bắt đầu từ thời Lê Trung hƣng, dƣới thời vua Lê Anh Tông (1571 - 1573), sau đƣợc
kế tục qua các triều đại sau, thực chất là việc “văn bản hóa” mang tính chất quan phƣơng,
do triều đình thực hiện nhằm “điều chỉnh” một số nội dung mà triều đình cho là nhảm nhí.
Ngoài mặt tích cực và tiện dụng cho việc quản lý bách thần, thì việc làm này cũng là một
tác nhân trực tiếp can thiệp vào sự đa dạng văn hóa dân gian, dần biến thần tích của các vị
thần thành/theo một motip chung nhƣ chúng ta còn thấy hiện nay.
Bên cạnh đó, còn thể kể tới một số công trình khác nhƣ: Nghiên cứu kinh giáng
bút của thiện đàn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX - Luận án tiến sĩ Hán Nôm của
Trần Quang Huy [32], Quốc văn Nôm trong kinh giáng bút của phong trào thiện
đàn đầu thế kỷ XX, Luận văn thạc sĩ Hán Nôm của Trần Quang Huy [33], Đức
thánh Trần qua kinh giáng bút, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hiền [24]… và
nhiều công trình khác nữa, nhƣ của các tác giả Nguyễn Minh San, [50, tr. 210 -
219], Chu Xuân Giao [50, tr. 237 - 276], Bùi Văn Tam [50, tr. 315 - 319], Nguyễn
Duy Hinh [50, tr. 346 - 358]…
Điểm qua một số kết quả nghiên cứu của những công trình đi trƣớc, có thể nhận
thấy, mỗi nghiên cứu, với phƣơng pháp riêng, cách tiếp cận riêng, lý luận riêng, biện
giải riêng sẽ cho ra một kết quả “tƣơng đối riêng” nhƣng nhất định không có “vấn đề
cũ”. Tạm hợp các mảnh ghép lại, ắt sẽ tạo nên một bức tranh đa sắc về tín ngƣỡng thờ
Mẫu Liễu Hạnh từ lịch sử đến đƣơng đại nhƣng vẫn có những điểm nhƣ vừa mờ, vừa
tỏ. Những thành tựu nghiên cứu trên, đặc biệt là những nghiên cứu cơ bản và tập hợp
tƣ liệu là tiền đề quan trọng để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa và triển khai đề tài
này. Theo đó, có thể nhận thấy, từ việc tập hợp, khảo cứu văn bản học Hán Nôm trong
22
điều kiện hiện nay, vấn đề lịch sử địa chính và văn hóa khu vực Kẻ Giày quanh tín
ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh cần thiết phải đƣợc diễn giải lại để làm sáng tỏ thêm. Trên
nền này, kết hợp với khai thác giá trị của tƣ liệu Hán Nôm dƣới góc nhìn văn hóa học,
những vấn đề cụ thể, nhƣ tên gọi Kẻ Giày, phủ Giày, hệ thần đƣợc thờ, thần điện và
không gian thực hành tín ngƣỡng, các thực hành văn hóa tín ngƣỡng liên quan, vai
trò của các cộng đồng chủ thể sáng tạo văn hóa, tƣ cách chính tự và một số vấn đề
khác nữa… quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày cần đƣợc diễn giải và
phân tích làm sáng tỏ hơn…
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.2.1. Cơ sở lý luận
Thừa hƣởng kết quả nghiên cứu của ngƣời đi trƣớc, một số thành tựu nghiên cứu
đã điểm qua sẽ đƣợc nghiên cứu sinh lựa chọn tiếp thu, trong đó có những lý luận khái
quát từ góc nhìn địa - văn hóa, nguyên lý mẹ trong văn hóa Việt Nam của GS. Trần
Quốc Vƣợng; nguyên tắc diễn giải ngữ âm dân gian trong việc tìm hiểu về địa danh của
GS. Cao Xuân Hạo; lý luận mang tính khái quát về các bƣớc phát triển, các dạng thức
thờ Mẫu trong tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt của GS. Ngô Đức Thịnh...
Luận án sử dụng hai cách tiếp cận chính, đó là văn bản học và văn hóa học.
Bên cạnh đó, cách tiếp cận liên ngành gồm sử học, ngôn ngữ học, tôn giáo học… sẽ
đƣợc sử dụng trong các phân tích cụ thể.
Về văn bản học, theo các chuyên gia Hán Nôm thì bộ môn lý luận văn bản
học của Nga (Liên Xô cũ), một nƣớc có nền văn bản học tiếng Nga cổ rất phù hợp
để áp dụng nghiên cứu văn bản học Hán Nôm. Hiện nay, Viện Nghiên cứu Hán
Nôm vẫn đang lƣu bản dịch về văn bản học của Likhatsop, ký hiệu DT.108, có giá
trị tham khảo nhất định đối với những ngƣời nghiên cứu văn bản học Hán Nôm.
Về thuật ngữ, văn bản học tiếng Nga là “Textologhi” (phiên âm tiếng Pháp là
“Textologi”). Ở Tây Âu không có thuật ngữ tƣơng đƣơng, thƣờng đƣợc gọi là phê
phán văn bản (“Critique de textes”). Ở Trung Quốc, văn bản học từ đời Thanh đã
rất phát triển, thƣờng đƣợc định danh bằng thuật ngữ “Bản bản học” (版 本 學).
Ở Việt Nam, nhà bác học Lê Quý Đôn cũng rất quan tâm đến việc nghiên
cứu phê phán văn bản. Chẳng hạn, khi phê phán văn bản Lam Sơn thực lục, ông cho
23
rằng, văn bản này đƣợc sao chép có nhiều chữ sai, không rộng tìm các bản mà chỉ
tùy ý sửa đổi, thêm bớt, làm mất tính chân thực của bản gốc.
Sách giả ở Trung Quốc rất nhiều, ở Việt Nam cũng không phải không có.
Chẳng hạn: Quanh sách Lĩnh Nam dật sử của Trần Nhật Duật, đã có nhiều ý kiến
phân tích, tuy nhiên, ở nƣớc ta, lĩnh vực văn bản học chƣa đƣợc định hình để trở
thành khoa “Biện ngụy học” nhƣ ở Trung Quốc. “Theo Đại bách khoa toàn thƣ Liên
Xô, Văn bản học là một ngành của khoa học ngữ văn, nghiên cứu các tác phẩm có
văn tự, các tác phẩm văn học và văn học dân gian nhằm mục đích kiểm tra có phê
phán, xác định và tổ chức các văn bản để tiếp tục nghiên cứu để lý giải công bố”
[dẫn theo 17, tr.271].
Từ định nghĩa này, có thể xác định, văn bản học hán nôm đảm đƣơng những
nhiệm vụ cơ bản sau: “Giám định, phân tích hiệu chỉnh các văn bản Hán Nôm.
Nghiên cứu lịch sử phát triển, lƣu truyền văn bản nhằm khôi phục lại bộ mặt
nguyên bản sơ, khi các tác giả văn bản tạo ra” [17, tr. 271].
Từ lý thuyết này có thể khẳng định, nghiên cứu văn bản học là một trong
những thao tác không thể bỏ qua khi tiếp xúc và khai thác văn bản Hán Nôm. Trong
phạm vi xử lý tƣ liệu Hán Nôm trực tiếp liên quan của đề tài. Riêng với trƣờng hợp
Vân Cát thần nữ truyện trong Truyền kỳ tân phả cũng có nhiều vấn đề về văn bản,
nhƣng may mắn là đã đƣợc một số nhà thƣ tịch học phân tích khai phá. Nghiên cứu
sinh cơ bản dựa trên kết luận của học giả Trần Văn Giáp để lựa chọn bản Vân Cát
Thần nữ truyện đƣợc tập hợp trong Truyền kỳ tân phả [223], do Lạc Thiện đƣờng khắc
năm Gia Long thứ 10 (1811) làm bản nền để nghiên cứu, so sánh, đối chiếu để tìm hiểu
về hành trạng Mẫu Liễu Hạnh và một số vấn đề liên quan đến văn bản học nhƣ một
trƣờng hợp dẫn dụ áp dụng lý thuyết…
Về hƣớng tiếp cận văn hóa, tiến hóa luận và nhân học sinh thái nửa sau thế kỷ
XX là một thuyết sẽ đƣợc nghiên cứu sinh áp dụng để biện giải về quá trình hình
thành hệ thần Tam phủ, Tứ phủ nhƣ một giả thiết để làm việc.
Theo đó:
Nhân học sinh thái liên quan tới mối quan hệ giữa con ngƣời và môi
trƣờng sinh thái. Môi trƣờng tự nhiên bao gồm không chỉ cây cối và
24
động vật cần thiết cho sự tồn tại của con ngƣời, mà còn là những con
sông, hồ nƣớc, khí hậu cũng nhƣ kỹ thuật và phƣơng tiện vật chất khác
do con ngƣời tạo nên để sử dụng các cơ sở vật chất có trong môi trƣờng.
Cơ sở của mỗi nền văn hóa là công cụ, máy móc, kỹ thuật, thực hành.
Thông qua khoa học kỹ thuật, mỗi nền văn hóa có quan hệ tƣơng tác với
môi trƣờng vật chất của nó để có thực phẩm, chất đốt, và các hình thức
sử dụng nhiên liệu khác. Kỹ thuật và văn hóa giúp cho cộng đồng con
ngƣời chống lại dã thú, bệnh tật, sự quá khắc nghiệt của khí hậu… [44,
tr. 545].
Qua hƣớng tiếp cận này sẽ phần nào thấy đƣợc:
Những mối liên hệ mới giữa môi trƣờng tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế, tổ
chức xã hội, các mô hình định cƣ, phân bố dân cƣ, và lịch sử. Sự tập
trung dân số và các mô hình định cƣ là một phần cơ sở của sự phân tích
của Steward về các nhóm săn bắn theo họ cha và sự tiến hóa của ngƣời
da đỏ Pueblo ở Hoa Kỳ. Ông tranh luận rằng dân số tăng lên có thể là do
sự căng thẳng về môi trƣờng sinh thái làm tăng các tổ chức dòng họ
trong các vùng của ngƣời da đỏ Pueblo. Tỉ lệ tăng dân số cũng là chiếc
chìa khóa để giải thích sự phát triển và tan rã của các nhà nƣớc và đế chế
cổ đại [44, tr. 547]…
Và,
Tiến hóa xã hội phân biệt với tiến hóa sinh học ở chỗ tiến hóa sinh học
liên quan tới sự thay đổi, cạnh tranh và chọn lọc. Trong khi tiến hóa xã
hội thể hiện sự tƣơng đồng nhƣ là sự đa dạng, thích nghi, duy trì, tái
sinh, và định hƣớng. Trong cả quá trình tiến hóa có sự tƣơng đồng nhƣng
lại khác nhau về nội dung. Tiến hóa xã hội diễn ra thông qua hữu thức và
vô thức của con ngƣời, dựa vào ngôn ngữ và văn hóa mà loài ngƣời có
đƣợc. Tiến hóa sinh học mang tính di truyền và không có mặt ý thức của
con ngƣời [44, tr. 548].
- Nhân học giải thích:
Nhân học giải thích áp dụng một cách tiếp cận đặc biệt, nghĩa là nghiên
25
cứu những trƣờng hợp đơn lẻ mà những trƣờng hợp đó có thể đƣa ra
những hiểu biết sâu sắc và bao hàm nhiều ý nghĩa. Đối với việc nghiên
cứu một trƣờng hợp riêng lẻ trong một xã hội cụ thể, nhân học theo
phƣơng pháp giải thích không xem xét con ngƣời ứng xử nhƣ thế nào,
cũng không đi sâu vào các ý nghĩa hành động và thái độ của con ngƣời.
Giải thích luận cho rằng thế giới vật chất và xã hội của con ngƣời có thể
hiểu một cách tốt nhất bằng cách hiểu con ngƣời sống trong xã hội đó tự
lý giải và tự hiểu các thể chế và tập quán của họ. Nhiệm vụ của nhà nhân
học là giải mã những lý giải của ngƣời bản địa.
Clifford Geertz là một nhà nhân học theo phƣơng pháp giải thích, nhƣng
không phải là nhà sáng lập ra phƣơng pháp tiếp cận nhân học này. Ông
cho rằng nhân học không thể là một ngành khoa học nhƣ ngành vật lý
với các quy luật và sự tổng quát dựa vào các số liệu thực tế và thực
nghiệm. Nhân học cần phải dựa vào hiện thực cụ thể của một xã hội,
nhƣng phải là ý nghĩa của chúng do con ngƣời sống trong xã hội đó hiểu,
chứ không phải là những phán đoán chủ quan của nhà nghiên cứu dựa
vào số liệu thực tế. Đối với Geertz, nhân học cần dựa vào các nguyên tắc
nhân văn, sự miêu tả, thi pháp, văn học, thần thoại, biểu tƣợng, và các
đặc tính khác của loài ngƣời phân biệt với các loài sinh vật khác.
Quan điểm của Geertz về tầm quan trọng của trƣờng hợp đơn lẻ không
phải là hoàn toàn mới, mà Boas, Malinowski, và Radcliffe – Brown đã
từng nghiên cứu chuyên sâu một nền văn hóa đơn lẻ để nêu ra các chức
năng của các thể chế trong xã hội loài ngƣời. Quan điểm chống lại thuyết
vị chủng và ủng hộ hội nhập của tất cả các nền văn hóa, khuynh hƣớng
tìm hiểu các nền văn hóa khác từ quan điểm của ngƣời bản địa là một
điểm mạnh trong nhân học của các học giả tiền bối này.
Phƣơng pháp tiếp cận của Geertz tìm hiểu ý nghĩa dựa vào những lý giải
của ngƣời bản địa mang tính tƣơng đối. Điều cốt lõi trong các công trình
nghiên cứu của Geertz là liên kết các quá trình tự biết, tự nhận thức, tự
hiểu của ngƣời bản địa với sự hiểu biết của nhà nghiên cứu về văn hóa
26
của họ. Cuốn sách cuối cùng của ông Tri thức bản địa (Local
Knowledge) đề cập đến cái đặc biệt, cái cụ thể, trƣờng hợp cá thể, tri
thức bản địa và sự kết hợp tri bản địa với hiểu biết của nhà nghiên cứu.
Quan niệm của Geertz trong nhân học có thể đƣợc gọi là nhân văn hay
giải thích, với nghĩa là ông hƣớng vào việc giải thích các vấn đề văn hóa
mà vẫn giữ đƣợc đặc thù cá nhân và sự phức hợp của thái độ con ngƣời
đối với hình thức văn hóa của họ.
Quan niệm nhân học truyền thống cho rằng nếu nhà nghiên cứu muốn
hiểu các nền văn hóa của dân tộc khác, họ phải đảm nhiệm vai trò của
những ngƣời bản địa. Malinowski cho rằng chỉ bằng cách nghiên cứu
thực tế, trực tiếp quan sát những hiện tƣợng văn hóa của ngƣời bản địa
mới có thể hiểu đƣợc ý nghĩa của những yếu tố văn hóa của họ. Geertz
ủng hộ quan niệm “giải thích của ngƣời bản xứ” nhƣ là con đƣờng dẫn
tới hiểu biết văn hóa của một dân tộc trong nhân học văn hóa. Theo cách
tiếp cận này, các điều lý giải đƣợc tập hợp lại bao gồm phiên bản của văn
bản, lời nói, hành động so sánh với những hình thức tƣơng ứng khác,
hoặc một tập hợp những nhận thức của ngƣời bản địa so sánh với những
nhận thức khác của họ. Sau đó là những nhận thức và tri thức của con
ngƣời nghiên cứu kết hợp với nhận thức của ngƣời bản địa về chính văn
hóa của họ. Với việc tập hợp những lý giải các văn bản, hành động, biểu
tƣợng, các hình thức xã hội, các hiện tƣợng bằng cách đi từ cụ thể tới cái
chung và ngƣợc lại, sự hiểu biết và ý nghĩa của một nền văn hóa sẽ từ từ
hiện ra. Phƣơng pháp nghiên cứu này còn đƣợc gọi là “miêu tả sâu”.
Trong khi miêu tả, nhà nghiên cứu phải thay đổi đi thay đổi lại từ quan
niệm khác, từ mức độ này tới mức độ khác, và cuối cùng dẫn tới một sự hiểu biết sâu sắc về một nền văn hóa cụ thể [44, tr. 555 - 557].
Trong luận án này, nhân học giải thích sẽ đƣợc áp dụng nhƣ một cách tiếp
cận đặc biệt, tức xem xét một số hiện tƣợng văn hóa đơn lẻ nhƣng qua đó lại có thể
đƣa ra những hiểu biết sâu sắc và bao hàm nhiều ý nghĩa.
- Quan niệm tôn giáo của nữ giới và các vai trò giới:
27
Theo quan niệm này:
Tôn giáo cá nhân là sự kết hợp hết sức ý nghĩa mang tính chất cá nhân
của các niềm tin, giá trị, và thực hành có liên quan đến thế giới quan của
nhóm lớn hay mà cá nhân đó quy thuộc. Trong quá trình hội nhập, cá
nhân tiếp nhận nhiều niềm tin, giá trị và thực hành này từ các vị đại diện
của nhóm lớn hơn đó nhƣ cha mẹ và thầy cô. Cá nhân tiếp thu đƣợc
nhiều điều trong hệ thống ý nghĩa đƣợc tiếp nhận này và chúng trở thành
một phần trong cách nghĩ của cá nhân về căn tính của mình và của những
ngƣời khác. Trong hệ thống ý nghĩa mà cá nhân tiếp nhận đó là hình
thành nhiều niềm tin, hình ảnh và quy chuẩn mà nhóm định nghĩa về
nam giới và nữ giới. Tất cả tôn giáo đều đề cập đến chủ đề về bản năng
giới tính của con ngƣời và các vai trò về giới bởi vì bản năng giới tính có
một sức ảnh hƣởng đến sức mạnh mẽ trong đời sống con ngƣời và giới
tính, trong hầu hết các xã hội, là một nhân tố chính quyết định sự phân
tầng xã hội.
Trƣớc tiên, các nhà xã hội học tập trung nghiên cứu tôn giáo của nữ giới
ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến các vai trò về giới và căn tính của họ. Thứ
hai, các nhà xã hội cho chúng ta thấy tại sao việc chỉ chú trọng vào tôn
giáo và tính tôn giáo chính thức thì đôi khi bị sai lạc. Khi tôn giáo trở
thành một lĩnh vực đƣợc khu biệt về mặt định chế, nhiều vai trò và thể
hiện tôn giáo của phụ nữ bị loại trừ khỏi tôn giáo chính thức, và tiếp tục,
thì chúng đƣợc lƣu giữ và bảo vệ trong các hình thái phi chính thức nhƣ
tín ngƣỡng chữa lành, tín ngƣỡng dân gian, lên đồng, phù thủy và hỗ trợ
tâm linh khác. Các nhà xã hội học nên xem xét về các nền tảng về mặt
cấu trúc xã hội đối với địa vị của phụ nữ; từ góc độ lịch sử, các định chế
tôn giáo chính thức điển hình cho việc đàn áp phụ nữ về phƣơng diện cơ
chế và hệ tƣ tƣởng. Từ đó, việc hợp thức hóa vai trò của nữ giới về mặt
tôn giáo đƣa ra các câu hỏi thú vị về tính tôn giáo của phụ nữ. Chứng cứ
lịch sử gây ấn tƣợng sâu sắc cho thấy tôn giáo phi chính thức là một
phƣơng tiện nhằm khẳng định các vai trò tôn giáo khác nhau của nữ giới
28
[44, tr. 557 - 558].
Ngoài ra, dƣới góc độ lý luận văn hóa tôn giáo, tín ngƣỡng, luận án còn vận
dụng quan điểm về tôn giáo của nữ giới và các vai trò giới. Theo đó:
Tôn giáo cá nhân là sự kết hợp hết sức ý nghĩa mang tính chất cá nhân
của các niềm tin, giá trị, và thực hành có liên quan đến thế giới quan của
nhóm lớn hay mà cá nhân đó quy thuộc. Trong quá trình hội nhập, cá
nhân tiếp nhận nhiều niềm tin, giá trị và thực hành này từ các vị đại diện
của nhóm lớn hơn đó nhƣ cha mẹ và thầy cô. Cá nhân tiếp thu đƣợc
nhiều điều trong hệ thống ý nghĩa đƣợc tiếp nhận này và chúng trở thành
một phần trong cách nghĩ của cá nhân về căn tính của mình và của những
ngƣời khác. Trong hệ thống ý nghĩa mà cá nhân tiếp nhận đó là hình
thành nhiều niềm tin, hình ảnh và quy chuẩn mà nhóm định nghĩa về
nam giới và nữ giới. Tất cả tôn giáo đều đề cập đến chủ đề về bản năng
giới tính của con ngƣời và các vai trò về giới bởi vì bản năng giới tính có
một sức ảnh hƣởng đến sức mạnh mẽ trong đời sống con ngƣời và giới
tính, trong hầu hết các xã hội, là một nhân tố chính quyết định sự phân
tầng xã hội.
Trƣớc tiên, các nhà xã hội học tập trung nghiên cứu tôn giáo của nữ giới
ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến các vai trò về giới và căn tính của họ. Thứ
hai, các nhà xã hội cho chúng ta thấy tại sao việc chỉ chú trọng vào tôn
giáo và tính tôn giáo chính thức thì đôi khi bị sai lạc. Khi tôn giáo trở
thành một lĩnh vực đƣợc khu biệt về mặt định chế, nhiều vai trò và thể
hiện tôn giáo của phụ nữ bị loại trừ khỏi tôn giáo chính thức, và tiếp tục,
thì chúng đƣợc lƣu giữ và bảo vệ trong các hình thái phi chính thức nhƣ
tín ngƣỡng chữa lành, tín ngƣỡng dân gian, lên đồng, phù thủy và hỗ trợ
tâm linh khác. Các nhà xã hội học nên xem xét về các nền tảng về mặt
cấu trúc xã hội đối với địa vị của phụ nữ; từ góc độ lịch sử, các định chế
tôn giáo chính thức điển hình cho việc đàn áp phụ nữ về phƣơng diện cơ
chế và hệ tƣ tƣởng. Từ đó, việc hợp thức hóa vai trò của nữ giới về mặt
tôn giáo đƣa ra các câu hỏi thú vị về tính tôn giáo của phụ nữ. Chứng cứ
29
lịch sử gây ấn tƣợng sâu sắc cho thấy tôn giáo phi chính thức là một
phƣơng tiện nhằm khẳng định các vai trò tôn giáo khác nhau của nữ giới
[21, tr. 294 - 295].
Đó là khung lý thuyết cơ bản để luận án xem xét, bàn luận một số vấn đề về
giới có liên quan trong nghiên cứu này.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Kết quả nghiên cứu nền của GS. Trần Quốc Vƣợng nhƣ đã trình bày ở trên
đã chỉ rõ, khu vực Kẻ Giày có lịch sử văn hóa lâu đời, phát triển liên tục từ thời sơ
sử đến nay. Bề dày văn hóa và tính chất đa văn hóa của khu vực kẻ Giầy còn đƣợc
phản ánh qua hàng loạt di sản văn hóa vẫn hiện diện, nhƣ ngoài thờ Mẫu Liễu
Hạnh, Mẫu Thƣợng Ngàn, cùng hệ thống đền, miếu thờ các Mẫu, Tôn Ông, Chầu
Bà, Quan Lớn, các Cô, trong khu vực Kẻ Giày xƣa vẫn tồn tại hệ đền thờ thần nông
nghiệp gắn với Tứ pháp (Mây, Mƣa, Sấm, Gió) của ngƣời dân trồng lúa nƣớc…
[50, tr. 166 - 170].
Trong bối cảnh biến đổi lịch sử - xã hội vào khoảng thế kỷ XVI, các tôn
giáo, tín ngƣỡng dân gian nói chung cũng bị tác động và có bƣớc chuyển đáng kể.
Một xu hƣớng đáng quan tâm, đó là hiện tƣợng định hình Đạo giáo giân gian Việt,
dẫn tới sự xuất hiện của phái Nội Đạo và Thánh Mẫu Liễu Hạnh, những đại diện
tiêu biểu cho xu hƣớng này. Trong cục diện chiến tranh Nam - Bắc triều, việc các
tôn giáo, tín ngƣỡng bị “lôi kéo” để tham gia vào cuộc chiến giữa hai thế lực cũng
là điều dễ hiểu. Minh chứng cho nhận định này là những phản ánh dân gian về cuộc
chiến giữa Bà chúa Liễu Hạnh và Tiền Quan Thánh do Phật Thích Ca xuất hiện, tín
ngƣỡng Mẫu Liễu đã kết hợp với Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian của nông dân để
thích ứng với điều kiện lịch sử - xã hội mới, cuối cùng đƣợc triều đình thừa nhận và
có bƣớc phát triển, lan tỏa vô cùng mạnh mẽ mà chúng ta còn thấy sự hiện diện qua
di sản văn hóa trên thực địa, “phần xƣơng sống” của một tín ngƣỡng dân gian độc
đáo đã đƣợc UNESCO ghi danh. Ngoài ra, còn hàng trăm di tích liên quan trong
không gian văn hóa Bắc Bộ và một lƣợng lớn di sản tƣ liệu Hán Nôm đã đƣợc
nghiên cứu sinh sƣu tầm, thống kê, chỉnh lý, sẽ đƣợc lần lƣợt đề cập trong những
chƣơng mục tiếp theo của luận án này.
30
1.3. Một số khái niệm liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu qua tƣ liệu
Hán Nôm
1.3.1. Mẫu (母)
Mẫu là một từ Hán Việt, có nhiều lớp nghĩa. Nguyên ủy, Mẫu chỉ giống cái,
sau đƣợc dùng để ngƣời phụ nữ đã thực hiện chức năng sinh sản, tức ngƣời mẹ. Một
lớp nghĩa khác cũng đáng quan tâm, Mẫu là tiếng gọi tôn kinh dành cho những
ngƣời phụ Nữ.
Nhƣ vậy, với tín ngƣỡng thờ Mẫu, có thể tạm hiểu: Mẫu là tiếng gọi tôn kính
ngƣời mẹ.
1.3.2. Đồng (僮)
Đồng cũng là một từ Hán Việt, nguyên ủy thƣờng đƣợc dùng chỉ ngƣời vị
thành niên (trẻ con). Trong tín ngƣỡng thờ Mẫu, Đồng chỉ những ngƣời đƣợc Mẫu
sang khăn, sẻ áo hành đồng hầu Mẫu, theo Mẫu làm trọn phận con.
1.3.3. Cốt (骨)
Cốt cũng là một từ Hán Việt đa nghĩa, vốn chỉ xƣơng cốt, sau một nghĩa chỉ
bà cốt. Theo Khảo đồng sự ký: Bà cốt còn đƣợc gọi là Hích (覡), chỉ ngƣời phụ nữ
mù theo phép Đông Lâm. Đông Lâm còn có tên gọi khác là Đông Triều. Ngƣời phụ
nữ mù theo phép Đông Lâm cũng lập một tĩnh thờ thần Đông Triều. Đông Triều
vốn là ngƣời Mán, khi mới ba tuổi thì bất hạnh mà chết sớm. Sau khi chết trở thành
thần, có khả năng tìm đƣợc phách của ngƣời chết (sau khi ngƣời chết thì hồn bay
lên trời, phách về với đất), lại có khả năng chiêu vời đƣợc phách ngƣời chết cho nên
ngƣời theo Hích thờ thần Đông Triều tục gọi là ông Triều, ông Dí/Rí. Nếu nhƣ phụ
nữ mù học đƣợc phép này thì gọi là bà Cốt. Cốt tức là ngƣời chết đã rũa mục hết
thịt. Hồn ngƣời bay lên trời, chỉ còn phách ở lại trong đất có chứa phần xƣơng cốt.
Nếu nhƣ phụ nữ mù thỉnh thần Đông Lân nhập vào thân thì sẽ biết đƣợc hồn của
ngƣời chết nên đƣợc gọi là bà Hồn, bà Cốt vì hồn và cốt là cùng một cách gọi [152].
1.3.4. Bóng
Bóng là một từ tiếng Việt. Theo Khảo đồng sự ký: Bóng tức là ảnh, vốn chỉ
những ngƣời thờ thần tiên để ảnh thần tiên giáng vào đàn ông. Những ngƣời đàn
31
ông này đƣợc gọi là ông Bóng. Nhƣ sách “Ấu học tầm nguyên”, quyển 2, Thích
Đạo tập, trang 28 trƣớc, hàng 8 chú rằng: nam Vu gọi là Vu, nữ Vu gọi là Hích. Từ
điển Khang Hy tập Đần, Bộ Công bốn nét chú rằng: Thần giáng vào nam gọi là Vu,
thần giáng vào nữ gọi là Hích. Sách “Quốc ngữ” nói rằng: Nam làm Vu gọi là ông
Bóng, nữ làm Hích gọi là bà Bóng, còn nhƣ Đạo gia thờ thần tiên Thái Thƣợng Lão
quân, Tề Thiên Đại thánh là tiên ông; Thánh Mẫu, Công chúa Thƣợng Ngàn là tiên
bà. Nếu nhƣ nam có tiên ông giáng vào thân để chữa bệnh cho ngƣời thì gọi là ông
Bóng. Nhƣ vậy, nam thƣờng đƣợc tiên ông giáng vào để trị bệnh cho ngƣời thì gọi
là ông Bóng, còn phụ nữ đƣợc tiên bà giáng vào thân thì gọi là bà Bóng. Vậy phụ
nữ thƣờng đƣợc tiên bà nhập vào gọi là Bóng [152].
1.3.5. Chính tự (正 祀)
Chính tự tức hoạt động thờ tự hợp pháp và chính đáng. Đây là một khái niệm
gắn với Điển thờ tự, thực hành văn hóa tín ngƣỡng gắn với ngôi đền thờ thần của
cộng đồng đƣợc triều đình xác nhận. Theo đó, dƣới chế độ quân chủ xƣa, từ góc độ
quản lý bách thần (Quản giám Bách thần), hoạt động thờ tự và sinh hoạt văn hóa tín
ngƣỡng liên quan (hội lệ) của cộng đồng gắn với một ngôi đền thờ thần, chỉ đƣợc
coi là chính tự khi vị thần đó có lý lịch rõ ràng, chính đáng, đƣợc triều đình xác
nhận tƣ cách hoặc đã đƣợc triều đình phong thần sắc, ghi vào Tự điển/祀典/Điển
thờ tự của triều đình. Đền thờ các vị thần thuộc loại chính tự/正祀 gọi là chính từ/
正祠, thần đƣợc thờ trong chính từ/正祠 gọi là chính thần/正神.
Trái nghĩa với chính tự/正祀, thƣờng bị gọi là dâm tự/淫 1 祀, tức hoạt động
thờ tự và sinh hoạt văn hóa tín ngƣỡng liên quan của cộng đồng gắn với một ngôi
đền thờ thần chƣa đƣợc triều đình công nhận có tƣ cách là chính tự/正祀 hoặc chƣa
đƣợc triều đình sắc phong, ghi vào Tự điển 祀典/Điển thờ tự. Đền thờ các vị thần
không thuộc hàng chính tự/正祀 bị gọi là “dâm từ”/淫祠, thần đƣợc thờ trong “dâm
từ”/淫祠 gọi là “dâm thần”/淫神.
1.3.6. Phủ (府)
Phủ cũng là một từ Hán Việt, có nhiều lớp nghĩa. Với tín ngƣỡng thờ Mẫu,
đáng chú ý lớp nghĩa: Phủ là tên gọi của từng địa vực (miền, khu) theo sự phân chia
32
tƣơng tự nhƣ đơn vị hành chính (Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ, Nhạc phủ). Ngoài
ra, theo Nội đạo tràng và Khảo đồng sự ký, đền chính thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh
không gọi là đền mà tôn trọng Thánh Mẫu gọi là Phủ.
1.3.7. Tam phủ (三 府 ):
Theo Khảo đồng sự ký, Tam phủ tức Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ [152].
Thực tế, trong dân gian còn có khái niệm bộ ba, Tam phủ gồm Thiên phủ, Nhạc phủ
và Thủy phủ. Nhƣ vậy, trong tôn giáo, tín ngƣỡng có thể hiểu, Tam phủ là một quan
niệm thuộc vũ quan tôn giáo, tín ngƣỡng dân gian, chia thế giới thần linh ra làm ba
miền/phủ.
1.3.8. Tứ phủ (四 府)
Theo khảo đồng sự ký, Tứ phủ tức Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ, Nhạc phủ
[152]. Thực tế. Tuy nhiên, theo Tứ phủ công đồng khoa nghi sớ văn hợp tập,
trong dân gian còn có khai niệm bộ tứ, Tứ phủ gồm Thiên phủ, Địa Phủ, Thủy Phủ,
Dƣơng Phủ. Qua hệ thần linh, có thể khẳng định, Dƣơng phủ đƣợc đồng nhất với
Nhạc phủ… Nhƣ vậy, trong tôn giáo, tín ngƣỡng có thể tạm hiểu, Tứ phủ là một
quan niệm thuộc vũ quan tôn giáo, tín ngƣỡng dân gian, chia thế giới thần linh ra
làm 4 miền/phủ.
Tiểu kết
Điểm qua một số kết quả nghiên cứu của những công trình đi trƣớc, có thể nhận
thấy, mỗi nghiên cứu, với phƣơng pháp riêng, cách tiếp cận riêng, lý luận riêng, biện
giải riêng sẽ cho ra một kết quả “tƣơng đối riêng”. Tạm hợp các mảnh ghép lại, ắt sẽ
tạo nên một bức tranh đa sắc về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh từ lịch sử đến đƣơng
đại nhƣng vẫn có những điểm nhƣ vừa mờ, vừa tỏ. Những thành tựu nghiên cứu trên,
đặc biệt là những nghiên cứu cơ bản và tập hợp tƣ liệu là tiền đề quan trọng để nghiên
cứu sinh tiếp thu, kế thừa và triển khai đề tài này. Theo đó, có thể nhận thấy, từ việc tập
hợp, khảo cứu văn bản học Hán Nôm trong điều kiện hiện nay, vấn đề lịch sử địa chính
và văn hóa khu vực Kẻ Giày quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh cần thiết phải đƣợc
diễn giải lại để làm sáng tỏ thêm.
Trên có sở này, kết hợp với khai thác giá trị của tƣ liệu Hán Nôm dƣới góc nhìn
văn hóa học, những vấn đề cụ thể, nhƣ tên gọi Kẻ Giày, phủ Giày, hệ thần đƣợc thờ,
33
thần điện và không gian thực hành tín ngƣỡng, các thực hành văn hóa tín ngƣỡng
liên quan, vai trò của các cộng đồng chủ thể sáng tạo văn hóa, tƣ cách chính tự
quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày, vấn đề Tam phủ, Tứ phủ, đặc
trƣng giới trong Tam phủ, Tứ phủ, vấn đề Tam tòa Tứ phủ, vấn đề vị trí và vai trò của
Mẫu Liễu Hạnh trong hệ thần Tứ phủ… cần đƣợc phân tích, diễn giải và làm sáng tỏ
hơn…
Cũng trong chƣơng này, nghiên cứu sinh đã đề cập tới cơ sở lý luận và thực
tiễn, cơ sở lý luận cơ bản và xây dựng một số khái niệm cơ bản có liên quan, nhƣ
Mẫu, Đồng, Cốt, Bóng, Chính tự, Phủ, Tam phủ, Tứ phủ để làm công cụ triển khai
các bƣớc nghiên cứu tiếp theo.
34
Chƣơng 2
TƢ LIỆU HÁN NÔM VỀ TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY
VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ
2.1. Khái lƣợc về nguồn tƣ liệu Hán Nôm gắn với tín ngƣỡng thờ Mẫu
Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ
Trong tâm thức dân gian, đặc biệt là với tín đồ của tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ, Mẫu Liễu Hạnh, vị thần chủ đƣợc phụng thờ ở phủ Giày, còn có tên
gọi khác là Mẫu phủ Giày/Thánh Mẫu phủ Giày, Mẫu Sòng Sơn/Thánh Mẫu Sòng
Sơn, đồng thời, cũng là một vị thần chủ đƣợc phụng thờ trong nhiều phủ/điện/đền
thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ... ở nhiều địa điểm khác..
Thực tiễn cũng cho thấy, nguồn tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu
Hạnh ở phủ Giày ít nhiều đều liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ và
ngƣợc lại. Vì vậy, khi tiếp cận nguồn tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu
Hạnh ở phủ Giày nói riêng, tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ nói chung, cần thiết
phải tiến hành khảo sát, sƣu tầm tƣ liệu bao quát trên một phạm vi tƣơng đối rộng, ít nhất
tƣơng ứng với không gian văn hóa của khu vực Bắc Bộ và một số địa bàn khác có liên
quan mà có thể tạm tính trong phạm vi từ Thừa Thiên Huế trở ra. Tuy nhiên, do tính chất
phức tạp của vấn đề, phạm vi nghiên cứu và điều kiện khảo sát, sƣu tầm, thu thập tƣ
liệu…, trong khả năng và điều kiện cho phép, luận án xin giới hạn chỉ đề cập tới tƣ liệu
Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ trong không gian
văn hóa Bắc Bộ tại các đơn vị lƣu trữ có tài liệu Hán Nôm, tiêu biểu nhƣ, Viện Thông tin
khoa học xã hội, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tƣ liệu Hán Nôm một số cơ sở lữu trữ khác
(Thƣ viện quốc gia, Trung tâm Lƣu trữ quốc gia 1, Cục Văn thƣ và Lƣu trữ nhà nƣớc -
Bộ Nội vụ…) và nguồn tƣ liệu Hán Nôm tại quần thể di tích phủ Giày, cùng một số di
tích khác có liên quan… Dƣới đây, xin từng bƣớc trình bày khái lƣợc về nguồn tƣ liệu
Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.
2.1.1. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và
Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tại Viện Thông tin khoa học xã hội
Tại Viện Thông tin khoa học xã hội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam, hiện đang lƣu trữ bộ sƣu tập 13.211 bản khai thần tích - thần sắc, với
35
khoảng 230.000 trang chép tay của các làng xã trên lãnh thổ Việt Nam. Những
bản khai thần tích - thần sắc này đều đƣợc chức sắc của làng xã kê khai theo
dạng trả lời câu hỏi, với kết cấu chung theo trật tự nhƣ sau: Tên làng xã (đƣợc
kê bằng cả chữ Hán và chữ Quốc ngữ)/Thần tích - thần sắc (đƣợc kê chủ yếu
bằng chữ Quốc ngữ)/Các tục lệ liên quan đến việc thờ thần... Đặc biệt, ngoài
những nội dung kê khai này, một số địa phƣơng còn chép thêm nguyên văn chữ
Hán nội dung thần tích - thần sắc của các vị thần đƣợc cộng đồng thờ phụng.
Đây là bộ sƣu tập tƣ liệu có giá trị đặc biệt trong việc tìm hiểu về văn hóa - tín
ngƣỡng, phong tục, tập quán… làng xã Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám
(1945) trở về trƣớc (Luận án tạm lấy mốc lịch sử thời điểm Cách mạng tháng
Tám năm 1945 thành công làm mốc cuối định bản nội dung tƣ liệu Hán Nôm
dƣới xã hội quân chủ ở nƣớc ta. Theo đó, tƣ liệu Hán Nôm mang nội dung đƣợc
định bản lầm đầu sau mốc lịch sử này sẽ không đƣợc đề cập đến…).
Bƣớc đầu tiếp cận kho tƣ liệu này, đồng thời, thừa hƣởng kết quả nghiên cứu
của những ngƣời đi trƣớc, nghiên cứu sinh đã tiến hành thống kê và lập Thƣ mục tƣ
liệu thần tích - thần sắc liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ,
Tứ phủ tại Viện Thông tin khoa học xã hội, ghi nhận có 206 bản kê khai thần tích- thần
sắc của 206 làng xã đƣơng thời (năm 1938) liên quan tới việc phụng thờ Mẫu Liễu
Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ (Xem Phụ lục 1).
Kết quả thống kê đã cho thấy:
- Về phạm vi lan tỏa, có thể khẳng định, trƣớc Cách mạng Tháng tám (1945),
tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh nói riêng và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ nói chung đã tƣơng
đối phổ biến trong không gian văn hóa Bắc Bộ. Cụ thể, đã có ít nhất 206 làng xã thuộc
21 tỉnh/thành phố (theo cơ cấu tổ chức đơn vị hành chính trƣớc 1945) thờ Mẫu Liễu
Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tập trung nhất tại 3 tỉnh: Nam Định (49 làng xã), Hà
Nam (41 làng xã), Ninh Bình (35 làng xã), tiếp đó là địa bàn các tỉnh: Hải Dƣơng
(14 làng xã), Hà Đông (làng xã), Thái Bình (11 làng xã), Phú Thọ (8 làng xã), Hà
Nội (5 làng xã), Quảng Yên (5 làng xã), Yên Bái (4 làng xã), Hƣng Yên (4 làng xã),
Bắc Ninh (4 làng xã), Thái Nguyên (3 làng xã), Hà Tĩnh (2 làng xã), Nghệ An (2
làng xã), Bắc Giang (1 làng xã), Hải Phòng (1 làng xã), LaoKay (1 làng xã), Sơn
36
Tây (1 làng xã), Thanh Hóa (1 làng xã), Tuyên Quang (1 làng xã).
- Thông qua thần tích - thần sắc đƣợc kê khai, có thể khẳng định, việc thờ tự
và thực hành tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tại hầu hết
làng xã đã đƣợc triều đình thừa nhận là hợp lệ (tích đến thời điểm kê khai - năm 1938).
- Trong tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, Mẫu Liễu Hạnh nổi lên nhƣ một
nhân vật trung tâm của tín ngƣỡng, với tuyệt đại đa số làng xã đƣợc thống kê (185/206)
thờ bà với tƣ cách là vị thần chủ. Trong khi đó, các danh hiệu Thánh Mẫu khác trong hệ
thần Tứ phủ, nhƣ Mẫu Thƣợng Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thƣợng Ngàn, Mẫu Thoải hay
Quỳnh Cung Công chúa, Quảng Cung Công chúa chỉ đƣợc điểm tới với tần suất tƣơng đối
khiêm tốn…
- Về nguồn gốc của Mẫu Liễu Hạnh, qua thống kê cho thấy, trƣớc năm 1945, đã
có ít nhất 151/206 cộng đồng làng xã trong không gian văn hóa Bắc Bộ phụng thờ Mẫu
Liễu Hạnh với tƣ cách là thiên thần; 30/206 cộng đồng làng xã tôn thờ Mẫu Liễu Hạnh
với tƣ cách là một vị nhân thần. Đặc biệt, có 03/206 cộng đồng làng xã tôn thờ Thánh
Mẫu Liễu Hạnh làm Thành hoàng, gồm: làng Hàn Mặc, tổng Cố Viễn, huyện Bình
Lục, tỉnh Hà Nam; thôn Hạ, làng Thứ Nhất, tổng Mai Động, huyện Bình Lục, tỉnh
Hà Nam; làng Lao Kay, châu Bảo Thắng, tỉnh Lao Kay.
- Mô hình thờ bộ ba Tam vị/Tam tòa Thánh Mẫu cũng tƣơng đối đa dạng,
nhƣ: Thôn Phƣơng Đình (làng Nho Lâm, tổng Bồng Hải, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh
Bình) thờ nhân thần Tam vị Thánh Mẫu phủ Sòng; các làng: Lao Kay (châu Bảo
Thắng, tỉnh Lao Kay), làng Côi Trì (tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình),
Thọ Thái (tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình), Thuần Mỹ (phố Đông
Mỹ, thị xã Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng) thờ Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày, trong khi
làng Nho Lâm (tổng Tân An, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình) còn thờ thêm Mẫu Đệ
tứ (dân gian thường cho rằng Mẫu Đệ tứ là bà Khâm sai), làng Côi Khê (tổng Lân
Khê, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình) thờ Tam vị Thánh Mẫu thiên thần Liễu Hạnh, Thủy Tinh, Thượng Ngàn, phố Khán Xuân (6c Quartier, thành phố Hà Nội) thờ Tam
vị nhân thần: Liễu Hạnh, Thủy Tinh Công chúa, Thiên thần Cửu Thiên...
Ngoài ra, tại Viện Thông tin khoa học xã hội còn lƣu trữ một số đầu sách
khác có liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, nhƣ
37
Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng, Vân Cát xã bi ký 定 省 務 本 縣 同
隊 總 雲 葛 社 碑 記, ký hiệu TSHN003453, niên đại định bản vào khoảng cuối thế
kỷ XX, liệt kê các bia tại phủ Vân Cát, xã Vân Cát, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản,
tỉnh Nam Định; Bản kê thần sắc: Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội
tổng, Vân Cát xã, ký hiệu kho TSHN003634, liệt kê 22 đạo sắc phong của xã Vân
Cát, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định; Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện,
Đồng Đội tổng, Tiên Hƣơng xã bi ký 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 仙 鄉 社 碑 記,
ký hiệu TSHN002927, niên đại định bản khoảng cuối thế kỷ XX, liệt kê các bia
đƣợc dựng tại phủ Chính - xã Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định; Bản kê thần sắc: Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng, Tiên
Hƣơng xã thần sắc 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 仙 鄉 社 神 敕, ký hiệu TTHN518,
niên đại định bản khoảng cuối thế kỷ XX, liệt kê thần sắc xã Tiên Hƣơng, tổng
Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định và Thần tích Thần sắc: Làng Tiên
Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, ký hiệu TTTS006774,
TTTS006775, niên đại định bản khoảng cuối thế kỷ XX, kê khai thần tích -
thần sắc của làng Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, gồm
Tiền Lý Nam Đế, Lôi Công Đại vƣơng, Sơn Thần Đại vƣơng… Tuy nhiên, vì bản
kê khai này không đề cập tới nội dung thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ
phủ nên tạm thời không đƣa vào Bảng thống kê…
Trên đây là một số thông tin cơ bản liên quan tới tƣ liệu Hán Nôm về tín
ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tại Viện
Thông tin khoa học xã hội. Rất có thể, khi khảo sát kỹ hơn (lật lại từng trang) thì
nguồn tƣ liệu Hán Nôm liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ trong đơn vị lƣu trữ này sẽ còn phong phú hơn nhiều…
2.1.2. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và
Mẫu Tam phủ, Tứ phủ qua di sản Hán Nôm - Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Thƣ mục sách Hán Nôm là bộ sách thông tin về tình hình thƣ tịch và tài
liệu Hán Nôm lớn nhất Việt Nam hiện nay đang đƣợc tàng trữ tại Viện
Nghiên cứu Hán Nôm…
38
Phải mất cả chục năm ròng, với bao công sức, các nhà nghiên cứu, các
chuyên gia Hán Nôm mới có thể tổng hợp, phân loại, tóm lƣợc, sắp xếp
và xuất bản hoàn chỉnh bộ Thƣ mục sách Hán Nôm, trong đó có sự hợp
tác và tài trợ tích cực của Viện Viễn Đông bác cổ nƣớc Cộng hòa Pháp.
Bộ sách thực sự là cuốn cẩm nang không thể thiếu nếu muốn đi sâu tìm
hiểu về kho di sản Hán Nôm Việt Nam.
Thƣ mục sách Hán Nôm có tên đầy đủ là Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư
mục đề yếu, với phần tên sách đƣợc xếp theo thứ tự ABC, gồm các phông
có ký hiệu: A, VHv, VHb, VHt (sách viết bằng chữ Hán); AB, VNv,
VNb (sách viết bằng chữ Nôm); AC, HV (sách sao chép hoặc in lại của
Trung Quốc, chủ yếu là kinh Phật) với 5038 tên sách. Mỗi tên sách ứng
với một đến nhiều cuốn sách hoặc nhiều bộ sách, cả thảy hơn 10.000 đơn
vị tƣ liệu thƣ tịch.
Tiếp sau là bộ Bổ di gồm 2 quyển (Thƣợng và Hạ) giới thiệu 6 phông
sách có ký hiệu: AD (thần sắc); AE (thần tích); AF (tục lệ); AG (địa
bạ; AH (xã chí); AJ (cổ chỉ). Cả thảy gồm 2280 đầu sách (bắt đầu từ mã
5039 đến 7318).
Với hơn 10.000 đơn vị, mỗi đơn vị tƣ liệu đều có các thông tin: Tên
sách; tác giả (nếu có); năm nơi in, số trang; ký hiệu và nội dung tóm tắt.
Toàn bộ kho sách Hán Nôm đƣợc phân thành khoảng 40 chủ đề: Văn
học, sử học, quan chức, bang giao, địa lý, kinh tế, gia phả, pháp chế,
quân sự, tôn giáo, phong thủy, văn hóa giáo dục, y dƣợc và văn học các
dân tộc ít ngƣời,... Một cuốn sách có thể đƣợc xếp vào một loại, cũng có
thể đƣợc xếp vào nhiều loại hình khác nhau vì tính chất nội dung đa ngành của nó…1.
Hiện nay, toàn bộ dữ liệu của bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề
1 Viện Nghiên cứu Hán Nôm, http://www.hannom.org.vn/default.asp?CatID=131 2 Viện Nghiên cứu Hán Nôm,http://www.hannom.org.vn/default.asp?CatID=131
yếu và bộ Bổ di đã đƣợc đƣa lên Website của Viện Nghiên cứu Hán Nôm để phục vụ bạn đọc” - Địa chỉ truy cập: http://www.hannom.org.vn2.
39
Từ di sản Hán Nôm trên Website hannom.org.vn, bạn đọc có thể tra cứu
thƣ tịch Hán Nôm theo các tiêu chí: tên sách; ký hiệu (mỗi quyển sách
hoặc bộ sách có một ký hiệu), tác giả (một tác giả có thể có từ một
đến nhiều sách), tên ngƣời, tên thần, tên đất (là tên có xuất hiện trong
sách), địa phƣơng (các sách thần sắc, thần tích, tục lệ, địa bạ, xã chí, cổ
chỉ thuộc địa phƣơng đó), và chủ đề (rất nhiều chủ đề), có thể đọc nội
dung tóm tắt (trích yếu) của từng cuốn hoặc bộ sách bằng cách kích chuột vào tên sách3.
Qua Thƣ mục sách Hán Nôm, bƣớc đầu đã thống kê đƣợc 170 tƣ liệu
liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, với 8 thông
số cơ bản, gồm: số thứ tự (STT), tên tƣ liệu, ký hiệu, niên đại định bản, tác giả,
chữ, nội dung lƣợc thuật, ghi chú [Phụ lục 2].
Kết quả thống kê cho thấy:
- Theo thể loại văn bản (trên giấy, phim ảnh), có thể phân chia tƣ liệu Hán
Nôm liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ thành
các nhóm/loại hình cơ bản sau: giáng bút, phả lục, thần tích, văn chầu, thần sắc,
công văn, linh thiêm/tiêm, các loại hình khác và khảo cứu:
1)- Giáng bút, với tổng số 56/170 văn bản (đƣợc đánh số thứ tự từ 1 - 56),
chiếm tỉ lệ khoảng 32.94%, tiêu biểu nhƣ: Vân Hƣơng Liễu Hạnh Công chúa tâm
căn chân kinh 雲 鄉 柳 杏 公 主 心 根 真 經, Tăng quảng minh thiện quốc âm chân
kinh 增 廣 明 善 國 音 真 經, Nguyên Từ Quốc mẫu lập mệnh quốc âm chân kinh
元 慈 國 母 立 命 國 音 真 經, Tam vị Thánh Mẫu cảnh thế chân kinh 三 位 聖 母
警 世 真 經... Trong đó: Kinh giáng bút: 44 văn bản (đánh số thứ tự từ 1 - 44),
chiếm tỉ lệ khoảng 25.88%; thơ văn giáng bút: 12 văn bản (đánh số thứ tự từ 45 -
56), chiếm tỉ lệ khoảng 7.05%.
2)- Phả lục gồm: Truyền kì tân phả 傳 奇 新 譜 [Tục truyền kì lục] 續 傳 奇
3 Viện Nghiên cứu Hán Nôm,http://www.hannom.org.vn/default.asp?CatID=131.
錄, “Vân Cát Thần nữ lục”, Tiên phả dịch lục 仙 譜 譯 錄, Thiên Bản Vân Hƣơng
40
Lê triều Thánh Mẫu ngọc phả 天 本 雲 鄉 黎 朝 聖 母 玉 譜, Vân Cát thần nữ Cổ
lục 雲 葛 神 女 古 錄, Vân Cát cổ lục diễn âm 雲 葛 神 女 古 錄 演 音, Vân Cát
thần nữ truyện 雲 葛 神 女 傳, Vân Cát Lê Gia Ngọc Phả 雲 葛 黎 家 玉 譜, với
tổng số 7/170 văn bản (đƣợc đánh số thứ tự từ 57 - 63), chiếm tỉ lệ khoảng 4.11%.
3)- Thần tích: Tổng số 60/170 văn bản (đƣợc đánh số thứ tự từ 64 - 123),
chiếm tỉ lệ khoảng 35.29%, tiêu biểu nhƣ: Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Bảo Ngũ
tổng các xã thần tích 南 定 省 務 本 縣 保 伍 總 各 社 神 蹟, Nam Định tỉnh, Xuân
Trƣờng phủ, Giao Thủy huyện, Lạc Thiện tổng, Hoành Lộ ấp thần tích 南 定 省 春
長 府 膠 水 縣 樂 善 總 黃 路 邑神 蹟, Thanh Hóa tỉnh, Đông Sơn huyện, Quang
Chiếu tổng các xã thôn thần tích 清 化 省 東 山 縣 光 照 總 各 社村 神 蹟, Lạng
Sơn tỉnh, Cao Lộc châu, Trinh Nữ tổng các xã thần tích 諒 山 省 高 祿 州 貞 女 總
各 社 神 蹟, Bắc Giang tỉnh, Lạng Giang phủ, Phất Lộc huyện Đào Quan tổng Tiên
Lục xã thần tích 北 江 省 諒 江 府 弗 祿 縣 桃 觀 總 仙 錄 社 神 蹟, Nam Định
tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã thần tích 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各
社 神 蹟, Tuyên Quang tỉnh, Yên Bình phủ, Yên Sơn huyện các xã thần tích 宣 光
省 安 平 府 安 山 縣 褚 市 埔 神 蹟, Thanh Hóa tỉnh, Thiệu Hóa phủ, Đông Sơn
huyện, Tuyên Hóa tổng các xã thần tích 清 化 省 東 山 縣 宣 化 總 各 社神 蹟,
Lạng Sơn tỉnh, Cao Lộc châu, Trinh nữ tổng các xã thần tích 諒 山 省 高麓 州貞
女 總 各社 神 蹟, Phú Thọ tỉnh, Cẩm Khê huyện các xã thần tích 富 壽 省 錦 溪 縣
各 社 神 蹟…
4)- Văn chầu gồm: Tiên thánh văn tập 仙 聖 文 集, Chƣ vị tán văn toàn tập
諸 位 贊 文 全 集, Chƣ vị văn chầu 諸 位 文 朝, Văn chầu 文 朝 = (Văn chầu các
bà 文 朝 各 婆) = (Văn chầu tập 文 朝 集), Công văn quyển 攻 文 卷, Đàn văn 彈
文, Thập nhị tiên nƣơng thỉnh luyện bí pháp 十 二 仙 娘 請 練 秘 法, Đại Nam
quốc âm ca khúc 大 南 國 音 歌, “Liễu Hạnh Công chúa diễn âm” - Tổng số 8/170
văn bản (đƣợc đánh số thứ tự từ 124 - 131), chiếm tỉ lệ khoảng 4.70%.
5)- Thần sắc (sách ghi thần sắc) gồm: Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Đồng
41
Đội tổng các xã thần sắc 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各 社 敕, Nam Định tỉnh, Mỹ
Lộc huyện, Nhƣ Thức tổng các xã thần sắc 定 省 美 祿 縣如 式 總 各 社 神敕, Hà
Nam tỉnh, Lý Nhân phủ, Nam Xang huyện, an Trạch tổng các xã thần sắc 河 南 省
里 仁 府 南 昌 縣 安 宅 總 各 社 神 敕, Hà Nam tỉnh, Lý Nhân phủ, Nam Xang
huyện Công xá tổng các xã thần sắc 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 公 舍 總各社 神敕
, Hà Nam tỉnh, Duy Tiên huyện an (Yên) Khê tổng các xã thần sắc 河 南 省 維 先
縣 安 溪 總 各 社 神 敕, Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện, Tân Khai tổng các xã
thần sắc 南 定 省 海 後 縣 新 開 總 各 社 神 敕, Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện,
Đồng Phù tổng các xã thần sắc 南 定 省 美 祿 縣 同 符 總 各 社 神 敕, Nam Định
tỉnh, Xuân Trƣờng phủ, Giao Thủy huyện, Lạc Thiện tổng các ấp thần sắc 南 定 省
春 長 府 膠 水 縣 l 樂 善 總 各 邑 神 敕, Bắc Ninh tỉnh, Quế Dƣơng huyện, Cựu
Tự xã thần sắc 北 寧 省 桂 陽 縣 舊 寺 社 神 敕, Hà Đông tỉnh, Hoài Đức phủ, Từ
Liêm huyện, Thƣợng Ốc tổng các xã thần sắc 河 東 省 懷 德 府 慈 廉 縣 上 沃 總
各 社村 神 敕, Hƣng Yên tỉnh, Kim Động huyện các xã thần sắc 興 安 省金洞 縣
各 社 神 敕, Sơn Tây tỉnh, Phúc Thọ huyện, Phù Long tổng, Hát Môn xã thần sắc
山 西 省 福 壽 縣 扶 龍 總 喝 門 社 神 敕, Nam ĐỊnh tỉnh, Hải Hậu huyện, Quế
Hải tổng các xã thần sắc 南 定 省 海 後 縣 桂 海 總 各 社 神 敕, Nam Định tỉnh,
Mỹ Lộc huyện, Cao Đài tổng các xã thần sắc 南 定 省 美 祿 縣 高 臺 總 各 社 神
敕, Kiến An tỉnh, Tiên Lãng huyện, Cẩm Khê tổng, Mỹ Lộc xã thần sắc 建 安 省 先
郎 縣 錦 溪 總 美 祿 社 神 敕, Hà Đông tỉnh, Sơn Lãng huyện, Đại Bối tổng các xã
thần sắc 河 東 省 山 郎 縣大 貝 各 社 神 敕, Hà Đông tỉnh, Thanh Trì huyện, Cổ
Điển tổng các xã thần sắc 河 東 省 青 池 縣 古 典 總 各 社 神 敕 - Tổng số 17/170
văn bản (đƣợc đánh số thứ tự 132 - 148), chiếm tỉ lệ 10%.
6)- Công văn: 1 văn bản (1/170) - Công văn tổng quyển 攻 文 總 卷 (đƣợc
đánh số thứ tự 149), chiếm tỉ lệ xấp xỉ 0.59%.
7)- Linh thiêm/tiêm (quẻ bói): 1 văn bản (1/170) - Thánh Mẫu linh tiêm 聖
母 靈 韱 (đƣợc đánh số thứ tự 150), chiếm tỉ lệ xấp xỉ 0.59%.
42
8)- Các loại hình khác (địa chí, truyện - ký lục, câu đối, ghi chép về tục lệ,
thơ văn, ngâm vịnh, tạp ký…) gồm: Nam Định tỉnh đại dƣ chí 南 定 省 地 輿 誌,
Việt điện u linh 越 甸 幽 靈, Nội đạo tràng 內 道 場, Thính văn dị lục 聽 聞 異 錄,
Nam Hải dị nhân liệt truyện diễn âm 南 海 異 人 列 傳 演 音, Bách thần lục 百 神
錄, Thanh Hóa chƣ thần lục 清 華 諸 神 錄, Việt nam danh nhân sự tích liệt truyện
越 南 名 人 事 跡 列 傳, Lão song thô lục 老 窗 粗 錄, Bản quốc dị văn 本 國 異
文 [Bản quốc dị văn lục 本 國 異 文 錄], Bảo Hán châu liên 保 漢 珠 聯, Cát sự đối
liên 吉 事 對 聯, Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Đồng Đội tổng các xã tục lệ 南 定
省 務 本 縣 同 隊 總 各 社 俗 例, Yên Đổ tiến sĩ thi tập 安 堵 進 士 詩 集, Nhƣ
Khuê thị học ngữ tập 如 珪 氏 學 語 集 = Vĩnh Hồ Nhƣ Thị học ngữ 永 湖 如 珪
氏 學 語, Tự ký văn thƣ tạp tập 序 記 文 書 雜 集, Dân gian cổ ngâm 民 間 古 吟,
Thi ca tạp ký 詩 歌 雜 記 - Tổng số 18/170 văn bản (đƣợc đánh số thứ tự từ 151 -
168), chiếm tỉ lệ xấp xỉ 10.59%.
9)- Khảo cứu gồm: Thiên Tiên truyện khảo 天 仙 傳 攷, Khảo đồng sự
ký 攷 童 事 記; Tiền Lí Nam đế tích 前 李 南 帝 跡; Nam Định tỉnh khảo dị 清 化
省 考 異; Thanh Hóa tỉnh khảo dị 南 定 省 考 異; Khảo vấn tĩnh điện 考 問 靖 殿 -
Tổng số 2/170 văn bản (đƣợc đánh số thứ tự từ 169 - 170), chiếm tỉ lệ khoảng
1.17% .
- Về niên đại, hầu hết các văn bản đều đƣợc định bản hoặc định bản lại (sao
chép) trong khoảng thế kỷ XIX - XX, mặc dù có một số bản thần tích ghi do Nguyễn
Bính soạn vào khoảng cuối thế kỷ XVI hoặc đƣợc Nguyễn Hiền sao lại vào khoảng
nửa cuối thế kỷ XVIII, nhƣ Thái Bình tỉnh Quỳnh Côi huyện Quỳnh Ngọc tổng
Quỳnh Ngọc xã thần tích 太 平 省 瓊 魁 縣 瓊 玉 總 瓊 玉 社 神 蹟, AE.A5/32;
Thái Bình tỉnh Thƣ Trì huyện Cự Lâm tổng các xã Hữu Lộc Cự Lâm Thanh Bản thần
tích 太 平 省 舒 池 縣 巨 林 總 各 社 有 祿 巨 林 青 板 神 蹟, AE.A5/61; Hà Đông
tỉnh, Sơn Lãng huyện, Bạch Sam tổng các xã thần tích 河 東 省 山 郎 縣 白 杉 總
各 社 神 蹟, AE.A2/48; Thái Bình tỉnh Tiên Hƣng Hƣng Nhân huyện các xã thần
tích 太 平 省 先 興 府 興 仁 縣 各 社 神 蹟, AE.A5/28; Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ
43
Nam Xang huyện Công Xá tổng các xã thần tích 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 公 舍
總 各 社 神 蹟, AE.A13/25…
- Về văn tự (chữ viết), qua 170 văn bản Hán Nôm liên quan tới tín ngƣỡng
thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đƣợc thống kê, hiện có: 99/170 văn
bản chữ Hán, chiếm tỉ lệ khoảng 58.23%; 19/170 văn bản chữ Hán và Nôm, chiếm
tỉ lệ khoảng 11.17%; 28/170 văn bản chữ Nôm, chiếm tỉ lệ khoảng 16.47% và
24/170 văn bản chữ Nôm và Hán, chiếm tỉ lệ khoảng 14.11%.
- Về hình thức định bản, hầu hết văn bản thuộc loại hình giáng bút và 03 phả
lục, 01 bản văn chầu, 01 bản công văn đƣợc khắc in, còn lại các văn bản khác đều
đƣợc chép tay…
Qua đây, có thể nhận thấy, nguồn tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu
Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ qua Thƣ mục sách Hán Nôm -
Viện Nghiên cứu Hán Nôm tƣơng đối phong phú và đa dạng, cơ bản đƣợc
định bản hoặc định bản lại trong khoảng thế kỷ XIX - XX, với nhiều loại
hình: giáng bút, phả lục, thần tích, văn chầu, thần sắc, công văn, linh thiêm/tiêm
(quẻ bói), các loại hình khác và văn bản khảo cứu. Trong đó, thần tích chiếm số
lƣợng lớn nhất, với 60 văn bản, chiếm tỉ lệ khoảng 35.29%. Tiếp đến là văn bản ghi
chép về giáng bút, với 56 văn bản, chiếm tỉ lệ khoảng 32.94% (Kinh giáng bút: 44
văn bản chiếm tỉ lệ khoảng 25.88%; thơ văn giáng bút chiếm tỉ lệ khoảng 7.05%).
Tuy nhiên, một số loại hình văn bản khác lại chiếm tỉ lệ rất khiêm tốn, nhƣ công
văn, linh thiêm/tiêm (quẻ bói), mỗi loại chỉ có 01 văn bản, tƣơng ứng với tỉ lệ
khoảng 0.59%... Sự xuất hiện của một lƣợng lớn văn bản chữ Nôm, cùng hàng loạt
văn bản giáng bút và một số văn bản khác đƣợc khắc in đã phần nào cho thấy sức
lan tỏa và tính phổ bao quát của tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh phủ Giày và Mẫu
Tam phủ, Tứ phủ trong bối cảnh lịch sử - xã hội đƣơng thời.
2.1.3. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và
Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tại một số cơ sở lữu trữ khác
Trong qúa trình khảo sát, sƣu tầm và tập hợp tƣ liệu, liên quan tới tƣ
liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ
phủ, ngoài nguồn tƣ liệu Viện Thông tin khoa học xã hội, Viện Nghiên cứu
44
Hán Nôm nhƣ đã đề cập ở trên, nghiên cứu sinh cũng đã tiếp cận với nguồn
tƣ liệu liên quan tại một số cơ sở lữu trữ khác, tiêu biểu (Xem thêm Phụ lục
3), có thể điểm tới:
- Tại Thƣ viện quốc gia Việt Nam, ít nhất còn 05 đầu sách trực tiếp liên quan
tới tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đã đƣợc số hóa, có thể xem trực tuyến4, với thông tin khái lƣợc nhƣ sau:
1). Tam vị Thánh Mẫu cảnh thế chân kinh 三 位 聖 母 警 世 真 經 (chữ
Hán, 18 trang), mã hiệu số hóa: nlvnpf-0244, mã kho: R.5069, in từ bản khắc năm
Thành Thái Bính Ngọ (1906) của đền Ngọc Giang, Chủ Thiện đƣờng, Sơn Tây tàng
bản - Sau tờ bìa, sách có in 3 hình Vân Hƣơng Đệ nhất Thánh Mẫu 雲 香 第 一 聖
母, Đệ nhị Thánh Mẫu 第 二 聖 母, Đệ tam Thánh Mẫu 第 三 聖 母. Sau mỗi hình
minh họa còn có bài tán. Tiếp đến là các bài giáng kinh, bảo cáo, khai kinh của Tam
vị Thánh Mẫu.
2). Vân Hƣơng Tam vị Thánh Mẫu cảnh thế chân kinh diễn âm 雲 鄉 三 位
聖 母 警 世 真 經 演 音 (chữ Nôm, 30 trang), mã hiệu số hóa: nlvnpf-0194, mã
kho: R.2233, in từ bản khắc năm Bảo Đại thập bát niên (1933), do Chánh Cửu phẩm
Văn giai Nguyễn Ngọc Du và vợ Trần Thị Miễn khắc, cung tiến cho đền Phú Xuân,
xã Hữu Bằng, tổng Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, với nội dung gồm các bài văn giáng
bút thể cáo, tán, kệ, minh văn, của Vân Hƣơng Thánh Mẫu, Mai Hoa Công chúa và
Thƣợng Ngàn Công chúa khuyên làm điều thiện, bỏ điều ác…
3). Vân hƣơng Thánh Mẫu linh thiêm 雲 鄉 聖 母 灵 韱 (chữ Hán, 26 trang),
mã hiệu số hóa: nlvnpf-1498, mã kho: R.3378, đƣợc chép tay vào khoảng đầu thế
kỷ XX, với nội dung chính gồm các quẻ bói, trong đó có một bài tựa theo thể giáng
bút của Dao Trì Vƣơng mẫu, nói rằng, lời thiêm/tiêm là lời của các vị tiên thánh
mƣợn những kẻ phàm để bày tỏ cho chúng sinh kính sợ mà tụng niệm tu hành. Nay
giáng đàn nơi Vĩnh Phong đàn ở Phúc Xá đề cho ngƣời đời chiêm nghiệm…
4). Vân Cát thần nữ truyện 雲 葛 神 女 傳 (chữ Hán, 26 trang), mã hiệu số
4 Thƣ viện Quốc gia Việt Nam, http://hannom.nlv.gov.vn/
hóa: nlvnpf-1023, mã kho: R.22, với nội dung kể về sự tích vị nữ thần ở thôn Vân
45
Cát, huyện Vụ Bản thời vua Lê Anh Tông: Nữ thần tên thật là Giáng Hƣơng, lấy
một ngƣời họ Đào, sinh đƣợc một con trai, 1 con gái. Năm 21 tuổi, Giáng Hƣơng
chết. Sau lại đầu thai lấy một ngƣời họ Lƣu (chính là chồng cũ, cũng đầu thai), sinh
thêm một con gái. Ngƣời chồng thi đỗ, làm quan ở Viện Hàn lâm. Sau khi mất,
Giáng Hƣơng rất linh thiêng, nhân dân làm đền thờ ở Phố Cát.
5). Truyền kỳ tân phả 傳 奇 新 譜 (chữ Hán, 79 trang), mã hiệu số hóa:
nlvnpf-0285, mã kho: R.1611, với nội dung chép lại Truyền kỳ tân phả của Đoàn
Thị Điểm (Bản khắc năm Gia Long thứ 10 - 1811), gồm 7 câu chuyện kì lạ do Đoàn
Thị Điểm 段 氏 點 sƣu tầm (tiếp sau Truyền kì mạn lục 傳 奇 漫 錄 của Nguyễn
Dữ 阮 嶼): Hải khẩu linh từ lục 海 口 靈 祠 錄, Vân Cát thần nữ truyện 雲 葛 神 女
傳, An ấp liệt nữ lục 安 邑 烈 女 錄, Bích Câu kì ngộ kí 碧 溝 奇 遇 記, Tùng bách
thuyết thoại 松 栢 説 話, Long hổ đấu kì kí 龍 虎 鬪 奇 記.
- Tại Trung tâm Lƣu trữ quốc gia 1, còn lƣu trữ địa bạ hai xã Vân Cát và
Tiên Hƣơng, lập năm Gia Long thứ 4 (1805): Phông Địa bạ triều Nguyễn: Hồ sơ số
6529, lập năm Gia Long thứ 4 (1805) - Địa bạ xã Vân Cát; Phông Địa bạ triều
Nguyễn: hồ sơ số 6525, lập năm Gia Long thứ 4 (1805) - Địa bạ xã Yên/An Thái.
Ngoài ra, trong quá trình khảo sát điền dã, sƣu tầm tƣ liệu, nghiên cứu sinh
cũng đã đƣợc tiếp cận với một số liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh
phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ trong dân gian, gồm sách, ván khắc, gia phả,
thần tích, sắc phong..., tiêu biểu nhƣ:
1). Tứ phủ Công đồng khoa nghi sớ văn hợp tập 四 府 公 同 科 儀 疏 文 合
集 (chữ Hán và Nôm), in từ bản khắc năm Kỷ Mão niên hiệu Bảo Đại năm thứ 14
(1939), nguyên bản (khắc) lƣu tại đền Phú Chí, Chƣơng Văn, Hà Đông, nội dung
tổng hợp các khoa nghi và sớ văn khoa cúng Tứ phủ Công đồng.
2). Thiên Bản Vân Hƣơng Lê triều Thánh Mẫu Ngọc phả 天 本 雲 鄉 黎 朝
聖 母 玉 譜 (chữ Hán), in từ bản khắc năm Bảo Đại 9 (1934), do thanh đồng Vũ
Xuân Lan san khắc, nguyên bản (khắc) vốn đƣợc lƣu giữ tại đền Cố Trạch, xã Vân
Cát, với nội dung kể về sự tích Mẫu Liễu Hạnh (Vân Cát - Tiên Hƣơng).
3). Cát Thiên tam thế thực lục 葛 天 三 世 實 錄 (chữ Hán), in từ bản
46
khắc năm Qúy Sửu, niên hiệu Duy Tân (1913), ván khắc vốn lƣu tại đền Quảng
cung, với nội dung chính gồm các phần sau: Thánh Mẫu bảo cáo; Quảng Nạp
linh từ phả ký; Cát Thiên tam thế thực lục tự; Cát Thiên tam thế thực lục tự tự;
Cát Thiên tam thế thực lục; Cát Thiên tam thế tổng tự; Cát Thiên tam thế thực
lục quốc âm; Phụ lục đề Tiên hƣơng từ thi; Cát Thiên thực lục hoàn mộc ân đệ tử
tạ biểu; Cát Thiên tam thế thực lục hậu tự; Mộng thụ ký; Phụ lục Tiên hƣơng từ
đối liên; Phụ lục Quảng Nạp từ linh nghiệm ký; Thánh Mẫu tán văn; Bách hoa
văn; Bách dƣợc luyện văn; Tế văn...
2.1.4. Tư liệu Hán Nôm về tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở khu vực phủ Giày
Theo Quyết định số 09-VH/QĐ ngày 05/3 /1975 của Bộ trƣởng Bộ Văn hoá-
Thông tin về việc xếp hạng khu di tích kiến trúc nghệ thuật phủ Dầy, tại thời điểm
xếp hạng, quần thể di tích này đƣợc xác định bao gồm: phủ Chính (phủ Tiên
Hƣơng), phủ Vân Cát, lăng Liễu Hạnh và các địa điểm liên quan. Tuy nhiên, theo
kết quả khảo sát gần đây của Ban Quản lý Di tích và Danh thắng tỉnh Nam Định
(Báo cáo kết quả khảo sát, nghiên cứu tên gọi các di tích thuộc quần thể di tích lịch
sử - văn hoá phủ Dầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 2019), quần thể
di tích này hiện có tới 20 điểm di tích, gồm đình, đền, chùa, phủ, lăng, từ đƣờng
phân bố trên địa bàn 3 thôn: Tiên Hƣơng, Vân Cát, Báng, thuộc xã Kim Thái, huyện
Vụ Bản, tỉnh Nam Định: 1). phủ Tiên Hƣơng; 2). phủ Vân Cát; 3). lăng Liễu Hạnh;
4). chùa Báng (Linh Sơn thiền tự); 5). chùa Tiên Hƣơng (Tiên Linh tự); 6). chùa
Vân Cát (Long Vân tự); 7). đền Công đồng; 8). đền Đức Vua (đền thờ Lý Nam Đế)
thôn Tiên Hƣơng; 9). đền Đức Vua (Đền thờ Lý Nam Đế) thôn Vân Cát; 10). đền
Giếng (Đông Tỉnh từ); 11). đền Khải Thánh (thôn Tiên Hƣơng); 12). đền Khải
Thánh (thôn Vân Cát); 13). đền Công Núi (đền Quan Lớn); 14). đình Ông Khổng;
15). đền Thƣợng; 16). đền Cây Đa Bóng (Nguyệt Du từ/cung); 17). đền Cây Đa
Báng; 18). đền Đông Cuông; 19). đền Khâm Sai; 20). nhà thờ (từ đƣờng) họ Trần Lê (Thánh Tổ từ) [1].
Tâm thức dân gian khu vực phủ Giày cho rằng, một số điểm di tích thuộc
quần thể di tích này đƣợc khởi dựng từ thời Lý và Trần (thế kỷ XI - XIX). Tuy
nhiên, qua khảo sát thực địa và qua tƣ liệu Hán Nôm lại cho thấy, diện mạo chủ yếu
47
của hầu hết các điểm di tích thuộc quần thể di tích phủ Giày hiện nay là kết quả của
các lần tu bổ, tôn tạo trong khoảng thời gian từ thế kỷ XIX trở lại đây. Phải chăng,
đây cũng là một kết quả tất yếu của quá trình biến đổi lịch sử - xã hội. Theo đó, có
lẽ, chính vì lý do này mà tƣ liệu Hán Nôm trong quần quần thể di tích hiện nay cũng
tƣơng ứng với khung niên đại nêu trên (trong khoảng từ thế kỷ XIX - XX đến nay).
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, nguồn tƣ liệu Hán Nôm trực tiếp liên quan
đến tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh nói riêng và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ nói chung
trong quần thể di tích phủ Giày chủ yếu tập trung tại phủ Vân Cát, phủ Tiên Hƣơng,
lăng Mẫu Liễu Hạnh, nhà thờ họ Trần Lê, đền Cây Đa Bóng (Nguyệt Du từ/cung).
Tại các điểm di tích khác trong quần thể di tích này cũng đều có đại tự, câu đối, văn
khắc Hán Nôm nhƣng chủ yếu là sản phẩm mới đƣợc cung tiến trong khoảng vài
chục năm gần đây. Trong mục này, xin giới hạn chỉ điểm qua về tƣ liệu Hán Nôm
tại các điểm di tích tiêu biểu trong quần thể di tích phủ Giày, gồm: phủ Vân Cát,
phủ Tiên Hƣơng, lăng Mẫu Liễu Hạnh, nhà thờ họ Trần Lê, đền Cây Đa Bóng
(Nguyệt Du từ/cung).
2.1.4.1. Tư liệu Hán Nôm tại phủ Vân Cát
+ Bia ký:
Tại Viện Thông tin khoa học xã hội hiện đang lƣu trữ tài liệu mang ký hiệu
kho: TSHN 3453: Bản kê bia xã Vân Cát, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định (南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 雲 葛 社 碑 記), đƣợc địa phƣơng kê khai vào
khoảng nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, tài liệu này chỉ có 2 trang và không thấy kê
khai tên hoặc nội dung bất kỳ một văn bia nào, hiện chƣ rõ lý do cụ thể. Có lẽ, phần
nội dung kê khai trong tài liệu gốc đã bị thất lạc hoặc bị tách tệp nhầm khi tiến hành
chỉnh lý?
Tại thời điểm Dƣơng Văn Vƣợng khảo sát, ông đã ghi nhận, tại phủ Vân Cát
có 11 bia ký, trong đó có 09 bia chữ Hán và 02 bia quốc ngữ. Trong tài liệu khảo
sát, ông đã lƣợc thuật lại nội dung 11 bia và tuyển dịch 05 bia. Các bia đều mang
niên đại trong khoảng thời Nguyễn - thế kỷ XIX - XX, gắn với lịch sử hình thành và
tồn tại của phủ. Chƣ rõ, tình trạng các bia tại thời điểm đó thế nào nhƣng hiện nay,
các bia đều đã khá mờ. Kết quả khải cứu, phiên dịch của ông đã đƣợc tập hợp và
48
công bố trong sách Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua tư liệu Hán Nôm [51].
Trên nền kết quả này, có thể khái quát về nội dung cơ bản của văn bia tại phủ Vân
Cát sau:
1). Bia niên hiệu Tự Đức vạn vạn niên chi nhị tam nguyệt thƣợng hoán
嗣 德 萬 萬 年之 二 三 月 上 浣 - Thƣợng tuần tháng Ba năm Tự Đức
thứ 2 (1849), do Vân Song Cƣ sỹ soạn, với nội dung lƣợc thuật nhƣ sau:
Đất Vân Cát, huyện Thiên Bản là nơi có nhà xƣa của Mẫu, sau thành đền
- phủ nguy nga nhƣ cảnh bồng lai. Trƣớc đây, phủ có gác chuông, nhƣng
do lâu ngày mà bị đổ nát. Nay có ông Nguyễn Đăng Vực, ngƣời xã
Lƣơng Kiệt, tổng Hào Kiệt, huyện Thiên Bản, cùng quyến thuộc bỏ tiền
công đức dựng lại. Xong việc khắc bia lƣu lại muôn đời.
2). Nhị xã hòa hội phụng sự bi ký 二 社 和 會 奉 事 碑 記 - Hai xã cùng
nhau phụng thờ, khắc năm Tự Đức thứ 10 (1857), do Vân Song Cƣ sỹ
soạn, với nội dung lƣợc thuật nhƣ sau: Đất Vân Cát, huyện Thiên Bản là
nơi có nhà xƣa của Mẫu, sau thành đền - phủ rất đỗi linh thiêng. Thái La
và Vân Cát là hai xã lân cận. Kính ngẫm, thần tiên ban phúc chẳng riêng
tƣ, khắp nơi thờ tự còn đƣợc, huống chi gần gũi, cận kề. Vì thế mà dân
xã Thái La đã hội bàn với dân Vân Cát, bày tỏ nguyện vọng gánh chung
trách nhiệm tế lễ Thánh Mẫu. Việc đƣợc Vân Cát ƣng thuận, dần dần
thành lệ. Nay khắc văn bia ghi lại mối giao tình.
3). Thiên Bản huyện viên biền cúng tự điền bi ký 天 本 縣 員 弁 供 祀
田 碑記 - Bia ghi việc cúng ruộng hƣơng hỏa của Hội Biền binh huyện
Thiên Bản, khắc năm Tự Đức thứ 14 (1861), do Tiến sĩ Trần Huy Côn,
ngƣời Thiên Bản soạn, với nội dung lƣợc thuật nhƣ sau: Hội lính Thủy
quân của tỉnh, quê ở Thiên Bản cúng vào phủ 6 sào 7 thƣớc ruộng ở xứ
chùa Hoa, giao cho dân sở tại cày cấy lấy hoa lợi lo việc thờ tự Thánh
Mẫu.
4). Bản tỉnh bi ký 本 省 碑 記 - Bia ký bản tỉnh, khắc năm Đồng Khánh
năm thứ 2 (1887), với nội dung ghi việc những ngƣời trong và ngoài tỉnh
49
quyên tiền sắm kiệu phục vụ rƣớc hội…
5). Bia không đề, khắc năm Thành Thái thứ 4 (1892), do Phạm Đình Kỳ
soạn, ghi việc dân sở tại từ xƣa đã có lệ chính kỵ (tiệc giỗ) Mẫu vào ngày
mùng Ba tháng Ba. Số ruộng trƣớc đây bố trí ít ỏi nên hoa lợi thu đƣợc
không đủ chi dùng, phải bổ bán nên gặp khó khăn, nay quyết định bố trí
thêm 1 mẫu 2 sào để tiện lo việc…
6). Thánh Mẫu cố trạch linh từ bi ký 聖 母 故 宅 靈 祠 碑 記 - Bia ghi
việc đền thiêng nơi nền nhà cũ của Thánh Mẫu, khắc năm Thành Thái
Tân Sửu (1901), do Hiệp biện Đại học sỹ Quốc Sử quán Phó Tổng tài
kiêm quản Quốc giám, An Xuân Nam, Cao Xuân Dục soạn, với nội dung
lƣợc thuật nhƣ sau: Đền thờ Mẫu vốn đƣợc dựng trên đất Mẫu giáng sinh
từ thời Cảnh Trị (1663-1671), với quy mô nhỏ. Năm Cảnh Thịnh (1793 -
1801) đền đƣợc sửa sang, mở rộng quy mô. Năm Kỷ Mão dƣới triều Tự
Đức lại trùng tu tiếp. Trải qua thời gian mƣa xối, gió bào, phong cảnh trở
nên tiêu điều, đổ nát. NămThành Thái thứ 10, các quan tỉnh, đại diện là
Hoàng Huy Tƣờng, Vũ Nghĩa Quỳ thƣơng nghị với Cao Xuân Dục tu bổ
lại đền. Việc đƣợc tiến hành, đến năm Thành Thái thứ 12 (1900) thì mọi
việc hoàn thành. Số tiền chi phí hết hơn 8.000đ.
7). Vụ Bản huyện đồng huyện cúng trí lệ điều tiền tại Vân Cát, tục hiệu
phủ Giày bi ký 務 本 縣 仝 縣 供 置 例 田 錢 在 雲 葛 俗 号 府 𠫅 碑 記
- Cả huyện Vụ Bản tiến cúng tiền ruộng lệ ở phủ Vân Cát, tục gọi là phủ
Giày, do Đệ tam giáp Tiến sỹ khoa Tân Sửu Đốc học Hải Phòng Nguyễn
Văn Tính soạn, với nội dung lƣợc thuật nhƣ sau: Vân Cát thần nữ là một
trong sáu sự lạ ở đất Thiên Bản, trải qua ba độ hóa sinh, đã đƣợc các triều
phong tặng. Hằng năm cứ đến mùa xuân tháng Giêng, bốn phƣơng hội về
Vân Cát, Tiên Hƣơng chiêm bái rất đông. Hai làng này trƣớc là một, sau
mới chia ra (trƣớc Vân Cát nằm trong xã An Thái), một là hai, hai cũng là
một vậy. Tục “hội gậy hoa” có từ việc vị Thái phi thời chúa Trịnh, dƣới
thời Lê Trung Hƣng cầu ở đền Tiên Thánh, sau có ứng nghiệm nhƣ điều
nguyện ƣớc, nên đã tâu lên trên miễn cho dân huyện việc đắp đê khơi
50
nƣớc ở Hà Thành. Dân huyện nhớ công ấy bèn đổi mai cuốc thành gậy
kéo chữ, hằng năm cứ đến kỳ lễ kị thì kính cẩn làm lễ tạ, hội hợp chụm
đầu, lâu ngày thành lệ. Khoảng năm Tự Đức triều ta, Vân Cát nghĩ rằng,
dân đinh thƣa ít, lo việc không nổi bèn đem nguyên lệ giao cho Tiên
Hƣơng nhận làm. Tới nay hơn 60 năm còn có mọi ngƣời biết cả. Vào
khoảng năm Khải Định thứ 3, thứ 4 (1918, 1919), ngƣời quý tổng thăng
thụ Chánh Bát phẩm, Nghị viên Tƣ vấn xứ Bắc Kỳ, Chánh tổng Trần
Khắc Kiệm thƣơng lƣợng với chức sắc kỳ dịch xã ấy có lời với lý dịch và
Chánh Phó tổng mới, cũ của cả huyện, thỏa thuận về các điều lệ, có chữ,
có dấu của huyện quan phê đóng, lấy đó chiểu theo lệ trƣớc làm lệ gậy hoa
ở đền xã ấy. Ngõ hầu cùng đội ơn thần, đẹp tốt với ý kính thờ. Trong
huyện bàn bạc thống nhất ký kết trình quan Đốc bộ đƣờng bản tỉnh Phạm
Tƣớng công thƣơng lƣợng với Tòa sứ chuẩn duyệt thi hành…
8). Vân Cát hàng hội bi ký 雲 葛 行 會 碑 記 - Bia ký hàng hội Van Cát,
khắc năm Khải Định thứ 10 (1925), do Chánh tổng tổng Trình Thƣợng
Bùi Văn Hùng soạn, với nội dung lƣợc thuật nhƣ sau: Cả 12 tổng: Vụ
Bản, La Xá, Phú Lão, Hiển Khánh, Đồng Đội, Vân Côi, Bảo Ngũ, An
Cự, Trình Thƣợng, Trình Hạ, Hào Kiệt, Hổ Sơn đều chịu trách nhiệm tế
rƣớc kéo chữ. Số ngƣời kéo chữ có 20 ngƣời các tổng luân phiên gách
việc…
9). Vân Cát phủ từ tự điền bi ký 雲 葛 府 詞 祀 田 碑 記 - Bia ghi việc
ruộng thờ tự tại đền Vân Cát, khắc năm Khải Định năm thứ 10 (1925),
do Tri huyện huyện Vụ Bản Đặng Huy Hoàn soạn, với nội dung lƣợc
thuật nhƣ sau: Thánh Mẫu Vân Cát là vị thần thiêng, ngƣời ngƣời sùng
bái, nhà nhà kính ngƣỡng, nơi nơi lập miếu phụng thờ. Đất Thiên Bản là
nơi sinh ra Tiên chúa, dƣới thời Lê Trịnh, Thái phi đặt ra “hội hoa
trƣợng” để tạ ơn Mẫu. Hằng năm, cứ đến tháng Ba, ngƣời cả huyện kéo
về diễn lại tích xƣa. Cảm kích ơn Mẫu, huyện hào cúng vào đền số ruộng
1 mẫu 8 sào, bàn giao lại cho xã Vân Cát nhận cày cấy lấy hoa lợi phục
vụ lễ ngày thánh hóa. Nay khắc vào đá truyền lại muôn đời…
51
+ Đại tự, câu đối:
Cũng theo kết quả khảo sát của Dƣơng Văn Vƣợng, tại phủ Vân Cát, khi ông
khảo sát còn lƣu giữ đƣợc 17 bức đại tự và hàng chục đôi câu đối cổ sơn son thiếp
vàng ca ngợi thân thế, công lao, đức hạnh của Thánh Mẫu để tỏ lòng kính ngƣỡng
của cộng đồng và thiện tín thập phƣơng đối với Mẫu. Khi chúng tôi khảo sát, trong
phủ này đã có thêm một số đại tự, câu đối mới đƣợc bổ sung. Ngoài ra, tại phủ còn
một số cuốn thƣ, đại tự, câu đối mới đƣợc cung tiến và đắp trên nghi môn, cột biểu
trong những lần trùng tu gần đây.
Tƣơng tự nhƣ bia ký, hệ thống đại tự, câu đối tại phủ Vân Cát cũng khá
phong phú, đa dạng, đặc biệt chú trọng việc khẳng định truyền thống thờ Mẫu tại
Vân Cát, tiêu biểu nhƣ:
Giáng sinh từ 降 生 祠 - Đền giáng sinh.
Đản sinh cố trạch 誕 生 故 宅 - Nhà cũ, nơi đản sinh Thánh Mẫu.
Tiên nhân cựu quán 仙 人 舊 館 - Quê cũ của ngƣời tiên.
雲 葛 是 始 浦 葛 是 终 人 知 有 母 之 親 直 北 关 山 皆 赤 子,
壬 辰 而 生 丙 辰 而 化 世 仰 維 神 之 著 塈 南 声 教 沐 鴻 恩.
Vân Cát thị thủy, Phố Cát thi chung, nhân tri hữu Mẫu chi thân, trực Bắc
quan san giai xích tử,
Nhâm Thìn nhi sinh, Bính Thìn nhi hóa, thế ngƣỡng duy thần chi trứ, kị Nam
thanh giáo mộc hồng ân.
Vân Cát giáng trước, Phố Cát giáng sau, người biết đức mẹ thân tình, Bắc ải
xa xôi yêu như con đỏ,
Sinh năm Nhâm Thìn, hóa năm Bính Thìn, đời đời nhờ cậy thánh - thần, trời
Nam ngưỡng vọng tắm gội ơn lành.
(Câu đối do Tổng đốc Nam Ninh, Cổ Hoan Đông Cao Long Cương, Cao
Xuân Dục, hiệu Tử Phát soạn, khắc vào mùa đông năm Ất Mão - 1915)…
Ngoài ra, trong phủ còn có một số văn khắc Hán Nôm đƣợc khắc trên thƣợng
lƣơng, bát hƣơng, đồ nghi trƣợng…
+ Sắc phong:
52
Tại phủ Vân Cát, hiện không còn sắc phong nguyên bản (vật thật) do các
triều phong tặng. Tuy nhiên, theo Bản kê thần sắc xã Vân Cát, tổng Đồng Đội,
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định (南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 雲 葛 社 神 敕), ký
hiệu kho: TSHN - Tƣ liệu Viện Thông tin khoa học xã hội, do địa phƣơng lƣợc kê
vào khoảng nửa đầu thế kỷ XX thì ở thời điểm kê khai, xã Vân Cát có 23 đạo sắc.
Tuy nhiên, bản kê chỉ kê khai ngày, tháng, năm, triều vua phong sắc, số bản đƣợc
phong, không kê khai rõ nội dung sắc phong cho vị thần nào. Về thông tin kê khai,
có thể lƣợc thuật nhƣ sau: Ngày mùng Ba tháng Bảy năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642)
phong 1 đạo; ngày Mƣời tám tháng Tƣ năm Cảnh Trị thứ 8 (1670) phong 2 đạo;
ngày Hai mƣơi bốn tháng Sáu nhuận năm Chính Hòa thứ 4 (1683) phong 1 đạo;
ngày Mƣời sáu tháng Hai năm Vĩnh Thịnh nguyên niên (1705) phong 1 đạo; ngày
Mƣời hai tháng Bảy năm Bảo Thái thứ 3 (1722) phong 1 đạo; ngày Mùng mƣời
tháng Mƣời hai năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1731) phong 1 đạo; ngày Mƣời sáu tháng
Hai năm Long Đức thứ 2 (1733) phong 1 đạo; ngày Hai mƣơi bảy tháng Tám năm
Vĩnh Hựu nguyên niên (1735) phong 1 đạo; ngày Hai mƣơi bảy tháng Giêng năm
Cảnh Hƣng nguyên niên (1740) phong 1 đạo; ngày Hai mƣơi tám tháng Ba năm
Cảnh Hƣng nhị niên (1741) phong 1 đạo; ngày mùng Tám tháng Tám năm Cảnh
Hƣng thứ 28 (1767) phong 1 đạo; ngày Mƣời sáu tháng Năm năm Cảnh Hƣng thứ
44 (1783) phong 1 đạo; ngày Hai mƣơi ba tháng Ba năm Chiêu Thống nguyên niên
(1787) phong 1 đạo; ngày mùng Bốn tháng Sáu năm Cảnh Thịnh nguyên niên
(1793) phong 1 đạo; ngày Mƣời sáu tháng Sáu năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) phong 1
đạo; ngày Mƣời bảy tháng Mƣời hai năm Tự Đức thứ 3 (1850) phong 1 đạo; ngày
mùng ba tháng Mƣời năm Tự Đức thứ 10 (1857) phong 1 đạo; ngày Hai mƣơi bốn
tháng Mƣời một năm Tự Đức thứ 33 (1880) phong 1 đạo; ngày mùng Một tháng
Bảy năm Đồng Khánh thứ 2 (1887) phong 1 đạo; ngày Mƣời tám tháng Mƣời một
năm Thành Thái nguyên niên (1889) phong 1 đạo; ngày Mƣời một tháng Tám năm
Duy Tân thứ 3 (1909) phong 1 đạo; ngày mùng Tám tháng Sáu nhuận năm Duy Tân
thứ 5 (1911) phong 1 đạo. Đặc biệt, theo Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội
tổng các xã thần sắc 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各 社 敕, Thƣ viện Viện Nghiên
cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A16/ 29, mục Thần sắc xã Vân Cát, ngoại trừ 01 sắc
phong cho Lý Nam Đế ngày Mƣời tám tháng Tƣ năm Cảnh Trị thứ 8 (1670), còn có
53
14 đạo sắc phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng Công chúa, Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh
cung Công chúa, Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Công chúa dƣới thời Lê, gồm: sắc
ngày mùng Ba tháng Bảy năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642), phong cho Liễu Hạnh Mã
Hoàng Công chúa; sắc ngày Mƣời tám tháng Tƣ năm Cảnh Trị thứ 8 (1670), phong
cho Liễu Hạnh Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi bốn tháng Sáu nhuận năm Chính
Hòa thứ 4 (1683), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng… Công chúa; sắc ngày mƣời
sáu tháng Hai năm Vĩnh Thịnh nguyên niên (1705), phong cho Mã Hoàng… Công
chúa; sắc ngày Mƣời hai tháng Bảy năm Bảo Thái thứ 3 (1722), phong cho Mã
Hoàng Công chúa; sắc ngày Mùng mƣời tháng Mƣời hai năm Vĩnh Khánh thứ 2
(1730), phong cho Mã Hoàng… Công chúa; sắc ngày Mƣời sáu tháng Hai năm
Long Đức thứ 2 (1733), phong cho Mã Hoàng Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi bảy
tháng Tám năm Vĩnh Hựu nguyên niên (1735), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng
Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi bảy tháng Giêng năm Cảnh Hƣng nguyên niên
(1740), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng… Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi tám
tháng Ba năm Cảnh Hƣng thứ 2 (1741), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung
Công chúa; sắc ngày mùng Tám tháng Tám năm Cảnh Hƣng thứ 28 (1767), phong
cho Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Công chúa; sắc ngày Mƣời sáu tháng Năm năm
Cảnh Hƣng thứ 44 (1783), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng… Công chúa; sắc ngày
Hai mƣơi hai tháng Ba năm Chiêu Thống nguyên niên (1786), phong cho Liễu
Hạnh Mã Vàng… Công chúa; sắc ngày mùng Bốn tháng Sáu năm Cảnh Thịnh
nguyên niên (1793), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng… Công chúa [177].
Ngoài hệ thống bia ký, đại tự, câu đối sắc phong kể trên, trong phủ còn có
một số văn khắc trên cấu kiện gỗ, chuông, đồ tế tự, con dấu và một số mẫu công
văn - sớ sách, khoa cúng…
Điển qua niên đại của các sắc theo bản kê khai, có thể nhận thấy, các sắc kể
trên của xã Vân Cát đều nằm trong khung niên đại từ nửa đầu thế kỷ XVII đến
khoảng nửa cuối thế kỷ XVIII. Theo đó, nhƣ có căn cứ để phỏng đoán, có lẽ, bản kê
khai này đƣợc thực hiện vào cuối thời Lê (không thể trƣớc năm 1793) hoặc đầu thời
Nguyễn (không có sự xuất hiện của các sắc thời Nguyễn). Tuy nhiên, khi nghiên
cứu kỹ về nội dung chi tiết và đặt trong khung lịch sử đƣơng đại, sẽ thấy một số
điểm “chênh” về tính xác thực lịch sử, cần phải có sự lý giải thỏa đáng. Về vấn đề
54
này, xin đƣợc trở lại làm rõ trong nội dung phần sau.
2.1.4.2. Tư liệu Hán Nôm tại phủ Tiên Hương:
+ Bia ký:
Tại Viện Thông tin khoa học xã hội hiện đang lƣu trữ tài liệu mang ký hiệu
kho: TSHN 2927: Bản kê bia xã Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định (南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 仙 鄉 社 碑 記), đƣợc chức sắc địa phƣơng
kê khai vào khoảng cuối thế kỷ XX. Tại thời điểm kê khai, phủ Chính (Tiên Hƣơng)
có 5 bia dựng ở bên trái phủ (mỗi bia đều 2 mặt) và 3 bia dựng ở bên phải phủ (mỗi
bia cũng đều 2 mặt), tộng cộng 8 bia, gồm: Bản huyện cúng ngân bi ký 本 縣 供 銀
碑 記 (Bia ghi việc cúng tiền của bản huyện), khắc ngày Mƣời tám tháng Sáu năm
Duy Tân thứ 8 (1914); Quan lại cúng ngân bi 官 吏 供 銀 碑 記 (Bia ghi việc cúng
tiền của quan lại), khắc ngày Mƣời tám tháng Sáu năm Duy Tân thứ 8 (1914); Dân
tộc cúng ngân bi ký 民 族 供 銀 碑 記 (Bia ghi việc cúng tiền của ngƣời trong họ),
khắc ngày Mƣời tám tháng Sáu năm Duy Tân thứ 8 (1914); Biền hội phụng điền bia
弁 會 奉 田 碑 (Bia ghi việc cúng ruộng của Hội Biền binh), khắc ngày Hai mƣơi
bốn tháng Hai năm Minh Mệnh thứ 15 (1834); Tiên Hƣơng linh từ bi 仙 鄉 靈 詞
碑 (Bia đền thiêng Tiên Hƣơng), khắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Thành Thái
thứ 4 (1893); Thập phƣơng cúng ngân bi ký 十 方 供 銀 碑 記 (Bia ghi việc cúng
tiền của thập phƣơng), khắc ngày Mƣời tám tháng Sáu năm Duy Tân thứ 8 (1914);
Cung tiến điền thạch bi 恭 薦 田 石 碑 (Bia đá ghi việc cúng ruộng), khắc ngày
mùng Mƣời tháng Tƣ năm Minh Mệnh thứ 9 (1828); Bản hƣơng điền bi 本 鄉 田 碑
(Bia ghi về ruộng đất của bản hƣơng), khắc ngày mùng Bảy tháng Ba năm Thành
Thái thứ tƣ (1893).
Cũng nhƣ nội dung kê khai văn bia đƣơng thời của nhiều địa phƣơng khác,
Bản kê bia xã Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định chỉ kê
đƣợc số lƣợng văn bia, liệt kê tên bia, kèm theo đó là thời điểm khắc, không đề cập
cụ thể đến nội dung văn bia.
Theo kết quả khảo sát thực địa của Dƣơng Văn Vƣợng, tại thời điểm ông
khảo sát, ở phủ Tiên Hƣơng còn 15 bia ký, đƣợc dựng tập trung trong hai tòa
55
phƣơng du, mang niên đại trong khoảng thời Nguyễn (thế kỷ XIX - XX), gắn với
lịch sử hình thành và tồn tại của phủ. Hiện nay, vị trí các bia vẫn đƣợc yên vị tại đó
nhƣng do tác động của nhiều yếu tố, một số bia đã khá mờ, khó có thể nhận diện
đƣợc hết nội dung văn tự.
Kết quả khải cứu, phiên dịch của ông cũng đã đƣợc tập hợp và công bố trong
sách Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua tư liệu Hán Nôm [51]. Trên nền kết
quả này, có thể điểm qua về nội dung cơ bản của văn bia tại phủ Vân Cát sau:
1). Biền hội phụng điền bi 弁 會 奉 田 碑 - Bia cúng ruộng của Hội Biền
binh, khắc năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), do Tri phủ phủ Nghĩa Hƣng
Nguyễn Văn Nghị soạn, với nội dung lƣợc thuật nhƣ sau: Kính ngƣỡng
đền thiêng, đội ơn Thần nữ mà mỗi khi ra biển vào bờ luôn gặp gió
thuận, trời quang, sóng yên, biển lặng, Hội Biền binh thủy quân cung
tiến vào đền số ruộng 1 mẫu 6 sào, 1 đôi tàn màu hồng, 1 chiếc quán tẩy,
1 chiếc sập đá để bày tỏ nỗi niềm, mong tiếp tục nhận đƣợc sự chở che
của Thánh Mẫu.
2). Cung tiến thạch bi 供 進 石 碑 - Bia ghi việc cung tiến, khắc năm
Minh Mệnh năm thứ 19 (1838), ghi việc thanh đồng Nho cung tiến cho
phủ số ruộng 2 sào 6 thƣớc - trị giá 30 quan, lại công đức lo việc dựng
phủ 30 quan cổ tiền, xây xựng bậc đá 100 quan, thanh đồng Hƣơng công
đức 2 quan, thanh đồng Danh công đức 10 quan…
3). Bia không đề, khắc năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), ghi việc ông
Nguyễn Đăng Dung, ngƣời xã Tái Dƣơng, tổng Bằng Lăng, huyện
Thƣợng Phúc, phủ Thƣờng tín tỉnh Hà Nội cùng với vợ con cúng tiến
xây dựng phủ 42 quan; Nguyễn Xuân Hào, Chánh tổng tổng Trọng Vĩnh,
huyện Đại An cung tiến dựng phủ 10 quan, xây bậc đá 5 quan…
4). Bia không đề, khắc năm Tự Đức thứ 14 (1861), do Tiến sĩ Trần Huy
Côn, ngƣời Thiên Bản soạn, ghi việc Vệ Trung Thủy ngẫm rằng, mỗi khi
ra khơi vào bến chẳng biết cầu vọng vào đâu, chỉ biết nƣơng nhờ cửa
Mẫu nên đã cúng ruộng cho phủ để lo giỗ Mẫu…
5). Cung tiến bi ký 供 進 碑 記 - Bia ghi việc cung tiến, khắc năm Tự
56
Đức năm thứ 19 (1866), ghi việc thủ từ của phủ Tiên Hƣơng là Cao Thị
Cẩn cùng dân và họ sửa đền, gồm thƣợng điện, nội điện, hành lang, xong
việc, khắc bia ghi tên ngƣời cúng tiền, trong đó có một nửa là lính thủy ở
Nam Định…
6). Tiến cúng điền bi 供 進 田 碑 - Bia cung tiến ruộng, dựng năm Thành
Thái thứ 4 (1892), ghi việc thủ từ phủ Chính là Ni Cẩn cùng thiện tín
thập phƣơng cúng ruộng cho phủ, trong đó có 3 mẫu 3 sào để dân sở tại
làm lễ và 3 sào giao cho Lý trƣởng gánh việc đốc lễ…
7). Bia không đề, khắc năm Thành Thái thứ 4 (1892), do Cửu phẩm
Phạm Đình Kỳ soạn, ghi việc, phủ Mẫu trong xã trƣớc đây vốn đã có
ruộng hƣơng hỏa nhƣng hoa lợi thu đƣợc không đủ làm lệ, hằng năm tiến
hành phải bổ bán hết sức vất. Vì vậy, quyết định để thêm số ruộng 2 mẫu
1 sào 7 thƣớc, lại thêm 600 quan tiền để cho vay lấy lãi làm giỗ Mẫu.
8). Dân tộc cúng ngân bi ký 民 族 供 銀 碑 記 - Bia ghi việc ngƣời trong
họ cúng tiền, khắc năm Duy Tân năm thứ 8 (1914), ghi tên những ngƣời
trong họ Trần cung tiến vào phủ, trong đó có chép: Trƣởng phái họ Trần
dòng dõi Mẫu là ông Trần Bình Hành - Cử nhân khoa Tân Mão, Huấn
đạo huyện Việt Yên, Hàn lâm viện Biên tu. Lầu vọng nguyệt, lầu
chuông, gác trống trƣớc cửa phủ vốn là ruộng của họ Trần, tổng diện tích
4 sào.
9). Bản huyện cúng ngân bi ký 本 縣 供 銀 碑 記 - Bia ghi việc công đức
tiền trong bản huyện, khắc năm Duy Tân thứ 8 (1914), ghi việc dân xã
Tiên Hƣơng cùng 12 tổng của huyện Vụ Bản, tổng Đồng Đội cúng tiền
vào việc tu sửa đền - phủ, đồng thời liệt kê rõ tên những ngƣời cung
tiến…
10). Thập phƣơng cúng ngân bi ký 十 方 供 銀 碑 記 - Bia ghi việc cúng
tiền công đức của thập phƣơng, khắc năm Duy Tân năm thứ 8 (1914),
ghi việc các thiện tín thập phƣơng cúng tiền tu bổ đền Chính - phủ Tiên
Hƣơng, trong đó có ông Đặng Văn Đốc, Chánh tổng tổng Vỉ Nhuế, nơi
57
Mẫu giáng sinh lần thứ nhất.
11). Quan lại cúng ngân bi ký 官 吏 供 銀 碑 記 - Bia ghi việc các quan
công đức tiền, khắc năm Duy Tân thứ 8 (1914), ghi tên quý quan đóng
góp tiền tu bổ đền Chính - phủ Tiên Hƣơng. Trong đợt tu bổ này, có sự
tham gia của ông Đoàn Triển, Tổng đốc Nam Định, cùng các vị Tổng
đốc, Tuần phủ ở Nghệ An, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hà Nam, Thái Bình,
các quan Đốc học, tiến sĩ về hƣu, các quan Học chính, các quan chủ chốt
của các tỉnh, huyện…
12). Bia không đề, khắc năm Duy Tân thứ 9 (1915), do Đoàn Triển,
Tổng đốc Nam Định soạn, ghi việc khi ông về Nam Định nhậm chức
Tổng đốc, ngƣời họ Trần trong làng đến trình việc xin tu bổ đền và mong
ông ủng hộ. Việc đƣợc chấp thuận, cùng tiến hành xây 4 tòa theo kiểu
mới, sửa 9 tòa lầu tả hữu vu, mở rộng tƣờng bao, đắp hoa biểu, tạo
nguyệt hồ. Trong đợt tu bổ này, những ngƣời đốc công gồm: Huấn đạo
huyện Việt Yên Trần Bình Hành, Tú tài Thanh Oai Nghiêm Đinh Dao và
Bắc Kỳ dân Hội nghị viên Trần Bá Hợp…
13). Tiên Hƣơng phủ từ tự điền bi ký 仙 鄉 府 祠 祀 田 碑 記 - Bia ghi
ruộng hƣơng hỏa đền - phủ Tiên Hƣơng, khắc năm Khải Định thứ 10
(1925), do Tri huyện Vụ Bản Đặng Huy Hoàn soạn, ca ngợi Thánh Mẫu
Tiên Hƣơng là vị thần nữ rất thiêng, giáng sinh xuống đất Thiên Bản.
Dƣới thời Lê, bà Trịnh Thái phi là ngƣời khởi xƣớng lập ra hội hoa
trƣợng để tạ ơn Mẫu, huyện hào có giao số ruộng tƣ diện tích 1 mẫu 8
sào 5 thƣớc cho dân sở tại canh tác lấy hoa lợi lo việc giỗ Mẫu.
14). Bản huyện tập phúc phả tự điền bi 本 縣 集 福 譜 記 田 碑 - Bia ghi
việc cúng ruộng phục vụ việc thờ tự của Hội Tập phúc trong huyện, khắc
năm Bảo Đại thứ 5 (1930), do Trần Lê Thăng, ngƣời làng soạn, ghi:
Dƣới thời Minh Mạng, tiền nhân cúng ruộng có khắc mộc bài biểu
dƣơng, lâu ngày mục nát, nay cho khắc bia ghi lại. Số ruộng vốn đã giao
cho dân sở tại canh tác lấy hoa lợi lo việc giỗ Mẫu vào mùng Ba tháng
Ba, gồm 1 mẫu 5 sào. Cỗ giỗ gồm có 1 lợn con và 100 bánh giày, cùng
58
hoa quả tùy theo điều kiện…
15- Vụ Bản huyện biền bi ký 務 本 縣 弁 碑 記 - Bia ghi việc Hội Biền
binh huyện Vụ Bản, khắc năm Bảo Đại thứ 9 (1934), do Trần Xuân
Thiều, Đốc học Bắc Ninh đã về hƣu soạn, ghi việc: Trƣớc đây, các biền
binh đã cúng ruộng lo việc giỗ Mẫu, mỗi khi tế lễ còn đƣợc biếu lộc. Nay
lại cúng thêm 5 sào và 20 đồng để sửa vọng lâu, lầu chuông, gác trống…
+ Đại tự, câu đối:
Cũng theo kết quả khảo sát của Dƣơng Văn Vƣợng, tại thời điểm ông khảo
sát, ở phủ Tiên Hƣơng hiện còn lƣu giữ 15 bức đại tự và hàng chục câu đối, một số
cuốn thƣ cổ sơn son thếp vàng ca ngợi thân thế, công lao, đức hạnh của Thánh Mẫu
để tỏ lòng kính ngƣỡng của thiện tín thập phƣơng đối với Mẫu.
Gần đây, trong phủ, đã bổ sung thêm khá nhiều hoành phi câu đối mới đƣợc
cung tiến hoặc đắp lại trên nghi môn, cột biểu trong những lần trùng tu gần đây. Về
nội dung và hình thức, đại tự, cuốn thƣ, câu đối tại phủ Tiên Hƣơng cũng rất phong
phú, đa dạng, tập trung ca ngợi Thánh Mẫu, bày tỏ niềm tin, sự kính ngƣỡng Thánh
Mẫu, đặc biệt, còn có một số đại tự do ngƣời Hoa cung tiến, tiêu biểu nhƣ:
Từ ân viễn tí 慈 恩 遠 庇 - Mây lành che phủ muôn nơi.
(Đại tự do Lâm Thông Ký kính dâng năm Tự Đức thứ 31 - 1878).
Từ vân phúc hải 慈 恩 覆 海 - Mây lành che phủ biển khơi.
(Đại tự do Trầm Bính Thành kính dâng năm Quang Tự thứ 19 - 1893)
三 世 輪 迴 于 潙 汭 于 雲 葛 于 峨 山 五 百 餘 年 光 實 錄,
歷 朝 葩 袞 為 帝 女 為 大 王 為 眾 母 亿 千 萬 古 奠 名 邦.
Tam thế luân hồi, vu Vỉ Nhuế, vu Vân Cát, vu Nga Sơn, ngũ bách dƣ niên
quang thực lực,
Lịch triều ba cổn, vi đế nữ, vi đại vƣơng, vi chúng mẫu, ức thiên vạn cổ điện
danh bang.
Ba kiếp luân hồi, xuống Vỉ Nhuế, xuống Vân Cát, xuống đất Nga Sơn, hơn
năm trăm năm qua, sự tích mãi sáng ngời thực lục,
Các triều phong tặng, là con vua, là đại cương, là mẹ tối thượng, dẫu ngàn
59
vạn năm sau, tiếng tăm vẫn vang dội nhân gian.
(Câu đối do Lê Hy Vĩnh, Đốc học tỉnh Thanh Hóa soạn, khắc năm Quý Sửu -
1913).
母 德 本 無 私 但 願 開 众 智 警 群 頑 声 教 五 洲 仝 進 化,
仙 靈 亦 非 幻 惟 此 敦 子 綱 循 歸 道 孝 貞 二 字 尚 傳 名.
Mẫu đức bản vô tƣ, đãn nguyện khai chúng trí, cảnh quần ngoan, thanh giáo
ngũ châu đồng tiến hóa,
Tiên linh diệc phi ảo, duy thử đôn tử cƣơng, tuần quy đạo, hiếu trinh nhị tự
thƣợng truyền danh.
Đức mẹ vốn vô tư, nguyện mở trí, dẹp ngu hèn, mở giáo pháp sánh cùng năm
châu lục,
Dấu tiên nào huyễn ảo, gắng tu tập, giữ cương thường, đạo hiếu trinh hai
chữ giúp rạng danh.
(Câu đối do Từ Đạm, giữ chức Thị lang - Án sát sứ tỉnh Nam Định soạn,
khắc năm Quý Sửu - 1913).
+ Sắc phong:
Theo Bản kê thần sắc: Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng, Tiên
Hƣơng xã thần sắc 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 仙 鄉 社 神 敕, ký hiệu TTHN518,
niên đại cuối thế kỷ XX (Bản kê thần sắc xã Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ
Bản, tỉnh Nam Định), tại thời điểm kê khai, xã Tiên Hƣơng từng đƣợc triều đình
nhà Nguyễn ban tặng 13 đạo sắc phong của các vua Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự
Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, cụ thể nhƣ sau: Ngày Hai mƣơi mốt
tháng Bảy năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) phong 1 đạo; ngày Mƣời sáu tháng Sáu
năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) phong 1 đạo; ngày Mƣời sáu tháng Bảy năm Thiệu Trị
thứ 6 (1846) phong 1 đạo; ngày Mƣời bảy tháng Mƣời hai năm Tự Đức thứ 3
(1850) phong 2 đạo; ngày Hai mƣơi bốn tháng Mƣời một năm Tự Đức thứ 33
(1880) phong 2 đạo; ngày mùng Một tháng Bảy năm Đồng Khánh thứ 2 (1887)
phong 2 đạo; ngày Mƣời tám tháng Mƣời một năm Thành Thái nguyên niên (1889)
phong 2 đạo; ngày Mƣời một tháng Tám năm Duy Tân thứ 3 (1909) phong 2 đạo.
Hiện tại, trong phủ Tiên Hƣơng đang lƣu giữ 15 đạo sắc nằm trong khung
60
niên đại từ thế kỷ XVIII - XX, gồm: Sắc ngày mùng Mƣời tháng Mƣời hai năm
Vĩnh Khánh thứ 2 (1730), phong cho Liễu Hạnh Công chúa; sắc ngày mùng Tám
tháng Tám năm Cảnh Hƣng thứ 28 (1767), phong cho Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung
Duy Tiên Công chúa; sắc ngày Mƣời sáu tháng Năm niên hiệu Cảnh Hƣng thứ 44
(1783), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng Công chúa; sắc ngày Mƣời sáu tháng Năm
niên hiệu Cảnh Hƣng thứ 44 (1783), phong cho Quế Hoa Công chúa; sắc ngày
Mƣời sáu tháng Năm niên hiệu Cảnh Hƣng thứ 44 (1783), phong cho Duy Tiên
Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi mốt tháng Bảy năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), phong
cho Liễu Hạnh Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi mốt tháng Bảy năm Minh Mệnh thứ
2 (1821), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Hoa Công chúa; sắc ngày
Hai mƣơi tháng Năm năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), phong cho Liễu Hạnh Công chúa;
sắc ngày Hai mƣơi tháng Năm năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), phong cho Đệ tam Ngọc
nữ Quảng cung Quế Anh Phu nhân; sắc ngày Hai mƣơi bốn tháng Mƣời một năm
Tự Đức thứ 33 (1880), phong cho Liễu Hạnh Công chúa, Duy Tiên Phu nhân và
Quế Anh Phu nhân; sắc ngày mùng Một tháng Bảy năm Đồng Khánh thứ 2 (1886),
phong cho Liễu Hạnh Công chúa, Duy Tiên Phu nhân và Quế Anh Phu nhân; sắc
ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định thứ 2 (1917), phong cho Thân phụ Lê Đức
Chính; sắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định thứ 2 (1917), phong cho Thân
mẫu Trần Thị Phúc; sắc ngày Hai mƣơi nhăm tháng Bảy năm Khải Định thứ 9
(1924), phong cho Thân phụ Lê Đức Chính; sắc ngày Hai mƣơi nhăm tháng Bảy
năm Khải Định thứ 9 (1924), phong cho Thân mẫu Trần Thị Phúc.
Nhƣ vậy, điểm đặc biệt, là trong hệ thống sắc phong hiện còn tại phủ Tiên
Hƣơng, ngoài các sắc phong cho mẫu Đệ nhất Liễu Hạnh Công chúa, Đệ nhị Ngọc
nữ Quỳnh cung Duy Tiên Công chúa, Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Hoa Công
chúa, còn có những sắc phong cho thân phụ và thân mẫu của Mẫu Liễu Hạnh, đồng
thời giao trách nhiệm cho xã Tiên Hƣơng và họ Trần Lê cùng lo việc thờ tự vào
cuối thời Nguyễn.
Ngoài hệ thống bia ký, đại tự, câu đối, sắc phong kể trên, trong phủ Tiên
Hƣơng còn có một số văn khắc trên cấu kiện gỗ, chuông, đồ tế tự, con dấu và một
số mẫu công văn - sớ sách, khoa cúng…
61
Qua đối chiếu, so sánh, có thể nhận thấy, tại thời điểm kê khai vào cuối thế
kỷ XX (Bản kê thần sắc xã Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định), xã Tiên Hƣơng chỉ kê 13 đạo sắc do triều Nguyễn phong tặng, thuộc các
niên hiệu Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân,
trong khi tại di tích phủ Tiên Hƣơng ngày nay, số sắc còn có thể kiểm đếm đƣợc lại
phong phú đa dạng hơn nhiều. Ngoại trừ một số sắc đã đƣợc kê khai vào khoảng
cuối thế kỷ XX nhƣ đã kể trên (một số đã mất hoặc thất lạc), còn 05 đạo sắc thời Lê
Trung hƣng và 04 đạo sắc đƣợc phong dƣới thời Khải Định.
2.1.4.3. Tư liệu Hán Nôm tại lăng Mẫu Liễu Hạnh
Theo văn bia Sùng tu Thánh lăng bi ký, lăng Mẫu Liễu Hạnh, với kết cấu
hoàn toàn bằng đá, do đệ tử Hội Đào chi, đền Phổ Hóa, kinh đô Phú Xuân cùng với
đồng quan Trần Vũ Thực trùng tu năm Mậu Dần (1938) niên hiệu Bảo Đại, có bình
đồ vuông, với 5 vòng tƣờng bổ trụ vuông, trên trụ tạc hình bút sen. Trong khuôn
viên lăng còn có nhà bia và lầu thờ cô và cậu. Trên mỗi mặt của vòng tƣờng đều trổ
cửa ở chính giữa, hƣớng vào trung tâm - mộ phần hình bát giác. Trên các mặt trụ
khắc câu đối chữ Hán Nôm ca ngợi công lao, đức hạnh của Thánh Mẫu và tên
ngƣời cung tiến, tiêu biểu nhƣ:
生 化 卒 𠀧 番 貞 孝 𦎛 撩 沔 郡 北,
精 神 𠄼 𤾓 礼 英 靈 𩄴 𤎔 准 城 南.
Sinh hóa suốt ba phen, trinh hiếu gương treo miền quận Bắc,
Tinh thần năm trăm lẻ, anh linh bóng rạng chốn thành Nam.
色 色 空 空 仙 聖 佛,
生 生 化 化 孝 貞 慈.
Sắc sắc không không Tiên, Thánh, Phật,
Sinh sinh hóa hóa hiếu, trinh, từ.
Có có, không không, là Tiên, là Thánh, là Đức Phật,
Sinh sinh, hóa hóa, hiếu thuận, trung trinh lại từ bi.
慈 愛 一 心 人 孺 慕,
孝 貞 千 古 女 英 風.
62
Từ ái nhất tâm nhân nhụ mộ,
Hiếu trinh thiên cổ nữ anh phong.
Một lòng từ ái người ngưỡng mộ,
Ngàn năm trinh hiếu nữ phong lưu.
Ngoài ra, trong khuôn viên lăng còn có bia Sùng tu Thánh lăng bi ký, chữ
Nôm, khắc thơ giáng bút của Mẫu Liễu Hạnh giao phó và khen ngợi đệ tử Hội Đào
chi, đền Phổ Hóa, kinh đô Phú Xuân công đức sửa lăng và một bia khắc đôi câu đối
của đồng Quan Trần Vũ Thực nhân dịp khánh thành việc trùng tu lăng Mẫu:
母 儀 望 重 瑰 山 石,
子 育 恩 覃 渭 水 波.
Mẫu nghi vọng trọng Côi sơn thạch,
Tử dục ân đàm Vị thủy ba.
Ngưỡng vọng bậc Mẫu nghi đá núi Côi in dấu,
Đệ tử gội ơn sâu nước sông Vị dạt dào.
2.1.4.4. Tư liệu Hán Nôm tại nhà thờ họ Trần Lê
Kết quả khảo sát thực địa cho thấy, trong nhờ thờ họ Trần Lê hiện còn hàng
chục bộ hoành phi - câu đối, hệ thống bài vị, biển nghi trƣợng, 03 tập gia phả (Thƣ
lâu phả ký 書 樓 譜 記, ghi chép gia phả họ Lê ở xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ
Nghĩa Hƣng - Ông tổ dòng họ là Lê Quý Công, tự Phúc Tiên. Mẫu Liễu Hạnh thuộc
đời thứ 4. Sau khi Mẫu giáng sinh, họ này đổi sang họ Trần…; Trần Lê gia phả 陳
黎 家 譜, kế thừa nội dung “Thƣ lâu phả ký”, tiếp tục biên chép gia phả họ Lê xã
An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng…; Lê tộc lịch đại ngọc phả 黎 族 歷
代 玉 譜, tiếp tục kế thừa nội dung “Thƣ lâu phả ký”, “Trần Lê gia phả” biên chép
gia phả họ Lê ở xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng… Cuối phả có bài
ký “Tiên từ thắng ký” (Bài ký về ngôi đền thờ tiên), tức đền thờ Mẫu Liễu Hạnh...),
01 bia ký, 01 chuông đồng… có khắc chữ Hán Nôm gắn với lịch sử của phủ. Đặc
biệt là 07 đạo sắc phong mang niên đại trong khoảng nửa cuối thế kỷ XVII đến nửa
đầu thế kỷ XX, gồm: Sắc ngày Hai mƣơi bốn tháng Sáu nhuận năm Chính Hòa thứ
63
4 (1683)5, phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng Tề Gia Trị Quốc Hộ Sĩ Cẩn Tiết Hòa
Mỹ Đoan Trang Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi tám tháng Ba năm Cảnh Hƣng thứ
2 (1741), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi
hai tháng Ba năm Chiêu Thống nguyên niên (1786), phong cho Liễu Hạnh Mã
Vàng… Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi tám tháng Sáu năm Thiệu Trị Thứ 4 (1844),
phong cho Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân; sắc ngày Mƣời bảy
tháng Mƣời năm Tự Đức thứ 5 (1852), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung
Quế Anh Phu nhân; sắc ngày Mƣời một tháng Tám năm Duy Tân thứ 3 (1909),
phong cho Dực Bảo Trung Hƣng Đế Thích Tiên Đình Liễu Hạnh Công chúa
Thƣợng đẳng thần, Dực Bảo Trung Hƣng Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên
Phu nhân Trung đẳng thần, Dực Bảo Trung Hƣng Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung
Quế Anh Phu nhân Trung đẳng thần; sắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định
thứ 2 (1917), phong cho Đế Thích Tiên Đình Ngọc nữ Liễu Hạnh Công chúa.
5 Về sắc phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng Tề Gia Trị Quốc Hộ Sĩ Cẩn Tiết Hòa Mỹ Đoan Trang Công chúa 1683, hiện tạm đƣợc coi là “chân bản” khẳng định tƣ cách chính tự của Mẫu Liễu Hạnh tại phủ Giày. Một kết quả nghiên cứu đã đƣợc tác giả Chu Xuân Giao công bố trên Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số 5 (148). 2018, với nhan đề “Căn cước lịch sử của Thánh Mẫu: Phát hiện và luận giải đạo sắc phong cổ nhất mang niên đại 1683 cho Liễu Hạnh công chúa hiện còn nguyên tại phủ Giầy ở Nam Định” (Còn nữa). Tại thời điểm khảo sát đầu năm 2018, nghiên cứu sinh lần đầu có cơ hội tiếp xúc với nhóm tƣ liệu sắc phong gắn với Mẫu Liễu Hạnh tại nhà thờ họ Trần Lê, trong đó, có sắc phong đang đƣợc coi là mang niên đại 1683. Trong quá trình khảo sát đƣợc biết, nhóm nghiên cứu của tác giả Chu Xuân Giao cũng mới xuống đây khảo sát và tiếp xúc với nhóm tƣ liệu này cách đó ít hôm. Sau khảo sát, nghiên cứu sinh xử lý tài liệu, khảo cứu độc lập. Đến tháng 6/2018, nghiên cứu sinh cơ bản đã xử lý và dịch xong tƣ liệu Hán Nôm tại nhà thờ Trần Lê và chuyển giao toàn bộ file cho Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, đồng thời, tập hợp thành một quyển mang tựa đề, Sắc phong, gia phả nhà thờ dòng họ Trần Lê (thôn Tiên Hương, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định), gồm các tập: Phả ký lầu sách (Thư lâu phả ký), Gia phả họ Trần Lê (Trần Lê gia phả), Ngọc phả các đời họ Lê (Lê tộc lịch đại ngọc phả), Tiên từ thắng ký (Truyện ngôi đền thờ tiên), Đơn gửi Ngài Công sứ Nam Định và Tiên từ phả ký (Truyện ngôi đền thờ tiên - GS. Kiều Thu Hoạch dịch), tổng cộng 171 trang, gồm phần dịch nghĩa và ảnh chụp nguyên văn gửi về phủ Tiên Hƣơng và nhà thờ dòng họ Trần Lê, bởi khi chúng tôi khảo sát, thủ từ phủ Tiên Hƣơng và các cụ có trách, các đoàn từ Trung ƣơng tới địa phƣơng cứ đến nghiên cứu, xong rồi đi, sau chúng tôi chẳng biết gì về tƣ liệu cả. Từ thời điểm xử lý tƣ liệu, đối với đạo sắc đang bàn, với tình trạng rách nát, dòng niên đại gần nhƣ bị mất hết. Qua các thao tác xử lý, nghiên cứu sinh chú thích rõ: “Sắc bị tàn khuyết, mất nhiều chữ. Tại dòng ghi niên đại, phía trên mất 2.5 chữ (trong đó, 2 chữ trên ghi niên hiệu; 0.5 chữ mất (ở dưới) hợp với 0.5 chữ còn lại là chỉ số ghi năm của niên hiệu). Căn cứ đặc điểm hoa văn, văn tự, thông lệ về các thời điểm phong sắc trong lịch sử, cùng tư liệu khảo sát điền dã tại di tích, chúng tôi đoán định, sắc này mang niên đại: Chính Hòa tứ niên nhuận lục nguyệt nhị thập tứ nhật (ngày 24 tháng 6 nhuận năm Chính Hòa thứ tư)”. Qua đây, để cùng thấy rằng, phát hiện và nghiên cứu của nghiên cứu sinh và tác giả Chu Xuân Giao là hoàn toàn mang tính độc lập. Lý do, nghiên cứu sinh mới chỉ coi niên đại này là kết quả đoán định, bởi vẫn tồn tại nghi vấn: Lòng sắc có hiện tƣợng chép thừa chữ “Tinh” - Cụm từ “Chƣởng quản Sơn tinh bộ” bị chép thành “Chƣởng quản Sơn tinh tinh bộ” khiến nội dung trở nên tối nghĩa. Nội dung chú thích này cũng đƣợc giữ nguyên khi xuất bản Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua Tư liệu Hán Nôm - Xem thêm: [51, tr. 356- 357].
Ngoài hệ thống bia ký, đại tự, câu đối, sắc phong kể trên, trong phủ còn có
64
một số văn khắc trên cấu kiện gỗ, chuông, đồ tế tự, con dấu và một số mẫu công
văn - sớ sách, khoa cúng, đơn thƣ liên quan đến việc kiện tụng về tranh chấp phủ
vào cuối thờ Nguyễn cho đến gần đây…
2.1.4.5. Tư liệu Hán Nôm tại đền Cây Đa Bóng (Nguyệt Du từ/cung)
Theo truyền thuyết dân gian và văn bia tại đền: Nguyệt Du từ bi ký 月 遊 詞
碑 記 - Bia đền Nguyệt Du và Nguyệt Du Cung từ bi ký 月 遊 宮 詞 碑 記 - Bia đền
Nguyệt Du Cung, khắc năm Bảo Đại 4 (1929), đền này khởi dựng từ thời Lê, đƣợc
trùng tu dƣới thời Thành Thái (1889 - 1906). Tuy nhiên, kiến trúc đền hiện nay chủ
yếu là kết quả trùng tu của các năm 1980, 2000 và 2012. Về tƣ liệu Hán Nôm tại
đền, ngoài 2 văn bia kể trên, còn tấm bia Tiên Hƣơng Thái Linh từ bi ký 仙 鄉 泰
靈 祠 碑 記 - Bia đền Thái Linh ở Tiên Hƣơng, khắc năm Bảo Đại thứ 10, ghi việc
dựng đền dƣới sự hƣng công của ngƣời họ Trần. Ngoài ra, trong đền còn hàng chục
bộ hoành phi câu đối sơn son thếp vàng và một số câu đối nhấn vữa trên cột nghi
môn, một số văn khắc trên cấu kiện gỗ, chuông, đồ tế tự, con dấu và một số mẫu
công văn - sớ sách, khoa cúng…, chủ yếu là sản phẩm đƣợc làm gần đây.
2.2. Hƣớng tiếp cận nội dung tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu
Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ theo loại hình văn bản
Qua khảo sát, thống kê, phân tích, bƣớc đầu đã sơ bộ phân loại tƣ liệu Hán
Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ theo
loại hình nhƣ đã đề cập sơ bộ mở mục trên. Theo đó, tƣơng ứng với tập hợp các văn
bản đƣợc in hoặc viết trên giấy, cơ bản có thể phân thành các nhóm sau: Giáng bút
(kinh giáng bút và thơ văn giáng bút), phả lục, thần tích, văn chầu, thần sắc, công
văn, linh thiêm/tiêm, khoa nghi, các loại hình khác và khảo cứu. Với văn khắc, có
thể phân thành các nhóm: đại tự, câu đối, bia ký, minh chuông, ván khắc (in kinh
sách), ấn triện (con dấu) đang bảo quản tại ở di tích. Đƣơng nhiên, cách phân loại
này cũng chỉ mang tính chất tƣơng đối. Xin đơn cử một vài dẫn dụ cụ thể: Hệ hống
giáng bút còn lại trên giấy, chủ yếu là tác phẩm đƣợc khắc in, theo đó, về nội dung
văn bản, đƣơng nhiên, bản in không có sự sai lạc so với ván khắc, hoặc cũng có thể
xếp văn bia Sùng tu thánh lăng bi ký tại lăng Mẫu Liễu Hạnh vào loại giáng bút, bởi
65
nội dung này đƣợc cho là lời giáng bút của Mẫu Liễu Hạnh, do các đệ tử khắc lại
trên bia đá (Theo nội dung văn bia). Tƣơng tự, theo cách hiểu đơn thuần, cũng có
thể tạm xếp Cát thiên tam thế thực lục vào loại hình giáng bút hoặc thần tích, bởi
nội dung chính đƣợc khắc - in trong sách này đƣợc cho là tập hợp văn giáng bút của
Mẫu Liễu Hạnh, cùng ấn chứng/bút phê của Trần Hƣng Đạo, Nguyễn Bỉnh
Khiêm… xác thực lại sự tích của Mẫu Liễu Hạnh, đƣợc các đệ tử ghi chép, biên tập
lại, chế bản in thành sách (Theo nội dung sách).
Điều quan trọng nhất là mọi hƣớng tiếp cận nội dung tƣ liệu Hán Nôm nói
chung, tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ nói riêng, trƣớc hết cần phải giải quyết những vấn đề về văn bản học
nhằm tái tạo lại nguyên bản, đồng thời, chỉ ra đƣợc quá trình định bản và truyền
bản, cũng nhƣ cốt lõi lịch sử và yếu tố thần kỳ... Theo đó, nhiệm vụ chính của các
thao tác là tập hợp phân tích, so sánh văn bản, bóc tách sự kiện lịch sử để phục
nguyên văn bản…, tạo cơ sở cho các bƣớc nghiên cứu tiếp theo.
2.2.1. Nhóm tư liệu Hán Nôm trên giấy
2.2.1.1. Nhóm tư liệu giáng bút
Trong bối cảnh lịch sử - xã hội cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, năm 1858,
quân viễn chinh Pháp và Tây Ban Nha đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng khởi đầu
cho công cuộc xâm lƣợc Việt Nam. Đến ngày 6/6/1884, hòa ƣớc Pa - tơ - nốt đƣợc
ký kết giữa triều đình Huế và thực dân Pháp, tạo bƣớc ngặt cho việc xác lập quyền
đô hộ của Pháp ở Việt Nam, chia nƣớc ta thành ba miền, với ba chế độ khác nhau.
Sau hòa ƣớc này, vai trò thống trị của triều đình Nguyễn đƣợc xem nhƣ đã hoàn
toàn sụp đổ, hệ tƣ tƣởng Nho giáo dần mất vị trí và vai trò dẫn dắt xã hội, văn hóa
dân tộc bƣớc vào thời kỳ “mƣa Á - gió Âu”. Đó là một trong những nguyên do cơ
bản khiến đội ngũ trí thức Nho học quay lại với văn hóa tín ngƣỡng bản địa nhằm
truyền bá tƣ tƣởng, chủ nghĩa yêu nƣớc và giải phóng tinh thần… Sự hƣng thịnh
của phong trào thiện đàn trong khoảng cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX ở nhiều
tỉnh thành trong nƣớc nhƣ: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dƣơng, Nam Định, Vĩnh Yên…
là minh chứng cụ thể.
Có thể tạm hiểu, thiện đàn là tổ chức dựa vào hoạt động tôn giáo, tín
66
ngƣỡng, dựa vào sự bảo trợ của các vị thần, tiên, phật, thánh nhằm hƣớng tín đồ bỏ
điều ác, làm điều lành, cảnh giới, răn dè con ngƣời về đƣờng phúc họa, nhất quán
với niềm tin ở hiền thì gặp lành, gieo ác thì gặp ác…
Hình thức tuyên truyền chủ yếu của thiện đàn là hoạt động giáng bút, thông
qua các nghi lễ “cầu kinh giáng bút” ở các chùa, miếu, đền, phủ, quán... Thông
thƣờng, mỗi tác phẩm giáng bút, đều đƣợc gán cho đích danh một vị thần, tiên,
phật, thánh cụ thể, thậm chí còn có các vị khác tham gia ấn chức/xác thực, nhƣ
trƣờng hợp Cát thiên tam thế thực lục, đƣợc cho là của Mẫu Liễu Hạnh, có “bút
phê” của Trần Hƣng Đạo, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Theo đó, dƣới tƣ duy tôn giáo tôn
giáo, tín ngƣỡng, các tín đồ sẽ quan niệm, kinh văn giáng bút là những tác phẩm do
các bậc thần, tiên, phật, thánh ban giáng nhằm răn dạy, cảnh giới tín đồ hƣớng theo
chính đạo, ngƣời “cầu kinh giáng bút” chỉ giữ vai trò là cầu nối truyền tải lời của
thần, tiên, phật, thánh xuống nhân gian. Chủ thể sáng tạo kinh giáng bút có thể
thuộc hệ thần Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo, Thánh Mẫu, các vị thần, Thành hoàng
và một số nhân vật lịch sử. Tuy nhiên, dƣới góc độ khoa học thực chứng thì kinh
văn giáng bút thực chất là văn thơ ứng tác của những ngƣời “cầu kinh giáng bút”
qua quá trình thực hành văn hóa tôn giáo, tín ngƣỡng. Chính họ mới thực sự là chủ
thể sáng tạo, dựa vào sự bảo trợ của các vị thần, tiên, phật, thánh dể tuyên truyền và
thể hiện tƣ tƣởng của chính họ.
Với nhóm kinh văn giáng bút thuộc tín ngƣỡng thờ Mẫu, đa số đều đƣợc gán
cho là giáng bút của chƣ vị Thánh Mẫu hoặc các Chúa bà, Công chúa… Qua một số
đặc trƣng cơ bản của kinh văn giáng bút, có thể thấy rằng, ít nhất sẽ có hai hƣớng
tiếp cận nhóm tƣ liệu giáng bút, đó là hƣớng tiếp cận từ góc độ văn hóa tôn giáo, tín
ngƣỡng, coi kinh văn giáng bút là lời giáng của thần linh; và, hƣớng tiếp cận dƣới
góc độ khoa học thực chứng, coi kinh văn giáng bút thuộc thể loại ứng tác tâm linh
của con ngƣời. Tuy nhiên, cho dù tiếp cận theo hƣớng nào thì cũng cần thống nhất
về nhận thức, đó là: kinh văn giáng bút từng giữa vai trò là một phƣơng thức truyền
bá chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa yêu nƣớc, liên kết tinh thần củng cố khối đại
đoàn kết xã hội, đồng thời là phƣơng tiện truyền tải tƣ tƣởng của một số tôn giáo,
tín ngƣỡng qua hoạt động tâm linh ở nƣớc ta, nhằm mục đích hƣớng con ngƣời theo
67
chính đạo, bỏ điều ác, làm điều lành, cảnh giới, răn dè con ngƣời về đƣờng phúc
họa, nhất quán về niềm tin vào lẽ sống ở hiền thì gặp lành, gieo ác thì gặp ác…
2.2.1.2. Nhóm tư liệu phả lục
Về sự tích của các vị thần, qua truyền miệng dân gian và nội dung văn bản
đƣợc định bản trong thần tích, phả lục, khó có thể phủ nhận sự tƣơng đồng về nội
dung cơ bản của ba hình thức tuyền tải này. Vì thế mà có quan điểm xếp thần tích
vào nhóm phả lục hoặc coi phả lục cũng là thần tích. Tuy nhiên, khi xem xét cơ chế
sáng tạo và truyền miệng của thần tích trong dân gian, một đặc điểm dễ nhận thấy,
đó là tính thống nhất trong đa dạng (nhiều dị bản) của thần tích. Qua quá trình lƣu
truyền dƣới hình thức truyền miệng, nội dung thần tích vẫn luôn đƣợc bồi đắp,
chỉnh lý theo ý thức chủ quan của ngƣời kể hoặc kê khai. Điều này có nghĩa là
truyền thuyết dân gian đƣợc lƣu truyền dƣới hình thức truyền miệng luôn ở trong
quá trình định bản, tức là vẫn ở trong quá trình sáng tác, hoàn thiện, bổ sung. Trong
khí đó, sau khi thần tích đƣợc định bản dƣới hình thức chép tay hoặc in khắc, văn
bản sẽ bƣớc vào thời kỳ tƣơng đối ổn định, từ cấu trúc, nội dung đến chi tiết. Có lẽ,
xuất phát từ chính nhu cầu định bản, kê khai, lƣu giữ lâu dài… mà các thần tích vốn
đƣợc truyền miệng dần đƣợc văn bản hóa và đƣợc định danh thể loại là phả lục…
Nhƣ vậy, trong một chừng mực nào đó, phả lục (ghi chép thần phả về các vị
thần) đã định bản thần tích tại một thời điểm cụ thể, nhƣng một đặc trƣng đáng
đƣợc quan tâm, là việc thờ thần của ngƣời Việt, cơ bản đƣợc khu biệt trên nguyên
lý mà dân gian đã tổng kết: Trống làng nào làng ấy đánh/Thánh làng nào làng ấy
thờ. Theo đó, nội dung thần tích về vị thần đƣợc cộng đồng đang tôn thờ, trƣớc hết
phải đƣợc cộng đồng làng xã đó xác lập, thừa nhận, trao truyền trong phạm vi
những ngƣời liên quan thuộc cộng đồng để đảm bảo tính thiêng. Trong nhiều trƣờng
hợp, do tác động của điều kiện lịch sử - xã hội, nhƣ hiện tƣợng chuyển đổi tâm thức
văn hóa tín ngƣỡng diễn ra trong cộng đồng làng xã, có thể dẫn đến hiện tƣợng
cộng đồng làng xã thay việc phụng thờ một vị thần cũ bằng một vị thần mới, hoặc
phối thờ, hoặc hợp tự, khiến cho thần tích của vị thần cũ ít đƣợc quan tâm, bị phai
nhạt dần trong tâm thức cộng đồng. Khi đó, thần tích có thể bị giải thể chức năng
gốc, tức giải thể tính thiêng và trở thành một sáng tác văn học truyền miệng mang
68
yếu tố thần kỳ lƣu truyền trong dân gian…
Trong khoảng thế kỷ XIX - XX, một số thần tích đƣợc san khắc vào phục vụ
mục đích truyền bá văn hóa tôn giáo, tín ngƣỡng đƣợc coi là một hiện tƣợng văn
hóa đặc biệt ở nƣớc ta, giúp cho thần tích của một số vị thần vốn đã có chỗ đứng
trong dân gian đƣợc nhất quán về nội dung, đƣợc phổ biến rộng và nhanh hơn,
nhƣng cũng làm hạn chế phần nào đặc trƣng “đa dị bản” của hình thức truyền
miệng mà trƣờng hợp phả lục về Mẫu Liễu Hạnh (Vân Cát thần nữ lục, chép trong
Truyền kỳ tân phả, đƣợc cho là của Đoàn Thị Điểm) là một ví dụ điền hình, để sau
đó, trên nền cốt truyện này, hàng loạt làng xã có tục thờ Mẫu Liễu Hạnh đã sao y
hoặc thêm bớt một số chi tiết để định bản thần tích về Mẫu cho cộng đồng làng xã
mình, tạo tiền đề cơ sở cho việc xác lập ngôi chính tự (hợp thức hóa) trong việc
phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh…
Đến nay, hầu hết các công trình nghiên cứu về sự tích Mẫu Liễu Hạnh đều ít
nhiều đề cập đến “Vân Cát thần nữ lục” và coi đây là một bản nền để so sánh, quy
chiếu với các bản phả lục, thần tích và các tƣ liệu khác có liên quan bởi tính chân xác
về niên đại định bản (Lạc Thiện đƣờng tàng bản, khắc năm Gia Long thập niên - 1811)
[249]. Trong luận án này, việc lặp lại các thao tác nghiên cứu kể trên khi tìm hiểu về sự
tích Mẫu Liễu Hạnh cũng đƣợc nghiên cứu sinh hết sức chú trọng. Bên cạnh đó, vấn đề
khảo chứng, phân tích một số chi tiết nội dung truyện và đặt chúng trong bối cảnh lịch
sử, không gian văn hóa liên quan cũng đƣợc tiến hành, nhằm góp phần tách bạch các
lớp chồng lịch sử - văn hóa trong Vân Cát thần nữ lục và tục thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ
Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.
2.2.1.3. Nhóm tư liệu thần tích
Theo phân tích ở trên, nghiên cứu sinh đã đề cập tới một đặc điểm mang tính
nguyên lý về tục thờ thần trong cộng đồng làng xã Việt xƣa đƣợc dân gian xác lập:
Trống làng nào làng ấy đánh/Thánh làng nào làng ấy thờ. Theo đó, nội dung thần tích
về vị thần đƣợc một cộng đồng đang tôn thờ, trƣớc hết phải đƣợc cộng đồng làng xã
ấy xác lập, thừa nhận, trao truyền trong phạm vi những ngƣời liên quan thuộc cộng
đồng để đảm bảo tính thiêng. Chiểu theo nguyên lý này, việc tiếp cận thần tích về
Mẫu Liễu Hạnh của các cộng đồng làng xã có liên quan cần thừa nhận “tính dị bản”
69
nhƣ một tồn tại lịch sử. Mọi dẫn dụ hoặc kết luận đƣợc rút ra đều phải dựa trên sự
tham chiếu với tƣ liệu lịch sử và bối cảnh lịch sử - văn hóa đƣơng thời…
2.2.1.4. Nhóm tư liệu văn chầu
Qua khảo sát sơ bộ, nguyên văn các bản văn chầu thƣờng đƣợc viết bằng chữ
Nôm - văn vần, thể song thất lục bát. Văn chầu thƣờng đƣợc trình diễn cùng âm
nhạc và vũ đạo, với nội dung chủ yếu nhằm thỉnh mời chƣ thần giáng đàn chứng
lễ... Với đặc trƣng là một hình thức diễn xƣớng dân gian phục vụ tín ngƣỡng, lƣu
truyền qua hình thức truyền khẩu nên ban đầu, lời các bản văn chầu cũng mang tính
ứng tác rất cao. Trong dân gian vẫn lƣu truyền thuật ngữ 36 giá chầu văn, tức 36
bản văn của 36 giá, nhƣng trong thực tế, đây chỉ là con số ƣớc lệ.
Riêng với tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, Tiên thánh văn tập 仙 聖
文 集 - Tập văn chầu tiên thánh, ghi nhận số bài văn chầu cổ nhiều nhất, với 43 bài
[245]. Trong khi các tập văn chầu khác lại có số lƣợng khiêm tốn hơn, nhƣ Chư vị
văn chầu 諸 位 文 朝 - văn chầu các vị, ký hiệu Thƣ viện Hán Nôm AB.517, tập hợp
24 bản văn…
Qua nội dung văn chầu, có thể nhận diện đƣợc phần nào về vũ trụ quan tôn
giáo - tín ngƣỡng dân gian và hệ thần trong Tứ phủ, dung nhan, đức hạnh, tài năng,
công đức… của vị thần đƣợc dâng văn. Mặt khác, khi liên hệ rộng hơn, một giả
thiết để làm việc đƣợc đặt ra là: Văn chầu hay chầu văn là một thể văn bắt nguồn từ
văn tán, đƣợc định hình khá sớm, hiện vẫn còn thịnh hành trong nhiều khoa cúng
gắn với tôn giáo, tín ngƣỡng ở nƣớc ta… Tuy nhiên, nhƣ đã nói ở trên, văn chầu
thƣờng đƣợc trình diễn cùng âm nhạc và vũ đạo theo thể cách và bài bản riêng. Đây
là một đặc điểm cần hết sức chú ý khi khai thác nguồn tƣ liệu này.
2.2.1.5. Nhóm tư liệu thần sắc
Có thể tạm hiểu, thần sắc là một dạng văn bản hành chính của triều đình
phong cho thần, xác nhận tƣ cách chính thần (ghi trong Tự điển) đƣợc phép thờ tự.
Theo lý, đây là một trong những nguồn tƣ liệu đáng tin cậy trong việc xác thực
truyền thống và lịch sử thờ thần của các cộng đồng làng xã liên quan.
Với tục thờ Mẫu Liễu Hạnh tại khu vực phủ Giày, những vấn đề khái quát
chung nhất về tƣ liệu sắc phong đã đƣợc đề cập ở trên. Tuy nhiên, vì tính phức tạp
70
của nguồn tƣ liệu kê khai, sao lục, trong mục này, nghiên cứu sinh sẽ phân tích một
số điểm tồn nghi để làm rõ mức độ tin cậy, tính xác thực của nguồn tƣ liệu thần sắc
đƣợc kê khai, sao lục…
Kết quả khảo sát cho thấy, theo niên đại ghi trên sắc (kể cả sắc gốc và sắc sao
trên giấy gió dưới dạng tệp tài liệu), Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày đƣợc triều đình phong
sắc lần đầu vào ngày mùng Ba tháng Bảy năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642) - Nam Định
tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã thần sắc 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各 社
敕), mục Thần sắc xã Vân Cát Thƣ viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A16/
29 [177]. Tuy nhiên, nếu chỉ xét về niên đại, đã thấy một số thông tin không đảm bảo
tính chân xác lịch sử, thậm chí, có sắc đƣợc phong trƣớc cả thời điểm vua lên ngôi. Dƣới
đây là một số phân tích cụ thể với Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã
thần sắc 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各 社 敕), mục Thần sắc xã Vân Cát Thƣ viện
Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A16/ 29:
- Với bản sao sắc phong cho Đế Thích Tiên Đình Dựng Tú Phƣơng Phi
Quyền Cai Lục Cung Tần Nƣơng Biến Hiện Vô Cùng Duệ Trí Anh Linh Kiêm
Tri Sơn Lâm Bộ, hiệu viết Mã Hoàng Tề Gia Trị Quốc Hộ Sĩ Cẩn Tiết Hòa Mỹ [Trang Đoan]6 Quang Mục Nhân Minh Thuần Mỹ Công chúa, niên hiệu Vĩnh
Thịnh nguyên niên nhị nguyệt thập lục nhật (ngày Mƣời sáu tháng Hai năm Vĩnh
Thịnh nguyên niên - 1705) - Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục:
Tháng Tƣ năm Ất Dậu (1705), Lê Dụ Tông mới chính thức lên ngôi, đặt niên hiệu
Vĩnh Thịnh. Nhƣ vậy, năm Vĩnh Thịnh nguyên niên bắt đầu từ tháng Tƣ, không có
tháng Giêng, Hai, Ba. Theo đó, tính xác thực về niên đại của sắc này cần đặt trong
sự tồn nghi?
- Với bản sao sắc phong cho Đế Thích Tiên Đình Dựng Tú Phƣơng Phi
Quyền Cai Lục Cung Tần Nƣơng Biến Hiện Vô Cùng Kiêm Tri Sơn Lâm Chƣởng
Quản Sơn Tinh Bộ, hiệu viết Liễu Hạnh Mã Hoàng Tề Gia Trị Quốc Hộ Sĩ Cẩn Tiết
Hòa Mỹ Đoan Trang Quang Mục Nhân Minh Thuần Mỹ Nhàn Tĩnh Trinh Nhất
6 Có lẽ, viết nhầm chữ “Đoan Trang” thành “Trang Đoan”.
Diệu Hóa Đoan Dung Đạt Hạnh Diệu Thông Mẫn Cảm Phổ Tế Chân Tiên Công
71
chúa, niên đại Cảnh Hƣng nguyên niên chính nguyệt nhị thập thất nhật (ngày Hai
mƣơi bảy tháng Giêng năm Cảnh Hƣng nguyên niên - 1740) - Cũng theo Khâm
định Việt sử thông giám cương mục: Tháng Năm năm Canh Thân (1740), Lê Hiển
Tông lên ngôi, đặt niên hiệu Cảnh Hƣng. Nhƣ vậy, năm Cảnh Hƣng nguyên niên
bắt đầu từ tháng Năm, không có các tháng: Giêng, Hai, Ba, Tƣ… Theo đó, tính xác
thực về niên đại của sắc này cũng cần đặt trong sự tồn nghi?
Qua phân tích nôi dung, có thể khai quát cấu trúc cơ bản về nội dung một
lòng sắc trƣớc thời Nguyễn (1802) nhƣ sau: Sắc/Tên thần và thần hiệu nguyên đƣợc
phong tặng/bao phong (khen ngợi công đức, phong tặng hoặc gia phong)/Niên đại
phong sắc. Thông thƣờng, các sắc trƣớc thời Nguyễn (1802) phong cho thần, không
đề cập đến nghĩa vụ thờ thần thuộc về cộng đồng nào, ở phần phong tặng hoặc gia
phong, tên thần và thần hiệu đƣợc nối thêm các mỹ tự đƣợc phong. Theo thời gian,
tên thần và thần hiệu liên tục đƣợc nối dài và bảo lƣu tên thần và thần hiệu của các
lần phong trƣớc. Chiểu theo nguyên lý này, có thể nhận ra chi tiết bất hợp lý trong
nội dung của bản sao sắc phong cho Đế Thích Tiên Đình Dựng Tú Phƣơng Phi
Quyền Cai Lục Cung Tần Nƣơng Biến Hiện Vô Cùng Duệ Trí Anh Linh Kiêm Tri
Sơn Lâm Chƣởng Quản Sơn Tinh Bát Bộ, hiệu viết Mã Hoàng Công chúa, Tề Gia
Trị Quốc Hộ Sĩ Cẩn Tiết Hòa Mỹ Đoan Trang Quang Mục Nhân Minh Uyển Mỹ
Công chúa, phong ngày mùng Ba tháng Bảy năm Dƣơng Hòa thứ 8 - 1642, khi lòng
sắc ghi: Giao nhiệm vụ cho thôn An Thái, Vân Cát, xã Đồng Đội, huyện Thiên Bản,
phủ Nghĩa Hƣng, đạo Sơn Nam đƣợc phụng thờ theo nhƣ lệ cũ hay sắc phong cho
Đế Thích Tiên Đình Liễu Hạnh Công chúa, phong ngày Mƣời tám tháng Tƣ năm
Cảnh Trị thứ 8 - 1670, khi lòng sắc “cố ý” xác nhận Liễu Hạnh Công chúa là thần
tiên trên thƣợng giới, là Thánh Mẫu trong nhân gian, sinh ra ở làng Vân Cát…
Đặc biệt, qua thần tích và phả ký về Mẫu Liễu Hạnh, hầu hết các bản đều ghi
nhận Thánh Mẫu Liễu Hạnh từng đƣợc gia phong “Chế Thắng Hòa Diệu Đại vƣơng”
hoặc “Hòa Diệu Chế Thắng Đại vƣơng”. Tuy nhiên, trên thực tế, những mỹ tự này chỉ
xuất hiện trên sắc phong cho Mẫu Liễu Hạnh tại đền Bà Kiệu (Thiên Tiên điện, hiện
còn bản gốc), quận Hoàn Kiếm, Hà Nội và một sắc khác (bản gốc) thuộc niên hiệu
Cảnh Hƣng cũng phong cho Thánh Mẫu Liễu Hạnh, hiện đang nằm trong sƣu tập của
72
Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam mà không thấy xuất hiện trên các sắc gốc hiện còn lƣu tại
khu vực phủ Giày. Qua đây, cần hiểu thêm rằng, tôn hiệu Đại vƣơng đi kèm thần hiệu
thƣờng giành cho các dƣơng/nam thần (đƣợc thần tích mô tả hiển thị dƣới dạng nam
nhân), còn tôn hiệu Công chúa đi kèm thần hiệu thƣờng giành cho các âm/nữ thần
(đƣợc thần tích mô tả hiển thị dƣới dạng nữ nhân). Nhƣ vậy, có thể tạm hiểu, Đại
vƣơng và Công chúa… là tƣớc/tôn hiệu thần đƣợc phong chứ không nhất thiết vị thần
đƣợc phong tƣớc/tôn hiệu Đại vƣơng hoặc Công chúa vốn xuất thân từ dòng hoàng tộc
nhƣ dân gian thƣờng hiểu. Và, việc Thánh Mẫu Liễu Hạnh (thần tích mô tả hiển thị
dƣới dạng nữ nhân) đƣợc phong tƣớc Đại vƣơng đƣợc coi nhƣ là một trƣờng hợp ngoại
lệ. Trong thực tế, nghiên cứu sinh cũng đã bắt gặp nhiều công thần thời Lê vốn không
thuộc dòng hoàng tộc đƣợc phong tƣớc vƣơng. Nhận thức này càng đƣợc củng cố phần
nào, khi Hiến tổ Chƣơng hoàng đế, năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) quy định:
Các thần hiệu trong cả nƣớc, hoặc đã phong, gián hoặc có những chữ viết là
Đại vƣơng, Thánh phi, Công chúa và công hầu quý phủ, trừ ngoài ra một vị
Liễu Hạnh Công chúa đã phụng thánh chỉ vẫn cho để hiệu cũ và đế vƣơng,
thân phiên các đời trƣớc nguyên có tƣớc hiệu, đều theo nhƣ cũ mà viết vào.
Còn thì đều chiểu tùy văn nghĩa đổi những chữ làm Tôn thần, Chi thần, Phủ
quân, Phu nhân để chính tên gọi [2].
2.2.1.6. Nhóm tư liệu công văn - sớ sách - khoa nghi
Trong sinh hoạt tôn giáo, tín ngƣỡng, công văn là một dạng văn bản ghi lời
khẩn cầu của tín đồ gửi đến thần (qua hóa/đốt) thông qua các nghi thức hành lễ.
Nhƣ vậy, xét về chức năng, công văn trong nghi lễ tôn giáo, tín ngƣỡng (bao gồm
sớ, điệp, cáo, biểu, tấu, khoa nghi…) không khác nhiều so với công văn hành chính.
Do bị quy định chặt chẽ về thể thức nên công văn - sớ sách - khoa nghi thƣờng
đƣợc soạn theo mẫu thức nhất định, vì thế mà tính ổn định về mặt văn bản rất cao.
Qua nhóm tƣ liệu này, có thể hình dung đƣợc phần nào về tính dung hội văn hóa,
nội dung, bài bản của từng khóa lễ, đặc biệt là vũ trụ quan tôn giáo - tín ngƣỡng,
tâm thức văn hóa của cộng đồng qua hoạt động tôn giáo, tín ngƣỡng.
2.2.1.7. Nhóm tư liệu linh thiêm/tiêm (quẻ bói)
Trƣớc đây, xóc thẻ, rút thẻ, xem thẻ là một trong những hoạt động tín ngƣỡng
73
khá phổ biến trong các đền, chùa, miếu, quán… ở nƣớc ta. Về hình thức, thiêm/tiêm
籤 là cái thẻ, trên khắc hoặc viết chữ (lời quẻ) đƣợc gán cho là của thánh thần nên
đƣợc gọi là linh thiêm - Lời thiêm/tiêm là lời của các vị tiên thánh mƣợn những kẻ
phàm để bày tỏ cho chúng sinh kính sợ mà tụng niệm tu hành. Dân gian thƣờng gọi
thẻ thiêm là thẻ xăm, rút thẻ thiêm là rút thẻ xăm hoặc rút xăm, xem thẻ… Số lƣợng
thẻ trong một bộ thiêm tùy thuộc theo từng loại. Trong các đền phủ thờ mẫu, tục rút
thẻ trƣớc đây cũng rất thịnh hành. Hiện nay, tại nhà thờ họ trần Lê (làng Tiên Hƣơng,
xã Kinh Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) và đền Bắc Lệ cũng còn thẻ thiêm (北
例 公 同 靈 祠 靈 籤 Bắc Lệ Công đồng linh từ linh thiêm) [45, tr. 13]. Bộ thiêm liên
quan tới Thánh Mẫu, hiện còn tƣơng đối đầy đủ và nguyên vẹn, gồm 23 quẻ thƣợng
(tốt), 18 quẻ trung (vừa) và 9 quả hạ (xấu). Nội dung 1 quẻ thƣờng gồm 12 mục (mỗi
mục là một bài thơ tứ tuyệt): 1). Tổng đoán (lời đoán chung), 2). Tự thân (bản thân),
3). Gia trạch (nhà cửa, đất đai), 4). Phong thủy (Phong thủy, đất cát đặt mồ mả…), 5).
Cầu mƣu (Toan tính, dự định), 6). Hôn nhân (Cƣới hỏi), 7). Lục giáp (Thai sản, sinh
nở), 8). Xuất hành (Xuất hành, đi xa), 9). Hành nhân (Ngƣời đi xa), 10). Thất vật (Mất của), 11). Quan sự (Việc quan, kiện tụng…), 12). Bệnh hoạn (Đau ốm, bệnh tật)
[45, tr. 11 - 12]. Qua hình thức tổ chức tổng quẻ, một điều thú vị là khi rút bất kỳ 1
trong số 50 quẻ, sắc xuất rút phải quẻ xấu rất nhỏ, chỉ chiếm tỉ lệ 9/50, trong khi đó,
sắc xuất rút đƣợc quẻ tốt là 23/50 và sắc xuất rút đƣợc quẻ vừa là 18/50. Theo đó, tỉ
lệ ngƣời cảm thấy hài lòng sau khi rút thẻ cũng nằm trong một tỉ lệ tƣơng ứng… Phải
chăng, đây là một chế định cần thiết nhằm đảm bảo để số đông tín đồ rút thẻ sẽ cảm
thấy yên tâm và tin rằng, dƣới sự bảo trợ, phù hộ của Thánh Mẫu, có nhiều điềm tốt
đến với tín đồ?
2.2.1.8. Nhóm tư liệu thuộc các loại hình khác
Về cơ bản, nhóm tƣ liệu thuộc các loại hình khác, gồm địa chí, địa bạ, gia
phả, ghi chép về tục lệ, truyện - ký lục, câu đối, thơ văn, ngâm vịnh, tạp ký… liên
quan đến tục thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đều thuộc
nhón tài liệu hỗn hợp, có tác dụng là nguồn tƣ liệu đối sánh, bổ sung cho các nhóm
tƣ liệu trên giấy đã đƣợc tới ở trên. Dƣới góc tiếp cận lịch sử - văn hóa, địa chí, địa
bạ, gia phả, ghi chép về tục lệ phản ánh khá toàn diện về đời sống vật chất, tinh thần
74
của cồng đồng dân cƣ trong một phạm vi nhất định. Đơn cử, qua gia phả (gia phả họ
Lê - Vân Cát/Vân Cát Lê gia ngọc phả và gia phả họ Trần Lê - Tiên Hƣơng), chúng
ta nhƣ thấy đƣợc quá trình nhân hóa thần linh, “thần thánh hóa” con ngƣời và địa
phƣơng hóa hệ thần thần đƣợc thờ phụng tƣơng đối điển hình trong xu thế phát triển
chung của tục thờ thần ở các cộng đồng làng xã Việt dù trong lịch sử, Vân Cát và
Tiên Hƣơng có thời kỳ cùng chung một xã, thờ chung thần (Tam vị/Tam tòa Thánh
Mẫu) nhƣng sau khi biệt xã (tách xã), Vân Cát Lê gia ngọc phả khẳng định:
Cụ Lê Tƣ Vĩnh là con trai thứ 5 của Lê Bang Cơ, tức Lê Nhân Tông. Sau khi
nhà Lê bị họ Mạc cƣớp ngôi, đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ loạn lạc, cụ Lê Tƣ Vĩnh
phải chạy loạn, về định cƣ tại thôn Vân Cát. Tai đây, cụ đã lấy bà Trần Thị Thục
sinh Tƣ Thắng. Sau Tƣ Thắng sinh ra Giáng Tiên, tức Công chúa Liễu Hạnh. Liễu
Hạnh lớn lên lấy Đào Lang, năm 21 tuổi bỗng dƣng không bệnh mà mất [255].
Trong khi đó, nhóm gia phả họ Trần Lê lại khẳng định:
Thánh Liễu Hạnh xuất thân từ họ Trần Lê, thuộc thế hệ thứ 4. Cụ Cao tổ của
dòng họ này là Lê Quý Công, tự Phúc Tiên, vốn ngƣời họ Lê, khi Tiên chúa Liễu
Hạnh (đời thứ 4) giáng sinh, đổi sang họ Trần. Tiên chúa giáng sinh năm Nhâm
Thìn niên hiệu Hoằng Định, lúc giáng sinh, trong nhà tự nhiên có mùi thơm khác lạ,
năm 19 tuổi đƣợc gả chồng - lấy ngƣời họ Trần ở bản hƣơng, thôn Nhị Giáp, sau
một thời gian về ở với ngƣời em ruột, cùng phụng dƣỡng cha mẹ và đổi sang họ
Trần. Giờ Dần ngày mùng Ba tháng Ba năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628), bà không bệnh
tật bỗng dƣng đột tử, hƣởng thọ 21 tuổi, tôn lăng tại xứ Cây Đa, hƣớng Tốn (Đông
Nam). Từ đó u hồn tịch mịch, cha mẹ sớm tối thƣơng nhớ khôn nguôi, bèn lập ban
thờ trong nhà, đèn nhang thờ phụng, vẫn thấy phảng phất nhƣ lúc sinh thời. Một
đêm, bà hiện về trƣớc ban thờ tự thuật lại duyên cớ (sự tích có chép). Trong xóm,
ngoài làng đều cảm thấy kinh hãi. Bà tác yêu, tác quái khiến nhà chồng ngày càng
khánh kiệt, ra sức trấn trị nhƣng ngƣời tin theo ngày càng tôn kính, tiếng tăm ngày
một lẫy lừng, gần thì truyền tai trong xóm, xa thì thiên hạ vang danh. Tiếng đồn đến
tận kinh thành, dƣới thời Lê, năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642), phụng lệnh chỉ dựng
đền lợp ngói. Năm Chính Hòa thứ 4 (1683) đƣợc tặng sắc phong. Từ đó về sau, đền
thiêng hiển hách, đƣợc triều đình nhiều lần phong tặng, thực là chuyện kỳ lạ nhất
75
huyện Thiên Bản dƣới quốc triều...
2.2.1.9. Nhóm tư liệu khảo cứu
Tuy nội dung khảo cứu về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ,
Tứ phủ đƣợc các tài liệu Hán Nôm đề cập mới chỉ dừng ở mức sơ lƣợc nhƣng
không thể phủ nhận, đây là các công trình mang tính chất đặt nền móng cho những
nghiên cứu tiếp theo. Vì tính chất đặc biệt này, tạm thời nghiên cứu sinh xếp tài liệu
khảo cứu thành một nhóm riêng. Trong điều kiện có thể, hiện nghiên cứu sinh mới tiếp
cận đƣợc 02 tài liệu Hán Nôm thuộc nhóm tƣ liệu khảo cứu mang tính “chuyên khảo”,
gồm Thiên Tiên truyện khảo 天 仙 傳 攷 và một tệp khác gồm các mục Khảo đồng sự
ký 攷 童 事 記; Tiền Lí Nam đế tích 前 李 南 帝 跡; Nam Định tỉnh khảo dị 清 化 省
攷 異; Thanh Hóa tỉnh khảo dị 南 定 省 考 異; Khảo vấn tĩnh điện 攷 問 靖 殿.
Ngoài ra, nội dung khảo cứu về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ cũng đƣợc đề cập tới ít nhiều trong một số tài liệu hán Nôm khác. Bên
cạnh đó, nghiên cứu sinh cũng “tạm xếp” nhóm tƣ liệu kê khai thần tích - thần sắc
của các làng xã do “Hội khảo cứu phong tục” thu thập, hiện lƣu trữ tại Viện Thông
tin khoa học xã hội vào nhóm tài liệu điều tra phục vụ khảo cứu.
2.2.2. Nhóm tư liệu văn khắc tại di tích
Nhóm tƣ liệu văn khắc tại di tích gồm đại tự, câu đối, bia ký, minh chuông,
ván khắc (in kinh sách), ấn triện (con dấu) đang bảo quản tại ở di tích, ngoài tính
chất là hiện vật gắn với di tích, đồng thời, cũng là những trang sửa địa phƣơng, trực
tiếp phản ánh truyền thống lịch sử - văn hóa của cộng đồng làng xã liên quan, đặc
biệt là lịch sử thờ thần, cơ sở thờ tự, cùng các thực hành văn hóa quanh tín ngƣỡng
thờ Mẫu Liễu Hạnh. Bên cạnh nguồn tƣ liệu đƣợc khắc in, đây là một trong những
nhóm tài liệu mang niên đại định bản tuyệt đối, có tác dụng cho việc đối sánh, tham
chiếu khi khai thác các nguồn tƣ liệu để góp phần tìm hiểu tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu
Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ qua tƣ liệu Hán Nôm.
2.3. Giá trị lịch sử - văn hóa của tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ
Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ
Qua những nét khái lƣợc về tƣ liệu Hán Nôm liên quan tới tín ngƣỡng thờ Mẫu
Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, có thể nhận thấy, nguồn tƣ liệu Hán
76
Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đƣợc thể
hiện trên nhiều chất liệu chất liệu (giấy, đá, gỗ, kim loại…), phong phú về số lƣợng, đa
dạng về loại hình và nội dung... Đây là khối di sản tƣ liệu vô giá, phản ánh mọi mặt về
đời sống vật chất, tinh thần của các cộng đồng làng xã có thực hành tín ngƣỡng tín
ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ trƣớc năm 1945. Từ hƣớng tiếp
cận liên ngành và loại hình văn bản cho thấy, giá trị lịch sử - văn hóa của tƣ liệu Hán
Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, cơ bản đƣợc biểu
hiện cụ thể qua một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, do nhiều nguyên nhân, tuy là một nƣớc có bề dày lịch sử nhƣng
những vấn về lịch sử nƣớc ta trƣớc năm 1945 chủ yếu chỉ đƣợc tập hợp, phản ánh qua
một số bộ quốc sử (sử nƣớc/chính sử), dƣới dạng sử biên niên, ghi chép vắn tắt các về
các sự kiện lịch sử. Những bộ giã sử và sử tƣ nhân hiện còn đƣợc biết cũng có số lƣợng
không nhiều. Tài liệu quốc chí (địa chí quốc gia) cũng nằm trong tình cảnh tƣơng tự,
những ghi chép về lịch sử địa phƣơng (địa phƣơng chí: tỉnh chí, huyện chí, xã chí)
cũng rất hiếm hoi. Vì vậy, nguồn tƣ liệu Hán Nôm trong dân gian đƣợc coi nhƣ những
pho “sử làng”, trong đó, có tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và
Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, với sự phong phú, đa dạng nhƣ đã nêu trên, nếu đƣợc khai thác
toàn diện và giải mã tốt có thể sẽ rút ra đƣợc những thông tin xác thực để bổ khuyết
cho chính sử, dã sử, sử tƣ nhân, quốc chí và địa phƣơng chí trong nhiều lĩnh vực…
Thứ hai, dƣới góc nhìn lịch sử và chức năng, tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ
Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, trƣớc hết là những ghi chép trực
tiếp liên quan và phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa tôn giáo, tín ngƣỡng của các cộng
đồng làng xã liên quan, cùng đông đảo tín đồ thập phƣơng. Trong đó, một bộ phận quan
trọng là thần tích ghi chép lại truyền thuyết dân gian, rồi đƣợc định bản và truyền bản
qua các thời kỳ, cho dù có sự can thiệp của triều đình, tồn tại nhiều dị bản hoặc bị thêm
bớt về chi tiết nhƣng không thể phủ nhận, văn bản thần tích là một dạng “hóa thạch văn
hóa” của truyền thuyết dân gian, phản án mọi mặt về đời sống vật chất, tinh thần và các
bƣớc phát triển của lịch sử - xã hội của cộng đồng làng xã, quốc gia, dân tộc…
Thứ ba, thực tiễn đã cho thấy, nhiều tôn giáo, tín ngƣỡng là một trong những
nhân tố quan trọng góp phần định hình và duy trì các mối quan hệ ứng xử giữa con
77
ngƣời với cộng đồng, với xã hội và thế giới tự nhiên. Khởi nguyên, các hình thức sinh
hoạt tôn giáo, tín ngƣỡng trong làng xã Việt có thể mang tính tự phát, xuất phát từ nhu
cầu cá nhân nhƣng trải qua các bƣớc phát triển, các hình thức sinh hoạt này dần trở
thành truyền thống thực hành văn hóa mang tính cộng đồng, đƣợc xác lập và duy trì
trong mối liên kết chặt chẽ giữa các nhân tố cơ bản: hệ thần đƣợc thờ; địa điểm và
không gian thờ tự; thực hành văn hóa tôn giáo - tín ngƣỡng liên quan và đỉnh cao là
đƣợc triều đình công nhận (cấp sắc phong). Nếu tạm coi đây là một mẫu số chung đối
với các tín ngƣỡng truyền thống đƣợc định hình trong không gian làng xã Việt thì có
thể nhận thấy, qua tƣ liệu Hán Nôm liên quan, tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu
Tam phủ, Tứ phủ là một trong những dẫn dụ điển hình.
Thứ tư, dƣới góc độ lý luận, nếu thừa nhận việc xác lập một tôn giáo truyền
thống thƣờng dựa vào ba yếu tố: giáo chủ, giáo luật, giáo hội, thì qua tƣ liệu Hán
Nôm có thể khẳng định, dƣới nhãn quan tôn giáo, tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và
Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đủ tƣ cách là một tín ngƣỡng dân gian tiệm cận tôn giáo, bởi
đã đƣợc triều đình công nhận (qua hệ thống sắc phong), với đầy đủ các thành tố: Giáo
chủ (Thánh Mẫu Liễu Hạnh), giáo luật (kinh giáng bút) và giáo hội (hội, bản hội).
Thứ năm, qua tƣ liệu Hán Nôm, bƣớc đầu đã thống kê đƣợc, trƣớc Cách mạng
Tháng tám (1945), tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh nói riêng và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ
nói chung đã tƣơng đối phổ biến trong không gian văn hóa Bắc bộ và một số địa điểm
liên quan có thể tạm tính từ Thừa Thiên Huế trở ra, với ít nhất 206 làng xã thuộc 21
tỉnh/thành phố thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, trong đó khu vực Nam
Định, Hà Nam, Ninh Bình là những địa bàn tập trung. Qua đây cũng nhƣ phần nào thấy
đƣợc tính phổ quát và sức lan tỏa của tín ngƣỡng này trong bối cảnh lịch sử - văn hóa
đƣơng thời và sức bền của “nguyên lý mẫu” trong văn hóa Việt truyền thống.
Thứ sáu, cũng qua tƣ liệu Hán Nôm có thể khẳng định, không chỉ riêng
với tín ngƣỡng thờ Đức Thánh Trần và một số tín ngƣỡng dân gian khác, “lên
đồng phán truyền” cũng là một phƣơng thức “thông linh” cơ bản trong thực
hành và truyền bá tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.
Theo đó, dƣới sự dẫn dắt của tƣ duy và niềm tin tôn giáo, các tín đồ mặc nhiên
thừa nhận, ông/bà đồng chính là cầu nối trung gian chuyển lời (thánh phán) từ
78
hệ thần Tứ phủ tới họ và ngƣợc lại. Dƣới hình thức này, Cát thiên tam thế thực
lục (Thuyết Vỉ Nhuế khẳng định Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh lần đầu tại Vỉ
Nhuế) và hàng loạt kinh văn giáng bút đƣợc chép lại, định bản, phát hành…
Thậm chí, việc trùng tu lăng Thánh Mẫu cũng đƣợc tiến hành sau khi đệ tử Hội
Xuân kinh Phổ hóa nhận đƣợc lời giáng tứ của Mẫu giao việc trùng tu lăng. Rõ
ràng, hình thức phán truyền có tác dụng nhất định trong việc củng cố niềm tin,
mang lại hiệu quả tức thì, rất dễ đƣợc đông đảo tín đồ cùng đón nhận. Qua dẫn
dụ này, bƣớc đầu có thể lý giải tại sao, trong khoảng cuối thế kỷ XIX - đầu thế
kỷ XX, phong trào thiện đàn ở nƣớc ta lại triệt để “lợi dụng” hình thức cầu cơ
giáng bút để tuyên truyền chủ nghĩa yêu nƣớc và văn hóa dân tộc… Và, phần
nào nhƣ cũng thấy đƣợc nguyên nhân vì sao hoạt động “lên đồng phán truyền”
từng bị nhà nƣớc quân chủ hạn chế hoạt động.
Thứ bảy, khác với những tín ngƣỡng dân gian khác, mọi tƣ liệu Hán Nôm liên
quan chỉ dừng lại ở việc ghi chép đơn thuần, với tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và
Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đã xuất hiện những tƣ liệu Hán Nôm mang tính chất khảo cứu
(nhƣ đã đề cập ở trên) từ đầu thế kỷ XX. Rõ ràng, đƣơng thời, tín ngƣỡng thờ Mẫu
Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đã nhận đƣợc sự quan tâm đặc biệt của đông đảo
cộng đồng, trong đó có đội ngũ tri thức Nho học và Tây học. Đó là bƣớc khai phá, đặt
nền móng cho việc tiếp cận tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ
các giai đoạn tiếp theo…
Tiểu kết
Thừa hƣởng kết quả tập hợp của ngƣời đi trƣớc, Chƣơng 2 luận án đã cơ bản
tập hợp, thống kê tƣơng đối đầy đủ và toàn diện nguồn tƣ liệu Hán Nôm liên quan tới
ín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Qua các thao
tác, bƣớc đầu tiến hành phân loại và đƣa ra hƣớng tiếp cận khai thác tƣ liệu phục vụ
nghiên cứu đối với từng nhóm tƣ liệu cụ thể.
Tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu
Tam phủ, Tứ phủ phong phú về số lƣợng, đa dạng về loại hình, phức tạp về nội
dung và niên đại nhƣng hàm chứa nhiều mặt giá trị, đặc biệt hữu ích trong việc
nghiên cứu, tìm hiểu tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày, Mẫu Tam phủ, Tứ
79
phủ và một số vấn đề về lịch sử - văn hóa liên quan...
Chỉ qua thống kê, phân tích sơ bộ, có thể khẳng định, trƣớc Cách mạng tháng
Tám, khu vực phủ Giày cơ bản vẫn thờ thần Mẫu theo mô hình bộ ba - Tam vị/Tam
tòa Thánh Mẫu theo kết cấu: Đệ nhất Liễu Hạnh Công chúa, Đệ nhị Quỳnh cung
Duy Tiên Phu nhân, Đệ tam Quảng cung Quế Anh Phu nhân, thƣờng đƣợc dân gian
định danh là Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày.
Cũng qua thống kê, trong phạm vi lan tỏa và ảnh hƣởng qua lại, trƣớc Cách
mạng Tháng tám (1945), tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh nói riêng và Mẫu Tam phủ,
Tứ phủ nói chung đã tƣơng đối phổ biến trong không gian văn hóa Bắc Bộ, thậm chí có
thể tính từ địa bàn Thừa Thiên Huế trở ra. Việc thờ tự và thực hành tín ngƣỡng thờ
Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tại hầu hết làng xã đều đã đƣợc triều đình
thừa nhận là hợp pháp. Trong đó, Mẫu Liễu Hạnh nổi lên nhƣ một nhân vật trung tâm
của tín ngƣỡng, nhiều nơi thờ bà với tƣ cách là vị thần chủ.
Qua diễn giải dân gian, nguồn gốc của Mẫu Liễu Hạnh cũng đƣợc phản ánh
tƣơng đối đa dạng, đa số các cộng đồng làng xã thờ phụng cho rằng bà có nguồn gốc
thiên thần. Bên cạnh đó, một số cộng đồng lại thờ bà với tƣ cách là một vị nhân thần.
Đặc biệt, một số cộng đồng còn suy tôn bà làm một vị Thành hoàng làng.
Đặc biệt, với nhiều tín ngƣỡng dân gian khác, tƣ liệu Hán Nôm liên quan chỉ
dừng lại ở việc ghi chép đơn thuần, nhƣng với tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và
Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, từ đầu thế kỷ XX đã xuất hiện một số tƣ liệu Hán Nôm
mang tính chất khảo cứu. Rõ ràng, đƣơng thời, những tín ngƣỡng này đã nhận đƣợc
sự quan tâm đặc biệt của đông đảo cộng đồng, trong đó có đội ngũ tri thức Nho học
và Tây học. Đó là những bƣớc khai phá quan trọng, đặt nền móng cho việc tiếp cận,
tìm hiểu tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ các giai đoạn
tiếp theo…
80
Chƣơng 3
NHẬN DIỆN TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY
QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM
3.1. Lịch sử địa chính và không gian văn hóa phủ Giày
Với hƣớng tiếp cận quen thuộc, khi xem xét một tín ngƣỡng truyền thống
của ngƣời Việt dƣới góc nhìn văn hóa học, cấu trúc cơ bản của một tín ngƣỡng cơ
bản là sự liên kết hữu cơ giữa ba thành tố căn bản, gồm hệ thần đƣợc thờ, kiến trúc
thờ tự và các thực hành văn hóa tín ngƣỡng liên quan. Trong phạm vi tƣ liệu Hán
Nôm, trong chƣơng này, nghiên cứu sinh sẽ tập trung làm rõ về quá trình biến đổi
địa chính, không gian văn hóa liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ
Giày theo diễn trình lịch sử và đặt tín ngƣỡng này trên nền cảnh văn hóa chung của
tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ để xem xét về hệ thần đƣợc thờ, kiến trúc thờ
tự, một số thực hành văn hóa tín ngƣỡng quanh việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở
khu vực phủ Giày trƣớc năm 1945.
Kế thừa chỉ dẫn qua cách đặt câu hỏi, phân tích và đƣa ra giả thiết khoa học về
mối quan hệ giữa Vân Cát và Tiên Hƣơng trong lịch sử Kẻ Giày của GS. Trần Quốc
Vƣợng, giờ đây, khi điều kiện tƣ liệu (Hán Nôm) nhƣ có vẻ sáng hơn, bƣớc đầu nghiên
cứu sinh xin hòa theo mạch tƣ duy của giáo sƣ để nhập vào dòng lịch sử, mong góp
phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề về lịch sử địa chính và không gian văn hóa liên
quan tới khu vực phủ Giày để củng cố cơ sở cho việc tìm hiểu tín ngƣỡng thờ Mẫu ở
khu vực phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.
3.1.1. Lịch sử địa chính liên quan tới khu vực phủ Giày
3.1.1.1. Kẻ Giày
Kẻ Giày, nơi có phủ Giày, là một địa danh cổ gắn với tục thờ Mẫu Liễu
Hạnh, đã khá “mờ” về ngữ nghĩa và phạm vi địa lý... Quanh tên gọi của địa danh
này, theo ngữ âm tiếng Việt, từng tồn tại 4 cách phát âm cơ bản, tƣơng ứng với 4
cách ghi âm: Kẻ Giày, Kẻ Giầy, Kẻ Dày, Kẻ Dầy.
Diễn giải về ý nghĩa của từ Kẻ Giày, trong bài “Về tên đất Kẻ Giầy, phủ
Giầy”, tác giả Cao Xuân Hạo, Trần Thúy Anh, với sự cộng tác của tác giả Trần
Quốc Vƣợng, đã tổng hợp đƣợc 3 thuyết dân gian có đề cập đến ngữ nghĩa và
81
nguồn gốc của từ Kẻ Giày, cụ thể nhƣ sau:
1. Năm 21 tuổi (1557), khi Mẫu Liễu Hạnh trở lại “thƣợng giới” có để lại
dƣới Trần gian một chiếc Hài (Giầy).
2. Vua (Lê?) hay chúa (Trịnh?) đã đi qua làng Mẫu nhặt đƣợc chiếc Hài
(GIẦY) của Mẫu để lại trần gian.
3. Vùng này có nghề bánh GIẦY - GIÒ nổi tiếng. Nay mỗi khi hội phủ
Giầy tháng Ba lịch Trăng, mọi con nhang đệ tử và khách thập phƣơng
vẫn mua bánh giầy (dân chợ Dần (Giầy) giã mang bán) [79, tr. 329].
Phụ thêm về thuyết 2: (Vua (Lê?) hay chúa (Trịnh?) đã đi qua làng Mẫu đã
nhặt được chiếc Hài (GIẦY) của Mẫu để lại trần gian), tại khu vực phủ Giày còn
lƣu truyền đôi câu đối:
萬 家 畫 像 輿 人 傑
幾 處 遺 鞋 陸 地 靈
Vạn gia họa tƣợng dƣ nhân kiệt,
Vạn thế di hài lục địa linh.
Muôn nhà vẽ tranh, tạc tượng, dùng kiệu xe chở người tuấn kiệt,
Mấy nơi hài để lại trên vùng đất linh thiêng này.
Cũng qua tƣ liệu Hán Nôm, còn có một dị bản liên quan tới sự tích Kẻ Giày
qua câu chuyện gặp gỡ và nên duyên chồng vợ giữa Lý Thế Tông (vua Lý) hoặc Trịnh vƣơng7 và cô gái hái dâu (ngƣời xã Xuân Bảng, thuộc bản Tổng), vốn rất xấu
xí nhƣng đƣợc Mẫu thƣơng và phù hộ theo nguyện ƣớc của bố mẹ cô đƣợc ghi chép
bằng chữ Hán trong Khảo đồng sự ký [152]. Motif truyện này có phần giống truyện
Ỷ Lan phu nhân (Phu nhân Ỷ Lan)/Truyện nàng Tấm (theo cách gọi dân gian), có
thể lƣợc thuật nhƣ sau:
Từ thời Tiền Lê, đã có đền thờ Thiên Tiên. Nhiều ngƣời trong thiên hạ đến
cầu tại đền này. Đến đời Lý Thế Tông/Trịnh vƣơng, tại xã Xuân Bảng, thuộc bản
7 Trong Khảo đồng sự ký, nguyên văn kể về chuyện (vua Lý) Lý Thế Tông gặp gỡ và nên duyên với cô gái hái dâu. Sau không hiểu lý do, những chỗ liên quan tới vua Lý đều bị gạch đi và chú cƣớc sang bên cạnh thành Trịnh vƣơng.
tổng có đôi vợ chồng già chỉ sinh đƣợc một cô con gái nhƣng lại rất xấu xí. Vợ
82
chồng ông hay tin đền Thánh Mẫu rất linh thiêng, mọi ngƣời cầu gì đƣợc nấy thì
nghĩ rằng, mình không có con trai, chỉ có một cô con gái nhƣng nhan sắc lại kém thì
đàn ông liệu có lấy con gái mình? Ông bà thƣờng đến lễ ở đền Thánh Mẫu, mong
rằng con gái họ sẽ lấy đƣợc bậc đế vƣơng. Vì ông bà hết mực thành tâm cầu khẩn,
cảm tấc lòng thành, Thánh Mẫu đã hóa thân thành một bà lão đến nhà ông bà ở xã
Xuân Bảng cho con gái của vợ chồng ông bốn viên thuốc để uống. Sau bà lão lại
dạy cho cô gái ca một câu rằng:
“Tay cầm bán nguyệt xênh xang,
Càn khôn chính khí Hán hoàng nghi gia”.
Ngƣời con gái ấy học thuộc câu này. Sau đó, Thánh Mẫu làm một chiếc hài
đem đến chỗ vua Lý/chúa Trịnh. Vua Lý/chúa Trịnh coi là điềm lạ, ngờ rằng Thiên
cung muốn cho nàng Hằng Nga sánh đôi cùng mình. Từ đó, vua/chúa luôn tơ tƣởng
về điều này. Một hôm, vua Lý/chúa Trịnh cùng các quan tuần du trong thiên hạ, đến
châu Xuân Bảng thì bỗng thấy một ngƣời con gái đang hái dâu cất lời ca. Tiếng hát
rất hay, khiến vua/chúa mê mẩn, liền lệnh cho bề tôi đƣa cô gái ấy lên gặp mặt.
Thấy nhan sắc rất đẹp, vua/chúa lấy hài cho cô gái thử đi, thử xong thì thấy vừa
khít. Vua/chúa ƣng lắm, liền đƣa cô gái ấy về cung làm Đệ nhị Cung phi. Cô gái ấy
đã đƣợc nhƣ ƣớc nguyện của bố mẹ, sau khi cùng vua/chúa thành gia thất, cô đã về
làng mời ngƣời trong toàn huyện đến dự tiệc chia vui. Sau đó, Cung phi xin
vua/chúa tạ ơn Thánh Mẫu bằng cách cho ngƣời xếp thành chữ dâng lên Thánh
Mẫu. Vì thế mà ngày nay, toàn huyện tham gia xếp chữ dâng lên Thiên Tiên Thánh
Mẫu. Đến nay, nếu tổng nào không theo di lệnh của vua/chúa từ thời tiền cổ thì
quan huyện sẽ xử tội tổng đó. Vì vậy mà không ai dám bỏ tục xếp chữ [152].
Phụ thêm về thuyết 3: Vùng này có nghề bánh GIẦY - GIÒ nổi tiếng, qua tƣ
liệu Hán Nôm, cũng có một dị bản chữ Hán [152] ghi về tục dân xã Tiên Hƣơng
nhớ ơn làm bánh “dầy” dâng Thánh Mẫu nhƣ sau:
8 Nguyên văn, bánh dầy đƣợc viết bằng chữ Nôm, cấu tạo theo phƣơng pháp ý + âm, với chữ bánh = mễ 米 + bính 丙, dầy = đài 臺 + hậu 厚, bên cạnh chữ “dầy” còn chú thích rõ: “dầy épáis" - bánh dầy)
Ở xã Tiên Hƣơng, hằng năm thƣờng làm bánh hình tròn tế Thánh Mẫu, tục gọi là bánh “dầy”8. Từ thuở xa xƣa, dân xã đã lập một ngôi đền thờ Thánh Mẫu.
83
Thánh Mẫu anh linh, ngƣời ngƣời trong thiên hạ đến đền cầu việc gì cũng thành.
Ngƣời ngƣời sắm sửa gà, xôi, trầu, rƣợu đến đền cầu khấn. Tuy nhiên, vì việc giết
gà không đƣợc thanh tịnh, xôi oản thì ruồi nhặng ăn trƣớc, khi làm lại không đƣợc
sạch sẽ. Tuy mọi ngƣời có lòng thành nhƣng lễ vật lại không thanh tịnh nên Thánh
Mẫu không hƣởng. Khi ấy, Thánh Mẫu đã hóa thân thành một bà cụ làm bánh dầy
bán tại đền. Mẫu lại hóa thân thành vài ba thiếu nữ phao tin với mọi ngƣời rằng:
Nay bảo cho các ngƣời biết, các ngƣời cúng Thánh những xôi, gà không
đƣợc tinh khiết thì Thánh ngài không hƣởng. Các ngƣời có lòng thành cúng Thánh
thì đến hàng bà cụ già đằng kia. Bà cụ ấy bán bánh dầy ngon lắm, các ngƣời mua
lấy mà mang cúng Thánh Mẫu. Mọi ngƣời thấy vài ba thiếu nữ nói vậy thì đổ xô
đến hàng bà cụ để mua bánh dầy vào dâng Thánh Mẫu. Cúng xong, mọi ngƣời hạ
lễ, ăn thấy có vị rất ngọt và béo ngậy, ngon không thể tả. Nếu ai có bệnh, sau khi ăn
bánh, bệnh sẽ thuyên giảm, những ngƣời suy nhƣợc, ăn xong lại khỏe hẳn ra. Ngƣời
đến đền này lễ Thánh Mẫu chỉ tìm đến hàng của bà lão mua bánh nhƣng sau một
thời gian thì chẳng ai biết bà lão ở đâu mà mua. Vì thế mà ngƣời ta gọi đền thờ
Thánh Mẫu là “phủ Dầy”. Sau đó, ngƣời làng và những làng lân cận liền bắt chƣớc
Thánh Mẫu làm bánh “dầy” bán cho khách mua dâng lên Thánh Mẫu nhƣng không
thể ngon bằng bánh do Thánh Mẫu làm. Vì vậy, từ đó về sau, dân xã luôn trích một
mẫu ruộng công giao cho dân làng luân phiên canh tác mỗi ngƣời một năm để lấy
gạo làm bánh. Hằng năm, cứ đến dịp tháng Ba, tức ngày tế Thánh Mẫu, trƣớc đó hai
ngày, tức mùng Một tháng Ba, ngƣời nào đến phiên canh tác ruộng công sẽ cùng gia
đình và ngƣời làng làm sạch gạo rồi đem ngâm. Đến sáng mùng Hai, mọi ngƣời lại
đến nhà ngƣời ấy đem gạo đồ xôi rồi đổ ra một chiếc chiếu sạch, cử hai nam thanh
niên, mỗi ngƣời cầm một chiếc chày gỗ giã cho xôi nhuyễn để mọi ngƣời nặm thành
bánh hình tròn, gọi là “bánh dầy”. Mỗi chiếc to bằng chiếc bát ăn cơm, đƣờng kính
khoảng 2 thốn (20cm), dầy khoảng sáu phân. Phải nặn tất cả thảy đủ 500 cái. Đến
sáng mùng Ba tháng Ba, gia đình ngƣời đƣợc giao làm bánh mang bánh, chuối, trầu
cau và rƣợu đến phủ Chính, chức dịch và phụ lão trong làng mặc trang phục chỉnh
tề tổ chức tế Thánh Mẫu. Tế xong, mỗi ngƣời thuộc diện mặc áo, đội mũ tế Thánh
Mẫu đƣợc thụ hƣởng một cái và một quả chuối, thủ từ đƣợc thụ hƣởng 1 cái, các ni
84
sƣ thụ hƣởng 5 cái, số còn lại chia đều cho dân từ già tới trẻ. Đó là sự tích dân xã
nhớ ơn làm “bánh dầy” dâng Thánh Mẫu [152].
Từ những diễn giải theo kiểu ngữ âm dân gian, bằng phƣơng pháp ngữ âm
học, qua dẫn dụ và phân tích, tác giả Cao Xuân Hạo khẳng định:
Về mặt ngữ âm - lịch sử, cái mà ta viết là D, GI, TR vốn xƣa là một. Kiểu
nhƣ ở nông thôn Bắc Bộ, cho đến nay, dân làng vẫn nói GIẦU CAU chứ
không nói TRẦU CAU (phƣơng ngữ Trung Bộ và nay trở thành ngôn ngữ
văn học)... Ngƣời ta cũng nói “Giần (dần) cho nó một trận” thay vì “Trần
cho nó một trận”. Và, dân miệt biển Bái - Hạ Long gọi con Ngọc trai là
GIÀU trong khi Hán - Việt là Châu (phƣơng ngữ Bắc Bộ, ngƣời ta nói ông
bà GIÀ thì phƣơng ngữ Thanh Hóa gọi là TRA, trong khi phƣơng ngữ
Trung Bộ (và nay là ngôn ngữ văn học) gọi Tráo trở thì phƣơng ngữ Bắc Bộ
gọi là Giáo giở. v.v… và v.v…) [79, tr. 330].
Sau đó, ông xác lập một giả thuyết là: “Việc chuyển biến từ TR - GI (D) là
một hiện tƣợng ở nông thôn châu thổ Băc Bộ, trong khi miền Bắc Trung Bộ
(Thanh- Nghệ - Tĩnh) vẫn giữ đƣợc âm TR của tiếng Việt cổ. Bắc Trung Bộ đƣợc
giới ngôn ngôn ngữ học nhất trí thừa nhận là nơi bảo lƣu đậm đà nhiều từ Việt cổ”
[79, tr. 330].
Dẫn dụ và lý giải thêm qua một số địa danh cổ, cơ cấu dòng họ và vấn đề
lịch sử liên quan đến vùng đất Kẻ Giày, cuối cùng, ông đã đƣa ra một giả thuyết
khoa học: “Kẻ Giầy chính là Kẻ Trần, cùng của họ Trần” [79, tr. 331].
Về dấu tích ngữ âm địa phƣơng qua văn tự (chữ Nôm), trực tiếp liên quan
đến âm vận và ngữ nghĩa của tên đất Kẻ Giày/Dày, phủ Giầy/Dầy, xin dẫn dụ và
phân tích bổ sung qua hai trƣờng hợp sau:
Nhƣ đã chú thích ở trên, chữ dầy = đài 臺 + hậu 厚, bên cạnh chữ này còn chú
thích rõ: “dầy épáis" (bánh dầy) - Cách ghi âm trong tài liệu này đã xuất hiện cách nay
hàng thế kỷ. Xét về cách tạo tự (chữ), rõ ràng, chữ dầy (Nôm) ở đây đƣợc cấu tạo theo
phƣơng pháp kết hợp ý + âm, với hậu 厚 (nghĩa theo chữ Hán là dầy - chỉ độ dầy) chỉ ý,
đài 臺 (âm đài) chỉ âm. Nếu hiểu một cách đơn giản theo ngữ âm hiện nay thì chữ dầy
85
này (Nôm) - (âm dầy = đài 臺 + hậu 厚) mang ý nghĩa chỉ độ dầy, nhƣ có vẻ không liên
quan gì tới nghĩa “giầy” trong bánh “giầy” (giày, dầy, dày), đôi giầy (giày), giầy/giày
xéo…, nhƣng xét trong văn cảnh thì rõ ràng chữ dầy/dày này (Nôm) - (âm dầy/dày = đài
臺 + hậu 厚) lại đƣợc sử dụng để ghi âm để định danh (gọi tên) một loại bánh - bánh dầy
(xin nhắc lại: trong văn bản, bên cạnh chữ dầy còn chú thích rõ: “dầy épáis). Tƣơng tự,
tại phủ Vân Cát, văn bia Vụ Bản huyện đồng huyện cúng trí lệ điều tiền tại Vân Cát, tục
hiệu phủ Dày bi ký 務 本 縣 仝 縣 供 置 例 田 錢 在 雲 葛 俗 号 府 𠫅 碑 記 - Bia ghi
việc cả huyện Vụ Bản tiến cúng tiền ruộng lệ ở phủ Vân Cát, tục gọi là phủ Dầy/Dày,
khắc năm Khải Định thứ 6 (1921), chữ dầy 𠫅 (Nôm) cũng đƣợc cấu tạo theo phƣơng
pháp kết hợp ý âm, với chữ hậu 厚 (nghĩa theo chữ Hán là dầy - chỉ độ dầy) chỉ ý, chữ
đài 苔 (âm đài) chỉ âm.
Trên cơ sở phân tích, biện giải của tác giả Cao Xuân Hạo (việc biến âm từ TR - GI
(D) là một hiện tƣợng ở nông thôn châu thổ Bắc Bộ), cùng với những diễn giải của ngữ âm
dân gian, phân tích ngữ âm địa phƣơng qua văn tự Nôm, theo lịch sử ngữ âm, một giả thiết
để làm việc đƣợc đặt ra là: Trong lịch sử tiếng Việt, vốn dĩ, giầy/giày và dầy/dày tuy khác
âm nhƣng đôi khi tƣơng thông về nghĩa, sau biến thể (dầy/dày) dần đƣợc tách ra và gắn
với ý nghĩa phái sinh, chỉ độ dầy/dày, trái nghĩa với mỏng? Vì vậy, nếu thừa nhận tính đa
dạng và biến thể ngữ âm tiếng Việt trong ngôn ngữ dân gian, với trƣờng hợp Kẻ Giày mà
chúng ta đang bàn, có thể ghi âm “Quốc ngữ” là: Kẻ Giày, Kẻ Giầy, Kẻ Dày, Kẻ Dầy, đều
không sai, miễn sao phải đặt và hiểu chúng trong ngữ cảnh ngữ ân lịch sử.
Nhƣ vậy, trong tâm thức dân gian vùng Kẻ Giày, chữ Giày/Giày trong tên đất
Kẻ Giày (một cách đọc), cơ bản gắn với hai lớp nghĩa chồng lấn: Giày/Giầy là bánh
Giày/Giầy và Giày/Giầy là chiếc Giày/Giày, không gắn với nghĩa dày/dầy trong từ chỉ
độ dầy. Trong khi những kiến giải về đối tƣợng đang bàn là Kẻ Giày/Giầy hay Kẻ
Dày/Dầy, phủ Giày/Giầy hay phủ Dày/Dầy vẫn đang dừng lại ở giả thiết để làm việc,
tôn trọng cách diễn giải của ngữ âm dân gian và nguyên tắc khoa học, việc lựa chọn
cách ghi âm “Kẻ Giày, phủ Giày” của nghiên cứu sinh trong luận án này xin đƣợc coi
là một trƣờng hợp lựa chọn biến thể, đƣợc đƣa ra nhƣ một giả thiết để làm việc. Theo
đó, dƣới góc nhìn đa nguyên (đa nguồn gốc) về văn hóa dân gian, có thể tạm hình
86
dung: Kẻ Giày thuộc vùng đất Kẻ Trần của họ Trần xƣa, nổi tiếng với phủ Giày và
truyền thuyết về Mẫu Liễu Hạnh, trong đó có thuyết Mẫu để lại chiếc giày, nghề làm
bánh giày trên vùng đất này…
Vậy, Kẻ Giày đƣợc chia tách thế nào?
Truyền thuyết dân gian bên làng Tiên Hƣơng kể rằng: “Theo lời truyền lại
thì đó là tại hai cụ nghè (tiến sĩ) ngƣời cùng xã, ngƣời đi trƣớc, ngƣời đỗ sau, tranh
nhau ngôi Tiên chỉ (đứng đầu xã), cho nên ngƣời đỗ sau xin với vua tách quê quán
làng mình ra thành xã riêng” [79, tr. 401].
Tác giả Trần Quốc Vƣợng đã từng gạn hỏi chuyện này qua các cụ ở Tiên
Hƣơng và đƣợc biết nhƣ sau:
Quan nghè "Tiên Hƣơng tên là TRẦN KỲ đỗ thám hoa"…, ngƣời xóm 4
(Giáp tƣ). "Mộ quan Thám mới bị đào gạch và miếu quan Thám ở xóm 4
mới bị phá gần đây thôi và quan Thám không có con trai nối dõi".
Còn cụ nghè Vân Cát tên là TRẦN BÍCH HOÀNH (hay HOẰNG,
HOÀNG) đỗ Bảng nhãn (trên Thám hoa) song đỗ sau, ngƣời xóm Vân
Cầu, Vân Cát.
Vì đỗ sau, nhƣng lại đỗ cao hơn nên cụ nghè Vân Cát (Bảng nhãn) muốn
tranh ngôi Tiên chỉ với cụ nghè - quan Thám hoa Tiên Hƣơng đỗ trƣớc,
nên xin cho… ??? Do vậy mới có xã Vân Cát, vốn trƣớc mới chỉ là một
trại (trại Vân Cát) của xóm (giáp Nhất) Vân Cát của xã An Thái [79, tr.
401 - 402].
Văn bia tại Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) lại cho thấy: Cụ Trần Bích
Hoành/Hoằng, ngƣời phủ Kiến Hƣng, huyện Thiên Bản, đỗ tiến sĩ (Bảng nhãn)
Khoa Mậu Tuất năm Hồng Đức thứ 9 (1478), trong khi cụ Trần Kỳ, ngƣời huyện
Thiên Bản phủ Kiến Hƣng đỗ tiến sĩ (Đồng tiến sĩ xuất thân) Khoa Đinh Mùi năm
Hồng Đức thứ 18 (1487), đỗ sau cụ Trần Bích Hoành 9 năm. Rõ ràng, cụ Trần Bích
Hoành đỗ cao hơn cụ Trần Kỳ. Vậy nếu có chuyện hai cụ tranh nhau chức tiên chỉ
và nếu phải nhƣờng thì phần nhƣờng thuộc về cụ Trần Kỳ?
Đó là những “mảnh vụn” lịch sử trong ký ức dân gian vùng Kẻ Giày xƣa về
sự kiện chia tách xã (biệt xã) mà lâu nay thƣờng đƣợc gán ghép để biện giải cho
87
mối quan hệ biệt xã giữa bên Vân Cát và Tiên Hƣơng.
Tuy nhiên, qua tƣ liệu Hán Nôm, có thể khẳng định, vào khoảng đầu thế kỷ
XIX, câu chuyện biệt xã (tách xã) giữa Vân Cát và Tiên Hƣơng gắn với sự kiện
thôn Vân Cát tách khỏi xã An Thái (mới) để thành lập xã Vân Cát đƣợc phản ánh
rất rõ. Sau đó, xã An Thái (mới) đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng. Trƣớc và sau
mốc thành lập và chia tách xã An Thái (mới), mối quan hệ địa chính và văn hóa
giữa Vân Cát và Tiên Hƣơng tƣơng đối phức tạp, có nhiều điều hấp dẫn, li kỳ. Qua
đây, một giả thiết để làm việc đƣợc đặt ra là: Phải chăng, câu chuyện biệt xã (chia
tách) mà truyền thuyết dân gian bên Tiên Hƣơng lƣu giữ phảng phất bóng dáng của
cuộc chia tách Kẻ Giày (tên gọi Nôm, không phải tên gọi hành chính) trong khoảng
cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI thành những đơn vị địa chính mới, trong đó có xã
Vân Cát và xã An Thái? Về vấn đề này, nghiên cứu sinh sẽ tiếp tục giải mã qua tƣ
liệu Hán Nôm ở phần sau.
3.1.1.2. Vân Cát
Trong điều kiện tƣ liệu hiện nay, cũng chƣa thể xác định đƣợc tuyệt đối về
thời điểm xuất hiện địa danh Vân Cát. Dấu vết “mờ” về sự xuất hiện của Vân Cát
với tƣ cách là đơn vị cấp xã, đƣợc Đại Việt Sử ký toàn thư (Bản Nội các quan bản,
bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 - 1697) ghi nhận nhƣ sau:
Mậu Tuất, [Hồng Đức] năm thứ 9 (1478), (Minh Thành Hóa năm thứ
14). Mùa xuân, tháng 2, ngày 23, ra sắc chỉ cho ba ty Đô, Thừa, Hiến các
xứ, ngƣời nào liêm khiết hay đƣợc xét các quan lại trong bộ thuộc của
mình, ngƣời nào liêm khiết hay tham ô, chuyên cần hay lƣời biếng, cùng
các quan Nho học dạy dỗ nhân tài, hằng năm có ngƣời đƣợc sung Cống
sĩ hay không, nhiều hay ít, đều ghi tên tâu lên [14b] để định việc thăng
hay giáng.
Ra sắc chỉ cho các quan thừa tuyên, phủ huyện các xứ trông nom việc
đồng ruộng, khuyên dân lấy nƣớc vào ruộng để kịp thời gieo cấy.
Tháng 3, tổ chức thi hội cho các cử nhân trong nƣớc. Lấy đỗ bọn Lê
Ninh gồm 26 ngƣời.
(Lê Ninh ngƣời Thụ Ích, Yên Lạc, là ông của Hiến).
88
Mùa hạ, tháng 5, ngày 14, vua ra hiên, ra đề văn sách, hỏi về đế vƣơng
trị thiên, duyệt các bài trả lời. Cho Lê Quảng Chí đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ
cập đệ Đệ nhị danh, Trần Bích Hoành, Lê Ninh đều đỗ Đệ nhất giáp tiến
sĩ cập đệ Đệ tam danh (Quảng Chí ngƣời [xã] Thần Đầu, [huyện] Kỳ
Hoa, làm đến chức Đông Các, đƣợc tặng Thƣợng thƣ, hiệu là Hoành Sơn
Tiên sinh, đƣợc phong Thƣợng đẳng thần, là anh của [Lê Quảng] Ý;
Bích Hoành ngƣời [làng] Vân Cát, [huyện] Thiên Bản. Bọn Nguyễn
[51a] Địch Tâm 9 ngƣời đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân. Bọn Nguyễn
Nghiễm 50 ngƣời đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân [18, tr. 485].
Chứng tích rõ hơn về tên gọi Vân Cát với tƣ cách là đơn vị cấp xã, ít nhất đã
xuất hiện trên sắc phong (bản gốc) hiện đƣợc lƣu ở nhà thờ Trần Bích Hoành (thôn
Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định hiện nay). Tại đây, còn một
số sắc phong, trong đó có 02 sắc thời Lê Trung hƣng, phong cho hậu duệ của cụ
Trần Bích Hoành ghi nhận Vân Cát đƣơng thời là tên địa danh cấp xã, thuộc huyện
Thiên Bản:
1). Sắc niên đại Đức Long năm thứ 3 (1631), sắc cho Phó chánh Đội trƣởng
Trần Bá Cơ, ngƣời xã Vân Cát, huyện Thiên Bản - Sắc Thiên bản huyện, Vân Cát
xã Phó chánh Đội trƣởng Trần Bá Cơ 勑 天 本 縣 雲 葛 社 副 正 隊 長 陳 伯 基;
2). Sắc niên đại Vĩnh Hựu năm thứ 5 (1739), sắc cho Trần Thị Ban, ngƣời xã
Vân Cát, huyện Thiên Bản – Sắc Thiên bản huyện, Vân Cát xã Trần Thị Ban 勑 天
本 縣 雲 葛 社 陳 氏 班.
Nhƣ vậy, qua sắc phong hiện lƣu tại nhà thờ Trần Bích Hoành có thể khẳng
định, ít nhất từ nửa đầu thế kỷ XVII và dƣới thời Lê Trung hƣng, Vân Cát đã tồn tại
với tƣ cách là địa danh cấp xã - xã Vân Cát, thuộc huyện Thiên Bản - Thiên bản
huyện, Vân Cát xã 天 本 縣 雲 葛 社.
Sang thời Nguyễn, năm Gia Long thứ 4 (1805), tài liệu địa bạ vẫn ghi nhận
Vân Cát là đơn vị cấp xã (xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng). Khi ấy,
xã Vân Cát thuộc huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng, xứ Sơn Nam Hạ (山 南 下 處
義 興 府 天 本 縣 雲 葛 社) [119], xã An Thái cũng thuộc huyện Thiên Bản, phủ
89
Nghĩa Hƣng, xứ Sơn Nam Hạ (山 南 下 處 義 興 府 天 本 縣 社 安 泰) [120]. Sau
đó, chƣa rõ lý do nhƣng ít nhất từ năm Gia Long thứ 10 (1811), Vân Cát lại trở
thành một thôn/giáp, thuộc xã An Thái - tạm gọi là xã An Thái (mới).
Sau khi chia tách, xã An Thái (mới) đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng. Từ
đây, hai xã Vân Cát và Tiên Hƣơng giữ tƣ cách là những đơn vị địa chính cấp xã
độc lập về địa chính và thờ tự, ổn định về cơ cấu cho đến khi cùng hợp nhất với xã
Kim Bảng thành xã Kim Thái vào năm 1947.
3.1.1.3. An Thái
Khảo chứng qua tƣ liệu Hán Nôm, về thời điểm xuất hiện của địa danh An
Thái nhƣ vừa mờ vừa tỏ. Trong Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược, Khiếu
Năng Tĩnh, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân Khoa Canh Thân (1880), ngƣời
xã Chân Mỹ (nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cƣờng), huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định,
đƣơng thời là một ngƣời rất am tƣờng lịch sử Nam Định đã gián tiếp khẳng định, từ
cuối thế kỷ XV, An Thái đã tồn tại với tƣ cách là một xã thuộc huyện Thiên Bản,
bởi theo ông, “Trần Kỳ: Ngƣời xã An Thái, huyện Thiên Bản, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ
xuất thân khoa Đinh Mùi năm Hồng Đức 18 (1487), làm quan Đông các Điện đại
học sỹ” [80, tr. 36]. Đành rằng, ghi chép của ông có thể cũng chỉ là ảnh xạ của lịch
sử, bởi khi Khiếu Năng Tĩnh viết những dòng này, cụ Trần Kỳ đã đỗ tiến sĩ cách đó
khoảng 400 năm - Bia đề danh tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức năm thứ
18 (1487) hiện đang dựng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội chỉ ghi ngắn gọn:
Trần Kỳ 陳 琦, ngƣời huyện Thiên Bản, phủ Kiến Hƣng 建 興 府 天 本 縣 đỗ Đệ
nhị giáp Tiến sĩ xuất thân mà không ghi rõ ông là ngƣời xã nào.
Qua thần sắc hiện lƣu tại phủ Tiên Hƣơng, có thể tạm khẳng định, ít nhất từ
nửa đầu thế kỷ XVIII, An Thái đã giữ tƣ cách là một đơn vị địa chính cấp xã - xã
An Thái, thuộc huyện Thiên Bản. Cụ thể, mặt sau sắc phong cho Liễu Hạnh Công
chúa năm Vĩnh Khánh 2 (1730) ghi chú: Thiên Bản huyện, An Thái xã 天 本 縣 安
泰 社 - xã An Thái, huyện Thiên Bản. Ngoài ra, thông tin xã An Thái, thuộc huyện
Thiên Bản còn đƣợc ghi lại trên mặt sau hai sắc phong cho: Quế Hoa Công chúa
năm Cảnh Hƣng 44 (1783) ghi: 天 本縣 安 泰 社 黃 焚 Thiên Bản huyện, An Thái
90
xã hoàng phần - [ý là] xã An Thái, huyện Thiên Bản hóa; và, sắc phong Duy Tiên
Công chúa năm Cảnh Hƣng 44 (1783) ghi: 天 本 縣 安 泰 社 黃 焚 Thiên Bản
huyện, xã An Thái hoàng phần - [ý là] xã An Thái, huyện Thiên Bản hóa. Ngoài ra,
mặt sau sắc phong cho Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên Công chúa năm
Cảnh Hƣng 28 (1767) ghi: 安 泰 殿 第 二 An Thái điện Đệ nhị - (Sắc phong cho)
Mẫu Đệ nhị, điện/đền An Thái. Một điểm cần lƣu ý là: Xét về mặt thể thức thì các
sắc thời Lê chỉ phong trực tiếp cho thần, không ghi thông tin xác nhận sắc ban cho
cộng đồng/đơn vị hành chính nào (không quy định rõ nghĩa vụ thờ cúng cho bất kỳ
xã, tổng, huyện… nào), do đó, những thông tin này không thuộc phạm vi nội dung
lòng sắc mà chỉ có tác dụng ghi để chỉ dẫn/đánh dấu cho dễ nhận biết khi cuộn sắc
vào hoặc cũng có thể đây là những bản phó, sau khi chế xong hoặc tiếp nhận, những
thông tin trên đƣợc ghi vào để khẳng định/đánh dấu các sắc này thuộc về xã An
Thái, huyện Thiên Bản. Vậy tại sao hai thần sắc phong năm Cảnh Hƣng 44 (1783),
với mặt sau ghi rõ: Thiên Bản huyện, An Thái xã hoàng phần 天 本 縣 安 泰 社 黃
焚 - [ý là] xã An Thái, huyện Thiên Bản hóa nhƣng lại không đƣợc hóa mà còn tồn
tại đến tận ngày nay? Rất có thể, vì một lý do nào đó, nhƣ gặp biến cố lớn kéo dài -
do chiến tranh, vỡ đê, lụt lội chẳng hạn mà sau khi rƣớc sắc về, cộng đồng chƣa có
điều kiện tổ chức hành lễ hóa sắc dâng thần?
Nhân đây, xin nói thêm về tục “phần hoàng”, tức hóa sắc gửi cho thần. Tục
xƣa, khi đƣợc ân điển vua phong, thƣờng thì đƣơng sự phải kính cáo với tổ tiên
bằng cách dâng văn tế viết trên giấy vàng, tế xong rồi hóa đi, gọi là phần hoàng, dân
gian gọi là hóa vàng. Đối với việc thờ thần cũng vậy, ngoài việc hóa văn tế còn có
tục tuyên sắc (tuyên đọc sắc) rồi hóa sắc gửi cho thần để thần biết đƣợc sắc lệnh của
vua và tiếp nhận sắc, bởi trong xã hội quân chủ Việt xƣa, vua là thiên tử (con trời),
với ý thức khẳng định, dƣới gầm trời này, không có đất nào không thuộc về vua,
không có ai không phải là bề tôi của vua. Với thần linh cũng vậy, vua có quyền hiệu
triệu thần linh dốc sức hiệu linh phù hộ xã tắc, hoàng gia và thần dân trăm họ. Vua
có quyền ban sắc phong tặng hoặc phế truất thần (không cho thờ phụng).
Trƣớc thời Nguyễn, đến dịp, sau khi nhận bản kê khai của địa phƣơng, đối
91
chiếu quy định, thƣờng là Cục Quản giám bách thần xem xét, lập danh sách các
thần xứng đƣợc phong hoặc gia phong trình vua phê duyệt. Với các vị thần xứng
đƣợc phong hoặc gia phong, triều đình sẽ cấp sắc về địa phƣơng, nơi thờ tự, gồm
bản chính và bản phó với nội dung, hình thức nhƣ nhau (01 bản hóa gửi cho thần,
01 bản giữ lại làm vi bằng - để đối sánh). Về sau, xét thấy việc này tốn kém, gây
lãng phí, triều đình chỉ cấp 01 bản. Vì thế, khi tiếp nhận sắc, dân muốn theo lệ cũ,
nếu hóa sắc gốc thì không có gì giữ lại làm vi bằng (bằng chứng) nên phải tự sao
hoặc thuê ngƣời sao y (số lƣợng tùy nhu cầu hành lễ, thờ tự), tế xong rồi hóa để tỏ
rõ lòng thành kính đối với thần. Tuy nhiên, việc sao y sắc (nhƣ thật) không hề đơn
giản - Xuất phát từ nhu cầu này, “dịch vụ ngầm” sao y sắc dần đƣợc hình thành và
phát triển, len lỏi vào tận cung đình. Ngoài ra, việc sao sắc trong một số cộng đồng
làng xã còn nhằm mục đích phục vụ cho lệ rƣớc sắc và tuyên sắc…
Qua điền dã, thực tế nghiên cứu sinh cũng đã bắt gặp một vài trƣờng hợp tại
di tích hiện còn lƣu cả bản chính và bản phó (sao) thần sắc của triều đình phong cho
cùng một vị thần tại một thời điểm, nhƣ ở miếu Voi Phục, xã Tân Hội, huyện Đan
Phƣợng, thành phố Hà Nội chẳng hạn - Sắc phong cho “Hộ Dân Hoằng Huệ Từ
Quản Giới Hậu Trạch Quảng Tế Hiển Hựu Phổ Trạch Hiển Khánh Hoằng Hƣu
Phù Vận Khuông Quốc Tế Thế Trạch Dân Hậu Đức Chí Nhân Dũng Lƣợc Cƣơng
Chính Phong Công Tá Tích Dƣơng Vũ Phù Tộ Hùng Tài Uy Dũng Diễn Phúc
Đốc Bật Khang Dân Hộ Quốc Tuy Dân Đại vƣơng” ngày Hai mƣơi tám tháng
Mƣời hai năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642), đều đƣợc viết trên giấy sắc vẽ hoa văn
rồng mây, đóng dấu Sắc mệnh chi bảo. Tuy nhiên, khi đối chiếu, so với bản chính,
bản phó (sao y) viết thiếu ba chữ (trong đó có hiện tƣợng kính khuyết một chữ/để
cách nhật ở dòng niên đại).
Dƣới thời Nguyễn, lệ phong thần sắc và hóa sắc vẫn đƣợc duy trì nhƣng có
phần giản lƣợc. Điển khác, là để tránh việc lợi dụng khai man lịch sử thờ tự (tƣ cách
chính thần), lòng sắc thời Nguyễn thƣờng ghi rõ địa chỉ thờ tự (đủ thông tin, xã,
huyện, tỉnh) và giao nghĩa vụ thờ tự cho một cộng đồng cụ thể, thƣờng là cấp xã
hoặc thôn (trƣờng hợp nhất thôn nhất xã - xã chỉ có một thôn).
Một tƣ liệu xác tín nữa ghi nhận sự tồn tại của An Thái, với tƣ cách là đơn vị
92
cấp xã (xã An Thái, thuộc huyện Thiên Bản), đó là sổ ruộng đất (địa bạ triều
Nguyễn, bản Giáp/bản thứ nhất của quốc triều Nguyễn, xƣa lƣu tại Bộ Hộ). Theo
đó, năm Gia Long thứ 4 (1805), An Thái là một xã, thuộc huyện Thiên Bản, phủ
Nghĩa Hƣng, xứ Sơn Nam Hạ (Sơn Nam Hạ xứ, Nghĩa Hƣng phủ, Thiên Bản
huyện, An Thái xã... 山 南 下 處 義 興 府 安 泰 社… [120]. Cùng thời điểm này,
xã Vân Cát cũng thuộc huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng, xứ Sơn Nam Hạ (山 南
下 處 義 興 府 天 本 縣 雲 葛 社) [119] nhƣ đã đề cập ở trên.
Muộn hơn, hai sắc phong cho Liễu Hạnh Công chúa và Quảng cung Quế
Hoa Công chúa, đều có niên đại năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), hiện đang đƣợc lƣu
giữ tại phủ Tiên Hƣơng cũng đều ghi nhận, đƣơng thời (1821) xã An Thái thuộc
huyện Thiên Bản:
- Sắc phong cho Liễu Hạnh Công chúa ngày Hai mƣơi mốt tháng Bảy năm
Minh Mệnh 2 (1821):
敕 帝 釋 僊 庭 柳 杏 公 主 護 國 庇 民 稔 著 功 德 經 有 歷 朝 封 贈. 奉
我 世 祖 高 皇 帝 大 振 英 威 開 拓 疆 土 肆 今 丕 膺 耿 命 光 紹 鴻 圖 緬 念 神
庥 蓋 隆 恩 典 可 加 贈 洪 施 普 度 英 靈 上 等 神 準 許 天 本 縣 安 泰 社 依 舊
奉 事 神 其 相 佑 保 我 黎 民.
故 敕.
明 命 貳 年 柒 月 貳 拾 壹 日.
Sắc cho Đế Thích Tiên Đình Liễu Hạnh công chúa. Thần đã có công hiển
linh cứu nước, giúp dân, đã được các triều phong tặng sắc phong. Nhân dịp Thế Tổ
Cao Hoàng đế triều ta tỏ rõ uy phong, mở mang bờ cõi, nay thừa mệnh lớn, nhớ
đến ơn thần gia ơn ban sắc nối dài tự điển, gia tặng Hồng Thí Phổ Độ Anh Linh
Thượng đẳng thần. Cho phép xã An Thái, huyện Thiên Bản được phụng thờ theo
như lệ cũ. Thần hãy che chở, bảo vệ muôn dân của trẫm.
Vậy nên ban sắc.
Ngày Hai mươi mốt tháng Bảy năm Minh Mệnh 2 (1821).
- Sắc phong cho Quảng cung Quế Hoa Công chúa ngày Hai mƣơi mốt tháng
Bảy năm Minh Mệnh 2 (1821):
93
敕 第 三 玉 女 廣 宮 桂 花 公 主 護 國 庇 民 稔 著 功 德 經 有 歷 朝 封 贈
. 奉 我 世 祖 高 皇 帝 大 振 英 威 開 拓 疆 土. 肆 今 丕 膺 耿 命 光 紹 鴻 圖 緬
念 神 庥 蓋 隆 恩 典 可 加 贈 靈 光 玄 妙 中 等 神. 準 許 天 本 縣 安 泰 社 依 舊
奉 事 神 其 相 佑 保 我 黎 民.
故 敕.
明 命 貳 年 柒 月 貳 拾 壹 日.
Sắc cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Hoa Công chúa. Thần đã có công
hiển linh cứu nước, giúp dân, đã được các triều phong tặng sắc phong. Nhân dịp
Thế Tổ Cao Hoàng đế triều ta tỏ rõ uy phong, mở mang bờ cõi, nay thừa mệnh lớn,
nhớ đến ơn thần gia ơn ban sắc nối dài tự điển, gia tặng Linh Quang Huyền Diệu
Trung đẳng thần. Cho phép xã An Thái, huyện Thiên Bản được phụng thờ theo như
lệ cũ. Thần hãy che chở, bảo vệ muôn dân của trẫm.
Vậy nên ban sắc.
Ngày Hai mươi mốt tháng Bảy năm Minh Mệnh 2 (1821).
Sau niên đại Minh Mệnh, dƣới thời Thiệu Trị, sắc phong cho Liễu Hạnh
Công chúa vào năm Thiệu Trị 4 (1844) và sắc phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng
cung Quế Anh Phu nhân vào năm Thiệu Trị 4 (1844) tại phủ Tiên Hƣơng cũng ghi
nhận, đƣơng thời (1844), An Thái là một xã thuộc huyện Thiên Bản - Cho phép xã
An Thái, huyện Thiên Bản được phụng thờ thần theo như lệ cũ. Thần hảy che chở,
bảo vệ muôn dân của ta (準 許 天 本 縣 安 泰 社 依 舊 奉 事 神 其 相 佑 保 我 黎
民 Chuẩn hứa Thiên Bản huyện, An Thái xã y cựu phụng sự. Thần kỳ tƣơng hựu,
bảo ngã lê dân).
Qua đây, có thể khẳng định, thông tin ghi chú trong Tiên từ phả ký (đƣợc
nhiều làng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh chép hoặc biên soạn lại để làm thần tích), do
Huấn Đạo Việt Yên Trần Bình Hành, ngƣời Tiên Hƣơng) sao, đƣợc khắc in trong
Tiên phả dịch lục khẳng định năm Gia Long thứ 4 (1805), bản triều đổi tên xã An
Thái là xã Tiên Hƣơng (Bản triều Gia Long tứ niên cải An Thái xã vi Tiên Hƣơng
xã 本 朝 嘉 隆 四 年 改 安 泰 社 為 仙 鄉 社) [40] là thông tin không chính xác.
Chƣa rõ, lỗi này là vô tình hay cố ý và thuộc về ai, bởi địa bạ và thần sắc liên quan
94
nhƣ đã đề cập đều là những bản gốc, thuộc loại sổ sách, văn bản hành chính do triều
đình ban hành. Phải đến cuối thời Thiệu Trị - đầu thời Tự Đức, xã An Thái đƣợc đổi
tên thành xã Tiên Hƣơng nhƣ đã khẳng định ở trên.
3.1.1.4. Tiên Hương
So với Vân Cát và An Thái, Tiên Hƣơng là địa danh xuất hiện khá muộn.
Qua Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã tục lệ 南 定 省 務 本縣
同 隊 總 各 社 俗 例, ít nhất từ năm Tự Đức thứ 3 (1850), Tiên Hƣơng với tƣ cách
là đơn vị địa chính cấp xã đã chính thức xuất hiện trong bản kê khai về tục lệ của xã
này (Tục lệ xã Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) [120].
Cũng theo, Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã tục lệ 南 定 省 務
本縣 同 隊 總 各 社 俗 例, năm Tự Đức thứ 10 (1857), Vân Cát với tƣ cách là đơn
vị địa chính cấp xã lại đã xuất hiện trong bản ghi tục lệ của xã này (Tục lệ xã Vân
Cát, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) [129]. Sau khi thôn Vân Cát
đƣợc tác khỏi xã An Thái (mới) (biệt xã) tái lập xã Vân Cát, xã An Thái (mới) mới
chính thức đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng. Từ đây, xã Tiên Hƣơng giữ cơ cấu 1
xã, 3 giáp/thôn (Vân Đình - tức thôn Tiên Hƣơng, La Tây (sau tách thành La Khê
và Tây Cầu) và Nham Miếu), rồi đa dạng hơn nữa, cho đến khi hợp nhất với xã Vân
Cát, xã Kim Bảng thành xã Kim Thái năm 1947.
Từ những trình bày trên, có thể tạm xác lập mối quan hệ địa chính cơ bản
giữa Kẻ Giày - Vân Cát - An Thái - Tiên Hƣơng trong diễn trình lịch sử nhƣ sau:
Kẻ Giày, nơi có nghề làm bánh Giày, vốn thuộc vùng đất Kẻ Trần của họ Trần (Kẻ
Trần), nổi tiếng với phủ Giày và truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh, trong đó
có thuyết Mẫu giáng trần để lại nghề làm bánh giày và chiếc giày trên vùng đất
này... Qua những bƣớc phát triển, có lẽ, đến khoảng cuối thế kỷ cuối XV - đầu thế
kỷ XVI, Kẻ Giày đƣợc chia tách để định hình những đơn vị địa chính nhỏ hơn,
trong đó có xã Vân Cát và xã An Thái. Dƣới thời Lê, xã Vân Cát và xã An Thái đều
thuộc huyện Thiên Bản, phủ Kiến Hƣng (sau đổi thành Nghĩa Hƣng), xứ Sơn Nam
hạ. Hai xã ổn định, độc lập về địa chính ít nhất tới năm Gia Long thứ 4 (1805).
Trong khoảng những năm 1805 - 1811, xã Vân Cát đƣợc sáp nhập với xã An Thái
95
thành xã An Thái (mới) và trở thành thôn/giáp Nhất trong cơ cấu 4 giáp của xã An
Thái (mới). Sau đó, khoảng những năm đầu dƣới thời Tự Đức nhƣng không thể
muộn hơn năm Tự Đức thứ 3 (1850), xã Vân Cát lại đƣợc tách khỏi xã An Thái
(mới), tái lập xã Vân Cát, xã An Thái (mới) đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng. Hai
xã đều thuộc tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, tiếp tục ổn định, hoàn
toàn độc lập về quan hệ địa chính cho đến khi cùng hợp nhất với xã Kim Bảng
thành xã Kim Thái vào năm 1947.
3.1.2. Không gian văn hóa liên quan tới khu vực phủ Giày và danh hiệu
phủ Giày
Trƣớc tiên, xin nhắc lại câu chuyện biệt xã giữa Vân Cát và Tiên Hƣơng mà
GS. Trần Quốc Vƣợng đã dày công lƣợc thuật: Khoảng thế kỷ XV, hai cụ nghè Vân
Cát (Trần Bích Hoành) và Tiên Hƣơng (Trần Kỳ) tranh nhau ngôi tiên chỉ, cuối
cùng, cụ nghè bên Vân Cát thua, phải chạy biệt xã [79].
Nếu cƣỡng khảo, hồi cố này ắt hàm chứa một phần sự thật lịch sử. Lờ mờ
đâu đó nhƣ thoáng thấy câu chuyện tách xã (biệt xã) trong bối cảnh lịch sử - văn
hóa của Kẻ Giày từ khoảng cuối thế kỳ XV - đầu thế kỷ XVI. Vậy câu chuyện biệt
xã hay gọi nôm na là chia làng, tách xã diễn ra ở thời điểm này cụ thể ra sao?
Chuyện biệt xã (tách xã), ắt hẳn phải có từ sau khi hai cụ nghè về làng (trong
khoảng thế kỷ XV)? Không biệt xã, sao có xã Vân Cát và xã An Thái (sau đổi thành
Tiên Hƣơng) đƣợc ghi nhận ít nhất từ đầu thế kỷ XVII, hiện vẫn còn chứng tích?
Một “hóa thạch văn hóa” rất đáng quan tâm, đó là: 2 mẫu, 7 sào, 12 thƣớc, 0
tấc ruộng công của xã Bảo Ngũ và xã Bất Di (tổng Bảo Ngũ, tổng láng giềng của
tổng Đồng Đội) tại xã Vân Cát, đƣợc ghi nhận trong sổ ruộng đất của xã Vân Cát
lập năm Gia Long thứ 4 (1805) [119]. Tại thời điểm này, xã Vân Cát không còn
ruộng công, xã An Thái (sau đổi thành Tiên Hƣơng) cũng chỉ còn: 4 mẫu, 0 sào, 5
thƣớc, 1 tấc [120].
Mối quan hệ thờ phụng Mẫu Liễu Hạnh giữa Vân Cát và dân tổng Bảo Ngũ
(các xã Bảo Ngũ, xã Bất Di, xã Thái Tuyển…), với xã Bảo Ngũ vẫn còn nồng đƣợm
ít nhất đến cuối thời Nguyễn: “Xã Vân Cát, tổng Đồng Đội và xã Thái Tuyển, tổng
Bảo Ngũ có lệ cùng nhau phụng sự Thánh Mẫu ở phủ Cố Trạch. Họ ƣớc với nhau,
96
cứ tới ngày kỵ Mẫu - Mùng Ba tháng Ba thì tới làm lễ, ngày mùng Bảy, mùng Tám,
mùng Chín thì cùng nhau bàn việc lễ bái...” [80, tr. 100]. Đặc biệt, hội giỗ Mẫu Vân
Cát còn có tục rƣớc Mẫu sang chùa Bảo Ngũ thỉnh kinh.
Hội hoa trƣợng (xếp chữ) tại khu vực phủ Giày hiện nay, đƣợc cho là gắn với
bà Thái phi họ Trịnh (ngƣời xã Bảo Ngũ, tổng Bảo Ngũ), từng cầu đảo tại phủ Giày,
đƣợc nhƣ nguyện (làm Thái phi nhà Trịnh), trở về báo đáp ơn Mẫu, nghĩa dân:
“Truyền rằng, Trịnh Thái Phi đến cầu ở đền Mẫu, đƣợc ứng nghiệm rõ rệt, lúc ấy xã
dân đang đắp đê, khơi nƣớc kinh thành, phi muốn tạ ơn bèn miễn sƣu dịch cho dân
về hết, bỏ mai cuốc dùng gậy dƣơng biển kéo chữ “Thánh cung vạn tuế, Mã Vàng
Công chúa, Thái bình ca xƣớng, Quốc thái dân an, Sở cầu nhƣ ý, Vạn thế phúc thần,
Dân lại dĩ an” để đáp lễ Mẫu trong ngày kị. Từ đó thành lệ của đền Vân Cát. Đến
thời Tự Đức thì Vân Cát ít ngƣời không lo đƣợc bèn giao cho đền Tiên Hƣơng. Đến
nay, Tiên Hƣơng vẫn giữ lệ này” [80, tr. 101]. Mờ hơn, giữa Tiên Hƣơng với đất
Xuân Bảng/Kim Bảng xƣa, xã Cái của tổng Đồng Đội thời Nguyễn (nay thuộc xã
Kim Thái), nơi có núi Kim Bảng, gắn với truyền thuyết ra đời của Trạng nguyên
Lƣơng Thế Vinh thời Trần: “Khi bố mẹ ông Lƣơng Thế vinh đến núi này cầu đẻ
đƣợc con trai thi đỗ, ông Lƣơng mới đổi thành núi Kim Bảng. Qua các đời có nhiều
quan lại du ngoạn góp công góp của dựng chùa đền tạo cảnh” [80, tr. 14], nay còn
xóm Già cũng không thể tách rời An Thái - Tiên Hƣơng về địa - văn hóa, mặc dù từ
thế kỷ XVII, dân xã Kim Bảng đã có nhiều ngƣời đi theo Công giáo, nay vẫn còn
Giáo xứ Kim Bảng khá nổi tiếng.
Dƣới đây, xin dẫn thông tin về ruộng đất của xã Vân Cát và xã Tiên Hƣơng
tại thời điểm năm 1805 để cùng nhìn nhận lại một số vấn đề lịch sử liên quan:
Bảng 1: Thống kê ruộng đất của xã Vân Cát và xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ
Nghĩa Hƣng, xứ Sơn Nam hạ theo địa bạ lập năm Gia Long thứ 4 - 1805
Ruộng tƣ (Tƣ điền)
Đất đền (Thần từ thổ)
Gò (Thổ phụ )
Ruộng công (Công điền) của xã khác cùng huyện
Xã Vân Cát
Ruộng công (Công điền)
Nghĩa trang (Tha ma)
Ruộng, đất công và tƣ (Công tƣ điền thổ)
Đất, vƣờn, ao (Thổ trạch viên trì)
Sông ngòi (Khê cừ thủy đạo)
Ruộng của đền, chùa (Thần từ, Phật tự điền)
97
0 mẫu
2 đoạn
2 mẫu, 2 sào, 7 thƣớc, 7 tấc
10 mẫu, 3 sào, 12 thƣớc, 4 tấc
2 mẫu, 3 sào, 13 thƣớc, 3 tấc
21 mẫu, 6 sào, 0 thƣớc, 0 tấc
450 mẫu, 8 sào, 6 thƣớc, 6 tấc
9 gò, tổng: 1 mẫu, 8 sào, 0 thƣớc, 0 tấc
424 mẫu, 6 sào, 0 thƣớc, 6 tấc
Đất đền (Thần từ thổ)
2 mẫu, 7 sào, 12 thƣớc, 0 tấc - Xã Bảo Ngũ: 0 mẫu, 6 sào, 0 thƣớc, 0 tấc; - Xã Bất Di: 2 mẫu, 1 sào, 12 thƣớc, 0 tấc Ruộng công (Công điền) của xã khác cùng huyện
Gò (Thổ phụ )
Xã An Thái
Ruộng tƣ (Tƣ điền)
Ruộng công (Công điền)
Sông ngòi (Khê cừ thủy đạo)
0
0 gò
2 đoạn
0 mẫu, 0 sào, 0 thƣớc, 0 tấc
Ruộng của đền (Thần từ điền) 70 mẫu, 9 sào, 4 thƣớc, 0 tấc
Nghĩa trang và đất mộ) (Tha ma, mộ địa) 20 mẫu, 2 sào, 1 thƣớc, 0 tấc
Ruộng, đất công và tƣ (Công tƣ điền thổ) 668 mẫu, 9 sào, 9 thƣớc, 2 tấc
Đất, vƣờn ao (Thổ trạch viên trì) 79 mẫu, 3 sào, 8 thƣớc, 8 tấc
4 mẫu. 0 sào, 5 thƣớc, 1 tấc
514 mẫu, 6 sào, 7 thƣớc, 3 tấc
Tại thời điểm năm 1805, qua địa bạ của hai xã (Xem Bảng 1), tổng quan về
ruộng đất của hai xã Vân Cát và An Thái (đều thuộc huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa
Hƣng, xứ Sơn Nam Hạ) [119, 120], liên quan trực tiếp đến đền (gồm cả đình, miếu)9 và chùa, nơi thờ tự, có mấy điểm đặc biệt cần chú ý sau:
- Xã Vân Cát có 2 mẫu, 3 sào, 13 thƣớc, 3 tấc ruộng của đền, chùa, trọng khi
xã An Thái có tới 70 mẫu, 9 sào, 4 thƣớc, 0 tấc ruộng của đền.
- Xã Vân Cát có 2 mẫu, 2 sào, 7 thƣớc, 7 tấc đất đền, trong khi xã An Thái
không có.
- Xã Vân Cát có 10 mẫu, 3 sào, 12 thƣớc, 4 tấc đất nghĩa trang (nơi chôn cất),
trong khi xã An Thái có 20 mẫu, 2 sào, 1 thƣớc, 0 tấc đất nghĩa trang và đất mộ.
- Xã Vân Cát có 9 gò đất (tổng: 1 mẫu, 8 sào, 0 thƣớc, 0 tấc), trong khi xã
An Thái không có.
Khi đi sâu phân tích kỹ số liệu, chắc hẳn có thể rút ra đƣợc nhiều điều thú vị,
nhƣng trƣớc hết, có thể nhận thấy, đƣơng thời (1805), địa hình Vân Cát có nhiều gò
(9 gò đất cao), có đất đền, có ruộng đền, miếu, chùa (dù không nhiều) - Đất đền
(Thần từ thổ): 2 mẫu, 2 sào, 7 thƣớc, 7 tấc, trong khi An Thái không có, nhƣng lại
9 - Đền là từ thuần Việt chỉ nơi thờ tự, các loại hình kiến trúc thờ tự gọi theo ghi âm Hán - Việt (đình, đền, miếu, từ, nghè…), các cụ đều dịch và gọi là đền.
có tới 70 mẫu, 9 sào, 4 thƣớc, 0 tấc ruộng đền…
98
Nhƣ vậy, trong mối quan hệ địa chính và văn hóa giữa Vân Cát - An Thái tại
thời điểm lập địa bạ (1805) và Kẻ Gầy trƣớc đó, hai xã Vân Cát và An Thái chỉ độc
lập tƣơng đối về mặt địa chính, bởi hai xã chung đền và thờ tự chung thần - Đất đền
ở xã Vân Cát, ruộng đền phần lớn ở xã An Thái. Đặc biệt, ít nhất, đến năm Tự Đức
thứ 10, Vân Cát vẫn có ngôi đền gồm 2 tòa, thờ Tiền Lý Nam đế Tôn thần, với bên
tả (trái) thờ quan Thám hoa Trần Kỳ, bên hữu (phải) thờ quan Giáo thụ [186]. Ắt
hẳn, khi hai xã sáp nhập vào khoảng những năm đầu thời Gia Long (1805- 1811),
trong quá trình thƣơng lƣợng, thỏa hiệp, mỗi bên đều phải nắm chắc và tận dụng
triệt để lợi thế của mình. Cuối cùng, An Thái lắm ruộng, đặc biệt là ruộng đền, đƣợc
bảo lƣu tên xã (An Thái) sau sáp nhập, Vân Cát có đất đền giữ ngôi Giáp Nhất trong
xã An Thái (mới).
Trong mối quan hệ thờ tự chung lắm thăng trầm giữa Vân Cát - An Thái -
Tiên Hƣơng, Trần Bình Hành, Huấn đạo Việt Yên, ngƣời xã Tiên Hƣơng, huyện Vụ
Bản, đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1891), là ngƣời có công lớn trong việc xác lập
hình tƣợng Mẫu Liễu Hạnh gắn riêng với bên Tiên Hƣơng. Ông chép Tiên từ phả
ký - Phả ký đền thiêng (Trong sách này có khắc Tiên từ phả ký của Trần Bình
Hành, Khiếu Năng Tĩnh hiệu đính), sau đƣợc Kiều Oánh Mậu (1854 - 1911), đỗ Phó bảng, từng làm Tri phủ phủ Xuân Trƣờng, tỉnh Nam Định dịch Nôm, Khiếu
Năng Tĩnh (1833 - 1915) đỗ Hội nguyên tiến sĩ, là Tả Tham tri Bộ Lễ, Tế tửu Quốc Tử Giám hiệu đính, san khắc dƣới thời Thành Thái (1889 - 1907), với tựa đề Tiên
phả dịch lục, khẳng định sự tích Mẫu Liễu Hạnh gắn riêng với xã Tiên Hƣơng
(trƣớc là An Thái). Nhƣng trong chuyện này, dù cố tình hay hữu ý, cũng không thể
phủ nhận đƣợc vai trò của Vân Cát với tƣ cách là Giáp Nhất/thôn Giáp Nhất trong
xã An Thái (mới). Cụ thể, ngay sau mấy câu mở đầu Tiên từ phả ký ông đã viết: Xã
An Thái là vùng quê nổi tiếng ở huyện Thiên Bản. Đất đai bằng phẳng, phong tục
thuần phác. Đồi núi liền một dải, uốn lƣợn lƣợn quanh, nƣớc tụ hội về nhƣ chuỗi
ngọc trai. Xã có bốn giáp: Giáp Nhất - thôn Vân Cát; Giáp Nhị - thôn Vân Đình;
Giáp Tam - thôn La Tây; Giáp Tứ - thôn Nham Miếu. Trong đoạn này, ông ghi chú
thêm: Bản triều Gia Long năm thứ tƣ (1805), xã An Thái đổi thành xã Tiên Hƣơng
[244], trong khi Nam Định tỉnh địa dư chí lại khẳng định: “Xã Tiên Hƣơng: trƣớc là
99
Yên (An) Thái, năm Tự Đức thứ 14 (1861) đổi là Tiên Hƣơng” [80, tr. 39]. Tuy
nhiên, cần khẳng định lại, là chuyện xã An Thái đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng
ở đây là có thật nhƣng không phải vào năm Tự Đức thứ 14 (1861) hoặc năm Tự
Đức thứ 15 (1862) mà diễn ra trong khoảng những năm 1844 - 1850 (cuối thời
Thiệu Trị - đầu thời Tự Đức) nhƣng không thể muộn hơn ngày Hai mƣơi nhăm
tháng Giêng năm Tự Đức thứ 3 - 1850, bởi sắc cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung
Quế Anh phu nhân Trung đẳng thần phong ngày Hai mƣơi tháng Năm năm Thiệu
Trị 4 (1844) hiện lƣu tại phủ Tiên Hƣơng xác nhận: Ngày Hai mƣơi tháng Năm
năm Thiệu Trị 4 (1844) An Thái vẫn là đơn vị cấp xã; Tục lệ xã Tiên Hƣơng, tổng
Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định lập xong ngày Hai mƣơi nhăm tháng
Giêng năm Tự Đức thứ 3 (1850) xác nhận: Ngày Hai mƣơi nhăm tháng Giêng năm
Tự Đức thứ 3 (1850) xã Tiên Hƣơng đã chính thức xuất hiện [186], tức xã An Thái
đã đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng - Tiên Hƣơng, với nghĩa là làng của Tiên/quê
của Tiên, ý khẳng định: xã này (Tiên Hƣơng) là làng của Tiên/quê của Tiên, tức
Thánh Mẫu Liễu Hạnh). Đây là một chi tiết đáng tin cậy, đƣợc rút ra trong quá trình
khảo cứu tƣ liệu Hán Nôm, có thể góp phần bổ sung, đính chính cho địa chí Nam
Định và chính sử (Đồng Khánh Địa dư chí).
Rõ ràng, dòng ghi chú (Bản triều Gia Long năm thứ tƣ (1805), xã An Thái
đổi thành xã Tiên Hƣơng) trong Tiên từ phả ký - Phả ký đền thiêng nhƣ hàm chứa
điều gì “uẩn khúc”? Mặt khác, thần tích/huyền tích về Mẫu Liễu Hạnh, dù đã có
hàng trăm dị bản còn truyền đến nay, cơ bản đều lấy cốt truyện Vân Cát thần nữ -
Thần nữ ở Vân Cát làm nền và không phủ mờ bóng dáng của Nữ thần ở Vân Cát -
Khi Vân Cát trở thành một giáp/thôn, thuộc xã An Thái (mới) thì Vân Cát vẫn luôn
giữ vai trò Giáp Nhất, oai nhất chốn đình chung.
Vậy tại sao xã An Thái lại đƣợc đổi thành xã Tiên Hƣơng?
Nếu hồi cố lại từ bối cảnh sáp nhập hai xã Vân Cát và An Thái thành xã An
Thái (mới) vào đầu thời vua Gia Long (những năm 1805 - 1811) thì đây là câu hỏi
không khó trả lời.
Khi ấy, trƣớc khi sáp nhập, mỗi bên đều giữ đƣợc lợi thế riêng để đi đến hạ
hồi phân định - An Thái giữ tên, Vân Cát giữ ngôi Giáp Nhất trong xã An Thái
100
(mới) sau sáp nhập (nhƣ đã đề cập ở trên). Sự kiện sáp nhập hai xã ở giai đoạn này,
cũng là một tiền đề đặc biệt quan trọng cho việc xác lập truyền thống thờ Thánh
Mẫu ở phủ Tiên Hƣơng, để sau xã Tiên Hƣơng có đƣợc tƣ cách chính tự riêng do
triều đình xác nhận.
Tân Biên Nam Định tỉnh Dư địa chí lược cho biết: “Đến thời Tự Đức thì Vân
Cát ít ngƣời không lo đƣợc bèn giao cho đền Tiên Hƣơng, đến nay Tiên Hƣơng vẫn
giữ lệ này” [80, tr. 101]. Vậy nội tình sự thật câu chuyện này thế nào?
Bia Cả huyện Vụ Bản tiến cúng tiền ruộng lệ ở phủ Vân Cát, tục gọi là phủ
Giày, tại phủ Vân Cát, khắc vào mùa xuân niên hiệu Khải Định thứ 6 (1921), do Đệ
tam giáp Tiến sỹ Khoa Tân Sửu, Đốc học Hải Phòng Nguyễn Văn Tính soạn, cho
biết nhƣ sau:
Hai đền Vân Cát và Tiên Hƣơng vốn dĩ chung nguồn gốc. Làng (hƣơng) này
trƣớc hợp, sau phân - Xã An Thái, thôn Vân Cát, vốn dĩ là một, sau đƣợc tách làm
đôi. Sau tách làm đôi lại nhập về làm một.
Tục truyền, hội “hoa trƣợng” bắt nguồn từ Thái phi của chúa Trịnh. Dƣới
thời Lê Trung hƣng, bà đến cầu ở đền Tiên Thánh, sau đƣợc ứng nghiệm, đã tâu lên
trên miễn cho dân huyện nghĩa vụ đắp đê khơi nƣớc ở Hà Thành. Dân huyện nhớ ơn
ấy bèn đổi mai cuốc thành gậy kéo chữ. Hằng năm, cứ đến kỳ lễ kị thì kính cẩn làm
lễ tạ, hội hợp chụm đầu, lâu ngày dần thành lệ.
Khoảng năm Tự Đức, bên Vân Cát vì thấy dân đinh thƣa ít, lo việc không
nổi, bèn đem nguyên lệ giao cho bên Tiên Hƣơng nhận làm. Tới nay đã hơn 60
năm, việc này mọi ngƣời còn biết cả.
Vào năm Khải Định thứ 3, thứ 4 (1918 - 1919), ngƣời quý tổng thăng thụ
Chánh Bát phẩm, Nghị viên Tƣ vấn xứ Bắc Kỳ, Chánh tổng Trần Khắc Kiệm
thƣơng lƣợng với chức sắc kỳ dịch xã ấy, có lời với lý dịch và Chánh Phó tổng mới,
cũ của cả huyện, thỏa thuận về các điều lệ, có văn bản đóng dấu của huyện quan,
lấy đó chiểu theo lệ trƣớc làm hội “hoa trƣợng” ở đền, ngõ hầu cùng đội ơn thần, tỏ
ý kính thành. Trong huyện bàn bạc thống nhất, ký kết, trình quan Đốc Bộ đƣờng
bản tỉnh Phạm Tƣớng công thƣơng lƣợng với Quý tòa chuẩn duyệt thi hành….
Trở lại bối cảnh lịch sử địa chính giữa Vân Cát và An Thái vào đầu thời
101
Nguyễn. Sau sáp nhập, có thể nhận thấy, trong cơ cấu xã/làng An Thái (mới), ban
đầu, bên Vân Cát giữ ngôi Giáp Nhất, “oai” nhất chốn đình chung, có đền thờ Mẫu
(chung cho cả An Thái (mới)), đã đƣợc triều đình chứng nhận tƣ cách chính tự,
chính từ đóng trên địa bàn, trong khi Tiên Hƣơng lại là bên giữ mộ phần, có nhiều
đất hƣơng hỏa. Lâu dần, vị thế của Vân Cát bị lung lay khi bên An Thái ngày càng
của đông, ngƣời lắm, lại có điều kiện thờ tự ngày một tốt hơn (nhiều ruộng hƣơng
hỏa), để rồi: “Đến thời Tự Đức thì Vân Cát ít ngƣời không lo đƣợc (khoản đóng góp
chung) bèn giao cho đền Tiên Hƣơng, đến nay, Tiên Hƣơng vẫn giữ lệ này” nhƣ
văn bia đền Vân Cát dãi bày. Sau khi thôn Vân Cát tách tách khỏi xã An Thái (mới)
tái lập xã Vân Cát, đƣơng nhiên, xã Vân Cát sở hữu riêng đền thờ Mẫu của xã An
Thái trƣớc khi chia tách vì đền nằm trên đất Vân Cát. Bên An Thái sau khi tách
(Vân Cát) nghiễm nhiên cũng đƣợc thừa hƣởng tƣ cách chính chính tự (thờ tự hợp
pháp) Thánh Mẫu Liễu Hạnh từ truyền thống xã An Thái trƣớc khi chia tách (Vân
Cát và An Thái) do chính các triều trƣớc đó xác nhận qua sắc phong. Từ đó, hai bên
cùng thờ riêng Thánh Mẫu. Đó là tiền đề quan trọng để bên An Thái sau khi tách
(Vân Cát) củng cố vai trò và cơ sở thờ tự Thánh Mẫu bên mình. Và, sau khi chia
tách không lâu, bên An Thái sau khi tách (Vân Cát) đổi tên thành xã Tiên Hƣơng,
với ý khẳng định: Tiên Hƣơng có nghĩa là làng của Tiên/quê của Tiên, ý khẳng
định: xã này (Tiên Hƣơng) là làng của Tiên/quê của Tiên, tức Thánh Mẫu Liễu
Hạnh. Bên Vân Cát thì “dƣơng cao và khuếch trƣơng” biển đề tên đền thờ Thánh
Mẫu - “Đền Cố Trạch”, với ý khẳng định, đền này (Đền Cố Trạch) là nhà ở của
Mẫu khi xƣa. Có lẽ, cũng trong bối cảnh lịch sử địa - văn hóa và quan hệ làng xã
giữa hai bên nhƣ vậy mà những huyền tích về Mẫu Liễu Hạnh gắn riêng với mỗi
bên đƣợc gia cố không ngừng, dẫn đến việc “co kéo” ngôi vị thờ tự, tƣ cách chính
tự của bản đền. Bên Vân Cát, nơi gắn với truyền thuyết về Thần nữ ở Vân Cát ra
sức củng cố thuyết Mẫu giáng sinh ở Vân Cát. Bên Tiên Hƣơng, vốn giữ đất mộ
phần (tƣơng truyền là mộ của Thánh Mẫu), với nòng cốt là họ Trần Lê (mà theo họ
là dòng dõi Mẫu), từng bƣớc, từng bƣớc “đƣa” Mẫu, cùng lai lịch, thế thứ rất rõ vào
trong gia phả, sau còn đƣợc triều đình xác nhận (phong sắc), giao cho thờ tự. Cuối
cùng, bên Vân Cát có phần “hụt hơi” khi việc thờ tự chính là việc gánh vách nghĩa
102
vụ không hề nhẹ mà triều đình giao phó, đành đem “nguyên lệ giao cho Tiên
Hƣơng”, sau lại xin chính quyền cho phép mở lại hội và đƣợc đồng thuận nhƣ văn
bia phủ Vân Cát ghi nhận, trong khi truyền thống thờ Mẫu bên Tiên Hƣơng kế thừa
An Thái liên tiếp đƣợc kéo dài qua hàng loạt sắc của các triều phong cho xã Tiên
Hƣơng, qua các thời Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải định:
- Sắc ngày Mƣời bảy tháng Mƣời năm Tự Đức thứ 5 (1852), phong cho Đệ
tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Anh Phu nhân (Hiện lƣu tại nhà thờ họ Trần Lê);
- Sắc ngày Hai mƣơi bốn tháng Mƣời một năm Tự Đức thứ 33 (1880), phong
cho Liễu Hạnh Công chúa, Duy Tiên Phu nhân và Quế Anh Phu nhân (Hiện lƣu tại
phủ Tiên Hƣơng);
- Sắc ngày mùng Một tháng Bảy năm Đồng Khánh thứ 2 (1886), phong cho
Liễu Hạnh Công chúa, Duy Tiên Phu nhân và Quế Anh Phu nhân (Hiện lƣu tại phủ
Tiên Hƣơng);
- Sắc ngày Mƣời một tháng Tám năm Duy Tân thứ 3 (1909), phong cho Liễu
Hạnh Công chúa Thƣợng đẳng thần, Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên Phu
nhân Trung đẳng thần, Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Anh Phu nhân Trung
đẳng thần (Hiện lƣu tại nhà thờ họ Trần Lê);
- Sắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định thứ 2 (1917), phong cho Đế
Thích Tiên Đình Ngọc nữ Liễu Hạnh Công chúa (Hiện lƣu tại nhà thờ họ Trần Lê).
- Sắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định thứ 2 (1917), phong cho Thân
phụ Lê Đức Chính (Hiện lƣu tại phủ Tiên Hƣơng);
- Sắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định thứ 2 (1917), phong cho Thân
mẫu Trần Thị Phúc (Hiện lƣu tại phủ Tiên Hƣơng);
- Sắc ngày Hai mƣơi nhăm tháng Bảy năm Khải Định thứ 9 (1924), phong
cho Thân phụ Lê Đức Chính (Hiện lƣu tại phủ Tiên Hƣơng);
- Sắc ngày Hai mƣơi nhăm tháng Bảy năm Khải Định thứ 9 (1924), phong
cho Thân mẫu Trần Thị Phúc (Hiện lƣu tại phủ Tiên Hƣơng)…
… Chuyện “co kéo” huyền tích Mẫu về bên mình (Vân Cát - Tiên Hƣơng)
còn đƣợc phản ánh qua nhiều giai thoại li kỳ khác nữa, mà điển hình là sự kiện Phát
103
hiện cuốn sách đồng tại đền Sòng Thanh Hóa ghi về gia phả Thánh Mẫu Mẫu Liễu
bên Vân Cát gây chấn động cả nƣớc và giới nghiên cứu Đông Dƣơng vào năm 1939
[69] nhƣng thiết nghĩ không tiện nói thêm tại đây…
Nhƣ vậy, qua những ảnh xạ văn hóa hiếm hoi còn rơi rớt, đâu đó nhƣ thoáng
thấy bóng giáng của vùng lõi văn hóa Kẻ Giày xƣa trong cơ cấu 4 giáp phân đôi =
Vân Cát + Bảo Ngũ và An Thái + Kim Bảng/Xuân Bảng (đâu đó vào khoảng cuối
thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI). Đó là màn mở đầu trong câu chuyện văn hóa làng xã
li kỳ giữa Vân Cát và An Thái ở Kẻ Giày trong mối quan hệ vốn thờ chung thần, để
rồi, tới khoảng đầu thứ kỷ XIX, xã Vân Cát sáp nhập với xã An Thái thành xã An
Thái (mới), sau lại tách ra thành xã Vân Cát và xã An Thái (sau đổi thành Tiên
Hƣơng) trong cơ chế hợp - phân (từ một thành hai, tuy hai mà một), để rồi, sau hợp
thêm xã Kim Bảng thành xã Kim Thái (năm 1947), nơi có hai phủ Giày, thuộc
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định hiện nay.
Đó là lƣợc sử vùng lõi không gian văn hóa gắn với tín ngƣỡng thờ Thánh
Mẫu Liễu Hạnh tại khu vực phủ Giày Nam Định. Nếu xét trên phạm vi mở rộng thì
không gian văn hóa gắn với tín ngƣỡng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ trƣớc Cách mạng tháng Tám đã bao trùm không gian văn hóa của khu
vực Bắc Bộ và một số địa bàn khác có liên quan, thậm chí có thể tạm tính ít nhất từ
Thừa Thiên Huế trở ra.
Trong lịch sử, phủ Giày - phủ Vân Cát - phủ Tiên Hƣơng đều đƣợc gọi/gọi
đƣợc là phủ Giày, gắn với nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh trong ý thức về cội nguồn và tƣ
duy hồi cố dân gian của cộng đồng làng xã liên quan, đến nay vẫn vậy. Đó là
“thƣơng hiệu văn hóa” của phủ Giày ở Kẻ Giày, thuộc sở hữu chung, không của
riêng ai, riêng của bên nào dù đã trải qua nhiều bƣớc thăng trầm hợp - li/li hợp.
Theo đó, câu hỏi “Vì sao Vân Cát - Tiên Hƣơng là một hồi sau tách đôi và rồi đã
đang lần kết đôi?” [79. 398] mà tác giả Trần Quốc Vƣợng đặt ra cách đây gần 20
năm vẫn là một tồn tại lịch sử, phần nào cũng phản ánh câu chuyện biến đổi văn
hóa của các cộng đồng liên quan quanh việc thờ Thánh Mẫu ở phủ Giày Nam Định
trong diễn trình lịch sử.
3.2. Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày qua tƣ liệu Hán Nôm
104
Theo thần tích thần sắc của xã Vân Cát, xã Tiên Hƣơng và Hƣơng ƣớc của
hai xã này thì đến cuối thời Nguyễn, phủ Giày (ở Vân Cát và Tiên Hƣơng) phụng
Tam vị/Tam tòa Thánh Mẫu, gồm Mẫu Đệ nhất - Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Đệ nhị -
Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân, Mẫu Đệ tam - Quảng cung Quế Anh Phu nhân.
Ngoài ra, còn phối thờ đức Khải sinh Thánh phụ, Khải sinh Thánh Mẫu, tức thờ cha
và mẹ của Mẫu Liễu Hạnh và con của Thánh Mẫu…
Tƣ liệu Hán Nôm và tâm thức dân gian khu vực Kẻ Giày cùng khẳng định,
từ khi đƣợc phụng thờ, Mẫu Liễu Hạnh đã đƣợc suy tôn là vị thần chủ ở phủ Giày.
Qua sắc phong, ít nhất là từ thế kỷ XVII, hệ Mẫu Tam vị/Tam tòa ở phủ Giày đã
đƣợc định hình. Tuy nhiên, trong tƣ liệu Hán Nôm, ghi chép về Mẫu Liễu Hạnh đặc
biệt chiếm ƣu thế, còn ghi chép về Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân, Quảng cung
Quế Anh Phu nhân và các nhân vật khác lại khá mờ, thƣờng chỉ đƣợc chép cùng
thần tích Mẫu Liễu, với thông tin tƣơng đối khái lƣợc...
Theo thời gian huyền thoại, qua tƣ liệu Hán Nôm, về sự tích về Thánh Mẫu
Liễu Hạnh, cơ bản có thể tổng hợp thành một số thuyết cơ bản sau:
3.2.1. Thuyết Mẫu giáng sinh thời Lý Nam Đế
Chuyện Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh dƣới thời Lý Nam Đế (thế kỷ VI)
đƣợc phản ánh qua phong tục và thần tích xã Di Trạch, tổng Kim Thi, huyện Đan
Phƣợng tỉnh Hà Đông, đƣợc ghi chép trong Khảo đồng sự ký [152], có thể lƣợc
thuật nhƣ sau:
Từ xa xƣa, dân xã Di Trạch, tổng Kim Thi, huyện Đan Phƣợng, tỉnh Hà Đông đã
có đền thờ Lý Nam Đế và Hoàng hậu Cung phi - bạn của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Vì
trong xã có một bà vợ quan, một hôm bà đi gốc mộc trèo lên mái nhà đi lại nhƣ thƣờng
mà không bị ngã nên mọi ngƣời cho rằng, hồn của Địa Tiên (Thánh Mẫu Liễu Hạnh)
nhập vào ngƣời này nên mới làm đƣợc nhƣ vậy. Từ đó, trong xã luôn có nhiều làm đồng
thờ Thiên Tiên, Địa Tiên và Thủy Tiên và có lệ bầu ra một bà đồng chính. Hằng năm,
vào ngày Ba mƣơi tháng Mƣời hai, dân làng và ngƣời làm đồng chính sắm sửa lễ vật
mang ra đền cúng Lý Nam Đế và Hoàng hậu Cung phi, sau đó chuẩn bị kiệu, cờ, quạt
rƣớc bát hƣơng thờ Lý Nam Đế tại đền về điện thờ của bà đồng chính để phụng thờ.
Đúng sáu giờ sáng ngày mùng Bảy tháng Giêng, già trẻ trong làng cùng các bà đồng
105
đóng khăn, mặc áo chỉnh tề đến nhà bà đồng chính, đƣa bát hƣơng lên kiệu rƣớc về đền
thờ Lý Nam đế an vị. Sau khi rƣớc xong thì dâng bánh chay để tế. Tế xong, bà đồng
chính vào đền, trƣớc tiên lễ thánh, sau múa hƣơng, múa quyết, múa bông, múa cờ, múa
trƣợng, múa kiếm, vừa múa vừa hát chúc tụng thần để cầu cho dân đƣợc an khang,
trƣờng thọ. Nếu năm nào không rƣớc bát hƣơng từ đền về điện thờ tại nhà bà đồng chính
thì bà đồng chính sẽ không lên đồng tại đền, không chúc tụng thần, năm đó nhân dân bất
an, vật thƣờng mắc bệnh. Vì vậy, năm nào xã này cũng tổ chức rƣớc bát hƣơng và mời
bà đồng chính lên đồng chúc tụng thần để cầu cho toàn dân một năm luôn đƣợc an khang
trƣờng thọ.
3.2.2. Thuyết Mẫu giáng sinh thời Lý
Thuyết Mẫu giáng sinh thời Lý đƣợc chép trong Liễu Hạnh Băng Nƣơng
Công chúa ngọc phả cổ lục 柳 杏 冰 娘 公 主 玉 譜 古 籙 (bản chữ Hán), thuộc tập
Hà Đông tỉnh, Thanh Trì huyện, Vĩnh Ninh tổng các xã thần tích đệ thập sách 河 東
青 池 縣 永 寧 總 各 社 神 蹟 第 十 冊, AE.A2/86 [123]. Về thuyết này, có thể
lƣợc thuật nhƣ sau:
Dƣới thời Lý Thánh Tông, tại khu Đài, phƣờng An Thái, huyện Thiên
Bản, phủ Nghĩa Hƣng, đạo Sơn Nam có ông Lê Công Thƣởng, thuộc
dòng dõi thi thƣ, lấy bà Trần Thị Hiên. Ông là ngƣời tinh thông nghề
thuốc, tin theo đạo pháp, làm nhiều việc thiện, lại hay trợ cấp ngƣời
nghèo, trong nhà thờ Phật chẳng dứt khói hƣơng nhƣng đến quá ngũ tuần
(50) mà vẫn chƣa có một mống con nối dõi…
Một hôm gió mát, trong lúc thanh nhàn dƣ hứng, ông bà ngủ thiếp bên
đƣờng. Trong giấc mộng, bỗng ông mơ thấy mình lên trời, đƣợc hai vị
quan báo rằng: “Vâng lệnh Ngọc Hoàng, triệu ông vào Long môn bái
yết”. Ngọc hoàng phán bảo: “Nguyệt Tiên Công chúa bƣng chén ngọc, lỡ
tay đánh vỡ, nay cho giáng xuống trần gian làm con của nhà họ Lê”.
Ngọc hoàng sai các tiên nữ dẫn nàng Nguyệt Tiên giao cho ông đƣa về
dƣơng thế theo hƣớng Nam cửa Long môn. Sau đó, Thái bà cảm động
mang thai, đúng ngày Hai mƣơi chín tháng Một năm Giáp Thân, sinh hạ
đƣợc một cô con gái vô cùng xinh đẹp, đặt tên là Băng Nƣơng. Lên 3
106
tuổi, không may cha mẹ đều mất, Băng Nƣơng trở thành con gái nuôi của
ngƣời cậu ruột là Thái phó Trần Công Bình. Gia đình Thái phó yêu
thƣơng nàng nhƣ con ruột. Năm 13 tuổi, Băng Năng đã có tài sắc, đức độ
nổi trội trong đám nữ nhi. Trên ngƣời tỏa ra hƣơng thơm tự nhiên, thƣờng
thích hoa thơm, đồ chay, thích nghe đàn ca, làm thơ vịnh cảnh… Thấy
vậy, Thái phó liền cho con theo học Đặng công Tiên sinh. Học đƣợc mấy
năm thì tinh thông kinh điển Nho gia, Phật đạo, thấu hiểu huyền cơ, văn
võ song toàn. Năm 17 tuổi, nàng đƣợc gả cho vị thƣ sinh tên là Minh, từng
thi đỗ Tam trƣờng, có tài văn chƣơng tuyệt thế, vốn là đồng hƣơng. Vợ
chồng hòa hợp, loan phƣợng thành bầy, sắt cầm hòa hợp.
Khi Trần công nhậm chức Phủ Doãn ở phủ Phụng Thiên, có nhà ở Nam Phố,
trƣớc của thành Thăng Long. Một lần Băng Nƣơng trên đƣờng từ quê lên
kinh thành thăm cha mẹ, đến huyện Thanh Trì, phủ Thƣờng Tín, xứ Sơn
Nam Thƣợng, đúng lúc trời vừa xẩm tối, nàng trú chân ở lại huyện nha. Quan
dịch của khu Vĩnh Bảo, tổng Vĩnh Đặng và các viên chức huyện nha tiếp đón
rất long trọng, nhƣng khi thấy nhan sắc của nàng thì có ý đùa cợt, ai cũng
mong lấy đƣợc nàng làm vợ. Khi đang đùa cợt thì bỗng nhiên ai cũng nôn ọe
rồi phát bệnh, nóng, lạnh thất thƣờng, nói năng lảm nhảm, bò lăn ra đất, uống
thuốc mãi mà bệnh tình không thuyên giảm. Sau đó, họ lập đàn cầu khấn thì
đƣợc một vị thần báo mộng rằng: “Ta phụng mệnh Thƣợng đế, quyền làm
chúa tể của khu nói cho các ngƣơi biết: Băng Nƣơng vốn là con gái của Ngọc
hoàng Thƣợng đế, không phải ngƣời chốn nhân gian, nay đến huyện nha, các
ngƣơi cƣời cợt thị phi nên bị trách tội, phát bệnh, phát cuồng. Nếu muốn
đƣợc yên thì mau tìm Băng Nƣơng tạ tội”. Nghe biết vậy thì dân chúng bái
tạ, hành lễ cầu khấn, tới quan huyện trình rõ đầu đuôi, rồi lễ tạ mà đƣợc bình
yên… Năm 19 tuổi, Băng Nƣơng sinh đƣợc một ngƣời con trai, sau đó không
bệnh tự nhiên mà hóa. Từ đó, nàng thƣờng hiện về thăm thú gia đình bên
chồng và con cái, lại thƣờng biến hóa khôn lƣờng, giao du nay đây mai đó
ban phúc, giáng họa khắp nơi. Vua hay tin vô cùng tức giận, nhiều lần sai
binh mã đến Hoành Sơn diệt trừ nhƣng đều thất bại, đành lệnh cho ngƣời tạ
107
lễ, cầu đƣợc bình yên, phong làm Thƣợng đẳng Đệ nhất Chúa tiên, đƣợc
hƣởng hƣơng hỏa muôn đời, sau lại gia phong Liễu Hạnh Tiên Băng Công
chúa Hòa Diệu đại vƣơng… [37, tr. 175 - 183].
Cũng liên quan tới chuyện Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh thời Lý, trong luận
văn thạc sĩ Hán Nôm, Lê Tùng Lâm còn đề cập tới văn bản Hà đông tỉnh, Sơn Lãng
huyện, Bạch Sam tổng các xã thần tích 河 東 省 山 郎 縣 白 杉 總 各 社 神 蹟, kí
hiệu AE.A2/48, Viện Nghiên Cứu Hán Nôm [37].
3.2.3. Thuyết Vỉ Nhuế - Ghi trong Cát thiên tam thế thực lục
Đây là một cuốn sách đƣợc định bản qua một cuộc lên đồng, thỉnh Thánh
Mẫu Liễu Hạnh về kể lại sự tích của Mẫu, có ấn chứng/bút phê của Trần Hƣng Đạo,
Nguyễn Bỉnh Khiêm… “xác thực” lại sự tích của Mẫu Liễu Hạnh, rồi đƣợc san định
và khắc vào tháng trọng xuân năm Qúy Sửu niên hiệu Duy Tân (1913) - Bản lƣu tại
phủ Quảng Nạp). Theo thuyết này, Thánh Mẫu Liễu Hạnh trải qua ba kiếp giáng
sinh với lai lịch nhƣ sau:
- Kiếp thứ nhất, Mẫu giáng sinh tại thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế huyện Thái An,
phủ Nghĩa Hƣng, trấn Sơn Nam, trong nhà thái ông họ Phạm hiệu là Huyền Viên,
thái bà hiệu là Thuần hai ngƣời cùng một quê. Ở kiếp này mẫu cũng luôn giữ chữ
Trinh hiếu thảo thờ phụng cha mẹ, sau trở về chốn linh tiêu, mẫu tại thế từ năm
Giáp Dần niên hiệu Thiệu Bình nguyên niên (1434) cho tới năm Quí Tỵ niên hiệu
Hồng Đức thứ 4 (1473).
- Kiếp thứ hai, của Mẫu giáng sinh vào nhà thái công họ Lê tại xã Vân Cát,
huyện Vụ Bản, phủ Nghĩa Hƣng, thái công họ Lê tên húy là Đức Chinh. Tới
tuổi trƣởng thành đƣợc gả cho Trần Đào Lang ở thôn An Thái (sau đổi là
Tiên Hƣơng), sinh đƣợc một con trai tên là Nhâm. Ở kiếp này Mẫu tại thế từ
năm Đinh Tỵ niên hiệu Thiên Hựu nguyên niên (1555) cho tới năm Đinh
Sửu niên hiệu Gia Thái thứ 5 (1577).
- Kiếp thứ ba, Mẫu giáng sinh tại xã Tây Mỗ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa,
lấy chồng họ Mai (là tái hợp với hậu thân của Đào Lang), sinh đƣợc một con
trai tên là Cổn, đƣợc hơn một năm mẫu quay gót trở về đế hƣơng. Sau Ngọc
hoàng chuẩn cho mẫu đƣợc trắc giáng xuống cõi trần thƣờng xuyên tiêu dao
108
khắp nơi, đƣợc miễn vòng sinh tử luân hồi [11].
3.2.4. Thuyết Kẻ Giày (với nòng cốt là Truyện Vân Cát thần nữ, được cho là
của Đoàn Thị Điểm)
Về thuyết này, hiện tồn tại nhiều dị bản nhất, tuy có khác nhau về tiểu tiết
nhƣng cơ bản có thể lƣợc thuật nhƣ sau: Mẫu Liễu (Đệ nhị Tiên chúa Quỳnh Nƣơng)
vốn là con gái Ngọc hoàng. Trong hội bàn đào, vì lỡ tay đánh rơi chén ngọc, bị trích
đày xuống trần, giáng sinh làm con một gia đình họ Lê ở đất Kẻ Giày vào khoảng năm
Thiên Hựu (1557), đời vua Lê Anh Tông. Dựa theo điềm mộng (ngủ thiếp mơ lên thiên
đình đƣợc Ngọc hoàng hứa ban tặng đứa con gái), ông bố họ Lê đã đặt tên con là
Giáng Tiên, sau cho làm con nuôi của ngƣời họ Trần (ngƣời cùng làng, sát vách). Lớn
lên, Giáng Tiên có tài có sắc, giỏi về thơ phú, từ chƣơng, đàn hát, kết duyên cùng Đào
Lang (con nuôi của bố nuôi họ Trần), sinh đƣợc một ngƣời con trai và một cô con gái.
Năm 21 tuổi, đột nhiên không bệnh mà mất, nàng trở về trời.
Sau khi về trời, vì duyên trần chƣa hết, tơ tình còn vƣơng, Chúa thƣờng sầu não.
Các nàng tiên động lòng ái ngại tâu lên Thƣợng đế. Thƣợng đế đồng ý, phong làm Liễu
Hạnh Công chúa, lại cho xuống trần gian. Nàng thƣờng về nơi chốn cũ gặp ngƣời thân
(mẹ, bố, bố nuôi, anh) vào lúc chiều tối hoặc đêm (gặp chồng hẹn sẽ nối duyên). Sau
tung tích bất định, dạo chơi khắp nơi thắng cảnh (Lạng Sơn, Trƣờng An, Báo Thiên,
Đình Ngang, Bến Đông…, Tây Hồ, Nghệ An), rồi kết duyên với chàng Nho sinh (hậu
kiếp của ngƣời chồng cũ là Đào Lang), rồi lại sớm trở về trời. Nàng lại tâu với Thƣợng
đế xin đƣợc xuống trần vì duyên nợ ba sinh chƣa dứt. Thƣợng đế ƣng thuận, cho nàng
xuống vùng Phố Cát, Thanh Hóa cùng hai nàng Quế, Thị, thƣờng hiển linh ban phúc cho
ngƣời lành, giáng họa cho kẻ ác. Dân kính sợ bèn lập đền thờ. Khoảng năm Cảnh Trị
(1663 - 1671), triều đình nghe tin, cho quân và thuật sĩ đến tiễu trừ, giao tranh khốc liệt
nhƣng chẳng phân thắng bại. Khoảng vài tháng sau, bệnh dịch hoành hành, cả ngƣời và
vật đều bị giáng họa. Dân sợ hãi lập đàn cầu cúng, bỗng trong đám đông đang lễ bái có
một ngƣời chạy ra, nhảy vọt lên đàn cao ba tầng, tự xƣng là tiên nữ trên trời hiển thánh
dƣới cõi trần, sai dân tâu với triều đình xin lập đền phụng thờ làm phúc thần, bằng không
sẽ tiếp tục bị giáng họa. Vua chuẩn y, cho lập đền thờ tại Phố Cát, sắc phong Mã Hoàng
Công chúa. Sau vì có công phò vua giúp giặc mà đƣợc gia phong Chế Thắng Hòa Diệu
109
Đại vƣơng.
Trên nền thuyết này, vào cuối thời Nguyễn, bên Vân Cát và bên Tiên Hƣơng,
lại “sáng tạo” ra hai dị bản về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp Thánh Mẫu Liễu Hạnh
gắn với bên mình. Cụ thể:
- Bên Vân Cát (Vân Cát Lê gia ngọc phả) cho rằng: Tổ họ là Lê ở Vân Cát là
Lê Tƣ Vĩnh, là con thứ 5 của Lê Bang Cơ (Lê Nhân Tông). Sau khi nhà Lê bị họ
Mạc cƣớp ngôi, Lê Tƣ Vĩnh di cƣ về Vân Cát, lấy bà Trần Thị Thục, sinh ra Tƣ
Thắng. Tƣ Thắng sinh ra Giáng Tiên, tức Công chúa Liễu Hạnh. Liễu Hạnh lớn lên
lấy Đào Lang, mất năm 21 tuổi, u hồn tịch mịch, sau thƣờng hiển linh đƣợc lập đền
thờ trên nền nhà cũ, gọi là đền Cố Trạch, tức phủ Giày tại Vân Cát hiện nay [255].
Về tƣ liệu Hán Nôm ghi nhận hành trạng của Mẫu Liễu Hạnh gắn với bối cảnh
lịch sử thời Mạc, ngoài Vân Cát Lê gia ngọc phả, Vân Cát Thần Nữ cổ lục, Vân Cát cổ
lục diễn âm cũng đề cập sơ lƣợc đến hành trạng của Mẫu liên quan tới bối cảnh lịch sử
thời Lê Anh Tông và sự kiện Mạc Phúc Nguyên đóng quân tại Cao Bằng [253], [256].
- Bên Tiên Hƣơng lại cho rằng: Mẫu Liễu Hạnh là hậu duệ đời thứ 4 của Lê Quý Công, tự Phúc Tiên - tổ họ Trần ở An Thái, vốn là họ Lê. Năm Nhâm Thìn10 niên
hiệu Lê Hoằng Định (1600 - 1619), Tiên chúa (Liễu Hạnh) giáng sinh, họ này đƣợc đổi
sang họ Trần. Sinh thời, Mẫu Liễu Hạnh tên là Thắng, là con của ông Đức Chính, mẹ
là Phúc (ngƣời họ Trần), giáng sinh năm Nhâm Thìn niên hiệu Hoằng Định. Năm 19
tuổi, Mẫu lấy ngƣời họ Trần ở bản hƣơng, thôn Nhị Giáp, sau một thời gian về ở với
ngƣời em ruột, cùng phụng dƣỡng cha mẹ, đổi sang họ Trần. Giờ Dần ngày Mùng ba
tháng Ba năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628), Mẫu không bệnh tật bỗng dƣng hóa, hƣởng thọ
21 tuổi, lăng tại xứ Cây Đa. Từ đó u hồn tịch mịch, cha mẹ sớm tối thƣơng nhớ khôn
nguôi bèn lập ban thờ trong nhà, đèn nhang thờ phụng, vẫn thấy phảng phất nhƣ lúc
sinh thời. Một đêm, Mẫu hiện về trƣớc ban thờ tự thuật lại duyên cớ (sự tích có chép).
Trong xóm, ngoài làng đều cảm thấy kinh hãi. Mẫu tác yêu, tác quái khiến nhà chồng
ngày càng khánh kiệt, ra sức trấn trị nhƣng ngƣời tin theo ngày càng tôn kính, tiếng
tăm ngày một lẫy lừng, gần thì truyền tai trong xóm, xa thì thiên hạ vang danh. Tiếng 10 Trong niên hiệu Hoằng Định (1600 - 1619), không có năm Nhâm Thìn. Có lẽ, ở đây có sự nhầm lẫn về năm sinh hoặc niên hiệu vua? Dƣới niên hiệu Hoằng Định có năm Nhâm Dần - 1602 và năm Giáp Thìn - 1604
110
đồn đến tận kinh thành, dƣới thời Lê, năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642), dân phụng lệnh
chỉ dựng đền thờ lợp ngói. Năm Chính Hòa thứ 4 (1683) đƣợc tặng sắc phong. Từ đó
về sau, đền thiêng hiển hách, đƣợc triều đình nhiều lần phong tặng, thực là chuyện kỳ
lạ nhất huyện Thiên Bản dƣới quốc triều.
3.2.5. Thuyết Nội đạo tràng (Theo Nội đạo tràng)
Theo thuyết này, cơ bản sự tích về Mẫu Liễu Hạnh giống nhƣ thuyết Vân
Cát, tuy nhiên, chỉ khác là có thêm phần “Đại chiến Sòng Sơn” ghi việc Mẫu Liễu
Hạnh đại chiến với Tiền Quan Thánh tại Tam Điệp bị tiền Quan Thánh khuất phục,
Mẫu xin tha và vào chùa tu hành đắc đạo…, sau điện thờ phái Nội đạo cũng lập ban
thờ Mẫu Liễu Hạnh ở bên tả (trái).
Trên thực tế, mỗi thuyết đều có dị bản nhƣng có thể khẳng định, đây là
những “hồi quang” trong tín niệm dân gian về lai lịch của Thánh Mẫu Liễu Hạnh từ
những truyền thuyết đƣợc văn bản hóa. Đƣơng nhiên, phải thừa nhận rằng, dù
truyền thuyết là sáng tạo dân gian, thƣờng có những yếu tố tƣởng tƣợng kì ảo nhƣng
các nhân vật, sự kiện ít nhiều đều liên quan đến vấn đề lịch sử. Vậy, hạt nhân lịch
sử trong những truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở đây là gì?
Nếu để ý thì các thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh hầu hết đều có chung một
đặc điểm không khó nhận ra, đó là: Chi tiết thân phụ của Thánh Mẫu gặp Đạo sĩ rồi
chìm vào giấc mơ, thấy mình đƣợc lên trời gặp Ngọc Hoàng Thƣợng đế và đƣợc
Thƣợng đế ban cho nàng tiên (Quỳnh Nƣơng) giáng thế đầu thai làm con hoặc khi
Mẫu mất về thăm lại ngƣời thân (mẹ, chồng…)… nhƣ đều phảng phất bóng giáng
của những cuộc lên đồng thiếp/đồng mê. Đặc biệt, dù Mẫu là Tiên (con của Thƣợng
đế/Đế Thích, Ngọc hoàng gắn với Đạo giáo thần tiên/tu tiên) nhƣng đều trải qua
kiếp trần gian, có tài sắc, đức độ, sau khi mất, xuất hiện nhiều điềm báo lạ. Những
điềm lạ này thƣờng đƣợc Mẫu hiển linh nhập vào một ngƣời “phán truyền” cho
ngƣời đời hoặc đƣợc phản ánh qua tƣ duy liên tƣởng trong mối liên hệ giữa ngƣời
còn sống và ngƣời đã khuất qua thực hành đồng thiếp/mê. Đặc biệt, hầu hết các
thuyết còn có một điểm chung là xây dựng hình tƣợng Mẫu theo một motif: Mẫu
xuất thân là Thiên tiên ở chốn Thiên đình, qua ba kiếp hóa sinh và trở thành Địa
tiên tiêu giao nơi trần thế. Phải chăng, đó là một con đƣờng thiêng hóa Mẫu, thông
111
qua hình thức lên đồng, cầu tiên để con ngƣời liên hệ với thế giới siêu nhiên thuộc
cơ chế sáng tạo dân gian trong tục thờ thần của ngƣời Việt khi họ tin rằng, mỗi
ngƣời đều có một hoặc vài vị thần thủ mệnh, chi phối và quyết định vận mệnh và
cuộc sống của họ trong suốt cuộc đời...
Thần thủ mệnh, đơn giản khi chỉ đƣợc hình dung là hai khí âm - dƣơng lƣu
chuyển trong ngũ hành hoặc 12 con giáp, khi đƣợc kết hợp giữa thiên can (10) địa
chi (12) để hợp thành lục thập hoa giáp (60 năm) hoặc đƣợc hình dung là sao nọ,
sao kia… Với tín ngƣỡng thờ Mẫu cũng không phải là ngoại lệ, thậm chí còn phong
phú hơn nhiều nếu để ý tới tục đội bát hƣơng - tôn nhang phụng sự chƣ vị cai quản
bản mệnh theo lục thập hoa giáp. Theo tín đồ thờ Mẫu, bản mệnh của họ cũng bị chi
phối bởi các Mẫu và hệ thần quanh Mẫu, vì thế mà họ chỉ thực sự trở thành con của
Mẫu, đƣợc Mẫu che chở sau khi họ đƣợc tôn nhang bảng mệnh, tức đội bát hƣơng
thờ phụng ít nhất một vị thần thuộc hệ Mẫu… Phải chăng, nguyên lý Mẹ và tính mở
của “quy ƣớc” này và hình thức lên đồng/nhập đồng phán truyền đã tạo điều kiện
thuận lợi để các vị thần vốn thuộc tôn giáo, tín ngƣỡng khác đễ dàng dung hội vào
hệ thần tín ngƣỡng thờ Mẫu và ngƣợc lại, tạo tiền đề cho tín ngƣỡng này phát triển,
dễ dàng thâm nhập vào nhiều dạng thức kiến trúc thờ tự khác ở giai đoạn sau, đặc
biệt là các ngôi chùa…
Về Mẫu Đệ nhị (Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân) và Mẫu Đệ tam (Quảng cung
Quế Hoa Công chúa): Thần hiệu của hai Mẫu đã đƣợc sắc phong (hiện còn bản gốc)
tại khu vực phủ Giày đề cập đến ít nhất từ thế kỷ XVIII. Trong khi, Vân Cát Thần nữ
truyện và hầu hết các bản thần tích liên quan đều chỉ ghi nhận hai bà là những vị tùy
tùng của Thánh Mẫu Liễu Hạnh - Vân Cát thần nữ truyện ghi nhận Thánh Mẫu Liễu
Hạnh dẫn hai nàng Quế, Thị giáng xuống vùng Phố Cát, Thanh Hóa nhƣng bóng dáng
của hai bà lại tƣơng đối mờ nhạt [249]. Qua các bản thần tích, danh tính hai vị lại phức
tạp hơn nhiều. Theo khảo cứu của Lê Tùng Lâm, hiện có tới 13 bản thần tích chép hai
vị có tên là Quảng và Quế; 3 bản thần tích chép hai bà có tên là Quảng cung Quế Anh
và Quỳnh cung Duy Tiên; 1 bản thần tích chép hai bà có tên là Quảng cung Quế Hoa
và Quỳnh cung Duy Tiên; 2 bản thần tích chép hai nàng có tên Quỳnh Hoa, Quế Hoa;
1 bản thần tích chép hai bà có tên Quế, Hồng; 1 bản thần tích chép hai bà có tên Quế,
112
Hòe; 1 bản thần tích chỉ chép 1 nàng có tên Quý Thị và Lê Tùng Lâm ngờ rằng - do tên
hai nàng Quế, Thị gộp lại mà thành [37].
Theo Thư lâu phả ký thì Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân vốn là chị dâu của
Mẫu Liễu Hạnh, húy là Sâm, tự là Duy Tiên. Sinh thời, bà thích làm việc thiện,
đoan trang, thuần khiết, phụng sự cô Thắng (em dâu) nhƣ phụng sự cha mẹ. Ngày
Mùng Chín tháng Ba, bỗng dƣng không bệnh tật mà mất, hƣởng thọ 51 tuổi, u hồn
tịch mịch, linh khí tích tụ, giữa đêm mƣợn mồn ngƣời khác tự xƣng là Ngọc nữ
Quỳnh cung Duy Tiên Công chúa và đƣợc phối thờ cùng Liễu Hạnh Công chúa…
Quảng cung Quế Hoa Công chúa vốn là con của anh trai Mẫu Liễu Hạnh, gọi Mẫu
Liễu Hạnh là cô. Bà húy là Liên, tự Quế Anh. Sinh thời là ngƣời đoan trang, công
dung trọn vẹn, năm 9 tuổi, đúng ngày Rằm tháng Ba, không bệnh tự nhiên hóa, u
hồn tịch mịch, giữa ban ngày (mƣợn mồm ngƣời khác) tự xƣng là Ngọc nữ Quảng
cung Quế Hoa Công chúa, đƣợc phối thờ cùng với hai vị là Liễu Hạnh Công chúa
và Duy Tiên Công chúa. Điểm đặc biệt là có một sự tƣơng đồng đến lạ kỳ về thân
phận, danh vị của Mẫu Đệ nhị (Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân) và Mẫu Đệ tam
(Quảng cung Quế Hoa Công chúa) giữa ghi chép trong Tiên từ phả ký và hệ thống
sắc phong cho hai bà mang niên đại từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX, hiện còn đƣợc
lƣu giữ trong phủ Tiên hƣơng và nhà thờ họ Trần Lê. Theo đó, tại khu vực phủ
Giày, Mẫu Đệ nhất - Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Đệ nhị - Quỳnh cung Duy Tiên Phu
nhân, Mẫu Đệ tam - Quảng cung Quế Anh Phu nhân đã đƣợc cấu trúc, kết hợp
thành bộ ba, dạng Tam vị/Ba ngôi nhất thể - Mẫu Tam vị/Tam tòa, đều thuộc Thiên
Tiên (phủ), không phải dạng Tam phủ (Thiên, Địa, Thủy) và thƣờng đƣợc dân gian
định danh là Ba vị Thánh Mẫu Vân Hƣơng (Có thể hiểu là Ba vị Thánh Mẫu ở Vân
Cát và Tiên Hƣơng)…
Về sự “mờ nhạt” của Mẫu Mẫu Đệ nhị - Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân,
Mẫu Đệ tam - Quảng cung Quế Anh Phu nhân trong bộ ba dạng Tam vị nhất thể -
Mẫu Tam vị/Tam tòa tại phủ Giày, hiện chƣa có điều kiện lý giải thỏa đáng. Trong
kiến giải dân gian, có quan điểm cho rằng, ba vị Thánh Mẫu phủ Giày là hiện thân
của ba kiếp hóa sinh của Mẫu Liễu Hạnh. Tuy nhiên, với Đạo giáo dân gian, 瓊 宮
Quỳnh cung là thuật ngữ thƣờng dùng để chỉ chốn thiên cung hoặc đạo viện (cơ sở
113
Đạo giáo), 廣 宮 Quảng cung thƣờng chỉ cung trăng hoặc miền thanh hƣ. Từ lớp
nghĩa này, liên tƣởng tới các lần giáng thế của Thánh Mẫu Liễu Hạnh (nhiều tài liệu
ghi nhận Mẫu từng tự xƣng là Đệ nhị Quỳnh Nƣơng hoặc Quỳnh Nƣơng…) và bối
cảnh lịch sử xã hội, tôn giáo - tín ngƣỡng ở nƣớc ta đƣơng thời, một giả thiết để làm
việc đƣợc đặt ra là: Phải chăng, trong câu chuyện Mẫu Liễu giáng sinh, ngoài
những phản ánh về sự trỗi dậy mạnh mẽ của tín ngƣỡng bản địa để trở về với
nguyên lý Mẫu trong văn hóa Việt, đâu đó, nhƣ còn phảng phất lớp văn hóa đạo
giáo thần tiên trong bối cảnh biến đổi lịch sử xã hội và chuyển đổi tôn giáo vào
khoảng thế kỷ XVI - XVII, vì thế mới có chuyện Mẫu chán cảnh Thiên Tiên, ba lần
xuống trần rồi làm kiếp Địa Tiên để rồi trụ lại thế gian, tiêu dao bất định?
Trên đây là những nét cơ bản về hành trạng thần kỳ của ba vị Thánh mẫu
phủ Giày qua phản ánh của tƣ duy tôn giáo và niềm tin tín ngƣỡng đƣợc tổng hợp
và phân tích qua nguồn tƣ liệu Hán Nôm mà nghiên cứu sinh tạm định danh là
“hành trạng thần tiên”. Vậy có hay không một “hành trạng thế tục” về cuộc đời của
Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày? Câu trả lời là có. Về vấn đề này, qua tƣ liệu sắc
phong, nghiên cứu sinh xin đƣợc trở lại diễn giải làm rõ trong chƣơng 4.
Nhƣ vậy, theo diễn giải dân gian và ý thức hệ tƣ tƣởng chính thống thời
Nguyễn (triều đình xác nhận), bên cạnh “hành trạng thần tiên”, nguồn gốc Thiên
Tiên, ba vị Thánh Mẫu phủ Giày còn có “hành trạng thế tục”, với đầy đủ những
cung bậc thác ghềnh của một vòng đời thân phận nữ, để rồi, sau hợp lại thành một
thiên truyền kỳ nổi tiếng khắp vùng Thiên Bản, dƣới gầm trời Nam. Đây là một
minh chứng cụ thể về xu hƣớng “thần thánh hóa” con ngƣời bên cạnh xu hƣớng
nhân hóa thần linh trong tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời Việt, với điểm đặc biệt
là đã đƣợc chính triều đình thừa nhận
3.3. Lịch sử kiến trúc phủ Giày qua tƣ liệu Hán Nôm
Nhƣ trên đã trình bày, Vân Cát Thần nữ truyện có đề cập đến chuyện triều
đình cho dân lập đền thờ Mẫu Liễu Hạnh trong vùng Phố Cát (Thanh Hóa) dƣới
thời Cảnh Trị (1663 - 1671) nhƣng không đề cập tới chuyện xây dựng phủ Giày tại
thời điểm này. Vậy thực chất phủ Giày xuất hiện từ khi nào?
Với phủ Giày Vân Cát, văn bia Thánh Mẫu cố trạch linh từ bi ký, khắc năm
114
Tân Sửu (1901) triều vua Thành Thái (hiện lƣu tại phủ), cho biết: Đền ở Vân Cát
đƣợc dựng trên khu đất ứng giáng điềm lành từ niên hiệu Cảnh Trị thời Lê (1663 -
1671), với quy mô nhỏ hẹp. Dƣới thời Tây Sơn, niên hiệu Cảnh Thịnh (1793 -
1801), Hội nguyên Trần Gia Du, Tả Thiếu giám Trần Công Bản mở rộng quy mô.
Dƣới thời Tự Đức, vào năm Kỷ Mão (1879), Huyện doãn Lê Cơ cho sửa sang lại.
Đến tháng Sáu năm Thành Thái thứ 10 (1898) lại khởi công tu bổ, tôn tạo. Đến năm
Thành Thái thứ 12 (1900) thì hoàn thành, quy mô to lớn, rộng rãi hơn xƣa. Trong
đợt tu bổ, tôn tạo này có sự tham gia của Hiệp biện Đại học sĩ, Phó Tổng tài Quốc
sử quán kiêm quản Quốc giám, An Xuân nam, Cổ Hoan Cao Long Cƣơng, Cao
Xuân Dục. Đặc biệt, Tục lệ xã Vân Cát do quan viên, chức sắc, kỳ lão, hƣơng thôn,
giáp trƣởng toàn xã Vân Cát lập ngày mùng Một tháng Mƣời một năm Tự Đức thứ
10 (1857) còn cho biết, đƣơng thời (năm 1857), diện mạo cơ bản của các kiến trúc
thờ tự trong xã Vân Cát nhƣ sau: chùa: 1 ngôi; phủ từ phụng thờ Tiên Chúa: trong
ngoài 4 tòa, cùng hành lang, lầu gác; điện từ: 2 tòa, thờ Tiền Lý Nam đế Tôn thần,
bên tả (trái) thờ quan Thám hoa, bên hữu (phải) thờ quan Giáo thụ; đền: 1 tòa, thờ
Cẩn Hoa Công chúa; đền thờ Bản Cảnh Thành hoàng: 1 tòa [186].
Kết quả khảo sát sắc phong hiện còn tại khu vực phủ Giày cho thấy, phủ
Tiên Hƣơng hiện đang lƣu giữ 15 đạo, nhà thờ dòng họ Trần Lê còn lƣu giữ 07.
Trong đó, sắc sớm nhất (tại nhà thờ dòng họ Trần Lê) phong ngày Hai mƣơi bốn
tháng Sáu nhuận năm Chính Hòa thứ 4 (1683), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng Tề
Gia Trị Quốc Hộ Sĩ Cẩn Tiết Hòa Mỹ Đoan Trang Công chúa.
Trở lại với bối cảnh lịch sử địa chính và văn hóa khu vực phủ Giày và quan hệ
phụng thờ thần giữa Vân Cát - An Thái - Tiên Hƣơng. Vân Cát và An Thái vốn cùng
thuộc Kẻ Giày, sau Vân Cát và An Thái đƣợc tách ra thành hai xã độc lập vào khoảng
cuối thế thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI, sau lại sáp nhập lại thành xã An Thái (mới) vào
đầu thời Gia Long (khoảng từ 1805 - 1811). Tuy nhiên, đây chỉ là sự tách hợp về mặt
địa chính. Về văn hóa tín ngƣỡng, hai bên vẫn thờ chung thần và chung đền ít nhất đến
cuối thời Thiệu Trị - đầu thời Tự Đức nhƣng không thể muộn hơn năm Tự Đức thứ 3
(1850) - Thời điểm xã An Thái (mới) đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng. Tục lệ xã
Vân Cát lập năm Tự Đức thứ 10 (1857) ghi nhận, tại thời điểm lập bản tục lệ này
115
(1857), trong số các đền bên Vân Cát vẫn có ngôi đền gồm 2 tòa, thờ Tiền Lý Nam đế
Tôn thần, bên tả (trái) thờ quan Thám hoa (ngƣời Vân Cát), bên hữu (phải) thờ quan
Giáo thụ [186]… Khi ấy, bên xã Vân Cát vì đinh thƣa, dân ít không lo đƣợc việc thờ
Mẫu đã đem nguyên lệ chuyển giao cho Tiên Hƣơng. Phải chăng, trong cuộc chuyển
giao nguyên lệ này, linh vị hoặc linh tƣợng các Mẫu (nếu có), sắc phong, cùng một số
đồ thờ tự liên quan cũng đƣợc chuyển giao lại cho bên Tiên Hƣơng thờ tự? Thần nữ
(Thánh Mẫu Liễu Hạnh) vốn ở vân Cát, vì vậy, các sắc phong cho Tam vị/Ba ngôi
Thánh Mẫu đang đề cập có niên đại trƣớc khi Vân Cát tách khỏi xã An Thái (mới) tái
lập xã Vân Cát ắt hẳn vốn hoặc thuộc về xã Vân Cát hoặc thuộc về xã An Thái (mới)
(trong đó có Vân Cát). Chính vì vậy mà số sắc triều đình phong cho các Mẫu hiện còn,
nay đều thuộc về bên Tiên Hƣơng. Những ghi chép Hán Nôm về sắc phong hoặc kê
khai sắc phong của Vân Cát và Tiên Hƣơng cũng phần nào cho thấy điều này (bản
chép sắc phong của xã Vân Cát chỉ có các sắc thời Lê dù tính chân xác về nội dung có
nhiều điểm nghi vấn nhƣ đã đề cập ở trên, bản kê sắc phong xã Tiên Hƣơng chỉ có các
sắc thời Nguyễn)…
Qua đây có thể tạm khẳng định, từ khoảng thế kỷ XVI tín ngƣỡng thờ Mẫu
Liễu Hạnh đã đƣợc định hình. Tƣơng ứng với khoảng thời gian này, ở khu vực Kẻ
Giầy đã tồn tại một ngôi đền riêng thờ Mẫu Liễu Hạnh với quy mô tƣng xứng
nhƣng ít nhất từ thế kỷ XVII, phủ Vân Cát/đền Cố Trạch đã đƣợc xây dựng tƣơng
đối quy mô. Sau đó, vào năm Thành Thái thứ 10 (1898), đền này đƣợc đại trùng tu,
với sự trợ duyên của Hiệp biện Đại học sĩ, Phó Tổng tài Quốc sử quán kiêm quản
Quốc giám, An Xuân nam, Cổ Hoan Cao Long Cƣơng, Cao Xuân Dục, dân xã,
cùng thiện tín thập phƣơng. Diện mạo kiến trúc của phủ hiện nay, cơ bản là sản
phẩm của các đợt trùng tu vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX trở về sau.
Với phủ Giày Tiên Hƣơng, Thư lâu phả ký (Gia phả họ Trần Lê ở xã An
Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng), phần chép về Tổ cô húy Thắng, tự Liễu
Hạnh Công chúa, cho biết: Giờ Dần ngày mùng Ba tháng Ba năm Vĩnh Tộ thứ 10
(1628), Mẫu Liễu Hạnh không bệnh mà hóa, hƣởng thọ 21 tuổi, tôn lăng tại xứ Cây
Đa... Từ đó u hồn tịch mịch, cha mẹ sớm tối thƣơng nhớ không nguôi bèn lập ban
thờ trong nhà, đèn nhang thờ phụng phảng phất nhƣ lúc sinh thời. Bỗng một đêm,
116
mẫu hiện về trƣớc ban thờ tự thuật lại duyên cớ (sự tích có chép). Trong xóm, ngoài
làng đều cảm thấy kinh hãi, tác yêu, tác quái khiến nhà chồng ngày càng khánh kiệt,
ra sức trấn trị nhƣng ngƣời tin theo ngày càng tôn kính, tiếng tăm ngày một lẫy
lừng, gần thì truyền tai trong xóm, xa thì thiên hạ vang danh. Tiếng đồn đến kinh
thành, dƣới thời Lê, năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642), phụng lệnh chỉ dựng đền thờ lợp
ngói. Năm Chính Hòa thứ 4 (1683) đƣợc tặng sắc phong. Từ đó về sau, đền thiêng
hiển hách, đƣợc triều đình nhiều lần phong tặng, thực là chuyện kỳ lạ nhất huyện
Thiên Bản dƣới quốc triều.
Cũng theo Thư lâu phả ký, phần chép về Hiển khảo húy Đức, tự Huyền
Nhân, lại có tên húy khác là Mạn, cho biết, sinh thời, vào năm Quý Mùi (1703) niên
hiệu Chính Hòa (1680 - 1705), ông đã tiến hành cải tạo phủ từ bố cục 1 tòa thành 3
tòa, mỗi tòa 3 gian, lợp cỏ tranh, đúc tƣợng Tiên Thánh bằng đồng, sau lại cùng
thập phƣơng cung tiến đúc thêm hai vị - thành ba vị...
Ngoài ra, văn bia tại phủ khắc tháng Giêng năm Duy Tân thứ 9 (1915), do
Hiệp biện Đại học sỹ Tổng đốc tỉnh Nam Định Thanh Oai Đoàn Triển soạn cho
biết: Mùa thu năm Nhâm Tý (1912), ông về nhận việc Đốc học Nam Đinh, đƣợc
ngƣời trong làng, trong họ và thân hào trong huyện bàn việc tập hợp tiền của tu sửa
đền... Ông đã ủy thác cho huyện đoãn Vũ Duy Đê đứng ra đốc công. Mùa đông năm
ấy bắt tay vào việc xây dựng, từ nội phủ đến bái đƣờng, gồm bốn tòa làm theo kiểu
mới, phía trƣớc thì các lầu tả hữu giải vũ gồm chín tòa, đều nhân theo nếp cũ, rồi
xây rộng tƣờng vây đắp hoa trên đầu cột, xây nguyệt hồ, khuôn khổ rộng rãi, so với
trƣớc có mở mang… Đến tháng Tám năm Quý Sửu (1913) thì hoàn công. Diện mạo
kiến trúc của phủ hiện nay, cơ bản là sản phẩm của các đợt trùng tu từ đầu thế kỷ
XX trở về sau.
Nhƣ vậy, theo lịch sử địa chính và văn hóa khu vực phủ Giày, đặc biệt là
nguồn địa bạ thì có thể tạm coi những ghi chép về phủ Giày thuộc xã Tiên Hƣơng
dƣới thời Lê, nhƣ Thư lâu phả ký phản ánh là ảnh ảnh xạ của phủ Giày An Thái khi
chƣa phân tách. Về diện mạo của phủ này trong khoảng đầu thế kỷ XX, Khảo đồng
sự ký cho biết nhƣ sau: Đền chính thờ Thánh Mẫu không gọi là đền mà tôn trọng
Thánh Mẫu gọi là phủ Chính. Phủ này gồm bốn cung. Cung Đệ nhất thờ Thánh
117
Mẫu, có một long ngai. Cung này đóng kín không cho ngƣời nào trông vào. Cung
Đệ nhị giáp cung Đệ nhất, trong cung này cũng có một long ngai thờ Thánh Mẫu và
một long ngai thờ con trai của Thánh Mẫu. Ở cung Đệ nhị, mọi ngƣời có thể dâng
sớ cúng tại đây nhƣng không đƣợc ngồi đồng. Cung Đệ tam cũng có một long ngai
thờ Thánh Mẫu, mọi ngƣời thƣờng mang xôi, gà, trầu, rƣợu, vàng mã, oản quả cúng
và ngồi đồng tại đây. Cung Đệ tứ cũng có một tòa long ngai thờ Thánh Mẫu cùng
các cô hầu Thánh Mẫu. Tại cung Đệ tam, mọi ngƣời ngồi đồng rất đông, nếu hết
chỗ sẽ ra ngồi đồng ở cung Đệ tứ [152].
Ngoài ra, liên quan tới địa điển và sinh hoạt văn hóa (hội, lệ) gắn với Mẫu
Liễu Hạnh tại khu vực Kẻ Giày trƣớc năm 1945, không thể bỏ qua lăng Mẫu Liễu
Hạnh và phủ Tổ (Thánh tổ từ) thờ Thánh phụ và Thánh Mẫu bên Vân Cát và Tiên
Hƣơng và phủ Bóng (Nguyệt Du cung)…
3.4. Hội phủ Giày và một số sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngƣỡng
thờ Mẫu Liễu Hạnh qua tƣ liệu Hán Nôm
Qua ghi chép của tƣ liệu Hán Nôm, tại khu vực phủ Giày Nam Định xƣa, các
sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh, thƣờng đƣợc tổ
chức theo thông lệ định kỳ và gắn với các dịp lễ tiết, cơ bản gồm, lễ kỵ đức Khải
thánh (tháng Giêng); lễ tế trong ngày hóa của Thánh Mẫu Liễu Hạnh (Mùng Ba
tháng Ba) và mở hội đến hết Rằm tháng Ba; tế hạ điền mùa hạ, lễ khánh đản (Rằm
tháng Tám)… Tuy nhiên, vì lý do tƣ liệu (Hán Nôm) ghi chép rất giản lƣợc nên
chƣa thể hình dung đƣợc diện mạo cụ thể các lễ tiết và sinh hoạt văn hóa liên quan
đƣợc tổ chức nhƣ thế nào kể từ khi tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh đƣợc xã lập ở
khu vực kẻ Giầy (khoảng thế kỷ XVI) đến trƣớc thời điểm thôn Vân Cát đƣợc tách
khỏi xã An Thái (mới) để tái lập xã Vân Cát và xã An Thái (mới) đƣợc đổi tên
thành xã Tiên Hƣơng vào khoảng những năm 1844 - 1850 (cuối thời Thiệu Trị - đầu
thời Tự Đức), tức thời điểm phủ Giầy ở Kẻ Giầy chính thức đƣợc “nhân đôi” và thờ
tự độc lập, với một bên là phủ Giầy Vân Cát (đền Cố Trạch), thuộc xã Vân Cát và
một bên là phủ Giầy Tiên Hƣơng, thuộc xã Tiên Hƣơng.
Trong điều kiện tƣ liệu có thể khảo, dƣới đây, nghiên cứu sinh xin giới thiệu
sơ lƣợc về hội phủ Giầy Vân Cát và hội phủ Giầy Tiên Hƣơng cùng một số sinh
118
hoạt văn hóa liên quan từ khoảng nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX.
3.4.1. Hội phủ Giày Vân Cát và một số sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín
ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh qua tư liệu Hán Nôm
Tục lệ xã Vân Cát do quan viên, chức sắc, kỳ lão, hƣơng thôn, giáp trƣởng
toàn xã Vân Cát lập ngày mồng Một (1) tháng Mƣời một (11) năm Tự Đức thứ 10
(1857) cho biết: Đƣơng thời, các cơ sở sinh hoạt văn hóa tôn giáo, tín ngƣỡng của
bản xã gồm, chùa: 1 ngôi; phủ từ phụng thờ Tiên Chúa: Trong ngoài 4 tòa, cùng
hành lang, lầu gác; điện từ: 2 tòa, thờ Tiền Lý Nam đế Tôn thần, bên tả (trái) thờ
quan Thám hoa, bên hữu (phải) thờ quan Giáo thụ. Đất và vƣờn trong khuôn viên
ƣớc khoảng 1 mẫu, giao cho các thủ từ canh tác lấy tiền lo hƣơng đèn, bao xái,
trông nom, qoét dọn; đền: 1 tòa, thờ Cẩn Hoa Công chúa; đền thờ Bản Cảnh Thành
hoàng: 1 tòa [186]. Các lễ tiết chính và sinh hoạt văn hóa trực tiếp liên quan tới việc
thờ Mẫu Liễu Hạnh đƣợc liệt kê nhƣ sau:
Hằng năm vào dịp tháng Ba, dịp giỗ Tiên Thánh, mở hội 10 ngày theo tuần tự:
- Ngày mùng Một: Thân hào trong bản huyện đến tế, cỗ gồm: trâu 1 con,
bánh 100 đấu, cùng trầu rƣợu, ƣớc khoảng 50 nguyên.
- Ngày mùng Hai: Chánh phó quan và viên chức Đội Biền binh trong bản huyện
đến tế. Lễ gồm: lợn1 con, bánh 50 đấu, cùng trầu rƣợu, giá khoảng 30 nguyên.
- Ngày mùng Ba: Bản xã cúng giỗ, lễ gồm: 1 trâu, bánh 100 đấu và trầu,
rƣợu, ƣớc khoảng 40 nguyên.
- Ngày mùng Bốn: Quan bản huyện và chánh phó tổng mới, cũ đến tế. Lễ
gồm: 1 trâu, bánh 100 đấu, cùng trầu, rƣợu, giá khoảng 60 nguyên.
- Ngày mùng 5 thỉnh kinh tại chùa Bảo Ngũ.
- Ngày mùng Sáu, mùng Bảy: Chánh phó tổng, lý dịch trong bản tổng đem
dân phu cùng gậy hoa, chiêng, cờ, trống, kéo chữ trƣớc cửa phủ.
- Ngày mùng Tám: Tân cựu chánh phó tổng, lý dịch trong bản huyện đem
dân phu cùng gậy hoa, cờ, trống, chiêng xếp chữ trƣớc cửa phủ.
- Ngày mùng Chín, mùng Mƣời: Mở hội cờ có thƣởng tại trƣớc phủ.
Từ mùng Một đến mùng Mƣời, khách thập phƣơng đến bày đồ mua bán. Bản
xã cúng tạ lễ vào ngày rằm (tháng Ba) [186].
119
Hồi cố về nguồn gốc của hội phủ Giầy Vân Cát, Tân Biên Nam Định tỉnh Dư
địa chí lược cho biết nhƣ sau: “Truyền rằng Trịnh Thái phi đến cầu ở đền Mẫu, đƣợc
ứng nghiệm rõ rệt, lúc ấy xã dân đang đắp đê, khơi nƣớc kinh thành, Phi muốn tạ ơn
bèn miễn sƣu dịch cho dân về hết, bỏ mai cuốc dùng gậy dƣơng biển kéo chữ “Thánh
cung vạn tuế, Mã Vàng Công chúa, thái bình ca xƣớng, quốc thái dân an, sở cầu nhƣ
ý, vạn thế phúc thần, dân lại dĩ an” để đáp lễ đang trong ngày kị. Từ đó thành lệ của
đền Vân Cát, đến thời Tự Đức thì Vân Cát ít ngƣời không lo đƣợc bèn giao cho đền
Tiên Hƣơng, đến nay Tiên Hƣơng vẫn giữ lệ này” [80, tr. 101]. Bên cạnh đó, còn có
một thuyết khác cũng đƣợc văn bản Hán Nôm Khảo đồng sự ký ghi lại sự tích của
hội phủ Giầy gắn với tích truyện một cô gái xấu xí đƣợc Mẫu thƣơng Mẫu độ sau khi
Mẫu cảm thông lời thỉnh cầu của cha mẹ cô gái, Mẫu đã phù hộ. Sau khi lấy đƣợc
vua Lý/chúa Trịnh, cô đã về lập ra hội hoa trƣợng để tạo ơn Mẫu nhƣ đã đề cập ở trên
[152]. Về tính chân xác lịch sử và các lớp chồng văn hóa trong hai thuyết này, hiện
nghiên cứu sinh chƣa có điều kiện để khảo, xin đƣợc hẹn trở lại vào một dịp khác.
Tuy nhiên, một điểm đặc biệt cần lƣu ý rằng, sau khi tái lập vào khoảng
những năm 1844 - 1850 (cuối thời Thiệu Trị - đầu thời Tự Đức), không lâu sau,
cũng vào đầu thời Tự Đức, bên xã Vân Cát khi này ít ngƣời không lo đƣợc hội lệ đành
chuyển giao nguyên lệ cho bên Tiên Hƣơng và đến khoảng năm 1918- 1919, hội Vân
Cát lại đƣợc phép phục hồi, tiếp tục đƣợc duy trì sau khi bị gián đoạn hơn 60 năm. Sau
khi đƣợc phép mở lại hội, diện mạo hội Vân Cát đƣợc Vân Cát hàng hội bi ký, khắc
năm Khải Định thứ 10 (1925) phản ánh nhƣ sau: Theo lệ, hằng năm vào dịp tháng
Ba, dân của 12 tổng trong huyện (Vụ Bản), gồm: Vụ Bản, La Xá, Phú Lão, Hiển
Khánh, Đồng Đội, Vân Côi, Bảo Ngũ, An Cự, Trình Thƣợng, Trình Hạ, Hào Kiệt,
Hổ Sơn cùng tham gia hội kéo chữ (hội hoa trƣợng). Sáu tổng miền thƣợng tham gia
kéo chữ ở Tiên hƣơng, vào ngày mùng Bảy, sáu tổng thuộc miền hạ tham gia kéo chữ
ở Vân Cát vào ngày mùng Tám. Lý dịch các địa phƣơng có trách nhiệm lo phu hội và
gậy hoa, rƣớc về Tiên Hƣơng và Vân Cát.
Trên đây là những nét cơ bản nhất có thể hình dung về hội phủ Vân Cát cùng
một số lễ tiết, sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh qua
tƣ liệu Hán Nôm.
120
3.4.2. Hội phủ Giày Tiên Hương và một số sinh hoạt văn hóa liên quan
đến tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh qua tư liệu Hán Nôm
Tục lệ xã Tiên Hương do tiên thứ chỉ, kỳ mục, quan viên chức dịch lập ngày
ngày Hai mƣơi nhăm tháng Giêng năm Tự Đức thứ 3 (1850) ghi nhận, đƣơng thời,
các lễ tiết, sinh hoạt văn hóa gắn với việc phụng thờ Thánh Mẫu tại phủ Tiên
Hƣơng đƣợc phản ánh nhƣ sau:
Xã Tiên Hƣơng có một chợ, tục gọi là chợ Thiên Tiên hay chợ Trời, hằng năm chỉ
họp duy nhất một phiên vào ngày mùng Tám tháng Giêng. Ngƣời trong vùng và các vùng
khác, cùng khách thập phƣơng đến đây mua bán hoặc lễ bái rất đông. Lý dịch đi tuần tại
chợ kiểm soát, tùy theo hàng hóa, thu mỗi ngƣời 10 văn thanh tiền. Thu đƣợc bao nhiêu thì
giao cho lý trƣởng để đến ngày Ba mƣơi (30) tháng Mƣời hai (12) làm lễ tất niên. Lễ sắm
2 con gà, giá tiền khoảng 3 quan, 50 oản, 50 quả chuối, 1 vò rƣợu, cùng tiền vàng, hoa,
trầu cau 30 quả. Sắm lễ xong rƣớc ra đền tề tựu lễ bái, sau cùng hƣởng lộc. Bản xã biếu thủ
từ một phần thịt, 1 oản, 1 quả chuối, 2 quả cau; biếu tiên chỉ 1 oản, 1 chân gà, 1 quả chuối,
1 quả cau; biếu thứ chỉ 1 oản, 1 quả chuối, 1 quả cau; biếu lý trƣởng 1 oản, 1 quả chuối, 1
quả cau. Số còn lại chia đều.
Hằng năm, vào dịp mùng Ba tháng Ba là ngày giỗ Tiên Thánh, dân xã luân
phiên cắt cử 13 ngƣời, mỗi ngƣời chuẩn bị một lễ, gồm bánh chay, mỗi ngƣời một
mâm, mỗi mâm 60 chiếc, mỗi chiếc giá tiền 2 mạch, lợn 1 con, giá 5 quan hoặc cỗ
trâu, hoa quả, tùy theo điều kiện. Những ngƣời đến phiên sắm lễ đƣa đến đền tế bái.
Tế xong thì cùng hƣởng lộc. Biếu các chánh phó tổng trong bản huyện: Chánh tổng
biếu thủ, phó tổng biếu một đoạn cổ, lý trƣởng biếu chân giò, phó lý trƣởng biếu
thịt, các tiên thứ chỉ biếu thịt và biếu biền binh trong khắp huyện.
Ngày Bảy tháng Ba, toàn dân trong xã mặc quần áo chỉnh tề, mang theo cờ,
trống, tán, lọng đến Côi Sơn rƣớc kinh. Nếu ngƣời nào chậm trễ hoặc không tham
gia thì bị phạt tiền 5 quan và 1 vò rƣợu, trầu cau 50 miếng. Cũng trong ngày mồng
Bảy tháng Ba, các chánh phó tổng, lý dịch trong bản huyện cắt cử dân phu mỗi xã 1
ngƣời, mỗi ngƣời mang theo 1 gậy hoa. Các lý trƣởng đích thân đốc suất dân phu
dẫn đến đền nhập hội. Chánh phó tổng kiểm soát, nếu xã nào không tham gia thì sau
tróc tiền lý trƣởng, số tiền 5 quan, trầu cau 100 miếng. Sau khi đã tập hợp đầy đủ,
121
kiểm soát xong thì tổ chức xếp chữ. Lễ xong, biếu lý dịch 5 tổng thượng 100 oản.
Các lý dịch căn cứ theo cơ cấu từng xã mà chia nhau. Biếu dân phu mỗi ngƣời một
oản, một quả chuối (trong ngày này có 500 gậy hoa).
Ngày mùng Tám tháng Ba, lý dịch 6 tổng thƣợng đích thân dẫn dân phu, mỗi
xã 1 ngƣời đến đền nhập hội. Mỗi ngƣời phải cầm theo một gậy hoa để tham gia
xếp chữ. Lễ xong, cũng kính biếu lý dịch và dân phu oản quả nhƣ lệ.
Ngày mùng Bảy và ngày mùng Tám tháng Ba, việc hội xếp chữ, bản xã đã
bố trí 3 mẫu ruộng thuộc địa phận của bản xã giao cho nhân dân, lý dịch và các
dòng họ thay phiên nhau canh tác. Hằng năm, đến dịp thì chuẩn bị oản, quả để cúng
trong hai ngày này theo lệ. Phần tô thuế do ngƣời canh tác phải nộp do toàn dân
cùng đóng góp.
Ngày mùng Bảy tháng Ba, dân phu trong bản xã, mỗi ngƣời 1 gậy hoa tổ
chức xếp chữ. Trong ngày này, bản xã bố trí 300 gậy. Dân phu các ấp tham gia xếp
chữ xong thì vào đền lễ tạ.
Trong ngày Mƣời hai tháng Ba, toàn dân mở tiệc đánh chén. Số tiền thu
đƣợc trong hội giao cho lý trƣởng mua một con lợn - giá 15 quan, xôi 1 mâm -
tƣơng đƣơng 30 đấu, rƣợu 1 vò - giá 1 quan, trầu cau 100 miếng, tiền vàng 500. Sau
khi tạ lễ cùng hƣởng lộc thần. Biếu tiên chỉ 1 thủ lợn, biếu thứ chỉ một đoạn cổ lợn,
biếu lý trƣởng, phó lý trƣởng mỗi ngƣời 1 chân giò, biếu thủ bạ một miếng thịt, còn
lại thì làm cỗ, dành cho đội nhạc một hai cỗ, còn lại cùng nhau hƣởng lộc.
Ngày Rằm tháng Ba, bản xã luân phiên cắt cử hai ngƣời làm lễ. Lễ dùng
bánh giầy 80 chiếc - mỗi chiếc giá tiền 3 mạch, lợn 1 con - giá 10 quan, rƣợu 1 vò -
giá tiền 5 mạch, trầu cau 50 miếng và tiền vàng, hoa rƣớc đến đền yết tế. Tế xong
cùng hƣởng lộc thần. Mang đến nhà tiên chỉ biếu tiên chỉ 1 bánh giầy, 1 đoạn cổ
lợn, 3 miếng trầu; biếu thứ chỉ 1 chân giò, 1 bánh giày, 2 miếng trầu; biếu lý trƣởng
và phó lý trƣởng mỗi ngƣời 1 miếng thịt, 1 bánh giầy; biếu thủ từ 1 bánh giầy, 1
miếng trầu, một miếng thịt, còn lại chia đều cho trên dƣới.
Ngoài ra, cũng qua tƣ liệu Hán Nôm, hội Tiên Hƣơng vào cuối thời Nguyễn
còn đƣợc ghi nhận nhƣ sau:
… Hội rƣớc thần thì xã Tiên Hƣơng là vui nhất. Hằng năm vào ngày 7,
122
8, 9 tháng Ba, nhân dân lại tụ họp tế lễ. Đồng bóng bốn phƣơng kéo về
làm lễ. Ngƣời hàng tổng hàng xã đều cầm gập dán giấy hoa, sắp thành
hàng chữ. Dân các làng mặc đẹp đến xem, tạo ra không khí vui tuơi, náo
nhiệt ở địa phƣơng. Các vị Đệ nhị muội Quỳnh cung Hoài Tiên Phu
nhân, Đệ tam muội Quảng cung Quế Anh Phu nhân đều đƣợc phong làm
Trung đẳng phúc thần [80, tr. 43].
Hồi cố về nguồn gốc hội phủ Giầy Tiên Hƣơng, dân Tiên hƣơng cũng đồng
thời thừa nhận hai thuyết nhƣ bên Vân Cát. Chi tiết hơn, Hội hoa trƣợng vào cuối
thời Nguyễn còn đƣợc Khảo đồng sự ký mô tả nhƣ sau: Huyện Vụ Bản có tục cho
ngƣời cầm gậy xếp chữ thờ Thánh Mẫu. Trong huyện có 15 tổng, hằng năm, vào ngày
mùng Một tháng Ba là dịp hội Thánh Mẫu phủ Chính. Vào ngày mùng Một, xã sở tại
(Tiên Hƣơng) mang cờ, trống đến chùa Côi Sơn thỉnh kinh Dƣợc Sƣ về phủ Thánh
Mẫu để cúng tế. Ngày mùng Ba tháng Ba, tổ chức làm các loại bánh tế Thánh Mẫu tại
phủ Chính. Đến ngày mùng Sáu, mùng Bảy, mùng Tán tháng Ba thì dùng gậy xếp chữ,
mỗi ngày 5 tổng xếp chữ. Mỗi tổng 15 gậy, tổng cộng là 500 gậy. Nếu tổng nào, ngƣời
nào đến lƣợt sắm gậy xếp chữ thờ Thánh thì trƣớc đó 5 ngày phải lấy một gậy trúc dài
10 thƣớc, đầu búi tua rua nhƣ chổi lông gà, thân gậy quấn giấy ngũ sắc từ đầu đến cuối
để làm thành gậy hoa. Đến ngày vào cuộc xếp chữ, ngƣời của các tổng cùng mang gậy
đến phủ Thánh Mẫu - Ví dụ: Trong ngày mùng 7, vào khoảng 12 giờ, mọi ngƣời sẽ
đem gậy hội họp trƣớc phủ, chức sắc, lý dịch mặc áo, đội khăn chỉnh tề, tề tịu tại phủ
Thánh Mẫu, trƣớc tiên, là để lễ Thánh, mỗi ngƣời sẽ vái bốn vái. Vái xong thì thanh
niên trai tráng mặc áo đỏ, mỗi ngƣời tự cầm gậy của mình xếp thành ba hàng trƣớc
phủ. Kỳ mục, chức sắc cùng mọi ngƣời tới phủ tập hợp trƣớc nghi môn, ngồi ở gian
giữa. Các thanh niên trai tráng cẩm gậy đi nhiễu ba vòng, sau đó cùng đứng trƣớc nghi
môn. Một ngƣời kỳ mục thông báo cho mọi ngƣời cầm gậy biết hôm đó xếp bốn chữ:
“Dân hòa thần phúc”. Sau khi mọi ngƣời nắm rõ, ông kỳ mục cầm một chiếc cờ lệnh
nhỏ đến trƣớc mặt những ngƣời cầm gậy. Lát sau, ông phất cờ hƣớng dẫn mọi ngƣời
xếp chữ. Xếp xong, ông kỳ mục lại đánh ba hồi trống. Đánh xong, những ngƣời cầm
gậy lại ngồi xuống. Đánh ba tiếng thì mọi ngƣời hạ gậy xếp thành chữ. Nhƣ bốn chữ:
“Dân hòa thần phúc”. Đầu tiên, xếp chữ Dân sao cho thật ngay ngắn. Sau đó, kỳ mục
123
lại đánh ba tiếng trống thì mọi ngƣời cùng đứng dậy và cùng nhau nhiễu trƣớc phủ ba
vòng. Nhiễu xong, lại đến trƣớc nghi môn, nơi xếp chữ, rồi xếp chữ Hòa. Cách thức
xếp giống nhƣ xếp chữ Dân. Tiếp đó, xếp đến chữ Thần. Xếp xong thì xếp chữ Phúc.
Xếp xong bốn chữ, những ngƣời xếp chữ lại đi nhiễu trƣớc phủ ba vòng. Nhiễu xong,
mọi ngƣời vào trong phủ bái tạ Thánh Mẫu. Mỗi ngƣời tạ lễ bốn vái. Vái xong, ngƣời
của xã Tiên Hƣơng lấy oản chia cho những ngƣời xếp chữ, mỗi ngƣời một cái oản và
một quả chuối. Sau đó, mọi ngƣời lại mang gậy về nhà. Nếu trong nhà mà có tà ma thì
sẽ đều sợ chạy, không dám ở lại trong nhà có gậy này. Có ngƣời chƣa đến phiên cầm
gậy xếp chữ thì bỏ tiền ra mua lại gậy đã từng xếp chữ đem về. Có ngƣời thì mua
nhƣng cũng có ngƣời không mua. Đại khái là gậy này xếp chữ cúng Thánh Mẫu, tức là
gậy của Thánh Mẫu. Thế cho nên, những ngƣời không có gậy này muốn mua lại để
đem về nhà. Tà ma thấy gậy này không dám vào nhà.
Ngoài ra, trong hội Tiên Hƣơng, còn có lệ rƣớc Mẫu thỉnh kinh và nhiều hoạt
động văn hóa - thƣơng mại tƣơng đối đặc sắc, nhƣ làm bánh giày tế Thánh Mẫu,
nặn bánh trâu, bánh lợn bằng bột bán cho khách mua lễ Mẫu đem về làm khƣớc,
làm đèn hoa đăng bằng giấy dâng Thánh Mẫu. Đặc biệt là hoạt động lên đồng: Bà
đồng, cô đồng về chầu Thánh Mẫu; trẻ em nam, nữ làm đồng; chế ấn, làm bùa bán
cho khách; đồng thờ Đức Thánh Trần xiên lình, cắt lƣỡi hầu Thánh Mẫu…[152].
Tiểu kết
Kẻ Giày thuộc vùng đất Kẻ Trần của họ Trần xƣa, nổi tiếng với phủ Giày và
truyền thuyết về Mẫu Liễu Hạnh. Trong khoảng cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI,
Kẻ Giày đƣợc chia tách thành những đơn vị địa chính nhỏ hơn, trong đó có xã Vân
Cát và xã An Thái. Hai xã ổn định, độc lập về địa chính ít nhất tới năm Gia Long
thứ 4 (1805). Trong khoảng những năm 1805 - 1811, xã Vân Cát đƣợc sáp nhập với
xã An Thái thành xã An Thái (mới) và trở thành thôn/giáp của xã An Thái (mới).
Sau đó, khoảng những năm đầu dƣới thời Tự Đức, xã Vân Cát lại đƣợc tách khỏi xã
An Thái (mới), tái lập xã Vân Cát, xã An Thái (mới) đƣợc đổi tên thành xã Tiên
Hƣơng. Hai xã tiếp tục ổn định, hoàn toàn độc lập về quan hệ địa chính cho đến khi
cùng hợp nhất với xã Kim Bảng thành xã Kim Thái vào năm 1947.
Tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Kẻ Giày đƣợc định hình từ khoảng thế kỷ
124
XVI. Đến thế kỷ XVII, hệ Mẫu Tam vị/Tam tòa ở phủ Giày đã đƣợc xác lập và thừa
nhận tƣ cách chính tự. Theo diễn giải dân gian và ý thức hệ tƣ tƣởng chính thống
thời Nguyễn, bên cạnh “hành trạng thần tiên”, ba vị còn có “hành trạng thế tục”, với
đầy đủ những cung bậc thác ghềnh của một vòng đời thân phận nữ, để rồi, sau hợp
lại thành một thiên truyền kỳ nổi tiếng khắp vùng Thiên Bản, dƣới gầm trời Nam.
Cũng từ thế kỷ XVII, đền Vân Cát đã đƣợc xây dựng tƣơng đối quy mô. Vào
năm Thành Thái thứ 10 (1898), đền này đƣợc đại trùng tu Diện mạo kiến trúc của
phủ hiện nay, cơ bản là sản phẩm của các đợt trùng tu vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế
kỷ XX trở về sau.
Với phủ Giày Tiên Hƣơng, những ghi chép về phủ Giày thuộc xã Tiên
Hƣơng dƣới thời Lê, nhƣ Thư lâu phả ký phản ánh là ảnh ảnh xạ của phủ Giày An
Thái khi chƣa phân tách. Về diện mạo kiến trúc của phủ này hiện nay đều là sản
phẩm của những đợt tu bổ vào cuối thời Nguyễn và những năm gần đây.
Tại khu vực phủ Giày xƣa, các sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngƣỡng
thờ Mẫu Liễu Hạnh, thƣờng đƣợc tổ chức theo thông lệ định kỳ và gắn với các dịp
lễ tiết. Trong điều kiện tƣ liệu có thể khảo, có thể nhận thấy, trong khoảng nửa cuối
thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, ngoại trừ việc thực hành lên đồng, cơ bản, tín
ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy có nhiều điểm tƣơng đồng với tín ngƣỡng
thờ thần gắn với nông nghiệp trong các cộng đồng làng xã thuộc châu thổ Bắc Bộ
đƣơng thời, mặc dù yếu tố văn hóa thƣơng mại trong hội này đã tƣơng đối đậm nét.
125
Chƣơng 4
BÀN LUẬN THÊM VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VĂN HÓA LIÊN QUAN TỚI
TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIÀY VÀ
MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM
4.1. Câu chuyện tiếp cận văn hóa quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh
ở phủ Giày qua khảo chứng Vân Cát Thần nữ truyện
Vân Cát Thần nữ truyện (Truyện Vân Cát Thần nữ) khắc trong Truyền kỳ
tân phả (đƣợc cho do Hồng Hà Phu nhân - Đoàn Thị Điểm sáng tác, tàng bản tại
Lạc Thiện đƣờng), khắc năm Gia Long thứ 10 (1811) [249] là bản in đƣợc định bản
sớm nhất, ổn định về mặt văn bản từ năm 1811 đến nay.
Mở đầu truyện, có câu: An Thái Vân Cát Thiên Bản chi danh hƣơng 安 泰
雲 葛 天 本 之 名 香. Về câu này, hầu hết các ấn phẩm xuất bản tiếng Việt thƣờng
tham khảo hoặc đối chiếu bản dịch của Ngô Lập Chi và Trần Văn Giáp (công bố lần
đầu năm 1962) đều thống nhất bản dịch và hiểu là: Thôn/Làng An Thái, xã Vân Cát
là một làng nổi tiếng của/ở huyện Thiên Bản [58, 67, 70]. Theo tinh thần này,
những nghiên cứu về Mẫu Liễu Hạnh đã “vô tƣ” trích lại, dần trở thành một cách
hiểu “truyền thống” và mặc nhiên khẳng định, trong lịch sử, An Thái từ giữ thân
phận là một thôn của xã Vân Cát. Cách hiểu này, vô tình đã ít nhiều góp phần làm
méo mó vai trò và tƣ cách thờ tự Thánh Mẫu Liễu Hạnh giữa đôi bên và bản chất
câu chuyện thờ Mẫu Liễu Hạnh trong hơn nửa thế kỷ qua. Thiết nghĩ, đã đến lúc,
chi tiết này cần đƣợc đính chính.
Nếu đọc kỹ lại văn bản chữ Hán và tìm hiểu về lịch sử địa chính khu vực Kẻ Giày
xƣa, liên tƣởng tới những bản tiếng Việt đã tham khảo, rõ ràng nhƣ thấy có điều “ngờ
ngợ”, bởi trong cấu trúc câu: An Thái/Vân Cát/Thiên Bản chi danh hƣơng 安 泰/雲 葛/
天 本 之 名 香 thì An Thái, Vân Cát là hai địa danh trong quan hệ thuộc cấp trên/dƣới.
Vậy quan hệ thuộc cấp giữa An Thái và Vân Cát ở đây ra sao?
Hiện nay, khi nghe thầy chùa, thày cúng… tuyên sớ Hán - Việt văn đoạn: Việt
Nam quốc/A tỉnh/B huyện/C xã/D thôn… mọi ngƣời đều có thể hiểu là: Thôn D/xã C,
huyện B, tỉnh A, nƣớc Việt Nam... Trong ngữ pháp Hán văn cổ, với quan hệ địa danh
126
thuộc cấp, khi liệt kê, thông thƣờng thì cấp địa chính trên kê trƣớc, cấp địa chính dƣới
kê sau. Ngữ pháp tiếng Việt nay thì ngƣợc lại. Mặt khác, tên và nội dung Truyện Vân
Cát Thần nữ đã khẳng định, Nữ thần ở Vân Cát, nếu xác định, Vân Cát ở đây là đơn vị
cấp xã thì cần gì phải thêm thôn An Thái thuộc xã này vào để làm gì cho rƣờm rà, thực
sự không cần thiết và thừa thãi? Thôn An Thái không liên quan! Nội dung truyện cũng
không hề đề cập tới chi tiết Thần nữ giáng sinh ở thôn An Thái hoặc đền thờ ở thôn An
Thái hoặc có bất kỳ chi tiết gì gắn với thôn An Thái? Trong trƣờng hợp, nếu tạm coi
An Thái và Vân Cát là địa danh cùng cấp thôn, cùng cấp làng hoặc cùng cấp xã thì lại
càng vô lý, bởi khi xác định tên truyện là Vân Cát Thần nữ (Thần nữ ở Vân Cát) thì
không cần “khoác” thêm An Thái vào để làm gì? Nhƣ vậy, có thể thấy, theo cấu trúc
ngữ pháp Hán văn cổ, câu An Thái Vân Cát Thiên Bản chi danh hƣơng 安 泰 雲 葛 天
本 之 名 香 phải đƣợc hiểu đúng là: Thôn Vân Cát, xã An Thái là một làng nổi tiếng
của/ở huyện Thiên Bản. Và, một giả thiết làm việc đƣợc đặt ra, là đƣơng thời, nếu
Đoàn Thị Điểm chép truyện Vân Cát thần nữ, Vân Cát giữ tƣ cách là địa danh cấp xã
nhƣng khi “Nhà xuất bản” Lạc Thiện đƣờng san khắc truyện này (năm 1811), Vân Cát
đã mang thân phận là một thôn trong xã An Thái - xã Vân Cát đã sáp nhập (hợp xã) với
xã An Thái. Để dễ biện biệt và phân tích, nghiên cứu sinh tạm gọi xã An Thái sau khi
sáp nhập xã Vân Cát là xã An Thái (mới). Sau đó, vào khoảng cuối thời Thiệu Trị - đầu
thời Tự Đức, thôn Vân Cát lại đƣợc tách khỏi xã An Thái mới (biệt xã), tái lập xã Vân
Cát, sau xã An Thái (mới) đƣợc đổi tên thành xã Tiên Hƣơng. Khi chƣa tiếp cận đƣợc
với tài liệu Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã tục lệ 南 定 省 務 本
縣 同 隊 總 各 社 俗 例 - Tục lệ các xã thuộc tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định (do chức sắc, kỳ mục, hƣơng lão các xã Trang Nghiêm Hạ, xã Xuân Bảng,
xã Tiên Hƣơng, xã Vân Cát lập và xác thực), ký hiệu AF. A11.35, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, căn cứ văn bia tại phủ Vân Cát, Nam Định tỉnh địa dư chí (“Xã Tiên
Hƣơng: trƣớc là Yên (An) Thái, năm Tự Đức thứ 14 đổi là Tiên Hƣơng” [80, tr. 39]),
Đồng Khánh Địa dư chí (“Xã Tiên Hƣơng: Đầu Nguyễn về trƣớc là xã An Thái 安 泰.
Từ năm Tự Đức thứ 15 (1862) kiêng huý Ngãi vƣơng Nguyễn Phúc Thái, đổi là Tiên
Hƣơng 仙 鄉” [20]), nghiên cứu sinh từng phỏng đoán, sự kiện thôn Vân Cát tách khỏi
127
xã An Thái mới (biệt xã), tái lập xã Vân Cát, xã An Thái đƣợc đổi tên thành xã Tiên
Hƣơng diễn ra vào khoảng năm Tự Đức thứ 14 (1861) [80, tr. 39] hoặc năm Tự Đức
thứ 15 (1862) [20]. Tuy nhiên, qua Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Đồng Đội tổng các
xã tục lệ 南 定 省 務 本縣 同 隊 總 各 社 俗 例, có thể khẳng định lại, ít nhất từ năm
Tự Đức thứ 3 (1850), Tiên Hƣơng với tƣ cách là đơn vị địa chính cấp xã đã chính thức
xuất hiện (Tục lệ xã Tiên Hƣơng, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định)
[186]. Cũng theo, Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã tục lệ 南 定 省
務 本縣 同 隊 總 各 社 俗 例, năm Tự Đức thứ 10 (1857), Vân Cát với tƣ cách là đơn
vị địa chính cấp xã lại xuất hiện trong bản ghi tục lệ của xã này (Tục lệ xã Vân Cát,
tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) [186]. Qua đây, có thể khẳng định,
thôn Vân Cát đã đƣợc tách khỏi xã An Thái (mới) - biệt xã muộn nhất là vào năm Tự
Đức thứ 3 (1850).
Một tài liệu khác góp phần xác thực, Vân Cát từng là một thôn của xã Am Thái
(mới), đó là bản khắc Thiên Bản Vân Hương Lê triều Thánh Mẫu ngọc phả 天 本 雲鄉
黎 朝 聖 母 玉 譜 (Ngọc phả Thánh Mẫu triều Lê ở Vân Hƣơng, Thiên Bản), khắc năm
Bảo Đại thứ 9 (1934), do thanh đồng Vũ Xuân Lan san khắc, ván khắc vốn lƣu tại đền
Cố Trạch (đền/phủ Vân Cát), xã Vân Cát. Theo bản khắc này, phần mở đầu của Ngọc
phả Thánh Mẫu triều Lê ở Vân Hƣơng, Thiên Bản khẳng định: Dƣới triều Lê, ở thôn
Vân Cát (nay đổi thành xã), xã An Thái (nay đổi thành Tiên Hƣơng), huyện Thiên Bản
(nay đổi thành Vụ Bản), phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định có Lê Thái Công… 南 定 省
義 興 府 天 本 縣 (今 改 務 本) 安 泰 社 (今 改 仙 鄉) 雲 葛 村 (今 改 為 社) 辰 黎
朝 有 黎 太 公… Nam Định tỉnh, Nghĩa Hƣng phủ, Thiên Bản huyện (kim cải Vụ Bản),
Vân Cát thôn (kim cải vi xã) thời Lê triều hữu Lê Thái Công…
Cũng trong chuyện này, cuối truyện có chi tiết, sau đại chiến ở Phố Cát,
Thanh Hoa/Hóa đƣợc phản ánh dƣới thời Cảnh Trị (1663 - 1671), Tiên nữ trên trời
hiển thánh - Thƣợng Thiên Tiên nữ hiển thánh 上 天 仙 女 顯 聖 (Danh hiệu do
Mẫu nhập vào một ngƣời nhảy lên đàn ba tầng và tự xƣng), tức Thánh Mẫu Liễu
Hạnh yêu cầu dựng lại đền, đƣợc triều đình ƣng thuận và đƣợc phong Mã Hoàng
Công chúa 禡 黃 公 主, sau lại đƣợc gia phong Hòa Diệu Chế Thắng Đại vƣơng 和
128
妙 制 勝 大 王 (có bản thần tích chép là Chế Thắng Hòa Diệu Đại vƣơng 制 勝 和
妙 大 王), đƣợc đƣa vào Tự điển/Điển thờ tự. Để rồi sau đó, nhà nhà vẽ tranh, nơi
nơi dựng đền để cầu phúc ấm. Bám vào chi tiết này, không ít nghiên cứu dẫn lại để
đi đến khẳng định Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đã đƣợc triều đình thừa nhận tƣ cách
chính tự (cho phép thờ cúng) từ thời Cảnh Trị. Tuy nhiên, trong thực tế lại không
hẳn nhƣ vậy.
Qua khảo cứu, các sắc phong trƣớc thời Nguyễn (1802) phong cho thần, qua
các đợt phong, tên thần và thần hiệu ở lần gia trƣớc thƣờng đƣợc giữ nguyên và
ghép thêm mỹ tự đƣợc gia phong thuộc đợt sau, chỉ đến thời Nguyễn (từ 1802) trở
đi, nguyên tắc này mới bị bãi bỏ. Theo đó, nếu Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở Phố Cát
hoặc bất kỳ địa điểm nào thờ Mẫu đƣợc vua Lê Cảnh Trị (1663 - 1671) gia phong
các mỹ tự Hòa Diệu Chế Thắng Đại vƣơng 和 妙 制 勝 大 王 hoặc Chế Thắng Hòa
Diệu Đại vƣơng 制 勝 和 妙 大 王, thì các sắc thuộc các đợt phong sau dƣới thời Lê
và thời Tây Sơn ắt phải bảo lƣu các mỹ tự này. Trên thực tế, trong số các sắc gốc
phong cho Thánh Mẫu Liễu Hạnh hiện còn mang niên đại trƣớc thời Nguyễn (1802)
mà nghiên cứu sinh đƣợc biết, chỉ có sắc tại đền Bà Kiệu (Thiên Tiên điện), thuộc
quận Hoàn Kiếm, Hà Nội và một sắc khác có niên đại thời Lê Trung hƣng - khoảng
từ năm Cảnh Hƣng 44 (1783) trở về sau, hiện đang trong sƣu tập của Bảo tàng Phụ
nữ Việt Nam gắn với sự xuất hiện của các mỹ tự này. Cụ thể, tại đền Bà Kiệu, bản
sắc phong cho Thánh Mẫu Liễu Hạnh vào ngày 26 tháng 7 năm Cảnh Hƣng thứ 44
(1783), các mỹ tự Chế Thắng Hòa Diệu Đại vƣơng 制 勝 和 妙 大 王 lần đầu tiên
xuất hiện. Sau đó, các mỹ tự này còn đƣợc kế thừa trong các sắc phong cho Thánh
Mẫu Liễu Hạnh năm Chiêu Thống nguyên niên (1787), năm Quang Trung thứ 4
(1791), dƣới thời Cảnh Thịnh (1793), hiện vẫn đƣợc bảo quản tại đền. Sắc phong
cho Mẫu Liễu Hạnh tại Bảo tàng phụ nữ Việt Nam cũng góp phần xác nhận các mỹ
tự Chế Thắng Hòa Diệu Đại vƣơng 制 勝 和 妙 大 王 đƣợc phong cho Mẫu Liễu
Hạnh vào khoảng thế kỷ XVIII…
Nhƣ vậy, có nghĩa, Thánh Mẫu Liễu Hạnh đƣợc phong các mỹ tự Chế Thắng
制 勝 và Hòa Diệu 和 妙, tƣớc 大 王 không sớm nhƣ bản in Truyện Nữ thần ở Vân
129
Cát - 雲 葛 神 女 傳 Vân Cát thần nữ truyện khắc năm Gia Long thứ 10 (1811) và
nhiều bản thần tích về Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở các địa phƣơng khác khẳng định -
thời Cảnh Trị (1663 - 1671). Tuy nhiên, trong các thần tích về Thánh Mẫu Liễu
Hạnh, thuyết Mẫu đƣợc phong các mỹ tự Chế Thắng 制 勝 và Hòa Diệu 和 妙, tƣớc
大 王 từ thời Cảnh Trị (1663 - 1671) lại rất phổ biến. Rõ ràng, nếu tạm thừa nhận
“Vân Cát Thần nữ truyện” do đoàn Thị Điểm chép (trƣớc năm 1743), thì chi tiết
Thánh Mẫu Liễu Hạnh đƣợc phong các mỹ tự Chế Thắng 制 勝 và Hòa Diệu 和 妙,
tƣớc 大 王 từ thời Cảnh Trị (1663 - 1671) là “phi thực”? Có lẽ, đây là một chi tiết
đƣợc bổ sung sau khi Mẫu Liễu Hạnh đƣợc phong các mỹ tự Chế Thắng 制 勝 và
Hòa Diệu 和 妙, tƣớc 大 王 vào năm Cảnh Hƣng thứ 44 (1783), sau khi Đoàn Thị
Điểm đã mất tới 35 năm. Một điều thú vị nữa, là dƣới thời Lê, tôn hiệu Đại vƣơng
thƣờng đƣợc phong cho các nam thần, còn tôn hiệu Công chúa, Thánh phi… thƣờng
đƣợc phong cho các nữ thần. Nhƣ vậy, có thể tạm hiểu, tôn hiệu Đại vƣơng và
Công chúa gắn với Thánh Mẫu Liễu Hạnh nói riêng, các vị thần/thánh khác đƣợc
phong trƣớc thời Nguyễn (1802) nói chung là tƣớc phong, địa vị đƣợc phong,
không hẳn là chi tiết xác nhận, vị thần/thánh ấy vốn là ngƣời thực sinh thời mang
thân phận ông hoàng, bà chúa…
Đến đây, càng có lý do để đặt vấn đề tồn nghi cho chi tiết vua Lê Cảnh Trị
(1663 - 1671) gia phong các mỹ tự Hòa Diệu Chế Thắng Đại vƣơng 和 妙 制 勝 大
王 hoặc Chế Thắng Hòa Diệu Đại vƣơng 制 勝 和 妙 大 王 cho Mẫu Liễu Hạnh,
bởi lẽ nhiều chi tiết trong chính sử đã gián tiếp phủ nhận, cụ thể:
Đại việt sử ký toàn thư ít nhất hai lần chép việc vua Cảnh Trị cấm đồng cốt mà
đồng cốt lại là “căn cốt” của tín ngƣỡng thờ Mẫu”: “Năm Quý Mão, [Cảnh Trị] năm thứ
1 [1663], (Minh Vĩnh Lịch năm thứ 17; Thanh Khang Hy năm thứ 2) vào “mùa thu,
tháng 7, nhắc lại 47 điều giáo hoá, đại ý nói: Làm tôi hết lòng trung, làm con giữ đạo
hiếu, anh em hoà thuận, vợ chồng kính yêu nhau làm điều nhân, cha mẹ sửa mình để dạy
con, thầy trò đối xử với nhau bằng đạo, gia trƣởng dạy ngƣời bằng lễ, con em cung kính
cha anh, vợ không đƣợc trái chồng, đàn bà chồng chết không con đƣợc chuyển riêng của
cải đi, ở làng xóm thì ngƣời lớn nhỏ phải kính yêu nhau, cùng nhau làm lợi trừ hại;
130
không đƣợc cậy mạnh mà lấn áp kẻ yếu; không đƣợc gây kiện tụng để kiếm lợi riêng;
hào cƣờng không đƣợc xét kiện, trai gái không đƣợc bừa bãi thói dâm; ngƣời làm chứng
việc kiện phải nói thực, không đƣợc ham tiền của nói sai; nhà trọ nên đề phòng kẻ gian
nhƣng không đƣợc cự tuyệt ngƣời đến ngủ trọ; không đƣợc chiếm đƣờng đi làm vƣờn
[3a] tƣợc, không đƣợc lấn khe ngòi làm hồ ao, mối lợi của rừng núi sông chằm mọi
ngƣời đều cùng hƣởng, ngƣời đứng đầu phƣờng, xã, thôn, trang chọn ngƣời tốt mà làm;
sinh nghiệp phải siêng năng, hƣởng ẩm nên tiết kiệm; không đƣợc cậy quyền thế mà gửi
gắm việc kiện tụng, không đƣợc cố ý đem ngƣời già yếu mà gieo vạ cho ngƣời lƣơng
thiện; không đƣợc giả cách làm sƣ sãi để tránh sai dịch; không đƣợc xui ngƣời kiện tụng
để lấy tiền của, ngƣời đi thƣa kiện không đƣợc thêu dệt mà vu cho ngƣời; kẻ buôn bán
không đƣợc tụ họp bè đảng mà làm trộm cƣớp; cầu cống đƣờng sá chỗ nào hỏng nát thì
sửa đắp kịp thời; sổ sách việc quan không đƣợc điên đảo; đền mộ lăng miếu không đƣợc
lấn phá; con trai, con gái không được làm phường đồng cốt, nhà có tang không đƣợc hát
xƣớng trong lễ Trung nguyên; không đƣợc ngạo mạn với ngƣời quan trƣởng; không
đƣợc dụ dỗ đem ngƣời đi bán; lấy nhau nên phân biệt tộc loại, không đƣợc đòi tiền của;
tang lễ phải tuỳ giàu nghèo [3b] không đƣợc yêu sách ăn uống; cấy ruộng xâm canh
không đƣợc đòi nhau tiền thóc, cùng ở một làng không đƣợc cƣớp đoạt tài vật của nhau.
Những điều trên đây, ban bố khắp nƣớc, các nha môn Thừa Hiến các xứ và phủ, châu,
huyện đều phải làm sao thành một bản treo ở nơi coi việc và chuyển gửi tới các xã sở
thuộc, mỗi xã đều viết ra bảng treo ở đình, cho các quan viên, giám sinh, sinh đồ, xã
trƣởng, cứ đến ngày có việc làng thì hội họp đàn ông, đàn bà, ngƣời già, ngƣời trẻ đến
giảng giải hiểu thị, để đƣợc tai mắt thấm nhuần, biết sự khuyên răn. Từ đây lòng ngƣời
dần dần theo về tục thiện” [74, tr. 688 - 689].
Và, “Giáp Thìn, [Cảnh Trị] năm thứ 2 [1664], (Minh Vĩnh Lịch năm thứ 18;
Thanh Khang Hy năm thứ “Có lệnh chỉ [12b] nhắc lại lệnh cấm chọi gà, đánh cờ,
đánh bạc và các việc đồng cốt, sư sãi” [74, tr. 693].
Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thƣ, từ năm Đinh Mùi (1247), thời Minh
Tuyên Đức năm thứ 2, ở nƣớc ta, chính quyền đã từng “Cấm những kẻ xƣng là
đồng cốt, tà đạo, mƣợn tiếng ma quỷ, thần thánh, gieo rắc hoang mang, bịa đặt mê
hoặc lòng ngƣời” [74, tr. 344].
131
Một đều thú vị, là qua đoạn truyện này và những phân tích trên, có thể tạm
rút ra một số vấn đề sau:
1). Chuyện Thánh Mẫu Liễu Hạnh hiển linh ở Phố Cát, Thanh Hoa/Hóa
đƣợc diễn giải mang màu sắc thần kỳ, huyền ảo dƣới hình thức mà dân gian thƣờng
gọi là “nhập đồng phán truyền”. Đây cũng là hình thức chung để diễn giải sự tích
Thánh Mẫu, truyền lời Thánh Mẫu trong thuyết gắn với ba lần Thánh Mẫu giáng
sinh và nhiều thực hành tín ngƣỡng gắn với tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu
Tam phủ, Tứ phủ, cùng một số tín ngƣỡng dân gian khác (thờ Đức Thánh, Trần, gọi
hồn, gọi rí/dí, áp vong…).
2). Nếu quả thực có việc triều đình cho phép dựng đền và phong sắc cho
Mẫu Liễu Hạnh (công nhận việc thờ tự hợp pháp) dƣới thời Cảnh Trị nhƣ Truyện
Vân Cát thần nữ và nhiều bản thần tích về Mẫu Liễu Hạnh tại các địa phƣơng khác
đề cập thì nhất định đây là chuyện diễn ra ở (đền) Phố Cát, Thanh Hoa/Hóa, nhất
định không phải cho tất cả các địa điểm đƣơng thời có thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh
trên toàn cõi Việt.
3). Ít nhất, từ khoảng thế kỷ XVIII - XIX, việc phụng thờ Thánh Mẫu Liễu
Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đã rất phổ biến trong không gian văn hóa Bắc Bộ,
đặc biệt là tại tƣ gia, với hình thức phổ biến là treo tranh thờ.
Qua phân tích hai ví dụ tiêu biểu trong một văn bản Hán Nôm về Mẫu Liễu
Hạnh đƣợc khắc in và ghi rõ niên đại có thể khẳng định, những lớp chồng văn hóa
và tính tính chân xác lịch sử qua các thông tin là điều rất đáng quân tâm và cần phải
đƣợc khảo chứng và bóc tách rành mạch trƣớc khi dẫn dụ để minh chứng cho một
sự kiện lịch sử hay một hiện tƣợng văn hóa liên quan.
4.2. Hành trạng thế tục của Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày
Trong tâm thức dân gian khu vực kẻ Giày xƣa và tƣ liệu Hán Nôm liên quan,
đâu đó, nhƣ vẫn phảng phất một “hành trạng thế tục” của ba vị Thánh Mẫu phủ
Giày, dù khá mờ và đậm màu huyền ảo. Qua diễn giải dân gian khu vực kẻ Giày, có
thể lƣợc thuật về “thân phận thế tục” của ba vị Thánh Mẫu nhƣ sau:
Về Mẫu Đệ nhất, tức Mẫu Liễu Hạnh, xin đƣợc điểm lại nhƣ sau: Mẫu vốn là
Tiên Tiên giáng trần, đâu đó vào khoảng thế kỷ XVI, đầu thai làm con của một gia
132
đình họ Lê giàu có, lại làm con nuôi của một vị quan họ Trần. Lớn lên, Mẫu nức danh
nhan sắc, nổi tiếng tài hoa, thích thơ phú từ chƣơng, thích đàn ca ngâm vịnh. Lớn lên,
Mẫu lấy chồng, làm dâu nhà quan (họ Trần, cũng là bố nuôi), vui thú sắt cầm hòa hợp,
sinh con rồi mất sớm (bạc mệnh). U hồn tịch mịch (không siêu thoát), cha mẹ sớm tối
thƣơng nhớ không nguôi, bèn lập ban thờ trong nhà, đèn nhang thờ phụng vẫn thấy
phảng phất nhƣ lúc sinh thời. Bỗng một đêm, mẫu hiện về trƣớc ban thờ tự thuật lại
duyên cớ. Trong xóm, ngoài làng đều cảm thấy kinh hãi, tác yêu, tác quái khiến nhà
chồng ngày càng khánh kiệt, ra sức trấn trị nhƣng ngƣời tin theo ngày càng tôn kính,
tiếng tăm ngày một lẫy lừng, gần thì truyền tai trong xóm, xa thì thiên hạ vang danh.
Tiếng đồn đến kinh thành, dƣới thời Lê, năm Dƣơng Hòa thứ 8 (1642), phụng lệnh chỉ
dựng đền thờ lợp ngói. Năm Chính Hòa thứ 4 (1683) đƣợc tặng sắc phong. Từ đó về
sau, đền thiêng hiển hách, đƣợc triều đình nhiều lần phong tặng…
Với Mẫu Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Công chúa và Mẫu Đệ tam Quảng
cung Công chúa, theo gia phả họ Trần Lê (Tiên Hƣơng), “hành trạng thế tục” cũng
đƣợc diễn giải gắn bó rất mật thiết mới Mẫu Liễu Hạnh:
Mẫu Đệ nhị (là chị hoặc em dâu của Mẫu Liễu Hạnh): Họ Trần, húy Sâm,
sinh thời thích làm việc thiện, đoan trang, thuần khiết, phụng sự thân cô (cô Thắng,
tức Liễu Hạnh) nhƣ phụng sự cha mẹ, hƣởng thọ 51 tuổi, ngày mùng Chín tháng
Ba, bỗng dƣng không bệnh tật mà mất, u hồn tịch mịch, linh khí tích tụ, giữa đêm
mƣợn mồn ngƣời khác tự xƣng là Ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên Công chúa và
đƣợc phối thờ cùng Liễu Hạnh Công chúa, tôn lăng tại xứ Chợ Sại, tọa Càn (Tây
Bắc), hƣớng Tốn (Đông Nam).
Mẫu Đệ tam (cháu của Mẫu Liễu Hạnh): Húy Liên, tự Quế Anh, sinh thời là
ngƣời đoan trang, công dung trọn vẹn, năm 9 tuổi, đúng ngày Rằm tháng Ba, không
bệnh tự nhiên mà mất, u hồn tịch mịch, giữa ban ngày ban mặt (mƣợn mồm ngƣời
khác) tự xƣng là Ngọc nữ Quảng cung Quế Hoa Công chúa, đƣợc phối thờ cùng với
hai vị là Liễu Hạnh Công chúa và Duy Tiên Công chúa, tôn lăng tại xứ Đồng Sau,
hƣớng Khôn (Tây Nam).
Biện giải về “hành trạng thế tục” của ba vị Thánh Mẫu, nhiều đời nay, các
tín đồ vẫn gọi đền thờ Mẫu ở Vân Cát là đền Cố Trạch. Mẫu yên nghỉ tại gò Cây Đa
133
Bóng, cạnh phủ Bóng, nay vẫn còn lăng. Họ Trần Lê ở Tiên Hƣơng, thuộc dòng dõi
Mẫu, đã lập đền thờ Thân phụ và Thân mẫu của Mẫu nhiều đời nay, phối thờ Mẫu
là bà cô tổ. Bên Vân Cát cũng có đền thờ Thân phụ và Thân mẫu của Mẫu. Đặc
biệt, vào cuối thời Nguyễn, họ Trần Lê còn đƣợc triều đình sắc phong, giao trách
nhiệm cho cùng xã Tiên Hƣơng thờ Mẫu?
Qua diễn giải dân gian, một điểm chung dễ nhận thấy là: Mẫu Đệ nhất, Đệ
nhị, Đệ tam đều là những nhân vật đƣợc đƣợc dân gian cho là mất đột ngột (chết bất
đắc kỳ tử) chết giờ thiêng nên sau khi mất rất thiêng. Đặc biệt, Mẫu Đệ nhất và Mẫu
Đệ tam mất khi còn rất trẻ. Sau khi mất, u hồn của họ đều tịch mịch, không siêu
thoát, thƣờng hiện về hoặc “nhập đồng” mƣợn mồm ngƣời khác giao tiếp với dƣơng
gian, thậm chí, Mẫu Liễu còn nhiều lần tác yêu tác quái, khiến cho làng nƣớc không
yên, ngƣời ngƣời khiếp sợ mà sinh lòng kính trọng...
Dƣới góc nhìn thế tục, đằng sau chuyện ba Mẫu họ Trần dồn dập hiển linh
(chết trẻ) nhƣ phảng phất đâu đó một bi kịch tang thƣơng trong gia đình Mẫu, mà
gân gian thƣờng nọi nôm na là “họa trùng tang”. Trong tín niệm dân gian, khi rơi
vào hoàn cảnh này thì việc kêu cầu hồn ngƣời chết nhập đồng hoặc xem bói, gọi
hồn… đƣợc xem nhƣ một giải pháp tâm linh hóa giải tối ƣu, để âm dƣơng cách trở
có thể giao tiếp với nhau tỏ rõ sự tình. Phải chăng, đây chính là cái lõi “hành trạng
thế tục” của ba vị Thánh Mẫu phủ Giày, với quan niệm sống khôn - chết thiêng, đặc
biệt đối với những ngƣời trẻ và thƣờng đƣợc gán cho là thần tiên giáng thế, đến hẹn
phải về trời, để khi hội đủ các điều kiện về lịch sử - kinh tế - xã hội, các Mẫu dần
đƣợc thiêng hóa và mang căn cƣớc thần linh, nhập vào cõi Tiên, đất Thánh lẫy lừng
trong Tứ phủ?
Góp phần xác thực về “hành trạng thế tục” của ba vị Thánh Mẫu phủ Giày,
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cho biết, năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), vua Thiệu
Trị quy định: “Các thần hiệu trong cả nƣớc, hoặc đã phong hoặc chƣa phong, gián
hoặc có những chữ nguyên viết là Đại vƣơng 大 王 , Thánh phi 聖 妃, Công chúa
公 主 và công hầu quý phủ, trừ ngoài ra một vị Liễu Hạnh Công chúa đã phụng
Thánh chỉ cho vẫn để hiệu cũ, và đế vƣơng, thân phiên các đời đƣợc phong tƣớc ấy,
cùng khai quốc công thần đời trƣớc, nguyên có tƣớc hiệu, đều theo nhƣ cũ mà viết
134
vào. Còn thì đều chiểu tùy văn nghĩa đổi những chữ làm Tôn thần 尊 神, Chi thần
之 神, Phủ quân 府 君, Phu nhân 夫 人 để chính tên gọi” [25, tr. 56].
Với hiệu lực của quy định này, tƣớc hiệu Công chúa trong các sắc phong cho
ba vị Thánh Mẫu tại phủ Giày vốn đƣợc phong trƣớc đó (1842), chỉ có trƣờng hợp
Mẫu Đệ nhất Liễu Hạnh Công chúa đƣợc bảo lƣu, Mẫu Đệ nhị và Mẫu Đệ tam đều
đƣợc đổi sang mang tƣớc Phu nhân (sắc ngày Hai mƣơi tháng Năm năm Thiệu Trị
thứ 4 (1844), phong cho Liễu Hạnh Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi tháng Năm năm
Thiệu Trị thứ 4 (1844), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Anh Phu
nhân; sắc ngày Hai mƣơi bốn tháng Mƣời một năm Tự Đức thứ 33 (1880), phong
cho Liễu Hạnh Công chúa, Duy Tiên Phu nhân và Quế Anh Phu nhân; sắc ngày
mùng Một tháng Bảy năm Đồng Khánh thứ 2 (1886), phong cho Liễu Hạnh Công
chúa, Duy Tiên Phu nhân và Quế Anh Phu nhân…).
Cũng theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, vào năm Tự Đức thứ 3 (1850),
vua Tự Đức ban hành quy định:
Vị nào liệt ở Thƣợng đẳng thì Thiên thần gia tặng chữa Túy mục 粹 穆,
Thổ thần gia tặng chữ Hàm quang 含 光, Sơn thần gia tặng chữ Tuấn tĩnh
峻 靜, Thủy thần gia tặng chữ Hoành/Hoằng hiệp 浤 洽, Dƣơng thần
(Nhân thần nam) gia tặng chữ Trác vĩ 卓 偉, Âm thần (Nhân thần nữ) gia
tặng chữ Trang huy 莊 徽. Vị nào liệt ở Trung đẳng thì Thiên thần gia
tặng chữ Linh thúy 靈 邃, Thổ thần gia tặng chữ Tĩnh hậu 靜 厚, Sơn thần
gia tặng chữ Tủng bạt 聳 拔, Thủy thần gia tặng chữ Uông nhuận 汪 潤,
Dƣơng thần gia tặng chữ Quang ý 光 懿, Âm thần gia tặng chữ Trai thục
齋 淑. Vị nào liệt ở hàng Hạ đẳng thì Thiên thần gia tặng chữ Thuần chính
純 正, Thổ thần gia tặng chữ Đôn ngƣng 敦 凝, Sơn thần gia tặng chữ Tú
nghi 秀 嶷, Thủy thần gia tặng chữ Trừng trạm 澄 湛, Dƣơng thần gia
tặng chữ Đoan túc 端 肅, Âm thần gia tặng chữ Nhàn uyển 嫻 婉. Mỗi
thần hiệu đều đƣợc gia tặng hai chữ, các thần hiệu dự ở phong tặng đều
xét từng hạng viết điền vào, nhƣng trong khi viết sắc, đem cả những chữ
135
tích phong trƣớc kia và mỹ tự gia tặng lần này viết liền, cho hợp với việc
làm trƣớc [25, tr. 56].
Qua khảo sát, mỹ tự trong sắc phong thần thời Nguyễn tuy đã đƣợc giản lƣợc
nhiều so với thời Lê nhƣng cơ bản vẫn tuân thủ nguyên tắc, triều sau kế thừa triều
trƣớc, lần phong sau kế thừa lần phong trƣớc, thƣờng bảo lƣu nguyên mỹ tự đã
phong và gia phong thêm. Chiểu theo nguyên tắc này và định chế kể trên (quy định
của triều đình), có thể nhận thấy, mỹ tự phong cho các thần trong những thần sắc
đƣợc phong từ năm Tự Đức thứ 3 (1850) trở về sau, mang thông tin vô cùng quý
giá mà có thể dựa vào đây để xác định nguồn gốc xuất thân của vị thần đƣợc phong
theo ý thức hệ đƣơng thời.
Trở lại với sắc phong cho ba vị Thánh Mẫu phủ Giày, liên quan tới tƣớc vị
và nguồn gốc xuất thân của ba vị Thánh Mẫu, có thể điểm qua các bản thần sắc sau:
- Sắc ngày Mƣời bảy tháng Mƣời năm Tự Đức thứ 5 (1852) phong cho Mẫu
Đệ nhị Quỳnh cung, hiện lựu tại nhà thờ họ Trần Lê xác nhận, tại thời điểm đƣợc
phong (1852), Mẫu Đệ Tam phủ Giày mang tƣớc Phu nhân (dù thời Lê Mẫu từng
đƣợc phong tƣớc Công chúa), gắn với mỹ tự Trai thục 齋 淑, thuộc hệ Âm thần,
nguồn gốc Nhân thần nữ, hàng Trung đẳng.
- Sắc ngày mùng Một tháng Bảy năm Đồng Khánh 2 (1886) phong cho ba vị
Thánh Mẫu, hiện lƣu tại phủ Tiên Hƣơng xác nhận, tại thời điểm đƣợc phong (1886),
Mẫu Liễu Hạnh vẫn đƣợc giữ tƣớc Công chúa, gắn với mỹ tự Trang huy 莊 徽, thuộc
hệ Âm thần, nguồn gốc Nhân thần nữ, hàng Thƣợng đẳng; Mẫu Đệ nhị giữ tƣớc Phu
nhân (dù thời Lê Mẫu từng đƣợc phong tƣớc Công chúa), gắn với mỹ tự Trai thục 齋
淑, thuộc hệ Âm thần, nguồn gốc Nhân thần nữ, hàng Trung đẳng; Mẫu Đệ tam giữ
tƣớc Phu nhân (dù thời Lê Mẫu từng đƣợc phong tƣớc Công chúa), gắn với mỹ tự Trai
thục 齋 淑, thuộc hệ Âm thần, nguồn gốc Nhân thần nữ, hàng Trung đẳng:
- Sắc ngày Mƣời một tháng Tám năm Duy Tân thứ 3 (1909) phong cho ba vị
Thánh Mẫu, hiện lƣu tại nhà thờ họ Trần Lê xác nhận, tại thời điểm đƣợc phong
(1909): Mẫu Liễu Hạnh vẫn đƣợc giữ tƣớc Công chúa, gắn với mỹ tự Trang huy 莊
136
徽, thuộc hệ Âm thần, nguồn gốc Nhân thần nữ, hàng Thƣợng đẳng; Mẫu Đệ nhị
giữ tƣớc Phu nhân, gắn với mỹ tự Trai thục 齋 淑, thuộc hệ Âm thần, nguồn gốc
Nhân thần nữ, hàng Trung đẳng; Mẫu Đệ tam giữ tƣớc Phu nhân, gắn với mỹ tự
Trai thục 齋 淑, thuộc hệ Âm thần, nguồn gốc Nhân thần nữ, hàng Trung đẳng.
Nhƣ vậy, qua những phân tích trên, “hành trạng thế tục” của Tam vị Thánh
Mẫu phủ Giày đã bƣớc đầu đƣợc “giải ảo”. Đặc biệt, vấn đề này một lần nữa lại
đƣợc khẳng định rõ hơn khi triều đình phong sắc cho Thánh phụ và Thánh Mẫu của
Mẫu Liễu Hạnh:
敕 南 定 省 務 本 縣 僊 鄉 社 陳 黎 族 仝 奉 事 啟 生 僊 父 黎 德 正 之 神
稔 著 靈 應 肆 今 丕 丞 耿 命 緬 念 神 庥 著 封 為 翊 保 中 興 靈 扶 之 神 準 其
奉 事 庶 幾 神 其 相 佑 保 我 黎 民.
欽 哉!
啟 定 貳 年 參 月 拾 捌 日.
Sắc cho họ Trần Lê và xã Tiên Hƣơng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định cùng
phụng thờ thần là đức Khải sinh Tiên phụ Lê Đức Chính, có công hiển linh rõ rệt.
Nay thừa mệnh lớn, nhớ đến ơn thần, phong là Dực Bảo Trung Hƣng Linh Phù chi
thần. Những mong, thần hãy phù giúp, che chở muôn dân.
Kính cẩn thay!
Ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định 2 (1917).
敕 南 定 省 務 本 縣 僊 鄉 社 陳 黎 族 仝 奉 事 啟 生 僊 母 陳 氏 妙 福 之
神 稔 著 靈 應 肆 今 丕 丞 耿 命 緬 念 神 庥 著 封 為 翊 保 中 興 靈 扶 之 神 準
其 奉 事 庶 幾 神 其 相 佑 保 我 黎 民.
欽 哉!
啟 定 貳 年 參 月 拾 捌 日.
Sắc cho họ Trần Lê và xã Tiên Hƣơng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định cùng
phụng thờ thần là đức Khải sinh Tiên mẫu Trần Thị Diệu Phúc, có công hiển linh rõ
rệt. Nay thừa mệnh lớn, nhớ đến ơn thần, phong là Dực Bảo Trung Hƣng Linh Phù
chi thần. Những mong, thần hãy phù giúp, che chở muôn dân.
137
Kính cẩn thay!
Ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định 2 (1917)…
4.3. Vai trò của các cộng đồng làng xã trực tiếp liên quan trong việc
phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy
Trong quản lý hoạt động thờ tự thần linh (quản giám bách thần), thần sắc
là một dạng văn bản hành chính của triều đình phong, gia phong cho thần, xác
nhận tƣ cách chính thần (đƣợc ghi trong Tự điển/Điển thờ tự), cho phép thờ tự.
Qua tƣ liệu Hán Nôm và trong sự hiểu biết hiện nay, chƣa thể xác định Tự
điển/Điển thờ tự của các triều quân chủ ở nƣớc ta chính thức đƣợc xác lập từ
khi nào, nhƣng có thể tạm hình dung: Tự điển/Điển thờ tự là một tập hợp danh
sách các vị thần đã đƣợc triều đình công nhận tƣ cách chính thần, chính tự
(đƣợc phép thờ tự qua thẩm định lý lịch) dƣới các triều đại. Đƣơng nhiên, triều
đại sau sẽ kế thừa triều đại trƣớc, kèm theo đó là những quy định để áp dụng,
vận hành, nhƣ cơ chế xác định việc thờ thần và lý lịch của thần nhƣ thế nào thì
đƣợc đƣa vào Tự điển, căn cứ để thăng cấp, giáng cấp đền thờ, thăng cấp, giáng
cấp của thần hoặc xóa bỏ tƣ cách chính thần, chính tự/thờ tự…
GS. Hà Văn Tấn từng khẳng định, lệ phong thần sắc ở nƣớc ta ít nhất đã có
từ thời Lý Thái Tổ (năm Thuận Thiên thứ 7 - 1016) [55, tr. 42 - 50]. Qua thƣ tịch
Hán Nôm, có thể tạm tin, lệ phong thần sắc ở nƣớc ta đƣợc ghi nhận ít nhất từ thời
Trần - Sách Việt điện u linh tập cho biết: Năm Trùng Hƣng thứ nhất (1285), thứ tƣ
(1288), đời Trần Nhân Tông (1285) và năm Hƣng Long thứ 20 (1312), triều đình đã
phong thần sắc và gia phong mỹ tự cho các thần [70, tr. 60 - 91]. Tuy nhiên, hiện
chƣa có cứ liệu để xác định rõ về hình thức và nội dung cụ thể của một đạo thần sắc
dƣới thời Trần ra sao, nhƣng có thể khẳng định, lệ này đƣợc các triều sau tiếp tục
duy trì cho đến tận cuối thời Nguyễn.
Qua khảo sát điền dã, thần sắc sớm nhất hiện còn, là các sắc phong mang
niên hiệu Hồng Đức (thế kỷ XV), hiện đƣợc lƣu trữ tại 02 di tích thuộc tỉnh Thái
Bình hiện nay. Muộn hơn, còn một vài thần sắc mang niên đại thời Mạc (thế kỷ
XVI). Điều đáng tiếc là hầu hết các sắc này đều trong tình trạng tàn khuyết khá
nhiều, cần sớm có phƣơng án bảo tồn, phát huy giá trị. Về cơ bản, đa phần thần sắc
138
trong các di tích hiện nay, có thể khảo đƣợc, chủ yếu nằm trong khung niên đại từ
thế kỷ XVII trở về sau.
Về nội dung, có thể khái lƣợc nhƣ sau: Thần sắc thời Lê là văn bản hành
chính của triều đình phong hoặc gia phong (mỹ tự) cho thần, mặc nhiên thừa
nhận tƣ cách chính tự cho thần và tƣ cách chính từ cho ngôi đền thờ thần, không
đề cập đến nghĩa vụ thờ tự thần thuộc về cộng đồng dân cƣ nào. Chƣa rõ, khi
phong sắc, đƣơng thời, triều đình có ban hành kèm theo sắc phong văn bản quy
định rõ nghĩa vụ thờ tự hay không. Khắc phục nhƣợc điểm trong quy cách quản
lý bách thần thời Lê - lòng sắc phong không ghi rõ địa chỉ cụ thể của cộng đồng
dân cƣ chịu trách nhiệm thờ tự, lần gia phong sau kế thừa mỹ tự lần phong trƣớc
và ban tặng thêm, khiến mỹ tự không ngừng đƣợc nối dài, dần trở thành huyền bí
và tối nghĩa, triều Nguyễn đã cho sát hạch lại lý lịch các thần, lịch sử thờ tự, chia
rõ hệ thần, giản lƣợc mỹ tự, rút ngắn tên thần khi đƣa vào lòng sắc, đồng thời,
quy định rõ trách nhiệm thờ tự thần thuộc cộng đồng dân cƣ nào (thƣờng là cấp
làng xã, nhƣng cũng có một số ngoại lệ, nhƣ phong sắc cho công thần, nhân thần
đƣợc thờ tự trong nhà thờ dòng họ chẳng hạn…).
Lịch sử cũng cho thấy, khởi nguyên, các đền thờ thần trong dân gian thƣờng
đƣợc cộng đồng làng xã lập nên mang tính tự phát nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm
linh, tôn giáo, tín ngƣỡng của cộng đồng. Qua các bƣớc phát triển, truyền thống thờ
thần đƣợc cộng đồng xác lập, duy trì qua các đời, dần trở thành tục lệ, đƣợc dung
dƣỡng bởi nền tảng tâm thức văn hóa tín ngƣỡng, với các thành tố căn bản không khó
nhận diện, đó là: Hệ thần, địa điểm và không gian thờ tự, các thực hành văn hóa tín
ngƣỡng liên quan (hội, lệ).
Tuy nhiên, đây mới chỉ là bƣớc xác lập truyền thống văn hóa tín ngƣỡng ở
phạm vi cộng đồng làng xã, chƣa đƣợc triều đình (chính quyền) công nhận chính thức
theo chuẩn chung của quốc gia. Theo đó:
- Hoạt động thờ tự và sinh hoạt văn hóa tín ngƣỡng liên quan của cộng đồng
làng xã gắn với ngôi đền thờ thần vẫn có thể bị coi là dâm tự (thờ tự trái phép);
- Vị thần đƣợc cộng đồng làng xã tôn thờ vẫn có thể bị coi là dâm thần (thần
chƣa đƣợc công nhận tƣ cách chính thần);
139
- Đền thờ thần của cộng đồng làng xã vẫn có thể bị coi là dâm từ (đền thờ
xây dựng trái phép).
Từ nhu cầu thờ tự công khai và nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngƣỡng chính
đáng, việc “làm đẹp” lý lịch thần thƣờng theo xu hƣớng “nhân hóa”, “lịch sử hóa”,
“bản địa hóa” để vị thần đƣợc thờ phụng trong cộng đồng dân cƣ dần trở thành một
nhân vật kiệt xuất, có công với cộng đồng, với dân, với nƣớc, đặc biệt là với triều
đình đã trở thành một motif mang tính phổ quát (qua thần tích). Đặc biệt, sau khi tín
ngƣỡng thờ cúng tổ tiên phát triển, trong dân gian còn xuất hiện xu hƣớng “thần
thánh hóa” con ngƣời để thờ tự và hợp thức hóa thờ tự. Đó là một con đƣờng chính
danh thần, với lý lịch sạch/đẹp, một cơ sở quan trọng để triều đình xem xét công
nhận tƣ cách chính thần, phong sắc (đƣa vào Điển thờ tự), cho phép phụng thờ công
khai, đƣờng đƣờng chính chính, kèm theo đó là việc đƣợc hƣởng cơ chế ruộng đất
duy trì hƣơng hỏa, đƣợc các triều đại sau tiếp tục thừa nhận. Phải chăng, đó chính là
một cơ chế sáng tạo văn hóa tín ngƣỡng để xác lập và duy trì truyền thống thờ thần
trong cộng đồng làng xã Việt cổ truyền?
Trong Tự điển (祀 典 - Điển thờ tự) xƣa không có khái niệm phụ tự (thờ phụ)
đối lập với chính tự (thờ chính) hay phụ từ (đền phụ) đối lập với chính từ (đền chính).
Theo đó, với trƣờng hợp phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở khu vực phủ Giày - Kẻ Giày
xƣa, khái niệm chính từ - phủ chính từ - phủ chính mang ý nghĩa khẳng định:
- Việc thờ tự Mẫu Liễu Hạnh (tại phủ Giày) của cộng đồng là hợp pháp và
chính đáng;
- Mẫu Liễu Hạnh là chính thần (đã đƣợc triều đình thẩm định lại lịch qua
thần tích), đã đƣợc triều đình ban tặng sắc phong, ghi trong Tự điển (Điển thờ tự).
- Đền/phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh tại Kẻ Giày - phủ Giày là chính từ/chính phủ
mà dân gian quen gọi là phủ Chính.
Qua đây, có thể nhận thấy, trong việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh tại phủ
Giày, thuật ngữ phủ chính mang ý nghĩa là phủ thờ tự hợp pháp và chính đáng theo
quy định của triều đình, đƣợc triều đình giao nghĩa vụ, trách nhiệm thờ từ cho một
cộng đồng cụ thể, ít nhất từ cấp xã, nơi có bản phủ, hoàn toàn không mang ý nghĩa
khẳng định, ngôi phủ này (phủ Giày) là phủ chính còn các phủ khác cũng thờ Thánh
140
Mẫu Liễu Hạnh mang thân phận phủ phụ. Đƣơng nhiên, đối với những ngôi đền
thuộc hàng thƣợng đẳng thần từ/đền hàng thƣợng đẳng (thời Lê) hoặc những vị thần
thuộc hàng thƣợng đẳng thần/thần thƣợng đẳng (thời Nguyễn) chẳng hạn thì nghĩa
vụ, trách nhiệm thờ tự không chỉ giới hạn ở phạm vi cấp xã mà có khi thuộc về
hàng tổng, huyện, tỉnh/trấn, thậm chí là cấp quốc gia, đối với các ngôi đền có lễ tế
tự đƣợc liệt vào hạng quốc gia - quốc tế tự.
Vậy, với trƣờng hợp tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy, ngôi vị
chính tự chính thức đƣợc xác lập từ khi nào?
Liên tƣởng tới nguyên bản “Truyện Nữ thần ở Vân Cát” đƣợc nhiều ngƣời
cho là của Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748), nếu quả thực truyện này do bà chép về
“Nữ thần ở Vân Cát” từ truyền thuyết lƣu truyền ở Vân Cát thì ắt hẳn, khi chép
truyện này (trƣớc năm 1743), về lý, Vân Cát phải đƣợc ghi nhận với tƣ cách là tên
một địa danh cấp xã, nhƣng tại sao trong “Truyện Vân Cát thần nữ”, đƣợc khắc
trong Truyền kỳ tân phả vào năm Gia Long thứ 10 (1811) [249] lại ghi nhận Vân
Cát ở thời điểm này (1811) giữ vị trí là đơn vị cấp thôn. Qua chi tiết này, có thể
khẳng định, so với nguyên bản tạm coi là của Đoàn Thị Điểm, nội dung Truyện Nữ
thần ở Vân Cát - Vân Cát thần nữ truyện 雲 葛 神 女 傳 khắc năm Gia Long thứ 10
(1811) đã đƣợc biên tập, điều chỉnh ít nhiều về chi tiết, nếu khảo và phân tích kỹ
lƣỡng trong sự đối sánh, ắt hẳn sẽ rút ra đƣợc nhiều điều thú vị liên quan tới lịch sử
- văn hóa đƣơng thời, quá trình định bản, truyền bản của truyền thuyết về Thánh
Mẫu Liễu Hạnh trong dân gian... Đó chính là sự phức tạp của văn bản này cần đƣợc
lƣu ý khi sử dụng để minh chứng hoặc dẫn dụ trong nghiên cứu.
Trở lại với vấn đề sắc phong cho Tam vị Thánh Mẫu ở phủ Giầy và chƣ vị
liên quan, qua khảo sát thực địa, bƣớc đầu thống kê đƣợc 22 sắc gốc có niên đại từ
nửa cuối thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XX, gồm: 07 đạo tại nhà thờ họ Trần Lê
(Sắc ngày Hai mƣơi bốn tháng Sáu nhuận năm Chính Hòa thứ 4 (1683), phong cho
Liễu Hạnh Mã Hoàng Tề Gia Trị Quốc Hộ Sĩ Cẩn Tiết Hòa Mỹ Đoan Trang Công
chúa; sắc ngày Hai mƣơi tám tháng Ba năm Cảnh Hƣng thứ 2 (1741), phong cho Đệ
tam Ngọc nữ Quảng cung Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi hai tháng Ba năm Chiêu
Thống nguyên niên (1786), phong cho Liễu Hạnh Mã Vàng… Công chúa; sắc ngày
141
Hai mƣơi tám tháng Sáu năm Thiệu Trị Thứ 4 (1844), phong cho Đệ nhị Ngọc nữ
Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân; sắc ngày Mƣời bảy tháng Mƣời năm Tự Đức thứ 5
(1852), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Anh Phu nhân; sắc ngày Mƣời
một tháng Tám năm Duy Tân thứ 3 (1909), phong cho Dực Bảo Trung Hƣng Đế
Thích Tiên Đình Liễu Hạnh Công chúa Thƣợng đẳng thần, Dực Bảo Trung Hƣng
Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân Trung đẳng thần, Dực Bảo Trung
Hƣng Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Anh Phu nhân Trung đẳng thần; sắc ngày
Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định thứ 2 (1917), phong cho Đế Thích Tiên Đình
Ngọc nữ Liễu Hạnh Công chúa) và 15 đạo tại phủ Tiên Hƣơng (Sắc ngày mùng
Mƣời tháng Mƣời hai năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1730), phong cho Liễu Hạnh Công
chúa; sắc ngày mùng Tám tháng Tám năm Cảnh Hƣng thứ 28 (1767), phong cho Đệ
nhị Ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên Công chúa; sắc ngày Mƣời sáu tháng Năm niên
hiệu Cảnh Hƣng thứ 44 (1783), phong cho Liễu Hạnh Mã Hoàng Công chúa; sắc
ngày Mƣời sáu tháng Năm niên hiệu Cảnh Hƣng thứ 44 (1783), phong cho Quế Hoa
Công chúa; sắc ngày Mƣời sáu tháng Năm niên hiệu Cảnh Hƣng thứ 44 (1783),
phong cho Duy Tiên Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi mốt tháng Bảy năm Minh
Mệnh thứ 2 (1821), phong cho Liễu Hạnh Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi mốt tháng
Bảy năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế
Hoa Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi tháng Năm năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), phong
cho Liễu Hạnh Công chúa; sắc ngày Hai mƣơi tháng Năm năm Thiệu Trị thứ 4
(1844), phong cho Đệ tam Ngọc nữ Quảng cung Quế Anh Phu nhân; sắc ngày Hai
mƣơi bốn tháng Mƣời một năm Tự Đức thứ 33 (1880), phong cho Liễu Hạnh Công
chúa, Duy Tiên Phu nhân và Quế Anh Phu nhân; sắc ngày mùng Một tháng Bảy
năm Đồng Khánh thứ 2 (1886), phong cho Liễu Hạnh Công chúa, Duy Tiên Phu
nhân và Quế Anh Phu nhân; sắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải Định thứ 2
(1917), phong cho Thân phụ Lê Đức Chính; sắc ngày Mƣời tám tháng Ba năm Khải
Định thứ 2 (1917), phong cho Thân mẫu Trần Thị Phúc; sắc ngày Hai mƣơi nhăm
tháng Bảy năm Khải Định thứ 9 (1924), phong cho Thân phụ Lê Đức Chính; sắc
ngày Hai mƣơi nhăm tháng Bảy năm Khải Định thứ 9 (1924), phong cho Thân mẫu
Trần Thị Phúc).
142
Điểm đặc biệt, là tất cả các sắc phong cho Mẫu Liễu Hạnh không hề xuất
hiện cụm mỹ tự Hòa Diệu Chế Thắng Đại vƣơng. Trong đó, sắc phong cho Mẫu
Liễu Hạnh ở phủ Giầy mang điện đại sớm nhất đƣợc ghi nhận vào ngày Hai mƣơi
bốn tháng Sáu nhuận năm Chính Hòa thứ 4 (1683). Điều này càng góp phần khẳng
định rõ, là trong lịch sử không có chuyện vua Lê Cảnh Trị (1663 - 1671) phong sắc
cho Mẫu Liễu Hạnh nhƣ bản in Truyện Nữ thần ở Vân Cát - 雲 葛 神 女 傳 Vân
Cát thần nữ truyện khắc năm Gia Long thứ 10 (1811) đề cập. Và, tƣ cách chính tự,
chính từ, chính thần quanh tục thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy chính thức đƣợc
triều đình thừa nhận chỉ từ nửa cuối thế kỷ XVII mà thôi. Đây là một căn cứ xác
đáng, là cơ sở tin cậy để nhìn nhận về lịch sử phụng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở
phủ Giầy nói riêng và Tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh nói chung.
Theo đó, khi đặt mối quan hệ thờ tự Mẫu Liễu Hạnh giữa Vân Cát - An Thái-
Tiên Hƣơng trong sự biến đổi về địa - văn hóa của Kẻ Giày, có thể sơ kết mối quan
hệ chính tự và chính từ giữa các cộng đồng trực tiếp liên quan trong lịch sử nhƣ sau:
- Trên đất Kẻ Giày, nơi có phủ Giày, ngôi vị chính tự (đƣợc phép thờ tự),
chính từ, chính thần của Tam vị/Ba ngôi Thánh Mẫu (Mẫu Liễu Hạnh, Đệ nhị
Quỳnh cung Duy Tiên Phu nhân, Đệ tam Quảng cung Quế Anh Phu nhân) đƣợc xác
lập từ khoảng nửa cuối thế kỷ XVII (không thể sớm hơn).
- Sau khi đƣợc triều đình công nhận tƣ cách chính tự, chính từ, chính thần, ban
đầu, việc thờ tự Tam vị/Ba ngôi Thánh Mẫu có thể thuộc trách nhiệm chung của hàng
huyện hoặc hàng phủ, trong đó có vai trò nòng cốt của xã Vân Cát và xã An Thái...
- Sau khi hai xã Vân Cát và An Thái sáp nhập thành xã An Thái (mới) (khoảng từ
1805 - 1811), bên Vân Cát có đất đền giữ ngôi Giáp Nhất, bên An Thái (sau đổi thành
Tiên Hƣơng) giữ nhiều ruộng đền. Xã An Thái (mới), trong đó có Vân Cát và An Thái
giữ vai trò nòng cốt trong việc thờ tự Tam vị/Ba ngôi Thánh Mẫu.
- Đến khoảng cuối thời Thiệu Trị - đầu thời Tự Đức nhƣng không thể muộn hơn
năm Tự Đức thứ 3 (1850), xã Vân Cát tách khỏi xã An Thái (mới), tái lập xã Vân Cát,
xã An Thái (mới) đổi thành xã Tiên Hƣơng, bên Vân Cát ít ngƣời không lo đƣợc, đã
chuyển giao nguyên hội lệ cho bên Tiên Hƣơng. Từ đây, việc thờ Mẫu và đền Mẫu
riêng bên xã Tiên Hƣơng chính thức đƣợc công nhận ngôi vị chính tự và chính từ - Tƣ
143
cách chính từ - phủ chính từ - phủ chính bên xã Tiên Hƣơng cũng chính thức đƣợc xác
lập - Qua thần sắc hiện còn, Tiên Hƣơng chính thức đƣợc phong sắc thờ riêng riêng ít
nhất từ năm Tự Đức thứ 33 (1880). Trên văn khắc tại phủ Tiên Hƣơng, tƣ cách chính
từ - phủ chính từ - phủ chính bắt đầu xuất hiện muộn nhất từ thời Thành Thái. Đƣơng
nhiên, trong mối quan hệ địa - văn hóa chung, sau khi tái lập xã, việc thờ Mẫu và đền
thờ Mẫu riêng bên xã Vân Cát vẫn đƣợc kế thừa từ truyền thống Kẻ Giày - Vân Cát -
An Thái cũ - An Thái (mới), duy chỉ có điều, đầu thờ Tự Đức, bên xã Vân Cát vì ít
ngƣời không lo đƣợc hội lệ đành chuyển giao nguyên lệ cho bên Tiên Hƣơng. Đến
khoảng năm 1918 - 1919, hội Vân Cát lại đƣợc phép phục hồi, tiếp tục đƣợc duy trì, dù
có lúc thăng trầm cho đến khi cùng Tiên Hƣơng hợp nhất với Kim Bảng thành xã Kim
Thái... và vẫn tồn tại đến tận ngày nay.
Thực chất, câu chuyện chính tự - chính từ - chính phủ - phủ chính tại phủ Giày
còn đƣợc phản ánh qua một số văn bia, hiện vật có khắc chữ trong phủ Tiên Hƣơng,
không đơn giản chỉ liên quan đến tƣ cách chính tự - chính từ - chính phủ - phủ chính
giữa Vân Cát - An Thái - Tiên Hƣơng trong lịch sử phụng thờ Tam vị Thánh Mẫu mà
còn bắt nguồn từ sự vận động nội tại trong chính cộng đồng dân xã/thôn An Thái - Tiên
Hƣơng - giữa họ Trần Lê và cộng đồng làng xã Tiên Hƣơng…
4.4. Vấn đề Tam phủ, Tứ phủ và Tam tòa Tứ phủ
Qua tƣ liệu Hán Nôm, trong mục này, nghiên cứu sinh xin đề cập đến một
“góc khuất”, đó là văn cúng Tứ phủ trình đồng, sớ văn, thần sắc… liên quan để
phác lại diện mạo cơ bản của hệ thần Tứ phủ, qua đó, góp phần làm rõ một số vấn
đề về Tam phủ, Tứ phủ và Tam tòa Tứ phủ.
Trong tôn giáo, tín ngƣỡng dân gian, vũ trụ quan chia thế giới làm 3
tầng/miền (Trời/Thiên phủ, Đất/Địa phủ, Nƣớc/Thủy phủ) 4 cõi (Trời/Thiên phủ,
Đất/Địa phủ, Nƣớc/Thủy phủ, Núi/Nhạc phủ, có trƣờng hợp coi Dƣơng phủ là Nhạc
phủ…) đƣợc xem nhƣ là một hiện tƣợng đồng quy văn hóa. Vậy, một giả thiết để
làm việc đƣợc đặt ra là: Trong lịch sử, từng tồn tại quan niệm, coi thế giới thần linh
là tối thƣợng, là nơi an trụ của những đấng có quyền năng tối cao, có sức mạnh siêu
nhiên, chi phối hoàn toàn cuộc sống của con ngƣời. Và, theo các bƣớc phát triển, vũ
trụ quan chia thế giới thành 2 miền Trời/Thiên phủ và Đất/Địa phủ cũng đƣợc định
144
hình, mà dấu tích văn hóa còn sót lại qua cách xác định nguồn gốc thần linh tối cổ -
chia các thế lực siêu nhiên thành Thiên thần và Địa kỳ, tức thế lực siêu nhiên ở trên
trời đƣợc gọi là thần (Thiên thần), thế lực siêu nhiên ở dƣới đất đƣợc gọi là kỳ (Địa
kỳ). Ngoài ra, theo nguyên lý Âm - Dƣơng, cũng từng tồn tại thế giới quan tôn giáo,
tín ngƣỡng chia vũ trụ thành hai miền: Âm phủ và Dƣơng phủ mà con ngƣời, vạn
vật ở vị trí trung gian, là thể hợp nhất giữa Âm và Dƣơng. Theo vũ trụ quan tôn
giáo dạng này, hệ thần còn đƣợc chia thành Âm thần (nữ) và Dƣơng thần (nam). Có
lẽ, đây cũng là những dạng thức thế giới quan tôn giáo, tín ngƣỡng sơ khai qua các
bƣớc phát triển của lịch sử, gắn với nhiều tộc ngƣời, vẫn tồn tại đến tận ngày nay
trong từng con ngƣời, nhóm ngƣời cụ thể, thậm chí trong những cộng đồng.
Trong các văn bản Hán Nôm, vũ trụ 3 tầng 4 thế giới thƣờng đƣợc mã hóa
bằng thuật ngữ Tam phủ 三 府, Tứ phủ 四 府. Ứng với mỗi miền vũ trụ là hệ thần
thuộc về miền đó, cụ thể: Thần linh thuộc miền Trời (Thiên phủ 天 府) đƣợc gọi là
Thiên thần, thần linh ở miền Đất (Địa phủ 地 府) đƣợc gọi là Thổ thần, thần linh ở
miền Nƣớc (Thủy phủ 水 府) đƣợc gọi là Thủy thần, thần linh ở miền Núi (Nhạc
phủ 嶽 府) đƣợc gọi là Sơn thần... Vì sự phức tạp của vấn đề, tạm thời, luận án chƣa
đặt ra tham vọng truy nguyên để tìm về nguồn gốc lịch sử của từng dạng thức vũ trụ
quan tôn giáo, tín ngƣỡng ở đây.
Khởi thủy, các vị thần linh đã đƣợc con ngƣời gán ghép cho là tinh anh của đất,
trời, sông, núi, biển cả…, là lực lƣợng vô hình làm chủ tự nhiên, có thể chi phối tự
nhiên, vận mệnh và cuộc sống của con ngƣời, muôn loài, muôn vật... Vì vậy mà con
ngƣời cần phải phụng thờ để cầu thần linh ban phúc, che chở, giúp cho con ngƣời, vật
nuôi, cây trồng nảy nở, sinh sôi, bình an trong cuộc sống... Từ yêu cầu của lịch sử - xã
hội và quan niệm vật linh, hồn linh, với tƣ duy liên tƣởng, hình tƣợng thần linh dần
đƣợc con ngƣời vật chất hóa, gán với hình dạng cụ thể của một dạng vật chất đƣợc
thiêng hóa (cây, con, sông, biển, núi, rừng…). Và, một đỉnh cao, nhƣ một mẫu số
chung của văn hóa nhân loại, đó là hình thức thờ thần đƣợc nhân hóa, lịch sử hóa, địa
phƣơng hóa, với thần tƣợng đƣợc nhập linh yên vị trong các kiến trúc thờ tự để bảo hộ,
che chở cho con ngƣời, cộng đồng, giang sơn - xã tắc... Đặc biệt, theo hệ tƣ tƣởng Nho
145
giáo, một số nhân vật lịch sử tiêu biểu thuộc hàng “Tam bất hủ”, có thành tựu lập công
(có công với dân, với nƣớc), lập đức (có đức độ lớn), lập ngôn (để lại trƣớc tác, học
thuyết có tầm ảnh hƣởng rộng) hoặc dân gian coi những ngƣời mất vào giờ thiêng, có
điềm báo lạ cũng là thần linh, phải đƣợc tôn thờ, sau cũng có thể đƣợc vua phong sắc,
cho hƣởng hƣơng hỏa muôn đời. Đó là hiện tƣợng “thần thánh hóa” con ngƣời, một
hiện tƣợng rất phổ biến sau khi tục thờ cúng tổ tiên đƣợc định hình và phát triển. Với
ngƣời Việt cũng không phải là một ngoại lệ.
Ngày nay, chúng ta vẫn còn bắt gặp đầy đủ các hình thức thờ thần từ thuở sơ
khai, nhƣ thờ thần vô hình (không có thần tƣợng), thờ thần dƣới hình thái vật linh
(vật thiêng) và thờ thần nhân dạng… Qua các dạng thức thờ cúng, có thể nhận thấy,
thần linh thƣờng đƣợc dân gian quan niệm là lực lƣợng vô hình hoặc thực thể linh
thiêng, đƣợc hợp nhất giữa hai bộ phận thần và tƣợng, tƣơng tự nhƣ hồn và xác
trong thực thể con ngƣời nƣơng tựa vào nhau. Bằng chứng cụ thể, là trong văn hóa
tâm linh của ngƣời Việt hiện nay, các dạng thức thờ thần qua hình tƣợng, nhƣ thờ
bát hƣơng, bài vị hay pho tƣợng cụ thể, trƣớc khi thờ phụng, đều tiến hành nghi lễ
nhập linh, hô thần nhập tƣợng…
Về ý nghĩa tâm linh, qua tƣ duy liên tƣởng có thể nhận thấy, theo lý sự dân
gian, hiện tƣợng “Thần nhập tƣợng” cũng không khác nhiều so với hiện tƣợng
“Thánh nhập đồng”. Tuy chỉ có điều, “Thần nhập tƣợng” mang tính vĩnh cửu hơn,
đƣợc xem nhƣ thuật yên vị tƣợng, tức hợp nhất thần với tƣợng nhằm giữ thần
thƣờng trụ nơi cõi tục để thờ tự, cầu thần che chở, phù hộ con ngƣời, còn hiện
tƣợng “Thánh nhập đồng” lại mang tính lâm thời, tức bóng của thánh nhập vào xác
đồng để giải quyết việc trần, xong việc thánh lại thăng.
Với tín ngƣỡng dân gian truyền thống Việt, đồng có hai phái: Phái thờ Thánh
và phái thờ Tiên. Phái thờ Thánh thờ Trần Hƣng Đạo (Trần Quốc Tuấn) và các bộ
tƣớng thân cận của ngài làm Thánh bảo hộ bản mệnh, sát quỷ trừ tà đem lại sự bình
an, chủ yếu gắn với đàn ông. Phái thờ Tiên (Mẫu), sau thƣờng đƣợc dân gian gọi là
phái thờ Mẫu (Tiên Mẫu, Tiên Thánh, Thánh Mẫu) thờ Thiên Tiên (Mẫu Thƣợng
Thiên), Địa Tiên (Mẫu Địa), Thủy Tiên (Mẫu Thủy Thoải), Nhạc/Sơn Tiên (Mẫu
Nhạc/Sơn), chủ yếu thƣờng gắn với phụ nữ [152]…
146
Tín đồ thờ Tiên (Mẫu) thƣờng quan niệm, những ngƣời có biểu hiện bị hệ
thần linh thuộc hệ Thiên Tiên, Địa Tiên, Thủy Tiên hành… (dân gian thƣờng gọi là
bị cơ đày), sinh ra bệnh tật, chữa bằng thuốc mãi không khỏi, sau khi đi xem bói,
biết rõ vị Tiên nào hành thì sắm lễ đến phủ, điện thờ của bà đồng cựu có thờ vị Tiên
ấy, nhờ bà làm lễ đội bát hƣơng (tôn nhang bản mệnh). Nếu ngƣời đó có căn đồng
số lính, có thể làm lễ xin khất nhƣng đến kỳ hạn thì bắt buộc phải sắm đủ lễ vật nhờ
bà đồng cựu cúng trình đồng, có điều kiện thì về nhà lập điện thờ thì sẽ đƣợc Tiên,
Thánh Mẫu bảo hộ, ban cho sức khỏe, tài lộc [152]…
Về nghi thức trình đồng xƣa, hiện tại nghiên cứu sinh mới chỉ phát hiện đƣợc tƣ
liệu Hán Nôm (trƣớc năm 1945) đề cập sơ lƣợc về trình đồng Tam phủ (trình đồng mở
Tam phủ: Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ), không mở Nhạc phủ, mặc dù đƣơng thời
những ông, bà đồng vẫn thờ, lễ và thỉnh mời đủ hệ thần Tứ phủ (Thiên phủ, Địa phủ,
Thủy phủ, Nhạc phủ/Dƣơng phủ). Về lý do chỉ mở ba phủ, không mở cả bốn phủ, tạm
thời chƣa giải thích sâu ở đây, nhƣng qua quan sát tham dự, hiện nay, nhiều ông, bà đồng
lại thƣờng làm lễ trình đồng Tứ phủ (trình đồng mở Tứ phủ: Thiên phủ, Địa phủ, Thủy
phủ, Nhạc phủ), tức là mở thêm Nhạc phủ, do họ quan niệm Nhạc phủ đã đƣợc tách khỏi
Địa phủ để trở thành một phủ độc lập nhƣ các phủ khác. Nhạc phủ cũng gắn với sắc
phục riêng (khăn lam, áo lam, đai lam). Dƣới đây, xin phác họa sơ lƣợc về nghi lễ trình
đồng Tam phủ của phụ nữ theo Thánh làm đồng nhƣ sau:
Trình là trình cúng Tam phủ. Tam phủ tức Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ.
Không trình Tam phủ không thể thành đồng.
Ví nhƣ một ngƣời nào đó bị Thiên Tiên (Thiên Tiên Thanh Vân Cửu Trùng
Công chúa) chấm đồng thì đến kỳ phải sắm một khăn xanh, một áo xanh, một đai
xanh, tức y phục của đồng Thiên Tiên. Ngƣời nào làm đồng Địa Tiên (Liễu Hạnh
Công chúa) thì sắm một khăn đỏ, một áo đỏ, một đai đỏ, một váy yếm đỏ, tức y
phục của đồng Địa Tiên. Ngƣời nào làm đồng Thủy Tiên (Thủy Tinh Lân Nữ Công
chúa) thì sắm một áo trắng, một khăn trắng, một đai trắng, một yếm váy trắng, tức
trang phục của đồng Thủy Tiên.
Khi trình đồng, ngƣời trình đồng phải vận trang phục chỉnh tề, dâng lễ vật để
cúng Tam phủ. Cụ thể, cúng Thiên phủ một ngựa xanh, một tán xanh, một ghế
147
xanh, một lọng xanh, một bút, một miếng son. Cúng Địa phủ một tán đỏ, một ngựa
đỏ, một ghế đỏ, một lọng đỏ, một bút, một phiến son, một thỏi mực. Cúng Thủy phủ
một tán trắng, một ngựa trắng, một ghế trắng, một lọng trắng, một bút, một thỏi
mực, một phiến son. Cúng mỗi phủ 500 tiền vàng mã, một con gà, một thủ lợn, một
con vịt, cùng hƣơng, hoa… [152].
Bày biện lễ xong, trƣớc tiên, bà đồng cựu sai đệ tử cúng Tam phủ, rồi cúng
các vị tiên. Khi cúng Tam phủ, ắt phải thỉnh mời Tam phủ, tức Tam phủ Công đồng
về chứng đàn, giám lễ. Về bản chất, cúng trình Tam phủ hay cúng trình Tứ phủ đều
mang ý nghĩa là cúng trình thế giới thần linh, bao gồm tất cả thần linh. Vì chƣa tìm
đƣợc khoa lễ trình đồng Tam phủ Công đồng trong tƣ liệu Hán Nôm, dƣới đây xin
giới thiệu khoa lễ trình đồng Tứ phủ Công đồng trong sách Tứ phủ Công đồng khoa
nghi sớ văn hợp tập 四 府 公 同 科 儀 疏 文 合 集, một cuốn sách Hán Nôm tập
hợp khoa cúng, sớ văn thông dụng trong lễ Tứ phủ, khắc in năm Bảo Đại thứ 14
(1938), xƣa đƣợc bày bán rộng rãi ở khu vực phủ Giày cho giới hành đồng. Qua các
đƣờng thỉnh, hệ thần đại diện trong Tam/Tứ phủ (trong lễ thỉnh này Dƣơng phủ, tức
Nhạc phủ đã đƣợc tách khỏi Địa phủ, cũng đƣợc thỉnh riêng nhƣng cơ bản thì hệ
thần Tam/Tứ phủ đều bao gồm tất cả thần linh) đƣợc hiện diện nhƣ sau:
Thiên phủ thỉnh:
Thiên phủ Thiên Tàng Bồ tát, Đại Thiên Giới Chủ Ma Hê Thủ La Thiên
vƣơng, Trung Thiên Giới Chủ Đại Phạn Thiên vƣơng, Tiểu Thiên Giới Chủ Tam
Thập Tam Thiên chúa, Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh đế, Vô Sắc Giới Trung Tứ
Thiên Thƣợng đế, Sắc Giới Nhất Thập Bát Đại Thiên đế, Dục Giới Thiên Trung
Lục Đại Thiên đế, Hạo Thiên Chí Tôn Ngọc Hoàng Thƣợng đế, Nam Cực Thiên
Hoàng Đại đế, Bắc Cực Tử Vi Đại đế, Tứ Phƣơng Tam Thập Nhị Thiên đế, Bắc
Đẩu Chúng Tinh quân, Nam Đẩu Lục Tinh Chân quân, Thập Nhất Đại Diệu Chân
quân, Chu Thiên Nhị Thập Bát Tú Tinh quân, Tam Nguyên Ngũ Lão Đế quân, Thập
Nhị Cung Phận Thiên tôn, Thiên Tào Dẫn Tiên Chân quân, Thái Ất Tƣ Mệnh Chân
quân, Bản Mệnh Nguyên Thần Tinh quân, Bản Hạn Chủ Chiếu Tinh quân, Chu
Thiên Tam Bách Lục Thập Ngũ Triền Độ Tinh quân, Hộ Trì Quốc Giới Tứ Đại
Thiên vƣơng, Bát Bộ Kim cƣơng, Bát Bộ Hộ pháp, Thiên Long Dƣợc phụ, Càn
148
Thát Bà vƣơng, A Tu La vƣơng, Ca Lâu La vƣơng, Khẩn Na La vƣơng, Ma Hầu La
Ca vƣơng, Nhân phi nhân và chƣ thần tùy tùng.
Hợp thỉnh:
Thiên Tiên Thánh Mẫu, Cửu Trùng Thiên Thanh Vân Công chúa, Thiên Tiên
Cửu Thiên Huyền Nữ, Đô Thống Thánh Mẫu Công chúa, Thiên Tiên Bán Thiên
Mão Dậu Công chúa, Thiên Tiên Thiên Hoàng Hoa Chi và 36 bộ Động Tiên cung
và chúng tiên tùy tùng.
Địa phủ thỉnh:
Địa phủ Địa Tạng Vƣơng Bồ tát, Địa phủ Chí Tôn, Bắc Âm Phong Đô Đại
đế, Tá Lý Thái Thƣợng Lão Quân, Trợ Lý Huyền Tƣ Chân quân, Phong Đô Thƣợng
Tƣớng quân, Phong Đô Thái Phó quân, Tứ Minh Chân quân, Địa phủ U Ti Thập
điện Thánh vƣơng, Tần Quảng Đô Tào Minh vƣơng, Sở Giang Quy Lộc Minh
Vƣơng, Tống Đế Minh Tào Minh vƣơng, Ngũ Quan Nguyên Lâm Minh vƣơng,
Diêm Lam Minh Hiền Minh vƣơng, Biến Thành Hạc Đình Minh vƣơng, Thái Sơn
Bảo Huề Minh vƣơng, Bình Đẳng Quy Nguyên Minh vƣơng, Đô Thị Tử Khí Minh
vƣơng, Chuyển Luân Phối Sinh Minh vƣơng, Đạo Minh Hòa Thƣợng Đại Biện
Trƣởng giả, Vô Độc Quỷ vƣơng, Địa phủ Tào liêu, U Âm Chủ tể, Mã Diện Ngƣu
đầu, Ngục tốt, Ngục lại cùng các tùy tùng.
Hợp thỉnh:
Ba vị Thánh Mẫu chí tôn ở Vân Hƣơng: Địa Tiên Thánh Mẫu, hiển thánh ở
Sòng Sơn, giáng thần ở Vân Cát, Quỳnh Hoa Dung Liễu Hạnh Công chúa, đƣợc
tặng phong Chế Thắng Hòa Diệu Đại vƣơng, lại đƣợc gia phong Mã Hoàng Bồ tát,
Đệ nhị Quảng cung, Đệ tam Quế cung, các bộ Tiên nƣơng và chƣ vị tùy tùng.
Thủy cung thỉnh:
Thủy phủ Chí Tôn, Phù Tang Cam Lâm Đại đế, Dƣơng Cốc Đế quân, Giang
Độc Quảng Nguyên Thuận Tế vƣơng, Hà Độc Linh Nguyên Hoằng Tế vƣơng, Hoài
Độc Trƣờng Nguyên Hầu Tế vƣơng, Tế Độc Thanh Nguyên Hán Tế vƣơng, Đông
Hải Nguyên Thánh Quảng Đức vƣơng, Nam Hải Hồng Thánh Quảng Lợi vƣơng,
Tây Hải Thông Thánh Quảng Nguyên vƣơng, Bắc Hải Xung Thánh Quảng Trạch
vƣơng, Cửu Giang Đại đế, Bát Đại Long vƣơng, chƣ vị quyến thuộc của Long cung,
149
Tinh linh suối, vực, đầm, hồ, vùng ngập nƣớc, thần kỳ trong 84 miếu ven sông, chƣ
vị thần quân trong miền Thủy phủ.
Hợp thỉnh:
Thủy Tiên Thánh Mẫu, Xích Lân Long Nữ, Bạch Ngọc Động Hồ trung,
Thủy Tiên Công chúa, cùng bộ chúng tùy tùng.
Dương phủ thỉnh:
Dƣơng Phủ Chí tôn, Đông Nhạc Thiên Tề Đại Sinh Nhân Thánh Đế quân,
Nam Nhạc Tƣ Thiên Đại Hóa Chiêu Thánh Đế quân, Tây Nhạc Kim Thiên Đại Lợi
Thuận Thánh Đế quân, Bắc Nhạc An Thiên Đại Chân Nguyên Thánh Đế quân,
Trung Nhạc Trung Thiên Đại Ninh Sùng Thánh Đế quân và môn hạ của Nhạc phủ
trong 72 ti, các vị tôn thần thuộc hệ Tản Lĩnh, Nhị Hà, núi thiêng, sông lớn nƣớc
Nam, Đô Đại Thành hoàng Đại vƣơng trong thiên hạ, chƣ vị Thành hoàng Tôn thần
bản tỉnh, phủ, châu, huyện, Bản cảnh xã ti Phúc Đức Tôn thần, uy linh trong các
miếu mạo và thần kỳ đƣợc hƣởng tế tự.
Hợp thỉnh:
Sơn Tiên Thánh Mẫu, Diệu Tín Thiền sƣ, Thƣợng Ngàn Công chúa Lê Mại
Đại vƣơng, cùng tám vạn Sơn trang, Thập nhị Tiên nƣơng, 72 động, chƣ vị tiên nga
trong các gác tía, lầu son, cùng bộ chúng tùy tùng.
Ngoài ra còn thỉnh thêm các vị sứ giả và quyến thuộc: Thiên phủ môn hạ -
Tứ Thiên Sứ giả, Địa phủ môn hạ Diêm Ma Sứ giả, Thủy phủ môn hạ - Không
Hành Sứ giả, Dƣơng phủ môn hạ - Thổ Địa Sứ giả, cùng bộ chúng quyến thuộc.
Lễ xong, bà đồng cựu sai đệ tử đốt đồ mã cho Tam phủ, sau đó mở tiệc...
Tiệc xong, bà đồng cựu sai ngƣời trình đồng sửa sang khăn áo ngồi đồng. Nếu là
đồng Thiên Tiên thì đội khăn xanh, mặc áo xanh, thắt đai xanh. Sau khi ngƣời trình
đồng vận trang phục chỉnh tề thì ngồi trƣớc ban thờ Thiên Tiên. Bà đồng cựu khấn
mời hồn Thiên Tiên nhập vào ngƣời trình đồng. Nếu nhƣ Thiên Tiên đã giáng vào
thân ngƣời trình đồng thì đầu ngƣời trình đồng sẽ lắc lƣ. Từ hôm ấy, ngƣời trình
đồng chính thức trở thành đồng tân, đƣợc Thiên Tiên giáng xuống nhập vào và
đƣợc Tam phủ chứng minh. Khi mọi ngƣời đều biết Thiên Tiên đã giáng vào ngƣời
trình đồng thì thừa nhận ngƣời trình đồng là bà đồng. Sau đó, tuy ngƣời này làm
150
đồng Thiên Tiên nhƣng cũng có thể làm đồng Thủy Tiên, đồng Địa Tiên. Các vị
tiên đều có những cô hầu, nhƣ cô Lan, cô Quế... Tuy làm đồng Tiên Thánh nhƣng
sau ngƣời này có thể ngồi đồng các cô…
Ngƣời mới trình đồng phải cúng Tam phủ tại điện nhà bà đồng cựu. Cúng
Tam phủ xong, lại ngồi đồng tại điện của bà đồng cựu. Nếu ngƣời ngồi đồng đƣợc
Tiên giáng nhập thì lấy hƣơng, hoa, trầu cau ban cho mọi ngƣời. Những ngƣời đƣợc
ban đều nói: “Thánh ban lộc cho”. Nhƣ vậy, muốn làm đồng, trƣớc tiên phải cúng
trình đồng tại điện của đồng cựu. Cúng trình xong, nếu giầu thì về lập một điện tại
gia, mua một bức tranh Thiên Tiên, một bức Địa Tiên, một bức Thủy Tiên, một bức
Phật Quan Âm, một bức Ngũ hổ để phụng thờ. Dựng điện xong, nếu đã cúng Tam
phủ trình đồng tại nhà đồng cựu thì sau khi dựng điện tại gia, không cần phải cúng
Tam phủ trình đồng nữa, mà chỉ cúng Phật, Tiên, thỉnh mời các vị về điện mới mà
thôi. Nếu đồng đó nghèo, sau khi cúng trình đồng tại nhà đồng cựu rồi thì cũng
đƣợc tự xƣng là bà đồng. Tuy không lập đƣợc điện thờ tại gia, mọi ngƣời vẫn gọi là
bà đồng [152].
Đó là một số nét cơ bản về lễ cúng Tam phủ trình đồng đƣợc tiền nhân ghi
chép lại qua quan sát tham dự, phỏng vấn cách đây trên dƣới một thế kỷ.
Chƣa vội bàn đến tính hỗn dung tôn giáo, tín ngƣỡng giữa Đạo giáo, Phật
Giáo, Hindu giáo/Ấn Độ giáo và tín ngƣỡng dân gian, đặc biệt là sự chi phối và ảnh
hƣởng của Nho giáo… trong hệ thần Tam/Tứ phú nhƣng qua những ghi chép Hán
Nôm về lễ trình đồng, quan sát tham dự, khảo sát điền dã, phân tích tƣ liệu…, bƣớc
đầu có thể tạm rút ra một số vấn đề và biện giải nhƣ sau:
1). Trong tín ngƣỡng thờ Mẫu, trình đồng là trình Tam/Tứ phủ, tức trình tất cả
thần linh trong Tam/Tứ phủ, bao gồm Tam/Tứ phủ Ông và Tam/Tứ phủ Bà. Điều này
có nghĩa, trong tín niệm dân gian, sau khi trình đồng, con đồng chính thức trở thành đệ
tử của thần linh trong Tam/Tứ phủ chứ không chỉ thuộc về riêng một phủ nào. Sau lễ
trình đồng, con đồng lập điện thờ Tam/Tứ phủ, hành đồng trƣớc sự chứng giám của tất
cả thần linh Tam/Tứ phủ. Vì vậy, hình tƣợng thần linh (tƣợng, tranh, bài vị) trong các
điện, phủ thờ Mẫu Tam/Tứ phủ nhƣ chúng ta thƣờng thấy, cơ bản là hình ảnh đại diện
cho hệ thần Tam/Tứ phủ. Và, về bản chất, trình đồng, ngồi đồng vốn là một liệu pháp
151
tâm linh nhằm cầu thần chữa bệnh, đƣợc dân gian thƣờng gọi là chữ bệnh âm. Trong
tín ngƣỡng dân gian, “lên đồng phán truyền” là một phƣơng thức thông linh cơ bản
trong thực hành và truyền bá tín ngƣỡng, trong đó có tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh
và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Theo đó, dƣới sự dẫn dắt của tƣ duy và niềm tin tôn giáo,
các tín đồ mặc nhiên thừa nhận, đồng chính là cầu trung gian chuyển lời (thánh phán)
từ hệ thần Tam/Tứ phủ tới họ và ngƣợc lại.
2). Cũng theo những mô tả trên, có thể tạm hiểu, với đồng thờ Tiên/Mẫu, ban
đầu, một ngƣời nhập vào giới đồng và hành đồng thƣờng đƣợc xác định mang căn
một phủ hoặc hai phủ, thậm chí ba phủ, bốn phủ nhƣng khi cúng Tam phủ/Tứ phủ
trình đồng, bà đồng cựu sẽ mở cả Tam phủ hoặc Tứ phủ. Theo đó, con đồng dù ban
đầu mang căn một phủ nhƣng sau khi trình Tam/Tứ phủ sẽ là con/đệ tử của Tam
phủ/Tứ phủ và thờ cả Tam/Tứ phủ và có thể ngồi đồng các phủ. Góp phần lý giải
hiện tƣợng này, quan niệm hành đồng trong dân gian cho rằng: Tùy theo căn mệnh,
sau trình đồng, con đồng sẽ dựng một điện thờ Tam/Tứ phủ, nếu có điều kiện thì có
thể sắm đủ 5 loại sắc phục để hành đồng (Thiên tiên Thanh Vân Cửu Trùng Công
chúa dùng sắc phục màu xanh; Thiên phủ Chí Tôn Ngọc Hoàng Huyền Khung Cao
Thƣợng Đế dùng sắc phục màu vàng; Địa tiên Quỳnh Hoa Dung Liễu Hạnh Công
chúa dùng sắc phục màu đỏ; Thủy tiên Lân Nữ Bạch Ngọc Thủy Tinh Công chúa
dùng sắc phục màu trắng; Thủy tiên Thƣợng Ngàn Lê Mại Đại Vƣơng dùng sắc
phục màu lam), nếu không có điều kiện thì chỉ cần sắm một bộ khăn áo thuộc về
phủ trực tiếp nắm bản mệnh để ngồi đồng phủ đó hành đồng chữa bệnh, sau khi
ngồi đồng chữa đƣợc cho ngƣời bệnh do phủ khác làm ra, con bệnh khỏi bệnh sẽ
mua khăn áo dâng lễ tạ phủ tác bệnh đã cho mình khỏi bệnh, dâng xong biếu lại cho
bà đồng. Theo thời gian, lâu dần, ngƣời hành đồng ấy sẽ có đủ năm sắc phục hành
đồng [152]. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, trong tín niệm dân gian, Tam/Tứ phủ là một
hệ liên thông, đƣợc tổ chức nhƣ một tổ chức xã hội thực thụ.
3). Về cơ cấu, có thể liên tƣởng hệ thần Tứ phủ Công đồng với mô hình
“Nhà nƣớc quân chủ chuyên chế do vua đứng đầu” trong xã hội phƣơng Đông thời
cổ đại, cụ thể nhƣ sau: Trong Tứ phủ, Thiên phủ giữ vai trò chí tôn, nắm quyền
sáng tạo và điều hành chung, theo cách diễn giải thiên hƣớng nam, thƣờng đƣợc
152
cho là do Thiên phủ Thiên Tàng Bồ tát, Đại Thiên Giới Chủ Ma Hê Thủ La Thiên
vƣơng, còn có tôn hiệu khác là Thiên phủ Chí tôn Hạo Thiên Kim Khuyết Ngọc
Hoàng Huyền Khung Cao Thƣợng đế đứng đầu Tứ phủ, dƣới đó là hàng Thiên
vƣơng, Thiên chúa, Thánh đế, Thƣợng đế, Thiên đế, Đại đế, Tinh quân, Chân quân,
Đế quân, Thiên tôn, Chân quân, Tinh quân, Kim cƣơng, Hộ pháp… chƣ thần tùy
tùng (thuộc hệ nam) và chƣ vị Thánh Mẫu, Công chúa, tiên trong 36 bộ Động Tiên
cung, chúng tiên tùy tùng (thuộc hệ nữ) và sứ giả, quyến thuộc…; Địa phủ giữ vai
trò thừa hành, cai quản Địa phủ, do Địa phủ Địa Tạng Vƣơng Bồ tát, Địa phủ Chí
Tôn, Bắc Âm Phong Đô Đại đế, còn có tôn hiệu khác là Địa phủ Diêm La Thiên tử
đứng đầu, dƣới đó là hàng Lão quân, Chân quân, Tƣớng quân, Phó quân, Chân
quân, Thánh vƣơng, Minh vƣơng, Trƣởng giả, Quỷ vƣơng, Tào liêu, Chủ tể, Mã
Diện Ngƣu đầu, Ngục tốt, Ngục lại, tùy tùng (thuộc hệ nam) và Ba vị Thánh Mẫu
chí tôn ở Vân Hƣơng - Quỳnh Hoa Dung Liễu Hạnh Công chúa, Đệ nhị Quảng
cung, Đệ tam Quế cung, các bộ Tiên nƣơng, chƣ vị tùy tùng và sứ giả, quyến
thuộc…; Thủy phủ giữ vai trò thừa hành, cai quản Thủy phủ, do Thủy phủ Chí Tôn,
Phù Tang Cam Lâm Đại đế, còn có tôn hiệu khác là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm
Đại đế đứng đầu, dƣới đó là hàng Đế quân, Tế vƣơng, vƣơng, Long vƣơng, chƣ vị
quyến thuộc của Long cung, Tinh linh suối, vực, đầm, hồ, vùng ngập nƣớc, thần kỳ
trong 84 miếu ven sông, chƣ vị thần quân trong miền Thủy phủ (hệ nam) và Thủy
Tiên Thánh Mẫu, Xích Lân Long Nữ, Bạch Ngọc Động Hồ trung, Thủy Tiên Công
chúa, cùng bộ chúng tùy tùng và sứ giả, quyến thuộc...; Dương phủ/Nhạc phủ giữ
vai trò thừa hành, cai quản Dương phủ/Nhạc phủ, do Dƣơng Phủ/Nhạc phủ Chí
tôn, Đông Nhạc Thiên Tề Đại Sinh Nhân Thánh Đế quân, còn có tôn hiệu khác là
Nhạc phủ Chí tôn Thiên Tề Đại Sinh Nhân Thánh Đế quân đứng đầu, dƣới đó là
Nam Nhạc Tƣ Thiên Đại Hóa Chiêu Thánh Đế quân, Tây Nhạc Kim Thiên Đại Lợi
Thuận Thánh Đế quân, Bắc Nhạc An Thiên Đại Chân Nguyên Thánh Đế quân,
Trung Nhạc Trung Thiên Đại Ninh Sùng Thánh Đế quân, môn hạ của Nhạc phủ
trong 72 ti, các vị tôn thần thuộc hệ Tản Lĩnh, Nhị Hà, núi thiêng, sông lớn nƣớc
Nam, Đô Đại Thành hoàng Đại vƣơng trong thiên hạ, chƣ vị Thành hoàng Tôn thần
bản tỉnh, phủ, châu, huyện, Bản cảnh xã ti Phúc Đức Tôn thần, uy linh trong các
153
miếu mạo, thần kỳ đƣợc hƣởng tế tự… và Sơn Tiên Thánh Mẫu, Diệu Tín Thiền sƣ,
Thƣợng Ngàn Công chúa Lê Mại Đại vƣơng, cùng tám vạn Sơn trang, Thập nhị
Tiên nƣơng, 72 động, chƣ vị tiên nga trong các gác tía, lầu son, cùng bộ chúng tùy
tùng và sứ giả, quyến thuộc…
4). Trong các khóa lễ Tứ phủ (Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ, Dƣơng
phủ/Nhạc phủ), không phải vị nào cũng có văn chầu và đƣợc dâng văn chầu, bởi
theo quan niệm dân gian, Tứ phủ là “Tứ phủ vạn linh”, tức vô số thần linh, không
thể kiểm đếm hết đƣợc (“Vạn” là con số phiếm chỉ, chỉ số nhiều). Vì thế, chỉ có thể
thỉnh mời, dâng văn đại diện nhƣng không thể để thiếu sót. Theo đó, trong các điện
thờ, việc tạc tƣợng hoặc vẽ tranh thờ hoặc lập bài vị thờ đại diện đƣợc xem nhƣ một
giải pháp tối ƣu, với ban Công đồng thờ tất cả chƣ vị thần linh đƣợc thờ hoặc mời
về chứng đàn, giám lễ…, có thể chọn lựa một số vị thần đại diện vẽ tranh, làm
tƣợng hoặc bài vị để thờ. Đây cũng là một truyền thống thờ chung, phổ biến trong
các cơ sở thờ tự ở nƣớc ta vẫn tồn tại đến tận ngày nay.
5). Nếu tạm chia hệ thần trong Tứ phủ theo giới thì mỗi phủ đều có các vị
thần nam và các vị thần nữ, ứng với Tứ phủ sẽ có Tứ phủ Nam, tôn xƣng có thể gọi
là Tứ phủ Ông và Tứ phủ Nữ, tôn xƣng có thể gọi là Tứ phủ Bà, Tứ phủ Mẫu, Mẫu
Tứ phủ. Do đó, Tứ phủ Ông, Tứ phủ Bà đều thuộc về Tứ phủ Công đồng, tức Tứ
phủ (thế giới thần linh).
Với tín ngƣỡng thờ Mẫu, xƣa dân gian thƣờng gọi là thờ Chƣ vị, thờ các Bà.
Theo đó, hệ Thần/Thánh/Mẫu - Tứ phủ Bà, tôn xƣng có thể gọi là Tứ phủ Mẫu,
Mẫu Tứ phủ, ắt cũng thuộc Tứ phủ, bao gồm các Nữ/Mẫu thần thuộc bốn miền cai
quản của bốn Mẫu đứng đầu bốn phủ: Mẫu Thƣợng Thiên (thuộc Thiên phủ), Mẫu
Địa (thuộc Địa phủ), Mẫu Thoải/Thủy (thuộc Thủy Phủ), Mẫu Thƣợng Ngàn (thuộc
Nhạc phủ). Nếu gọi theo danh xƣng đại diện thì có thể tạm hiểu: Tứ phủ Mẫu/Mẫu
Tứ phủ chỉ bốn Mẫu đứng đầu các Mẫu trong Tứ phủ, thƣờng đƣợc khái quát gồm:
Thiên Tiên Thánh Mẫu, Cửu Trùng Thiên Thanh Vân Công chúa, Thiên Tiên Cửu
Thiên Huyền Nữ (Thiên phủ Thiên Tiên Thanh Vân Cửu Trùng Công chúa); Địa
Tiên Thánh Mẫu, Quỳnh Hoa Dung Liễu Hạnh Công chúa (Địa phủ Quỳnh Hoa
Dung Liễu Hạnh Công chúa); Thủy Tiên Thánh Mẫu, Xích Lân Long Nữ , Bạch
154
Ngọc Động Hồ trung, Thủy Tiên Công chúa (Thủy phủ Thủy Tiên Lân Nữ Bạch
Ngọc Thủy Tinh Công chúa); Sơn Tiên Thánh Mẫu, Diệu Tín Thiền sƣ, Thƣợng
Ngàn Công chúa Lê Mại Đại vƣơng (Nhạc phủ Thƣợng Ngàn Công chúa Lê Mại
Đại vƣơng). Nhƣ vậy, nên hiểu, chỉ có Mẫu đứng đầu các Mẫu (chúng mẫu chi mẫu
眾 母 之 母), các Bà trong Tam/Tứ phủ. Trong bối cảnh lịch sử - xã hội Mẫu hệ
(nếu có), quan điểm khẳng định có Mẫu đứng đầu Tam/Tứ phủ, làm chủ Tam/Tứ
phủ, cai quản Tam/Tứ phủ, nắm quyền tối thƣợng trong Tam/Tứ phủ… nhƣ cách
diễn giải của một ngƣời và một số tín đồ có thể đúng. Tuy nhiên, trong bối cảnh lịch
sử - xã hội phụ hệ, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, quan điểm này nhƣ có phần
“suy tôn thái quá”, không nên cổ súy, bởi “suy tôn thái quá” chính là căn nguyên
sâu xa dẫn đến xung đột tôn giáo - tín ngƣỡng, thậm chí dẫn đến xung đột xã hội,
bởi Tam/Tứ phủ bao gồm tất cả chƣ vị thần linh.
Tứ phủ Ông cũng thuộc về Tứ phủ, bao gồm các vị thần nam thuộc bốn miền cai
quản của bốn Ông đứng đầu bốn phủ. Theo danh xƣng đại diện còn có thể tạm hiểu: Tứ
phủ Ông là bốn Ông đứng đầu các ông trong Tứ phủ, thƣờng đƣợc khái quát gồm: Thiên
phủ Thiên Tàng Bồ tát, Đại Thiên Giới Chủ Ma Hê Thủ La Thiên vƣơng (Thiên phủ Chí
tôn Hạo Thiên Kim Khuyết Ngọc Hoàng Huyền Khung Cao Thƣợng đế; Địa phủ Địa
Tạng Vƣơng Bồ tát, Địa phủ Chí Tôn, Bắc Âm Phong Đô Đại đế (Địa phủ Diêm La
Thiên tử); Thủy phủ Chí Tôn, Phù Tang Cam Lâm Đại đế (Thủy phủ Phù Tang Cam
Lâm Đại đế), Nhạc phủ Chí tôn, Đông Nhạc Thiên Tề Đại Sinh Nhân Thánh Đế quân
(Nhạc phủ Chí tôn Thiên Tề Đại Sinh Nhân Thánh Đế quân).
6) Tƣơng tự, trong hệ thần Tam phủ, theo giới, cũng có thể chia thành, Tam
phủ Ông và Tam phủ Bà. Dân gian tôn xƣng gọi Tam phủ Bà là Tam phủ Mẫu, Mẫu
Tam phủ (Thiên - Địa - Thủy). Có thể tạm hiểu đây là mô hình một phủ, một
Bà/Mẫu kiêm tri, với Tam tòa đại diện cho Tứ phủ.
7). Trong khoa lễ Tứ phủ Công đồng, có khi Thánh Mẫu Liễu Hạnh giữ vị trí
đứng đầu hàng nữ Địa Tiên/Mẫu trong Địa phủ, cùng Đệ nhị Quảng cung, Đệ tam
Quế cung, các bộ Tiên nƣơng, chƣ vị tùy tùng, sứ giả, quyến thuộc và Thiên phủ
Thiên tiên Thanh Vân Cửu Trùng Công chúa (đứng đầu hàng nữ Thiên Tiên/Mẫu
trong Thiên phủ), Thủy phủ Thủy tiên Lân Nữ Bạch Ngọc Thủy Tinh Công chúa
155
(đứng đầu hàng nữ Thủy Tiên/Mẫu trong Thủy phủ), Nhạc phủ Thƣợng Ngàn Công
chúa Lê Mại Đại vƣơng (đứng đầu hàng nữ Nhạc Tiên/trong Nhạc phủ) hợp thành
hệ Mẫu Tứ phủ, cai quản các vị nữ thần, gắn với chức phận nữ trong Tứ phủ.
Tuy nhiên, riêng với phủ Giày, Thánh Mẫu Liễu Hạnh cùng Đệ nhị Quảng
cung, Đệ tam Quế cung lại đƣợc diễn giải đều thuộc hàng Thiên Tiên, hội lại thành
hệ Mẫu Tam vị/Tam tòa - ba ngôi Thánh Mẫu phủ Giày muộn nhất cũng phải từ thế
kỷ XVII. Sắc phong ngày Hai mƣơi bốn tháng Sáu nhuận năm Chính Hòa thứ 4
(1683) lại xác nhận, Thánh Mẫu Liễu Hạnh thuộc hệ Thiên Tiên, còn đƣợc phong
cai quản tiên nữ sáu cung…, kiêm quản Bộ Sơn Tinh thuộc miền Núi - Rừng (權 該
六 宮 嬪 娘… 兼 知 山 林 掌 管 山 精 部).
Nhƣ vậy, qua diễn giải dân gian và thần sắc, có thể nhận thấy, Thánh Mẫu
Liễu Hạnh từng hiện diện với tƣ cách là Mẫu Thiên Tiên, Mẫu Địa Tiên và Mẫu
Nhạc Tiên (Nhạc phủ), tức Bà mang tƣ cách kiêm tri. Vì thế, sau khi vai trò của
Nhạc phủ đƣợc đề cao và tách khỏi Địa phủ thành một phủ độc lập, Thánh Mẫu
Liễu Hạnh đƣợc suy tôn làm Mẫu Đệ nhất Thƣợng Thiên, vai trò gắn với Địa tiên
của Bà không hẳn mất đi, mà chỉ bị “ẩn”, tức là Bà vẫn kiêm tri đứng đầu hàng nữ
Địa phủ. Có lẽ, chính vì lý do này mà trong mô hình thờ Mẫu bộ ba phổ biến trong
dân gian (Thiên - Nhạc - Thủy), với Đệ nhất Thƣợng Thiên (Thánh Mẫu Liễu
Hạnh), Đệ nhị Thƣợng Ngàn, Đệ Tam Thoải phủ, thƣờng chỉ thấy sự hiện diện linh
tƣợng của Tam tòa Thánh Mẫu trong Tứ phủ. Nghiên cứu sinh tạm gọi đây là mô
hình một phủ, một Bà/Mẫu kiêm tri - Địa phủ thuộc/theo Thiên phủ trong bộ ba
(Thiên - Nhạc - Thủy). Vì thế mà dân gian vẫn thƣờng thỉnh “Tam tòa Thánh Mẫu,
Tứ phủ Công đồng” mỗi khi kêu cầu.
Về qúa trình xác lập mô hình Tứ phủ và mô hình Tam phủ, với một phủ
kiêm tri, với kết cấu Tam tòa đại diện cho Tứ phủ (Tam tòa Thánh Mẫu - Tứ phủ
Công đồng) trong tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt, bƣớc đầu nghiên cứu sinh
tạm đƣa ra một giả thiết mang tính diễn giải để làm việc nhƣ sau:
Thờ Mẫu Tứ phủ là một tín ngƣỡng bản địa, gắn liền với lịch sử dân tộc từ
buổi khởi nguyên khi ngƣời Việt còn tụ cƣ ở miền rừng núi với phƣơng thức kiếm
sống chủ yếu là hái lƣợm và săn bắt/bắn. Với phƣơng thức kiếm sống chủ yếu gắn
156
với núi rừng, qua sự phân công lao động nhƣ theo thiên chức tự nhiên, với đàn ông
thiên về săn bắt - bắn (động - dƣơng), tuy công việc nặng nhọc nhƣng kết quả thu
đƣợc lại khá bấp bênh, trong khi đó, phụ nữ lại đảm đƣơng và khẳng định vai trò tốt
hơn, bởi hoạt động hái lƣợm (tĩnh - âm) đơn giản là kiếm rau, củ, quả, cây, hạt…
trong núi rừng nhƣng đem lại nguồn sống ổn định.
Trong môi trƣờng sinh sống và phƣơng thức khai thác tự nhiên nhƣ vậy thì
việc định hình một tín ngƣỡng sùng bái các vị thần thuộc miền Rừng Núi (Nhạc
phủ) theo nguyên lý Mẫu mà truyền thuyết dân gian về thời kỳ Hùng Vƣơng giải
thích sự hình thành ngồn gốc dân tộc Việt cho là vốn thuộc dòng Mẹ Tiên (仙 -
ngƣời trên núi) là một điều tất yếu.
Qua các bƣớc phát triển, vì yêu cầu cuộc sống, ngƣời Việt dần rời xa miền
đất cũ, gắn với rừng núi vùng cao, tiến xuống khai thác rừng núi ở vùng châu thổ
cao, rồi đến rừng và đầm lầy (cũng là rừng) ở vùng châu thổ thấp.
Trong điều kiện tự nhiên - xã hội mới, với nền kinh tế trồng lúa nƣớc sử
dụng nƣớc tại chỗ (chủ yếu là sông, ngòi, đầm, hồ, ao…), phụ thuộc nhiều vào thiên
nhiên, thì một hệ quả tất yếu là tín ngƣỡng sùng bái các vị thần nông nghiệp, với hệ
thần đại diện cho ba miền Trời, Đất, Nƣớc đƣợc định hình là điều dễ hiểu. Đó là
một tiền đề để hệ thần thuộc ba miền này hội với tín ngƣỡng khởi nguyên (thờ Nhạc
phủ) mà ngƣời Việt mang theo trong hành trang từ vùng cao tiến xuống khai phá và
làm chủ châu thổ sông Hồng hợp thành hệ Tứ phủ, một dạng thức khái quát hóa
thiên về nguyên lý Âm - Mẹ, bởi theo quan niệm âm dƣơng dân gian: Bốn là số
chẵn, thuộc âm, gắn với nữ/mẫu - theo nguyên lý Mẫu/Mẫu hệ).
Đƣơng nhiên, cũng trong quá trình tiến xuống khai thác và làm chủ châu thổ
Sông Hồng, quá trình giao lƣu, hội nhập văn hóa của ngƣời Việt với khu vực đã
diễn ra tƣơng đối mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển của công cụ lao động và phƣơng
thức sản xuất, trên nền cảnh này, xu hƣớng trọng nam (theo Phụ hệ), dần đƣợc
khẳng định và đề cao. Trong khi đó, đặc tính xa rừng của ngƣời Việt ngày càng
đậm, khiến cho nguyên lý Mẫu ngày một nhạt nhòa. Dƣới sự tác động, ảnh hƣởng
của các tôn giáo ngoại nhập, nhƣ Ấn Độ giáo, Phật giáo, Đạo giáo, đặc biệt là sự chi
phối mạnh mẽ của hệ tƣ tƣởng Nho giáo…, hệ thần nông nghiệp với những vị thần
157
đại diện cho Thiên phủ - Địa phủ - Thủy phủ chiếm vị trí tối thƣợng. Đó là một biểu
hiện cụ thể về sự xác lập và thắng thế của nguyên lý Phụ hệ - Theo quan niệm âm
dƣơng dân gian, ba là số lẻ, thuộc dƣơng, gắn với nam/Cha - theo nguyên lý
Cha/Phụ hệ). Lúc này, cƣ dân nông nghiệp Việt nhƣ “vô tình” để chƣ thần Nhạc
phủ “ẩn” đi với lý sự dân gian giải thích nôm na: Núi trên đất nhƣng thuộc đất (đất
chở) để hƣớng sự tôn thờ tập trung vào hệ thần đại diện cho bộ ba: Thiên (phủ), Địa
(phủ), Thủy (phủ) nhƣ một hiện tƣợng đồng quy văn hóa. Tuy nhiên, trong thực
tiễn, ít nhất là qua hệ thần và các dạng thức thờ tự, thực hành văn hóa, nguyên lý
Mẫu không hẳn đã mất đi, bởi thực chất đây (bộ ba Thiên - Địa - Thủy) vẫn bao
quát Tứ phủ, tức mô hình Tam phủ với một phủ kiêm tri, bởi Địa phủ kiêm tri Nhạc
phủ (trong Tứ phủ: 3 hiển, 1 ẩn).
Cũng qua các bƣớc phát triển của lịch sử và biến động xã hội…, vào khoảng
thế kỷ XVI, trong bối cảnh nội chiến, hệ tƣ tƣởng Nho giáo và nhiều tôn giáo ở
nƣớc ta dần rơi vào đà khủng hoảng, trong khi kinh tế thƣơng mại và Đạo giáo lại
có phần trỗi dậy và đƣợc đề cao, tầng lớp thƣơng nhân, đặc biệt là thị dân, vốn là
nông dân và cũng chƣa hẳn đã thoát li hoàn toàn cội rễ nông dân, với quan niệm
tiền rừng bạc biển (thuộc miền Nƣớc), đã đề cao hệ thần thuộc Nhạc phủ. Trên nền
tín ngƣỡng bản địa, hệ thần đại diện thuộc ba miền: Thiên (phủ), Nhạc (phủ), Thủy
(phủ) trong Tứ phủ đƣợc tôn lên. Theo đó, với tầng lớp thƣơng nhân và thị dân, hệ
thần đại diện cho miền Đất, nghiễm nhiên trở nên yếu thế, sau bị “ẩn” đi - Đất nhập
với Trời, bởi theo nguyên lý âm dƣơng và nguyên lý Phụ hệ (nặng về Nho giáo) thì
trời thuộc dƣơng - là cha/chồng, đất thuộc âm - là mẹ/vợ - Thuyền theo lái, gái theo
chồng là điều dễ hiểu. Đây cũng là mô hình Tam phủ, với một phủ kiêm tri, bởi
Thiên phủ kiêm tri Địa phủ (trong Tứ phủ: 3 hiển, 1 ẩn).
Tuy nhiên, dù hệ thần gắn với thƣơng mại (Thiên - Nhạc - Thủy) có phần
đƣợc đề cao nhƣng trên nền cảnh chung của văn hóa xã hội, với cơ cấu kinh tế chủ
yếu là nông nghiệp thì hệ thần nông nghiệp gắn với bộ ba Thiên - Địa - Thủy đƣợc
định hình trƣớc đó, cơ bản vẫn đƣợc đông đảo cộng đồng làng xã phụng thờ.
Phải chăng, cũng trên nền cảnh lịch sử - xã hội, tôn giáo, tín ngƣỡng ấy, để
đáp ứng nhu cầu đa dạng và thống nhất trong xã hội, đòi hỏi phải có một vị thần có
158
sức quy tụ thần linh trong Tứ phủ ra đời. Có thể coi đây là một tiền đề để Mẫu Liễu
Hạnh, một vị Thần nữ vốn thuộc dòng Thiên Tiên đã nhập vào hệ thần Tứ phủ để
quy tụ thần linh bản địa nhƣ một sự trỗi dậy của tín ngƣỡng bản địa và nguyên lý
Mẫu trong văn hóa Việt vào khoảng thế kỷ XVI.
Đến đây, một câu hỏi cũng hết sức thú vị cần đặt ra là: Vậy trong Tứ phủ,
thực tế Tứ phủ ông và Tứ phủ Bà/Mẫu hiện diện thế nào trong các điện thờ?
Nhƣ trên đã trình bày, trong tín niệm dân gian, Tứ phủ là một hệ liên thông,
có cơ cấu tổ chức nhƣ một “Nhà nƣớc quân chủ chuyên chế do vua đứng đầu”.
Theo chức năng và cơ cấu về giới, có thể chia thành hệ Tứ phủ ông và Tứ phủ bà.
Tuy nhiên, đó chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài “yếu tố hiển”. Tùy thuộc vào
điều kiện lịch sử - xã hội mà nảy sinh những hình thức thờ tự đại diện tƣơng ứng,
phù hợp trong từng thần điện, nghi thức hành lễ.
Với tín ngƣỡng thờ Mẫu, trong tiềm thức tín đồ, đặc biệt là qua văn cúng và
cách thức bài trí thờ tự. Trong các điện Mẫu không thể thiếu ban Công đồng thờ tất
cả chƣ vị thần linh trong Tứ phủ. Và, đây cũng là vị trí đắc địa mà các tín đồ thƣờng
hay ngồi đồng (trƣớc ban Công đồng), với sự cung kính thỉnh mời chƣ vị thần linh
trong Tứ phủ về chứng đàn, giám lễ trong mọi khóa lễ. Dƣờng nhƣ, có thể nhận
thấy, ẩm hiện đâu đó, nhƣ vẫn thấy bóng dáng của Tam/Tứ phủ ông, dù là đại diện
qua cách bài trí thờ tự và hành lễ trong các điện Mẫu, nhƣ sự xuất hiện của Đức
Thánh Trần (nhiều khi đƣợc đồng nhất với vua cha Ngọc hoàng), vua cha Ngọc
hoàng (thƣờng đƣợc gán cho là nhân vật có địa vị chí tôn đại diện cho Tam/Tứ phủ,
cũng là đại điện cho Tam/Tứ phủ ông) hoặc Tam vị Đức vua Cha (vua ca Ngọc
Hoàng - đại diện cho Thiên phủ, vua Cha Bát Hải - đại diện cho Thủy phủ, vua Cha
Diêm Vƣơng - đại diện cho Địa phủ)… và nhiều vị khác nữa mà theo cơ cấu giới
thuộc về Tam/Tứ phủ ông. Ở một một chiều kích khác, thực tế còn thấy rõ sự hiện
diện đại diện của Tứ phủ Ông (vua Cha Ngọc Hoàng - Thiên phủ, Thập Diện Diêm
Vƣơng - Địa phủ), Tứ phủ Bà (Tam tòa thánh Mẫu, một vị kiêm tri) trong nhiều
ngôi chùa hay sự xuất hiện của Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong điện thờ Nội đạo (qua
thần tích). Đặc biệt là sự xuất hiện của ban Công đồng trong nhiều ngôi chùa nhiều
điện thờ thuộc tín ngƣỡng dân gian hiện nay…
Phải chăng, đó là những biểu hiện của “yếu tố mật”, khẳng định sức bền của
159
nguyên lý nguyên lý Mẫu, nguyên lý Âm - Dƣơng/ MẸ - CHA, nguyên lý thờ đa
thần, nguyên lý thờ thần đa chức năng… trong tâm tâm thức tôn giáo - tín ngƣỡng
của ngƣời Việt..
Tiểu kết
Phân tích và bàn lại câu chuyện tiếp cận văn hóa quanh tín ngƣỡng thờ Mẫu
Liễu Hạnh ở phủ Giày qua khảo chứng Vân Cát Thần nữ truyện, nghiên cứu một
làn nữa khẳng định lại mối quan hệ địa chính và văn hóa giữa Vân Cát - An Thái và
Tiên Hƣơng trong lịch sử phụng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Theo đó, Một số vấn
đề liên quan trong Vân Cát Thần nữ truyện “cũng đƣợc giải ảo”. Vấn đề tƣ cách
chính tự (đƣợc triều đình công nhận thờ tự hợp pháp từ thế kỷ XVII) của phủ Giày,
cơ bản đã đƣợc giải quyết một cách thấu đáo. Câu chuyện phủ Chính và vai trò thờ
tự Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy của các cộng đồng làng xã trực tiếp liên quan thực
chất là câu chuyện chính tự (đƣợc triều đình công nhận việc thờ tự hợp pháp).
Cũng qua tổng hợp, phân tích tƣ liệu Hán Nôm, nghiên cứu sinh đã bƣớc đầu
phác lại một nghi lễ trình đồng Tứ trƣớc năm 1945, qua đó, từng bƣớc “giải ảo” để góp
phần làm rõ vị trí, vai trò của Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Tam phủ, Tứ phủ trong hệ thần
Tứ phủ và một số vấn đề lịch sử - văn hóa có liên quan.
Với Tứ phủ, có thể tạm coi, hệ thần Tứ phủ là một hệ liên thông, gần với mô
hình “Nhà nƣớc quân chủ chuyên chế do vua đứng đầu” trong xã hội phƣơng Đông
thời cổ đại, với đầy đủ tầng lớp, đẳng cấp trên dƣới.
Nếu tạm lấy hệ Tứ phủ làm hệ quy chiếu thì Mẫu Tam phủ thuộc mô hình
một phủ, một vị kiêm tri. Tuy một phủ “ẩn” nhƣng vẫn có thể nhận diện đƣợc đầy
đủ đại diện của hệ thần Tứ phủ (hệ thần “hiển”). Theo đó, trong tín ngƣỡng thờ Mẫu
của ngƣời Việt, dạng thức Tam tòa Thánh Mẫu - Tứ phủ Công đồng là mô hình phổ
biến. Trong mô hình này, vai trò kiêm tri của Thánh Mẫu Liễu Hạnh hiện lên rất rõ.
Thông qua việc phân định hệ thần Tứ phủ theo giới, qua hình thức thờ tự và
thực hành nghi lễ, bƣớc đầu nghiên cứu cũng đặt vấn đề tìm hiểu mối quan hệ giữa
Tứ phủ Ông và Tứ phủ Bà trong các điện thờ Mẫu, trong các ngôi chùa…, nhằm
góp phần làm rõ, “yếu tố hiển” và “yếu tố mật” trong hiện tƣợng văn hóa này.
160
KẾT LUẬN
Tƣ liệu Hán Nôm về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ
phủ phong phú về số lƣợng, nội dung, đa dạng về loại hình, hàm chứa đầy đủ giá trị
của loại hình di sản văn hóa tƣ liệu, có thể khai thác để tìm hiểu về tín ngƣỡng thờ
Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ nói riêng, những vấn đề về lịch sử - văn
hóa dân tộc nói chung, đặc biệt là lịch sử khai thác làm chủ tự nhiên, quan hệ ứng
xử với tự nhiên - xã hội; lịch sử tín ngƣỡng dân gian bản địa, vũ trụ quan tôn giáo -
tín ngƣỡng dân gian; lịch sử sắc phục; lịch sử âm nhạc nghi lễ dân gian, múa nghi lễ
dân gian, ngôn ngữ, văn học dân gian...
Trên nền lịch sử và địa chính chung, mối quan hệ vốn thờ chung thần, đặc
biệt là Thánh Mẫu Liễu Hạnh giữa hai cộng đồng Vân Cát và Tiên Hƣơng cũng
biến đổi theo những bƣớc thăng trầm, giãn co của không gian địa chính để đi đến
phân dịnh và chấp nhận một tồn tại lịch sử nhƣ thấy hiện nay: phủ Giày - phủ Vân
Cát - phủ Tiên Hƣơng đều đƣợc gọi/gọi đƣợc là phủ Giày, gắn với nơi thờ Mẫu
Liễu Hạnh trong ý thức về cội nguồn và tƣ duy hồi cố dân gian của cộng đồng làng
xã liên quan, đến nay vẫn vậy. Đó là “thƣơng hiệu văn hóa” của phủ Giày ở Kẻ
Giày, thuộc sở hữu chung, không của riêng ai, riêng của bên nào dù đã trải qua
nhiều bƣớc thăng trầm hợp - li/li hợp.
Cũng giống nhƣ một số vị thần khác, các vị Thánh Mẫu phủ Giày cũng có
một “hành trạng thần tiên”. Bên cạnh đó, các Mẫu còn nhƣ có một “hành trạng thế
tục”. Đây là một minh chứng cụ thể về xu hƣớng “thần thánh hóa” con ngƣời bên
cạnh xu hƣớng nhân hóa thần linh trong tín ngƣỡng truyền thống Việt.
Tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Giày có thể đƣợc định hình từ thế kỷ
XVI, đã đƣợc định hình quy mô kiến trúc muộn nhất cũng từ thế kỷ XVII, xác lập
cặp đôi vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Diện mạo kiến trúc của hai phủ hiện nay, chủ
yếu mang đặc trƣng kiến trúc từ niên đại Thành Thái, Duy Tân trở lại đây.
Hội phủ Giày là một hội lớn, có thể mang quy mô hàng phủ ở dƣới thời Lê.
Trong hội có nhiều sinh hoạt văn hóa đặc sắc, hàm chứa nhiều lớp văn hóa chồng
lấn - thờ đa thần, đa tín ngƣỡng (thờ Thần Cây - Mẹ Núi Rừng, Mẹ Nông nghiệp,
thần Y, thần Buôn…) trong sự dung hội với nhiều tôn giáo và hệ tƣ tƣởng khác (Ấn
161
Độ giáo, Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo) nhƣng cơ bản trƣớc năm 1945 vẫn là lễ hội
gắn với nông nghiệp, khát vọng cầu mƣa, cầu mùa mặc dù yếu tố gắn với thƣơng
mại tiểu thƣơng, nghề buôn đã đƣợc định hình khá rõ.
Vai trò chủ thể của các cộng động trong việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở
phủ Giày chủ yếu gắn với Vân Cát - An Thái - Tiên Hƣơng cũng không thể tách rời
lịch sử địa chính và văn hóa khu vực Kẻ Giày. Theo đó, trên đất Kẻ Giày, ngôi vị
chính tự, chính từ, chính thần của ba vị Thánh Mẫu đƣợc xác lập tƣơng đối sớm, ít
nhất là từ thế kỷ XVII - Trên thực tế lịch sử có lẽ phải sớm hơn? Sau khi đƣợc triều
đình công nhận, ban đầu, việc thờ tự thuộc trách nhiệm chung, ít nhất của cả khu
vực Kẻ Giày cổ/xƣa. Chính từ thuộc Kẻ Giày (cộng đồng chủ thể). Sau khi Kẻ Giày
phân tách (trƣớc thế kỷ XVII), trách nhiệm thờ tự chính vẫn thuộc về hai xã Vân
Cát và An Thái. Sau khi xã Vân Cát và An Thái sáp nhập thành xã An Thái (mới)
(khoảng từ 1805 - 1811), việc thờ tự ba vị thuộc trách nhiệm chung cả dân xã An
Thái (mới). Đến khoảng cuối thời Thiệu Trị - đầu thời Tự Đức nhƣng không thể
muộn hơn năm Tự Đức thứ 3 (1850), xã Vân Cát tách khỏi xã An Thái (mới), tái
lập xã Vân Cát, xã An Thái đổi thành xã Tiên Hƣơng, bên Vân Cát chuyển giao
nguyên hội lệ cho bên Tiên Hƣơng. Từ đây, việc thờ Mẫu và đền Mẫu riêng bên xã
Tiên Hƣơng chính thức đƣợc công nhận ngôi vị chính tự và chính từ - Tƣ cách
chính từ - phủ chính từ - phủ chính bên xã Tiên Hƣơng cũng chính thức đƣợc xác
lập. Đến khoảng năm 1918 - 1919, hội Vân Cát lại đƣợc phép phục hồi (sau khi bị
gián hơn 60 năm). Hiện nay, hai cộng đồng đều thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản,
tỉnh Nam Định vẫn duy trì việc thờ riêng Mẫu Liễu Hạnh.
Với tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tại
phủ Giày, từ khoảng thé kỷ XVI - XVII đã định hình dạng thức thờ Mẫu bộ ba (hiển
hiện) đại diện cho hệ Thƣợng thiên (Đệ nhất Liễu Hạnh, Đệ nhị Quỳnh cung, Đệ tam
Quảng cúng) trong Tứ phủ (ẩn tàng), dù cũng thuộc mô hình thờ Mẫu đại diện, gồm
Tam tòa đại diện cho Tứ phủ nhƣng đây lại là điểm khác biệt căn bản so với mô hình
thờ Mẫu đại diện với Tam tòa (Thiên - Địa - Thủy hoặc Thiên - Nhạc - Thủy) - Tứ
phủ (Thiên - Địa - Thủy - Nhạc) trƣớc đó và về sau tại nhiều địa điểm khác. Thực
chất, đây đều là mô hình biến thể mà xƣa nay dân gian thƣờng đúc kết và định danh
162
là mô hình thờ Tam tòa đại diện cho Tứ phủ - Thực tế, các mô hình thờ này khi
hành lễ đều thỉnh mời đầy đủ chƣ vị thần linh trong Tứ phủ nhƣng vì không thể tạc
tƣợng, vẽ tranh, làm bài vị nhập linh tất cả chƣ vị vị thần linh trong Tứ phủ để
phụng thờ nên phải tạc và thờ đại diện. Theo đó, hình thức thờ đại diện đƣợc xem là
một giải pháp tối ƣu. Có thể coi mô hình thờ Tam tòa đại diện cho Tứ phủ là một
biến thể của thờ Tứ phủ, tức một phủ kiêm tri (trong Tứ phủ: 3 phủ hiển hiện, 1 phủ
ẩn tàng) nhƣng tính chất thờ Tứ phủ không thay đổi. Đó là một biểu hiện rất cụ thể
về tín ngƣỡng thờ đa thần và sức bền của nguyên lý Mẫu trong văn hóa Việt.
Từ khoảng thế kỷ XVII - XVIII, tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh phủ Giày đã
có sự lan tỏa tƣơng đối mạnh mẽ trong không gian văn hóa Bắc Bộ. Đến khoảng đầu
khoảng đầu thế kỷ XX, tín ngƣỡng này đã lan tỏa trong một không gian có thể tạm
tính từ Thừa Thiên Huế, với các hình thức thờ đại diện cũng rất đa dạng: thờ bài vị,
thờ tranh, thờ thần tƣợng. Về nguồn gốc, dƣới sự diễn giải của tƣ duy tôn giáo dân
gian, hình tƣợng Mẫu Liễu Hạnh cơ bản đƣợc dân gian cho là gắn với Thiên phủ
(thiên thần), cá biệt, một số cộng đồng cho là gắn với nguồn gốc nhân thần. Đặc biệt,
trong sự giao lƣu và tiếp biến văn hóa, một số cộng đồng làng xã đã bê nguyên mô
hình thờ Tam vị Thánh Mẫu phủ Giày/Tam vị Thánh Mẫu Sòng Sơn vào điện thờ,
thậm chí tôn thờ làm Thành hoàng làng.
Cũng thông qua việc tìm hiểu về tín ngƣỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh qua tƣ liệu
Hán Nôm, một số vấn đề liên quan tới tín ngƣỡng thờ Tứ phủ, Mẫu Tam phủ, Tứ phủ
nói riêng và lịch sử - văn hóa dân tộc nói chung tạm đƣợc rút ra là:
- Tại phủ Giày nói riêng, các điện thờ Mẫu ở nơi khác nói chung, cũng nhƣ
trong một số kiến trúc tôn giáo, tín ngƣỡng khác của ngƣời Việt, không thể thiếu
ban thờ Tứ phủ Công đồng, nơi thờ tất cả thần linh. Theo đó, hình tƣợng các Mẫu
và một số vị liên quan đƣợc thể hiện qua tƣợng pháp, bài vị, tranh thờ trong các
điện Mẫu cũng nhƣ nhiều cơ sở thờ thực khác chỉ mang tƣ cách là các vị thần đại
diện - Yếu tố hiển. Về bản chất, sau khi hệ thần Tứ phủ đƣợc định hình, các điện
thờ Mẫu và nhiều kiến trúc tôn giáo, tín ngƣỡng khác của ngƣời Việt đều thờ tất cả
thần linh Tứ phủ (Thiên - Địa - Thủy - Nhạc) - Yếu tố mật. Đó là một biểu hiện cụ
thể về tín ngƣỡng thờ đa thần và sức bền của nguyên lý Mẫu trong văn hóa Việt.
163
- Hệ thần Tứ phủ đƣợc định hình theo các bƣớc phát triển lịch sử - xã hội của
ngƣời Việt nhƣ một tổ chức xã hội liên thông, có nhiều nét tƣơng đồng với mô hình
“Nhà nƣớc quân chủ chuyên chế do vua đứng đầu”, với đầy đủ đặc trƣng của hai
giới. Theo đó, dƣới diễn giải của thế giới quan tôn giáo theo thiên hƣớng nam hoặc
nữ sẽ dẫn đến cách hiểu khác nhau, nhƣng cơ bản gồm Tứ phủ Nam và Tứ phủ nữ.
Cụ thể, với cách diễn giải nặng về thiên hƣớng nam, thế giới thần linh do Thiên phủ
(Nam) đứng đầu, cai quản Tứ phủ. Các phủ khác thừa hành, thực hiện chức trách,
phận vị của mình trong địa hạt. Ứng với mỗi phủ, hệ thần lại đƣợc chia theo hai
giới, với bên nam có đủ vua quan nam và bộ phận thừa hành…, nhóm nữ tƣơng ứng
với đám hậu cung, do một vị thần nữ cai quản, cũng đầy đủ cơ cấu nhƣ bên nam…
Tƣơng tự, theo cách diễn giải nặng về thiên hƣớng nữ, có lẽ sẽ đƣợc hiểu ngƣợc lại
dù dấu vết còn hiện diện khá mờ. Đó là một biểu hiện cụ thể về sự dung hội của hai
xu hƣớng sáng lập và diễn giải về thế giới tự nhiên và thần linh theo vũ trụ quan hai
giới từng song hành tồn tại, sau hội lại theo triết lý âm dƣơng để phản ánh về tôn ti,
trật tự trong cơ cấu tổ chức xã hội với đầy đủ đặc trƣng hai giới còn có thể nhận
diện đƣợc qua hệ thần Tứ phủ Việt.
- Hệ thần Mẫu Tứ phủ, Mẫu Tam phủ không thể tách rời hệ thần Tứ phủ và
nằm trong Tứ phủ. Về bản chất, đây là cách gọi tôn xƣng mang tính đại diện, đƣợc
thể hiện dƣới hình thức tôn thờ ba vị Thánh Mẫu (hiển hiện) trong hệ thần Tứ phủ
(ẩn tàng) mà dân gian đã khái quát, đó là mô hình Tam tòa Thánh Mẫu - Tứ phủ
công đồng.
- Trong tín ngƣỡng dân gian, tùy theo yêu cầu lịch sử và xu hƣớng tôn giáo,
tín ngƣỡng, vị trí, vai trò của các vị thần trong Tứ phủ cũng nhƣ các phủ trong Tứ
phủ đƣợc kết hợp và diễn giải khác nhau./.
164
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Đạt Thức (2017), “Về hủ tục và mê tín dị đoan trong lễ hội truyền
thống”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 4 (61), tr. 87 - 97.
2. Nguyễn Đạt Thức (2019), “Về công đức xây dựng, tu bổ, tôn tạo di tích qua
tƣ liệu Hán - Nôm tại quần thể di tích phủ Giầy, tỉnh Nam Định”, Tạp chí Di
sản văn hóa, số 9 (69), tr. 46 - 49.
3. Nguyễn Đạt Thức (2020), “Kẻ Giầy - Vân Cát - Tiên Hƣơng trong sự biến đổi cơ
cấu làng xã có thể khảo”, Tạp chí Văn hóa học, số 3 (49), tr. 77 - 82.
4. Nguyễn Đạt Thức (2020), “Chính tự - chính từ - chính thần quanh tục thờ Thánh
Mẫu Liễu Hạnh trên vùng đất kẻ Giầy”, Đặc san Di sản văn hóa, số 2 (02), tr. 57 - 61.
5. Nguyễn Đạt Thức (2020), “Về cơ chế xác lập, duy trì truyền thống thờ thần trong
cộng đồng làng xã Việt xƣa”, Đặc san Di sản văn hóa, số 3 (03), tr. 39 - 44.
165
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Ban Quản lý Di tích và Danh thắng tỉnh Nam Định (2019), "Báo cáo kết quả
khảo sát, nghiên cứu tên gọi các di tích thuộc quần thể di tích lịch sử -
văn hoá phủ Dầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định", Hồ sơ
xếp hạng di tích (tài liệu bổ sung), Tƣ liệu lƣu trữ tại Cục Di sản văn
hóa.
2. Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 8, Nxb. Thuận hóa,
1992.
3. Nguyễn Chí Bền (2018), Văn hóa Việt Nam nghiên cứu và tiếp cận, tập 1 (Quyển
1): Về văn hóa dân gian, Nxb. KHXH, H.
4. Nguyễn Chí Bền (2018), Văn hóa Việt Nam nghiên cứu và tiếp cận, tập 1 (Quyển
2): Về văn hóa đƣơng đại, Nxb. KHXH, H.
5. Nguyễn Chí Bền (2018), Văn hóa Việt Nam nghiên cứu và tiếp cận, tập 1 (Quyển
3): Về văn học, Nxb. KHXH, H.
6. Nguyễn Chí Bền (2018), Văn hóa Việt Nam nghiên cứu và tiếp cận, tập 2: Các
chuyên luận, Nxb. KHXH, H.
7. Trần Lâm Biền (2018), Đồ thờ trong di tích của người Việt, Nxb. Thế giới, H.
8. Trần Lâm Biền (2020), Văn hóa nghệ thuật chùa Việt vài nét cơ bản, Nxb. Đại
học Quốc gia, H.
9. Phan Kế Bính (2004), Việt Nam phong tục, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh.
10. Phan Kế Bính, Nam Hải dị nhân, Nxb. Trẻ, xuất bản năm 1988. 11. Cát thiên tam thế thực lục11 (bản lƣợc thuật và giới thiệu bằng tiếng Việt của
Nguyễn Văn Thanh, cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm) - Xem thêm :
Nguyễn Văn Thanh (2007), "Cát thiên tam thế thực lục và việc nghiên
cứu đạo Mẫu” Thông báo Hán Nôm học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, H.
11 Bản gốc chữ HánCát Thiên tam thế thực lục 葛 天 三 世 實 錄, hiện lƣu tại phủ Nấp, tức phủ Quảng Cung, thuộc xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
xuất bản năm 2008 hoặc có thể truy cập:
166
http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1444&Catid=597
12. Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb. Văn
hóa dân tộc và Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật xuất bản, H.
13. Nguyễn Đổng Chi (1980), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nxb. KHXH, H,
xuất bản năm 1980.
14. Phan Huy Chú, Lịch triều hiếu chương loại chí, tập 1, Nxb. Giáo dục, H, 2007.
15. Phan Huy Chú, Lịch triều hiếu chương loại chí, tập 2, Nxb. Giáo dục, H, 2007.
16. Trƣơng Văn Chung (2017), Chuyển đổi tôn giáo Một số vấn đề lý thuyết và lịch
sử, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, TPHCM.
17. Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (2002), Những vấn đề về Hán Nôm học,
tập 1, Nxb. Đại học Quốc gia, H.
18. Đại Việt sử ký toàn thư (1993) (Bản dịch), Nxb. Khoa học xã hội, H - Bản điện
tử, chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy, Tuyết
Mai, Hồng Ty, Nguyễn Quang Trung, năm 2001.
19. Nguyễn Xuân Diện (2016), Kiều Oánh Mậu Cuộc đời và tác phẩm, Nxb. Thế
giới, H.
20. Đồng Khánh Địa dư chí, Nxb. Thế giới, H, 2003.
21. Dƣơng Ngọc Dũng (2016), Tôn giáo nhìn từ viễn cảnh xã hội học, Nxb. Hồng
Đức, H.
22. Trần Quang Dũng chủ biên (2017), Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ Chốn thiêng
nơi cõi thực, Nxb. Thế giới, H.
23. Mai Thị Hạnh (2018), Bản hội trong Đạo Mẫu: Tạo lập vốn xã hội trong bối
cảnh chuyển đổi, Luận án tiến sĩ văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
24. Nguyễn Thị Hiền (2014), Đức thánh Trần qua kinh giáng bút, Luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Hán Nôm, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.
25. Đinh Thanh Hiếu (2018), “Định chế và mô thức sắc phong thần triều Nguyễn”,
Tạp chí Hán Nôm, số 1 (146).
26. Hồ sơ xếp hạng Khu di tích kiến trúc - nghệ thuật phủ Dầy (1975), ký hiệu NĐ.
10, Tƣ liệu lƣu trữ tại Cục Di sản văn hóa.
167
27. Hồ sơ đề cử di sản văn hóa phi vật thể Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ của người Việt (2015), Tƣ liệu lƣu trữ tại Cục Di sản văn hóa.
28. Kiều Thu Hoạch (2019), Văn hóa dân gian người Việt góc nhìn so sánh, Nxb.
KHXH, H.
29. Kiều Thu Hoạch, “Tiếp cận thực hành tín ngưỡng Tam phủ của người Việt từ
góc nhìn lịch sử, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam, số 4/2019 - Số
chuyên đề Kỷ niệm 40 năm thành lập Viện Nghiên cứu Văn hóa.
30. Hội đồng biên tập Tổng tập Văn học Việt Nam (1994), Tổng tập Văn học Việt
Nam, tập 3B, Nxb. KHXH, H.
31. Vũ Thị Minh Hƣơng, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin (2000), Địa danh và
tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc - Kỳ, Nxb. Văn hóa Thông tin, H.
32. Trần Quang Huy (2016), Nghiên cứu kinh giáng bút của thiện đàn cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Hán Nôm, Học viện
Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
33. Trần Quang Huy (2014), Quốc văn Nôm trong kinh giáng bút của phong trào
thiện đàn đầu thế kỷ XX, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Hán Nôm, Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
34. Nguyễn Văn Huyên (2018), Hội hè lễ tết của người Việt (Đỗ Quang Trọng -
Trần Đỉnh dịch), Nxb. Thế giới, H.
35. Nguyễn Văn Huyên, “Sự thờ cúng các vị thần tiên ở Việt Nam và Một trƣờng
đạo sỹ ở Việt Nam”, in trong Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam,
tập 2, Nxb. KHXH, H, 1996.
36. Đinh Thị Lệ Huyền (2007), Tìm hiểu Đạo Mẫu ở Việt Nam qua tư liệu Hán
Nôm, Luận án thạc sĩ khoa học, chuyên nghành Hán Nôm, Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
37.Lê Tùng Lâm (2011), Văn bản Truyền kỳ tân phả và mối quan hệ với các thần
tích (qua trường hợp Hải khẩu linh từ và Vân Cát thần nữ), Luận văn
thạc sĩ Hán Nôm, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.
38. Võ Hoàng Lan (2012), Tục thờ nước của người Việt ở châu thổ sông Hồng,
Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam.
168
39. Nguyễn Ngọc Mai (2013), Nghi lễ lên đồng Lịch sử và giá trị, Nxb. Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
40. Kiều Oánh Mậu, Tiên phả dịch lục (bản dịch của Nguyễn Xuân Diện), in trong
Nguyễn Xuân Diện (2016), Kiều Oánh Mậu Cuộc đời và tác phẩm, Nxb.
Thế giới, H, tr. 234 - 280.
41. Trần Nghĩa, Prancoi Gros (1997), Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu,
Nxb. KHXH. H.
42. Trần Nghĩa (Chủ biên) (2003), Di sản Hán Nôm Việt Nam Thư mục đề yếu - Bổ
di I (Quyển Hạ Và Quyển Thượng), Nxb.KHXH, H.
43. Nguyễn Ôn Ngọc, Nam Định tỉnh địa dư chí (Phòng Địa chí Thƣ viện tỉnh
dịch)- Bản điện tử của Thƣ viện tỉnh Nam Định.
44. Nhiều tác giả (2016), Văn hóa học Những phương pháp tiếp cận, Nxb. Thế giới,
H.
45. Olivier Tessier (Tổ chức biên soạn) - Phạm Văn Ánh, Nguyễn Thị Hiệp (dịch
vào giới thiệu) (2020), Thánh Mẫu linh tiêm, Nxb. Tổng hợp TPHCM.
46. Olivier Tessier (Tổ chức biên soạn) - Nguyễn Thị Hiệp - Marcus Durand -
Philippe Papin (dịch vào giới thiệu) (2020), Điện thần và nghi thức hầu
đồng Việt Nam, Nxb. Tổng hợp TPHCM.
47. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục,
tập 1, Nxb. Giáo dục, H.
tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam
48. Nguyễn Minh San (1996), Việc phụng thờ Mẫu Liễu ở phủ Giầy, Luận án Phó
49. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam Định, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc
gia Việt Nam (2017), Tuyển tập những bài hát văn, Nxb. Thế giới, H.
50. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam Định và Viện Văn hóa Nghệ thuật
quốc gia Việt Nam (2019), Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt - Những
công trình nghiên cứu, Nxb. Thế giới, H.
51. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam Định, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc
gia Việt Nam (2019), Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt qua tư liệu
Hán Nôm, Nxb. Thế giới, H.
169
52. Bùi Văn Tam (2017), Nguyệt du cung (Đền Cây Đa Bóng), Nxb. Văn hóa dân
tộc, H.
53. Bùi Văn Tam (khảo cứu, biên soạn) (2007), Phủ Dầy và tín ngưỡng mẫu Liễu
Hạnh, Nxb. Văn hóa dân tộc.
54. Tân - Dân Thƣ - quán (1929), Văn chầu Các bài văn chầu đủ các vị, Tân - Dân
Thƣ - quán xuất bản, H.
55. Hà Văn Tấn (1999), “Bài bia của Trƣơng Hán Siêu và vấn đề phong thành
hoàng”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1 (302), tr. 42 - 50.
56. Bùi Quang Thắng (2017), Hành trình vào văn hóa học, Nxb. Thế giới, H.
57. Bùi Quang Thắng (chủ biên) (2008), 30 thuật ngữ Nghiên cứu văn hóa học,
Nxb. KHXH, H.
58. Trần Thị Băng Thanh (Sƣu tập và giới thiệu), (2017), Một Điểm tinh hoa Thơ
văn Hồng Hà nữ sĩ, Nxb. Phụ nữ, H.
59. Bùi Quang Thanh (2008), Văn hóa dân gian Việt Nam Một cách tiếp cận, Nxb.
KHXH, H.
60. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TPHCM,
TPHCM.
61. Ngô Đức Thịnh (2010), Đạo mẫu Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, H.
62. Ngô Đức Thịnh (2010), Lên đồng hành trình của thần linh và thân phận, Nxb.
Thế giới, H.
63. Ngô Đức Thịnh (2012), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb.
Trẻ, TPHCM.
64. Ngô Đức Thịnh (2014), Đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, Nxb. Dân trí, H.
65. Phan Cẩm Thƣợng, Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lƣợc (2011), Đồ họa cổ Việt
Nam, Nxb. Mỹ thuật, H.
66. Trung tâm Lƣu trữ Quốc gia I (2017), Địa danh làng xã Việt Nam qua tài liệu
địa bạ triều Nguyễn, tập 1: Bắc Kỳ, Nxb. Thông tin và Truyền thông.
67. Truyền kỳ tân phả (Bản dịch của Ngô Lập Chi), Nxb. Giáo dục, 1962.
68. Nguyễn Văn Tuân (dịch chú) (2017), Bách thần lục, Nxb Đại học sƣ phạm, H.
69. Ty Văn hóa Hà Nam Ninh (1976), Đây thực chất hội phủ Giày.
170
70. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập
1, Nxb. Thế giới, H.
71. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập
2, Nxb. Thế giới, H.
72. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập
3, Nxb. Thế giới, H.
73. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập
4, Nxb. Thế giới, H.
74. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại việt sử ký toàn thư , Nxb. KHXH,
H.
75. Viện Thông tin khoa học xã hội, Sở Văn hóa thông tin tỉnh Hà Nam (2004),
Thần tích thần sắc Hà Nam, Nxb. KHXH, H.
76. Trần Quốc Vƣợng (2001), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn
học, H.
77. Trần Quốc Vƣợng, “Vì sao Vân Cát - Tiên Hƣơng là một hồi sau tách đôi và rồi
đã và đang lần kết đôi?”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4 (76) - 2001.
78. Trần Quốc Vƣợng (2003), Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn
học, H.
79. Trần Quốc Vƣợng (2018), Theo dòng lịch sử, Những vùng đất, thần và tâm thức
người Việt, Nxb. Hồng Đức.
80. Dƣơng Văn Vƣợng (dịch), Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược - Bản điện
tử của Thƣ viện tỉnh Nam Định.
81. Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh, Nxb. Văn học, xuất bản năm 1972.
Tài liệu tiếng nƣớc ngoài
82. A.Lagrèze (1941), “Documents concernant le temple dên-song, au thanh-hoa”
Bulletin des amis du vieux Hue, B.A.V.H, tập XXVIII, N0 1, 1941.
83. 王 可 Vƣơng Khả (1999), 中 國 道 教 基 破 知 識 Trung Quốc đạo giáo cơ phá
tri thức, 宗 教 文 化 出 版 社 Tông giáo văn hóa Xuất bản xã, 北 京 Bắc
Kinh.
84. 馬 書 田 Mã Điền Thƣ (1999), 華 夏 諸 神 Hoa hạ chƣ thần, 安 山 出 版 社
171
Yên Sơn, 北 京 Bắc Kinh.
85. 陳 益 源 Trần Ích Nguyên, 裴 光 雄 Bùi Quang Hùng (2007), 雲 南 与 越 南
Vân Nam và Việt Nam, 樂 學 書 局 印 行 Lạc học Thƣ cục ấn hành.
Tài liệu Hán Nôm
86. Bắc Giang tỉnh Lạng Giang phủ Phất Lộc huyện Đào Quan tổng Tiên Lục xã
thần tích 北 江 省 諒 江 府 弗 祿 縣 桃 觀 總 仙 錄 社 神 蹟, Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A14/11.
87. Bắc Ninh tỉnh Gia Lâm huyện các xã thần tích 北 寧 省 嘉 林 縣 各 社 神 蹟,
Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A7/12.
88. Bắc Ninh tỉnh, Quế Dƣơng huyện, Cựu Tự xã thần sắc 北 寧 省 桂 陽 縣 舊 寺
社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A7/24.
89. Bách tƣờng hoa chân kinh 百 祥 花 真 涇, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AB.242.
90. Bách hạnh thiện thƣ 百 行 善 書, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.42
91. Bách thần lục 百 神 錄, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.1276/2, VHv.
1276/4.
92. Bản thiện kinh ản 本 善 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.355.
93. Bản quốc dị văn 本 國 異 文 [Bản quốc dị văn lục 本 國 異 文 錄], Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.3178, A.3197 (bản sao).
94. Báo ân quốc âm chân kinh 報 恩 國 音 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký
hiệu AB.519.
95. Bảo xích tục biên chân kinh 寶 赤 續 編 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký
hiệu AB.503.
96. Bảo Hán Châu Liên 保 漢 珠 聯 , Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
VHv.2450/1.
97. Càn khôn định vị chân kinh 乾 坤 定 位 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký
hiệu AB.252.
98. Cát sự đối liên 吉 事 對 聯, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.2660.
172
99. Chấp trung quốc âm chân kinh 執 中 國 音 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AB.504.
100. Chí đạo quốc âm chân kinh 志 道 國 音 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký
hiệu AB.260.
111. Chí trung chân kinh 致 中 真 涇, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.515.
112. Chƣ vị tán văn toàn tập 諸 位 贊 文 全 集, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký
hiệu AB.601.
113. Chƣ vị văn chầu 諸 位 文 朝, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.517.
114. Công văn quyển 攻文卷, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.629.
115. Công văn tổng quyển 攻 文 總 卷, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
A.2777.
116. Đại Nam quốc âm ca khúc 大 南 國 音 歌, “Liễu Hạnh công chúa diễn âm”,
Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.146.
117. Đàn văn 彈 文, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.365.
118. Dân gian cổ ngâm 民 間 古 吟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VNb.58.
119. Địa bạ xã Vân Cát 雲 葛 社 地 簿 - Trung tâm Lƣu trữ quốc gia I, Phông Địa
bạ triều Nguyễn, hồ sơ số 6529, lập năm Gia Long thứ 4 (1805).
120. Địa bạ xã An Thái 安 泰 社 地 簿 - Trung tâm Lƣu trữ quốc gia I, Phông Địa
bạ triều Nguyễn, hồ sơ số 6525, lập năm Gia Long thứ 4 (1805).
121. Hà Nam tỉnh Kim Bảng huyện Thụy Lôi tổng các xã thần tích 河 南 省 金 榜
縣 瑞 雷 總 各 社 神 蹟 , Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AE.A13/21.
122. Hà Nam tỉnh Duy Tiên huyện Tiên Xá tổng các xã thần tích 河 南 省 維 先 縣
先 舍 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A13/12.
123. Hà Đông tỉnh, Thanh Trì huyện, Vĩnh Ninh tổng các xã thần tích đệ thập
sách 河 東 青 池 縣 永 寧 總 各 社 神 蹟 第 十 冊, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, ký hiệu AE.A2/86.
124. Hà Đông tỉnh, Sơn Lãng huyện, Bạch Sam tổng các xã thần tích 河 東 省 山
173
郎 縣 白 杉 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AE.A2/48.
125. Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Thổ Ốc tổng các xã thần tích 河
南 省 里 仁 府 南 昌 縣 土 沃 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, ký hiệu AE.A13/29.
126. Hà Đông tỉnh, Thƣờng Tín phủ, Thƣợng Phúc huyện, Tín Yên tổng các xã thần
tích, 河 東 省 常 信 府 上 福 縣 信 安 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, ký hiệu AE.A2/96.
127. Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Công Xá tổng các xã thần tích 河
南 省 里 仁 府 南 昌 縣 公 舍 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, ký hiệu AE.A13/25.
128. Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Thổ Ốc tổng Đồng Bàn xã thần
tích 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 土 沃 總 銅 盤 社神 蹟, Viện Nghiên
cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A13/28.
129. Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Cao Đà tổng các xã thần tích 河
南 省 里 仁 府 南 昌 縣 高 陀 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, ký hiệu AE.A13/23.
130. Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Hoàng Trung, Tri Chỉ nhị tổng các xã thần
tích 河 東 省 富 川 縣黃 中 知 止 二 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, ký hiệu AE.A2/45.
131. Hà Đông tỉnh, Thƣờng Tín phủ, Thƣợng Phúc huyện, Tín Yên tổng các xã tục
lệ 河 東 省 常 信 府 上 福 縣 信 安 總 各 社俗 例, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, ký hiệu AF.A2/99*.
132. Hà Nam Tỉnh, Duy Tiên huyện, Trác Bút tổng các xã thần tích 河 南 省 維 先
縣 卓 筆 總 各 社 神 蹟 , Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AE.A13/14.
133. Hà Đông tỉnh, Hoài Đức phủ, Từ Liêm huyện, La Nội tổng các xã thần tích 河
東 省 懷 德 府 慈 廉 縣 羅 內 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán
174
Nôm, ký hiệu AE.A2/65.
134. Hà Nam tỉnh, Duy Tiên huyện, An (Yên) Khê tổng các xã thần tích 河 南 省
維 先 縣 安 溪 總 各 社神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AE.A13/1.
135. Hà Đông tỉnh, Phú Xuyên huyện các xã thần tích 河 東 省 富 川 縣 各 社神
蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A2/43.
136. Hà Đông tỉng, Ứng Hòa phủ, Sơn Lãng huyện, Trầm Lộng tổng các xã thần
tích 河 東 省 應 和 府 山浪 縣 沉 弄 總 各社神 蹟, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, ký hiệu AE.A2/57.
137. Hà Đông tỉnh, Phú Xuyên huyện, Thƣờng Xuyên tổng các xã thần tích 河 東
省 富 川 縣常 川 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AE.A2/44.
138. Hà Đông, Thanh Trì huyện, Ninh Xá tổng các xã thần tích 河 東 青 池 縣 寧
舍 總 各 社神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A2/81.
139. Hà Nam tỉnh, Lý Nhân phủ, Nam Xang huyện, an Trạch tổng các xã thần sắc
河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 安 宅 總 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, ký hiệu AD.a13/16.
140. Hà Nam tỉnh, Lý Nhân phủ, Nam Xang huyện Công xá tổng các xã thần sắc 河
南 省 里 仁 府 南 昌 縣 公 舍 總各社 神敕, Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, ký hiệu AD.a13/18.
141. Hà Nam tỉnh, Duy Tiên huyện an (Yên) Khê tổng các xã thần sắc 河 南 省 維
先 縣 安 溪 總 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD.
A13/1.
142. Hà Đông tỉnh, Hoài Đức phủ, Từ Liêm huyện, Thƣợng Ốc tổng các xã thần sắc
河 東 省 懷 德 府 慈 廉 縣 上 沃 總 各 社村 神 敕, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, ký hiệu AD. A2/50.
143. Hà Đông tỉnh, Sơn Lãng huyện, Đại Bối tổng các xã thần sắc 河 東 省 山 郎
縣大 貝 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A2/28.
175
144. Hà Đông tỉnh, Thanh Trì huyện, Cổ Điển tổng các xã thần sắc 河 東 省 青 池
縣 古 典 總 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD.
A2/53.
145. Hải Dƣơng tỉnh, Thanh Hà huyện, Hạ Vĩnh tổng, Hạ Vĩnh xã thần tích 海 陽
省 青 河 縣下 永 總 下 永 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký
hiệu AE.A6/21.
146. Hóa ngoan tân kinh 化 頑 新 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.524.
147. Hồi xuân bảo tập 回 春 寶 集, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.237.
148. Hƣng Yên tỉnh Khoái Châu phủ Đông An Huyện Kim Động huyện Phù Cừ
huyện các xã thần tích 興 安 省 快 卅 府 東 安 縣 金 洞 縣 芙 渠 縣 各
社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A3/5.
149. Hƣng Yên tỉnh, Kim Động huyện các xã thần sắc 興 安 省金洞 縣 各 社 神 敕
, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A3/3
150. Kê chính lập mệnh minh thiện nhị kinh tiết yếu hợp biên 乩 正 立 命 明 善 二
經 節 要 合 編, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.139.
151. Kê bút văn sao tập 乩筆 文 抄 集, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
A.2630.
152. Khảo đồng sự ký 考 童 事 記, Paris.SA.PD.2379.
153. Khôn nghi chân kinh 坤 儀 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AB.502.
154. Kiến An tỉnh, Thủy Nguyên huyện, Trịnh Xá tổng các xã thần tích 建 安 省 水
源 縣 鄭 舍 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AE.A12/26.
155. Kiến An tỉnh, Tiên Lãng huyện, Cẩm Khê tổng, Mỹ Lộc xã thần sắc 建 安 省
先 郎 縣 錦 溪 總 美 祿 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AD. A12/7.
156. Kim giám chân kinh 金 鑑 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
176
AB.249.
157. Lạng Sơn tỉnh Cao Lộc châu Trinh Nữ tổng các xã thần tích 諒 山 省 高 祿 州
貞 女 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A17/1.
158. Lạng Sơn tỉnh, Cao Lộc châu, Trinh nữ tổng các xã thần tích 諒 山 省 高麓 州
貞 女 總 各社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A17/1.
159. Lão song thô lục 老 窗 粗 錄, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2818.
160. Liệt thánh châm biếm chân kinh 列 聖 鍼 砭 真 經, Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, ký hiệu A.2522.
161. Liễu Hạnh Công chúa diễn âm 柳 杏 公 主 演 音, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AB 146 (bản Nôm).
162. Linh tâm quốc âm chân kinh 零 心 國 音 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AB.246.
163. Lƣơng tâm quốc âm chân kinh 良 心 國 音 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AB.560/a-b.
164. Mai Hoa điểm tuyết chân kinh 梅 花 點 雪 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AB.244.
165. Minh Đức chân kinh 明 德 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AB.498.
166. Minh Tâm độ kiếp chân kinh 明 心 度 劫 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AB.525.
167. Minh đạo thƣợng kinh 明 道 上 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
A.2385.
168. Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Bảo Ngũ tổng các xã thần tích 南 定 省 務 本
縣 保 伍 總 各 社 神 蹟 , Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AE.A15/27.
169. Nam Định tỉnh, Xuân Trƣờng phủ, Giao Thủy huyện, Lạc Thiện tổng, Hoành
Lộ ấp thần tích 南 定 省 春 長 府 膠 水 縣 樂 善 總 黃 路 邑神 蹟,
Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A15/3.
177
170. Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, An Cự tổng các xã thần tích 南 定 省 務 本 縣
安 巨 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A15/26.
171. Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện, Kiên Trung tổng thần tích 南 定 省 海 後 縣
堅 忠 總 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A15/4.
172. Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Đồng Đội tổng các xã thần tích 南 定 省 務 本
縣 同 隊 總 各 社 神 蹟 , Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AE.A15/28.
173. Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện, Quế Hải tổng các xã thần tích 南 定 省 海 後
縣 桂 海 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A15/8.
174. Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Phú Lão tổng các xã thôn thần tích 南 定 省 務
本 縣 富 老 總 各 社 村 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AE.A15/32.
175. Nam Định tỉnh Hải Hậu huyện Tân Khai tổng các xã thần tích 南 定 省 海 後
縣 新 開 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A15/9.
176. Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện, Kiến Trung xã thần tích 南 定 省 海 後 縣 堅
忠 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.a15/4.
177. Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Đồng Đội tổng các xã thần sắc 南 定 省 務 本
縣 同 隊 總 各 社 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A16/29.
178. Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện, Nhƣ Thức tổng các xã thần sắc 定 省 美 祿 縣
如 式 總 各 社 神敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD.a16/18.
179. Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện, Tân Khai tổng các xã thần sắc 南 定 省 海 後
縣 新 開 總 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD.
A16/8.
180. Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện, Đồng Phù tổng các xã thần sắc 南 定 省 美 祿
縣 同 符 總 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD.
A16/14.
181. Nam Định tỉnh, Xuân Trƣờng phủ, Giao Thủy huyện, Lạc Thiện tổng các ấp
178
thần sắc 南 定 省 春 長 府 膠 水 縣 l 樂 善 總 各 邑 神 敕, Viện Nghiên
cứu Hán Nôm, ký hiệu AD. A16/3.
182. Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện, Quế Hải tổng các xã thần sắc 南 定 省 海 後
縣 桂 海 總 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD.
A16/7.
183. Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện, Cao Đài tổng các xã thần sắc 南 定 省 美 祿
縣 高 臺 總 各 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AD.
A16/11.
184. Nam Định tỉnh đại dƣ chí 南 定 省 地 輿 誌, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký
hiệu A.609.
185. Nam Hải dị nhân liệt truyện diễn âm 南 海 異 人 列 傳 演 音, Viện Nghiên
cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.472.
186. Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Đồng Đội tổng các xã tục lệ 南 定 省 務 本縣
同 隊 總 各 社 俗 例, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AF. A11.35.
187. Nghệ An tỉnh Hƣng Nguyên phủ Thông Lãng tổng Ƣớc Lễ xã thần tích 乂 安
省 興 元 府 通 朗 總 約 禮 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký
hiệu AE.B1/11.
188. Ngọc luật hồi xuân chân kinh 玉 律 回 春 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AB.243.
189. Ngọc Thành Nam âm chân kinh 玉 成 南 音 真 經, Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, ký hiệu AB.245.
190. Nguyên Từ quốc mẫu lập mệnh quốc âm chân kinh 元 慈 國 母 立 命 國 音 真
經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.436, AB.253, AB.459.
191. Nguyệt Phách chân kinh âm dƣơng toàn tập 月 魄 真 經 陰 陽 全 集, Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.258.
192. Nhật tụng luyện thần chân kinh 日 誦 練 神 真 經, Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, ký hiệu A.2888, A.1348.
193. Nhƣ Khuê thị học ngữ tập 如 珪 氏 學 語 集 = Vĩnh Hồ Nhƣ Thị học ngữ 永
179
湖 如 珪 氏 學 語, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.293.
194. Ninh Bình tỉnh, Yên Mô huyện, Quảng Phúc tổng các xã thần tích 寧 平 省 安
謨 縣 廣 福 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AE.A4/37.
195. Ninh Bình tỉnh Yên Mô huyện Bạch Liên tổng các xã thôn thần tích 寧 平 省
安 謨 縣 白 蓮 總 各 社村 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AE.A4/33.
196. Ninh Bình tỉnh, Gia Viễn, Đại Hữu tổng các xã thần tích 寧 平 省 嘉 遠 大 有
有 總 各 社神蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A4/9.
197. Nội đạo tràng 內 道 場, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2975.
198. Phổ độ âm dƣơng bảo kinh 普 度 陰 陽 寶 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký
hiệu A.1997.
199. Phổ độ âm dƣơng bảo kinh 普 度 陰 陽 寶 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký
hiệu A.2494.
200. Phú Thọ tỉnh, Cẩm Khê huyện các xã thần tích 富 壽 省 錦 溪 縣 各 社 神 蹟,
Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A9/1.
201. Phú Thọ tỉnh, Cẩm Khê huyện, Vân Bán tổng, Thụy Liễu, Khổng Tƣớc nhị xã
thần tích 富 壽 省 錦 溪 縣 雲 半 總 瑞 柳 孔 雀 二 社 神 蹟, Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A9/7.
202. Phú Thọ tỉnh, Thanh Ba huyện, Mạn Lạn tổng các xã thần tích 富 壽 省 青 波
縣熳爛 總 各 社神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A9/38.
203. Phúc địa tài hoa chân kinh 福 地 裁 花 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký
hiệu A.261.
204. Phúc Yên tỉnh Yên Lãng phủ Bạch Trữ tổng các xã thần tích 福 安 省 安 郎 府
白 宁 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A11/6.
205. Phúc Yên tỉnh, Đông Anh huyện, Xuân Nộn tổng các xã thần tích 福 安 省 東
英 縣 春 嫩 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
180
AE.A11/4.
206. Phƣợng sơn nữ kính bảo lục 鳳 山 女 鏡 寶 錄, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AB.501.
207. Sơn Tây tỉnh, Phúc Thọ huyện, Phù Long tổng, Hát Môn xã thần sắc 山 西 省
福 壽 縣 扶 龍 總 喝 門 社 神 敕, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AD. A10/4.
208. Tam vị Thánh Mẫu cảnh thế chân kinh 三 位 聖 母 警 世 真 經, Viện Nghiên
cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2412, A.2475, A.2585.
209. Tam ngũ trình tƣờng quốc âm kinh 三 五 呈 祥 國 音 經, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, ký hiệu AB.264.
210. Tam bảo quốc âm 三 寶 國 音, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu Vnv.529.
211. Tâm pháp thiết yếu chân kinh 心 法 切 要 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu VHv.1076.
212. Tân Tây tỉnh, Phúc Thọ huyện, Phù Sa tổng các xã Liên Chiểu, Tiền Huân thần
tích 山 西 省 福 壽 縣 浮 沙 總 各 社 蓮 沼 清 沼 前 勳 神 蹟, Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A10/5.
213. Tăng Quảng Minh Thiện quốc âm chân kinh 增 廣 明 善 國 音 真 經, Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.143.
214. Thái Bình tỉnh Quỳnh Côi huyện Quỳnh Ngọc tổng Quỳnh Ngọc xã thần
tích 太 平 省 瓊 魁 縣 瓊 玉 總 瓊 玉 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, ký hiệu AE.A5/32.
215. Thái Bình tỉnh Thƣ Trì huyện Cự Lâm tổng các xã Hữu Lộc Cự Lâm Thanh
Bản thần tích 太 平 省 舒 池 縣 巨 林 總 各 社 有 祿 巨 林 青 板 神 蹟,
Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/61.
216. Thái Bình tỉnh Tiên Hƣng Hƣng Nhân huyện các xã thần tích 太 平 省 先 興
府 興 仁 縣 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/28.
217. Thái Bình tỉnh Duyên/Diên Hà huyện các xã thần tích 太 平 省 延 河 縣 各 社
神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/12.
181
218. Thái Bình tỉnh Thái Ninh phủ Thanh Quan huyện Cát Đàm tổng các xã thần
tích 太 平 省 太 寧 府 青 關 縣 葛 覃 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/36.
219. Thái Bình tỉnh Thƣ Trì huyện An Lão Tổng các xã Kiến Xá An Lão thần
tích 太 平 省 舒 池 縣 安 老 總 各 社 建 舍 安 老 神 蹟, Viện Nghiên
cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/58.
220. Thái Bình tỉnh Quỳnh Côi huyện Đồng Trực tổng các xã thần tích 太 平 省 瓊
魁 縣 同 直 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AE.A5/30.
221. Thái Bình tỉnh, Trực Định huyện, An Bồi tổng thần tích 太 平 省 直 定 縣 安
培 總 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/1.
222. Thái Bình tỉnh, Hƣng Nhân huyện các xã thần tích 太 平 省 興 仁 縣 各 社 神
蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/27.
223. Thái Bình tỉnh, Trực Định huyện, Xuân Vũ tổng thần tích 太 平 省 直 定 縣
春 宇 總 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A5/8.
224. Thanh tâm kinh 清 心 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.1091.
225. Thanh tâm đồ 清 心 圖, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2476.
226. Thanh Hóa tỉnh Đông Sơn huyện Quang Chiếu tổng các xã thôn thần tích 清
化 省 東 山 縣 光 照 總 各 社村 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký
hiệu AE.B2/3.
227. Thanh Hóa tỉnh Đông Sơn huyện Quảng Chiếu tổng các xã thần tích 清 化 省
東 山 縣 廣 照 總 各 社村 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AE.B2/5.
228. Thanh Hóa tỉnh Thiệu Hóa phủ Đông Sơn huyện Tuyên Hóa tổng các xã thần
tích 清 化 省 東 山 縣 宣 化 總 各 社神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AE.B2/7.
229. Thanh Hóa tỉnh Đông Sơn huyện Thọ Hạc tổng các xã thôn thần tích 清 化 省
東 山 縣 壽 鶴 總 各 社村 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
182
AE.B2/18.
230. Thanh Hóa tỉnh, Thọ Xuân phủ, Quảng An tổng các xã thần tích 清 化 省 壽
春 府 廣 安 總 各 社 神 蹟, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AE.B2/11.
231. Thanh Hóa chƣ thần lục 清 華 諸 神 錄, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
VHv. 1290.
232. Thánh Mẫu linh tiêm 聖 母 靈 韱, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
A.2431.
233. Thập nhị tiên nƣơng thỉnh luyện bí pháp 十 二 仙 娘 請 練 秘 法, Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.508.
234. Thi ca tạp ký 詩 歌 雜 記, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VNv.78
MF.1708.
235. Thiên thu kim giám chân kinh 天 秋 金 鑑 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AB.250.
236. Thiên thu kim giám chân kinh 天 秋 金 鑑 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AB.250.
237. Thiên hoa phóng nhị Nam âm chân kinh 天 花 放 蕊 南 音 真 經, Viện Nghiên
cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.262.
238. Thiên trƣờng cung huấn 天 長 宮 訓, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AB.302.
239. Thiên Bản Vân Hƣơng Lê triều Thánh Mẫu ngọc phả 天 本 雲 鄉 黎 朝 聖 母
玉 譜, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2978.
240. Thiên Tiên truyện khảo 天 仙 傳 攷, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
A.3094.
241. Thính văn dị lục 聽 聞 異 錄, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2954.
242. Thọ thế phƣơng đan 壽 世 方 丹, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2521.
243. Thƣơng hải độ mê chân kinh 傷 海 度 迷 真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AB.520.
183
244. Tiên phả dịch lục 仙 譜 譯 錄, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.289.
245. Tiên thánh văn tập 仙 聖 文 集, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.458.
246. Tỉnh mộng chân kinh hạ tập 醒 夢 真 經 下 集, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AB.561.
247. Tỉnh mê phú 醒 迷 賦, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.644.
248. Trạch thiện chân kinh 擇 善 真 涇, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AB.529.
249. Truyền kì tân phả 傳 奇 新 譜 [Tục truyền kì lục] 續 傳 奇 錄, “Vân Cát Thần
nữ lục” , Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.48, VHv.2959.
250. Tự ký văn thƣ tạp tập 序 記 文 書 雜 集, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
A.2929.
251. Tuyên Quang tỉnh, Yên Bình phủ, Yên Sơn huyện các xã thần tích 宣 光 省 安
平 府 安 山 縣 褚 市 埔 神 蹟, “Thần tích phố Chử Thị, huyện Yên Sơn,
tỉnh Tuyên Quang”, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AE.A16/1.
252. Vân Hƣơng Liễu Hạnh công chúa tâm căn chân kinh 雲 鄉 柳 杏 公 主 心 根
真 經, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.1249 b/1 - 3.
253. Vân Cát Thần nữ cổ lục 雲 葛 神 女 古 錄, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký
hiệu A.1927.
254. Vân Cát Thần nữ truyện 雲 葛 神 女 傳, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
A.2215.
255. Vân Cát Lê Gia Ngọc Phả 雲 葛 黎 家 玉 譜, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký
hiệu A.3181.
256. Vân Cát Thần nữ cổ lục diễn âm 雲 葛 神 女 古 錄 演 音, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, ký hiệu AB 352.
257. Văn đế bách hạnh thiên 文 帝 百 行 篇, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AC.266.
258. Văn đế bách hạnh thiên 文 帝 百 行 篇, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
AC.238.
184
259. Văn Đế bách hạnh thiên diễn nghĩa 文 帝 百 行 篇 演 義, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, ký hiệu VNv.166.
260. Văn chầu 文 朝 = Văn chầu các bà 文 朝 各 婆 = Văn chầu tập 文 朝 集, Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.267, AB.466, AB.624
261. Vạn hóa quy nguyên chân kinh 萬 化 歸 原 真 京, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AB.263, AB.257.
262. Vạn bảo Quốc âm chân kinh 萬 寶 國 音 真 京, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu AB.505.
263. Việt điện u linh 越 甸 幽 靈, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.1503.
264. Việt Nam danh nhân sự tích liệt truyện 越 南 名 人 事 跡 列 傳, Viện Nghiên
cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.2407.
265. Vƣơng Giả Hƣơng Nam Âm chân kinh 王 者 香 南 音 真 經 (Vƣơng Giả
Hƣơng 王 者 香), Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.225/1-2.
266. Yên Đổ tiến sĩ thi tập 安 堵 進 士 詩 集, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
VHv.1864.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ GIẦY
QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM
PHỤ LỤC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HOÁ HỌC
Hà Nội - 2020
186
MỤC LỤC
PHỤ LỤC 1: THƢ MỤC TƢ LIỆU THẦN TÍCH - THẦN SẮC LIÊN QUAN TỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ TẠI VIỆN THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI (THEO THƢ MỤC THẦN TÍCH - THẦN SẮC, VIỆN THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI) .................................. 187 PHỤ LỤC 2: THƢ MỤC TƢ LIỆU HÁN NÔM LIÊN QUAN TỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIẾU HẠNH VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ ........... 200 QUA THƢ MỤC SÁCH HÁN NÔM (VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM) .... 200 PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ TƢ LIỆU HÁN NÔM LIÊN QUAN TỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ ........... 285 TẠI CÁC ĐƠN VỊ LƢU TRỮ KHÁC VÀ NGUỒN SƢU TẦM .................... 285 PHỤ LỤC 4: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ DI TÍCH VÀ DI SẢN TƢ LIỆU HÁN NÔM ................................................................................................................... 289
187
PHỤ LỤC 1: THƢ MỤC TƢ LIỆU THẦN TÍCH - THẦN SẮC LIÊN QUAN TỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ TẠI VIỆN THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI (THEO THƢ MỤC THẦN TÍCH - THẦN SẮC, VIỆN THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI)12
STT
Nơi thờ tự
Duệ hiệu tôn thần
Ký hiệu
Số đăng ký
Thần tích - thần sắc
Nam Định: 49 thôn/làng
1.
7388
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 27
2.
7391
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 30
3.
7413
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 34
4.
7417
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 33
5.
7475
1 thần tích
Q40 18/VII, 28
Thiên thần Liễu Hạnh, đệ tam Thánh Mẫu
6.
7485
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 63
7. 8. 9.
7497 7509 7555
Thiên thần Liễu Hạnh Thiên thần Thƣợng Ngàn Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích
Q40 18/VII, 55 Q40 18/VII, 20 Q40 18/VII, 50
10.
7605
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 16
11.
7608
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 17
12.
7609
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 18
13.
7611
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 17
14.
7612
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 17
15.
7614
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 16
Giáo Phòng (làng), tổng Hà Cát, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, 1938 Nam Thành (làng), tổng Hà Cát, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, 1938 Hoành Lộ (làng), tổng Lạc Thiện, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, 1938 Trừng Uyên (làng), tổng Lạc Thiện, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, 1938 Trung Phƣơng (làng), tổng Quế Hải, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, 1938 Bến (thôn), làng Tiểu Liêm, tổng Cao Đài, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Khả Lực (làng), tổng Cao Đài, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Đa Mễ (làng), tổng Đặng Xá, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Đại An (làng), tổng Giang Tả, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Lƣơng (thôn), làng Bảo Long, tổng Nhƣ Thức, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Nha (thôn), làng Phú Ốc, tổng Nhƣ Thức, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Thát Đông (thôn), làng Bảo Long, tổng Nhƣ Thức, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Thỏ (thôn), làng phú Ốc, tổng Nhƣ Thức, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Thƣợng (thôn), làng phú Ốc, tổng Nhƣ Thức, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938 Bảo Long Xá (làng), tổng Nhƣ Thức, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, 1938
12 Tham khảo thống kê: Đinh Thị Lệ Huyền (2007), Tìm hiểu đạo Mẫu ở Việt Nam qua tư liệu Hán Nôm, Luận văn thạc sĩ, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, tr. 27 - 36.
188
STT
Nơi thờ tự
Duệ hiệu tôn thần
Ký hiệu
Số đăng ký
16.
7662
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 65
Thần tích - thần sắc 1 thần tích 1 sắc phong
17.
7665
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 92
18.
7720
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 36
1 thần tích, 5 sắc phong
19.
7774
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 42
20.
7806
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 42
21.
7818
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 33
22.
7823
Nhân thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 78
23.
7864
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 71
24.
7875
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 54
25.
7988
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 33
26.
8024
Nhân thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 47
27.
8035
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 52bis
Thứ Nhất (làng), tổng Cổ Gia, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định , 1938 Nội (thôn), làng Tƣơng Nam, tổng Cổ Nông, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, 1938 Trung Khánh Thƣợng (làng), tổng Lạc Thiên, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, 1938 Đông Châu (thôn), làng An Hạ, tổng Trung Thƣợng, phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định, 1938 Hƣng Lộc (làng), tổng Hƣng Nghĩa, phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định, 1938 Quần Lạc (làng), tổng Sỹ Lâm, phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định, Nam Định, 1938 Dƣơng Phạm (làng), tổng Thanh Khê, phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định - Nam Định, 1938 Vụ Sài (làng), tổng Trạng Vĩnh, phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định - Nam Định, 1938 Quảng Nạp (thôn), làng Vỷ Nhuế, tổng Vỷ Nhuế, phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định - Nam Định, 1938 Vân Cát (làng), tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938 Tiên Chƣởng (làng), tổng Hiển Khánh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938 Duyên (thôn), làng Duyên Trƣờng, tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938
28.
8038
Bịch Thôn (làng), tổng Phú Lão, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938 Dƣơng thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 38
29.
8047
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 52
30.
8055
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 53
Độ Lộng (làng: tên Nôm), làng Nhị Thôn, tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938 Kho (làng: tên Nôm), làng Phú Lão, tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938
31.
8056
Kinh Đào (làng), tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 41
1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích, có sắc phong
189
STT
Nơi thờ tự
Duệ hiệu tôn thần
Ký hiệu
Số đăng ký
Thần tích - thần sắc
32.
8058
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 42
Lƣờn (làng: tên Nôm), làng Liên Xƣơng, tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938
33.
8061
Phú Lão (làng), tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 53
34.
8063
Phú Thôn (làng), tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 47
35.
8066
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 44
1 thần tích 1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, có sắc phong
36.
8157
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VII, 28
Thọ Trƣờng (làng), tổng Phú Lão, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, 1938 Nam Điền làng, tổng Trà Lũ, huyện Xuân Trƣờng, tỉnh Nam Định, 1938
37.
8179
Đằng Động (làng), tổng An Lộc, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 49
1 thần tích, có sắc phong
38.
8183
Nhân thần Liễu Hạnh
1 thần tích,
Q40 18/VII, 44
39.
8247
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 31
40.
8253
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 31
41.
8261
Nhân thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 40
42.
8273
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 58
Hƣng Thƣợng (làng), tổng An Lộc, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938 Mua (làng: tên Nôm), làng Vũ Xuyên, tổng Mỹ Dƣơng, Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938 Vũ Xuyên (làng), tổng Mỹ Dƣơng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938 Ngô Xá (làng), tổng Ngô Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938 Dũng Quyết (làng), tổng Phú Khê, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938
43.
8285
An Liêm (làng), tổng Phùng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 55
44.
8291
Vạn Điểm (làng), tổng Phùng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VII, 50
45.
8670
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 31
46.
8672
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 24
47.
8675
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 23
Hàm Lạc Đàn (thôn), làng Lạc Thiện, tổng Hƣớng Đạo, huyện Kim Sơn, tỉnh Nam Định, 1938 Thái Bình (thôn), làng Kiến Thái, tổng Hƣớng Đạo, huyện Kim Sơn, tỉnh Nam Định, 1938 Đồng Đắc (làng), tổng Hƣớng Đạo, huyện Kim Sơn, tỉnh Nam Định, 1938
1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích
190
STT
Nơi thờ tự
Duệ hiệu tôn thần
Ký hiệu
Số đăng ký
Thần tích - thần sắc
48.
8685
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 25
Trung Qui (làng), tổng Hƣớng Đạo, huyện Kim Sơn, tỉnh Nam Định, 1938
49.
8696
Tuy Lai (làng), tổng Lai Thành, huyện Kim Sơn, tỉnh Nam Định, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 54
1 thần tích 1 thần tích
Hà Nam: 41 thôn/làng
50.
3176
Nhân thần Liễu Hạnh
Q40 18/II, 131
51.
3180
1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích
Nhân thần Liễu Hạnh
Q40 18/II, 119
52.
3204
Nhân thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/II, 138
53. 54.
3222 3226
Thành Hoàng Liễu Hạnh Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích 1 thần tích
Q40 18/VI, 68 Q40 18/VI, 54
55.
3232
Thành Hoàng Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 78
56. 57. 58.
3249 3260 3280
Thiên thần Liễu Hạnh Nhân thần Liễu Hạnh Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích
Q40 18/VI, 70-71 Q40 18/VI, 14 Q40 18/VI, 95
59.
3285
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 94
60. 61.
3289 3300
Thiên thần Liễu Hạnh Thiên thần Thánh Mẫu
1 thần tích 1 thần tích
Q40 18/VI, 93 Q40 18/VI, 90b
62.
3304
Nhân thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 114
63.
3324
Nhân thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 29
64.
3344
Nhân thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 22
65.
3349
Thiên thần Thánh Mẫu
1 thần tích
Q40 18/VI, 52
66.
3438
Thiên thần Thánh Mẫu
1 thần tích
Q40 18/VI, 26
Thƣợng Thọ (thôn), làng Mỹ Thọ, tổng Bồ Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Bồ Xá (làng), tổng Bồ Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Thƣợng Thọ (làng), xã La Hào, tổng Bồ Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Hàn Mặc (làng), tổng Cố Viễn, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, 1938 Tử Thanh (làng), tổng Cố Viễn, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, 1938 Hạ (thôn), làng Thứ Nhất, tổng Mai Động, Huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, 1938 Yên Lão (làng), tổng Mai Động, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Bỉnh Trung (làng), tổng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Bùi (thôn), làng Trịnh Xá, tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam Nguyễn (thôn), làng Trịnh Xá, tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam Tràng (thôn), làng Trịnh Xá, tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam Tái Khê (làng), tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Cƣơng (thôn), làng Ngô Khê, tổng Vân Mỹ, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Chánh Bản (thôn), làng Vụ Bản, tổng Vụ Bản, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Vụ Bản (làng), tổng Vụ Bản, tổng Vụ Bản, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Bối Cầu (thôn), làng An Tập, tổng Yên Đổ, huyện Bình Lục, Hà Nam, 1938 Chịnh (thôn), làng Động Linh, tổng Hoàng Đạo, huyện Duy Tiên, Hà Nam, 1938
191
STT
Nơi thờ tự
Duệ hiệu tôn thần
Ký hiệu
Số đăng ký
Thần tích - thần sắc
67.
3444
Thiên thần Thánh Mẫu
1 thần tích
Q40 18/VI, 17
68.
3487
1 thần tích
Q40 18/VI, 76
Nhân thần Thƣợng Ngàn công chúa
69.
3505
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 100
70.
3506
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 102
71.
3530
Nhân thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 91
72.
3541
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 32
73.
3564
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 62
74.
3655
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 77
75. 76. 77.
3657 3682 3705
1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích
Q40 18/VI, 78 Q40 18/VI, 32 Q40 18/VI, 2
78.
3711
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 58
79.
3715
Tam Giáp (thôn), làng Dƣỡng Hòa, tổng Hoàng Đạo, huyện Duy Tiên, Hà Nam, 1938 Hạ (thôn), làng Hoàn Dƣơng, tổng Mộc Hoàn, huyện Duy Tiên, Hà Nam, 1938 Chung (thôn), làng Đồng Bào, tổng Tiên Xá, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, 1938 Doãn Xá (thôn), làng Lục Nộn, tổng Tiên Xá, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, 1938 Lạc Hà (làng), tổng Trác Bút, huyện Duy Tiên, Hà Nam, 1938 Đệp (làng: tên Nôm), làng Điệp Sơn, tổng Yên Khê, huyện Duy Tiên, Hà Nam, 1938 Thƣợng (thôn), làng Kim Bảng, tổng Kim Bảng, huyện Kim Bảng, Hà Nam, 1938 Hà (thôn), làng Đà Xuyên, tổng Cao Đà, Phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, 1938 Thiên thần Thánh Mẫu Cao Đà (làng), tổng Cao Đà, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, 1938 Nhân Giả (làng), tổng Công Xá, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh Phu Cốc (làng), tổng Đồng Thủy, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, 1938 Nhân thần Liễu Hạnh Bảng (thôn), làng Ngu Nhuế, tổng Ngu Nhuế, huyện Lý Nhân, Hà Nam, 1938 Mão Cầu (làng), tổng Ngu Nhuế, huyện Lý Nhân, Hà Nam, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VI, 62
Q40 18/VI, 21
80.
3735
Bồ Hƣng (làng), tổng Thổ Ốc, Phủ Lý Nhân, Hà Nam, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
81. 82.
3767 3770
Thiên thần Thánh Mẫu Thiên thần Thánh Mẫu
1 thần tích 1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích 1 thần tích
Q40 18/VI, 91 Q40 18/VI, 89
83.
3773
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 39
84. 85.
3781 3818
Thiên thần Liễu Hạnh Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích 1 thần tích
Q40 18/VI, 49 Q40 18/VI, 88
86.
3872
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 75
Quan Hạ (làng), tổng Văn Quan, huyện Lý Nhân, Hà Nam, 1938 Quan Trung (làng), tổng Văn Quan, huyện Lý Nhân, Hà Nam, 1938 Cao Xá (thôn), làng Thọ Yên, tổng Vũ Điện, phủ Lý Nhân, Hà Nam, 1938 Nội (thôn), làng Phú Ích, tổng Vũ Điện, phủ Lý Nhân Hà Nam, 1938 Đức Bản (làng), tổng Yên Trạch, phủ Lý Nhân, Hà Nam, 1938 Trạch (thôn), làng Sơn Nga, tổng Động Xá, huyện Thanh Liêm, Hà Nam, 1938
192
STT
Nơi thờ tự
Duệ hiệu tôn thần
Ký hiệu
Số đăng ký
Thần tích - thần sắc
87.
3915
Nhân thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 63
88.
3916
Nhân thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 64
89.
3960
Nhân thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 44
90.
3972
Nhân thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 37
Giáp Nhất (thôn), làng Kỷ Cầu, tổng Vũ Điện, huyện Thanh Liêm, Hà Nam, 1938 Giáp Nhì (thôn), làng Kỷ Cầu, tổng Vũ Điện, huyện Thanh Liêm, Hà Nam, 1938 Quy Lƣu (phố), làng Thị Xã, tổng Mễ Tràng, huyện Thanh Liên, Hà Nam, 1938 Trại (thôn), làng Ngọc Trì, tổng Mễ Tràng, huyện Thanh Liên, Hà Nam, 1938
Ninh Bình: 35 thôn/làng
91.
8556
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 53
92.
8599
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 30
93.
8738
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 38
94.
8748
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 44
95.
8757
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 42
96.
8763
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 44
97.
8775
Q40 18/XXVI, 52
Đái Nhân (làng), tổng Đa Giá, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938 Đại Phong (làng), tổng Yên Phong, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938 Đồn Điền (thôn), làng Phúc Lƣơng, tổng Lạng Phong, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Phong Lạc (phố), Lạng Phong (làng), phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Thái Sơn (thôn), làng Yên Mông, tổng Lạng Phong, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Lang Phong (làng), tổng Lạng Phong, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Tam Đồng (làng), tổng Lạng Phong, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938
Thiên thần Thƣợng Ngàn công chúa
98.
8817
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 29
Thƣờng Sung (làng), tổng Tam Đồng, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938
99.
8823
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 8
100.
8824
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 3
101.
8826
Chủ (thôn), làng yên Lại, tổng Văn Luận, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Đồi Khoái (thôn), làng Yên Lão, tổng Văn Luận, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Hái (thôn), làng Văn Luận, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích
Q40 18/XXVI, 2
193
STT
Nơi thờ tự
Duệ hiệu tôn thần
Ký hiệu
Số đăng ký
Thần tích - thần sắc
102.
8829
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 3
Linh Phƣợng (thôn), làng Yên Lão, tổng Văn Luận, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938
103.
8831
Nang (thôn), làng Văn Luận, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 2
104.
8838
Thiên thần Thánh Mẫu
Q40 18/XXVI, 8
105.
8850
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 10
106.
8880
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 38
107.
8882
Q40 18/XXVI, 42
Nhân thần Tam vị Thánh Mẫu phủ Sòng
108.
8892
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 38
1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích
109.
8920
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/XXVI, 18
Xa Rịa (thôn), làng Yên Lai, tổng Văn Luận, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Lại Các và Yên Lại (làng), tổng Văn Luận, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, 1938 Hƣng Vƣợng (thôn), làng Phụng Công, tổng Bồng Hải, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938 Phƣơng Đình (thôn), làng Nho Lâm, tổng Bồng hải, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938 Phụng Công (làng), tổng Bồng Hải, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938 Phú Mỹ (làng), tổng Xuân Dƣơng, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938
110.
8931
Bồ Vy (làng), tổng Yên Liễu, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 26
111.
8949
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 2
Văn Thịnh (làng), tổng Yên Ninh, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, 1938
112.
8995
Lại Hiền (làng), tổng Bạch Liên, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 60
113.
8996
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 59
114.
9013
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 87
Mã Chiến (làng), tổng Bạch Liên, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938 Lý Nhân (làng), tổng Đàm Khánh, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938
thần Liễu Hạnh,
115.
9027
Côi Khê (làng), tổng Lân Khê, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938
Q40 18/XXVI, 26
Thiên Thủy Tinh, Thƣợng Ngàn
116.
9052
Khƣơng Dụ (làng), tổng Quảng Phúc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích, 3 sắc phong 1 thần tích
Q40 18/XXVI, 50
194
Nơi thờ tự
Duệ hiệu tôn thần
Ký hiệu
STT
Thần tích - thần sắc
Số đăng ký
Tam vị Thƣợng ngàn
117.
9057
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 19
118.
9059
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 20
119.
9066
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 8
120.
9069
Q40 18/XXVI, 7
121.
9070
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVI, 4
1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích
122.
9075
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/XXVI, 42
1938 Đông Cao (làng), tổng Thần Phù, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938 Ngọc Lâm (làng), tổng Thần Phù, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938 Chùa (làng: tên nôm), làng Duyên Phúc, tổng Thổ Mật, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938 Hà Thành (làng), tổng Thổ Mật, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh Phƣơng Nại (làng), tổng Thổ Mật, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938 Đông (thôn), làng Cổ Lâm, tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938
123.
9082
Côi Trì (làng), tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938
1 thần tích
Q40 18/XXVI, 39
124.
9087
Thọ Thái (làng), tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938
1 thần tích
Q40 18/XXVI, 32
125.
9091
Yên Tế (làng), tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, 1938
Nhân thần Tam vị Thánh Mẫu Nhân thần Tam vị Thánh Mẫu Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/XXVI, 43
Hải Dƣơng: 14 thôn/làng
126.
4415
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/IX, 46
127.
4417
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/IX, 46
Thái Khƣơng (làng), tổng Ngọc Cục, huyện Bình Giang, Hải Dƣơng, 1938 Thƣợng (làng: tên Nôm), làng Thái Khƣơng, tổng Ngọc Cục, huyện Bình Giang, Hải Dƣơng, 1938
1 thần tích, 1 thần tích,
128.
4596
Cửu Thành (phố), tỉnh Hải Dƣơng, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
129. 130.
4601 4617
Thiên thần Liễu Hạnh Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/IX, 15 Q40 18/IX, 14 Q40 18/IX, 15
131.
4786
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/IX, 20
Hàn Giang (phố), huyện Chí Linh, Hải Dƣơng,1938 Ninh Trấp (làng), tổng Đông Đôi, huyện Chí Linh, Hải Dƣơng, 1938 Bảng (thôn), làng Thanh Khai, tổng Phƣơng Duy, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dƣơng, 1938
thần Thiên Tiên
132.
4874
Q40 18/IX, 3
Thái Hòa (giáp), phố Đông Mỹ, thị xã Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng, 1938
Thiên Thánh Mẫu
1 thần tích, 1 thần tích, 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, 1 sắc phong
195
STT
Nơi thờ tự
Duệ hiệu tôn thần
Ký hiệu
Số đăng ký
Thần tích - thần sắc
133.
4875
Nhân thần Mẫu Phủ Dầy
1 thần tích
Q40 18/IX, 2
Thuần Mỹ (giáp) phố Đông Mỹ, thị xã Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng, 1938
134.
4878
Đông Kiều (phố) thị xã Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng, 1938
Nhân thần Liễu Hạnh
Q4018/IX, 1
135.
4882
Đông Thuần (phố), thị xã Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng, 1938
Q40 18/IX, 11
Thiên thần Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Nhân Thần Thánh Mẫu
136.
4886
Q40 18/IX, 41
Nhân thần Liễu Hạnh
137.
5606
Q40 18/IX, 28
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích, 2 sắc phong 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích
138.
5657
Q40 18/IX, 64
139.
5664
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/IX, 65
An Thái (làng), tổng Bất Nạo, huyện Kim Thanh, tỉnh Hải Dƣơng, 1938 Bía (làng: tên Nôm), làng Quảng Bí, tổng Ngọc Lâm, phủ Tứ Kì, tỉnh Hải Dƣơng, 1938 Hòa Nhuệ B (làng), tổng Tất Lại, phủ Tứ Kì tỉnh Hải Dƣơng, 1938 Rài (làng: tên Nôm), làng Tất Lại, tổng Tất Lại, phủ Tứ Kì, tỉnh Hải Dƣơng, 1938
Hà Đông: 13 thôn/làng
140.
2035
1 thần tích
Q40 18/II, 55c
141.
2148
Quế Dƣơng (làng), tổng Dƣơng Liễu, huyện Đan Phƣợng, Hà Đông, 1938 Hòa Mục (làng), tổng Dịch Vọng, phủ Hoài Đức, Hà Đông, 1938
Thiên thần Đế Thích Tiên Đình Liễu Hạnh công chúa Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
142.
2163
Phú Thứ (làng), tổng Đại Mỗ, phủ Hoài Đức, Hà Đông, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
143.
2312
Tây Hồ (làng), tổng Thƣợng, huyện Hoàn Long, Hà Đông, 1938
Nhân thần Liễu Hạnh
1 thần tích
144.
2358
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/II, 16 Q40 18/II, 30 Q40 18/II, 33 Q40 18/II, 31
145.
2381
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/II, 64
146.
2412
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/II, 78
147.
2856
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/II, 43
148.
2910
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/II, 75
Trại Đầm (làng: tên Nôm), làng Hanh Lợi, tổng Bột Xuyên, phủ Mỹ Đức, Hà Đông, 1938 Cút (làng: tên Nôm), làng Thƣợng Quất, tổng Phù Lƣu Tế, Mỹ Đức, Hà Đông, 1938 Rót (làng: tên Nôm), làng Phú Duy, tổng Trinh Tiết, Mỹ Đức, Hà Đông, 1938 Thụy Ƣng (làng), tổng Cổ Hiên, Phủ Thƣờng Tín, Hà Đông, 1938 Giền (làng: tên Nôm), làng Duyên Yết, tổng Thụy Phú, Thƣờng Tín, Hà Đông, 1938
196
STT
Nơi thờ tự
Duệ hiệu tôn thần
Ký hiệu
Số đăng ký
Thần tích - thần sắc
149.
2926
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/II, 85
Nhị Giáp (thôn), làng Đông Duyên, tổng Tín An, phủ Thƣờng Tín, Hà Đông, 1938
150.
3048
Phí Trạch (làng), tổng Đạo Tú, phủ Ứng Hòa, Hà Đông, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/II, 27
151. 152.
3066 4099
Tiêu thiều (làng), tổng Đạo Tú, phủ Ứng Hòa, Hà Đông, 1938 Hàng Hòm (phố), 2c quartier, thành phố Hà Nội, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh Thiên thần Mẫu Thoải
1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích 1 thần tích
Q40 18/II, 51b Q40 18/VI, 63
Thái Bình: 11 thôn/làng
153.
11043
Nhân thần Liễu Hạnh
Q40 18/VIII, 33
154.
11060
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VIII, 2
155.
11065
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VIII, 28
156.
11102
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VIII, 5
157.
11128
Nhân thần Liễu Hạnh
Q40 18/VIII, 14
Vè (làng: tên Nôm) làng An Vy, tổng Phƣơng Quan, huyện Đông Quan, Thái Bình, 1938 Hà Lão (làng), tổng Hà Lão, huyện Hƣng Nhân, Thái Bình, 1938 Chiều Quyến (làng), tổng Hiệu Vũ, huyện Hƣng Nhân, Thái Bình, 1938 Nhữ Khê (làng), tổng Tống Xuyên, huyên Hƣng Nhân, Thái Bình, 1938 Đào Xá (thôn), làng Đào Tạo, tổng Đào Xá, huyện Phụ Dực, Thái Bình, 1938
158.
11277
Sa Cát Lƣơng (làng), tổng Cát Đàm, phủ Thái Ninh, Thái Bình, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VIII, 60
159.
11420
Đông Trại (làng), tổng Trực Nội, phủ Thái Ninh, Thái Bình, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VIII, 101
160.
11495
Thanh Bản (làng), tổng Cự Lâm, huyện Thƣ Trì, Thái Bình, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VIII, 53
161.
11562
Lũ Phong (làng), tổng Cao Mỗ, phủ Tiên Hƣng, Thái Bình, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VIII, 45
162.
11707
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/VIII, 23
Trung Lang (làng), tổng Đông Thành, huyện Tiền Hải, Thái Bình, 1938
163.
11714
Nho Lâm (làng), tổng Tân An, huyện Tiền Hải, Thái Bình, 1938
Q40 18/VIII, 51
Thiên thần Đệ nhất, nhị, tam, tứ Thánh Mẫu
1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích 1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, 14 sắc phong
Phú Thọ: 8 thôn/làng
164.
9165
Hƣng Long (làng), tổng Cẩn Độ, phủ Đoan hùng, tỉnh Phú Thọ, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XVI, 43
165.
9166
Quả Cảm (làng), tổng Cẩn Độ, phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích, 1 sắc phong 1 thần tích,
Q40 18/XVI, 38
197
STT
Nơi thờ tự
Duệ hiệu tôn thần
Ký hiệu
Số đăng ký
166.
9168
Tân Tập (làng), tổng Cẩn Độ, phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XVI, 42
167.
9170
Văn Phú (làng), tổng Cẩn Độ, phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XVI, 37
Thần tích - thần sắc 2 sắc phong 1 thần tích 1 thần tích 1 sắc phong
168.
9200
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/XVI, 43
169.
9206
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/XVI, 4
170.
9585
Q40 18/XVI, 24
Xuân Áng (làng), tổng Ngọc Chúc, phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, 1938 Đồng Chiêm (thôn), làng Lang Đĩa, tổng Vân Nham, phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, 1938 Lãng Xƣơng (làng), tổng Tu Vũ, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, 1938
Nhân thần Đức Thánh Mẫu Tản
171.
4873
Nhân thần Liễu Hạnh
Q40 18/IX, 4
Phú Thọ (giáp), phố Đông Mỹ, thị xã Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng, 1938
1 thần tích 1 sắc phong 1 thần tích, 1 sắc phong
Hà Nội: 5 thôn/làng
172.
4111
Hàng Vải (phố), 2c quartier, thành phố Hà Nội, 1938
1 thần tích
Q40 18/VI, 67
173.
4114
Khán Xuân (phố), 6c quartier, thành phố Hà Nội, 1938
Q40 18/VI, 13
1 thần tích, 12 sắc phong
174.
4128
Thiên thần Liễu Hạnh Nhân thần Liễu Hạnh Thủy Tinh công chúa và Thiên thần Cửu thiên Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 17
175.
4203
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 58
176.
4215
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VI, 75
Sinh Từ (phố), 6c quartier, thành phố Hà Nội, 1938 Cổ Lƣơng (làng), tổng Đồng Xuân, huyện Thọ Xƣơng, Phủ Hoài Đức, Hà Nội, 1938 Sơ Trung (làng), tổng Phúc Lâm, huyện Thọ Xƣơng, Phủ Hoài Đức, Hà Nội, 1938
Quảng Yên: 5 thôn/làng
177.
10143
Hòa Hy (làng), tổng Đôn Lƣơng, huyện Cát Hải, Quảng Yên, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVII, 56
178.
10144
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVII, 64
Hoàng Châu (làng), tổng Đôn Lƣơng, huyện Cát Hải, Quảng Yên, 1938
179.
10177
Khoái Lạc (làng), tổng Hà Bắc, huyện Yên Hƣng, Quảng Yên, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXVII, 7
180.
10178
La Khê (làng), tổng Hà Bắc, huyện Yên Hƣng, Quảng Yên, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích, 7 sắc phong 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích
Q40 18/XXVII, 3bis
198
STT
Nơi thờ tự
Duệ hiệu tôn thần
Ký hiệu
Thần tích - thần sắc
181.
Số đăng ký 10190
Vị Dƣơng (làng), tổng Hà Nam, huyện Yên Hƣng, Quảng Yên, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/XXVII, 18
Yên Bái: 4 thôn/làng
182. 183.
12845 12854
Thiên thần Thƣợng Ngàn
1 thần tích 1 thần tích
Q40 18/XXXVI, 18 Q40 189/XXXVI, 40
184.
12858
Thiên thần Thánh Mẫu
1 thần tích
Q40 189/XXXVI, 36
185.
12860
Minh Quán (làng), tổng Bách Lãm, phủ Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh Đại An (làng), tổng Đông Cuông, phủ Trấn yên, tỉnh Yên Bái, 1938 Đông Cuông (làng), tổng Đông Cuông, phủ Trấn yên, tỉnh Yên Bái, 1938 Ngòi Hóp (làng), tổng Đông Cuông, phủ Trấn yên, tỉnh Yên Bái, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 189/XXXVI, 32
Hƣng Yên: 4 thôn/làng
186.
5960
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/XII, 14
187.
5987
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XII, 48
188.
6293
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XII, 9
189.
6332
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XII, 33
Thƣợng (thôn), làng Đào Xá, tổng Đặng Xá, phủ Ân Thi, Hƣng Yên, 1938 Hạ Lễ (làng) tổng Nhân Vũ, Phủ Ân Thi, Hƣng Yên, 1938 Hà Quang (thôn), làng Hà Linh, tổng Hoàng Tranh, huyện Phù Cừ, tỉnh Hƣng Yên, 1938 Thọ Lão (làng), tổng Viên Quang, huyện Phù Cừ, tỉnh Hƣng Yên, 1938
1 thần tích 1 thần tích, có sắc phong 1 thần tích , có sắc phong
Bắc Ninh: 4 thôn/làng
190.
605
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/IV, 68
191.
838
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/IV, 43
192.
1173
Q40 18/II, 38
193.
1323
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/IV, 53
Lâm Du (làng), tổng Gia Thụy, huyện Gia Lâm, Bắc Ninh, 1938 Vân Cần (làng: tên Nôm), làng An Trạch, tổng Phù Lƣơng, huyện Quế Dƣơng, tỉnh Bắc Ninh, 1938 Đông Trù (làng), tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, 1938 - 2 trang Thiên thần Liễu Hạnh Khúc Toại (làng), tổng Châm Khê, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh, 1938
1 thần tích 1 sắc phong, 1 thần tích 1 thần tích 1 thần tích, 1 sắc phong
Thái Nguyên 3 thôn/làng
194.
11829
Q40 18/XV, 8
195.
12099
Q40 18/XV, 34
Tràng Lang (làng), tổng Yên Lãng, huyện Đại Từ, Thái Nguyên, 1938 Thiên thần Liễu Hạnh La Hiên (phố), làng La Hiên, tổng Vân Lăng, châu Vũ Nhai, Thái Nguyên, 1938
Thiên thần Thƣợng Thiên, Thƣợng Ngàn công chúa
196.
12102
Q40 18/XV, 28
Hích Min (thôn), làng Đặc Khê, tổng Vân Lăng, châu Vũ Nhai, Thái Nguyên, 1938
Thiên thần Thƣợng Ngàn công chúa
1 thần tích 1 thần tích, 2 sắc phong 1 thần tích, 1 sắc phong
Hà Tĩnh: 2 thôn/làng
197.
4291
Tam Xuân (làng), tổng Tam Xuân, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, 1937
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích,
Q40 18/XXI, 11
199
STT
Nơi thờ tự
Duệ hiệu tôn thần
Ký hiệu
Số đăng ký
198.
4294
Hậu Môn (làng), tổng Canh Hoạch, phủ Thạch Hà, Hà Tĩnh, 1937
Nhân thần Liễu Hạnh
Thần tích - thần sắc 1 sắc phong 1 thần tích
Q40 18/XXI, 16
Nghệ An: 2 thôn/làng
199.
8372
Yên Lại (làng), tổng Yên Lãng, phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An, 1937
Thiên thần Thánh Mẫu
Q40 18/VIII, 51
1 thần tích
200.
8446
Nhân thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/VIII, 6
Thƣợng (thôn), làng Kim Khê, tổng Kim Nguyên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, 1937
Bắc Giang: 1 thôn/làng
201.
320
Thiên thần Thánh Mẫu
Q40 18/V, 16
Bún (làng: tên Nôm), làng Phấn Trì, tổng Phấn Sơn huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, 1938
1 sắc phong, 1 thần tích
Hải Phòng: 1 thôn/làng
202.
5874
Thiên thần Liễu Hạnh
Q40 18/XXIV, 10
Hạ (làng: tên Nôm), làng Hạ Lý, tổng Quartier, thành phố Hải Phòng, 1938
1 thần tích, 6 sắc phong,
LaoKay: 1 địa điểm
203.
7079
LaoKay (làng), châu Bảo Thắng, tỉnh LaoKay, LaoKay 1938
1 thần tích
Q40 18/XXIV, 2
Thành Hoàng Thánh Mẫu Phủ Dầy
Sơn Tây: 1 thôn/làng
204.
10500
Vân Lôi (làng), tổng Đại Đồng, huyện Thạch Thất, Sơn Tây, 1938
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/III, 36
Thanh Hóa: 1 thôn/làng
205.
10735
Thiên thần Liễu Hạnh
1 thần tích
Q40 18/XXIII, 3
Chợ Dầu (làng: tên Nôm), tổng Du Trƣờng, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, 1937
Tuyên Quang: 1 thôn/làng
206.
12263
Chàng Đà (làng), tổng Yên Lĩnh, phủ Yên Sơn, Tuyên Quang, 1938
1 thần tích
Q40 18/XXVIII, 45
Thiên thần Mẫu Thoải (Thủy cung công chúa)
200
PHỤ LỤC 2: THƢ MỤC TƢ LIỆU HÁN NÔM LIÊN QUAN TỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIẾU HẠNH VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ QUA THƢ MỤC SÁCH HÁN NÔM (VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM)13
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
GIÁNG BÚT (KINH VÀ THƠ VĂN)
Tí
1.
AB.498
Giáp (1864)
Các tín chủ phụng san
Nôm và Hán
Thơ, văn... giáng bút của Tiên, Thánh, Phật…, khuyên làm điều lành, không cờ bạc, không hút xách...
Minh Đức chân kinh 明 德 真 經
Đàn Lạc Đạo in 1 bản in, 128 trang, 1 bạt
2.
Paris SA.PD.2343
Nôm và Hán
Thành Thái Canh Tý (1900)
Minh thiện quốc âm chân kinh 明 善 國 音 真 經
Văn giáng bút của đệ nhất (Công chúa Liễu Hạnh), đệ nhị và đệ tam Thánh Mẫu, khuyên thiện làm gốc: vợ kính chồng; trẻ giúp già, con thờ kính cha mẹ, em tôn trọng anh; trong nhà ngoài làng nói năng phải theo đúng đạo lí.
Đàn Khuyến Thiện, Đồng Lạc, Nam Định in 1 bản in, 144 trang, 1 dụ, 1 tán
Hoàng Trác Quan// 黃 卓 冠 , Phan Doãn Chấp// 潘 允 贄 , Trần Xuân Bảng// 陳 春 榜 ghi chép.
tín nữ
3.
Hán
A.1249 b/1 - 3
Các phụng san
Thành Thái Giáp Thìn (1904)
Vân Hƣơng Liễu Hạnh công chúa tâm căn chân kinh 雲鄉柳杏公主心 根真經
Đàn Khuyến Thiện, Đồng Lạc, Nam Định in 1 bản in, 198 trang
A.1249 b/1 - 3. A.1249 b/1 gồm: 1.Vân Hƣơng Liễu Hạnh Công Chúa tâm can chân kinh (52 trang): Kinh giáng bút của Công Chúa Liễu Hạnh khuyên mọi ngƣời phải rèn luyện tâm tính. A.1249 b/2: A.1249 b/3:
4.
AB.143
Nôm
Thành Thái 16 (1904)
Các tín chủ phụng san
Văn giáng bút của Vân Hƣơng Thánh Mẫu khuyên sống hiếu dễ, trung tín, nói nãng cẩn thận, dạy con cái biết quý thóc gạo… 39 bài ca, huấn… của Phạm Văn Toán, Vƣơng Duy Trinh… Bản Thánh tích.
Tăng Quảng Minh Thiện quốc âm chân kinh 增 廣 明 善 國 音 真 經
Đồng Lạc, Khuyến Thiện Đàn in, 1 bản in, 228 trang, 1 tựa, 1 bạt
5.
Nguyên Từ quốc AB.436
Thành Thái Các tín chủ Nôm
Thơ ca khuyến huấn,giáng bút của thánh mẫu, công chúa, tiên AB.436: đền
13 Tham khảo: Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thƣ mục đề yếu, Di sản Hán Nôm - Thƣ mục đề yếu (bổ di) và http://www.hannom.org.vn/
201
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
phụ san
AB.253 AB,459
mệnh
trong
thổ
lập
lập mệnh mẫu quốc chân âm kinh 元 慈 國 母 立 命 國 音 真 經
phật…, khuyên sống hiếu đễ, trung tín khoan hoà... tránh bạc ác, ghen ghét lẫn nhau. Xem thêm phần Nguyên từ quốc mẫu lập mệnh quốc âm chân kinh kinh địa VNV.167 từ trang 46.
Niên đại định bản Giáp Thân (1904) Bính Ngọ (1906) Đinh Mùi (1907)
6.
Hán
Các tín chủ phụng san
A.2412 A.2475 A.2585
Tam vị Thánh Mẫu thế cảnh chân kinh 三 位 聖 母 警 世 真 經
Văn giáng bút (cáo, tán, kinh, kệ…) của Vân Hƣơng Thánh Mẫu, Mai Hoa Công Chúa và Thƣợng Ngàn Công Chúa khuyên làm điều thiện, bỏ điều ác. A. 2412 và A. 2585 đều do Hƣớng Thiện Đàn khắc in. Bản A. 2585 khắc theo bản A. 2412.
A.2412: Thành Thái Bính Ngọ (1906) A.2475: Thành Thái Bính Ngọ (1906) A.2585: Duy Tân 1 (1907)
in
7.
AB.246
Nôm
Các tín chủ phụng san
Tân Duy Mậu Thân (1908)
Linh tâm quốc âm chân kinh 零 心 國 音 真 經
52 bài tựa, dụ, ca, thơ, ngâm, dẫn... giáng bút của các Thánh Mẫu, Công Chúa... khuyên ngƣời đời (chủ yếu là phụ nữ) hiếu nghĩa, tiết hạnh, giữ luân thƣờng, làm điều thiện, bỏ điều ác... Bảng kê tên nhiều ngƣời viết chữ, khắc ván và đóng góp kinh phí để in sách.
Hƣơng Sơn, Bắc Ninh in, 106 trang AB.253: Lạc Khuyến đƣờng in, 100 trang AB.459: Công Thiện Đƣờng Hà Nội in, 76 trang 36 A.2412: trang, 1 tựa in tại Chùa Hƣng Phúc, Bắc Ninh, 36 trang 30 A.2475: in trang, tại Thiên Chủ Sơn đƣờng, Tây, 30 trang 36 A.2585: trang, 1 tựa Công Thiện Đƣờng in, 36 trang Hội Lạc Thiện tại Khắc Hòa Xuân xã đƣờng, Xuân Cốc, tổng Bắc Tạ,
202
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Nôm
8.
AB.260
Duy Tân 2 (1908)
Các tín chủ phụng san
94 bài văn, thơ giáng bút của Công chúa Liễu Hạnh và chƣ tiên, khuyên về những điều trung hiếu, tiết nghĩa, đức hạnh...
Chí đạo quốc âm chân kinh 志道國 音 真 經
9.
Các tín chủ phụng san
Hán và Nôm
A.2888 A.1348
Duy Tân Mậu Thân (1908)
Nhật tụng luyện thần chân kinh 日 誦 練 神 真 經
Kinh tụng niệm hàng ngày để luyện cho tinh thần trong sáng, tâm trí yên tĩnh... Sách gồm các chƣơng: Lạc thiện với việc thiện), An mệnh (ở yên với mệnh của mình), Tiết tính (kiềm chế cá tính của mình), Đào Tình (rèn luyện lòng yêu, ghét, vui, buồn, ham muốn, giận dữ, ƣa thích), Tồn chân (giữ bản tính tự nhiên), Khử ngụy (bỏ điều giả dối), Thủ nhân (giữ điều nhân), Bảo nghĩa (giữ điều nghĩa), Hoài hiếu (ấp ủ đạo hiếu), Tƣ đễ (nghĩ đến tình anh em), Đốc tín (dốc lòng tin), Tri lễ (biết điều lễ), Lệ liêm (cố gắng giữ điều liêm khiết), Tri sỉ (biết điều nhục), Lí khiêm (sửa đức khiêm nhƣờng)... Thơ giáng bút của Tiên, Thánh
10.
AB.242
75 bài giảng bút (thơ, ca, phú, vịnh…) của Phật, Thánh, Tiên khuyên làm điều thiện, tu dƣỡng đạo đức
Các tín chủ phụng san
Duy Tân 3 (1909)
Nôm và Hán
Bách tƣờng hoa chân kinh 百祥 花 真涇
huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dƣơng. 1 bản in, 168 trang Hƣớng Thiện đƣờng, xã Lê Hải Xá, Dƣơng in, 1 in, 122 bản trang, 1 tựa, 1 bạt A.2888 Đền Thủ Thiện Nam Định in 1 bản in, 1 bản viết, 1 bản tựa, 1 bạt, 1 dẫn, 1 phàm lệ, 1 tán, 1 mục lục, có hình vẽ, 176 trang A. 1348, 14 trang. Vi Thiện Đàn ở Đa Phúc, Phúc Yên. 1 in, 90 bản trang, 4 bài chỉ thị, 1 tựa, 1 bạt Duy Tân Kỉ Các tín chủ Nôm và Thơ, ca, huấn, văn giáng bút, thể thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ Vĩnh
Phong
11.
Trạch thiện chân AB.529
203
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
phụng san
Hán
tuyệt và 6-8, nhằm khuyên làm việc thiện, bỏ việc ác.
Niên đại định bản Dậu (1909)
kinh 擇善真涇
in, Ngũ Thạch Sơn 152
12.
AB.244
Nôm
Duy Tân 3 (1909)
Các tín chủ phụng san
205 bài thơ, ca, ngâm, kệ, huấn, dụ, phú... giáng bút của Tiên, Phật, Thánh, chúa... khuyên sống trung hiếu, tiết nghĩa, làm điều thiện, bỏ điều ác, chăm đọc kinh…
Mai Hoa điểm tuyết chân kinh 梅 花 點 雪 真 經
13.
A.2522
Hán
Các tín chủ phụng san
Long phi Nhâm Tuất (1922)
Liệt thánh châm biếm chân kinh 列 聖 鍼 砭 真 經
217 bài gồm thi, thoại, thị, dụ, châm, tán, ca, văn, kệ... giáng bút của Trần Hƣng Đạo, Phạm Ngũ Lão, thái Thƣợng Lão Quân, Ddức Thánh Mẫu, công chúa... khuyên giữ luân thƣờng đạo lí , tránh làm điều ác.
14.
AB.560/a-b
Các tín chủ phụng san
Nôm và Hán
Duy Tân Canh Tuất (1910)
Thơ, ca, phú, tựa, bạt, dẫn... giáng bút của Thánh Mẫu, Tiên Cô, Công Chúa... khuyên trung, hiếu, giữ đạo luân thƣờng, khuyên phụ nữ giữ đạo tam dòng, tứ đức...
Lƣơng tâm quốc kinh chân âm 良 心 國 音 真 經
trung chân
15.
AB.515
Các tín chủ phụng san
Nôm và Hán
Trí kinh 致中真涇
Duy Tân Canh Tuất (1910)
126 bài thơ, văn giáng bút, thác danh Tiên, Thánh, Phật, Đế Quân, Công Chúa… khuyên bồi dƣỡng nết tốt, chăm làm việc, tránh cờ bạc, rƣợu chè, đó là con đƣờng tốt nhất để đi lên cõi phúc.
đàn Xá, Thất, Tây, trang. Đàn Phúc Thiện, Bắc Giang in, 1 in, 162 bản trang, 1 tựa, 1 bạt Đàn Khuyến Thiện, Khoái Châu, Hƣng Yên in, 172 trang Hội Tập Thiện, huyện Tiên Lãng, Kiến An in. 1 bản in, 152 trang, có ảnh Thánh Mẫu 1 bản in, 162 trang, có 4 bức vẽ cùng lời tán (tƣợng tán), 1 kinh tán, 1 tựa, 1 mục lục, có chữ Hán.
204
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
AB.225/1-2
16.
Canh Tuất (1910)
Các tín chủ phụng san
Nôm và Hán
Hơn 130 bài thơ, ca, ngâm, phú… giáng bút của Đổng Thiên Vƣơng, Tản Viên Đại Vƣơng, Hai Bà Trƣng, Đức Thánh Trần Hƣng Đạo, Vân Hƣơng Thánh Mẫu… khuyên hiếu nghĩa, tôn trọng đạo đức, tránh xa hoa, xu nịnh…
Hƣớng Thiện Đàn in. 1 bản in, 122 trang, 1 tựa, 1 dẫn, 1 bạt
Giả Vƣơng Hƣơng Nam Âm chân kinh 王者香 南音真經 (Vƣơng Giả Hƣơng 王 者 香)
17.
Hán
Paris.SAPD. 2346
Các tín chủ phụng san
Văn giáng bút khuyên ngƣời đời làm theo các điều trung, hiếu, tiết nghĩa và nhân, nghĩa, lễ, trí
Tân Duy Canh Tuất (1910)
linh Thiên Nam giáng chân kinh 天南靈降真經
18.
AB.250
Duy Tân 5 (1911).
Nôm và Hán
Thiên thu kim giám chân kinh 天 秋金鑑真經
75 bài thơ, ca, tán… giáng bút của Trần Đại Vƣơng (Trần Hƣng Đạo), Phạm Điển Súy (Phạm Ngũ Lão), Cao Sơn Đại Vƣơng, Vân Hƣơng Thánh Mẫu (Liễu Hạnh)… khuyên ngƣời đời bỏ đƣờng tà dục, quay về với thiện đạo để đƣợc hƣởng phúc lâu dài.
19.
AB.249
Nôm
Duy Tân 5 (1911)
Các tín chủ phụng san
Kim giám chân kinh 金 鑑 真 經
Các bài thơ, ca, ngâm, từ, phú, thoại, thuyết, tán tự của Tiên, Phật, Thánh, Công chúa... khuyên mọi ngƣời tránh rƣợu chè, cờ bạc, trai gái, tham lam. Khuyên tăng ni đúng năm diều răn (ngũ giới) của nhà Phật; khuyên thợ thủ công trau dồi nghề nghiệp cho tinh xảo để truyền lại đời sau.
20.
AB.243
Nôm
Duy Tân 5 (1911)
Các tín chủ phụng san
Văn, thơ, phú, luận, kệ, chú... giáng bút của Phật, Thánh, Thần, Tiên... khuyên làm điều lành, tránh điều ác.
hồi luật Ngọc xuân chân kinh 玉 律 回 春 真 經
Lễ Học đƣờng Hƣơng ở Sơn Canh, Thạch in. 1 bản, 90 trang Lạc Hƣớng Hợp Đƣờng, Thái Nguyên in 1 bản in, 90 trang, 25 x 15, 2 tựa, 1 dẫn, 1 bạt, 1 mục lục, có chữ Hán Thiện Tập in. 1 Đƣờng bản in, 116 trang. 1 tựa, 1 bạt, 1 dẫn Đàn Bảo Thiện, Bắc Lí, Việt Yên, Bắc in. 1 Giang bản in, 58 trang, 1 tựa, 1
205
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
21.
AB.245
Nôm
Duy Tân 5 (1911)
Các tín chủ phụng san
Ngọc Thành Nam âm chân kinh 玉 成 南 音 真 經
Thơ, phú, ca, luận... Giáng bút của Thánh, Tiên, Phật... khuyên giữ tính tốt, bỏ tính xấu, chớ ham mê rƣợu chè, sắc dục; chớ buôn bán lứa đảo, gian lận...
22.
AB.561
Tân Hợi
Các tín chủ phụng san
Nôm và Hán
Duy Tân (1911)
163 bài thơ, ca, phú, giáng bút của Phật, Tiên, Thánh… khuyên ngƣời đời tỉnh cơn mê, bỏ thói xấu, xa sắc dục, tránh rƣơu chè, làm điều lành, sửa mình trở nên ngƣời tốt tính
Tỉnh mộng chân kinh hạ tập 醒夢 真經下集
23.
AB.263 AB.257
Duy Tân 5 (1911)
Các tín chủ phụng san
Nôm và Hán
Khoảng 200 bài thơ, ca, ngâm, huấn giáng bút của các vị Thần, Thánh, Tiên, Phật khuyên sống có đạo đức, gắng làm điều thiện để hƣởng phúc lâu dài…
Vạn quy hóa nguyên chân kinh 萬化歸原真京
24.
AB.250
Duy Tân 5 (1911)
Các tín chủ phụng san
Nôm và Hán
Thiên thu kim giám chân kinh 天 秋金鑑真經
75 bài thơ, ca, tán… giáng bút của Trần Đại Vƣơng (Trần Hƣng Đạo), Phạm Điển Súy (Phạm Ngũ Lão), Cao Sơn Đại Vƣơng, Vân Hƣơng Thánh Mẫu (Liễu Hạnh)… khuyên ngƣời đời bỏ đƣờng tà dục, quay về với thiện đạo để đƣợc hƣởng phúc lâu dài.
tấu Đàn Học Đạo, thôn Vƣơng Thiều, Đông huyện Lỗ, Việt Yên, Bắc Giang. 1 bản in, 68 trang Thiện Lạc Đàn, Thái Bình in. 1 bản 178 viết, trang, 1 tựa, 1 bạt Lạc Hƣớng đƣờng, Hợp huyện Đồng Hỉ, tỉnh Thái Nguyên in AB.263:nội tập 84tr AB.257: ngoại tập, 88 tr Lạc Hƣớng đƣờng, Thái Nguyên in, 1 bản in, 90 trang, 2 tựa, 1 dẫn, 1 bạt, 1 mục lục
206
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Hợi
25.
A.261
Tân (1911)
Các tín chủ phụng san
Hán và Nôm
Văn giáng bút: thơ, ca, vịnh, ngâm, giải... của Thiên Vƣơng, Thánh Mẫu, Công Chúa... khuyên tu nhân tích đức, tránh điều ác, chăm làm việc thiện.
Phúc địa tài hoa chân kinh 福 地 裁 花 真 經
26.
AB.252
Duy Tân 5 (1911)
Các tín chủ phụng san
Nôm và Hán
109 bài thơ, ca, phú thác danh Tiên, Thánh, Vƣơng Mẫu, Công Chúa... khuyên ngƣời đời làm điều thiện, bỏ điều ác.
Càn khôn định vị chân kinh 乾坤定 位真經
Đàn Phƣơng Lan, xã Bác tổng Vọng, Tăng Long, phủ Đa Phúc, Phúc Yên in. 1 bản in, 84 trang, 1 tựa, 1 bạt Chính Thiện (Bắc Đƣờng in. 1 Giang) bản in, 128 trang 1 bạt, 1 dẫn, 1 chỉ thị, 1 mục lục
27.
AB.525
Tân Tân
Nôm
Văn giáng bút của Thiên Tôn, Tây Vƣơng Mẫu, Quan Thánh Đế, Trần Hƣng Đạo, khuyên làm điều lành, tránh điều ác.
Duy năm Hợi (1911)
Minh Tâm độ kiếp chân kinh 明 心 度 劫 真 經
Quan Đền Thánh, Hà Nội in 1 bản in, 142 trang
Nguyễn Tƣờng, Nguyễn Đào, Phạm Nhân biên soạn
28.
AB.503
Duy Tân 6 (1912)
Các tín chủ phụng san
Hán và Nôm
Bảo xích tục biên chân kinh 寶赤續 編真經
80 bài thơ, ca, tán, dụ, huấn văn, chỉ thị do Thánh Mẫu, Quốc Mẫu, Tiên, Thánh giáng bút, khuyên giữ đạo hiếu trung, lƣơng thiện, nhƣờng nhịn... Bài tán Cúc Hoa Công Chúa, Bạch Hoa Công Chúa, Hoàng Mai Công Chúa...
Thiện Hội Đàn, Hải Dƣơng in lại theo nguyên bản của Phổ Thiện Đƣờng, Thái Bình. 1 bản in, 198 trang, 1 bạt, 3 tán, 13 bài chỉ thị, 1 huấn
207
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
29.
AB.504
Các tín chủ phụng san
Nôm và Hán
Khải Định Kỉ Mùi (1919)
Chính Hải in, 1 in, 196
Chấp trung quốc âm chân kinh 執 中國音真經
Văn giáng bút của Quan Thánh Đế Quân, Vân Hƣơng Thánh Mẫu, Ngũ Lĩnh Đại Tiên... bằng thơ, ca, từ, dụ, ngâm, thoại, huấn, phú... khuyên bỏ điều ác, làm điều thiện, yêu thƣơng nhau... Có trích dẫn nhiều câu ca dao, tục ngữ nói về cách sống, cách đối nhân xử thế.
30.
AB.502
Khải Định 8 (1923)
Nôm và Hán
Thơ, ca, huấn giáng bút của Phật, Tiên, Thánh, Đức Chúa... khuyên dạy phụ nữ về công, dung, ngôn, hạnh, trung, hiếu...
Khôn nghi chân kinh 坤儀真經
31.
VHv.1076
Bảo Đại Ất Hợi (1935)
Hán và Nôm
Thơ, câu ðối, chiếu, ca, tán… của Thần, Thánh… khuyên rèn luyện tâm tính ðể hƣởng phúc lành. Bài ca Nôm cầu nguyện cho ngƣời sống và độ trì cho ngƣời chết
Tâm pháp thiết yếu chân kinh 心 法 切 要 真 經
văn, 1 dẫn, 1 biểu tạ, 3 hình vẽ Đức Thánh Mẫu Đàn Tâm, Dƣơng bản trang, 1 tựa. Đền Tam Thánh Hà nội 1 bản in, 114 trang, 1 tựa, 1 bạt 1 bản in, 100 trang, 1 mục lục, 1 phàm lệ, 1 tựa, 1 dẫn
32.
AB.505
Đầu thế kỷ XX
Nôm và Hán
1 bản viết, 130 trang, 1 tựa, 1 dụ
Vạn bảo Quốc âm chân kinh 萬寶國 音真京
60 bài thơ, ca, ngâm, huấn giáng bút của các bậc Thánh, Thần: Trần Hƣng Đạo, Trình Quốc Công, Tản Viên Đại Vƣơng, Vân Hƣơng Thánh Mẫu… khuyên ăn ở hiếu trung, hoà thuận, tin cậy lẫn nhau, giữ vững tƣ cách đạo đức, không đam mê cờ bạc rƣợu chè, cố gắng tu dƣỡng thành ngƣời tốt
33.
AB.262
Đầu thế kỷ XX
Nôm và Hán
85 bài giáng bút (thơ, ca, ngâm, dụ, biểu…) của Tiên, Phật, Thánh… khuyên nên tu nhân tích đức, ở hiền sẽ đƣợc gặp lành…
Thiên hoa phóng nhị Nam âm chân kinh 天花放蕊南 音真經
34.
AB.520
Hán
Đầu thế kỷ XX
85 bài kinh, thơ, ca, ngâm huấn giáng bút của 26 vị Thần, Thánh, Tiên, Phật… khuyên chớ ngông cuồng, mê muội, phải tu tỉnh để vƣợt qua lỗi lầm và hƣởng phúc lâu bền…
Thƣơng hải độ mê chân kinh 傷海度 迷真經
1 bản in, 180 trang 1 tựa, 1 bạt, 1 mục lục Tam Đền Thánh, Nam Định in, 1 bản in, 106 trang,
208
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
1 tựa, 1 dẫn, 1 mục lục
35.
AB.258
Nôm
Đầu thế kỷ XX
Văn giáng bút của các Đại Vƣơng, Thánh Mẫu, Tƣớng Quân, Đế Quân, Công Chúa... khuyên giữ tính thiện, theo thuần phong mĩ tục, thận trọng trong việc làm.
1 bản viết, 70 trang 1 tựa, 1 mục lục
36.
AB.519
Đầu thế kỷ XX
Nôm và Hán
Kinh giáng bút của thần thánh (soạn theo các thể 6 - 8, ngâm, vịnh, từ, thị, thoại, hát nói... ) khuyên giữ đạo, hết lòng đền ơn cha, mẹ, vua, thầy...
Phách Nguyệt âm kinh chân dƣơng toàn tập 月 魄 真 經 陰 陽 全 集 Báo ân quốc âm chân kinh 報恩國 音真經
tâm kinh
37.
VHv.1091
Hán
Các tín chủ phụng san
Thanh 清心經
Thành Thái Giáp Thìn (1904)
Thơ văn giáng bút ( 23 bài thoại, 16 bài dụ, 13 bài thơ, 1 bài từ, 1 bài văn ) của Quan Thánh Đế Quân, Huyền Thiên Trấn Vũ, Vân Hƣơng Liễu Tiên, Thành Hoàng, Minh Vƣơng… khuyên không nên chạy theo danh lợi, sắc dục, phải ra sức trau dồi bản thân để thành ngƣời tốt
38.
AB.355
Hán
Duy Tân 2 (1908)
Các tín chủ phụng san
Bản thiện kinh ản 本善經
Kinh giáng bút của Thiên Vƣơng, Tiên, Chúa, Thánh, Thần... gồm 118 bài thơ, ca, ngâm, phú, văn, thán, tán, chỉ thị... khuyên tu thân, lập chí, tỉnh mê, sửa lỗi, nhẫn nại...
tại
39.
AB.264
Duy Tân 2 (1908)
Các tín chủ phụng san
Nôm và Hán
120 bài kinh giáng bút gồm: thơ, ca, phú, bạt, kê, từ… của Tiên, Thánh.. khuyên làm ðiều thiện, tránh điều ác, thuận theo lẽ tự nhiên. Nhiều bài có lời bình bằng chữ Hán.
Tam ngũ trình tƣờng quốc âm kinh 三 五 呈 祥 國 音 經
1 bản in, 66 trang, 1 tựa, 1 mục lục Công Thiện chùa đƣờng, Phúc Liên in, 1 bản in, 160 trang, 23 bài dụ, 13 bài thơ, 1 bài từ, 1 bài văn, 1 tựa, 1 dẫn, 1 mục lục Đền Phổ Tế, Hà Đông. 1 bản in. 208 trang, 1 mục lục, 1 dẫn, 1 bạt đàn In Hoa, Thiên Phúc Yên, 1 bản in, 116 trang
40. Minh đạo thƣợng A.2385
Duy Tân 3 Các tín chủ Nôm và Thơ, ca, ngâm thoại... giáng bút của các bậc Thánh, Đế, Đàn An Thiện
209
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
(1909)
phụng san
Hán
Vƣơng... khuyên ngƣời làm điều thiện, tránh điều ác.
kinh 明 道 上 經
41.
AB.139
Duy Tân 3 (1909)
Các tín chủ phụng san
Nôm và Hán
Hợp biên kinh Lập mệnh tiết yếu, gồm các bài thơ, văn, ca phú... giáng bút của Tiên, Thánh khuyên ngƣời đời trung, hiếu, thuận, giữ lễ và tín, tránh rƣợu chè, cờ bạc, sắc dục.
in. 1 bản in, 186 trang, 1 tựa, 1 mục lục Tam Đền Thánh, Hà Nội. 1 bản in, trang 1 92 lục, có mục chữ Hán
42.
A.1997
Nôm
Các tín chủ phụng san
Văn giáng bút của Thánh Mẫu khuyên làm điều nhân, nghĩa, lễ, trí và xa lánh lợi, dục, tửu, sắc.
Duy Tân 6 (1912)
43.
A.2494
Nôm
Khải Định 6 (1921)
Các tín chủ phụng san
Văn giáng bút của Thánh Mẫu khuyên làm điều nhân nghĩa, lễ trí, xa lánh lợi, dục, tửu, sắc.
1 bản. in tại Thái bình, 62 trang. 1 bản in, 78 trang tại Đàn Hoa Thiện
Kê lập chính mệnh minh thiện nhị kinh tiết yếu hợp biên 乩正 立 命明善二經節要 合編 Phổ độ âm dƣơng bảo kinh 普 度 陰 陽 寶 經 Phổ độ âm dƣơng bảo kinh 普 度 陰 陽 寶 經
tân
44.
AB.524
Nhâm Tuất (1922)
Hán và Nôm
Hóa ngoan kinh 化頑新經
Đàn Đăng Thiện ở Hải Đông ghi. 1 in, 156 bản trang, 4 tựa
Văn giáng bút của Quan Thán Đế Quân, Văn Xƣơng Đế Quân, Lã Tổ, Tản Viên Đại Vƣơng, Phật Quan Âm, Công Chúa Thƣợng Ngàn; Thánh Mẫu Vân Hƣơng.. viết dƣới hình thức tự, dụ, ca bằng chữ Hán và chữ Nôm, nhằm khuyên tu sửa tâm tính ngay từ khi còn nhỏ, siêng năng học tập, chăm chỉ làm ruộng, làm thợ, phải thật thà, sửa bỏ mọi tội lỗi…
in Đàn
45.
VHv.42
Hán
Bách hạnh thiện thƣ 百行善書
Thành Thái Tân Sửu (1901)
Văn giáng bút của Văn Xƣơng Đế Quân, Chu Hi, Văn Thiên Tƣờng, Trần Hƣng Đạo, Liễu Hạnh Công Chúa khuyên nên kính sợ mệnh trời, tu dƣỡng đạo đức.
Tƣơng Mai Nguyễn Mạnh Gia sao
Theo bản của Khuyến Thiện, Đồng Lạc, Nam Định 1 bản viết, 102 trang, có 2 tựa, 1 luận, 1 bạt
210
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
46.
Hán
AC.266 AC.238
Các tín chủ phụng san
Văn đế bách hạnh thiên 文帝百行篇
Thành Thái Sửu Tân (1901)
Sửu
Hơn 100 bài thơ giáng bút, khuyên phải biết sợ mệnh trời, lễ độ với thần minh, có hiếu với cha mẹ, trung với vua, để chí ở thánh hiền, trung thành với đạo học …
Tam Hà
47.
A.2476
Thánh Thái 17 (1905)
Các tín chủ phụng san
Nôm và Hán
Thanh tâm đồ 清 心圖
Trên 100 bài giáng bút ( thơ ca, kệ, từ, tán, huấn… ) của Tiên, Thánh, Thần, Phật ( Quan Thánh Đế Quân, Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử, Chu Hi… ) khuyên giữ đạo cƣơng thƣờng, tích thiện trừ ác, thận trọng trong lời nói và việc làm, cha mẹ phải nãng dạy con cái trở thành ngƣời tốt…
48.
Nôm
AB.644 MF.1682
Tỉnh mê phú 醒迷 賦
Thành Thái Ất Tị (1905)
Văn giáng bút của Vân Hƣơng Thánh Mẫu (Liễu Hạnh) khuyên ãn ở phải đạo. Có sử dụng nhiều ca dao, tục ngữ, nhƣ “cha chung không ai khóc”, “mẹ hát con khen hay”, “lấy chồng cho đáng tấm chồng”…
49.
Vnv.529
Nôm
Các tín chủ phụng san
Tam bảo quốc âm 三 寶 國 音
Thành Thái Bính Ngọ (1906)
Thơ ca, huấn giáng bút của Vân Hƣơng Thánh Mẫu (Liễu Hạnh), Liên Hoa Công Chúa, Quỳnh Hoa Công Chúa, Hai Bà Trƣng…khuyên phụ nữ sống theo ðạo dức truyền thống.
in, 1 2 bản tựa, 1 bạt, một số hình vẽ. AC.266: 132 trang, Khuyến Thiện Đƣờng (Nam Định) in năm Thành Thái Tân (1901). AC.238: 122 trang, Kế Thiện Đƣờng (Hải Dƣơng) in năm Duy Tân 2 (1908) Đền Thánh, Nội in 1 bản in, 256 trang, 4 tựa, 1 dần Ván khắc tại đến Ngọc Sơn, Hà Nội, 1 bản in, 14 trang Hoa Thiên đƣờng, xã Đông Đồ in. 1 bản in, 144 trang
211
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
50.
AC.238
Hán
Duy Tân 2 (1908)
Các tín chủ phụng san
Thiện in. 1 in, 122
Văn đế bách hạnh thiên 文帝百行篇
Hơn 100 bài thơ giáng bút khuyên phải lễ độ với thần minh, có hiếu với cha mẹ. Trong có 6 chƣơng giáng bút của Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vƣơng Đệ nhất Thánh Mẫu Liễu Hạnh khuyên ngƣời phụ nữ giữ đạo đức, công dung ngôn hạnh
51.
AB.237
Nôm
Canh Tuất (1910)
Các tín chủ phụng san
Hồi xuân bảo tập 回 春 寶 集
63 bài thơ, ca, phú, dụ, thán, luận... giáng bút của Tam Thánh, Liễu Hạnh khuyên làm điều lành, bỏ điều ác, coi trọng trung hiếu, tiết nghĩa.
Kế Đƣờng bản trang Đàn Phổ Thiện, xã Xuân Kì, huyện Kim Phúc Anh, Yên in 1 bản, 106 trang, 1 tựa, 1 bạt
52.
VNv.166
Duy Tân 4 (1910)
Các tín chủ phụng san
Nôm Hán
Thiện (Nam in. 1 in, 212
Văn Đế bách hạnh thiên diễn nghĩa 文帝百行篇演義
Khai Đàn Định) bản trang
Diễn Nôm các lời khuyên của Văn Xƣơng Đế Quân: đối với mẹ cha phải biết hiếu đễ; ăn ở phải biết trung tín, cần kiệm, liêm sỉ, có nhƣ vậy mới hƣởng phúc lâu dài. 6 bài ca của Vân Hƣơng Thánh Mẫu (Liễu Hạnh) nói về công, dung, ngôn, hạnh. Có chú giải chữ khó và điển tích.
53.
AB.302
Duy Tân 4 (1910)
Các tín chủ phụng san
Nôm và Hán
Thơ, ca… giáng bút của các Tiên, Thánh, Đế Quân, Thánh Mẫu đời Trần… khuyên ngƣời đời nên làm điều lành, bỏ điều ác…
Thiên trƣờng cung huấn 天長宮訓
54.
AB.501
Duy Tân 6 (1912)
Các tín chủ phụng san
Hán và Nôm
131 bài thơ, ca, tán, huấn... giáng bút của Phật, Thánh, Tiên Chúa... dạy về công, dung, ngôn, hạnh.
Phƣợng sơn nữ kính bảo lục 鳳 山 女 鏡 寶 錄
55.
A.2630
Thành Thái - (1889
Các tín chủ phụng san
Hán và Nôm
Thơ giáng bút của Phật, tiên, thánh... vào các năm Thành Thái (1889-1907) và Duy Tân (1907-1916), khuyên làm điều lành,
Tính Phản in, 1 đƣờng bản in, 70 trang. 1 mục lục, 1 tựa, 1 tiểu dẫn Quang Hi in. 1 đƣờng bản in, 144 trang, 1 tựa, 3 chỉ thị, 1 thoại 1 bản viết, 402 trang
Kê bút văn sao tập 乩筆文抄集
212
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
tránh điều ác.
và Tân -
1907) Duy (1907 1916)
56.
A.2521
Hán
Khải Định 7 (1922)
40 bài thuốc giáng bút bằng thơ 5 chữ của Vân Hƣơng Thánh Mẫu (Liễu Hạnh).
Thọ in. 1 in, 66
Thọ thế phƣơng đan 壽世方丹
Xuân Đƣờng bản trang, 1 tựa
PHẢ LỤC
kì
57.
Hà phu
Hán
Gia Long 10 (1811)
Hồng Đoàn nhân soạn
In từ bản khắc của Lạc Thiện Đƣờng
Những chuyện kì lạ do Đoàn Thị Điểm sƣu tầm (tiếp sau Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ): Ngƣời liệt nữ ở An Ấp; Cuộc gặp gỡ lạ lùng ở Bích Câu… Trong câu chuyện, thƣờng có xen thơ ca, từ khúc, với một vài chú thích khi cần, và có lời phẩm bình của Đạm Nhƣ Phủ, anh của Hồng Hà Đoàn Thị Điểm. Trong tập này có Vân Cát thần nữ lục
Truyền tân phả 傳 奇 新 譜 [Tục truyền kì lục] 續 傳 奇 錄 , “Vân Cát Thần nữ lục”
A.48 VHv.2959 VHv.1487: Paris. EFEO. MF. II/6/1096 (A. 48).
58.
AB.289 MF.1874
Nôm và Hán
Tiên phả dịch lục 仙譜譯錄
in, 114 Bản trang, 1 tựa, 1 bạt
Khắc năm Duy Tân canh Tuất (1910).
Sự tích Liễu Hạnh thờ ở đền An Thái, tỉnh Nam Định: Liễu Hạnh tên thật là Giáng Tiên, ngƣời đẹp, thơ văn giỏi. Nãm 18 tuổi, kết duyên với Đào Lang. Nãm 20 tuổi, Liễu Hạnh tự nhiên chết, thƣờng biến hiện linh thiêng, đƣợc nhân dân lập đền thờ ở nhiều nơi. Bài văn chầu ca ngợi sự linh thiêng của Công chúa Liễu Hạnh.
Kiều Oánh Mậu 喬 瑩 懋 biên tập. Giá Sơn 蔗 山 Khiếu Năng Tĩnh 叫 能 靜 duyệt bình.
59.
A.2978
Hán
Duy Tân 5 (1911)
Cử nhân Trần Điền thuật, Chi Trần Thứ Chi viết
Thiên Bản Vân triều Hƣơng Lê Thánh Mẫu ngọc phả 天 本 雲 鄉 黎 朝聖母玉譜
Sự tích Công chúa Vân Hƣơng (Liễu Hạnh): bà là con gái của Ngọc Hoàng, vì đánh vỡ chén ngọc mà bị giáng xuống trần đầu thai ở nhà Lê Thái Công, một ngƣời chuyên làm việc thiện. Công chúa tƣ chất thông minh, làm thơ, gảy đàn đều thạo. Sau khi hết hạn đày trở về Trời. Công chúa vẫn đi lại chãm sóc cha mẹ, con cái ở dƣới trần, hiển ứng linh thiêng… Phùng Khắc
Lãng Uyên linh từ in. Ni sƣ chùa Hoa Cựu, tự Tâm Nhuận san khắc. 1 bản in,
213
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
64 trang, 1 tán
Khuyết danh Hán
60.
A.1927 MF.3274
Cuối thế kỷ XIX
1 bản viết, 74 trang, kiêng húy chữ Thời
Vân Cát thần nữ Cổ lục 雲葛神女 古錄
AB.352
Khuyết danh Nôm
61.
Đầu thế kỷ XX
1 bản viết, 46 trang
Vân Cát cổ lục diễn âm 雲葛神女 古錄演音
Khoan từng đàm đạo về thơ với Vân Hƣơng tại Hồ Tây (sách có chép những bài thơ xƣớng hoạ giữa hai bên). Sự tích vị nữ thần ở thôn Vân Cát, huyện. Vụ Bản thời Lê Anh Tông: nữ thần tên là Giáng Tiên, lấy một ngƣời họ Đào, sinh đƣợc 1 trai, 1 gái. Năm 21 tuổi, Giáng Tiên chết, sau lại đầu thai lấy một ngƣời thƣ sinh (chính là ngƣời chồng cũ cũng đầu thai). Ngƣời chồng thi đỗ tiến sĩ, làm quan ở Viện hàn lâm. Sau khi mất, Giáng Tiên rất linh thiêng, nhân dân làm đền thờ ở Phố Cát Bản diễn Nôm, thể thơ 7 - 7/6 - 8, sự tích Công Chúa Liễu Hạnh chép trong Vân Cát thần nữ cổ lục. Về sự tích: Xem Vân Cát thần nữ cổ lục A.1927 và Vân cát thần nữ truyện A.2215.
62.
A.2215
Khuyết danh
Truyện Thần nữ Vân Cát (Vân Cát Thần nữ truyện)
Đầu thế kỷ XX
Hán và Nôm
Vân Cát thần nữ truyện 雲 葛 神 女 傳
63.
A.3181
Hán
Đầu thế kỷ XX
Vân Cát Lê Gia Ngọc Phả 雲葛黎 家玉譜
Hƣơng cống Nguyễn Quốc Trinh biên soạn
Gia phả họ Lê ở thôn Vân Cát, xã An Thái, huyện Vụ Bản: Thủy Tổ là Lê Tƣ Vĩnh, con thứ 5 của Lê Bang Cơ (Nhân Tông). Sau khi họ Mạc cƣớp ngôi vua Lê, Tƣ Vĩnh chạy về thôn Vân Cát lấy vợ là Trần Thị Thục, sinh Tƣ Thắng. Thắng sinh ra Giáng Tiên, tức công chúa Liễu Hạnh. Có 3 bài thơ vịnh Liễu Hạnh
1 bản viết, 56 trang. Vân Cát thần nữ truyện (24 trang): xem Vân Cát thần nữ cổ lục A.1927. 1 bản viết, 11 trang, 1 bài chí Ghi là soạn năm Lê Vĩnh Tộ 5 (1623). Sao chéo lại năm Bảo Đại 15 (1940)
THẦN TÍCH
214
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
64.
AE.A15/27
Hán
1 bản viết, 90 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
tỉnh, Nam Định Vụ Bản huyện, Bảo Ngũ tổng các xã thần tích 南 定 省 務 本 縣 保 伍 總 各 社 神 蹟
Thần tích 6 xã thuộc tổng Bảo Ngũ và tổng An Cự 安 巨 , huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. I. Tổng Bảo Ngũ 保 伍: 1. Xã Thái La 綵 羅: 10 trang, gồm sự tích: Đoàn Thƣợng 段 尚 triều Lý; Nguyễn Tuấn 阮 俊 triều Hùng. 2. Xã Bối La 貝 羅: 16 trang, sao năm 1883; về sự tích Phùng Bạo 馮 暴 (Cƣờng Bạo Đại Vƣơng 強 暴 大 王) triều Đinh. 3. Xã Bất Di 不 移: 8 trang, về sự tích Linh Lang Cù Lộ Đại Vƣơng 靈 郎 。 露 大 王 triều Lý. 4. Xã Đắc Lực 得 力: 6 trang, về sự tích Thiên Khai Hộ Quốc Đại Vƣơng 天 開 護 國 大 王. 5. Xã Bảo Ngũ 保 伍: 38 trang, gồm sự tích: Hoàng Xúc 黃 ? (Đệ Nhị Vị Tiên Chúa 第 二 位 仙 主 triều Lê; Hoàng Đức 黃 德 (Đức Ông Thổ Kỳ Bản Đình Linh Ứng Đại Vƣơng 德 翁 土 。 本 亭 靈 應 大 王) triều Trƣng Vƣơng; Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. II. Tổng An Cƣ: 1. Xã Đại Đê 大堤: 10 trang, về sự tích Thiên Khai Hộ Quốc Đại Vƣơng 天 開 護 國 大 王.
65.
AE.A15/3
Hán
1 bản viết, 50 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thần tích ấp Hoành Lộ thuộc tổng Lạc Thiện, huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trƣờng, tỉnh Nam Định, do Nguyễn Hiền sao năm 1735, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主.
66.
tỉnh AE.A5/32
Đầu thế kỷ
Hán
Thần tích xã Quỳnh Ngọc thuộc tổng Quỳnh Ngọc, huyện 1 bản viết, 52
Nam Định tỉnh, Xuân Trƣờng phủ, Giao Thủy huyện, Lạc Thiện tổng, Hoành Lộ ấp thần tích 南 定 省 春 長 府 膠 水 縣 樂 善 總 黃 路 邑神 蹟 Thái Bình
215
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
trang
Niên đại định bản Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, gồm sự tích Nghị Công 毅 公 (Hộ Quốc Cƣơng Nghị Đại Vƣơng 護 國 剛 毅 大 王), thời Lý Cao Tông, do Nguyễn Bính soạn năm 1572; và sự tích Vân Cát Thần Nữ 雲 葛 神 女 (Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主).
Quỳnh Côi huyện Quỳnh Ngọc tổng Quỳnh Ngọc xã thần tích 太 平 省 瓊 魁 縣 瓊 玉 總 瓊 玉 社 神 蹟
67.
AE.A5/61
Hán
1 bản viết, 40 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thái Bình tỉnh Thƣ Trì huyện Cự Lâm tổng các xã Hữu Lộc Cự Lâm Thanh Bản thần tích 太 平 省 舒 池 縣 巨 林 總 各 社 有 祿 巨 林 青 板 神 蹟
68.
AE.B2/3
Hán
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
1 bản viết, 88 trang
Thanh Hóa tỉnh Đông Sơn huyện Quang Chiếu tổng các xã thôn thần tích 清 化 省 東 山 縣 光 照 總 各 社村 神 蹟
Thần tích 3 xã thuộc tổng Cự Lâm, huyện Thƣ Trì, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Hữu Lộc 有 祿: 15 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Bí Công 賁 公 (Tiền Lý Nam Đế Hoàng Đế 前 李 南 帝 皇 帝) và bà Khƣơng Nƣơng 羌 娘 (Linh Nhân Hoàng Thái Hậu 靈 仁 皇 太 后 ) thời Tiền Lý. 2. Xã Cự Lâm 巨 林: 8 trang, sao năm Duy Tân 9 (1915), về sự tích Lam Công 藍 公 (Dũng Lƣợc Lam Quân Thái Bảo Đại Vƣơng 勇 略 藍 君 太 保 大 王 ) thời Đinh Tiên Hoàng. 3. Xã Thanh Bản 青 板 : 12 trang, gồm sự tích Lý Nhân Tông 李 仁 尊 , vua thứ ba của triều Lý; sự tích Trần Thái Tông 陳 太 尊 , vua đầu tiên của triều Trần; và sự tích Vân Cát Thiên Tiên Thánh Mẫu 雲 葛天仙 聖 母 (Liễu Hạnh) thời Lê. Thần tích 4 thôn thuộc xã Quang Chiếu, tổng Quang Chiếu, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 1. Thôn Văn Ba 文 波 , xã Quang Chiếu 光 照: 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Quý Công 貴 公 (Bản Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 本 境 城 隍... 大 王), âm phò giúp Lê Thái Tổ đánh giặc Minh. 2. Thôn Thạch Thất 石 室 , xã Quang Chiếu 光 照: 20 trang, gồm sự tích: Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王: ông họ Cao 高 , tên Hiển 顯 , tự Văn Trƣờng 文 長 , ngƣời Bảo Sơn, quận Quảng Nam, nƣớc Đại Tống , có công đánh dẹp Man di. Khi
216
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
69.
AE.A17/1
Hán
1 bản viết, 70 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
tỉnh Lạng Sơn Cao Lộc châu Trinh Nữ tổng các xã thần tích 諒 山 省 高 祿 州 貞 女 總 各 社 神 蹟
Mất, vua Tống bắt các chƣ hầu lập miếu phụng thờ. Có văn bia viết về Cao Sơn, đề năm Hồng Thuận 2 (1510); Bản Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 本 境 城 隍... 大 王 (không rõ danh tính), do Nguyễn Bính soạn năm 1572. Thần là ngƣời do trời ban xuống ở miếu bản trang, giúp dân yên vật thịnh, phò giúp Lê Lợi đánh quân Minh. 3. Thôn Văn Khê 文 溪, xã Quang Chiếu 光 照: 44 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主: Nữ thần tên là Giáng Hƣơng 降 香 , ngƣời đời Lê Anh Tông, lấy chồng họ Đào 陶 , sinh đƣợc 1 trai, 1 gái. Năm 21 tuổi nàng qua đời, sau đầu thai lấy ngƣời họ Lƣu 劉 (tức ngƣời chồng cũ, cũng đầu thai), sinh thêm 1 gái. Từ đó nàng có nhiều linh ứng, dân lập đền thờ ở phố Cát, huyện Thiên Bản. 4. Thôn Chiếu Trung 照 中, xã Quang Chiếu 光 照: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích: Cao Các 高 閣 , ngƣời Bắc quốc, tỵ loạn sang nƣớc ta, mở trƣờng dạy học ở trang Chiếu Trung. Sau thần về nƣớc và mất tại Bắc quốc. Dân thôn lập đền thờ. Thần đƣợc phong Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王; và Khánh (hoặc Thụy), ngƣời quận Quảng Đông, Bắc quốc, tỵ loạn sang nƣớc ta, trú cƣ tại bản trang. Sau khi mất, có linh ứng, âm phù giúp Lê Lợi đánh quân Minh, đƣợc phong là Bản Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 本 境 城 隍... 大 王. Thần tích 5 xã thuộc các tổng Trinh Nữ, Hoàng Đồng 黃 同 , Mỹ Liệt 美 烈 , Phú Xá 富 舍 , của các châu Cao Lộc, Điềm Hy 恬 熙 , Văn Uyên 文 淵 , tỉnh Lạng Sơn. 1. Xã Trinh Nữ 貞 女 , tổng Trinh Nữ, châu Cao Lộc: 14 trang, ghi sự tích Nội Đạo Tam Quan 內 道 三 官: tiền quan, hữu quan, tả quan.
217
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
70.
Hán
AE.A13/21
1 bản viết, 192 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Nam tỉnh Kim Bảng huyện Thụy Lôi tổng các xã thần tích 河 南 省 金 榜 縣 瑞 雷 總 各 社 神 蹟
2. Xã Chính Lũ 正 屨 tổng Trinh Nữ, châu Cao Lộc: 30 trang, ghi sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. 3. Xã Hoàng Đồng 黃 同 , tổng Hoàng Đồng, châu Cao Lộc: 4 trang, ghi sự tích Xích Long Vƣơng 赤 龍 王. 4. Xã Vân Mộng 雲 夢 , tổng Mỹ Liệt, Châu Điềm Hy: 4 trang, ghi sự tích Đinh Khác Nguyên Đại Vƣơng 丁 恪 元 大 王. 5. Xã Xuân Lũng 春 隴 , tổng Phú Xá 富 舍 , Châu Văn Uyên: 14 trang, gồm sự tích: Diệu Hòa Chế Thắng Đại Vƣơng 妙 和 制 勝 大 王; Quý Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王. Thần tích 6 xã thuộc tổng Thụy Lôi, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Mã Não 瑪 瑙: 67 trang, gồm sự tích Điện Công 殿 公 (Chính Thiện Hiển ứng... Thông Điện Đại Vƣơng 正 善 顯 應... 通 殿 大 王) triều Hán Văn Đế, do Dƣơng (?) Tung soạn năm Hồng Đức 2 (1471), có phần phụ lục về nhà Triệu; và sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. 2. Xã Thụy Sơn 瑞 山: 21 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Nga Công 娥 公 (Nga Sơn Hiển Linh Đại Vƣơng 娥 山 顯 靈 大 王) triều Đinh Tiên Hoàng. 3. Xã Trung Hòa 中 和: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Tiêu Sơn Độc Cƣớc Chu Văn Minh Quỉ Độc Đại Thần 蕉 山 獨 腳 朱 文 明 鬼 。 大 神 triều Lý. 4. Xã Thụy Lôi 瑞 雷: 33 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Tứ vị Thánh Nƣơng là: Hƣơng Liên Quốc Mẫu 香 蓮 國 母; Nguyệt Chiêu Công Chúa 月 昭 公 主 ; Nguyệt Độ Công Chúa 月 度 公 主; Hồng Nƣơng Thị Nữ 鴻 娘 侍 女; và sự tích Tản Viên Quốc Chủ... Thƣợng Đẳng Thần 傘 圓 國 主 ... 上 等 神 ; Cao Sơn Hiển Thánh Đại Vƣơng 高 山 顯 聖 大 王.
218
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
71.
AE.A13/12
Hán
1 bản viết, 93 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Nam tỉnh Duy Tiên huyện Tiên Xá tổng các xã thần tích 河 南 省 維 先 縣先 舍 總 各 社 神 蹟
72.
AE.B2/5
Hán
1 bản viết, 103 trang
Thanh Hóa tỉnh Đông Sơn huyện Quảng Chiếu tổng
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
5. Xã Đinh Xá 丁 舍 : 26 trang, chép năm Cảnh Hƣng 13 (1752), về sự tích Nam thiên tứ Pháp đại thánh: Pháp Vân Thạch Quang Vƣơng Phật 法 雲 石 光 王 佛; Pháp Vũ Thạch Quang Vƣơng Phật 法 雨 石 光 王 佛; Pháp Lôi Thạch Quang Vƣơng Phật 法 雷 石 光 王 佛; Pháp Điện Thạch Quang Vƣơng Phật 法 電 石 光 王 佛 . 6. Xã Phƣơng Khê 芳 溪: 17 trang, ghi về triều Đinh Tiên Hoàng. Thần tích 1 thôn, 4 xã, thuộc tổng Tiên Xá, huyện Dung Tiên, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Bạch Xá 白 舍: 19 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hiển Công 顯 公 (Hƣng Thƣợng Sĩ Quý Minh Đại Vƣơng 興 上 善 士 貴 明 大 王). 2. Xã Yên Bảo 安 保 : 30 trang, chép năm Thành Thái 16 (1904); về sự tích Mạ Vàng Công Chúa 禡 。 公 主. 3. Thôn Thƣợng 上 , xã Yên Bảo 安 保: 33 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Kiến Đức Công 建 德 公 (Hiển Ứng Kiến Hƣng Khuông Quốc Đại Vƣơng 顯 應 建 興 匡 國 大 王); Ân Công 恩 公 (Tế Thế Lã Đông Ân Đại Vƣơng 濟 世 呂 東 恩 大 王); Hồng Nƣơng 紅 娘 (Hồng Nƣơng Hoàng Thái Hậu 紅 娘 皇 太 后 ); Cẩn Nƣơng 謹 娘 (Phƣơng Phi Cẩn Tiết Công Chúa 芳 菲 謹 節 公 主 ). 4. Xã Đồng Bào 同 胞: 5 trang, về sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王). 5. Xã Lục Non 綠 。: 4 trang, chép năm Tự Đức 19 (1866), về sự tích Đông Bảng 東 榜. Thần tích 7 thôn thuộc tổng Quảng Chiếu, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 1. Thôn Vi Giang 圍 江: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm
219
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
thần xã các tích 清 化 省 東 山 縣 廣 照 總 各 社村 神 蹟
1572, về sự tích Nguyệt Nƣơng 月 娘 (Nguyệt Nga Công Chúa Phu Nhân 月 娥 公 主夫 人), con ông họ Nguyễn và bà họ Trần, ngƣời phƣơng Bắc, sang định cƣ ở nƣớc ta, có sắc đẹp, đƣợc Tống Nghệ Tông vời về Bắc quốc, lập làm Cung phi thứ 3. Sau nàng về nƣớc, mất tại bản quán, đƣợc dân lập đền thờ. 2. Thôn Thiều Sơn 韶 山: 10 trang, về sự tích Mang Công 芒 公 (Câu Mang Đại Vƣơng 勾 芒 大 王) công thần thời Hùng Duệ Vƣơng. 3. Thôn Miếu 廟: 26 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thành Công 誠 公 (Trung Thành Đại Vƣơng 忠 誠 大 王 ), công thần thời Hùng Duệ Vƣơng; và Linh Lang 靈 郎 (Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王) công thần thời Lý. 4. Thôn Lộc Giang 祿 江: 10 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hiển Công 顯 公 (Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王), ngƣời Bảo Sơn, quận Quảng Đông, nƣớc Tống. 5. Thôn Trƣờng Tuế 長 歲 : 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm1572, về sự tích Khánh Công 慶 公 và Thụy Công 瑞 公, ngƣời nƣớc Minh, do tỵ loạn nên lánh sang nƣớc ta, định cƣ ở trang Trƣờng Tuế. Sau khi mất, có linh ứng phù giúp Lê Thái Tổ đánh quân Minh, đều đƣợc phong là Bản Cảnh Thành Hoàng Đại Vƣơng 本 境 城 隍 大 王. 6. Thôn Quảng Nạp 廣 納: 9 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王 (không rõ danh tính), do trời ban xuống làm thần linh cho trang Đài Sơn (tên cũ của thôn Quảng Nạp). Thần có linh ứng giúp dân khang vật thịnh, sau âm phò Lê Thái Tổ đánh quân Minh. 7. Thôn Đồng Duệ 同 曳: 50 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主: tên thực là Giáng
220
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
73.
AE.A15/26
Hán
1 bản viết, 72 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, An Cự tổng các xã thần tích 南 定 省 務 本 縣 安 巨 總 各 社 神 蹟
74.
AE.A2/86
Hán
1 bản viết, 150 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Đông tỉnh, Thanh Trì huyện, Vĩnh Ninh tổng các xã thần tích đệ thập sách 河 東 青 池 縣 永 寧 總 各 社 神 蹟 第 十 冊
Hƣơng ngƣời thời Lê Anh Tông, lấy chồng họ Đào 陶 , sinh 1 trai, 1 gái. Năm 21 tuổi, qua đời, đầu thai lấy ngƣời họ Lƣu 劉 (cũng là ngƣời chồng cũ đầu thai), sinh thêm 1 gái. Nàng có tài về thơ phú. Dân lập đền thờ chính ở phố Cát huyện Thiên Bản. Thần tích 4 xã thuộc tổng An Cự, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. 1. Xã Võng Cổ 網 罟: 42 trang, gồm sự tích 3 vị thần Tản Viên thời Hùng Vƣơng: Tản Viên Sơn Thánh 傘 圓 山 聖; Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山大 王; Quý Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王; và Linh Lang Cù Lộ Đại Vƣơng 靈 。 。 。 大 王 triều Lý. 2. Xã Khả Chính 可 政: 10 trang, về sự tích Bạch Hạc Tam Kỳ Giang... Thƣợng Đẳng Đại Vƣơng 白 鶴 三 岐 江... 上 等 大 王. 3. Xã Lƣơng Mỹ 良 美: 26 trang, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. 4. Xã Đồng Lạc 同 樂: 18 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Phùng Bạo 馮 暴 (Cƣờng Bạo Đại Vƣơng 強 暴 大 王) triều Đinh. Thần tích 1 thôn, 3 xã thuộc tổng Vĩnh Ninh, huyện Thanh Trì, Hà Đông. 1. Xã Vĩnh Ninh 永 寧 38 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích: Bạch Xà Nguyên Soái Thần Vƣơng 白 蛇 元 帥 神 王 , Thổ Địa Linh Ứng Thần Vƣơng 土 地 靈 應 神 王 và Tử Nƣơng Trinh Thục... Thần Nữ 紫 娘 貞 淑... 神 女 thời Trƣng Nữ Vƣơng. 2. Xã Đại Áng 大盎: 42 trang, gồm sự tích: Phùng Hƣng 馮 興 (Bố Cái Đại Vƣơng 布 蓋 大 王 ); Phúc thần là Công chúa đời Lý; Tản Viên Sơn Thánh 傘 圓 山 聖 ; Cao Sơn Đại
221
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Vƣơng 高 山 大 王 triều Hùng. Tất cả đều do Nguyễn Bính soạn năm 1572. 3. Thôn Vĩnh Trung 永 中: 28 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Đức Ông Cả Xạ Thần Đại Vƣơng 德 翁 奇 射 神 大 王; Đức Ông Hai Xạ Thần Đại Vƣơng 德 翁 。 射 神 大 王 và Đức Ông Ba Xạ Thần Đại Vƣơng 德 翁 。 射 神 大 王. 4. Xã Vĩnh Thịnh 永 盛: 40 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Xạ Thần Đại Vƣơng 當 境 城 隍 射 神 大 王 (thời Trần); Liễu Hạnh Tiên Băng Công Chúa 柳 杏 仙 冰 公 主.
75.
AE.A14/11
Hán
1 bản viết, 12 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thần tích xã Tiên Lục 仙 籙 thuộc tổng Đào Quan, huyện Phất Lộc, tỉnh Bắc Giang: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王 (Cao Sơn Thần Truyện 高 山 神 傳 ) và Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主 (Vân Cát Thần Nữ 雲 葛 神 女 ).
Bắc Giang tỉnh Lạng Giang phủ Phất Lộc huyện tổng Đào Quan Tiên Lục xã thần tích 北 江 省 諒 江 府 弗 祿 縣 桃 觀 總 仙 錄 社 神 蹟
76.
AE.A2/48
Hán
1 bản viết, 76 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Đông tỉnh, Sơn Lãng huyện, tổng Bạch Sam các thần xã tích 河 東 省 山 郎 縣 白 杉 總 各 社 神 蹟
Thần tích 4 xã thuộc tổng Bạch Sam, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Đông. 1. Xã Thanh Sam 青 杉: 22 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Quảng Uy Vĩ Liệt.... Đại Vƣơng 廣 威 偉 烈 ... 大 王 và Vƣơng Phi Hoàng Hậu Liễu Hạnh Thuần Mỹ Công Chúa 王 妃 皇 后 柳 杏 純 美 公 主. 2. Xã Thành Vật 成 物: 20 trang, do Nguyễn Hiền viết năm 1735, gồm sự tích 5 vị thần triều Hùng: Quý Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王; Thái A Đại Vƣơng 泰 阿 大 王; Phủ Hộ
222
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
77.
AE.A13/29
Hán
1 bản viết, 173 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Thổ Ốc tổng các xã thần tích 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 土 沃 總 各 社 神 蹟
78.
Hán
Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện,
Cuối thế kỷ XIX - đầu
Cuối thế kỷ XIX - đầu
1 bản viết, 142 trang
Đại Vƣơng 撫 護 大 王; Thủy Thần Đại Vƣơng 水 神 大 王 và Liễu Hạnh Chúa Tiên... Đại Vƣơng 柳 杏 主 僊... 大 王. 3. Xã Họa Đống 畫 棟: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Cao Sơn Linh Ứng Đại Vƣơng 高 山 靈 應 大 王 triều Hùng. 4. Xã Yên Trƣờng 安 長 大: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Trƣng Vƣơng: Chiêu Trung Chƣơng Tín... Đại Vƣơng 昭 忠 彰 信... 大 王 và Đỗ Lý Đại Liệu... Đại Vƣơng 杜 哩 大 料... 大 王 Thần tích 3 xã, thuộc tổng Thổ Ốc, huyện Nam Xang, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Thổ Ốc 土 沃: 24 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đoàn Đại Vƣơng 東 海 段 大 王); Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王; và Ngũ Phong Tinh Khiết Phu Nhân 五 峰 精 潔 夫 人 triều Lý. 2. Xã Nhƣ Trác 如 琢: 60 trang, gồm sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主 , Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王, Câu Mang Đại Vƣơng 勾 芒 大 王 triều Hùng, Đền Lý Đại Vƣơng 。 。 。 大 王 triều Lý Thái Tông, Sĩ Công 仕 公 (Vị Sĩ Đại Vƣơng 位 仕 大 王); Lan Nƣơng 蘭 娘 (Hoàng Thái Hậu Lan Nƣơng 皇 太 后 蘭 娘 ); Thủy Tinh Công Chúa 水 晶 公 主 triều Lê; đều do Nguyễn Bính soạn năm 1572. 3. Xã Trần Thƣơng 陳 倉: 87 trang, chép lại vào năm Tự Đức 16 (1863); về sự tích Hƣng Đạo Vƣơng Trần Quốc Tuấn 興 道 王 陳 國 峻. * Có một số thơ văn ca tụng thần. Thần tích 5 xã thuộc tổng Kiên Trung, huyện Hải Hậu, phủ Xuân Trƣờng 春 長 , tỉnh Nam Định.
223
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản thế kỷ XX
thế kỷ XX
Kiên Trung tổng thần tích 南 定 省 海 後 縣堅 忠 總 神 蹟
1. Xã Kiên Trung 堅 忠: 18 trang, gồm sự tích Thục Phán 蜀 泮 (Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王); Hàm Hoằng Quang Đại Vƣơng... Thƣợng Đẳng Thần 含 弘 光 大 王... 上 等 神. 2. Xã Lạc Nam 樂 南: 24 trang, gồm sự tích: Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王; Quý Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王 triều Hùng; Hƣng Đạo Đại Vƣơng 興 道 大 王 triều Trần; Lê Châu 黎 珠 (Thƣợng Trụ Quốc Lê Cảnh Quận Công 上 柱 國 黎 景 郡 公 ) triều Tiền Lê; Trần Xuân Trạch 陳 春 澤 triều Nguyễn; Phạm Bàn 范 盤 triều Nguyễn; Lê Thế Vinh 黎 世 榮 (Minh Nghĩa Đô Úy Chƣ Quân Quản Cơ 明 義 都 尉 諸 軍 管 奇 ). 3. Xã Hà Lạn 霞 爛 : 52 trang, gồm sự tích: Tứ Vị Thánh Nƣơng 四 位 聖 娘 (là Hoàng Hậu, Công Chúa... nhà Tống); Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主; Triệu Việt Vƣơng 趙 越 王 . 4. Xã Hà Nam 霞 南: 16 trang, gồm sự tích: Hoàng Hậu họ Dƣơng nhà Tống 宋 后; Thục Phán 蜀 泮 (văn bản viết là ) (Nam Hải Phạn Đại Vƣơng 南 海 梵 大 王). 5. Xã Trà Trung 茶 中: 30 trang, gồm sự tích: Triệu Quang Phục 趙 光 復 (Triệu Việt Vƣơng 趙 越 王); Hoàng Tử Minh Lang 皇 子 明 郎 (Minh Lang Uy Linh Đại Vƣơng 明 郎 威 靈 大 王) triều Hùng; Linh Lang Vƣơng 靈 郎 王 triều Lý.
79.
AE.A2/96
Hán
1 bản viết, 170 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thần tích 2 xã thuộc tổng Tín Yên, huyện Thƣợng Phúc, phủ Thƣờng Tín, tỉnh Hà Đông. 1. Xã Yên Duyên 安 沿: 40 trang, gồm sự tích Đông Phƣơng Tƣớng Soái... Thành Quốc Công 東 方 將 師... 成 國 公 triều Trƣng Vƣơng và các vị Đại Vƣơng triều Hùng, do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Trung Thành Đại Vƣơng 忠 誠 大 王,
Hà Đông tỉnh, Thƣờng Tín phủ, Thƣợng Phúc huyện, Tín Yên tổng các xã thần tích 河 東 省 常 信
224
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
府 上 福 縣 信 安 總 各 社 神 蹟
80.
AE.A4/37
Hán
1 bản viết, 110 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Ninh Bình tỉnh, Yên Mô huyện, Quảng Phúc tổng các thần xã tích 寧 平 省 安 謨 縣 廣 福 總 各 社 神 蹟
Phù Vận Đại Vƣơng 扶 運 大 王, Ngọ Lang Đại Vƣơng 午 郎 大 王 Đại Thánh Tổ Sƣ 大聖 祖 師 thời nhà Tùy. 2. Xã Đông Duyên 東 沿: 128 trang, gồm sự tích 3 vị thần đời Lê: Thắng Lực Thƣợng Sĩ Đại Vƣơng 勝 力 尚 仕 大 王; Ngô Mãnh Hùng Lƣợc... Đại Vƣơng 吳 猛 雄 略... 大 王 và Linh Thông Khai Đạo... Đại Vƣơng 靈 通 開 道... 大 王; đều do Nguyễn Bính soạn năm 1572; 1 vị Đại Vƣơng triều Hùng: Chàng Ất Uyên Nguyên Linh Ứng Đại Vƣơng 幢 乙 淵 源 靈 應 大 王 và Vân Cát Thần Nữ 雲 葛 神 女. Thần tích 1 giáp, 2 thôn, 2 xã thuộc tổng Quảng Phúc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. 1. Thôn Yên Thái 安 泰 , xã Quảng Phúc 廣 福: 14 trang, gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Anh Vũ Uy Linh Ngọ Vƣơng 英 武 威 靈 午 王; Hiển Ứng Hộ Dân Ngọ Vƣơng 顯 應 護 民 午 王; Phu Cảm Phổ Hóa Ngọ Vƣơng 孚 感 普 化 午 王 , và Phạm Lân 范 麟 triều Lê, Lê Khắc Nghệ Hài 黎 克 詣 諧 triều Lê. 2. Giáp Vân Mộng 雲 夢 , xã Quảng Phúc: 2 trang, về sự tích Nguyễn Phục 阮 復 triều Lê. 3. Thôn Phúc Lại 福 賴 , xã Quảng Phúc: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thƣợng Đẳng Tối Linh Đệ Nhất Triệu Đại Hiển Hựu Hoàng Đế 上 等 最 靈 第 一 趙 代 顯 佑 皇 帝. 4. Xã Khƣơng Dụ 羌 裕: 72 trang, về sự tích Triệu Quang Phục 趙 光 復 (Triệu Vƣơng Hoàng Đế 趙 王 皇 帝); Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主; Duy Tiên Công Chúa 維 仙 公 主; Quế Hoa Công Chúa 桂 花 公 主; Thƣợng Ngạn Lê Mại Đại Vƣơng 上 岸 黎 邁 大 王; Đinh Dung Công Chúa 釘 容 公 主; Xuân Tông Công Chúa 春 宗 公 主; Trƣởng Minh Ngọ Đại
225
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
81.
AE.A15/28
Hán và Nôm
1 bản viết, 222 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, tổng Đồng Đội các xã thần tích 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各 社 神 蹟
Vƣơng 長 明 午 大 王; Thứ Minh Ngọ Công Chúa 次 明 午 公 主; Quý Minh Ngọ Đại Vƣơng 貴 明 午大 王; Huệ Nƣơng Công Chúa 惠 娘 公 主; Tĩnh Nƣơng Công Chúa 靜 娘 公 主 ; Tân Nƣơng Công Chúa 嬪 娘 公 主 . 5. Xã Cổ Đà 古 陀: 4 trang, gồm sự tích Lôi Công Tôn Thần 檑 公 尊 神 (Lâm Lịch Linh Ứng... Đại Vƣơng 林 靂 靈 應... 大 王); Nguyễn Phục 阮 復 (Phổ Thiên Đông Hải Thanh Đế Tôn Thần 普 天 東 海 青 帝 尊 神); Mỹ Liễu Công Chúa 美 柳 公 主 (Hiển Thần Hựu Bảo Dân... Đại Vƣơng 顯 神 佑 保 民... 大 王). Thần tích 2 thôn, 2 xã thuộc tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. 1. Xã Châu Bạc 珠 泊: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Vũ Nghị 武 毅 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Vũ Nghị Đại Vƣơng 當 境 城 隍 武 毅 大 王). 2. Thôn Thƣợng 上 , xã Trang Nghiêm 莊 嚴: 78 trang, gồm sự tích 2 vị thần triều Lý: Lê Dũng 黎 勇 (Dũng Mãnh Uy Linh Hiển Ứng Đại Vƣơng 勇 猛 威 靈 顯 應 大 王), Lê Sĩ 黎 仕 (Thái Thƣợng Thƣợng Sĩ Đại Vƣơng 綵 上 尚 仕 大 王) do Nguyễn Bính soạn năm 1735 (?); 3 vị Đại Vƣơng triều Trƣng Vƣơng do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Đô Thống Đại Vƣơng 都 統 大 王; Chiêu Hiển Đại Vƣơng 昭 顯 大 王; Tam Lang Đại Vƣơng 三 郎 大 王; 3 vị thần triều Hùng do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王; Trung Thành Phổ Tế Đại Vƣơng 忠 誠 普 濟 大 王; Hoàng Tử Câu Mang Đại Vƣơng 皇 子 勾 茫 大 王; và sự tích Cao Lỗ 皋 魯 (Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần Đại Vƣơng 大灘 都 魯 石 神 大 王) thời An Dƣơng Vƣơng.
226
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
82.
AE.A15/8
Hán
1 bản viết, 108 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Nam Định tỉnh, Hải Hậu huyện, Quế Hải tổng các xã thần tích 南 定 省 海 後 縣 桂 海 總 各 社 神 蹟
83.
AE.A16/1
Tuyên Quang tỉnh, Yên Bình
Cuối thế kỷ XIX - đầu
Hán và Nôm
1 bản viết, 13 trang
3. Thôn Hạ 下 , xã Trang Nghiêm: 56 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Trần: Trần Minh Phúc 陳 明 福 (Minh Phúc Đại Vƣơng 明 福 大 王); Trần Hải 陳 海 (Minh Hải Đại Vƣơng 明 海 大 王); 2 vị thần triều Đinh: Đinh Nga 丁 峨 (Nga Sơn Hiển Linh Đại Vƣơng 峨 山 顯 應 大 王); Phạm Hạp 范 盍 (Linh Ứng Đại Vƣơng 靈 應 大 王). 4. Xã Vân Cát 雲 葛: 66 trang, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. Có bài văn chầu thần soạn bằng văn Nôm. Thần tích 5 xã thuộc tổng Quế Hải, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. 1. Xã Thanh Trà 青 茶: gồm sự tích Quế Hoa Công Chúa 桂 花 公 主 triều Trần; Triệu Quang Phục 趙 光 復 (Triệu Việt Vƣơng Hoàng Đế 趙 越 王 皇 帝 ). 2. Xã Trung Phƣơng 中 芳: 50 trang, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. 3. Xã Liên Phú 連 富: 16 trang, gồm sự tích 3 vị thần triều Đinh: Phùng Gia Đại Vƣơng 馮 加 大 王; Đào Hoàng Thái Hậu 陶 皇 太 后; Đại Mộc Đại Vƣơng 大 木 大 王. 4. Xã Trùng Quang 重 光: 16 trang, gồm sự tích Hoàng Hậu nhà Tống, Trần Dũng 陳 踴 (Dũng Dƣợc Thần Long Thành Hoàng Đại Vƣơng 踴 躍 神 龍 城 隍 大 王) triều Hùng. 5. Xã Doanh Châu 瀛 洲: 10 trang, gồm sự tích 2 vị thần triều Trƣng Vƣơng: Nguyễn Cung 阮 恭 (Thiên Thƣợng Linh Ứng Đại Vƣơng 天 上 靈 應 大 王); Nguyễn Lƣơng 阮 良 (Linh Ứng Đại Vƣơng 大 王). Thần tích phố Chử Thị, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang: về sự tích Quế Hoa Công Chúa 桂 花 公 主 (Thiên Tiên Công
227
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản thế kỷ XX
Chúa 天 仙 公 主 ) thời Trƣng Nữ Vƣơng.
phủ, Yên Sơn huyện các xã thần tích 宣 光 省 安 平 府 安 山 縣 褚 市 埔 神 蹟 , tích “Thần phố Chử Thị, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang”
84.
AE.A5/28
Hán
1 bản viết, 99 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thái Bình tỉnh Tiên Hƣng Hƣng Nhân huyện các xã thần tích 太 平 省 先 興 府 興 仁 縣 各 社 神 蹟
Thần tích 5 thôn, 2 xã thuộc tổng Tống Xuyên 宋 川 , huyện Hƣng Nhân, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Tống Xuyên 宋 川: 10 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Bảo Hoa Công Chúa 寶 花 公 主 âm phù Cao Sơn 高 山 (Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王), đánh giặc Chiêm Thành, thời Lý Nhân Tông. 2. Thôn Trình 呈 xã Tống Xuyên: 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Độ Lộ 度 路 (Bản Cảnh Độ Lộ Đại Vƣơng 本 境 都 路 大 王) và Ả Nam 婀 南 (Đƣơng Cảnh Ả Nam Phu Nhân 當 境 婀 南 夫 人) phù giúp Trƣng Trắc đánh Tô Định. 3. Thôn Cao 高 , xã Phúc Hải 福 海: 18 trang, do Nguyễn Hiền sao năm 1737, về sự tích Thánh Mẫu Quế Hoa Công Chúa 桂 花 公 主; cùng 3 vị công thần Quốc Công 國 公 (Hộ Quốc... Đại Vƣơng 護 國... 大 王); Sinh Công 生 公 (Linh Ứng Bảo Sinh... Đại Vƣơng 靈 應 寶 生... 大 王) và Mãnh Công 猛 公 (Dũng Mãnh... Đại Vƣơng 勇 猛... 大 王) thời Hùng Duệ Vƣơng. 4. Thôn Bản 板 , xã Phúc Hải 福 海: 18 trang, gồm sự tích Hoa
228
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
85.
AE.A5/12
Hán
1 bản viết, 140 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thái Bình tỉnh Duyên/Diên Hà huyện các xã thần tích 太 平 省 延 河 縣 各 社 神 蹟
Quận Công 華 郡 公 , họ Trƣơng 張, húy Bạch Ngọc Hoa 白 玉 花 , ngƣời xã Ngọc Tiến, huyện Lƣơng Giang, phủ Thiệu Thiên, có công đánh giặc Nguyên; và sự tích Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 thời Lý (rút từ các tài liệu nhƣ Sử ký, Ngoại truyện, Phả ký...). 5. Thôn Nguyễn 阮 , xã Phúc Tiên 福 仙: 8 trang, sao năm Thiệu Trị (1843), về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. 6. Xã Hà Nguyên 何 元: 17 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Khánh Công 慶 公 (Khánh An Hiển Ứng Đại Vƣơng 慶 安 顯 應 大 王) thời Trƣng Nữ Vƣơng. 7. Thôn Hƣơng Xá 香 舍, xã Khánh Mỹ 慶 美: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王 thời Hùng Duệ Vƣơng. Thần tích 4 thôn, 6 xã thuộc tổng Duyên Hà 延 河 , huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Xuân La 春 羅 : 14 trang, về sự tích Đƣờng Lô 塘 壚 (Cao Sơn Đƣờng Lô Đại Vƣơng 高 山 塘 壚 大 王) và Đá Công 。 公 (Thiên Đá Đại Vƣơng 天 。 大 王) thời Hùng Huy Vƣơng. 2. Xã Lộc Thọ 祿 壽: 18 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Nhân Từ... Hoàng Thái Hậu 仁 慈 皇 太 后 ; An Quốc... Đại Vƣơng 安 國 ... 大 王 ; Tá Quốc... Đại Vƣơng 佐 國... 大 王 và Sát Lĩnh... Đại Vƣơng 察 領... 大 王; Phán Thủ... Đại Vƣơng 判 守... 大 王 thời Đinh. 3. Xã Cổ Trai 古 齋: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Lý Bí 李 賁 thời Tiền Lý và Linh Lang 靈 郎 thời Lý Thái Tông. 4. Thôn Phú Vinh 富 榮: 16 trang, về sự tích Phƣợng Hoàng Công Chúa 鳳 凰 公 主; Đạo Đạo... Đại Vƣơng 大 道... 大
229
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
王 và Đức Đại Vƣơng Thần Tƣớng 德 大 王神 將 thời Lý. 5. Thôn Thọ Phú 壽 富 xã Thọ Bùi 壽 裴: 14 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Kiền Công 虔 公 (Kiền Tế Thế Đại Vƣơng 虔 濟 世 大 王); Đức Công 德 公 (Đức Bác... Đại Vƣơng 德 博... 大 王); Đê Công 低 公 (Lý Lâm Đê... Đại Vƣơng 李 臨 低... 大 王) và Tía Công 紫 公 (Áo Tía... Đại Vƣơng 。 紫... 大 王) thời Tiền Lý. 6. Thôn Bùi Xá 裴 舍 , xã Thọ Bùi 壽 裴: 18 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hoàng Lang 皇 郎 (Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王); Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王) và Sùng Công 崇 公 (Đông Bắc Đại Vƣơng 東 北 大 王) thời Lý. 7. Xã Thanh Lãng 青 朗: 14 trang, do Nguyễn Hiền chép lại, về sự tích Hùng Công 雄 公 (Dũng Dƣợc... Đại Vƣơng 踴 躍... 大 王) và Ngọc Nƣơng 玉 娘 (Bà Ngọc Nƣơng Công Chúa 婆 玉 娘 公 主 ), thời Trƣng Nữ Vƣơng; Đức Thiên Quan Bến Đò Đại Vƣơng 德 天 官 。 渡 大 王. 8. Thôn Lãng 朗 , xã Duyên Lãng 延 朗: 10 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Lục Tục 陸 續 (Hồng Bàng Linh Thánh Đại Vƣơng 鴻 。 靈 聖 大 王) thời Hồng Bàng. 9. Xã Thƣởng Duyên 賞 延: 10 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thục An Dƣơng Vƣơng 蜀 安 陽 王 Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王); Phúc Công 福 公 (Bút Tải Đại Vƣơng 筆 載 大 王); Đề Công 。 公 (Đề Lại Công Thành Hoàng 。 吏 公 城 隍 ) và Linh Công 靈 公 (Linh Lại... Thành Hoàng 靈 賴... 城 隍 ), Đức Bà Đại Vƣơng 德 婆 大 王 thời Thục An Dƣơng Vƣơng. 10. Xã Long Nãi 隆 乃: 20 trang, gồm sự tích Cát Công 吉
230
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
86.
AE.A5/36
Hán
1 bản viết, 42 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thái Bình tỉnh Thái Ninh phủ Thanh Quan huyện Cát Đàm tổng các xã thần tích 太 平 省 太 寧 府 青 關 縣 葛 覃 總 各 社 神 蹟
柳
主
公
杏
87.
AE.A5/58
Hán
1 bản viết, 18 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thái Bình tỉnh Thƣ Trì huyện An Lão Tổng các xã Kiến Xá An Lão thần tích 太 平 省 舒 池 縣 安 老 總 各 社 建 舍 安 老 神 蹟
公 (Hƣng Cát Đại Vƣơng 興 吉 大 王); Hoàn Công 丸 公 (Mộc Hoàn Đại Vƣơng 木 丸 大 王); Lang Công 榔 公 (Lang Công Đại Vƣơng 榔 公 大 王); Lang Đƣờng 榔 堂 (Lang Đƣờng Đại Vƣơng 榔 堂 大 王) thời Hùng Duệ Vƣơng; và Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主 thời Lê. Thần tích 2 xã thuộc tổng Cát Đàm, huyện Thanh Quan, phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Vĩnh Quan 榮 關 , xã Hƣng Quan 興 關 và Trƣờng Quan 長 關: 14 trang, do Nguyễn Hiền sao năm 1736, về sự tích Thủy Thần Mang Công 芒 公 (Thiên Quan Hiển Ứng Tôn Thần 天 官 顯 應 尊 神) thời Hùng Duệ Vƣơng; Thanh Tĩnh Tam Quang... Đại Vƣơng 清 淨 三 光... 大 王. 2. Xã Phƣơng Cúc 芳 菊: 28 trang, gồm sự tích Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần Quốc Tuấn 興 道 大 王 陳 國 俊 và Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. Thần tích 2 xã thuộc tổng An Lão, huyện Thƣ Trì, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Kiến Xá 建 舍: 8 trang, do Lê Quảng Đức soạn năm 1479, gồm sự tích Gia Thục Công Chúa 嘉 淑 公 主 , húy Thanh Diệu 清 耀 , ngƣời đời Lê Quang Thuận, có đức hạnh, khi mất đƣợc dân lập đền thờ; và sự tích Liễu Hạnh Công . Chúa 2. Xã An Lão 安 老﹕10 trang, gồm sự tích Thánh Mẫu Quang Thục Hoàng Thái Hậu 圣 母 光 淑 皇 太 后 , ngƣời xã Đông Bàng, huyện An Định, tỉnh Thanh Hóa, đƣợc Lê Thái Tông tuyển làm Cung phi, sinh Lê Tƣ Thành (Lê Thánh Tông) khi mất dân xã đúc tƣợng thờ; sự tích Gia Thục Thái Trƣởng Công Chúa 嘉 淑 泰 長 公 主 , húy Thanh Bảo 清 寶 , ngƣời đời Lê, có đức hạnh, đƣợc dân lập đền thờ; và sự tích Thục An Dƣơng
231
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
88.
AE.A5/30
Hán
1 bản viết, 256 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thái Bình tỉnh Quỳnh Côi huyện Đồng Trực tổng thần xã các tích 太 平 省 瓊 魁 縣 同 直 總 各 社 神 蹟
Vƣơng 蜀 安 陽 王 (Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王) Thần tích 12 xã, thuộc tổng Đồng Trực, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Đồng Trực 同 直: 12 trang, Nguyễn Hiền sao năm 1737, về sự tích Đào Thị Phú 陶 侍 富 (Diệu Phú Đại Vƣơng 妙 富 大 王), thời Trƣng Nữ Vƣơng. 2. Xã An Trực 安 直: 16 trang, về sự tích Thống Công 統 公 (Đức Thánh... Đại Vƣơng 德 聖... 大 王) và Phái Công 派 公 (Phụng Thiên... Đại Vƣơng 奉 天... 大 王) thời Hùng Duệ Vƣơng. 3. Xã Thƣợng Phán 上 泮: 24 trang, gồm sự tích Thiên Bồng 天 蓬 (Thiên Bồng Đại Vƣơng 天 蓬 大 王) thời Lý; và sự tích Minh Công 明 公 (Phò Mã Tả Quan Đại Vƣơng 。 馬 左 官 大 王) cùng Công Chúa triều Trần (không rõ tên) (Đức Chủ Trần Triều Đại Vƣơng 德 主 陳 朝 大 王), do Nguyễn Bính soạn năm 1572. 4. Xã Hạ Phán 下 泮: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Trần Hậu Nƣơng 陳 后 娘 (Thánh Hậu Tiền Triều Thế Gia Công Chúa 聖 后 前 朝 世 家 公 主 ) thời Trƣng Nữ Vƣơng. 5. Xã Cần Phán 芹 泮: 22 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Đông Thiên 東 天 (Đông Thiên... Đại Vƣơng 東 天... 大 王); Thái Thƣợng 太 上 (Thái Thƣợng... Đại Vƣơng 太 上 ... 大 王 ); Sùng Công 崇 公 (Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王) và Đào Lang 陶 榔 (Đào Lang... Đại Vƣơng 陶 榔 ... 大 王 ) thời Hùng Duệ Vƣơng. 6. Xã Đông Châu 東 洲: 1 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Tuyên Minh 宣 明 (Thiên Khai Tuyên Minh Đại Vƣơng 天 開 宣 明 大 王 ) thời Hùng Duệ Vƣơng.
232
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
trang, về sự
89.
AE.A7/12
Hán
1 bản viết, 90 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Bắn Ninh tỉnh Gia Lâm huyện các xã thần tích 北 寧 省
7. Xã Đông Quynh 東 扃: 52 trang, gồm sự tích Trinh Công 貞 公 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王) và Không Lộ Đại Thánh 空 路 大 聖 , do Nguyễn Bính soạn năm 1572; và sự tích Vân Cát Thần Nữ (Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主). 8. Xã Nguyên Xá 阮 舍: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Minh Công 明 公 (Đức Vua Anh Triết... Đại Vƣơng 德 。 英 哲... 大 王) và Hùng Công 雄 公 (Đức Vua Thông Duệ... Đại Vƣơng 德 。 通 睿... 大 王) thời Trƣng Nữ Vƣơng. 9. Xã Nghi Phú 儀 富: 10 trang, về sự tích 2 vị thủy thần là Đức Vua Cả 德 。 奇 và Đức Vua Hai 德 。 。 thời Hùng Duệ Vƣơng. 10. Xã Hy Hà 熙 河: 18 trang, về sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王 ); Trân Công 珍 公 (Thiên Trân... Đại Vƣơng 天 珍... 大 王); Nghị Công 毅 公 (Thông Nghị... Đại Vƣơng 通 毅... 大 王) và Cơ Công 機 公 (Thông Thiên... Đại Vƣơng 通 天... 大 王) thời Lý. 11. Xã Trƣợng Đỗ 杖 杜: 32 trang, gồm sự tích Thủy Thần Phúc Công 福 公 (Phúc Giang Đại Vƣơng 福 江 大 王), thời Hùng Huy Vƣơng; và sự tích Trữ Công 貯 公 (Thiên Đế Dịch Trữ Tối Linh Đại Vƣơng 天 帝 驛 貯 最 靈 大 王) thời Kinh Dƣơng Vƣơng. 12. Xã Hạ Đồng 下 同 : 17 tích Kỳ Công 棋 公 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Cửa Ải Đại Vƣơng 當 境 城 隍。 隘 大 王) thời Hùng Duệ Vƣơng. Thần tích 5 xã thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh 1. Xã Đông Dƣ 東 畬: 4 trang, gồm sự tích Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 , con Lý Thái Tông; Cao Sơn Đại
233
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
嘉 林 縣 各 社 神 蹟
90.
AE.A3/5
Hán
1 bản viết
Vƣơng 高 山 大 王 , ngƣời Bảo Sơn, nƣớc Đại Minh, có linh ứng, đƣợc các nƣớc chƣ hầu của nhà Minh phụng thờ; và Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主 , ngƣời đời Lê. 2. Xã Kim Quan 金 關: 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần có linh ứng (không rõ danh tính và công trạng) thời Đƣờng Ý Tông; và sự tích Thạch Việt Nguyễn Tôn thần 石 越 阮 尊 神 thời Lý Cao Tông. 3. Xã Xuân Quan 春 關: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Sùng Công 崇 公 (Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王 ) thời Hùng Duệ Vƣơng; và sự tích Uy Công 威 公 , Vũ Công 武 公 thời Lý Thánh Tông. 4. Xã Đa Tốn 多 遜: 3 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đô Công 都 公 (Đô Thống Đại Vƣơng 都 統 大 王 ), Hiển Công 顯 公 (Chiêu Hiển Đại Vƣơng 昭 顯 大 王 ), Lang Công 郎 公 (Tam Lang Đại Vƣơng 三 郎 大 王 ) thời Trƣng Nữ Vƣơng; và sự tích Không Thuyền Công 空 船 公 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王), Nam Công 南 公 (Nam Đô Đại Vƣơng 南 都 大 王 ), Triền Công 廛 公 (Khúc Triền Đại Vƣơng 曲 纏 大 王 ), Hàn Công 寒 公 (Chính Hàn Đại Vƣơng 正 翰 大 王 ) thời Hùng Duệ Vƣơng. 5. Xã Kiêu Kỵ 驍 騎 : 24 trang, về sự tích Nguyễn Chế Nghĩa 阮 制 義 (Nhập Nội Hành Khiển... Đại Vƣơng 入 內 行 譴 ... 大 王 ) Sùng Phúc 崇 福 (Hoàng Thái Tử Phối Đại Vƣơng 皇 太 子 配 大 王) và Nguyệt Hoa Công Chúa 月 花 公 主 đời Trần. Thần thích 13 xã thuộc 3 huyện của phủ Khoái Châu, tỉnh Hƣng Yên. I. Huyện Đông An:
Hƣng Yên tỉnh Khoái Châu phủ Đông An Huyện
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
234
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Kim Động huyện Phù Cừ huyện các xã thần tích 興 安 省 快 卅 府 東 安 縣 金 洞 縣 芙 渠 縣 各社 神 蹟
1. Xã Duyên Linh: 32 trang, gồm sự tích 2 vị thần đời Lê, do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Hùng Dũng Mƣu Lƣợc... Khoan Nghị Đại Vƣơng 雄 勇 謀 略... 寬 毅 大 王; Quận Phu Nhân... Phi Nƣơng 郡 夫 人... 妃 娘; và 1 vị thần thời Trần, ghi năm 1706: Đệ Nhất Âm Cung Ngọc Nữ... Thủy Tinh Công Chúa 第 一 陰 宮 玉 女... 水 晶 公 主. 2. Xã Xuân Quan 椿 關: 6 trang, soạn năm 1572, về sự tích Thuận Thánh Bảo Từ Thái Thƣợng Hoàng Hậu 順 聖 保 慈 太 上 皇 后 (vợ của Trần Anh Tông). 3. Xã Trƣơng Xá 張 舍: 16 trang, chép năm 1696, gồm sự tích 3 vị thần triều Lý: Đông Hải Đoàn Đại Vƣơng 東 海 段 大 王; Câu Mang Minh Triết Đoàn Đại Vƣơng 勾 茫 明 哲 段 大 王; Sùng Chân Thông Duệ Đoàn Đại Vƣơng 崇 真 聰 睿 段 大 王. 4. Xã Đa Hòa 多 禾: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Chử Công Đồng Tử Thƣợng Đẳng Đại Vƣơng 褚 公 童 子 上 等 大 王; Tiên Dung Công Chúa Thƣợng Đẳng Thiên Tiên 仙 容 公 主 上 等 天 仙; Nội Trạch Tây Cung Công Chúa 內 澤 西 宮 公 主. 5. Xã Thuần Lễ 純 禮: 10 trang, sao năm 1740, về sự tích Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 triều Lý. 6. Xã Phú Trạch 富 澤: 6 trang, sao năm 1783, gồm sự tích: Lê Bí 黎 秘 (Đế Quân Linh Thông Cảm Ứng Đại Vƣơng 帝 君 靈 聰 感 應 大 王) triều Lý; Thuấn Hoa Công Chúa 舜 花 公 主 ; Triều Hoa Công Chúa 朝 花 公 主. 7. Xã Nhạn Tháp 雁 塔: 2 trang, sao năm 1794, về sự tích Thái Úy Sơn Quốc Công 太 尉 山 國 公 (Trung Mẫn Hiển Ứng Đại Vƣơng 忠 敏 顯 應 大 王). 8. Xã Yên Vỹ 安 偉: 10 trang, sự tích Trần Công Xán 陳 公
235
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
91.
AE.A13/25
Hán
1 bản viết, 105 trang
Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Công
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
粲 triều Lê. * Có bài văn bia lập ngày tháng Giêng năm Cảnh Thịnh 2 (1794). 9. Xã Cốc Phong 穀 豐: 6 trang, về sự tích Trâu Canh Tổng Thống Quân Vụ Đại Thần 鄒 庚 總 統 軍 務 大 臣 triều Tiền Lý. II. Huyện Kim Động 金 洞: 1. Xã Phƣợng Lâu 鳳 樓: 34 trang, sao năm 1705, gồm sự tích 5 vị Đại Vƣơng triều Hùng: Dực Thánh Đại Vƣơng 翼 聖 大 王 , Hoằng Tổ Đại Vƣơng 弘 祖 大 王 , Trung Thành Đại Vƣơng 忠 誠 大 王, Linh Uyên Đại Vƣơng 靈 淵 大 王, Quý Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王. III. Huyện Phù Cừ: 1. Xã La Tiến 羅 進: 42 trang, gồm sự tích Thiên Khai Đại Vƣơng 天 開 大 王 (Linh Ứng Hộ Quốc... Thƣợng Đẳng Phúc Thần 靈 應 護 國... 上 等 福 神 triều Hùng, do Nguyễn Bính soạn năm 1572; và 3 vị thần triều Lý, chép năm 1629: Đại Bàng Nguyên Soái Linh Lang Đại Vƣơng 大 旁 元 帥 靈 郎 大 王; Đinh Thống 丁 統 (Đô Thống Đại Vƣơng 都 統 大 王); Đinh Minh 丁 明 (Hiến Minh Đại Vƣơng 獻 明 大 王). 2. Xã Phan Xá 潘 舍: 8 trang, sao năm 1741, về sự tích Bảng nhãn Nguyễn Thái Bạt 阮 太 拔 (Thái Bạt Linh Ứng Đại Vƣơng 太 拔 靈 應 大 王). 3. Xã Trúc Giản 竹 簡: 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Cao Đô Nha Đại Vƣơng 高 都 衙 大 王 triều Hùng. Thần tích 5 xã thuộc tổng Công Xá, huyện Nam Xƣơng, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Mạc Thƣợng 幕 上: 32 trang, do Nguyễn Bính soạn năm
236
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Xá tổng các xã thần tích 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 公 舍 總 各 社 神 蹟
1572, gồm sự tích Đông Bảng Phổ Tế Đại Vƣơng 東 榜 普 濟 大 王; Tây Hải Quảng Tế Đại Vƣơng 西 海 廣 濟 大 王, triều Trần; và sự tích Thủy Tinh Công Chúa 水 晶 公 主. 2. Xã Vĩnh Trụ 永 柱: 8 trang, do Nguyễn Hiền sao năm Vĩnh Hựu 10 (1744), gồm sự tích: Bảng Công 榜 公 (Bảng Công Đại Vƣơng 榜 公 大 王); Cát Công 吉 公 (Minh Cát Đại Vƣơng 明 吉 大 王) và Vũ Khang Công 武 康 公 (Ngũ Lôi Đại Vƣơng 五 雷 大 王) và Vũ Tuấn Công 武 俊 公 (Linh Ứng Đại Vƣơng 靈 應 大 王). 3. Xã Dũng Kim 湧 金: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đức Vua Linh Lang Đại Vƣơng 德 。 靈 郎 大 王; Đức Vua Đại Quốc Thần Chính Tâm Cƣ Sĩ... Đại Vƣơng 德 。 大 國 神 正 心 居 士... 大 王; và Hiếu Túc Uy Vũ... Đại Vƣơng 孝 肅 威 武... 大 王 triều Hùng Vƣơng. 4. Xã Hội Động 會 洞: 25 trang, gồm sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王 ); Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王; Đông Phƣơng Đại Vƣơng 東 方 大 王; Đông Bảng Đại Vƣơng 東 榜 大 王; Thiên Quan Cửa Chùa Đại Vƣơng 天 官 。 廚 大 王; Thiên Quan Đầu Cầu Đại Vƣơng 天 官 頭 梂 大 王, triều Lý. 5. Xã Mạc Hạ 幕 下: 22 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Tứ Vị Hồng Nƣơng Phu Nhân 四 位 洪 娘 夫 人.
92.
AE.A13/28
Hán
1 bản viết, 36 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thần tích xã Đồng Bàn, tổng Thổ Ốc, huyện Nam Xang, tỉnh Hà Nam, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王; Thiên Quan Viên Quán Đại Vƣơng 天 官 園 館 大 王; Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主 ; Quế Anh Phu Nhân 桂 英 夫 人; và Lự Nƣơng Tôn Thần 濾 娘 尊 神 triều Lý.
Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Thổ tổng Đồng Ốc Bàn thần xã tích 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 土
237
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
沃 總 銅 盤 社神 蹟
93.
AE.B2/7
Hán
1 bản viết, 85 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thanh Hóa tỉnh Thiệu Hóa phủ Đông Sơn huyện Tuyên Hóa tổng các xã thần tích 清 化 省 東 山 縣 宣 化 總 各 社神 蹟
Thần tích 5 thôn 2 xã thuộc tổng Tuyên Hóa, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 1. Xã Mai Xuyên 枚 川: 10 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Dĩnh Công 穎 公 (Bản Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 本 境 城 隍... 大 王) công thần thời Lê. 2. Thôn Liệu 料 , xã Y Xá 伊 舍: 4 trang, gồm 2 bản kê khai đề năm Minh Mệnh (1840), về việc thôn này chƣa có thần tích. 3. Xã Tuyên Hóa 宣 化: 19 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Mang Công 芒 公 (Trung Thành Đại Vƣơng 忠 誠 大 王), công thần thời Hùng Duệ Vƣơng và Linh Lang 靈 郎 (Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 ) công thần thời Lý. 4. Thôn Xuân Lƣu 春 留 , xã Phúc Khê 福 溪 : 14 t.r, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Nguyệt Nƣơng 月 娘 (Nguyệt Nga Công Chúa Phu Nhân 月 娥 公 主 夫 人), gốc ngƣời phƣơng Bắc, sang định cƣ ở nƣớc ta, đƣợc Tống Nghệ Tông vời về Bắc quốc, lập làm Cung phi thứ 3. Sau nàng về nƣớc, mất tại bản quán, đƣợc dân lập đền thờ. 5. Thôn Nhuệ Thâm (Sâm) 銳 琛, xã Phúc Khê 福 溪: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích: Văn Lƣơng 文 良 (Chu Lƣơng Tế Thế... Đại Vƣơng 周 良 濟 世... 大 王) công thần thời Trần Thái Tông; Uy Công 威 公 (Bản Cảnh Thành Hoàng Uy Linh... Đại Vƣơng 本 境 城 隍 威 靈... 大 王) và Thành Công 成 公 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Chàng Út... Đại Vƣơng 當 境 城 隍 。 。... 大 王), đều là công thần thời Lý. 6. Thôn Cáo 告 xã Phúc Khê 福 溪: 6 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thƣợng Ngàn Công Chúa 上 岸 公
238
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
94.
AE.A13/23
Hán
1 bản viết, 67 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Nam tỉnh Lý Nhân phủ Nam Xang huyện Cao Đà tổng các xã thần tích 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 高 陀 總 各 社 神 蹟
主 , từng âm phò Lê Thái Tổ đánh quân Minh. 7. Thôn Phúc Hậu 福 厚 , xã Phúc Khê 福 溪: 16 trang, gồm bài Cao Sơn Đại Vƣơng thần từ bi minh tịnh tự, soạn năm Hồng Thuận (1510) và 1 bản ngọc phả, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, đều viết về Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王, có công giúp nƣớc, giúp dân. Thần tích 4 xã thuộc tổng Cao Đà, huyện Nam Xang, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Đông Trụ 東 柱: 26 trang, do Nguyễn Bính soạn, sao lại vào năm Vĩnh Hựu 3 (1737), gồm sự tích Dũng Nhiên Đại Vƣơng 勇 燃 大 王; Sát Nhiên Đại Vƣơng 察 燃 大 王; Siêu Nhiên Đại Vƣơng 超 燃 大 王; Lợi Nhiên Đại Vƣơng 利 燃 大 王; và Nhƣợc Nhiên Đại Vƣơng 若 燃 大 王. 2. Xã Cao Đà 高 陀: 20 trang, gồm sự tích Nam Hải Thƣợng Đẳng Thánh Vƣơng Tối Linh Hoàng Đế 南 海 上 等 聖 王 最 靈 皇 帝; Hổ Mang Tế Quốc Đại Vƣơng 虎 茫 濟 國 大 王; Du Dƣợc Tá Quốc Đại Vƣơng 油 藥 佐 國 大 王; Phổ Tế Dực Vận Đại Vƣơng 普 濟 翊 運 大 王; Thánh Mẫu Thuần Mỹ Đoan Trang Công Chúa 聖 母 純 美 端 莊 公 主 triều An Dƣơng Vƣơng và sự tích Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 triều Đinh. 3. Xã Đà Xuyên 陀 川: 9 trang, soạn năm Cảnh Trị 8 (1670), về sự tích Mạ Vàng Công Chúa 禡 。 公 主. 4. Xã Đại Hoàng 大黃: 10 trang, do Nguyễn Bính soạn, sao lại vào năm Vĩnh Hựu 4 (1738), gồm sự tích Mỹ Đạo Đại Vƣơng 美 帽 大 王; Chàng Hộ Tấu Đại Vƣơng 撞 護 奏 大 王; và Quận Chúa Phu Nhân Đại Vƣơng 郡 主 夫 人 大 王 triều Trƣng Nữ Vƣơng. Thần tích 2 thôn, 2 xã thuộc tổng Bách Liên, huyện Yên Mô, 1 bản viết, 132
95.
Ninh Bình
tỉnh AE.A4/33
Cuối thế kỷ
239
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
trang
Niên đại định bản XIX - đầu thế kỷ XX
Yên Mô huyện Bạch Liên tổng các xã thôn thần tích 寧 平 省 安 謨 縣 白 蓮 總 各 社 村 神 蹟
bằng
chầu
thần
văn
bài
96.
AE.A15/32
1 bản viết, 168 trang
Hán và Nôm
Đ Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Phú Lão tổng các xã thôn thần tích 南 定 省 務 本 縣 富 老 總 各 社 村 神 蹟
tỉnh Ninh Bình. 1. Thôn Tiên Dƣơng 先 揚 xã Bạch Liên 白 蓮: 36 trang, gồm sự tích 4 vị thần triều Hùng, do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Trƣởng Minh Ngọ Đại Vƣơng 長 明 午 大 王; Thứ Minh Ngọ Đại Vƣơng 次 明 午 大 王; Quý Minh Ngọ Đại Vƣơng 貴 明 午 大 王; Trung Đẳng Lý Ngƣ Đại Thần 中 等 鯉 魚 大 神 , và sự tích Trần Khát Chân 陳 渴 真 triều Trần. 2. Xã Trƣờng Khê 長 溪: 30 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Hùng: Nguyễn Hổ Sùng 阮 虎 崇 (Cao Sơn Mãnh Hổ... Thƣợng Đẳng Thần 高 山 猛 虎... 上 等 神 ); Bạch Diện Sơn Tinh Tinh Khiết Phu Nhân 白 面 山 精 精 潔 夫 人. 3. Thôn La Phù 羅 浮 , xã Bồ Xuyên 蒲 川: 14 trang, gồm sự tích Trần Giản Định Hoàng Đế 陳 簡 定 皇 帝, soạn năm 1478; Tạ Nghĩa 謝 義 triều Lê. 4. Xã Mã Tiên 馬 鞭: 50 trang, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主 (Thiên Tiên Thánh Mẫu 天 仙 聖 母 ). Thần tích 5 thôn, 1 xã thuộc tổng Phú Lão, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. 1. Thôn Phú Cốc 富 穀: 60 trang, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. chữ Nôm. * Có 2. Thôn Bích Phu 甓 敷: 14 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Câu Mang Đại Vƣơng 勾 芒 大 王 triều Hùng. 3. Thôn Phú Lão 富 老 xã Hành Nhân 行 仁: 52 trang, gồm sự tích: Nữ Hoa Nƣơng Công Chúa 女 花 娘 公 主 Quế Hoa Nƣơng Công Chúa 桂 花 娘 公 主 triều Trƣng Vƣơng, do Nguyễn Bính soạn năm 1572; Tản Viên Sơn Thánh 傘 圓 山 聖 triều Hùng, Nguyễn Hiền sao năm 1736; Linh Lang Cù Lộ
240
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Đại Vƣơng 靈 。 。 露 大 王 triều Lý. 4. Xã Bàn Kết 盤 結: 10 trang, về sự tích Lang Lang Cù Lộ Đại Vƣơng 靈 。 。露 大 王 triều Lý. 5. Thôn Phú 富: 10 trang, về sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚 triều Lý. 6. Thôn Duyên, Duyên Trƣờng 延 長: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích 2 vị thần triều Hùng: Diêm La Đại Vƣơng 閻 羅 大 王, Tề Thiên Đại Vƣơng 齊 天 大 王.
97.
AE.B1/11
Hán
1 bản viết, 47 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thần tích xã Ƣớc Lễ thuộc tổng Thông Lãng, phủ Hƣng Nguyên, tỉnh Nghệ An: 47 trang, gồm sự tích Cao Hiển 高 顯 (Cao Các Đại Vƣơng 高 閣 大 王); Phật Đƣờng Cƣơng Khấu Linh Ứng Hách Trạc Tôn Thần 佛 堂 剛 叩 靈 應 赫 濯 尊 神; và Liễu Hạnh Công Chúa Ngọc Phả 柳 杏 公 主玉 譜.
Nghệ An tỉnh Hƣng Nguyên phủ Thông Lãng tổng Ƣớc Lễ xã thần tích 乂 安 省 興 元 府 通 朗 總 約 禮 社 神 蹟
98.
AE.A11/6
Hán
1 bản viết, 196 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Phúc Yên tỉnh Yên Lãng phủ Bạch Trữ tổng các xã thần tích 福 安 省 安 郎 府 白 宁 總 各 社 神 蹟
Thần tích 5 xã thuộc tổng Bạch Trữ, phủ Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên. 1. Xã Tháp Miếu 塔 廟: 53 trang, gồm sự tích Cao Biền 高 駢 (An Nam Đô Hộ Đƣờng Cao Vƣơng Đại Vƣơng 安 南 都 護 唐 高 王 大 王); Đô Đài Minh Tự Công Đại Vƣơng 都 薹 明 字 公 大 王, Ngọc Thanh Hoàng Hậu Chính Cung Tôn Thần 玉 清 皇 后 正 宮 尊 神, Huệ Nƣơng Cung Phi Phu Nhân Tôn Thần 惠 娘 宮 妃 夫 人 尊 神, soạn năm Hồng Phúc 1 (1572); Thái Trƣởng Hƣơng Nƣơng Công Chúa 太 長 興 娘 公 主 triều Trần, sao lại năm Tự Đức 21 (1868). 2. Xã Thịnh Kỷ 盛 紀: 76 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Hối Công 晦 公 (Đông Hối Đại Vƣơng 東 晦 大 王); Vũ Đống Thần Vƣơng 武 棟 神 王 triều Hùng Vƣơng; và Nƣơng Tử 娘 子 (Nƣơng Tử Công Chúa 娘 子 公 主 ); Tam
241
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
99.
AE.B2/18
Hán
1 bản viết, 75 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
tỉnh Thanh Hóa Đông Sơn huyện Thọ Hạc tổng các thần thôn xã tích 清 化 省 東 山 縣 壽 鶴 總 各 社村 神 蹟
Giang Đại Vƣơng 三 江 大 王 (Trƣơng Hống 張 吼 , Trƣơng Hát 張 喝 ); Đông Tây Nam Bắc Tứ Bộ Nhự Tuy Chi Thần 東 西 南 北 四 部 茹 綏 之 神 triều Lý. 3. Xã Bạch Trữ 白 苧: 28 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Thiên Tiên 天 僊 (Thái Hậu Quốc Chính Thiên Tiên Công Chúa 太 后 國 正 天 僊 公 主 ); và Cống Sơn Đại Vƣơng 貢 山 大 王 triều Trƣng Nữ Vƣơng. 4. Xã Đạm Nội 淡 內: 30 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hựu Công 祐 公 (Hựu Thiện Tối Linh Đại Vƣơng 祐 善 最 靈 大 王). 5. Xã Đạm Xuyên 淡 川: 7 trang, gồm sự tích Cao Bi Hùng Vƣơng Đại Thánh 高 碑 雄 王 大 聖; Thủy Tinh Thần Nữ Công Chúa 水 晶 神 女 公 主; và Dƣơng Uy Phấn Vũ Đại Vƣơng 揚 威 奮 武 公 主. Thần tích 4 thôn, 2 xã thuộc tổng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 1. Thôn Đông Sơn 東 山: 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Uy Công 威 公 (Bản Cảnh Thành Hoàng Uy Linh... Đại Vƣơng 本 境 城 隍 威 靈... 大 王) và Chàng Út... (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Chàng Út... Đại Vƣơng 當 境 城 隍。 。... 大 王), đều là công thần thời Lý. 2. Xã Nam Ngạn 南 岸: 9 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về Văn Lƣơng 文 良 (Chu Lƣơng Tế Thế... Đại Vƣơng 周 良 濟 世... 大 王) công thần thời Trần Thái Tông. 3. Thôn Hạc Song 鶴 窗: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Nguyệt Nƣơng 月 娘 (Nguyệt Nƣơng Công Chúa Phu Nhân 月 娘 公 主夫 人), ngƣời phủ Kiến Xƣơng, đạo Sơn Nam, có sắc đẹp, từng đƣợc vua Tống lập làm Cung
242
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
lập
nơi
đền
nhiều
100.
AE.A15/9
Hán
1 bản viết, 100 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Nam Định tỉnh Hải Hậu huyện Tân Khai tổng các xã thần tích 南 定 省 海 後 縣 新 開 總 各 社 神 蹟
phi thứ 3. Do có công đức với dân, sau khi mất (tại nƣớc ta), bà đƣợc thờ. 4. Thôn Định Hòa 定 和: 14 trang, về: Kiều Lộ 橋 路 , vị thần do trời ban xuống, có linh ứng, dân cầu nguyện đều đƣợc nhƣ ý; Thƣợng Ngàn Công Chúa 上 岸 公 主 , từng âm phù Lê Thái Tổ đánh quân Minh; Trang Quốc Công 莊 國 公 họ Đỗ 杜 , húy Thành 誠 , ngƣời xã Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, công thần thời Lê sơ, từng giúp Lê Lợi đánh quân Minh, đƣợc ban quốc tính, sau khi mất, đƣợc dân lập đền thờ; Từ Thiện Phu Nhân 慈 善 夫 人: họ Nguyễn 阮 , húy Hà 河, ngƣời thôn Định Hòa, Phu Nhân của Trang Quốc Công; và Trinh Liệt Phu Nhân 貞 烈 夫 人: họ Nguyễn 阮 , húy Kỳ 奇 , Phu Nhân của Trang Quốc Công. * Sự tích 3 vị thần sau cùng đều do Nguyễn Bính soạn năm 1572. 5. Thôn Vĩnh Quần 永 群: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về Trung Thành 忠 誠 (Trung Thành Đại Vƣơng 忠 誠 大 王), công thần thời Hùng Duệ Vƣơng, và Linh Lang 靈 郎 (Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王) công thần thời Lý. 6. Xã Sơn Viện 山 院: 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về Hiển Công 顯 公 (Bắc Quốc Quảng Đông Trấn Đông Nhạc Hiển Linh... Đại Vƣơng 北 國 廣 東 鎮 東 岳 顯 靈... 大 王) ngƣời Bắc quốc. Thần tích 1 trại, 1 ấp, 2 xóm, 1 xã thuộc tổng Tân Khai, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. 1. Xã Thƣơng Điền 滄 田: 8 trang, về sự tích Lê Ngọc Tảo 黎 玉 藻 (Lƣơng Quốc Quốc Trƣởng Công Chúa Lê Thị Ngọc Tảo Phúc Thần 梁 國 國 長 公 主 黎 氏 玉 藻 福 神 ). 2. Xóm Kiên Chính 堅 正: 12 trang, gồm sự tích 2 vị thần triều
243
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
101.
AE.A2/45
Hán
1 bản viết, 96 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Hoàng Trung, Tri Chỉ nhị tổng các xã thần tích 河 東 省 富 川 縣黃 中 知 止 二 總 各 社 神 蹟
Lý: Nguyễn Trung 阮 忠 (Nội Tấu Đại Vƣơng 內 奏 大 王); Nguyễn Thành 阮 誠 (Ngoại Tấu Đại Vƣơng 外 奏 大 王). 3. Xóm Tang Điền 桑 田: 10 trang, gồm sự tích 2 vị thần triều Hùng: Hùng Hải 雄 海 (Thủy Hải Ô Long Đại Vƣơng 水 海 烏 龍 大 王); Đỗ Huy 杜 徽 (Chiêu Huy Linh Ứng Đại Vƣơng 昭 徽 靈 應 大 王). 4. Ấp Văn Lý 文 理: 10 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Trƣng Vƣơng: Nguyễn Cung 阮 恭 (Thiên Thƣợng Uy Linh Tá Quốc Đại Vƣơng 天 上 威 靈 佐 國 大 王), Nguyễn Lƣơng 阮 良 (Linh Ứng Hiển Hựu Đại Vƣơng 靈 應 顯 佑 大 王). 5. Trại Hòa Định 和 定: 48 trang, về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. Thần tích 4 thôn, 2 xã thuộc 2 tổng Hoàng Trung, Tri Chỉ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông. I. Tổng Hoàng Trung: 1. Thôn Thanh Xuyên 青 川 , xã Hoàng Trung 黃 中: 8 trang, về sự tích vị tiên thánh (không ghi tên) đời Lý. 2. Xã Hoàng Đông 黃 東: 6 trang, gồm sự tích Tô Lịch 蘇 瀝 (Quốc Đô Thành Hoàng Đại Vƣơng 國 都 城 隍 大 王) và Thủy Tinh Công Chúa 水 晶 公 主. 3. Thôn Nội 內 , xã Hoàng Hạ 黃 下: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hoàng Lang 皇 郎 triều Lý. 4. Xã Vân Hoàng 鄖 黃 : 58 trang, sự tích Tản Viên Sơn Thánh 傘 圓 山 聖. II. Tổng Tri Chỉ: 1. Thôn Đông 東 , thôn Thƣợng 上 , xã Hoàng Lƣu 黃 流: 10 trang, gồm sự tích Sĩ Nhiếp 士 燮 (Gia Ứng Thiện Uy Linh Vũ Sĩ Vƣơng 嘉 應 善 威 靈 武 士 王 ) và Lý Phục Man 李 服
244
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
102.
Hán
1 bản viết, 142 trang
AE.a15/4
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
tỉnh, Nam Định Hải Hậu huyện, Kiến Trung xã thần tích 南 定 省 海 後 縣 堅 忠 神 蹟
103.
AE.A17/1
Hán
1 bản viết, 70 trang
Lạng Sơn tỉnh, Cao Lộc châu, Trinh nữ tổng các
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
蠻 (Chứng An Minh Ứng... Đại Vƣơng 証 安 明 應... 大 王). Thần tích 5 xã thuộc tổng Kiên Trung, huyện Hải Hậu, phủ Xuân Trƣờng 春 長, tỉnh Nam Định. 1. Xã Kiên Trung 堅 忠: 18 trang, Gồm sự tích Thục Phán 蜀 泮(Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王); Hàm Hoằng Quang Đại Vƣơng ... Thƣợng Đẳng Thần 含 弘 光 大 王 ... 上 等 神. 2. Xã Lạc Nam 樂 南: 24 trang, Gồm các sự tích: Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王; Quý Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王 triều Hùng; Hƣng Đạo Đại Vƣơng 興 道 大 王 triều Trần; Lê Châu 黎 珠 (Thƣợng Trụ Quốc Lê Cảnh Quận Công 上 柱 國 黎 景 郡 公 ) triều Tiền Lê; Trần Xuân Trạch 陳 春 澤 triều Nguyễn; Phạm Bàn 范盤 triều Nguyễn; Lê Thế Vinh 黎 世 榮 (Minh Nghĩa Đô Úy Chƣ Quân Quản Cơ 明 義 都 尉 諸 軍 管 奇). 3. Xã Hà Lạn 霞 爛: 52 trang, Gồm sự tích: Tứ Vị Thánh Nƣơng 四 位 聖 娘 (là Hoàng Hậu, Công Chúa ... nhà Tống); Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主 ; Triệu Việt Vƣơng 趙 越 王. 4. Xã Hà Nam 霞 南: 16 trang, Gồm các sự tích: Hoàng Hậu họ Dƣơng nhà Tống 宋 后; Thục Phán 蜀 泮 (văn bản là) (Nam Hải Phạn Đại Vƣơng 南 海 梵 大 王). 5. Xã Trà Trung 茶 中: 30 trang, Gồm các sự tích: Triệu Quang Phục 趙 光 復(Triệu Việt Vƣơng 趙 越 王); Hoàng Tử Minh Lang 皇 子 明 郎(Minh Lang Uy Linh Đại Vƣơng 明 郎 威 靈 大 王) triều Hùng; Linh Lang Vƣơng 靈 郎 王 triều Lý. Thần tích 5 xã thuộc of total Trinh Nữ, Hoàng Đồng 黃同, Mỹ Liệt 美烈, Phú Xá 富舍, of the châu Cao Lộc, Điềm Hy 恬熙, Văn Uyên 文淵, tỉnh Lạng Sơn.
245
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
xã thần tích 諒 山 省 高麓 州貞 女 總 各社 神 蹟
104.
AE.A9/1
Hán
1 bản viết, 108 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Phú Thọ tỉnh, Cẩm Khê huyện các xã thần tích 富 壽 省 錦 溪 縣 各 社 神 蹟
1. Xã Trinh Nữ 貞 女, tổng Trinh Nữ, châu Cao Lộc: 14 trang, Ghi sự tích Nội Đạo Tam Quan 內 道 三 官: tiền quan, chủ quản, tả quan. 2. Xã Chính Lũy 正 屨 tổng Trinh Nữ, châu Cao Lộc: 30 trang, Ghi sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. 3. Xã Hoàng Đồng 黃 同, tổng Hoàng Đồng, châu Cao Lộc: 4 trang, Ghi sự tích Xích Long Vƣơng 赤 龍 王. 4. Xã Vân Mộng 雲 夢, tổng Mỹ Liệt, Châu Điềm Hy: 4 trang, Ghi sự tích Đinh Khác Nguyên Đại Vƣơng 丁 恪 元 大 王. 5. Xã Xuân Lũng 春 隴, tổng Phú Xá 富 舍, Châu Văn Uyên: 14 trang, Gồm sự tích: Diệu Hòa Chế Thắng Đại Vƣơng 妙 和 制 勝 大 王; Quý Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王. Thần tích 6 xã thuộc huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. 1. Xã Huân Trầm 勳 沉: 22 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Chu Sĩ 周 士 (Chu Sĩ Đại Vƣơng 周 士 大 王), công thần thời Trƣng Nữ Vƣơng. 2. Xã Thanh Nga 青 峨: 24 trang, do Nguyễn Bính soạn, về sự tích: Kiều Sứ quân 喬 使 君 (họ Kiều 喬 , húy Thuận 順 , hiệu Tƣ Tín 思 信 , ngƣời Tiết Xá, Hồi Hồ, một trong 12 Sứ quân nổi lên chiếm giữ đất Cẩm Khê, thời Thập Nhị Sứ quân, sau bị Đinh Tiên Hoàng tiêu diệt); Tôn Thần Mai Thị 尊 神 枚 氏 (họ Mai 枚 , húy là Trinh Nƣơng 貞 娘 , tự Thủy Tinh 水 精 , ngƣời xã Trƣơng Xá, huyện Hạ Hoa, thiếp của Kiều Thuận, tƣơng truyền bà đội lốt ếch). 3. Xã Hiền Đa 賢 多: 18 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về Hà Lang 何 郎 (Hà Lang Đại Vƣơng 何 郎 大 王), công thần thời Trần. 4. Xã Thạch Đê 石 堤: 10 trang, về sự tích Quảng Đại Công 廣 大 公 (Thủy Tộc... Quảng Đại Tối Linh Đại Vƣơng 水 族... 廣
246
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
105.
AF.A2/99*
Hán
1 bản viết, 168 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Đông tỉnh, Thƣờng Tín phủ, Thƣợng Phúc huyện, Tín Yên tổng các xã tục lệ 河 東 省 常 信 府 上 福 縣 信 安 總 各 社俗 例
大 最 靈 大 王), Hải Tế Công 海 濟 公 (Thủy Tộc... Hải Tế Tối Linh Đại Vƣơng 水 族... 海 濟 最 靈 大 王) và Đoan Lƣơng Công 端 良 公 (Thủy Tộc... Đoan Lƣơng Tối Linh Đại Vƣơng 水 族... 端 良 最 靈 大 王), đều là công thần thời Hùng Duệ Vƣơng. 5. Xã Văn Khúc 文 曲: 10 trang, về Tiên Dung 仙 蓉 , Quế Hoa 桂 花 , Liễu Hoa 柳 花 , thời Hùng Duệ Vƣơng, đều đƣợc phong Phúc Thần 福 神. 6. Xã Điêu Lƣơng 雕 梁: 24 trang, về Hùng Cán 雄 幹 (Cao Bình Đại Vƣơng 高 平 大 王) và Hùng Đăng 雄 登 (Đăng Sơn Đại Vƣơng 登 山 大 王), đều là công thần thời Hùng Duệ Vƣơng. Thần tích 5 thôn, 1 xã thuộc tổng Tín Yên, huyện Thƣợng Phúc, phủ Thƣờng Tín, tỉnh Hà Đông. 1. Thôn Yên Định 安 定 , xã Tín Yên 信 安: 38 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Trung Thành Đại Vƣơng 忠 誠 大 王; Duệ Công 睿 公 (Linh Ứng Đại Vƣơng 靈 應 大 王) và Bạch Công 白 公 (Bạch Đế Đại Vƣơng 白 帝 大 王) thời Hùng Duệ Vƣơng. 2. Thôn Minh Nga 明 娥 , xã Tín Yên: 48 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Hạnh Nƣơng 杏 娘 (Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主) và Quế Nƣơng 桂 娘 (Quế Hoa Công Chúa 桂 花 公 主 ) thời Lê Trang Tông; sự tích Nhã Công 雅 公 (Thiên La Đại Vƣơng 天 羅 大 王), Đổng Trình Đại Vƣơng 董 程 大 王, Uy Dũng Đại Vƣơng 威 勇 大 王 và Linh Lang 靈 郎 (Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王) thời Hùng Duệ Vƣơng. 3. Thôn Phúc Trạch 福 澤 , xã Tín Yên: 22 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đại Liệu Uy Dũng Tƣớng
247
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
106.
AE.A13/14
Hán
1 bản viết, 122 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Nam Tỉnh, Duy Tiên huyện, Trác Bút tổng các xã thần tích 河 南 省 維 先 縣 卓 筆 總 各 社 神 蹟
Quân 大 料 威 勇 將 軍 và Đỏ Nƣơng 。 娘 (Đỏ Nƣơng Trinh Thục Công Chúa 。 娘 貞 淑 公 主 ) thời Thục An Dƣơng Vƣơng. 4. Thôn Hoàng Xá 黃 舍 , xã Lƣu Khê 留 溪: 10 trang, về sự tích Cao Hiển 高 顯 , tên tự là Văn Trƣờng 文 長 (Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王) thời Hùng Vƣơng. 5. Thôn Giáp 甲 , xã Lƣu Khê: 44 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Đổng Thủy Đại Vƣơng 董 水 大 王 thời Hùng Duệ Vƣơng. 6. Xã Hà Vĩ 河 尾: 6 trang, sao lại vào năm Gia Long 3 (1804), gồm sự tích Sĩ Nhiếp 士 燮 và Bố Cái Đại Vƣơng 布 蓋 大 王. * Văn bản này thuộc loại thần tích, đúng ra phải mang ký hiệu AE. Thần tích 4 xã, thuộc tổng Trác Bút, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Hòa Mạc 和 莫: 52 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Ngã Ba Cây Nhội Chi Thần 我 。 。 。 之 神; Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 (Thanh Lãng Linh Lang Đại Vƣơng 清 朗 。 。 大 王) triều Lý; Địa Dã Cây Đa Đại Vƣơng 地 野 。 。 大 王; và Phƣơng Dung Công Chúa 芳 容 公 主. 2. Xã Lệ Thủy 麗 水: 11 trang, về sự tích Trâm Nƣơng 簪 娘 (Mạ Vàng Công Chúa 禡 。 公 主 ). 3. Xã Trác Bút 卓 筆: 27 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 và Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王 triều Lý. 4. Xã Văn Bút 文 筆: 30 trang, soạn năm 1572, gồm sự tích Quỳnh Nƣơng 瓊 娘 (Quốc Mẫu Quỳnh Dung Ngọc Tinh Công Chúa 國 母 瓊 容 玉 晶 公 主 ); Minh Nƣơng 明 娘 (Cao Minh
248
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
107.
AE.A9/7
Hán
1 bản viết, 16 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Phú Thọ tỉnh, Cẩm Khê huyện, Vân Bán tổng, Thụy Liễu, Khổng Tƣớc nhị xã thần tích 富 壽 省 錦 溪 縣 雲 半 總 瑞 柳 孔 雀 二 社 神 蹟
108.
AE.B2/11
Hán
1 bản viết, 35 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thanh Hóa tỉnh, Thọ Xuân phủ, Quảng An tổng các xã thần tích 清 化 省 壽 春 府 廣 安 總 各 社 神 蹟
Công Chúa 高 明 公 主 ); Đậu Nƣơng 竇 娘 (Sát Hạng Thủy Đâu Công Chúa 察 項 水 竇 公 主 ); Sinh Công 生 公 (Hàn Sinh Cửa Sĩ Đại Vƣơng 翰 牲 。 仕 大 王); Hãn Công 捍 公 (Hãn Thần Đại Vƣơng 捍 神 大 王); Già Công 伽 公 (Thiên Quan Cửa Già Đại Vƣơng 天 關 。 伽 大 王) triều Trƣng Nữ Vƣơng. Thần tích 2 xã thuộc tổng Vân Bán, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. 1. Xã Thụy Liễu 瑞 柳: 12 trang, chép về Quý Minh 貴 明(Quý Minh Thánh 貴 明 聖 ) và Cao Sơn 高 山(Nam Thiên Thánh Tổ Đột Ngột Cao Sơn... Thƣợng Đẳng Thần 南 天 聖 祖 突 屹 高 山... 上 等 神 ) thời Hùng Vƣơng. 2. Xã Khổng Tƣớc 孔 雀: 4 trang, sao năm Trung Tông 2 (?), về Đột Ngột Cao Sơn Thánh Vƣơng 突 屹 高 山 聖 王 , Đại Hải Thủy Tề Long Vƣơng Đại Vƣơng 大 海 水 齊 龍 王 大 王, và Đại Từ Quốc Mẫu Mỹ Ngọc Nga My Thiên Tiên Công Chúa 大 慈 國 母 美 玉 蛾 眉 天 仙 公 主 , đều thuộc họ Hồng Bàng. Thần tích 3 xã thuộc tổng Quảng An, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. 1. Xã Phúc Cƣơng 福 崗: 8 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thạch Long 石 龍 và Viêm Long 炎 龍 , cả hai đều do trời ban xuống âm phù Lê Thái Tổ đánh quân Minh, và đều đƣợc phong là Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王. 2. Xã Yên Lạc 安 樂: 15 t.r, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hoa Nƣơng 花 娘 (Hiển Tế Anh Linh... Thiên Tiên Thánh Nữ Công Chúa 顯 濟 英 靈... 天 仙 聖 女 公 主 ) triều Trần; Đoạn Công 鍛 公 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại
249
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
109.
AE.A2/65
Hán
1 bản viết, 40 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
tỉnh, Hà Đông Hoài Đức phủ, Từ Liêm huyện, La Nội tổng các xã thần tích 河 東 省 懷 德 府 慈 廉 縣 羅 內 總 各 社 神 蹟
110.
AE.A9/38
Hán
1 bản viết, 35 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Phú Thọ tỉnh, Thanh Ba huyện, Mạn Lạn tổng các xã thần tích 富 壽 省 青 波 縣熳爛 總 各 社神 蹟
Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王) công thần thời Lý. 3. Xã Long Thịnh 隆 盛: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về Phúc Công 福 公 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王), công thần thời Trần, và Hoằng Lực 弘 力 (Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 大 王) công thần thời Lê. Thần tích 4 xã thuộc tổng La Nội, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. 1. Xã La Khê 羅 溪: 8 trang, sao năm 1810, gồm sự tích Thiên Thần Hắc Diện Đại Vƣơng 天 神 黑 面 大 王 và Thiên Tiên Bảo Hoa Công Chúa 天 仙 寶 化 公 主. * Có bài Hoàng Việt Bảo Huy phi bi 皇 越 寶 徽 妃 碑 , chép về bà phi Bảo Huy Trần Thị Tú. 2. Xã La Nội 羅 內 và xã Ỷ La 綺 羅: 18 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Đô Đốc Linh Ứng Đại Vƣơng 當 境 城 隍 都 督 靈 應 大 王 , Tả Cung Trung Hoàng Hậu Phu Nhân 左 宮 中 皇 后 夫 人 và Hữu Cung Trung Hoàng Hậu Phu Nhân 右 宮 中 皇 后 夫 人. 3. Xã Nghĩa Lộ 義 路: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần thời Trƣng Vƣơng: Quốc Vƣơng 國 王 , và Ả Lã Nàng Đê 婀 呂 娘 低. Thần tích 2 xã thuộc tổng Mạn Lạn, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. 1. Xã Mạn Lạn 熳 爛: 21 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Tuấn Vƣơng 俊 王, tục gọi là Đại Cả 大 奇 (Tuấn Vƣơng Đại Cả ... Đại Vƣơng 俊 王 大 哿 .. . 大 王 , Âm phù Sơn Thánh 山 聖 đánh giặc thời Hùng Duệ Vƣơng; và sự tích 4 vị thần là Thiên Tiên Công Chúa 天 仙 公 主, Hầu
250
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
111.
AE.A11/4
Hán
1 bản viết, 221 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
tỉnh, Phúc Yên Đông Anh huyện, tổng Xuân Nộn các thần xã tích 福 安 省 東 英 縣 春 嫩 總 各 社 神 蹟
Nƣơng Cả Đƣờng ... Công Chúa 侯 娘 哿堂...公 主, Hầu Nƣơng Cầu Phiên ... Công Chúa 侯 娘。 。. .. 公 主, Hầu Nƣơng Di Phiên ... Công Chúa 侯 娘 姨 璠 ... 公 主 giúp Trƣng Nữ Vƣơng đánh Tô Định. 2. Xã Kiều Tùng 橋 松: 14 trang, Gồm 2 bản sự tích, đều nói về Đoàn Thƣợng 段 尚(Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王), công thần thời Lý. Thần tích 4 thôn, 5 xã thuộc tổng Xuân Nộn, huyện Đông Anh, Yên. Phúc tỉnh 1. Xã Nhạn Tái 雁 塞: 20 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Lý Xá Lỵ 李 舍 利 húy Bí 李 賁 (Xá Lại 舍 賴 , Lý Phật Tử 李 佛 子 , Thánh Phụ Xá Lại Sùng Nghiệp An Dân Đại Vƣơng 聖 父 舍 賴 崇 業 安 民 大 王); Lý Nhã Lang 李 雅 郎 (Quốc Vƣơng Thiên Tử Nhã Lang Nam Đế Vƣơng 國 王 天 子 雅 郎 南 帝 王 ), Ả Lã 婀 。 (Thánh Mẫu Ả Lã Phi Nhân Hoàng Hậu 聖 母 婀 。 皇 后); Hỗn Độn 渾 沌 (Hỗn Độn Uy Linh Cảm Ứng Đại Vƣơng 渾 沌 威 靈 感 應 大 王); Đỗ Nhuận 杜 潤 (Tá Phụ Minh Quân Đại Vƣơng 佐 輔 明 君 大 王) triều Lý. 2. Thôn Mạnh Tân 孟 津 , xã Thƣ Lâm 書 林: 27 trang, gồm sự tích Ả Thuần Nƣơng Công Chúa 婀 純 娘 公 主 triều Lý, do Nguyễn Bính soạn năm 1572; Phạm Thị Tiên 范 氏 仙 (Tiên Phi Nhân 僊 妃 人 , Lý Quốc Hoàng Thái Hậu 李 國 皇 太 后 ) triều Lý; và Đại Đƣơng Giang Minh Thiên Tá Phụ Đại Vƣơng 大 當 江 明 天 佐 輔 大 王 triều Đinh Tiên Hoàng. 3. Thôn Biểu Khê 表 溪 , xã Thƣ Lâm 書 林: 13 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Đƣơng Giang 當 江 (Tiểu Đƣơng Giang Phụ Tá Đại Vƣơng 小 當 江 輔 佐 大 王) triều Đinh Tiên Hoàng.
251
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
4. Thôn Cổ Miếu 古 廟 , xã Thƣ Lâm 書 林 : 30 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Ngọc Thanh Công Chúa 玉 清 公 主 triều Trƣng Nữ Vƣơng; Ả Nguyệt Nga Công Chúa 婀 月 娥 公 主 triều Lý Thánh Tông; và Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王). 5. Thôn Hƣơng Trầm 香 沉 , xã Thƣ Lâm 書 林: 18 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Quý Minh 貴 明 (Quý Minh Hiển Ứng Linh Thông Đại Vƣơng 貴 明 顯 應 靈 通 大 王) triều Hùng Duệ Vƣơng. 6. Xã Đào Thục 陶 熟: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đƣơng Giang 當 江 (Đƣơng Giang Tá Phụ Minh Thiên... Đại Vƣơng 當 江 佐 輔 大 王); Hoàng Hậu Mặc Tƣớng... Phi Nƣơng Phu Nhân 皇 后 默 將... 妃 娘 夫 人 triều Đinh Tiên Hoàng; và Tam Giang 三 江 (Tam Giang Khƣớc Địch Linh Ứng Đại Vƣơng 三 江 卻 敵 靈 應 大 王) triều Triệu Việt Vƣơng. 7. Xã Kim Tiên 金 僊: 14 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Hoàng Hậu Linh Thông Túy Tinh Phu Nhân 皇 后 靈 通 粹 精... 夫 人 triều Trƣng Nữ Vƣơng; Hùng Công 雄 公 (Đô Hộ Hùng Uy Đại Vƣơng 都 護 雄 威 大 王); Uy Công 威 公 (Đô Hộ Uy Hùng Đại Vƣơng 都 護 威 雄 大 王 ) thời Đƣờng Thái Tông, Vũ Đế. 8. Xã Nguyên Khê 沅 溪: 30 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Tam Giang Linh Ứng Đại Vƣơng 三 江 靈 應 大 王 (tức Trƣơng Hống, Trƣơng Hát); và Cao Hiển 高 顯 (Cao Sơn Hiển Ứng Đại Vƣơng 高 山 顯 應 大 王) triều Hùng Duệ Vƣơng. * Có bài văn bia và tựa do Lê Tung soạn năm Hồng Thuận 2 (1510).
252
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
112.
AE.A10/5
Hán
1 bản viết, 60 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Tân Tây tỉnh, Phúc Thọ huyện, Phù Sa tổng các xã Liên Chiểu, Tiền Huân thần tích 山 西 省 福 壽 縣 浮 沙 總 各 社 蓮 沼 清 沼 前 勳 神 蹟
113.
AE.A5/1
Hán
1 bản viết, 50 trang
Thái Bình tỉnh, Trực Định huyện, An Bồi tổng thần
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
9. Xã Xuân Nộn 春 嫩: 77 trang, gồm sự tích Vũ Định 武 定 và Thiên Trí 天 置 triều Hùng Duệ Vƣơng; Trƣơng Hống 張 吼 (Đại Đƣơng Giang Hộ Quốc Đại Vƣơng 大 當 江 護 國 大 王 ); Trƣơng Hát 張 喝 (Tiểu Đƣơng Giang Hộ Quốc Đại Vƣơng 小 當 江 護 國 大 王); Đông A Thế Phả Hành Trạng 東 阿 世 譜 行 狀 (Hành trạng Trần Quốc Tuấn, Nguyên từ quốc mẫu, Trần Quang Khải...); sự trạng của Hiển Thánh Đại Vƣơng (Trần Quốc Tuấn đánh quân Nguyên); bài hịch của Hiển Thánh Đại Vƣơng dụ các quân tƣớng; hành trạng một số bộ tƣớng của Trần Quốc Tuấn nhƣ: Đỗ Khắc Chung 杜 克 終 , Trần Bình Trọng 陳 平 仲 , Trần Khánh Dƣ 陳 慶 餘 , Phạm Ngộ 范 遇 , Yết Kiêu 歇 驍 , Nguyễn Khoái 阮 蒯 , Đỗ Hành 杜 衡 , Trần Thời Kiến 陳 時 見 , Trƣơng Hán Siêu 張 漢 超 , v.v... Thần tích 3 xã thuộc tổng Phù Sa, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây. 1. Xã Liên Chiểu 蓮 沼: 37 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1573, gồm sự tích Bạch Nƣơng 白 娘 (Bạch Ngọc Thánh Mẫu Công Chúa 白 玉 聖 母 公 主 ); Chiêu Công 昭 公 (Chiêu Ứng Hộ Quốc An Dân Đại Vƣơng 昭 應 護 國 安 民 大 王) triều Hùng Vƣơng. 2. Xã Thanh Chiểu 清 沼: 17 trang, sao lại vào năm 1894; về sự tích Tản Viên Sơn Thánh Thƣợng Đẳng Thần Quốc Chủ Đại Vƣơng 傘 圓 山 聖 上 等 神 國 主 大 王 triều Hùng Vƣơng. 3. Xã Tiền Huân 前 勳: 5 trang, soạn vào năm Cảnh Thống 2 (1499), về sự tích Đƣơng Cảnh Thành Hoàng... Thánh Bà Thánh Triết Đại Vƣơng 當 境 城 隍... 聖 婆 聖 哲 大 王. Thần tích 3 xã thuộc tổng An Bồi, huyện Trực Định, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Công Bồi 功 培: 22 trang, gồm sự tích Thục An Dƣơng
253
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
tích 太 平 省 直 定 縣 安 培 總 神 蹟
114.
AE.A6/21
Hán
1 bản viết, 10 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
115.
AE.A4/9
Hán
1 bản viết, 108 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hải Dƣơng tỉnh, Thanh Hà huyện, Hạ Vĩnh tổng, Hạ Vĩnh xã thần tích 海 陽 省 青 河 縣 下 永 總 下 永 社 神 蹟 Ninh Bình tỉnh, Gia Viễn, Đại Hữu tổng các xã thần tích 寧 平 省 嘉 遠 大 有 有 總 各 社神蹟
Vƣơng 蜀 安 陽 王 (Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王); sự tích Chân Nƣơng 真 娘 hiệu Thục Nƣơng 淑 娘 (Thánh Mẫu Vua Bà Cao Thiện Đại Vƣơng 聖 母 。 婆 高 善 大 王), thiếp của Thục An Dƣơng Vƣơng; sự tích Mỵ Châu 媚 珠 , tên hiệu Tinh Nhất Nƣơng 精 一 娘 (Thánh Tử Hoàng Phi Vua Nƣơng Đại Vƣơng 聖 子 皇 妃 。 娘 大 王), vợ của Trọng Thủy; sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đoàn Đại Vƣơng 東 海 段 大 王) triều Lý. 2. Xã An Bồi 安 培 : 14 trang, về sự tích Nhà Nƣơng 茹 娘 (Cao Thiên Hoàng Bà... Đại Vƣơng 高 天 皇 婆... 大 王), thời Trƣng Vƣơng, do Nguyễn Hiền sao năm 1739. Phụ chép thần tích khu Đoài Duyệt 兌 悅 , thờ vị thần ngƣời xã Hạ Bì, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dƣơng. 3. Xã Thƣ Điền 書 田: 14 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Nguyệt Nƣơng 月 娘 (Tống Hậu Phu Nhân 宋 后 夫 人), vợ Tống Nghệ Tông, đắm thuyền ở Cửa Cờn. Thần tích xã Hạ Vĩnh thuộc tổng Hạ Vĩnh, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dƣơng, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Chân Công 真 公 (Bản Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 本 境 城 隍... 大 王); Khang Nƣơng 康 娘 (Thánh Mẫu Bồ Tát... Công Chúa 聖 母 菩 薩... 公 主 ); và Trí Công 智 公 (Bản Cảnh Thành Hoàng... Đại Vƣơng 本 境 城 隍... 大 王) thời Đinh Tiên Hoàng. Thần tích 4 xã thuộc tổng Đại Hữu, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. 1. Xã Đại Hữu 大 有: 44 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đinh Tiên Hoàng Đế 丁 先 皇 帝; Thánh Mẫu 聖 母; Nguyễn Tùng 阮 松(Tản Viên Sơn Thánh 傘 圓 山 聖); Tam Giang Bạch Hạc Chiêu Dung ... Đại Vƣơng 三 江 白
254
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
116.
AE.A5/27
Hán
1 bản viết, 114 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
tỉnh, Thái Bình Hƣng Nhân huyện các xã thần tích 太 平 省 興 仁 縣 各 社 神 蹟
鶴 昭 融 ... 大 王 triều Hùng; Quốc Mẫu Hoàng Bà ... Phù Nhân 國 母 皇 婆 ... 夫 人 triều Hùng; Hoằng Hóa Uy Linh Quý Lang ... Đại Vƣơng 弘 化 威 靈 貴 廊 ... 大 王 triều Hùng. 2. Xã Vân Lung 雲 籠: 30 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Nguyễn Ngọ Lang 阮 午 郎(Ngọ Sơn Đại Vƣơng 午 山 大 王) triều Hùng; Tứ Vị Hồng Nƣơng 四 位 紅 娘(4 chị, không rõ tên) triều Trƣng Vƣơng. 3. Xã Điềm Xá 恬 舍 và xã Điềm Giang 恬 江: 32 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần đời Lý: Nguyễn Minh Không thiền sƣ 阮 明 空 禪 師; Tô Hiến Thành Thái sƣ 蘇 憲 誠 太 師 (Trung Nghĩa Đại Vƣơng 忠 義 大 王). Thần tích 3 thôn, 6 xã, thuộc tổng Quan Bế , huyện Hƣng Nhân, tỉnh Thái Bình. 1. Thôn Côn 昆, xã Tảo Sơn 早 山: 16 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Minh Công 明 公(Cao Minh Chính Trực Đại Vƣơng 高 明 正 直 大 王) và Đông Hải Đà La. .. Đại Vƣơng 東 海 陀 羅 ... 大 王 Thời Lý. 2. Thôn Nhiễm 染, xã Tảo Sơn 早 山: 12 trang, Do Nguyễn Hiền sao năm 1736, về sự tích Hoa Nƣơng 花 娘, Cung phi thứ hai của Lý Thái Tông, và Hoàng Lang 皇 郎(Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王) thời Lý. 3. Thôn Tảo 早, xã Tảo Sơn 早 山: 4 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Tấu Công 奏 公(Hoàng Tấu Đại Vƣơng 黃 奏 大 王). 4. Xã An Nhân 安 仁: 16 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thánh Phụ (Ông Lâu 翁 樓); Thánh Mẫu (Bà. .... ( thiều 1 đồng) 琶 樓 梂 哩 侯 Quan Cầu Lý ... Đại Vƣơng 天 官 梂 哩 ... 大 王); Cầu Ngói Hầu 梂瓦侯(Thiên
255
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Quan Cầu Ngói ... Đại Vƣơng 天 官 勾 。... 大 王; Viên Thẩn Hầu 園 矧 侯(Thiên Quan Viên Thẩn ... Đại Vƣơng 天 官 園 矧 ... 大 王); Bát Bộ Hầu 八 步 侯(Thiên Quan Bát Bộ ... Đại Vƣơng 天 官 八 步 ... 大 王); Hƣơng Thần Hầu 鄉 神 侯(Thiên Quan Hƣơng Thần ... Đại Vƣơng 天 官 鄉 神 ... 大 王); Lôi Công Hầu 雷 公 侯(Thiên Quân Lôi Đa ... Đại Vƣơng 天 官 雷 多. .. 大 王) và Quý Minh Hầu 貴 明 侯(Thiên Quan Quý Minh ... Đại Vƣơng 天 官 貴 明 ...大 王) thời Hùng Vƣơng. 5. Xã Thọ Khê 壽 溪: 16 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Đại Đạo 大 道 (Đại Đạo Đại Vƣơng 大 道 大 王) và Đại Hải 大 海(Đại Hải Đại Vƣơng 大 海 大 王 ) thời Hùng Vƣơng. 6. Thôn Nhiễm 染, xã Lƣơng Khê 良 溪: 6 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Minh Khê Đại Vƣơng 明 溪 大 王 Triệu Việt Vƣơng và Thiên Tinh Công Chúa 天 晶 公 主 (không rõ big time). 7. Xã Hà Thanh 河 清: 12 trang, Về sự tích Sơn Hồ Công 山 瑚 公(Sơn Hồ ... Đại Vƣơng 山 瑚 ... 大 王); Khổng Lộ Nguyễn Công 孔 路 阮 公(Khổng Nguyễn ... Đại Vƣơng 孔 阮 ... 大 王 ) và Minh Nghị Công 明 誼 (Minh Nghị ... Đại Vƣơng 明 誼 ... 大 王) thời Hùng Duệ Vƣơng. 8. Xã Lƣơng Ngọc 良 玉 : 28 trang, Gồm có Bát nạn Phu nhân 扒 難 夫 人(Trinh Thục Công Chúa 貞 淑 公 主) thời Trƣng Nữ Vƣơng; sự tích Thục An Dƣơng Vƣơng 蜀 安 陽 王 (Nam Hải Đại Vƣơng 南 海 大 王); và sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚(Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王) thời Lý. 9. Xã Quan Hà 關 河: 4 trang, Về sự tích Triệu Việt Vƣơng 趙
256
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
117.
AE.A13/1
Hán
1 bản viết, 90 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Nam tỉnh, Duy Tiên huyện, An (Yên) Khê tổng các xã thần tích 河 南 省 維 先縣 安 溪 總 各 社神 蹟
118.
AE.A2/43
Hán
1 bản viết, 154 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Đông tỉnh, Phú Xuyên huyện các xã thần tích 河 東 省 富 川 縣 各 社神 蹟
越 王 và Triệu Đà 趙 陀(Triệu Đà Quốc Vƣơng 趙 陀 國 王). Thần tích 2 thôn, 2 xã, thuộc tổng An (Yên) Khê, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. 1. Xã An (Yên) Khê 安 溪: 30 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Trung Thành Đại Vƣơng 中 誠 大 王 ; Đông Bảng Đại Vƣơng 東 榜 大 王; Linh Lang đại vƣơng 靈 榔大 王; Nam Bính đại vƣơng 南 柄 大 王; Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王. 2. Thôn Thƣợng 上, xã Mang Sơn 茫 山: 24 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 và Linh Hựu Đại Vƣơng 靈 佑 大 王 triều Lý. 3. Thôn Thủy Cơ 水 機, xã Mang Sơn 茫 山: 15 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Linh Lang Đại Vƣơng Thƣợng Đẳng Thần 靈 郎 大 王 上 等 神; Quận Hoa Công Chúa 郡 花 公 主 triều Lý. 4. Xã Quan Nha 關 衙 19 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Thánh Mẫu Cửa Nhà Công Chúa Phù Nhân 聖 母。衙 公 主 夫 人; Thánh Linh Lang Cửa Trƣớc Đại Vƣơng 聖靈郎.. 大王; Thánh Hồi Chính Cƣ Sĩ Cửa Sau Đại Vƣơng 聖 洄 正 居 士。。大 王. Thần tích 3 thôn, 5 xã thuộc tổng Thịnh Đức 盛 德, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông. I. Tổng Thịnh Đức Thƣợng: 1. Xã Bối Khê 貝 溪: 14 trang, Do Lê Tung soạn năm 1510, về sự tích Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王. 2. Xã Nhụy Khê 蕊溪: 18 trang, Gồm có Đoàn Thƣợng Đại Vƣơng 段 尚 大 王(Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王) và Phạm Cƣ Sĩ 范 居 士, đều ở triều Lý. 3. Thôn Thƣợng 上, xã Kim Lũng 籠: 38 trang, Gồm có Đoàn
257
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Thƣợng 段 尚(Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王) triều Lý và Đô Thiên Thái Giám Linh Nhân Đại Vƣơng 都 天 太 監 靈 仁 大 王, Uy Mãnh Tƣớng Quân Giác Hải Đại Vƣơng 威 猛 將 軍 角 海 大 王 triều Hùng, do Nguyễn Bính soạn năm 1572. 4. Thôn Hạ 下, xã Chuyên Mỹ 專 美: 8 trang, Về sự tích Thánh Mẫu Cung Phi Tả Hoàng Hậu 聖 母宮 妃 左 皇 后(vợ của Trần Quốc Tuấn) triều Trần. II. Tổng Thịnh Đức Hạ: 1. Xã Giới Đức 界 德: 8 trang, Về sự tích Cao Minh bảo quốc Đại Vƣơng 高 明 保 國 大 王. 2. Thôn Ngũ 五, xã Thịnh Đức 盛 德: 10 trang, Gồm sự tích 5 vị thần thời Hùng: Quảng Xung Linh Tế Đại Vƣơng 廣 沖 靈 濟 大 王; Quảng Bác Uyên Dung Đại Vƣơng 廣 博 淵 融 大 王 ; Quảng Xuyên Linh Quang Đại Vƣơng 廣 川 靈 光 大 王 ; Quảng Tế Linh Ứng Đại Vƣơng 廣 濟 靈 應 大 王 và Quảng Hóa Cƣ Sĩ Đại Vƣơng 廣 化 居 士 大 王. 3. Xã Nam Chính 南 正: 4 trang, Về sự tích Cao Sơn Đại Vƣơng 高 山 大 王. 4. Xã Quán Châm 官 箴: 52 trang, Gồm 5 vị thần phục Hùng: Sơn Thánh Tuấn Kiệt ... Đại Vƣơng 山 聖 俊 傑 ... 大 王; Cao Sơn Linh Ứng ... Đại Vƣơng 高 山 靈 應 ... 大 王; Quý Minh Hiển Ứng Đại Vƣơng 貴 明 顯 應 大 王; Trấn Quốc Minh Hƣng Đại Vƣơng 鎮 國 明 興 大 王(do Nguyễn Bính soạn năm 1572); và Thánh Trị Hồng Tán Thái Sƣ 聖 治 洪 贊 太 師.
119.
AE.A2/57
Hán
1 bản viết, 40 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thần tích 2 xã thuộc tổng Trầm Lộng, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Đông. 1. Xã Trạch Bái 澤 沛: 20 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Nhã Công 雅 公(Thiên
tỉng, Hà Đông Ứng Hòa phủ, Sơn Lãng huyện, Trầm Lộng tổng các xã thần tích
258
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
河 東 省 應 和 府 山浪 縣 沉 弄 總 各社神 蹟
120.
AE.A2/44
Hán
1 bản viết, 110 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Đông tỉnh, Phú Xuyên huyện, Thƣờng Xuyên tổng các xã thần tích 河 東 省 富 川 縣常 川 總 各 社 神 蹟
La Đại Vƣơng 天 羅 大 王), Đổng Trình 董 程 và Uy Dũng 威 勇. 2. Xã Cống Khê 貢 溪: 18 trang, Do Nguyễn Hiền viết năm 1735, gồm sự tích 2 vị thần nhà Lê: Thánh Mẫu Hoàng Hậu Quế Hoa ... Phù Nhân Đại Vƣơng 聖 母 皇 后 桂 花 ...大 王 và Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Thái Giám Cảm Ứng ... Đại Vƣơng 當 境 城 隍 太 監 感 應 ... 大 王. Thần tích 2 thôn, 6 xã thuộc tổng Thƣờng Xuyên, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông. 1. Xã Thƣợng Yên 上 安 : 16 trang, gồm sự tích Hoàng Lang (Hoàng tử thứ 4 triều Lý) và Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王 cũng triều Lý. 2. Xã Viên Hoàng 鄖 黃: 8 trang, gồm sự tích Đại Đô Thành Hoàng... Đại Vƣơng 大 都 城 隍... 大 王; Bảo Quốc Thần Uy... Đại Vƣơng 保 國 神 威... 大 王; Bảo Ninh Trấn Quốc... Đại Vƣơng 保 寧 鎮 國... 大 王; Thạch Linh Quảng Đức... Đại Vƣơng 石 靈 廣 德 ... 大 王 ; Lý Thiên Hộ Quốc... Đại Vƣơng 里 天 護 國... 大 王; Thiên Quan Thắng Đức... Đại Vƣơng 天 官 勝 德... 大 王. 3. Xã Đa Chất 多 質: 38 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Trung Thành Phổ Tế... Đại Vƣơng 忠 誠 普 濟 ... 大 王 triều Hùng. 4. Xã Cầu Đoài 梂 兌: 64 trang, sao năm 1808, về sự tích Tản Viên Sơn Thánh 傘 圓 山 聖 triều Hùng. * Có bài chí nói về đền thờ Đức Quận Công 德 郡 公. 5. xã Thƣờng Xuyên Thƣợng 常 川 上: 22 trang, về sự tích Đông Bảng Đại Vƣơng 東 榜 大 王. 6. Xã Từ Thuận 慈 順: 8 trang, soạn năm 1573, gồm sự tích 4 vị thần đời Lê: Đƣơng Cảnh Thành Hoàng Trung Thành Tuấn
259
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
121.
AE.A5/8
Hán
1 bản viết, 78 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thái Bình tỉnh, Trực Định huyện, tổng Xuân Vũ thần tích 太 平 省 直 定 縣 春 宇 總 神 蹟
Triết... Đại Vƣơng 當 境 城 隍 忠 誠 峻 哲... 大 王, Thánh Ông Cây Gia Ông Doanh... Tôn Thần 聖 翁 。 枷 翁 楹... 尊 神 , Thánh Mẫu Khánh Phu Nhân... Nhàn Uyển... Tôn Thần 聖 母 慶 夫 人... 嫻 婉... 尊 神 và Thổ Thành Hoàng Binh Lý... Thần 土 城 隍 兵 裡... 神. 7. Thôn Ba Lai 巴 來 , và thôn Thái 泰 , xã Thƣờng Xuyên: 16 trang, về sự tích Trung Thành Phổ Tế Đại Vƣơng 忠 誠 普 濟 大 王. Thần tích 8 xã, thuộc tổng Xuân Vũ, huyện Trực Định, tỉnh Thái Bình. 1. Xã Đông Nhuế 東 汭: 22 trang, về sự tích Thƣợng Đẳng Thiên Thần 上 等 天 神 (dẫn theo sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, cho đây là vị thần từ núi Tam Đảo phi ngựa tới Đông Nhuế, rồi thăng thiên; lại có thuyết nói có cây Bạch đàn hƣơng từ Vân Nam theo Nhĩ Hà trôi về đây, dân thấy linh ứng lập đền thờ). 2. Xã Cổ Ninh 古 寧 : 6 trang, về sự tích Bạch Hoa Tiên Chúa 白 花 僊 主: tại xã có cây cổ thụ bốn mùa tƣơi tốt, hễ ai cầu đảo là đƣợc linh ứng. Đến niên hiệu Thái Hòa triều Lê, nhân dân lập miếu, thấy một đóa hoa của cây có 4 chữ „Bạch Hoa Tiên Chúa“, nên lấy đó làm duệ hiệu để thờ. 3. Xã Luật Nội 律 內: 16 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thạch Công 石 公 (Thạch Thần Hộ Quốc Đại Vƣơng 石神 護 國 大 王) và Thánh Mẫu Phƣơng Dung Quận Phu Nhân 聖 母 芳 蓉 郡 夫 人 thời Hùng Duệ Vƣơng. 4. xã Đông Vinh 東 榮: 2 trang, gồm sự tích Đoàn Thƣợng 段 尚 (Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王) công thần thời Lý; Thục An Dƣơng Vƣơng (Nam Hải Tôn Thần 南 海 大 王); Tây Hải Tôn Thần 西 海 尊 神, có công hộ đê thời Hồng Đức; và Bắc
260
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
122.
AE.A2/81
Hán
1 bản viết, 170 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Đông, Thanh Trì huyện, Ninh Xá tổng các xã thần tích 河 東 青 池 縣 寧 舍 總 各 社神 蹟
Hải Tôn Thần 北 海 尊 神, vị thần biển. 5. Xã Động Trung 洞 中: 26 trang, về sự tích An Cốc Hải Khẩu... Đại Vƣơng 安 谷 海 口 ... 大 王 . Phụ lục: Lãng Quận Công 朗 郡 公 , Xuân Quận Công 春 郡 公 , Vĩ Quận Công 偉 郡 公 và Đoan Trang Hoa Nhan Công Chúa 端 莊 花 顏 公 主. 6. Xã Luật Ngoại 律 外: 6 trang, về sự tích vị Thạch Công 石 公 và Thánh Mẫu Phƣơng Dung Quận Phu Nhân 聖 母 芳 蓉 郡 夫 人 thời Hùng Vƣơng. Thần tích 6 xã thuộc tổng Ninh Xá, huyện Thanh Trì, Hà Đông. 1. Xã Phúc Am 福 庵: 100 trang, gồm sự tích 2 vị thần triều Hùng: Bảo Hựu Đại Vƣơng 保 佑 大 王 và Quí Minh Đại Vƣơng 貴 明 大 王. 2. Xã Yên Phú 安 富: 14 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần triều Trƣng Vƣơng: Thánh Mẫu Phƣơng Dung Trinh Thục... Hoàng Thái Hậu 聖 母 芳 蓉 貞 淑 ... 皇 太 后; Trung Vũ Tế Thế... Đại Vƣơng 忠 武 濟 世... 大 王 và Đài Liệu Tế Thế... Đại Vƣơng 薹 料 濟 世... 大 王. 3. Xã Nhụy Châu 蕊 珠: 12 trang, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Đệ Nhất Hoàng Cả Anh Minh... Đại Vƣơng 第 一 皇 奇 英 明... 大 王, Đệ Nhị Hoàng Hai Khoan Minh... Đại Vƣơng 第 二 皇 。 寬 明... 大 王 và Đệ Tam Hoàng Ba Cƣơng Minh... Đại Vƣơng 第 三 皇 。 剛 明... 大 王. 4. Xã Phƣơng Nhụy 芳 蕊 : 14 trang, sự tích Cao Biền 高 駢 (Cao Đô Hộ Bột Hải Quận Vƣơng 高 都 護 渤 海 郡 王 ) thời Đƣờng. 5. Xã Duyên Trƣờng 延 長: 8 trang, sự tích Bùi Sĩ Lƣợng 裴 仕
261
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
123.
AE.A12/26
Hán
1 bản viết, 38 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
tỉnh, Kiến An Thủy Nguyên huyện, Trịnh Xá tổng các xã thần tích 建 安 省 水 源 縣 鄭 舍 總 各 社 神 蹟
諒 triều Lê. 6. Xã Nội Am 內 庵 : 22 trang, sự tích Nguyễn Phục 阮 復 (Đông Hải Nguyễn Đại Vƣơng 東 海 阮 大 王 ) triều Lê. Thần tích 4 xã, thuộc tổng Trịnh Xá, huyện Thủy Nguyên, tỉnh Kiến An. 1. Xã Trịnh Xá 鄭 舍: 7 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hùng Công 雄 公(Đƣờng Cảnh Thành Hoàng Linh Quang Đại Vƣơng 當 境 城 隍 靈 光 大 王). 2. Xã Thiên Đông 千 冬: 11 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Uy Công 公(Gia Hiến Dực Tán Thƣợng Đỉnh Uy Minh Đại Vƣơng 嘉 獻 翊 贊 尚 挺 威 明 大 王 ); Thành Công 成 公(Bảo Tiến Đề Phúc Mộc Hoàn Đại Vƣơng 保 進 提 福 木還大 王); Thiện Công 善 公(Điển Quốc Khuông Phất Thiện Hộ Cƣ Sĩ Đại Vƣơng 典 國 匡 副 善 護 居 仕 大 王 ) và Thiên Cung Thánh Mẫu Sùng Đức Bác Thí Công Chúa 天 宮 聖 母 崇 德 博 施 公 主. 3. Xã Kiền Bái 虔 拜: 9 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Ngọc Công 玉 公(Trung Quốc Cảm Ứng Thƣợng Đẳng Phúc Thần 忠 國 感 應 上 等 福 神) và Bích Công 璧 公( Lôi Công Uy Diệu Thƣợng Đẳng Phúc Thần 雷 公 威 妙 上 等 福 神). 4. Xã Trinh Hƣởng 貞 享: 9 trang, Do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Tế Công 濟 公(Hộ Quốc Anh Uy Đại Vƣơng 護 國 英 威 大 王); Lại Công 賴 公(Quảng Hộ Khai Quốc Đại Vƣơng 廣 護 開 國 大 王) và Độ Công 度 公(Tộ Quốc Anh Triết Đại Vƣơng 祚 國 英 哲 大 王).
VĂN CHẦU
124.
Tiên
thánh văn AB.458
Nhuận
sắc Các tín chủ Nôm
43 bài văn hát chầu các Thánh, Chúa… và 6 bài văn, phú chép 1 bản viết, 363
262
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
phụng san
sự tích các vị trên.
tập 仙聖文集
trang, 1 mục lục
125.
AB.601
Nôm
18 bài văn chầu soạn theo thể thơ 7-7/6-8 dùng trong dịp cúng lễ các vị Tiên, Thánh.
1 bản in, 56 trang, 1 mục lục.
Chƣ vị tán văn toàn tập 諸 位 贊 文 全 集
Niên đại định bản Mậu Thân (1908) Chùa Mỹ Quang, xã Khâm thiên, Hà tỉnh Đông in năm Nhâm Tuất (1922).
517
126.
Nôm
Đầu thế kỷ XX
23 bài văn chầu dùng trong các dịp cúng lễ Tiên, Thánh, Chúa... tại các đền, miếu.
1 bản viết, 122 trang
Chƣ vị văn chầu 諸 位 文 朝
AB.
127.
Nôm
Đầu thế kỷ XX
AB.267 AB.466 AB.624 MF.1872 (AB.267)
Văn chầu 文朝 = (Văn chầu các bà 文朝各婆) = (Văn chầu tập 文 朝集)
Văn chầu Đức Thánh Mẫu, Công Chúa, Vƣơng Cô, Đại Vƣơng, Hoàng Tử… soạn theo thể thơ 6 - 8 và 7 - 7/6 - 8. AB.624: còn có các bài tụng dâng hƣơng, phép khai quang điểm nhãn, cách phụ đồng, cách sai Ngũ Hổ đi bắt tà ma, các bài văn cầu an, văn cúng các tiết, cúng tiên, cúng tiên thánh, gia tiên, Long Thần Thổ Địa. Bảng kê tên can chi ứng với các vị tiênh thánh. Các bài luyện văn chữa bệnh đậu mùa. Một số thơ, câu đối mừng thọ, mừng thi đỗ…
128.
AB.629
Nôm
Đầu thể kỷ XX
3 bản viết AB.267: Văn chầu các bà, 26 trang AB.466: Văn chầu tập, 38 trang AB.624: 252 trang 1 bản viết, 96 trang
Công văn quyển 攻文卷
129.
AB.365
Hán
Đàn văn 彈文
Đầu thế kỷ XX
1 bài viết, 36 trang
20 bài hát chầu văn (thể 7 - 7/6 - 8) dùng trong dịp cúng tế Cửu Trùng Thánh Mẫu, Thƣợng Ngàn Thánh Mẫu ... Bài văn chầu nói về thần nữ Vân cát huyện. Vụ Bản, tỉnh Nam Định (Hà Nam Ninh). Có khoa cúng thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ.
130.
AB.508
Nôm
Đầu thế kỷ XX
1 bản viết, 102 trang
Những bài ca, văn, sắc bằng Quốc âm, thƣờng đƣợc phù thủy sử dụng để luyện âm binh, âm tƣớng và thỉnh mời các nàng Tiên, các vị Thần linh giáng đồng.
tiên nhị Thập nƣơng thỉnh luyện bí pháp 十二仙娘 請練秘法
263
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
131.
Trứ
Nôm
AB.146 MF. 1831
Giữa thế kỷ XIX
Nguyễn Công soạn
1. Các bài ca Nôm theo các điệu Nam và Bắc nhƣ Hát mƣỡu, Nam bằng, Nam ai, Kê Khang khúc, Tƣ Mã phụng cầu khúc, Nam thiên tụng, Phú lục bản… Có phần chữ Nôm ghi chép về công chúa Liễu Hạnh
Đại Nam quốc âm ca khúc 大南國音 歌 , “Liễu Hạnh công chúa diễn âm”
1 bản viết, 232 Phần trang. Hạnh Liễu chúa công âm” diễn thuộc trong tập Đại Nam Quốc âm ca khúc….
THẦN SẮC
132.
AD. A16/29
Hán
Đầu thế kỷ XIX
1 bản viết, 147 trang
Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện tổng Đồng Đội các xã thần sắc 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各 社 敕
Thần sắc 2 thôn và 1 xã thuộc tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. 1. Thôn Thung Khê 樁 溪 , xã Đồng Đội 同 隊: 37 trang, phong cấp vào các năm Phúc Thái (1 đạo), Thịnh Đức (3 đạo), Vĩnh Thọ (2 đạo), Cảnh Trị (1 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (2 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Hâm Hứa (Hấm Hứ) Đại Vƣơng 歆 許 大 王; Kim Quang Lục Đại Vƣơng 金 光 錄 大 大 王; Bùi Đại Liệu Đại Tƣớng Quân 裴 大 料 大 將 軍 ; Hâm Hỉ (Hấm Hí) Đại Vƣơng 歆 嘻 大 王. 2. Xã Châu Bạc 珠 泊: 5 trang, phong cấp vào các năm Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Thiên Đê... Đại Vƣơng 天 堤...大 王. 3. Thôn Trào 潮 , xã Trừng Uyên 澄 淵: 5 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Cao Các... Đại Vƣơng 高 閣...大 王; Tây Hải... Đại Vƣơng 西 海...大 王; Quý Minh... Đại Vƣơng 貴 明...大 王 ; Triệu Vƣơng... Đại Vƣơng 趙 王...大 王; Phúc Hải... Hoàng Hu 福 海...皇 后; Chiêu Túc... Công Chúa 昭 肅...公 主.
264
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
133.
AD.a16/18
Hán
1 bản viết, 18 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
tỉnh, Nam Định Mỹ Lộc huyện, Nhƣ Thức tổng các xã thần sắc 定 省 美 祿 縣如 式 總 各 社 神敕
134.
AD.a13/16
Hán
1 bản viết, 32 trang
Hà Nam tỉnh, Lý Nhân phủ, Nam Xang huyện, an
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
4. Thôn Tiền 前 , xã Xuân Bảng 春 榜: 67 trang, phong cấp vào các năm Dƣơng Hòa (3 đạo), Phúc Thái (2 đạo), Khánh Đức (1 đạo), Thịnh Đức (3 đạo), Vĩnh Thọ (2 đạo), Cảnh Trị (2 đạo), Dƣơng Đức (2 đạo), Chính Hòa (2 đạo), Vĩnh Thịnh (2 đạo), Vĩnh Khánh (2 đạo), Cảnh Hƣng (6 đạo), Chiêu Thống (2 đạo), Cảnh Thịnh (2 đạo), Bảo Hƣng (2 đạo). * Phong cho Đông Hải Đại Vƣơng 東 海 大 王. 5. Xã Vân Cát 雲 葛: 31 trang, phong cấp vào các năm Dƣơng Hòa (1 đạo), Cảnh Trị (2 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Bảo Thái (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Long Đức (1 đạo), Vĩnh Hựu (1 đạo), Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Liễu Hạnh Mạ Vàng Công Chúa 柳 杏 *璜 公 主 ; Lý Nam Đế Thƣợng Đại Vƣơng 李 南 帝 尚 大 王; Đệ Tam Ngọc Nữ Quỳnh Cung Công Chúa 第 三 玉 女 瓊 宮 公 主. Thần sắc 2 xã thuộc tổng Nhƣ Thức, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. 1. Xã Nhƣ Thức : 如 式 9 trang, Phong cấp vào các niên hiệu Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (3 đạo). * Phong cho Phong Bá Vũ Sƣ ... Đại Vƣơng 封 伯 雨 師 ... 大 王; Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主; Quảng Cung Quải Anh Phù Nhân 廣 宮 桂 英 夫 人. 2. Xã Quang Xán 光 燦: 7 trang, Phong cấp vào năm Cảnh hƣng (3 đạo). * Phong cho Nhập Nội Lã Thôi Quí Công ... Đại Vƣơng 入 內 呂 推 貴 公 ... 大 王; Quách Thái Phi ... Công Chúa 郭 太 妃 ... 公 主. Thần sắc 2 xã thuộc tổng An Trạch, huyện Nam Xang, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Nam Xá 南 舍: 9 trang, Phong cấp vào các năm Chính
265
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Trạch tổng các xã thần sắc 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 安 宅 總 各 社 神 敕
135.
AD.a13/18
Hán
1 bản viết, 82 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Nam tỉnh, Lý Nhân phủ, Nam Xang huyện Công tổng các xã xá thần sắc 河 南 省 里 仁 府 南 昌 縣 公 舍 總各社 神 敕
Hòa (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo). * Phong cho Liễu Hạnh ... Công Chúa 柳 杏 ... 公 主; Chiêu Dung ... Công Chúa 昭 融 ... 公 主; Quế Hoa ... Công Chúa 桂 花 ... 公 主. 2. Xã An Trạch 安 宅: 23 trang, Phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (5 đạo). * Phong cho Khâm Thiên Minh Đạo ... Hoàng Đế 欽 天 明 道 ... 皇 帝; Liễu Hạnh Mạ Vàng ... Công Chúa 柳 杏瑪 璜... 公 主. Thần sắc 6 xã thuộc tổng Công Xá, huyện Nam Xang, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Thƣợng Vĩ 上 偉: 9 trang, Phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (4 đạo). * Phong cho Liễu Hạnh Mạ Vàng ... Công Chúa 柳 杏瑪 璜... 公 主; Đệ Nhị Ngọc Nữ ... Chiêu Dung Công Chúa 第 二 玉 女 ... 昭 容 公 主; Đệ Tam Ngọc Nữ ... Tiên Dung Công Chúa 第 三 玉 女 ... 仙 容 公 主; Cao Minh Đại Vƣơng 高 明 大 王 ; Chàng ả Đô Hồ Đại Vƣơng 撞 婀 都 湖 大 王; Gia Nỗi Đại Vƣơng 茄 餒 大 王 ; Linh Động Đại Vƣơng 靈 洞 大 王 ; Phƣơng Dung ... Công Chúa 芳 容 ... 公 主. 2. Xã Hội Động 會 洞: 9 trang, Phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Linh Lang ... Đại Vƣơng 靈 郎 ... 大 王. 3. Xã Mạc Thƣợng 幕 上: 13 trang, Phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (6 đạo). * Phong cho Đông Bảng đại vƣơng 東 榜 大 王 ; Tây Hải ... Đại Vƣơng 西 海 ... 大 王; Thủy Tinh ... Công Chúa 水 晶 ... 公 主. 4. Xã Dũng Kim 涌 金: 5 trang, Phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (2 đạo).
266
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
136.
AD. A13/1
Hán
1 bản viết, 68 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Nam tỉnh, Duy Tiên huyện an (Yên) Khê tổng các xã thần sắc 河 南 省 維 先 縣 安 溪 總 各 社 神 敕
* Phong cho Linh Lang ... Đại Vƣơng 靈 郎 ... 大 王; Chính Tâm Cƣ Sĩ 正 心 居 仕. 5. Xã Mạc Hạ 幕 下: 33 trang, Phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (10 đạo), Quang Trung (4 đạo), Cảnh Thịnh (2 đạo). * Phong cho Tây Hải Đại Vƣơng 西 海 大 王; Đông Bảng ... Đại Vƣơng 東 榜 ... 大 王; Bàn Quận Công 磐 郡 公; Quốc Mẫu Tứ Vị Hồng Nƣơng 國 母 四 位 鴻 娘; Bảo Phúc ... Đại Vƣơng 保 福 ... 大 王; Bảo Lộc ... Đại Vƣơng 保 祿 ... 大 王. 6. Xã Mai Xá 枚 舍: 13 trang, Phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (4 đạo), Cảnh Thịnh (3 đạo). * Phong cho Chàng Ả Đô Thiên Đại Vƣơng 撞 婀 都 天 大 王 ; Ngũ Lôi Đại Tƣớng Quân Đại Vƣơng Thần sắc 4 xã thuộc tổng An (Yên) Khê, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. 1. Xã Thận Tu 慎 修: 13 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Cảnh Thịnh (3 đạo). * Phong cho Lục Lai Chiêu Nghĩa Đại Vƣơng 六 來 昭 義 大 王; Nam Hải Đại Càn Nguyên Soái Tứ vị Hồng Nƣơng 南 海 大 乾 元 帥 四 位 洪 娘. 2. Xã Lũng Xuyên 隴 川: 25 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (3 đạo), Cảnh Thịnh (3 đạo), Bảo Hƣng (3 đạo). * Phong cho Cao Sơn... Đại Vƣơng 高 山 ... 大 王 ; Minh Quang... Đại Vƣơng 明 光...大 王; Bùi Thủy Chủ Thánh Đức Đại Vƣơng 裴 水 主 聖 德 大 王. 3. Xã An Khê 安 溪: 11 trang, phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (3 đạo). * Phong cho Linh Hƣơng... Đại Vƣơng * 鄉 ... 大 王 ; Đông Bảng... Đại Vƣơng 東 榜...大 王; Đông Bính... Đại Vƣơng 東
267
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
137.
AD. A16/8
Hán
1 bản viết, 116 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
tỉnh, Nam Định Hải Hậu huyện, Tân Khai tổng các xã thần sắc 南 定 省 海 後 縣 新 開 總 各 社 神 敕
丙...大 王. 4. Xã Đôn Lƣơng 敦 良: 17 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (4 đạo). * Phong cho Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主; Bảng Công Đại Vƣơng 榜 公 大 王; Sơn Thần Thủy Hải Đại Vƣơng 山 神 水 海 大 王; Thiên Long Đại Vƣơng 天 龍 大 王. Thần sắc 1 ấp, 1 trại, 1 xã và 2 lý thuộc tổng Tân Khai, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. 1. Ấp Văn Lý 文 理: 17 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Thịnh (1 đạo), Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Thủy Hải Dực Thánh... Đại Vƣơng 水 海 翊 聖... 大 王. 2. Xã Thƣơng Điền 滄 田: 13 trang, phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (6 đạo). * Phong cho Cao Mang... Đại Vƣơng 皋 芒...大 王; Thánh Mẫu Trần Thị Ngọc Chân 聖 母 陳 氏 玉 珠; Đệ Tam Ngọc Nữ Quảng Cung Công Chúa 第 三 玉 女 廣 宮 公 主. 3. Lý Kiên Chính 堅 正: 13 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Quốc Mẫu Vƣơng Bà... Tứ Vị Thánh Nƣơng 國 母 王 婆...四 位 聖 娘. 4. Lý Tang Điền 桑 田 : 27 trang, phong cấp vào các năm Dƣơng Hòa (1 đạo), Chính Hòa (4 đạo), Vĩnh Thịnh (2 đạo), Cảnh Hƣng (5 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo). * Phong cho Hổ Mang Đại Vƣơng 虎 芒 大 王; Cƣơng Nghị... Đại Vƣơng 剛 毅...大 王; Vũ Huân Tƣớng Quân 武 薰 將
268
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
138.
AD. A16/14
Hán
1 bản viết, 27 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện, tổng Đồng Phù các xã thần sắc 南 定 省 美 祿 縣 同 符 總 各 社 神 敕
公 Chánh Đội Trƣởng Hƣng Tƣờng Hầu Lê Côn 正 隊 長 興 祥 候 黎 琨; Khƣơng Quận Công Lê Trân 姜 郡 公 黎 珍; Lập Quận Công Lê Châu 立 郡 公 黎 珠; Vũ Thị Bàng 武 氏 旁. 5. Trại Hòa Định 和 定: 27 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Tộ (1 đạo), Đức Long (1 đạo), Dƣơng Hòa (1 đạo), Phúc Thái (1 đạo), Thịnh Đức (1 đạo), Vĩnh Thọ (1 đạo), Cảnh Trị (1 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Cảnh Hƣng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Viên Dung... Đại Vƣơng 圓 融...大 王. Thần sắc 5 xã thuộc tổng Đồng Phù, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. * Phong cho Thánh Mẫu Đệ Tam Trần Thị Ngọc Chân... Công Chúa 聖 母 第 三 陳 侍 玉 真...公 主; Đệ Tam Ngọc Nữ Quảng Cung Công Chúa 第 三 玉 女 廣 宮 公 主. 2. Xã Hạnh Khẩu 杏 口: 9 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Thịnh (1 đạo), Cảnh Hƣng (1 đạo). * Phong cho Linh Lang Đô Đại Vƣơng 靈 郎 都 大 王 大 王. 3. Xã Vô Hoạn 無 患: 5 trang, phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (2 đạo). * Phong cho Thánh Mẫu Trần Thị Ngọc Chân... Công Chúa 聖 母 陳 侍 玉 真 公 主; Đệ Tam Ngọc Nữ Quảng Cung Công Chúa 第 三 玉 女 廣 宮 公 主. 4. Xã Đồng Vân 彤 雲 3 trang, phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (1 đạo). * Phong cho Đô Đức Đông Hải... Đại Vƣơng 都 德 東 海...大 王. 5. Xã Thƣợng Hữu 尚 友: 3 trang, phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (1 đạo). * Phong cho Cao Mang... Đại Vƣơng 高 芒...大 王.
269
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
139.
AD. A16/3
Hán
1 bản viết, 76 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Nam Định tỉnh, Xuân Trƣờng phủ, Giao Thủy huyện, Lạc Thiện tổng các ấp thần sắc 南 定 省 春 長 府 膠 水 縣 l 樂 善 總 各 邑 神 敕
140.
AD. A7/24
Hán
1 bản viết, 32 trang
tỉnh, Bắc Ninh Quế Dƣơng huyện, Cựu Tự xã
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thần sắc 2 ấp thuộc tổng Lạc Thiện, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. 1. Ấp Hoành Lộ 橫 路: 35 trang, phong cấp vào các năm Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (2 đạo), Cảnh Hƣng (8 đạo), Chiêu Thống (5 đạo), Quang Trung (1 đạo). * Phong cho Cao Vƣơng Chi Thần 高 王 之 神; Tây Thị Công Chúa 西 侍 公 主; Đức Kế Đại Vƣơng 德 繼 大 王; Trấn Quốc Đại Vƣơng 鎮 國 大 王; Nhậm Trung Hầu... Đại Vƣơng 任 忠 候...大 王; Vũ Huân Tƣớng Quân 武 薰 將 公; Thánh Mẫu Đệ Tam Trần Thị Ngọc... Quế Hoa Công Chúa 聖 母 第 三 陳 氏 玉...桂 花 公 主; Đệ Tam Ngọc Nữ Quảng Cung Công Chúa 第 三 玉 女 廣 宮 公 主; Cao Mang... Đại Vƣơng 高 芒...大 王 ; Đông Hải... Đại Vƣơng 東 海...大 王; Đô Hồ... Đại Vƣơng 都 胡...大 王. 2. Ấp Trừng Nguyên 澄 源: 39 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Trị (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (10 đạo), Chiêu Thống (2 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Đô Hồ... Đại Vƣơng 都 胡... 大 王; Đệ Tam Ngọc Nữ Quảng Cung Công Chúa 第 三 玉 女 廣 宮 公 主; Thánh Mẫu Trần Thị Ngọc... Quế Hoa Công Chúa 聖 母 陳 氏 玉...桂 花 公 主; Thủy Hải Dực Thánh... Đại Vƣơng 水 海 翊 聖...大 王; Linh Lang... Đại Vƣơng 靈 郎...大 王; Quý Minh Đông Hải Đại Vƣơng 貴 明 東 海 大 王; Lập Quận Công Lê Châu 立 郡 公 黎 珠; Minh Nghị Tƣớng Quân Lê Côn 明 毅 將 軍 黎 琨 ; Cao Mang... Đại Vƣơng 高 芒...大 王. Thần sắc 3 xã thuộc huyện Quế Dƣơng, tỉnh Bắc Ninh. 1. Xã Cựu Tự 舊 寺: 28 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Khánh (2 đạo), Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Cảnh
270
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
thần sắc 北 寧 省 桂 陽 縣 舊 寺 社 神 敕
141.
AD. A2/50.
Hán
1 bản viết, 234 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Đông tỉnh, Hoài Đức phủ, Từ Liêm huyện, Thƣợng Ốc tổng các xã thần sắc 河 東 省 懷 德 府 慈 廉 縣 上 沃 總 各 社村 神 敕
Thịnh (1 đạo). * Phong cho Đôn Hậu Dũng Mãnh... Đại Vƣơng 惇 厚 勇 猛... 大 王; Khai Thiên Phúc Nguyên... Hoàng Đế 開 天 福 元...皇 帝. 2. Xã Châu Cầu 珠 球: 2:trang, phong cấp vào năm Quang Trung (1 đạo). * Phong cho Thiên Tiên Thánh Mẫu... Công Chúa 天 仙 聖 母 ...公 . 3. Xã An Trạch 安 宅: 2 trang, phong cấp vào năm Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Thiện Dục Phi Nhân... Hoàng Thái Hậu 善 欲 妃 仁...皇 太 后 Thần sắc 3 thôn và 5 xã thuộc tổng Thƣợng Ốc, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. 1. Thôn An Hạ 安 下, xã Thƣợng Ốc 上 沃: 32 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho 5 Thành Hoàng. 2. Thôn Ngự Câu 御 溝, xã Thƣợng Ốc: 14 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho 5 Thành Hoàng. 3. Thôn Đào Nguyên 桃 源, xã Thƣợng Ốc: 8 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho 5 Thành Hoàng. 4. Xã Đông Lao 東 牢: 94 trang, phong cấp vào các năm Thịnh Đức (2 đạo), Vĩnh Thọ (1 đạo), Vạn Khánh (5 đạo), Cảnh Thịnh (3 đạo), Dƣơng Đức (3 đạo), Vĩnh Trị (1 đạo), Chính
271
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Hòa (10 đạo), Vĩnh Thịnh (4 đạo), Vĩnh Khánh (3 đạo), Cảnh Hƣng (10 đạo), Chiêu Thống (4 đạo). * Phong cho Uy Linh... Đại Vƣơng 威 靈...大 王; Thôi Tốc... Đại Vƣơng 崔 速...大 王; Trƣờng Lạc Công Chúa 長 樂 公 主; Kiêm Quận Công Nguyễn Minh Triều 兼 郡 公 阮 明 朝 ; (Nguyễn Công Triều 阮 公 朝 ) và ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, bố mẹ của Nguyễn Công Triều; Nghiêm Vũ Hầu Nguyễn Công Hàn 阮 公 翰 * Có bài chế thăng Kiêm Lộc hầu Nguyễn Minh Triều là Đề đốc, tƣớc Quận công. 5. Xã Lại Dụ 瀨 裕: 30 trang, phong cấp vào các năm Phúc Thái (1 đạo), Khánh Đức (1 đạo), Thịnh Đức (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (5 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo), Bảo Hƣng (1 đạo). * Phong cho Thiên Tiên... Công Chúa 天 仙 ... 公 主 . 6. Xã Thanh Quang 清 光: 6 trang, phong cấp vào các năm Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho 5 vị Quốc Chủ Đại Vƣơng: Vƣợng Trên 旺?; Vƣợng Tế 旺 濟... 7. Xã Phƣơng Quan 芳 關: 24 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Khánh (2 đạo), Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (2 đạo), Cảnh Thịnh (2 đạo). * Phong cho Vua Cả Cây Roi Đại Vƣơng *奇核 檑...大 王; Nôi Cả Nôi Hai Nôi Ba Đại Vƣơng *奇 *...大 王; Đại Quân... Đại Vƣơng 大 軍 ... 大 王; Đại Lang Nhị Lang Tam Lang Đại Vƣơng 大 郎 二 郎 三 郎 大 王. 8. Xã Vân Côn 雲 疆: 24 trang, phong cấp vào các năm Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (2 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo), Quang Trung (3 đạo).
272
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
142.
AD. A3/3
Hán
1 bản viết, 126 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hƣng Yên tỉnh, Kim Động huyện các xã thần sắc 興 安 省金洞 縣 各 社 神 敕
* Phong cho: Hùng Tài... Đại Vƣơng 雄 才...大 王; Thiên Hỏa Lôi Công Đại Vƣơng 天 火 雷 公 大 王; Trần Quốc... Đại Vƣơng 陳 國...大 王. Thần sắc 10 xã thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hƣng Yên. 1. Xã Nho Lâm 儒 林: 8 trang, phong cấp vào các năm Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (1 đạo). * Phong cho Bảo Trung... Đại Vƣơng 保 忠 ... 大 王 . 2. Xã Đức Triêm 德 霑: 14 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (2 đạo), Minh Mệnh (1 đạo). * Phong cho Thiên Trung Đại Tƣớng Chủ Thuyên Linh Thần Đại Vƣơng 天 中 大 將 主 耑 靈 神 大 王; Đô Thiên Phụ Quốc Quản Chính Thƣợng Sĩ Đại Vƣơng 都 天 輔 國 管 正 上 仕 大 王; Uy Linh.... Đại Vƣơng 威 靈...大 王 và Chế Thắng Công Chúa 制 勝 公 主; Phổ Hộ Phù Tộ Lƣu Lang... Đại Vƣơng 普 度 扶 祚 劉 郎...大 王; Hùng Nghị... Đại Vƣơng 雄 毅...大 王. 3. Xã Kim Đằng 金 藤: 10 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Ông Điền Quý Công Đại Vƣơng 翁 佃 貴 公 大 王. 4. Xã Đào Xá 陶 舍: 14 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (2 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Vũ Thiên... Đại Vƣơng 武 天...大 王. 5. Xã Bồng Châu 蓬 洲: 40 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Phổ Hộ Thƣợng Sĩ Đại Vƣơng 普 護 上 仕 大 王. 6. Xã Yên Xá 安 舍: 6 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Quảng Hựu Thông Linh Mãnh Lang Quan
273
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Tƣớng... Đại Vƣơng 廣 佑 通 靈 猛 郎 官 將...大 王. 7. Xã Đằng Man 藤 蔓: 10 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Ông Điền Quý Công Đại Vƣơng 翁 佃 貴 公 大 王. 8. Xã Lai Hạ thƣợng 來 賀 上: 4 trang, phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (1 đạo). * Phong cho Uy Linh... Đại Vƣơng 威 靈 ... 大 王 . 9. Xã Lai Hạ 來 賀: 4 trang, phong cấp vào năm Cảnh Hƣng (1 đạo). * Phong cho Du Tiên... Đại Vƣơng 遊 仙...大 王. 10. Xã Mậu Giang 茂 江: 14 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Long Quân Ngọc Nữ Linh ứng Diệu Huyền Hoàng Thái Hậu Hoa Dƣơng... Công Chúa 龍 君 玉 女 靈 應 妙 玄 皇 太 后 花 楊...公 主.
143.
AD. A10/4
Hán
1 bản viết, 24 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Thần sắc xã Hát Môn, tổng Phù Long, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (5 đạo), Chiêu Thống (2 đạo), Quang Trung (2 đạo), Cảnh Thịnh (2 đạo). * Phong cho Dực Thiên Chế Thắng Bảo Tín... Phu Nhân 翊 天 制 勝 保 信... 夫 人.
Sơn Tây tỉnh, Phúc Thọ huyện, Phù Long tổng, Hát Môn xã thần sắc 山 西 省 福 壽 縣 扶 龍 總 喝 門 社 神 敕
144.
AD. A16/7
Hán
1 bản viết, 83 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Nam ĐỊnh tỉnh, Hải Hậu huyện, Quế Hải tổng các xã thần sắc 南 定 省 海 後 縣 桂 海
Thần sắc 3 xã thuộc tổng Quế Hải, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. 1. Xã Thanh Trà 青 茶: 29 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (9 đạo), Chiêu Thống (2 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Quí Minh Đông Hải... Đại Vƣơng 貴 明 東 海...大
274
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
總 各 社 神 敕
145.
AD. A16/11
Hán
1 bản viết, 130 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện, Cao Đài tổng các xã thần sắc 南 定 省 美 祿 縣 高 臺 總 各 社 神 敕
王; Linh Lang Đô Đại Vƣơng 泠 郎 都 大 王; Đô Hộ Uy Linh... Đại Vƣơng 都 護 威 靈...大 王. 2. Xã Trung Phƣơng 中 芳: 39 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Trị (1 đạo), Chính Hòa (2 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Cảnh Hƣng (8 đạo), Chiêu Thống (2 đạo), Quang Trung (2 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Vũ Huân Tƣớng Quân 武 勳 將 軍; Minh Nghị Tƣớng Quân... Lê Côn 明 毅 將 軍...黎 琨; Lập Quận Công... Lê Châu 立 郡 公...黎 珠; Câu Mang... Đại Vƣơng 勾 芒...大 王; Linh Lang Đô Đại Vƣơng 靈 郎 都 大 王; Hiếu Túc Đại Vƣơng 孝 肅 大 王. 3. Xã Liên Phú 連 富: 13 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Tây Thị Tiên Cung Thánh Mẫu Đại Vƣơng 西 侍 仙 宮 聖 母 大 王. Thần sắc 3 thôn, 1 giáp và 5 xã thuộc tổng Cao Đài, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. 1. Xã Dị Sử 易 使: 7 trang, phong cấp vào năm Cảnh Trị (2 đạo). * Phong cho Lập Quận Công Lê Châu 立 郡 公 黎 珠. * Có bài chế của Hoàng thƣợng ca ngợi công đức của Lập Quận Công, viết năm Thịnh Đức 5 (1657). 2. Thôn Diên 延, xã Lƣơng Xá 良 舍: 7 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Quí Minh Đông Hải... Đại Vƣơng 貴 明 東 海...大 王. 3. Thôn Mai Xá 枚 舍: 7 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh
275
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Thịnh (1 đạo), Cảnh Hƣng (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Thủy Hải... Đại Vƣơng 水 海...大 王. 4. Thôn Đồng Nhuệ 同 銳, xã Lê Xá 黎 舍: 11 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Tộ (1 đạo), Long Đức (1 đạo), Cảnh Hƣng (2 đạo). * Phong cho Thƣợng Tƣớng Quân... Lê Nhƣ Duệ 上 將 軍...黎 如 睿; Tán Trị Công Thần... Lê Quang Tịnh 贊 治 功 臣...黎 光 靖; Tán Quốc Công Lê Khôi 贊 國 公 黎 魁; Đông Hải... Đại Vƣơng 東 海...大 王. 5. Xã Động Phấn 洞 粉: 25 trang, phong cấp vào các năm Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (7 đạo), Vĩnh Thịnh (3 đạo), Cảnh Hƣng (1 đạo). * Phong cho Lập Quận Công Lê Châu 立 郡 公 黎 珠; Khƣơng Vũ Hầu... Lê Trân 姜 武 候 ... 黎 珍 ; Vũ Thị Bàng 武 氏 旁 (Khƣơng Quận Phu Nhân); Chánh Đội Trƣởng Hƣng Tƣờng Hầu Lê Côn 正 隊 長 興 祥 候 黎 琨. 6. Xã Đặng Xá 鄧 舍: 33 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (8 đạo), Chiêu Thống (8 đạo). * Phong cho Hựu Đức Đại Vƣơng 祐 德 大 王; Quỳnh Phi Công Chúa 瓊 妃 公 主; Bạch Mã... Đại Vƣơng 白 馬...大 王 ; Tây Thị Tiên Cung Thánh Mẫu Đại Vƣơng 西 侍 仙 宮 聖 母 大 王; Đức Kế Đại Vƣơng 德 繼 大 王; Vũ Thành Trấn Quốc Đại Vƣơng 武 城 鎮 國 大 王. 7. Xã Tiểu Liêm 小 廉: 23 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (4 đạo), Cảnh Thịnh (2 đạo), Chiêu Thống (2 đạo). * Phong cho Đông Hải... Đại Vƣơng 東 海...大 王; Câu Mang... Đại Vƣơng 勾 芒...大 王; Khiếu Thiên Đại Vƣơng 叫 天 大 王 ; Bảo Hối Đại Vƣơng 寶 誨 大 王. 8. Xã Lƣơng Xá 良 舍: 5 trang, phong cấp vào các năm Cảnh
276
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
146.
AD. A12/7
Hán
1 bản viết, 24 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
tỉnh, Kiến An Tiên Lãng huyện, Cẩm Khê tổng, Mỹ Lộc xã thần sắc 建 安 省 先 郎 縣 錦 溪 總 美 祿 社 神 敕
(1
147.
AD. A2/28
Hán
1 bản viết, 28 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hà Đông tỉnh, Sơn Lãng huyện, Đại Bối tổng các xã thần sắc 河 東 省 山 郎 縣大 貝 各 社 神 敕
148.
AD. A2/53.
Hán
1 bản viết, 264 trang
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
tỉnh, Hà Đông Thanh Trì huyện, Cổ Điển tổng các xã thần sắc 河 東
Hƣng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Thƣợng Tƣớng Quân Nhậm Trung Hầu... Đại Vƣơng 上 將 軍 任 忠 候...大 王. 9. Giáp Thƣợng 上, xã Mai Xá 枚 舍: 17 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Đô Hồ... Đại Vƣơng 都 湖...大 王. Thần sắc xã Mỹ Lộc thuộc tổng Cẩm Khê, huyện Tiên Lãng, tỉnh Kiến An, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (3 đạo), Quang Trung (3 đạo), Cảnh Thịnh (3 đạo). * Phong cho Cao Sơn... Đại Vƣơng 高 山...大 王; Thánh Mẫu Nguyên Quân Đại Vƣơng 聖 母 元 君 大 王; Bạt Hải... Đại Vƣơng 拔 海...大 王. Thần sắc 3 xã thuộc tổng Đại Bối, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Đông. 1. Xã Triều Khê 潮 溪: 8 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), đạo). Thịnh Cảnh * Phong cho Linh Lang Đại Vƣơng 靈 郎 大 王. 2. Xã Ngoại Đô 外 都: 8 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Gia đạo). (1 Long 3. Xã Thọ Vực 壽 域: 8 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Hƣng (3 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo). * Phong cho Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主... 完 正 居 士 Thần sắc 7 xã thuộc tổng Cổ Điển, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. 1. Xã Cổ Điển 古 典: 48 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Tộ (1 đạo), Đức Long (1 đạo), Dƣơng Hòa (1 đạo), Thịnh Đức (1
277
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
省 青 池 縣 古 典 總 各 社 神 敕
đạo), Vĩnh Thọ (1 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Phu gia... Đại Vƣơng 夫 嘉...大 王; Trang Nhất Phu Nhân 莊 一 夫 人. 2. Xã Ích Vịnh 益 詠: 14trang, phong cấp vào các năm Dƣơng Đức (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo). * Phong cho Trung Thiên Quảng Độ Thƣợng Sĩ Tô Đại Liệu Tƣớng Quân 中 天 廣 度 上 士 蘇 大 料 將 軍; Gia Hạnh... Công Chúa 嘉 行...公 主. 3. Xã Ngọc Hồi 玉 回: 22 trang, phong cấp vào các năm Cảnh Trị (1 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (5 đạo). * Phong cho Thành Hoàng là Quảng Hóa Cƣ Sĩ 廣 化 居 士. 4. Xã Cƣơng Ngô 崗 梧: 48 trang, phong cấp vào các nămVĩnh Tộ (1 đạo), Đức Long (1 đạo), Dƣơng Hòa (1 đạo), Thịnh Đức (1 đạo), Vĩnh Thọ (1 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Phu Gia... Đại Vƣơng 孚 嘉...大 王; Trang Nhất Phu Nhân 莊 一 孚 人. 5. Xã Đông Trì 同 池: 48 trang, phong cấp vào các năm Vĩnh Tộ (1 đạo), Đức Long (1 đạo), Dƣơng Hòa (1 đạo), Thịnh Đức (1 đạo), Vĩnh Thọ (1 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Phu Gia... Đại Vƣơng 孚 嘉...大 王; Trang Nhất Phu Nhân 莊 一 孚 人. 6. Xã Lƣu Phái 劉 派: 26 trang, phong cấp vào các năm Cảnh
278
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Trị (1 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hƣng (7 đạo). * Phong cho Uy Linh Lang Đại Vƣơng 威 靈 郎 大 王; Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主. 7. Xã Văn Điển 文 典: 48 trang, phong cấp vào các năm Dƣơng Hòa (2 đạo), Phúc Thái (3 đạo), Dƣơng Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Cảnh Hƣng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo). * Phong cho Phu Gia... Đại Vƣơng 孚 嘉...大 王; Trang Nhất Phu Nhân 莊 一 夫 人.
CÔNG VĂN
tổng
Hán
149.
A.2777
1 bản in, 288 trang
Đầu thể kỷ XX
Công văn quyển 攻文總卷
1. Nghi thức các lễ chầu văn, kì an, cầu thọ, nhƣơng tinh, giải ách... 2. Văn chầu, sớ, biểu, hịch, diệp, khải, cáo, trạng... dùng trong cúng lễ.
LINH THIÊM (QUẺ BÓI)
150.
Hán
Cuối thế kỷ XIX
50 thẻ bói ở miếu Thánh Mẫu, dùng để bói các việc xuất hành, mất của, bệnh tật, gia trạch, cƣới xin…
1 bản viết, 108 trang, 1 tựa
Thánh Mẫu linh tiêm 聖母靈韱
A.2431 Paris. EFEO.MF.II/ 6/93
CÁC LOẠI HÌNH KHÁC (ĐỊA CHÍ, TRUYỆN - KÝ LỤC, CÂU ĐỐI, GHI CHÉP VỀ TỤC LỆ, THƠ VĂN, NGÂM VỊNH, TẠP KÝ…)
151.
A.609 MF.1341
Hán và Nôm
Thành Thái 5 (1893)
1 bản viết, 308 trang, 1 tựa, 1 mục lục
Nam Định tỉnh đại dƣ chí 南 定 省 地 輿 誌
Nhuệ Khê Ôn Ngọc//銳 溪 溫 玉 soạn
Địa chí tỉnh Nam Định, gồm thành trì, núi sông, cầu cống, đƣờng sá, nhân vật, phong tục, phƣơng ngôn, cổ tích, kĩ nghệ, sản vật.. Thơ đề vịnh, cảm hoài, và văn bia, minh, tán... ở các đề chùa, Văn Miếu... Bài phú của TN Nguyễn Hiền.
152.
VHv.1503
Hán
Đầu thế kỷ XX
Tóm lƣợc các chuyện trong Việt điện u linh, liệt kê các nữ thần hiển linh trong đó có Liễu Hạnh Công chúa
Việt điện u linh 越甸幽靈
54 trang, 1 tựa của tác giả, 1 bạt của Lê Thuần Phủ đề Vĩnh nãm
279
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
8
Thịnh (1712).
153.
A.2975
Hán
Đầu thế kỷ XX
1 bản in, 70 trang
Nội đạo tràng 內 道 場
Truyện Thƣợng sƣ Phật tổ tên là Lành, tự Ngọc Trân, ngƣời Châu ái (Thanh Hóa), tu hành đắc đạo, trừ đƣợc ma tà yêu quái, giúp dân yên ổn làm ăn. Sau có công chữa bệnh cho vua Lê Thần Tông (1619-1662), đƣợc tặng danh hiệu "Nội Đạo Tràng". Truyện có liên quan tới Công chúa Liễu Hạnh
Nguyễn Tảo// 阮 藻 , tự Pháp Ngôn// 法 言 , biệt hiệu Văn Trai//文 齋 biên tập. Nhà in Đông Kinh in năm Thành Thái Nhâm Dần (1902).
154.
Đầu thế kỷ XX
Hán và Nôm
1 bản viết, 100 trang
Thính văn dị lục 聽聞異錄
A.2954. Paris.EFEO. MF.II/6/1004 ( A.593 )
37 truyện nhân vật lịch sử, văn hoá, ma quái, thần linh: Nguyễn Xí, Nguyễn Nghiêu Tƣ, Phùng Khắc Khoan, TN Giáp Hải, Bùi Sĩ Tiêm, Nguyễn (Đoàn) Thị Điểm, Triều Khẩu linh từ, ngƣời tiên Phạm Viên, đầm Đỗ Lân, Khách chôn vàng, chó trắng 3 chân… Thơ cảm thán thời thế. Trong đó có Liễu Hạnh sự tích ký (Sự tích Liễu Hạnh)
155.
Nôm
AB.472 MF.1013
Tập truyện về những anh hùng hào kiệt, những bậc tài hoa, những danh hiền mãnh tƣớng, những sƣ tăng đạo sĩ có tiếng tăm... của Việt Nam. Trong đó có Tiên chúa Liễu Hạnh
2 bản viết, 296 trang 1 tựa, 1 tiểu dẫn, 1 mục lục.
Nam Hải dị nhân liệt truyện diễn âm 南 海 異 人 列 傳 演 音
Phan Kế Bính 潘 繼 柄 diễn Nôm tựa và viết năm Duy Tân Nhâm Tí Lê (1912). Văn Phúc 黎 文 福 hiệu chính. Chép
280
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
lại năm Khải Định thứ nhất (1916).
156.
Hán
VHv.1276/2 VHv. 1276/4
Cuối thế kỷ XIX
Bách thần lục 百 神錄
Sự tích 560 vị thần thờ ở các nơi trong nƣớc. Mỗi vị thần đều có ghi rõ sự tích (họ tên, quê quán, sự tích, linh ứng, mĩ tự bao phong của các triều đại phong kiến) và nơi thờ cúng. (Bộ sƣu tập này hiện chỉ còn T2 gồm 300 vị thần, và T4 gồm 260 vị thần).
2 bản viết (4 tập): VHv. 1276/2: 170 trang VHv. 1276/4: 334 trang
157.
Hán
VHv. 1290. MF. 1754
Danh hiệu, sự tích và nơi thờ các vị thần trong t. Thanh Hoa (Thanh Hoá)
1 bản viết, 192 trang
Chép năm Thành Thái 15 (1903)
Thanh Hóa chƣ thần lục 清華諸神 錄
158.
VHv.2407
Cuối thế kỷ XIX
Hán và Nôm
1 bản viết, 32 trang
Việt nam danh nhân sự tích liệt truyện 越 南 名 人 事跡列傳
159.
A.2818
Đầu thế kỷ XX
Hán và Nôm
Lão song thô lục 老 窗 粗 錄
1 bản viết, 165 trang. Ghi là Nguyễn Bính soạn 1572, Nguyễn Hiền sao 1736
160.
Nôm
Đầu thế kỷ XX
A.3178 A.3197 (bản sao)
Bản quốc dị văn 本 國 異 文 [Bản quốc dị văn lục 本 國 異 文 錄]
Những truyện ngắn về các nhân vật lịch sử và các di tích lịch sử nổi tiếng ở Việt Nam: Nguyễn Trãi, Phùng Khắc Khoan, Giáp Hải, chùa Quang Minh, chùa Bối Khê, đền thiêng ở Thanh Hóa… (Sách thiếu trang đầu và một số trang cuối). 1. 19 truyện về vua chúa, danh nhân triều Lê; Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Liễu Hạnh, Nguyễn Bỉnh Khiêm... 2. Các khoa thi Đình triều Lê và những ngƣời đỗ TN trong các kì thi ấy. 3. Sự tích Chử Đồng Tử và Tiên Dung do Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất (1572) và Nguyễn Hiền chép lại năm Vĩnh Hựu 2 (1736). 30 truyện lạ: truyện dân gian (Tiếc vàng chôn mẹ, Vua đến nhà, Chó trắng ba chân...); truyền thuyết lịch sử (Đƣợc thần báo mộng tại đền Trấn Vũ); giai thoại, truyền thuyết về các nhân vật lịch sử (Nguyễn Quốc Công, Ngô Tuấn Cung, Nguyễn Nghiêu Tƣ, Trần Danh Tiêu, Đỗ Lâm Đàm, Trần Bá Xƣởng, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Công Hãng, Lí Trần Quán, Bùi Sĩ Tiêm, Tiên nhân Phạm Viên, Giáp Hải, Đại Vƣơng ốc...).
2 bản viết: A. 3178: Bản quốc dị văn lục, 67 trang. A. 3197: Bản quốc dị văn, trang, 1 73
281
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Trong có giai thoại, truyền thuyết về nhân vật lịch sử Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan hội ngội Liễu Hạnh công chúa
mục lục, chữ viết trái từ sang phải, sao từ bản A. 3178.
161.
VHv.2450/1
Khải Định 8 (1923)
Lê Trọng Hàm biên tập
Bảo Hán Châu Liên 保漢珠聯
Hán và Nôm, Quốc ngữ, Pháp
1 bài tựa đề Thành năm Thái 19 (1907), 1 bài tựa đề năm Duy Tân 6 (1912). 1 bản viết, (bộ 11 tập) 682 trang, 1 mục lục, 3 tựa, có chữ Nôm, chữ Quốc ngữ, chữ Pháp.
162.
VHv.2660
Hán
Đầu thế kỷ XX
Cát sự đối liên 吉 事對聯
1 bản viết, 72 trang, 1 mục lục
163.
AF. A11.35
Hán
1 bản viết, 292 trang
Cuối thế kỷ XIX
Nam Định tỉnh Vụ Bản huyện Đồng Đội tổng các xã tục lệ 南 定 省 務 本縣 同
Bộ sƣu tập về câu đối, trƣớng, hoành phi chữ Hán và chữ Nôm, gồm: Tập 1: Các câu đối, hoành phi, trƣớng ở đền, chùa, quán miếu... Tập 2 và 3: Các loại câu đối mừng tặng nhau trong khi có việc vui. Tập 4, 5, 6 và 7: Các loại câu đối phúng viếng, dùng trong dịp chia buồn. Tập 8: Đề vịnh. Tập 9: Văn Trung Quốc. Tập 10: Văn Việt Nam. Tập 10b: 106 vận bộ tiếng Hán. Những kiến thức về thiên văn, địa lý; các nƣớc châu á; núi cao sông lớn của toàn cầu; niên biểu lịch sử Việt Nam... viết theo thể ca 6 8. Hán học chỉ nam, sách giáo khoa dạy chữ Hán dùng trong bậc tiểu học. Sách hiện thiếu các tập 2, 3, 4, 5, 6, 7, 9. Phần Nôm, có một số câu đối của Hồ Xuân Hƣơng và Đoàn Thị Điểm. Phần Phụ lục, cho biết Đặng Xuân Viện có soạn sách Tân thƣ Những câu đối, liễn để ở cung điện (19câu), Vƣơng phủ triều Lê (7 câu), Đông cung (14câu), Cung mẫu (14 câu), đền ở Vƣơng phủ (13 câu) v. v Một số câu đối để ở các dinh thự thuộc tỉnh Sơn Tây, hoặc ở các đền chùa. Tục lệ 4 xã thuộc tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định: 1. Xã Trang Nghiêm Hạ : 24 trang, gồm 29 điều, lập ngày 20 tháng Giêng năm Tự Đức 4 (1851). 2. Xã Xuân Bảng : 102 trang, gồm 44 điều lệ về việc tế tự và 26 điều lệ của hội Tƣ văn, lập ngày tháng mạnh xuân năm Tự Đức
282
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
隊 總 各 社 俗 例
164.
VHv.1864
Hiên Sinh
Đầu thế kỷ XX
Hán và Nôm
1 bản in, 141 trang
Thƣ Tiên điểm duyệt
Yên Đổ tiến sĩ thi tập 安 堵 進 士 詩 集
20 (1867). * Có một số bài văn tế. 3. Xã Tiên Hƣơng : 62 trang, gồm 63 điều, lập ngày 25 tháng Giêng năm Tự Đức 3 (1850). * Có một số bài văn tế. 4. Xã Vân Cát : 106 trang, gồm 75 điều, lập ngày 1 tháng 11 năm Tự Đức 10 (1857). * Có một số bài văn tế. Thơ Yên Đổ (Nguyễn Khuyến): thơ đề vịnh, thù đáp, tiễn tặng bạn bè; thơ vịnh Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tô Hiến Thành, Chu An, Nguyễn Trực…; thơ vịnh Gia Cát Lƣợng, Quan Công, Tào Tháo, Giả Nghị, Tô Vũ, Mã Viện…; thơ vịnh đền Trƣng Vƣơng, miếu Liễu Hạnh Thánh Mẫu, đền Mị Ê… 2 bài thơ Nôm: tặng bạn; tặng anh rể. Có thơ vịnh miếu Liễu Hạnh Thánh Mẫu
165.
AB.293
Đầu thế kỷ XX
Nôm và Hán
1 bản viết, 84 trang, 2 tựa, 2 bạt, 2 chí
Nhƣ Khuê thị học ngữ tập 如 珪 氏 學 語 集 = Vĩnh Hồ Nhƣ Thị học ngữ 永 湖 如 珪 氏 學 語
1. 10 bài thơ Nôm vịnh Kiều: Vƣơng Quan kể về Đạm Tiên; Thúy Kiều xúc động về chuyện Đạm Tiên; gặp nhau trong tiết Thanh minh, tiễn Kim Trọng, tự than... 2. Tạp thi (chữ Hán, trang 84): xƣớng họa với ni cô, với bạn; tiễn bạn đi Sơn Tây; nói chuyện với trăng, vịnh cúc, tự than, tự cƣời, tƣơng tƣ... 3. Các bài văn Nôm, văn phả khuyến, văn bia hậu Phật...
Nguyễn Nhƣ Khuê soạn và viết tựa. Trƣơng sĩ Côn cƣ triều Thanh viết tựa. Nguyễn Cung và Lê Trai Thúc mỗi ngƣời viết 1 bài bạt Đặng Bằng Lâm và Trần Nhiên Ái mỗi ngƣời viết 1 bài chí.
283
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
166.
A.2929
Niên đại định bản Đầu thế kỷ XX
Hán và Nôm
1 bản viết, 128 trang
Tự ký văn thƣ tạp tập 序記文書雜集
167.
VNb.58
Nôm
Đầu thế kỷ XX
1 bản viết, 52 trang
Dân gian cổ ngâm 民間古吟
168.
Nôm
VNv.78 MF.1708
Đầu thế kỷ XX
1 bản viết, 130 trang
Thi ca tạp ký 詩 歌雜記
Tự, dẫn, kí, thi, từ, văn cúng, văn tế, trƣớng, câu đối, hoành phi, thơ giáng bút... sƣu tầm tại xã Dũng Liệt, huyện Thanh Trì 4 bài hát ru con theo 4 mùa (Tứ thời bão tử) và một số thơ giáng bút của Tiên, Thánh, Chúa... khuyên ngƣời đời phải biết sửa mình, ăn ngay, ở thật tình 1. Thơ (Nôm): thơ giáng bút của Tiên, Thánh, Phật khuyên ngƣời đời sống lƣơng thiện, đồng bào phải biết thƣơng yêu nhau, kẻ giàu phải giúp đỡ ngƣời nghèo, có lòng yêu nƣớc và quyết tâm cứu nƣớc. 2. Văn (Hán): truyện họ Trần nhờ sắc đẹp đƣợc làm vua; Đinh Tiên Hoàng; Cƣờng Bạo Đại Vƣơng chống Thiên Lôi; Yết Kiêu đục thuyền đánh quân Nguyên; TS Vũ Hồn, Trạng Vật (Vũ Phong); Trạng Cơm (Lê Nhƣ Hổ); Quách Giai; Lê Cảnh Tuân; Đại Hƣng Hầu… Sách chép lên mặt sau của giấy đã có chữ.
KHẢO CỨU
169.
Hán
Bảo Đại 10 (1935)
Thiên Tiên truyện khảo 天仙傳攷
A.3094 Paris.EFEO. MF.II/6/994.
1 bản viết, 80 trang, 1 tựa, 1 dẫn, 1 mục lục
Nhàn Vân Đình Trần Duy Vôn 閒 雲 亭 陳 維 ? soạn
Khảo về Công chúa Liễu Hạnh: bà là con gái Lê Đức Chính và Trần Thị Phúc, ở thôn An Thái, xã Vân Cát, huyện. Vụ Bản, tỉnh Nam Định, là một trong số 4 ngƣời “bất tử” (Liễu Hạnh, Tiên Dung, Chử Đồng Tử và Phù Đổng Thiên Vƣơng) ở Việt Nam. 41 bài thơ, 6 bài văn tế, 27 câu đối, 1 bài văn bia, 1 bài giáng bút trích từ Phổ tế chân kinh.
170.
1 bản viết
Paris.SA.PD. 2379
Hán và Nôm
1. Khảo Đồng sự ký (176 trang, 1 tựa, chữ Hán): khảo cứu về "Cô Đồng": "Cô Đồng" là vật trung gian liên hệ giữa thần linh với con ngƣời. Có cô đồng của đạo thánh và cô đồng của đạo Tiên. Quá trình của ngƣời nhận mệnh thánh ngồi đồng và hành vi cử chỉ, trang phục... của cô đồng. 2. Tiền Lí Nam Đế sự tích (11 trang, chữ Hán): Sự trạng Lí Bôn, vua nhà Tiền Lí nƣớc Nam. Lí Bôn xuất thân trong một gia đình quyền thế, nhân Vũ Lâm Hầu bạo ngƣợc, đã khởi binh chống lại và xƣng đế, ở ngôi 8 năm, sau khi chết quần thần truy
Khảo đồng sự ký 考 童 事 記 ; Tiền Lí Nam đế tích 前李南帝跡; Nam Định tỉnh khảo dị 清化省考 異 ; Thanh Hóa tỉnh khảo dị 南定 省考異; Khảo vấn
284
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
tĩnh điện 考 問 靖 殿
tặng tên thụy là Tiền Lí Nam Đế. 3. Nam Định tỉnh khảo dị (12 trang, chữ Hán): thần tích và tục lệ của dân ở xã Tiên Hƣơng, tổng. Đồng Đội, huyện. Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Gồm sự tích thiên Tiên Thánh Mẫu, các quan trong phủ Tiên Thánh Mẫu, lệ thờ cúng Thánh Mẫu, nhƣ làm loại bánh để cúng tế... 4. Thanh Hóa tỉnh khảo dị (44 trang, chữ Hán và chữ Nôm): thần tích và tục lệ của dân ở xã Cổ Đam, tổng. Trung Bạn, huyện. Tống Sơn, ph. Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Gồm tục lệ thờ cúng Tiên Thánh, sự tích Thiên Tiên Thánh Mẫu ở Sùng Sơn Linh Từ, 4 cung ở đền Sùng Sơn, các miếu Cô ở trƣớc đền, tục lệ làm bánh cúng tế và con trai con gái "ngồi đồng" chầu Thánh. 5. Khảo vấn tĩnh điện (10 trang, chữ Hán): giải thích ý nghĩa các danh từ nhƣ tĩnh, đàn, điện, công văn, đạo tràng, đồng thiếp, phù thủy, làm phép, pháp sƣ.
285
PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ TƢ LIỆU HÁN NÔM LIÊN QUAN TỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU LIỄU HẠNH VÀ MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ TẠI CÁC ĐƠN VỊ LƢU TRỮ KHÁC VÀ NGUỒN SƢU TẦM
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
1.
Hán
Thành Thái Bính Ngọ (1906)
tử đền Đệ Ngọc Giang khắc in
Tam vị thánh mẫu cảnh chân thế kinh 三位聖母警 世真經
Mã hiệu số hóa nlvnpf-0244 Mã kho R.5069
Sau tờ bìa sách in 3 hình minh hoạ của Vân Hƣơng đệ nhất Thánh mẫu 雲香第一聖母, Đệ nhị Thánh mẫu 第二聖母, Đệ tam Thánh mẫu 第三聖母. Sau mỗi hình minh hoạ có bài tán. Tiếp đến là các bài giáng kinh, bảo cáo, khai kinh của tam vị Thánh mẫu.
1 bản in, 18 trang. Chủ Thiện đƣờng, Sơn Tây tàng bản - Thƣ viện quốc gia Việt Nam
2.
Nôm
Đại Bảo bát Thập niên (1933)
Văn giáng bút bao gồm các bài cáo, tán, kệ, minh văn, của Vân Hƣơng Thánh Mẫu, Mai Hoa Công Chúa và Thƣợng Ngàn Công Chúa khuyên làm điều thiện, bỏ điều ác.
in, 30 Bản trang - Thƣ viện quốc gia Việt Nam
Mã hiệu số hóa nlvnpf-0194 Mã kho R.2233
Vân Hƣơng tam vị Thánh Mẫu cảnh chân thế kinh diễn âm 雲鄉 三位聖母警世真 經演音
Chánh Cửu phẩm Văn giai Nguyễn Ngọc Du và vợ Trần Thị Miễn khắc, cung tiến cho Phú đền Xuân, xã Hữu Bằng, tổng Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây
3.
Hán
Đầu thế kỷ XX
1 bản chép tay, 26 trang - Thƣ viện quốc gia Việt Nam
Vân hƣơng thánh mẫu linh thiêm 雲 鄉聖母灵韱
4.
Vân Cát thần nữ truyện 雲 葛 神 女 傳
1 bản viết tay, 26 trang - Thƣ viện quốc gia Việt Nam
Mã hiệu số hóa nlvnpf-1498 Mã kho R.3378 Mã hiệu số hóa nlvnpf-1023 Mã kho R.22
Một bài tựa theo thể giáng bút của Dao trì vƣơng mẫu, nói rằng lời Tiêm là lời của các vị tiên thánh mƣợn những kẻ phàm để bày tỏ cho chúng sinh kính sợ mà tụng niệm tu hành. Nay giáng đàn nơi Vĩnh Phong đàn ở Phúc Xá đề cho ngƣời đời chiêm nghiệm. “Nội dung: Sự tích vị nữ thần ở thôn Vân Cát, huyện Vụ Bản thời vua Lê Anh Tông: nữ thần tên thật là Giáng Hƣơng, lấy một ngƣời họ Đào, sinh đƣợc một con trai, 1 con gái. Năm 21 tuổi, Giáng Hƣơng chết. Sau lại đầu thai lấy một ngƣời họ Lƣu (chính là chồng cũ, cũng đầu thai), sinh thêm một con gái.
286
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
Hán
5.
Truyền kỳ tân phả 傳奇新譜
Chép lại khoảng đầu thế kỷ XX
1 bản chép tay, 79 trang - Thƣ viện quốc gia Việt Nam
Mã hiệu số hóa nlvnpf-0285 Mã kho R.1611
Ngƣời chồng thi đỗ, làm quan ở Viện Hàn lâm. Sau khi mất, Giáng Hƣơng rất linh thiêng, nhân dân làm đền thờ ở Phố Cát” Chép lại Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm (Bản khắc năm Gia Long thứ 10 - 1811 ), gồm 7 câu chuyện kì lạ do Đoàn Thị Điểm 段氏點 sƣu tầm (tiếp sau Truyền kì mạn lục 傳奇漫錄 của Nguyễn Dữ 阮嶼): Hải khẩu linh từ lục 海口靈祠錄, Vân Cát thần nữ truyện 雲葛神女傳, An ấp liệt nữ lục 安邑烈女錄, Bích Câu kì ngộ kí 碧溝奇遇記, Tùng bách thuyết thoại 松栢 説話, Long hổ đấu kì kí 龍虎鬪奇記.
sơ
số
Hán
Địa bạ xã Vân Cát
6.
Hồ 6529
Đầu thế kỷ XIX
Bản viêt tay - Trung tâm Lƣu trữ quốc gia 1
thứ
sơ
số
XIX
Hán
Địa bạ xã Yên/An Thái
7.
hồ 6525
Bản viết tay- Trung tâm Lƣu trữ quốc gia 1
thứ
Tổng tập khoa nghi và sớ văn khoa cúng tứ phủ công dồng
8.
Hán và Nôm
Năm Mão hiệu Đại
Kỷ niên Bảo năm
in, Bản nguyên bản (khắc) lƣu tại đền Phú Chí,
Phông Địa bạ triều Nguyễn: hồ sơ số 6529, lập năm Gia Long thứ 4 (1805), sao lại vào năm Minh 11 Mệnh (1830) - Địa bạ xã Vân Cát Phông Địa bạ triều Nguyễn: hồ sơ số 6525, lập năm Gia Long thứ 4 (1805), sao lại vào năm Minh Mệnh 11 (1830) - Địa bạ xã Yên/An Thái. Tứ phủ công đồng khoa nghi sớ văn hợp tập 四府公同 科儀疏文合集
287
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
14
thứ (1939)
Hán
Sự tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh (Vân Cát - Tiên Hƣơng)
9.
Năm Bảo Đại 9 (1934)
Thanh đồng Vũ Xuân Lan san khắc
Thiên Bản Vân Hƣơng Lê triều Thánh Mẫu Ngọc phả 天 本 雲 鄉 黎 朝聖母玉譜
Chƣơng Văn, - Hà Đông Nguồn sƣu tầm bản Nguyên (khắc) lƣu tại đền Cố Trạch, xã Vân Cát - sƣu Nguồn tầm
10.
Hán và Nôm
Cát Thiên tam thế thực lục 葛 天 三 世 實 錄
Khắc năm Sửu Quí hiệu niên Duy Tân (1913)
Bản in từ ván khắc đền Quảng cung - Nguồn sƣu tầm
Sách gồm các phần: Thánh Mẫu bảo cáo; Quảng Nạp linh từ phả ký; Cát Thiên tam thế thực lục tự; Cát Thiên tam thế thực lục tự tự; Cát Thiên tam thế thực lục; Cát Thiên tam thế tổng tự; Cát Thiên tam thế thực lục quốc âm; Phụ lục đề Tiên hƣơng từ thi; Cát Thiên thực lục hoàn mộc ân đệ tử tạ biểu; Cát Thiên tam thế thực lục hậu tự; Mộng thụ ký; Phụ lục Tiên hƣơng từ đối liên; Phụ lục Quảng Nạp từ linh nghiệm ký; Thánh Mẫu tán văn; Bách hoa văn; Bách dƣợc luyện văn; Tế văn.
11.
Thế kỷ XIX
Hán
Thƣ lâu phả ký 書 樓譜記
Ghi chép gia phả họ họ Lê xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng. Ông tổ dòng họ là Lê Quý Công, tự Phúc Tiên. Mẫu Liễu Hạnh thuộc đời thứ 4. Sau khi mẫu giáng sinh, họ này đổi sang họ Trần…
12.
Hán
Trần Lê gia phả 陳黎家譜
Đầu thế kỷ XX
Kế thừa nội dung “Thƣ lâu phả ký”, tiếp tục biên chép gia phả họ Lê xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng…
lƣu tại Phả thờ họ nhà Trần Lê (Tiên Hƣơng, Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định) lƣu tại Phả nhà thờ họ Trần Lê (Tiên Hƣơng, Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định)
13. Lê
tộc
lịch đại
Đầu thế kỷ
Hán
Kê thừa nội dung “Thƣ lâu phả ký”, “Trần Lê gia phả” tiếp tục Phả
lƣu
tại
288
STT
Tên tƣ liệu
Ký hiệu
Tác giả
Chữ
Nội dung lƣợc thuật
Ghi chú
Niên đại định bản
XX
ngọc phả 黎族歷 代玉譜
biên chép gia phả họ Lê xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hƣng… Cuối phả có bài ký “Tiên từ thắng ký” (Bài ký về ngôi đền thờ tiên), tức Thánh Mẫu Liễu Hạnh
thờ họ nhà Trần Lê (Tiên Hƣơng, Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định)
289
PHỤ LỤC 4: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ DI TÍCH VÀ DI SẢN TƢ LIỆU HÁN NÔM
Hình 5.1. Phủ Tiên Hƣơng (2019) - Ảnh: Tác giả
Hình 5.2. Phủ Tiên Hƣơng (2019) - Ảnh: Tác giả
290
Hình 5.3. Đại tự Từ vân tại vọng (phủ Tiên Hƣơng, 2019)
Hình 5.4. Đại tự Từ ân viễn tí (phủ Tiên Hƣơng, 2019)
Ảnh : Tác giả
Ảnh : Tác giả
291
Hình 5.5. Khảo sát lăng Thánh Mẫu, 2017 - Ảnh : Tác giả
Hình 5.6. Bình phong lăng Thánh Mẫu, 2017 - Ảnh : Tác giả
292
Hình 5.7. Mặt trƣớc phủ Vân Cát, 2017 - Ảnh : Tác giả
Hình 5.8. Bia phủ Vân Cát, 2017 - Ảnh : Tác giả
293
Hình 5.9. Câu đối nghi môn phủ Vân Cát, 2017 - Ảnh : Tác giả
294
Hình 5.10. Sắc phong cho Mẫu Liễu Hạnh năm Chính hòa Tứ niên (1683), 2018 - Ảnh: Tác giả
295
Hình 5.11. Sắc phong cho Mẫu Liễu Hạnh năm Cảnh Hƣng thứ 44 (1783) - Ảnh: Nguyễn Tô Li cung cấp
296