intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TÌNH BẠN VĨ ĐẠI VÀ CẢM ĐỘNG CỦA CÁC MÁC VÀ PH.ĂNG GHEN

Chia sẻ: Tran Linh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:16

1.166
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Người ta đã và sẽ còn tốn nhiều công sức để thảo luận, tranh luận về tầm ảnh hưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với sự phát triển của nhân loại từ thế kỉ thứ XIX về sau. Sự đánh giá đó có thể khác nhau tuỳ theo tầm nhìn, giác độ, chỗ đứng và tâm trạng của những người nghiên cứu. Song có một điều hiển nhiên, không ai có thể phủ nhận được là sự đóng góp to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen vào dòng chảy chung của văn hoá nhân loại nếu ta hiểu văn hoá là...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TÌNH BẠN VĨ ĐẠI VÀ CẢM ĐỘNG CỦA CÁC MÁC VÀ PH.ĂNG GHEN

  1. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen 1
  2. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen 2
  3. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen 3
  4. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen TÌNH BẠN VĨ ĐẠI VÀ CẢM ĐỘNG CỦA CÁC MÁC VÀ PH.ĂNG GHEN Phần I: Mở đầu Người ta đã và sẽ còn tốn nhiều công sức để th ảo luận, tranh lu ận v ề tầm ảnh hưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với sự phát triển của nhân loại từ thế kỉ thứ XIX về sau. Sự đánh giá đó có thể khác nhau tuỳ theo tầm nhìn, giác độ, chỗ đứng và tâm trạng của những người nghiên cứu. Song có một điều hiển nhiên, không ai có thể phủ nhận được là sự đóng góp to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen vào dòng chảy chung của văn hoá nhân loại nếu ta hiểu văn hoá là sự sáng t ạo, đổi m ới và phát tri ển, là những cái thuộc về lòng nhân ái, vị tha, sự sáng suốt và lòng dũng c ảm đấu tranh cho cái thiện và cái đẹp; là cách mạng, cách m ạng không ng ừng để chống lại những gì mất nhân tính, thiết lập quan hệ ứng xử giữa con người với con người trên đỉnh cao của tình nhân ái. Và tình b ạn vĩ đ ại giữa Các Mác và Ăng ghen là một trong những di sản tuyệt vời mà hai ông đã để lại cho nhân loại, là tấm gương sáng về một tình bạn m ẫu mực. Hơn thế tình bạn của hai ông đã thể hiện những đặc trưng mà sau này đã trở thành chuẩn mực để nhận biết đâu là những tình bạn chân chính. Và tình bạn vĩ đại giữa Các Mác và Ăng ghen không còn từ ngữ nào có thể diễn tả hoàn hảo hơn bằng cụm từ “tình đồng chí cộng sản”, quyết chung sức chung lòng vì hoài bão lí tưởng lớn. Phần II: Vài nét về Các Mác và Ăng ghen 1, Các Mác Karl Marx (phiên âm Việt hay đọc là Các Mác) sinh ngày 15-5-1818 trong một gia đình luật sư người Do Thái nghèo ở Trier thuộc tỉnh Rhénanie của Vương quốc Phổ. Cha ông, Heinrich, người có nguồn gốc nhiều đời làm Giáo sĩ Do Thái, đã cải đạo sang Kito giáo, dù ông có nhi ều xu h ướng thần luận. Tên thật của cha Marx là Herschel Mordechai, nhưng luật của Vương quốc Phổ không cho phép người Do Thái làm về luật pháp, ông đổi sang đạo Lu thơ. Tuổi thơ của Marx được tiếp xúc với nhiều học giả, họa sĩ thường xuyên lui tới gia đình ông. Năm 1830, Karl Marx lên 12 tu ổi, ông trở thành học sinh của trường trung học Trier. Là một h ọc sinh có chất lượng, ông có sở trường ở những môn học cần có tính chất độc lập sáng tạo. Ông cũng học tốt môn Toán. 4
  5. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen Sau khi tốt nghiệp trường trung học Trier vào mùa thu năm 1835, Marx bước vào Đại học Bonn ở tuổi 17 để học về luật. Ở đây, ông tham gia nhóm uống rượu Quán Trier và đã từng là chủ nhiệm của nó; vì thế việc học tập của ông cũng bị ảnh hưởng. Marx quan tâm đến nghiên cứu triết học và văn học, nhưng cha ông không cho phép điều đó vì ông không tin rằng Marx sẽ sống sung túc trong tương lai nếu là một học giả. Nh ững năm tiếp theo, cha của Marx buộc ông chuyển sang Đại học Friedrich Wilhemlms ở Béc lin. Khi đó, Marx viết nhiều thơ và tiểu luận liên quan đến cuộc sống, sử dụng ngôn ngữ triết học nhận được từ người cha th ần luận tự do của mình, chẳng hạn tác phẩm "Thượng đế". Trong suốt giai đoạn này, ông tiếp thu triết học vô thần của những người Hegel cánh tả (hay Hegel trẻ). Marx đạt học hàm Tiến sĩ năm 1841 với luận án mang tiêu đề: "Sự khác biệt giữa triết học tự nhiên của Epicurus với triết học tự nhiên của Democritus". Ở Berlin, Marx chủ yếu quan tâm đến triết học. Ông tham gia một nhóm sinh viên và giáo sư trẻ gọi là những “người Hegel trẻ". Đối với nhi ều người trong số họ, phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel, mặc dù chỉ với nội dung lí thuyết, đã cung cấp một vũ khí m ạnh mẽ cho việc phê bình nền chính trị và tôn giáo lúc đó. Một số thành viên đã thấy sự tương tự giữa triết học Aristote và triết học Hegel Một ng ười Hegel trẻ khác, Max Stirner, đã áp dụng sự phê bình Hegel và cho r ằng những người theo chủ thuyết vô thần thật sự là những người "ngoan đạo" (trong cuốn Der Einzige und sein Eigenthum). Quan điểm của ông không được đồng tình bởi hầu hết các đồng sự; nh ưng dù sao, cu ốn sách c ủa Stirner là lí do chính để Marx từ bỏ quan điểm của Ludwig Andreas Feuerbach để phát triển các khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Một trong những giáo sư của Marx là Nam tước Westphalen, cha của Jeny Von Westphalen vợ của Marx sau này. Vì những điều kiện kiểm duyệt tại Phổ, Marx rút khỏi ban biên tập của tờ Rheinische Zeitung, và dự định xuất bản, cùng với Arnold Ruge, m ột nhà cách mạng Đức khác. Ông tới Pháp vào cuối tháng 10 năm 1843. Paris ở thời điểm đó là nơi ở và hoạt động của nhiều nhà cách m ạng Đức, Anh, Ba Lan và Italia. Ở Paris, ngày 28 tháng 8 năm 1844, tại Cefe de la Regence ở Place du Palais ông gặp Friedrich Engels, người sẽ trở thành người bạn và đồng sự quan trọng nhất trong cả cuộc đời ông. Engels mới chỉ gặp Marx một lần trước đó (và ngắn ngủi) tại văn phòng của Rheinische Zeitung năm 1842, ông tới Paris để giới thiệu với Marx cuốn sách mới xuất bản của mình, Điều kiện của giai cấp lao động ở Anh quốc năm 1844. Cuốn sách này đã thuyết phục Marx rằng giai cấp lao 5
  6. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen động sẽ là tác nhân và công cụ của cuộc cách mạng cu ối cùng trong l ịch sử. Marx đã đánh giá lại mối quan hệ của mình với Những người Hegel trẻ, và trong hình thức một bức thư trả lời về chủ nghĩa vô th ần của Bauer viết Vấn đề Do thái. Tiểu luận này chủ yếu gồm một sự phê bình các ý tưởng hiện thời về các quyền dân sự và nhân quyền cũng như giả phóng con người; nó cũng bao gồm nhiều luận điểm chỉ trích đạo Do Thái và c ả Thiên chúa giáo từ quan điểm giải phóng xã hội. Người bạn Ăng ghen nhiệt thành, đã khơi dậy sự quan tâm của Marx với tình hình c ủa giai c ấp lao động và hướng sự chú ý của Marx vào kinh tế. Marx trở thành một người cộng sản và đã đặt ra các quan điểm của mình trong một loạt các bài viết được gọi là Các bản thảo kinh tế và triết h ọc năm 1844 không được xuất bản cho tới tận thập niên 1930s. Trong Bản thảo, Marx vạch ra một quan niệm nhân đạo của chủ nghĩa cộng sản bị ảnh hưởng bởi triết lý của Ludwig Andreas Feuerbach và dựa trên sự đối lập giữa bản ch ất xa lạ của lao động dưới chủ nghĩa tư bản và một xã hội cộng sản trong đó con người được tự do phát triển bản chất của mình trong sản xuất t ập thể. Tháng 1 năm 1845, sau khi Vorwärts thể hiện sự ủng hộ nhiệt thành của mình với nỗ lực ám sát vua nước Phổ là Frederich William IV, chính quyền Pháp ra lệnh cho Marx, cùng nhiều người khác, rời Paris. Ông và Engels chuyển sang Brussel Bỉ. Marx chú tâm nghiên cứu kỹ lịch sử, và cùng với Engels đưa ra ý t ưởng chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt trong một bản th ảo (được xuất b ản sau khi ông mất với tên gọi là hệ tư tưởng Đức), phát bi ểu lu ận c ương căn bản của nó rằng "bản chất của các cá nhân phụ thuộc vào các đi ều kiện vật chất quyết định sức sản xuất của h ọ ". Marx đã l ần theo l ịch s ử nhiều mô hình sản xuất và phán đoán sự sụp đổ của mô hình sản xu ất khi đó - chủ nghĩa tư bản công nghiệp – và sự thay thế nó b ằng ch ủ nghĩa cộng sản. Đây là tác phẩm lớn đầu tiên của cací các h ọc giả coi là giai đoạn sau của ông, từ bỏ chủ nghĩa nhân đạo bị ảnh h ưởng bởi Feuerbach trong các tác phẩm thời kỳ đầu. Sau đó, Marx viết Sự đói nghèo của triết học(1847), một câu trả lời cho triết học của sự nghèo đói của Pierre Joseph Proudhon và một sự phê bình với tư tưởng xã hội Pháp. Các tác phẩm này đặt ra nền tảng cho tác ph ẩm nổi tiếng nhất của Marx và Engels, Tuyên ngôn đảng cộng s ản đ ược xu ất bản lần đầu ngày 21 tháng 2 năm 1848 như bản tuyên ngôn c ủa Liên đoàn 6
  7. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen cộng sản, một nhóm nhỏ những người Cộng sản châu Âu đã bị ảnh hưởng của Marx và Engels. Cuối năm ấy, châu Âu xuất hiện một lo ạt các cuộc phản kháng, nổi dậy và bất ổn bạo lực, Các cuộc cách mạng năm 1848. Chính quyền Bỉ trục xuất Marx khỏi nước này. Tháng 2 năm 1848 một phong trào cấp tiến chiếm quyền lực của Vua Louis-Philippe tại Pháp và mời Marx quay trở lại Paris, nơi ông chứng kiến cuộc Nổi dậy cách mạng những ngày tháng 6. Khi chính quyền này sụp đổ năm 1849, Marx quay trở lại Cologne và tuyên bố Neue Rheinische Zeitung ("New Rhenish Newspaper"). Trong thời gian tồn tại của nó ông hai lần bị đưa ra xét xử, ngày 7 tháng 2 năm 1849 bởi một l ỗi nh ỏ c ủa báo chí, và vào ngày 8 với tội danh xúi giục nổi dậy vũ trang. Cả hai lần ông đều được trắng án. Tờ báo nhanh chóng bị đàn áp và Marx quay trở l ại Paris, nhưng lại bị trục xuất. Lần này ông sang tị nạn tại London. Marx chuyển tới London tháng 5 năm 1849 và ở lại đó trong ph ần còn l ại của cuộc đời. Trong vài năm đầu ông và gia đình sống rất nghèo kh ổ. Ông làm việc một thời gian ngắn như một cộng tác viên cho tờ New York Tribune năm 1851. Tại London Marx chú tâm vào hai hoạt động: tổ chức cách mạng, và cố gắng tìm hiểu kinh tế chính trị và ch ủ nghĩa t ư b ản. Đã đọc nghiên cứu của Engels về giai cấp lao động, Marx rời khỏi triết học và cống hiến cho Quốc tế cộng sản I và ông được b ầu vào T ổng H ội đồng của tổ chức này tại kỳ họp đầu tiên của nó năm 1864. Ông ho ạt động đặc biệt tích cực để chuẩn bị cho các Đại hội hàng năm của Quốc tế cộng sản và lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại phe vô chính phủ của Mikhail Bakunin (1814–1876). Dù Marx chiến thắng trong cuộc đấu tranh này, việc chuyển trụ sở của Tổng Hội đồng từ London sang New York năm 1872, được Marx ủng hộ, khiến Quốc tế cộng sản suy tàn. Sự kiện chính trị quan trọng nhất trong thời gian tồn tại của Quốc tế cộng sản là Công xã Pari năm 1871 khi các công dân Paris nổi dậy chống chính phủ và chiếm giữ thành phố trong hai tháng. Về cuộc đàn áp đẫm máu với cuộc nổi dậy này, Marx đã viết một trong những cuốn sách nh ỏ nổi ti ếng nh ất của ông, Cuộc nội chiến Pháp, với lập trường bảo vệ Công xã. Với những thất bại và tan rã liên tục của các cuộc cách mạng và phong trào công nhân, Marx cũng tìm cách tìm hiểu chủ nghĩa tư bản, và giành rất nhiều thời gian trong thư viện Anh nghiên cứu và phê bình các tác phẩm của các nhà kinh tế chính trị và dữ liệu kinh tế. Tới năm 1857 ông đã có hơn 800 trang ghi chú và tiểu luận ngắn về tư bản, đất đai, lương lao động, nhà nước, thương mại nước ngoài và thị trường thế giới, mãi tới năm 1941 tác phẩm này mới được xuất bản, dưới tựa đề. Năm 1859 7
  8. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen Grundrisse, Marx xuất bản Đóng góp vào phê bình kinh tế chính trị , tác phẩm kinh tế nghiêm túc đầu tiên của ông. Đầu nh ững năm 1860 ông làm việc để soạn ra ba tập lớn, Các lý thuyết giá trị thặng dư, bàn về các nhà lý thuyết kinh tế chính trị, đặc biệt là Adam Smith và David Ricardo. Tác phẩm này được xuất bản sau khi ông mất với sự biên tập của Karl Kautsky và thường được coi là tập thứ tư của cuốn Tư bản, và tạo nên một trong những chuyên luận đầy đủ đầu tiên về Lịch sử tư tưởng kinh tế, Năm 1867, khá lâu sau dự định, tập đầu của Tư bản được ấn hành, một tác phẩm phân tích các quá trình sản xuất tư bản. Trong tác ph ẩm này, Marx trình bày chi tiết lý thuyết giá trị lao động c ủa mình và ý t ưởng về giá trị thặng dư và bóc lột mà ông cho là sẽ chắc chắn dẫn tới s ự sụt giảm trong tỷ lệ lợi nhuận và sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản công nghiệp. Các Tập II và II vẫn chỉ ở dạng bản thảo và Marx tiếp tục làm việc với chúng trong suốt cả cuộc đời và chỉ được Engels xuất bản sau khi ông mất. Trong thập kỷ cuối cùng của cuộc đời mình, sức khoẻ của Marx suy s ụp và ông không còn khả năng duy trì nỗ lực là đặc điểm của tác ph ẩm tr ước đó của ông. Ông quả thực đã tìm cách bình luận về căn bản chính trị đương thời, đặc biệt là chính trị tại Đức và Nga. Cuốn Phê bình Chương trình Gotha của ông phản đối khuynh hướng của những người theo ông là Wilhelm Liebknecht (1826–1900) và August Bebel (1840–1913) để thích ứng với chủ nghĩa tư bản nhà nước của Ferdinand Lasalle về lợi tức trong một đảng xã hội thống nhất. 2, Ăng ghen Friedrich Engels Sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 ở Barmen, tỉnh Rhine của Vương quốc Phổ. Ông là con trai trưởng của một nhà sản xuất s ợi d ệt giàu có người Đức. Thân phụ ông là một chủ tư bản lớn, rất sùng đạo, tháo vát về kinh doanh, giao du rộng, nhưng về chính kiến thì rất b ảo th ủ. Mẹ ông là một trí thức kinh tế, nhạy cảm, đôn hậu, hoạt bát, thích hài hước và yêu văn học nghệ thuật. Ông ngoại của Engels là một giáo sư đại học về ngôn ngữ học, thường kể cho cháu ngoại mình nghe chuy ện v ề các anh hùng trong các thần thoại Hy Lạp cổ đại và trong các truy ền thuyết dân gian Đức. Lúc Friedrich Engels vừa chào đời, thân mẫu không hứng thú gì với việc cha ông đã đặt tên cho ông là Friedrich, theo tên của vua Friedrich II Đại đế nước Phổ. Khác với cha ông, mẹ của Engels muốn lấy tên Johann Wolfgang von Goethe- một đại thi hào và nhà thông thái người Đức để đặt 8
  9. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen cho con trai. Ngay từ khi còn bé, Engels đã bộc lộ tính cách đ ộc l ập, s ống trong một gia đình tư bản giàu có, những lời dạy bảo nghiêm kh ắc c ủa cha và những sự đe doạ trừng phạt không th ể làm cho ông đi đ ến ch ỗ phải phục tùng mù quáng. Đến năm 14 tuổi, Engels học ở trường tại thành phố Barmen. Học ở bậc trung học, ông luôn suy nghĩ, nêu nghi v ấn rồi t ự tìm đọc thêm để tự giải đáp cho mình. Ông có một châm ngôn là “Tôi nghi ngờ những gì mà tôi chưa rõ”. Do nhu cầu tra cứu, ông đã đọc thêm rất nhiều ngoại ngữ. Ông đã s ớm bộc lộ năng khiếu về ngoại ngữ, mới 17 tuổi mà Engels đã bi ết 15 ngo ại ngữ, nói viết thông thạo tiếng La tinh, Cổ Hy Lạp, Tây Ban Nha, Pháp, Anh, Hà Lan, Italya. Ngoài ra còn có th ể đọc được các th ứ ti ếng Xcandinaves, Bồ Đào Nha và tiếng Ba Lan, thậm chí cả một th ổ ng ữ B ắc Ireland mà trên khắp trái đất chỉ có 550 người nói. Vào tháng 10 năm 1834, Engels được cho đi học ở trường trung h ọc Elberfelder, một trường tốt nhất ở Phổ thời bấy giờ. Khi còn là học sinh trung học, Engels đã căm ghét sự chuyên chế và độc đoán của giới quan lại, ông kiên trì tự học, nuôi ý chí làm khoa h ọc và ho ạt đ ộng c ải bi ến xã hội bằng cách mạng. Vào năm 1838, theo yêu cầu của bố, ông phải dời trường trung học khi chưa tốt nghiệp và được gửi đến làm việc với vai trò một th ư ký không công ở văn phòng thương mại tại thành phố cảng Bremen năm 1838. Trong thời gian này ông tự học các ngành sử học, triết học, văn h ọc, ngôn ngữ và thơ ca, cũng trong thời gian này, Engels bắt đầu tiếp cận các tác phẩm triết học của Hegel, một triết gia đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền triết học Đức thời gian đó. Ông say mê nghiêm cứu về bộ môn này. Tháng 9 năm 1838, ông đã xuất bản tác phẩm đầu tiên có tựa đề The Bedouin trong Bremisches Conversationsblatt Số 40. Ông cũng bận rộn v ới lĩnh vực văn chương khác và các tác phẩm báo chí. Cũng trong thời gian này, Engels cũng đã có tác phẩm về báo chí đầu tiên của mình trong bài báo có tựa đề "Những bức thư từ Vesphalia" công bố vào tháng 3 năm 1839. Trong tác phẩm này, ông đã phê phán những chủ xưởng sùng đạo, đồng thời thể hiện rõ thiện cảm đối với công nhân. Bài báo đầu tiên này đã thể hiện tinh thần dân chủ cách mạng và vô thần của ông. Tháng 9 năm 1841, Engels đến Berlin gia nhập Quân đội Ph ổ theo di ện nghĩa vụ quân sự, được biên chế vào binh đoàn Pháo binh Ngự lâm, ở đây ông được huấn luyện quân sự mà trong những năm sau, ông rất cần đến 9
  10. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen nó. Nhờ địa vị này ông đã có điều kiện để lui tới Berlin nơi ông tham gia theo dõi các bài giảng trong trường đại học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn giáo. Vào thời điểm này, ông bắt đầu tham gia vào nhóm Hegel tr ẻ Cuối năm này, Engels đã được tiếp cận tác phẩm Bản chất đạo Cơ Đốc của Fuerbac, tác phẩm nổi tiếng này đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến thế giới quan của ông. Mùa xuân 1842, Engels bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung (Nh ật báo tỉnh Ranh) và xuất bản một vài bài trên Nh ật báo sông Rhain. Trong những bài báo in năm 1842, trên tờ báo Engels đã lên ti ếng ph ản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức. Ngày 8 tháng 10 năm 1842, Engels mãn hạn ph ục vụ trong quân đ ội, từ Berlin ông trở về Barmen. Một tháng sau vào tháng 11 năm 1842, ở tuổi 22, Engels đã được gửi đến Manchester, Anh để làm việc cho một công ty dệt Ermen and Engels, nơi cha của ông là một cổ đông để th ực tập buôn bán. Trên đường sang Anh, Engels đã ghé thăm trụ sở tờ báo Rheinische Zeitung ở Kioln và tại đây, ông đã lần đầu tiên gặp Marx, Tổng biên tập tờ báo này. Từ đó họ trao đổi thư từ với nhau, tình bạn gi ữa hai ng ười được bắt đầu và ngày càng thắm thiết. Sợi dây thắt ch ặt tình b ạn c ủa h ọ là cùng chung mục đích, lý tưởng vì sự nghiệp giải phóng con người. Họ đã sát cánh bên nhau viết nên những công trình khoa học và lãnh đạo phong trào công nhân đấu tranh nhằm xoá bỏ Chủ nghĩa tư bản, xây dựng Chủ nghĩa cộng sản. Nhìn chung, trong thời gian này, những tác phẩm của Engels chủ yếu tập trung vào phê phán quan điểm của Sherling, một giáo sư và là tri ết h ọc Đức trong thời kỳ này. Ông vẫn đứng trên lập trường duy tâm c ủa tri ết học Hegel. Ví dụ: Ông cho rằng, cái gọi là lợi ích v ật ch ất không bao gi ờ có thể xuất hiện trong lịch sử với tính cách là những mục đích độc l ập, chủ đạo, những bao giờ cũng phục vụ một cách tự giác hoặc không t ự giác cho cái nguyên tắc đang dẫn đường cho tiến bộ của lịch sử. Nh ưng ông bắt đầu cảm thấy sự mâu thuẫn giữa tính cách mạng và bảo thủ trong triết học của Hegel, đồng thời cũng thấy tính triệt để hơn của triết học theo trường phái của Fuerbach so với trường phái triết học của Hegel. Trong thời gian hai năm sống ở Manchester từ mùa thu năm 1842, vi ệc nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát triển của chính trị nước Anh, nh ất là việc trực tiếp tham gia phong trào công nhân mới d ẫn đ ến vi ệc chuy ển biến căn bản trong thế giới quan và lập trường quan điểm chính trị của 10
  11. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen ông từ một người duy tâm về triết học và là những nhà dân chủ cách mạng về quan điểm chính trị để dần trở thành một người theo ch ủ nghĩa duy vật biện chứng và là một người cộng sản. Ông đã đi thăm nh ững n ơi công nhân sống chen chúc trong cảnh nghèo nàn, bẩn thỉu. Ông đã tìm đ ọc tất cả những gì người trước đã viết về cuộc sống của công nhân. Cuốn Tình cảnh giai cấp công nhân Anh của ông đã miêu t ả một cách chân th ực và sâu sắc nhất cuộc sống khốn cùng của giai cấp công nhân. Chính Engels, lần đầu tiên đã phát hiện ra rằng, giai cấp công nhân không ch ỉ là giai cấp đau khổ trong xã hội tư bản, mà còn là giai cấp có s ứ m ệnh đ ấu tranh cho sự giải phóng cuối cùng của mình, đấu tranh cho ch ủ nghĩa xã hội. Cũng trong thời gian ở Anh, dù phải tất bật với vi ệc buôn bán nh ưng ông vẫn không ngừng nghiên cứu viết bài cho tạp chí sông Rhinne từ nước Anh như: Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị là tác phẩm Nh ững phác thảo phê phán môn kinh tế chính trị học, trong đó ông đã chỉ rõ ch ế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là cơ sở của toàn bộ sinh hoạt vật ch ất và tinh thần của xã hội tư sản, Tình cảnh nước Anh, Thomas Carley, Quá khứ và hiện tại, "Alexhsander Iung: Những bài giảng về văn h ọc hiện đ ại của người Đức"... Đặc biệt là bài báo "Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh năm 1844" (1844) đã phân tích rõ sự phân chia xã hội thành ba giai cấp cơ bản: giai cấp quý tộc chiếm hữu ruộng đất, giai cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản. Ông còn tham gia viết bài cho tờ tạp chí Niên giám Pháp - Đức (tháng 2 năm 1844) của A. Ruge. Các bài báo này đ ề c ập đến việc áp dụng phương pháp biện chứng vào việc phân tích các quan hệ kinh tế của xã hội tư sản. Các tác phẩm này đã cho thấy Engels đã hoàn tất quá trình chuy ển bi ến t ừ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật và từ dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Khi đánh giá về cuộc cách mạng xảy ra ở nước Anh, ông viết: "Cuộc cách mạng ấy là tất yếu đối với nước Anh, nhưng cũng như tất cả mọi việc xảy ra ở Anh, cuộc cách mạng đó sẽ' được khởi đ ầu và tiến hành vì những lợi ích, chứ không phải vì những nguyên tắc, các nguyên tắc chỉ có thể phát triển từ lợi ích, tức là cách mạng sẽ không phải là cách mạng chính trị, mà là cách mạng xã hội". Ông cũng đã đứng trên lập trường duy vật và cộng sản để phê phán kinh tế chính trị h ọc của nhà kinh tế học Adam Smith và David Ricardo đồng th ời cũng vạch tr ần quan điểm chính trị của Thomas Carley, một người phê phán chủ nghĩa tư bản trên lâp trường của giai cấp phong kiến. 11
  12. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen Trong thời gian sống ở Paris, Engels quan tâm nhiều đến hoạt động c ủa Ban chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản và trở thành Uỷ viên của Ban lãnh đạo và là một trong nh ững lãnh đ ạo Câu l ạc b ộ công nhân Đức (Tháng 3 năm 1848) do Ban chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản lập ra. Tháng 3 năm 1848, cùng với Marx, Engels thảo ra Nh ững yêu sách c ủa Đảng cộng sản Đức được Ban chấp hành Trung ương Liên đoàn nh ững người cộng sản thông qua như là văn kiện có tính ch ất c ương lĩnh cho hành động của giai cấp vô sản Đức. Tháng 4 năm 1848 ông cùng với Marx trở về Đức tham gia cuộc cách mạng Đức. Ngày 20 tháng 5 năm 1848 Engels đến cùng với Marx chuẩn bị xuất bản tờ Neue Rheinische Zeitung. Engels tham gia viết các bài xã luận, bài đi ểm tình hình chính trị. Tháng 10 năm 1848 ông đi Bỉ đ ể tránh l ệnh truy nã c ủa chính quyền Phổ nhưng ông không được phép cư trú chính trị. Engels lại đến Paris sau đó sang Thuỵ Sĩ tham gia Đại hội các liên đoàn công nhân Đức, ông được bầu vào Uỷ ban trung ương của tổ chức này. Tháng giêng năm 1849 ông trở về Đức tiếp tục hoạt động cách m ạng. Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (vào tháng 5 năm 1849) Engels đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đ ội cách mạng tiến hành cuộc khởi nghĩa. Ngày 10 tháng 5 năm 1849, Engels đến Elberfeld và được sung vào Ban quân sự. Engels đưa ra một kế hoạch để triển khai cuộc đấu tranh cách mạng dấy lên thành phong trào toàn nước Đức. Trong th ời kỳ này, ông tham gia trực tiếp bốn trận đánh lớn, trong đó có trận Rastatt. Sau này Engels đã viết một luận văn quân sự nổi tiếng có tên là: Ti ểu lu ận v ề chiến tranh. Tháng 11 năm 1849, Engels đến Luân đôn và được bổ sung vào Ban ch ấp hành Trung ương Liên đoàn Những người cộng sản mà Marx đã cải tổ sau khi đến đây. Engels sống ở Luân Đôn một năm, trong thời gian đó ông đã viết các tác phẩm Cách mạng và phản cách mạng ở Đức, Cuộc chiến tranh nông dân ở Đức. Sau đó, ông cùng với K. Marx viết "Lời kêu gọi của Ban chấp hành trung ương gửi Liên đoàn những người cộng sản. Tháng ba - 1850". Trong cuộc Cách mạng 1848 - 1849 ở Đức, Engels đã trực ti ếp chi ến đ ấu trong quân đội cách mạng. Cách mạng thất bại, tháng 11 năm 1850, Engels 12
  13. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen buộc phải chuyển dến Manchester và lại bắt đầu làm việc ở Văn phòng thương mại phụ trách doanh nghiệp ngành sợi bông của gia đình, sau chung cổ phần với một hãng buôn. Điều này tạo điều ki ện cho Engels có thể giúp đỡ về vật chất cho Marx hoạt động cách mạng. Vì giành h ết tâm lực cho sự nghiệp cách mạng, nên gia đình Marx gặp rất nhiều khó khăn túng thiếu trong cuộc sống. Engels luôn là người tận tình giúp đ ỡ bạn c ủa mình bằng số tài sản có được từ gia đình. Ngày 3 tháng 2 năm 1845, Marx bị trục xuất khỏi Paris giữa lúc nguồn tài chính của gia đình cạn ki ệt. Engels đã tìm cách quyên tiền từ các bạn bè, đồng chí đ ể giúp gia đình Marx vượt qua khó khăn. Những năm tiếp theo, Marx vẫn luôn ở vào cảnh túng thiếu, thậm chí có lúc không mua đủ bánh mì ăn hàng ngày. Để bạn hoàn thành sự nghiệp, Engels đã chấp nhẫn làm thư ký trong hãng buôn của cha mình suốt 20 năm để lấy tiền giúp Marx. Engels đặc biệt chú ý nghiên cứu các môn khoa h ọc tự nhiên, môn quân sự, chính sách quốc tế. Cùng với Maex, Engels tham gia lãnh đ ạo Qu ốc t ế cộng sản I. Tháng 9 năm 1870, Engels đến Luân Đôn và đ ược đ ưa vào tổng hội đồng của quốc tế cộng sản I. Ông luôn kiên trì đấu tranh ch ống lại quan điểm cơ hội của phái Bakunin, Proudhon, Lassalle. Năm 1871, Engels tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ Công xã Pari Trong thời gian này, Engels đã viết một số tác phẩm có giá trị lý lu ận, đặc biệt là cuốn Chống Duhring (1818) góp phần to lớn cho vi ệc hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa Marx. Sau khi Marx qua đời (1883), Engels là người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3 c ủa b ộ Tư bản mà K. Marx chưa kịp hoàn thành. Engels còn vi ết nhi ều tác ph ẩm nổi tiếng vào những năm cuối đời: Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư h ữu và Nhà nước (1884), Lút-vích Phơ-bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1866), Biện chứng tự nhiên, Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894)... Vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 5 tháng 8 năm 1895 Engels qua đ ời. Tr ước lúc mất, ông yêu cầu sau này để tang ông chỉ nên tiến hành trong một s ố ít người, thi hài được hỏa táng và tro được ném xuống biển. Vào h ồi 14 gi ờ Thứ bảy ngày 10 tháng 8 năm 1895, chiếc quan tài để thi hài Engels đã đặt tại nhà thiêu ở Yoking cách Luân Ðôn gần 30 dặm, phủ đầy hoa tang từ các nước Ðức, Áo, Pháp, Anh, Italia, Bỉ, Hà Lan, Nga, Ba Lan, Bulgaria... Những người đại diện cho tất cả các dân tộc lớn đã tập hợp bên cạnh linh cữu ông để tiễn biệt. 13
  14. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen Phần III: Tình bạn vĩ đại của Các Mác và Ăng ghen Cuối tháng 11 năm 1842, Ăng ghen gặp Mác. Từ đó h ọ trao đ ổi th ư t ừ v ới nhau, tình bạn giữa 2 nhà lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản đ ược bắt đầu và ngày càng thắm thiết. Sợi dây thắt chặt tình bạn của h ọ là cùng chung mục đích, lý tưởng vì sự nghiệp giải phóng con người. Họ đã sát cánh bên nhau viết nên những công trình khoa học và lãnh đạo phong trào công nhân đấu tranh nhằm xoá bỏ CN TB, xây dựng CNCS. Lần hợp tác lý luận đầu tiên giữa C.Mác và Ph.Ăngghen là tháng 8-1844 ở Pa-ri. Không giống như một lần gặp mặt trước đó diễn ra rất lạnh nhạt, lần này thì hoàn toàn khác vì đã đọc của nhau một cách r ất c ẩn tr ọng nên đã “yêu nhau vì nết, trọng nhau vì tài”. Mác đưa Ăng ghen đi d ạo quanh phố, vừa đi họ vừa nói chuyện vừa bàn bạc công việc, Mác ph ấn kh ởi đưa Ăng ghen giới thiệu với tất cả đồng nghiệp của mình. Tất c ả cùng đi ăn và chia tay nhau lúc hoàng hôn. Sau này Ph.Ăngghen đã k ể l ại r ằng “Vào mùa hạ năm 1844, khi tôi đến thăm Mác ở Pa-ri, chúng tôi th ấy r ằng chúng tôi hoàn toàn nhất trí với nhau về tất cả các vấn đề lý luận và chính từ lúc đó, chúng tôi bắt đầu cộng tác với nhau”. Cuộc gặp gỡ ở Pa-ri không những đã xây dựng tình bạn của hai ông vì mục tiêu chung, mà bằng công việc của mình, các ông đã hỗ trợ nhau rất nhi ều khi ến thiên tài và trí tuệ của mỗi người bổ sung cho nhau một cách rất kỳ di ệu. Do đó ý nghĩa của cuộc gặp gỡ ở Pa-ri là ở chỗ: Một mặt, đối với sự ra đời của lý luận cách mạng của giai cấp công nhân, nó mang ý nghĩa đáp ứng nhu cầu của thời đại; mặt khác, xét về tiến trình tư tưởng của hai người thầy vĩ đại của cách mạng lại có tính tất yếu nội tại. Hai mặt đó biểu hiện tập trung ở sự bắt đầu cộng tác của hai ông cùng nhau xây dựng quan điểm duy vật lịch sử. Đứa con tinh thần của hai người là cuốn sách Gia đình thần thánh. Vì giành hết tâm lực cho sự nghiệp cách mạng, nên gia đình Mác gặp rất nhiều khó khăn túng thiếu trong cuộc sống. Những lúc ấy, Ăng - ghen luôn là người tận tình giúp đỡ Mác. Ngày 3 tháng 2 năm 1845, Mác b ị tr ục xuất khỏi Pari giữa lúc nguồn tài chính của gia đình cạn kiệt, vì trước đó Mác đã bỏ tiền ra mua vũ khí cho một cuộc kh ởi nghĩa. Đ ược tin, Ăng ghen đã tất bật tìm cách quyên tiền từ các bạn bè, đồng chí để giúp gia đình Mác vượt qua hoạn nạn. Ông cũng đã cố tìm cách khéo léo để kh ỏi chạm tới lòng tự ái của Các Mác, thuyết phục ông nhận sự giúp đỡ nhỏ nhoi ấy. Từ đó trên con đường nghiên cứu khoa học và hoạt đ ộng đ ấu tranh cho sự ra đời và thắng lợi của chủ nghĩa cộng s ản khoa h ọc c ủa 14
  15. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen Mác, Ph.Ăng ghen luôn là người bạn, người đồng chí chung th ủy, s ắt son bên cạnh chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ với Mác, bảo vệ và tôn trọng ông ngay cả khi Các Mác đã qua đời. Những năm tiếp theo, tiến sỹ Mác- nhà lý luận kinh tế lỗi lạc vẫn luôn ở vào cảnh túng thiếu, th ậm chí có lúc không mua đủ bánh mì ăn hàng ngày. Để bạn hoàn thành s ự nghi ệp, Ăng-ghen đã cam chịu làm thư ký trong hãng buôn của cha mình (một công việc mà ông vô cùng chán ghét) suốt 20 năm để lấy tiền giúp Mác. Vì quá khó khăn, trong thời gian viết bộ Tư bản, Mác còn ph ải vi ết bài cho các báo để có tiền chi tiêu. Rất nhiều đêm, Ăng-ghen thức đến tận 2 giờ sáng viết bài thay Mác để đăng kịp các số báo mà Mác cộng tác. Những bài báo đó của Ăng ghen luôn có nội dung khoa học sâu s ắc, h ấp dẫn đọc giả và đều mang tên Mác. Cũng vì để Mác có thời gian viết bộ Tư bản, nên tất cả gánh nặng của cuộc đấu tranh chống những trào lưu thù địch với chủ nghĩa Mác đều trút lên vai Ăng- ghen. Tiêu biểu là cuộc luận chiến chống Đuy-rinh, trong các bài viết, Ăng- ghen đã phân tích những vấn đề quan trọng nhất của triết học, của khoa h ọc t ự nhiên và xã hội. Với nội dung khoa học sâu sắc, lý lẽ sắc bén, Ăng- ghen đã đập tan sự xuyên tạc của Đuy- rinh, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác. Có lẽ Các Mác chưa từng gặp ai như Ăng ghen. Đáng ng ạc nhiên là trong con người Ăng ghen kết hợp chặt chẽ tất cả những đức tính mà ng ười ta hằng mong muốn ở một người bạn chiến đấu, người bạn gần gũi nhất. Năm 1883, những người cộng sản và công nhân thế giới ph ải chịu một tổn thất lớn lao, C.Mác - lãnh tụ thiên tài của h ọ đã t ừ tr ần. Mác ra đi khi bộ Tư bản- công trình khoa học đồ sộ nhất của Mác cống hiến cho loài người mới xuất bản được cuốn I, còn cuốn II và cuốn III đang ở d ưới dạng bản thảo. Mỗi bản thảo ấy có hàng ngàn trang với chi chít nh ững dòng chữ rất khó đọc và rất nhiều những chú thích, ký hiệu c ần trích d ẫn nhưng chưa ghi rõ nguồn gốc. Ăng ghen vô cùng lo lắng trước s ố ph ận của cuốn sách. Ông đã dừng những công trình khoa học của mình để giành thời gian hiệu đính hai bản thảo bộ Tư bản cho Mác. Ph ải mất 10 năm Ăng ghen lao động miệt mài trong hoàn cảnh tuổi già và bệnh tật, bộ Tư bản của Mác đã được xuất bản trọn vẹn. Trong công trình đồ sộ ấy, Ăng ghen không chỉ hiệu đính, sửa chữa mà một số ch ương sau cùng là do ông viết. 15
  16. Tình bạn vĩ đại và xúc động của Các Mác và Ph.Ăng ghen Sau những cống hiến miệt mài, ngày 5 tháng 8 năm 1895, trái tim lãnh tụ vô sản Ph.Ăng ghen đã ngừng đập để tìm đến người bạn, người đ ồng chí tri kỉ của mình_Các Mác. Những lớp hậu thế trên khắp thế giới đã dựng tượng đài hai ông ở khắp nơi để tỏ lòng ngưỡng mộ về tình bạn và sự nghiệp cao quý của Các Mác và Ph.Ăng ghen. Phần IV: Kết luận Tình bạn vĩ đại và cảm động giữa Các Mác và Ăng ghen đã tr ở thành m ột tấm gương sáng để cho các thế hệ ngày hôm nay noi theo để xây dựng một tình bạn chân chính. Có thể nói rằng nếu không có sự đồng c ảm, thấu hiểu và hy sinh giữa hai lãnh tụ vô sản trong tình b ạn, tình đồng chí sắt son, keo sơn thì không thể có sự ra đời và thắng lợi của ch ủ nghĩa xã hội khoa học. Có nhiều tình bạn đẹp đã xuất hiện trong sử sách nh ưng có l ẽ ch ưa có một tình bạn nào lại vĩ đại và gây xúc động mạnh mẽ như tình bạn giữa Các Mác và Ph.Ăng ghen. Đó là tượng đài cao đẹp nh ất về tình nhân ái giữa con người với con người; là minh chứng hùng h ồn nh ất chứng minh cho sức mạnh mà tình bạn có thể tạo ra. Nhân loại s ẽ mãi tôn th ờ tình bạn bất diệt đó! 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2