
1
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam là một trong những trung tâm đa đạng sinh học phong phú trên thế giới.
Cũng như nhiều quốc gia khác, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng suy thoái đa
dạng sinh học, trong đó có suy giảm nguồn gen vật nuôi. Trong số 27 giống lợn bản địa ở
Việt Nam, có 5 giống lợn đã tuyệt chủng và 9 giống có nguy cơ tuyệt chủng (Luc, 2013).
Lợn Ỉ được đánh giá là một trong những giống lợn bản địa có nguy cơ tuyệt chủng cao (Lê
Viết Ly, 1999). Mặc dù đã được đưa vào chương trình bảo tồn từ những năm 1990, nhưng
số lượng lợn Ỉ vẫn bị suy giảm nhanh chóng và hiện nay chỉ còn một số ít cá thể được nuôi
tại công ty TNHH Lợn giống Dabaco (Chu Minh Khôi, 2019). Phục tráng giống lợn Ỉ là
nhiệm vụ cấp thiết nhằm bảo tồn nguồn gen vật nuôi quý hiếm và ngăn ngừa sự suy giảm
đa dạng sinh học. Đã có nhiều nghiên cứu về khả năng sản xuất của lợn Ỉ, nhưng hầu hết
các nghiên cứu đã được thực hiện cách đây tương đối lâu (Phạm Hữu Doanh, 1985; Đặng
Vũ Bình, 1993; Lê Viết Ly, 1999; Võ Văn Sự & cs., 2004). Nhằm phục vụ cho công tác
bảo tồn và phát triển giống lợn Ỉ, cần thực hiện các nghiên cứu đánh giá khả năng sản xuất
của đàn hiện có, chọn tạo và nhân đàn để gia tăng số lượng cá thể, cải thiện năng suất sinh
sản và sinh trưởng, năng suất thân thịt và chất lượng thịt của giống lợn này.
Trong những thập kỷ gần đây, việc ứng dụng thành tựu của di truyền phân tử kết hợp
với phương pháp chọn lọc truyền thống đã góp phần nâng cao tính chính xác, rút ngắn
thời gian và làm tăng tốc độ cải thiện di truyền của các tính trạng mong muốn trong công
tác chọn lọc giống vật nuôi (Lê Thị Thu Huệ, 2021). Các locus tính trạng số lượng và các
gen chức năng liên quan chặt chẽ với các tính trạng sản xuất ở lợn được khám phá
(Hoàng Thị Thuý & cs., 2021; Nguyen Huu Tinh & cs., 2021). Trên thế giới, nhiều gen
ứng viên đã được chứng minh có mối liên hệ với tính năng sản xuất của lợn. Đối với tính
trạng sinh sản ở lợn, nhiều gen đã được phát hiện có ảnh hưởng đến một số chỉ tiêu kích
thước và khối lượng ổ đẻ như gen Oestrogen receptor (ESR), Folicle stimulate hormone
beta sub-unit (FSHB), Prolactin receptor (PRLR), Retinol binding protein 4 (RBP4); Leptin
receptor (LEPR), Retinoic acid receptor gamma (RARG); Prostaglandin-endoperoxide
synthase 2 (COX2), Epidermal growth factor (EGF) (Rohrer & cs., 1994; Messer & cs.,
1996; Ollivier & cs., 1997; Vincent & cs., 1997; Stratil & cs., 1998; Rothschild & cs., 2000;
Linville & cs., 2001; Matoušek & cs., 2003; Mikhaĭlov & cs., 2014). Một số gen được cho
rằng có mối liên quan đến các chỉ tiêu sinh trưởng bao gồm gen pituitary-specific
transcription factor (PIT1) (Yu & cs., 1995; Franco & Lorenzo, 2005; Nguyen Huu Tinh &
cs., 2021), Melanocortin 4 receptor (MC4R), growth hormone releasing hormone (GHRH),
growth hormone (GH) và Insulin-like growth factor 2 (IGF2) (Kim & cs., 2000; Van Laere &
cs., 2003; Wenjun & cs., 2003; Ologbose & cs., 2020). Một số gen đã được chứng minh có
mối liên hệ với các tính trạng năng suất, chất lượng thịt lợn bao gồm Heart fatty acid-binding
protein (H-FABP) (Jankowiak & cs., 2010; Lee & cs., 2010), Porcine phosphoinositide-3-
kinase, class 3 (PIK3C3) (Kim & cs., 2005; Hirose & cs., 2011), Calpastatin (CAST) (Đurkin
& cs., 2009; Nguyen Trong Ngu & cs., 2012; Ropka-Molik & cs., 2014), Myogen (MYOG)
(Đỗ Võ Anh Khoa, 2012), protein kinase AMP-activated non-catalytic subunit gamma 3
(PRKAG3) (Đặng Hoàng Biên, 2016). Đa hình các gen ESR, PRLR, FSHB, RBP4, PIT1,
MC4R, GHRH, FUT1, H-FABP, CAST, PIK3C3 và MYOG đã được chứng minh có mối
liên hệ với các tính trạng sinh sản, sinh trưởng, năng suất chất lượng thịt trên nhiều giống
lợn trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu về đa hình các gen ứng
viên và mối liên quan giữa các gen này đến khả năng sinh sản, khả năng sinh trưởng,
năng suất và chất lượng thịt trên giống lợn Ỉ.