Tóm tắt Luận văn Tiến sĩ Chính trị học: Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay
lượt xem 15
download
Tóm tắt Luận văn Tiến sĩ Chính trị học: Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay với mục đích phân tích làm rõ cơ sở hình thành và phát triển văn hóa chính trị truyền thống Lào, xác định những giá trị chủ yếu của văn hóa chính trị truyền thống Lào, từ đó phân tích ý nghĩa của chúng đối với công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Tiến sĩ Chính trị học: Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay
- HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ALOUN BOUNMIXAY NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG LÀOVÀ Ý NGHĨA ĐỐI VƠI CÔNG CUỘC ĐỔI MƠI Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỀN NAY Chuyên nghành : Chính trị học Mã số : 62 31 20 01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI - 2013
- Công trình đư ợc hoàn thành tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học : 1. GS.TS. Nguyễn Văn Huyên 2. PGS.TS. Lê Minh Quân Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước họp tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Vào hồi........giờ........, ngày..........tháng........năm 2013 Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và Thư viện Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Lào là quốc gia có lịch sử lâu đời, có một nền văn hóa dân tộc đặc sắc, gắn liền với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước oanh liệt hàng ngàn đời của nhân dân các bộ tộc Lào. Chính những giá trị văn hóa nói chung, những giá trị văn hóa chính trị (VHCT) truyền thống Lào nói riêng, đã đư ợc hình thành và phát triển trong lịch sử dân tộc anh hùng đó, đã góp phần vào sự nghiệp đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc xây dựng và phát triển đất nước, là vũ khi để nhân dân Lào thực hiện các cuộc đấu tranh chống những âm mưu xâm lược, đồng hóa của các thế lực ngoại bang. Trong thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đ ạo của Đảng Nhân dân Cách mạng (NDCM) Lào, nhân dân các bộ tộc Lào đã nỗ lực phấn đấu vươn lên, đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế-xã hội. Cùng với quá trình dân chủ hóa xã hội, trình độ dân trí nói chung, trình đ ộ VHCT nói riêng của các tầng lớp nhân dân ngày càng được nâng cao. Trong những năm gần đây, kinh tế thị trường ở CHDCND Lào đã phát huy sức mạnh của mọi nguồn lực trong xã hội, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường cũng đã xuất hiện nhiều yếu tố tác động tiêu cực đến đời sống xã hội. Những biểu hiện nêu trên nếu không được kịp thời khắc phục sẽ làm ảnh hưởng đến văn hóa nói chung, VHCT nói riêng, ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội, cản trở sự phát triển của đất nước Lào. Với các lý do và những yêu cầu bức thiết nêu trên và với nhận thức về tầm quan trọng của VHCT trong sự nghiệp cách mạng Lào, nghiên cứu sinh chọn đề tài: Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay làm đề tài nghiên cứu của luận án tiến sĩ Chính trị học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích của luận án: Trên cơ sở lý luận về VHCT, luận án phân tích làm rõ cơ sở hình thành và phát triển VHCT truyền thống Lào, xác định những giá trị chủ yếu của VHCT truyền thống Lào, từ đó phân tích ý nghĩa của chúng đối với công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận án sẽ giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Làm rõ lý luận về VHCT và cơ sở hình thành VHCT truyền thống Lào. - Xác định những giá trị chủ yếu của VHCT truyền thống Lào. - Phân tích ý nghĩa của những giá trị VHCT truyền thống Lào đối với công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay. 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận án
- 2 - Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu VHCT Lào với những giá trị truyền thống tiêu biểu của nó và hướng kế thừa, phát huy giá trị VHCT truyền thống Lào phục vụ công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu làm rõ những giá trị VHCT truyền thống của nhân dân các bộ tộc Lào và ý nghĩa của chúng đối với công cuộc đổi mới hiện nay (từ 1986 đến nay). 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Cay Xỏn PhômViHản và các văn kiện, các nghị quyết của Đảng NDCM Lào, Đảng Cộng sản Việt Nam v.v... về văn hóa và VHCT. 4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, trong đó đặc biệt chú ý các phương pháp nghiên c ứu cụ thể như lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh v.v... trong từng vấn đề đã đ ặt ra. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về VHCT truyền thống, luận án đã phân tích, nhằm xác định và rút ra được những giá trị VHCT truyền thống Lào, từ đó phân tích và làm rõ những ý nghĩa và vai trò to lớn của các giá trị VHCT truyền thống đó trong công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận án cung cấp thêm những luận chứng khoa học c ho việc làm rõ cơ sở hình thành VHCT Lào; xác định các giá trị truyền thống VHCT Lào và ý nghĩa của các giá trị đó đối với công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động thực tiễn trong việc lãnh đ ạo và quản lý của Đảng và Nhà nước Lào; làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy trong trường đại học, cao đẳng và các cơ sở đào tạo về chuyên đề VHCT. 7. Kết cấu của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 12 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI 1.1.1. Một số nghiên cứu chủ yếu ở phương Đông và ở phương Tây
- 3 VHCT được hình thành và phát triển gắn liền với đời sống chính trị, nó là những dấu hiệu phân biệt, thể hiện tính đặc trưng cho nhận thức chính trị, cũng như mọi hoạt động chính trị - xã hội của con người trong một xã hội. - Ở phương Đông, Khổng Tử (551-471 TCN) là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên đề cập đến VHCT với cách tiếp cận chính trị - đạo đức. Vấn đề căn bản trong học thuyết của ông là người quân tử (người cầm quyền) với những chuẩn mực cần thiết về ứng xử trong chính trị. Niềm tin của ông gắn chặt với luân thường đạo lý và đ ạo đức cá nhân. Khổng Tử cho rằng, chỉ những người quân tử liêm khiết và tuân theo đạo của người quân tử hay là người có văn hóa mới được cầm quyền, tư cách của những nhân vật đó phải kiên định với địa vị trong xã hội. Lão Tử (580-500 TCN) cũng là nhà tư tưởng đề cập đến đạo trị nước theo phương châm "vô vi nhi trị" trên cơ sở nhận thức và hành động theo "đạo" - theo quy luật vận động và phát triển tự nhiên của xã hội. Tuy chưa đề cập đến khái niệm VHCT, nhưng điều đó không có nghĩa là Lão tử không có quan niệm về VHCT. Thực ra, khi bàn về chính trị, về kế sách chính trị, về hoạt động chính trị, Lão Tử đã thể hiện quan niệm về VHCT của mình. - Ở phương Tây, Platôn (428-328 TCN) và Arixtốt (384-322 TCN) là những người đầu tiên xem chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Mặc dù triết lý chính trị - xã hội của các ông có những hạn chế lịch sử nhưng vẫn chứa đựng hạt nhân hợp lý trong quan niệm về VHCT. N.Machiavelli, nhà lý luận chính trị người Ý thời Phục Hưng, trong tác phẩm Quân vương (The Prince) của mình đã đề nghị một tầm nhìn thế giới về chính trị để miêu tả các phương pháp thực tế cho chế độ chuyên quyền để giành và giữ quyền lực chính trị. J.S.Mill, (thế kỷ XIX), là người đi tiên phong trong việc dùng khái niệm tự do trong chính trị. Ông đã th ấy được rằng dân chủ sẽ là sự phát triển chính trị chủ chốt trong thời đại của ông. Trong tác phẩm Luận về tự do (On Liberty) của mình, Ông cho rằng tự do là quyền quan trọng nhất của loài người. Đến những năm 50 của thế kỷ XX, nhà chính trị học Mỹ G.Almond đã đưa khái niệm VHCT vào khoa học chính trị. G.Almond đã tập trung nghiên cứu hành vi chính trị của các cá thể, phân tích xem động cơ hành động của họ là gì, từ đó định nghĩa VHCT là t ập hợp các lập trường và các xu hướng cá nhân của những người tham gia trong một hệ thống nào đó, là lĩnh vực chủ quan làm cơ sở cho hành động chính trị. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tuy chưa đưa ra một khái niệm đầy đủ về VHCT nhưng đã đ ề cập tới một số nội dung cơ bản làm cơ sở cho việc tiếp cận khái niệm này một cách khoa học như vấn đề đấu tranh giành quyền lực, vấn đề cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, vấn đề xây dựng con người XHCN, vấn đề dân chủ XHCN. Nhìn chung, VHCT trên thế giới được tiếp cận nghiên cứu từ hai cách chính - tiếp cận từ góc độ vĩ mô (t ổng thể luận) và từ góc độ vi mô (hành vi luận).
- 4 Cách tiếp cận tổng thể luận nghiên cứu VHCT của những quốc gia, giai cấp hay cộng đồng người nhất định. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu, giảng dạy về VHCT ở Việt Nam ngày càng được quan tâm. Từ nhiều góc độ, các nhà khoa học đã đ ề xuất nhiều cách tiếp cận, khám phá và chỉ ra những đặc trưng, đặc điểm của VHCT Việt Nam truyền thống và hiện đại. Một số sách, giáo trình, giáo khoa đã xu ất bản: VHCT và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay của PGS,PTS. Phạm Ngọc Quang (chủ biên) (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách làm sáng tỏ nội dung khoa học của phạm trù VHCT và vai trò của nó trong hoạt động chính trị, trong quá trình xây dựng CNXH, trong việc nâng cao năng lực và bản lĩnh lãnh đ ạo của đội ngũ cán bộ; từ đó, đề ra phương hướng bồi dưỡng VHCT cho cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam. Văn hóa chính trị Việt Nam, truyền thống và hiện đại của GS. Nguyễn Hồng Phong (1998), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược thuộc Chương trình khoa h ọc công nghệ cấp Nhà nước KX-06 "Văn hóa, văn minh vì s ự phát triển và tiến bộ xã hội". VHCT truyền thống Việt Nam là một đề tài của công trình, phân tích ảnh hưởng lớn và lâu dài của Khổng giáo nguyên thuỷ tới VHCT truyền thống ở Việt Nam. Vai trò văn hóa trong hoạt động chính trị của Đảng ta hiện nay do GS,TS. Trần Văn Bính chủ biên (2002), Nxb Lao động, Hà Nội. Đây là một hướng tiếp cận còn rất mới mẻ và phức tạp, nhưng đã đ ược các tác giả đi sâu phân tích trên tinh thần tư duy mới. Công trình đã khái quát đư ợc nhiều vấn đề cơ bản về văn hóa trong lãnh đ ạo chính trị của Đảng ta hiện nay; tìm hiểu quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của văn hóa trong lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản; văn hóa với sự nghiệp chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh; công tác xây dựng Đảng dưới góc độ văn hóa; công tác cán bộ, nhìn từ khía cạnh văn hóa và bồi dưỡng văn hóa cho người lãnh đạo, quản lý ở các nước tư bản. Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam của GS.TS. Nguyễn Văn Huyên, PGS.TS. Nguyễn Văn Vĩnh và TS. Nguy ễn Hoài Văn (2009), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Theo các tác giả, lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam, lịch sử đấu tranh cho những khát vọng của con người Việt Nam đã hình thành nên những giá trị VHCT truyền thống Việt Nam. Văn hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn VHCT của PGS,TS. Phạm Hồng Tung (2010), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trong khoa học chính trị hiện nay, VHCT giữ vị trí quan trọng, vừa với tính cách là một đối tượng của khoa học chính trị, vừa là một hướng tiếp cận liên ngành, có ý nghĩa phương pháp lu ận đối với một số ngành khoa học xã hội khác.
- 5 Các công trình khoa học trên, tập trung nghiên cứu về sự hình thành, phát triển, cấu trúc, đặc điểm, vai trò của văn hóa, VHCT của Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở LÀO Ở CHDCND Lào trong những năm qua, việc tiếp cận văn hóa nói chung, VHCT nói riêng còn hạn chế, nhưng cũng có một số công trình nghiên cứu và một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các tài li ệu của Đảng và Nhà nước đã đề cập, tiêu biểu là: Lịch sử Lào (1998), Viện Nghiên cứu Đông Nam Á hợp tác với các nhà khoa học xã hội Lào đã nghiên c ứu thành công đề tài liên quan đến vấn đề lịch sử, văn hóa Lào từ thời tiền sử đến hiện nay. Trong đó các nhà khoa học đã nghiên cứu từ những di tích văn minh thời tiền sử và sơ sử đến sự hình thành các mường cổ đại trên đất Lào; Vương quốc Lào Lạn Xạng thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước; Nước Lào trong thời kỳ thuộc Pháp (1893-1954); Cuộc đấu tranh của Nhân dân Lào chống chủ nghĩa th ực dân mới của Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào. Thắng lợi vĩ đại năm 1975 và sự lựa chọn, thử nghiệm biện pháp và con đường phát triển của Lào trong 20 năm sau giải phóng dân tộc Lào (1976-1995). Văn hóa chính trị ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ chính trị học của Khăm Mặn ChănThạLăngSỷ (2002), Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Các công trình về VHCT ở Lào hiện nay đều khẳng định rằng, VHCT ở CHDCND Lào mang tính chất XHCN. Nó được hình thành từ khi Đảng NDCM Lào ra đời và tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đưa vào vận dụng trong thực tiễn đất nước Lào. Nhiều tài liệu nghiên cứu khác đề cập đến VHCT được công bố trong các tác phẩm: Tính dân tộc của văn hóa Lào của Bua Ban VoLaKhun (1998); Sự hình thành của các dân tộc Lào, tập I (2006), tập II (2009) của Bun Mi ThạpSiMương; Tài liệu văn hóa và phát triển (2008), Bộ Văn hóa - Thông tin Lào; Lịch sử Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2010), Viện Khoa học Xã hội quốc gia Lào. Các công trình nêu trên đã phân tích và kh ẳng định về giá trị VHCT truyền thống Lào và nêu lên ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước Lào hiện nay. Chương 2 VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG LÀO 2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ 2.1.1. Khái niệm văn hóa Thuật ngữ "văn hóa" xuất hiện từ xa xưa trong ngôn ngữ của nhân loại, xuất phát từ chữ Latinh "cultus", nghĩa gốc là "trồng trọt", được dùng theo hai nghĩa cultus và agri là "trồng trọt ngoài đồng" và cultus animi là "trồng trọt tinh thần". Như vậy, nguồn gốc của thuật ngữ văn hóa có liên quan đến lao động, hoạt
- 6 động tích cực cải tạo của con người, tức là sự giáo dục, giáo dưỡng, bồi dưỡng tâm hồn, tính cách, phẩm chất, nhân cách con người, mà như Hồ Chí Minh đã nói, đó là "trồng người". Với cái nhìn bao quát các nền văn hóa và các giá trị văn hóa trên thế giới, năm 2002, UNESCO đã đưa ra quan ni ệm về văn hóa rằng, văn hóa được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin. Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor định nghĩa một cách khái quát: "Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế hệ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu, những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Với ý nghĩa rộng rãi của thuật ngữ văn hóa, trong thời gian qua nhiều tác giả đã nêu lên nh ững quan niệm và có những cách diễn đạt riêng, song tựu trung lại có thể khái quát thành 4 nội dung cơ bản. Theo đó, văn hóa theo nghĩa rộng bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần; văn hóa hiểu theo nội dung bao gồm cả khoa học, kỹ thuật, giáo dục, văn học nghệ thuật; văn hóa đặt trong phạm vi nếp sống, lối sống, đạo đức xã hội, văn hóa nghệ thuật; văn hóa xét từ vai trò của nó vừa là kết quả, vừa là nguyên nhân của sự phát triển xã hội, nó không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Trên cơ sở tổng hợp những quan niệm nêu trên, có thể hiểu văn hóa là toàn bộ những thành quả hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ và hiện tại, biểu hiện thành hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. 2.1.2. Khái niệm chính trị và quan hệ giữa văn hóa và chính trị * Khái niệm chính trị Chính trị là tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh một vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Hiện nay trên thế giới đã hình thành bốn cách hiểu khác nhau về chính trị - chính trị là nghệ thuật của phép cai trị, những công việc của chung, sự thoả hiệp và đồng thuận, quyền lực và cách phân phối tài nguyên hay lợi ích. Chính trị theo nghĩa rộng hơn là hoạt động của con người nhằm xây dựng, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung đó Các nhà tư tưởng đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về chính trị, mỗi quan niệm có những yếu tố hợp lý riêng và có những cách tiếp cần riêng. Nhưng thực sự, chỉ đến khi chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời, những quan niệm đúng đắn và khoa học về chính trị mới được khẳng định. Theo đó "... giai cấp nào muốn nắm quyền thống trị - ngay cả khi quyền thống trị của nó đòi h ỏi phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và s ự thống trị nói chung, như trong trường hợp
- 7 của giai cấp vô sản - thì giai cấp ấy trước hết phải chiếm lấy chính quyền để đến lượt mình, có thể biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến, điều mà giai cấp ấy buộc phải thực hiện trong bước đầu". Như vậy, chính trị bao giờ cũng gắn liền với giai cấp. Giai cấp nào muốn nắm được chính quyền, xoá bỏ xã hội cũ và xây d ựng xã hội mới thì trước hết đều phải giành lấy chính quyền. Theo V.I.Lênin, chính trị là "lĩnh vực của những mỗi quan hệ của tất cả giai cấp, các tầng lớp với nhà nước và chính phủ, lĩnh vực của những mỗi quan hệ giữa tất cả các giai cấp với nhau". Khái quát lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, quốc gia xoay quanh vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, mà tập trung nhất là quyền lực nhà nước * Quan hệ gi÷a văn hóa vµ chính trị Văn hóa và chính trị là hai lĩnh vực hoạt động chủ yếu của xã hội loài người và có quan hệ hữu cơ với nhau, từ đó nảy sinh vấn đề chính trị trong văn hóa, chính trị với văn hóa và văn hóa trong chính trị. Thứ nhất, vấn đề chính trị trong văn hóa: Văn hóa là tư tưởng là cặp phạm trù sinh đôi, mà chính trị là mặt trực tiếp của hệ tư tưởng. Có quan điểm cho rằng, "văn hóa là một lĩnh v ực mà trong đó chính trị, tư tưởng quyết định phương hướng và chất lượng". Chính trị là bộ phận đặc thù trong văn hóa, phản ánh một lĩnh v ực hoạt động phức tạp của xã hội thông qua sự in đậm dấu ấn của minh vào văn hóa theo hướng tích cực hoặc tiêu cực, tuỳ thuộc vào sự tiến bộ, cách mạng hoặc lạc hậu, phản động của chính trị. Thứ hai, vấn đề văn hóa trong chính trị, văn hóa với chính trị: Mọi quan điểm và đường lối chính trị, công nghệ chính trị đều là sự thể hiện trình độ văn hóa của một giai cấp, một tổ chức, một cá nhân trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong sự phát triển của mình, chính trị chỉ được xem là văn hóa khi gắn với trình độ, năng lực sáng tạo tích cực của con người trong chính trị, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ xã hội. Có thể nói, Văn hóa với chính trị có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Văn hóa phục tùng chính trị, văn hóa đi vào chính trị với tính cách là động lực và mục tiêu của hoạt động chính trị; chính trị lãnh đ ạo văn hóa, chính trị gắn liền với văn hóa và sự tồn tại của chính trị khi nó còn là mặt hợp lý trong văn hóa. 2.1.3. Văn hóa chính trị Văn hóa chính trị là một loại hình của văn hóa, thể hiện phương diện văn hóa của chính trị. VHCT không phải là bản thân chính trị, bản thân văn hóa, hay là sự cộng gộp hai lĩnh vực này, mà là chính trị bao hàm chất văn hóa từ bản chất bên trong của nó. VHCT thể hiện ở hai phương diện cơ bản: Một là, chính trị với ý nghĩa là chính tr ị dân chủ, tiến bộ hướng tới mục đích cao nhất là vì con người, giải phóng con người, tôn trọng quyền con người, tạo
- 8 điều kiện cho con người phát triển tự do, toàn diện, hài hoà. Đây là tính nhân văn sâu s¾c của một nền chính trị có văn hóa. Hai là, những tư tưởng chính trị tốt đẹp không phải là những ý niệm trừu tượng mà là những tư tưởng thiết thực, cụ thể, có khả năng đi vào cuộc sống. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tuy chưa đưa ra một khái niệm đầy đủ về VHCT nhưng đã đề cập tới một số nội dung cơ bản làm cơ sở cho việc tiếp cận khái niệm này một cách khoa học. Các nhà nghiên cứu Việt Nam trong những năm gần đây đã v ận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng một quan niệm đầy đủ về VHCT. Đặc biệt, những quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xã hội XHCN thực sự có ý nghĩa xuất phát điểm cho quá trình tìm tòi, nghiên cứu đó. Quan niệm nổi bật nhất và đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về VHCT là xã hội mới phải có con người mới đại diện cho nó: "Muốn có CNXH, phải có con người XHCN. Muốn có con người XHCN, phải có tư tưởng XHCN". Xây dựng thành công con người mới XHCN là xác lập cơ sở bền vững của VHCT mới. Đây là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh về VHCT. Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với việc kế thừa các giá trị trong quan niệm về VHCT của các nhà nghiên cứu, theo tác giả luận án, VHCT là một bộ phận, một phương diện của văn hóa trong xã h ội có giai cấp, nói lên chất lượng tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần với hạt nhân là các giá trị chính trị nhân văn được con người sáng tạo và sử dụng trong thực tiễn chính trị, để thực thi trong quan hệ về quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước nhằm thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với sự phát triển lịch sử. 2.1.4. Giá trị văn hóa chính trị truyền thống * Truyền thống và giá trị truyền thống Trong các tư điển của Trung Quốc, khái niêm truyền thống được định nghĩa như sau: Truy ền thống là sức mạnh của các tập quán xã hội được lưu truyền từ lịch sử xa xưa, nó tồn tại trong các lĩnh vực chế độ xã hội, tư tưởng, văn hóa, đạo đức. Truyền thống có sức mạnh khống chế vô hình song hết sức mạnh mẽ đối với hành vi cá nhân và xã hội của con người. Truyền thống tồn tại thông qua hoạt động, sản xuất, lối sống, sự tìm tòi và xác định những giá trị và quá trình vận dụng chúng vào trong đời sống xã hội, các lĩnh v ực sinh hoạt hàng ngày. Nó là sản phẩm của sự thống nhất giữa các điều kiện khách quan và chủ quan, chỉ sự chi phối của môi trường tự nhiên, các điều kiện địa lý, lịch sử, xã hội… Khái quát lại, truyền thống là tập hợp những tư tưởng và tình cảm, những tập quán và thói quen trong tư duy, lối sống, cách ứng xử của con người, của một cộng đồng người nhất định, được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được truyền từ đời này sang đời khác. Những giá trị truyền thống tốt đẹp, đó là những giá trị truyền thống của cộng đồng, được hình thành, giữ gìn và
- 9 phát huy trong qúa trình lịch sử gắn với các giá trị chân - thiện - mỹ, phù hợp với các chuẩn mực của đời sống xã hội, thúc đẩy sự phát triển. * Giá trị văn hóa chính trị truyền thống Khái niệm giá trị truyền thống thực chất thể hiện toàn bộ các giá trị của văn hóa truyền thống, và cũng do đó, th ể hiện các giá trị của VHCT truyền thống. Bởi vì quốc gia dân tộc nào mà không được hình thành từ lịch sử đấu tranh của nền chính trị của mình. Giá trị VHCT truyền thống của một cộng đồng là những truyền thống tốt đẹp mà cộng đồng, dân tộc đó tích lũy đư ợc trong toàn bộ hoạt động của đời sống chính trị. Với cấu trúc như vậy, giá trị VHCT truyền thống của một dân tộc bao giờ cũng ch ữa đựng tiềm năng và sức mạnh của mỗi dân tộc trong quá trình hoạt động, tồn tại, vận động và phát triển của nó. Giá trị VHCT là cái giữ thế bền vững, đồng thời là cái chỉ đạo tư tưởng và hành động, củng cố và phát triển tinh thần, ý chí và bản lĩnh chính trị của dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay, kế thừa các giá trị VHCT truyền thống kết hợp với việc tiếp thu các giá trị VHCT truyền thống không chỉ của cộng đồng mình, dân tộc mình, mà cả các giá trị VHCT truyền thống các cộng đồng, dân tộc khác cũng s ẽ trở thành cơ sở vững chắc cho sự vận động của xã hội hiện đại, cho sự phát triển của đất nước theo hướng bền vững. 2.2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG LÀO 2.2.1. Cơ sở tự nhiên và xã hội 2.2.1.1. Cơ sở tự nhiên CHDCND Lào thuộc bán đảo Đông Dương, nằm sâu trong lục địa, thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa ở Đông Nam Á, có diện tích 236.800km2, với đường biên giới dài 4.825km, giáp với 5 nước. Lào được chia thành 4 vùng: Vùng Đông-Bắc, vùng Tây-Bắc, vùng Trung Lào và vùng Nam Lào. Mỗi vùng có điều kiện địa lý, đất đai, khí hậu, thời tiết khác nhau. Điều kiện địa lý, khí hậu và nguồn tài nguyên thiên nhiên của Lào đã ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hoạt động và sáng tạo văn hóa của các bộ tộc Lào. Sự phát triển từ sớm của cây lúa, lúa nương, lúa nước chứng minh trình độ hiểu biết của con người Lào từ xa xưa về nghề nông, nghề rừng, nghề thủ công mỹ nghệ. Chính vì vậy, dù xét từ góc độ nào thì người Lào cũng đư ợc quy vào cư dân nông nghiệp. Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển văn hóa nói chung và VHCT nói riêng của người Lào. 2.2.1.2. Cơ sở xã hội Nước Lào hiện nay có dân số khoảng 6,6 triệu người (số liệu năm 2010), là quốc gia đa tộc người với 49 bộ tộc, thuộc ba khối lớn-Lào Lùm, Lào Thơng và Lào Xủng, cùng sinh sống. Về ngôn ngữ chia thành 4 khối tiếng nói. Khối nói tiếng dân tộc Lào-Tày có 8 bộ tộc; Khối tiếng nói Mon-khơme, có 32 bộ tộc; Khối tiếng nói Hơ Mông-Ưu Miên có 2 bộ tộc; và khối tiếng nói Trung-Ti
- 10 Bệt có 7 bộ tộc. Các bộ tộc trong xã hội Lào trong quá trình dựng nước và giữ nước đã cùng nhau đoàn k ết xây dựng quốc gia ngày càng vững mạnh. Tuy nhiên, khác với các nước Đông Nam Á khác, trong cơ cấu tộc người trong xã hội Lào, vai trò của tộc người chủ thể (người Lào) thường không lớn về số lượng và chênh lệch về trình đ ộ phát triển xã hội. Ở khía cạnh cơ sở xã hội, sự ảnh hưởng của các yếu tố tộc người, ngôn ngữ đến văn hóa và VHCT là rất đáng kể. Việc không có tộc người chủ thể, không có chênh lệch về trình đ ộ phát triển, đa dạng về phong tục tập quán, lối sống và tín ngưỡng nhưng không có xung đột, hơn nữa còn hội tụ được những tinh hoa từ các tộc người trong quá trình hình thành quốc gia - dân tộc. Văn hóa nói chung và VHCT truyền thống của người Lào nói riêng, là sự kết hợp giữa tính hiền hoà của cư dân lúa nước với tính phóng khoáng như cư dân cao nguyên, từ đây hình thành nên những nét văn hóa mang tính chan hoà của người Lào truyền thống. 2.2.2. Cơ sở kinh tế và chính trị 2.2.2.1. Về cơ sở kinh tế Có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên là phổ biến. Trước giải phóng, nhân dân Lào đã ph ải sống dưới ách thống trị của bọn phong kiến Xiêm, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Lào có nhiều điều kiện thuận lợi để trồng trọt và chăn nuôi, nhưng do chính sách "ăn xổi" của thực dân Pháp đã làm cho chúng không thể phát triển được ngay cả những cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu cao, khi đòi phải đầu tư vốn. Lào có nhiều khoáng sản như thiếc, đồng, vàng, than đá, kẽm, chì, bô xít, Angtimoan Tungten, v.v... Nhưng thực dân Pháp chưa có một cuộc thăm do nào cơ bản và chịu bỏ vốn nhiều vào việc khai thác, vì cho rằng không có lợi nhanh và nhiều. Họ chỉ chú ý khai thác mỏ thiếc Phôn Tịu và Bò Nèng Khăm Muộn với hàm lượng cao (50%). Ngành công nghiệp chế biến cũng vắng mặt ở Lào, mặc dù Lào có nhiều nguyên liệu quý. Đặc điểm kinh tế nêu trên đã hình thành nền VHCT Lào về những giá trị VHCT Lào nói riêng - văn hóa lúa nước, khai thác rừng, tinh thần lao động cần cù, lối sống sản xuất nhỏ, v.v... Sau ngày giải phóng (2/12/1975), Đảng NDCM Lào đã tiến hành cải tạo XHCN, xây dựng quan hệ sản xuất mới với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Chính phủ Lào đã th ực hiện kế hoạch khắc phục hậu quả chiến tranh và phát triển kinh tế. 2.2.2.2. Cơ sở chính trị Từ trong lịch sử, sự phân hóa và mâu thuẫn trong xã hội Lào không lớn, đã tạo điều kiện cho sự liên kết và đoàn kết dân tộc. Đời sống chính trị nói chung, nhà nước nói riêng ở Lào cơ bản ở trong trạng thái ổn định dựa trên những chuẩn mực, giá trị và niềm tin chung của các tộc người sống trên lãnh thổ Lào. Người Lào luôn khao khát và tôn trọng độc lập và chủ quyền quốc gia dân tộc. Thống nhất quốc gia và đoàn kết dân tộc luôn là xu hướng chủ đạo trong tình cảm và ý
- 11 thức của nhân dân các bộ tộc Lào. Các thể chế chính trị ở Lào là sự tồn tại hàng thế kỷ của các chế độ phong kiến quân chủ, chế độ thực dân nửa phong kiến - hậu quả của các cuộc xâm lược từ ngoại bang hàng thập kỷ, và ngày nay là chế độ dân chủ nhân dân - thành quả của các cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ của nhân dân các tộc người Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào. Những đặc điểm chính trị nêu trên đã hình thành nên những đặc điểm đầu tiên của nền VHCT Lào. Nghị quyết các Đại hội VI, VII, VIII và IX của Đảng NDCM Lào đã đ ề ra những chủ trương lớn, những nhiệm vụ đối nội và đối ngoại, nhằm tiếp tục thực hiện đường lối, xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tạo cơ sở và vị thế vững chắc tiến vào thế kỷ XXI. Đó là những cơ sở chính trị cho sự hình thành và phát triển các giá trị của VHCT truyền thống Lào. 2.2.3. Lịch sử dựng nước và giữ nước Lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân Lào diễn ra qua các thời kỳ sau: a) Nước Lào thời kỳ các Mường cổ: Trong khoảng thời gian lâu dài ở giai đoạn đầu Công nguyên, trước khi vua Phạ Ngừm thống nhất được các thế lực cát cứ, để lần đầu tiên hình thành một Vương quốc Lào thống nhất (1353). Nước Lào ngày nay đã từng tồn tại hàng loạt hệ thống tổ chức chính trị - xã hội kiểu các Mường cổ, mà trong đó tiêu biểu nhất là ba mường lớn: Mường Xoa (Luông Pha Bang), Mường Phuôn (Xiêng Khoảng), và trước đó là Mường Xỉ Khốt Tạ Boong (từ trung Lào trở xuống). b) Thời kỳ thống nhất đầu tiên của Vương quốc Lào Lạn Xạng: Vào giữa thế kỷ XIV, Phạ Ngừm đã chỉ huy đạo quân "10 ngàn người" từ CămPhuChia tiến về. Đạo quân của Phạ Ngừm đã thâm nhập vào thung lũng sông Mê Kông và chính phục được hàng loạt tiểu quốc rồi tiến lên đông bắc Lào sát tận Phông Sa Lỳ, sau đó trở xuống Xiêng Đông, Xiêng Thoong. c) Thời kỳ nhân dân Vương quốc Lào Lạn Xạng kháng chiến chống xâm lược: Năm 1535 và năm 1540, vua Ayu Thaya hai lần cất quân sang đánh Lào Lạn Xạng. Năm 1560, vua Xay Nha Xêt Tha Thi Lạt chuyển Thủ đô từ Luổng Pha Bang sang Viêng Chăn. Từ năm 1563 - 1592 nhân dân Lào Lạn Xạng ba lần kháng chiến chống quân Ava (Myanma). Tới năm 1623 khi Xu Li Nha Vông Xạ Thăm Mi Kạ Lạt lên ngôi vua Lào Lạn Xạng mới tương đối ổn định, và dưới triều đại của vua Xu Li Nha Vông Xạ, Lào Lạn Xạng được phát triển và trở nên hưng thịnh. d) Vương quốc Lào Lạn Xạng bước vào thời kỳ suy yếu và đất nước bị chia cắt trong thế kỷ XVIII: Vua Xu Li Nha Vông Xạ qua đời, vì không có người nối dõi, các lực lượng chống đối nhà vua đã nổi dậy ở khắp nơi. Năm 1707 vương quốc Lạn Xạng đã bị chia thành ba tiểu vương: Viêng Chăn, Luổng Pha Bang và Chăm Pa Xắc. Hơn một thế kỷ (từ năm 1778 - 1893) Lào Lạng Xạng bị rơi vào ách xâm lược của phong kiến Xiêm. Trong lúc rối ren, chia cắt và nằm dưới ách
- 12 đô hộ của người Xiêm, ở Lào Lạn Xạng đã xuất hiện Chậu A Nu Vông (1803 - 1827) - người về sau đã l ật đổ ách đô hộ của người Xiêm, lập lại sự thịnh vượng và thống nhất đất nước Lào. đ) Xã hội Lào dưới ách xâm lược và thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật: Nửa sau thế kỷ XIX, khi Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam, chúng còng đẩy mạnh quá trình xâm lược Lào. Nhân dân các bộ tộc Lào đã đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, tiêu biểu là: cuộc khởi nghĩa của Phò Cà Đu ột (1901- 1902); cuộc khởi nghĩa của Ông Kẹo, Ông Kôm Ma Đặm (1901-1937); cuộc khởi nghĩa của Chậu Phạ Pát Chay (1918-1922). Ngày 12 tháng 10 năm 1945, tại thủ đô Viêngchăn, chính phủ Lào Ít Xa La được thành lập và trịnh trọng công bố trước quốc dân và thế giới bản "Tuyên bố độc lập". e) Thời kỳ chống sự xâm lược trở lại của thực dân Pháp, sự can thiệp của đế quốc Mỹ và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân: Nước Lào độc lập ra đời và cuộc kháng chiến của nhân dân Lào chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai năm 1945 - 1954 diễn ra trong tình hình quốc tế có những thay đổi lớn. Ngày 20 tháng 1 năm 1949, đội quân cách mạng đầu tiên, Quân giải phóng Lào tự do mang tên Lát Xa Vông được thành lập, do đồng chí Cay Xỏn PhômViHản lãnh đạo. Ngày 13 tháng 8 năm 1950, Đại hội Quốc dân kháng chiến quyết định thành lập Mặt trận Lào Ítxala, sau đổi thành Neo Lào Hắc Xạt. Đảng Nhân dân Lào (nay là Đảng NDCM Lào) đã đư ợc thành lập ngày 22 tháng 3 năm 1955. Đồng chí Cay Xỏn PhômViHản trở thành Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Nhân dân Lào. Ngày mùng 2 tháng 12 năm 1975, cách mạng giải phóng dân tộc Lào giành thắng lợi trọn vẹn. Nước CHDCND Lào ra đời và bước vào thời kỳ mới của lịch sử dân tộc. Đó cũng là qúa trình hình thành n ền VHCT truyền thống Lào. Chương 3 NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG LÀO 3.1. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG LÀO 3.1.1. Văn hóa chính trị truyền thống mang sắc thái của nền nông nghiệp lúa nước và nền văn hóa phật giáo VHCT truyền thống Lào được thể hiện từ khi các luồng chuyển dịch cư dân Malayo - Polinesien qua Lào, nhưng những dấu tích còn lại đều cho biết từ khoảng thế kỷ VIII về trước "nền tảng văn hóa Lào là nền tảng văn hóa của cư dân Môn - Khơme" Trên một nền tảng văn hóa Môn - Khơme, người Lào - Thái đã đem tới đây kỹ thuật trồng lúa nước và một thiết chế xã hội hết sức năng động, thiết chế bản - mường - liên mường, thêm vào đó là nét bao dung, tính chất hoà đồng của Phật giáo. Các dân tộc Lào có truyền thống văn hóa lâu đời. Nét nội bật trong truyền thống VHCT của nhân dân Lào là lòng yêu nư ớc, tinh
- 13 thần đoàn kết dân tộc, ý thức tự tôn dân tộc, lối sống hoà đồng và lòng nhân ái, v.v... VHCT Lào là nền văn hóa của đất nước triệu voi cùng với cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước oanh liệt là những nét văn hóa, hoa chăm pa, ở nhà sàn, ăn cơm nếp, thổi kèn và múa lăm vông. Chính những điều này góp phần làm nên bản sắc VHCT truyền thống Lào và hình thành các giá trị đặc sắc của VHCT truyền thống của Lào. 3.1.2. Nền văn hóa chính trị truyền thống Lào có sự kết hợp các giá trị của lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước với sự tiếp nhận các giá trị hiện đại theo tinh thần đổi mới của Đảng VHCT truyền thống Lào đã đư ợc nhân dân các bộ tộc Lào tạo lập ngay từ thời xa xưa gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó phát triển thông qua quá trình tiếp xúc và giao lưu với các nền văn hóa khác, trước hết là thông qua quốc gia Môn - Khóm. Vương quốc Lạn Xạng của người Lào đã tiếp nhận những yếu tố văn hóa Ấn Độ và ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa do chính cư dân Lào - Thái mang lại để xây dựng một nền văn hóa dân tộc độc đáo và đa dạng. Nét đặc sắc này của văn hóa Lào làm nền tảng cho sự hình thành một nền VHCT Lào được tích hợp bởi nhiều sắc thái phong phú. Tuy vậy, những nét đặc sắc này quy định cách nghĩ, cách nhìn và cách h ành động trong đời sống xã hội cũng như trong đời sống chính trị, làm nên những giá trị VHCT truyền thống các dân tộc Lào. Cùng với quan hệ gia đình và b ản mường, v.v... người Lào còn theo đạo Phật (thứ phút) và coi đạo Phật là giá trị tinh thần của nhân dân các bộ tộc, góp phần tạo nên một khối thống nhất về mặt tư tưởng. Nói đến văn hóa truyền thống Lào, còn phải nói đến bun hội (hội lễ), chẳng thế mà ngày nay ở Lào người ta có ý thức khuyến khích bun hội để bảo tổn văn hóa dân tộc. Việc xã hội hóa các hoạt động văn hóa trong thời gian qua theo mục tiêu chính trị có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giúp nhân dân vận dụng các giá trị VHCT truyền thống cho chính trị hiện đại như, tinh thần yêu nước, yêu chế độ mới, yêu CNXH. Báo cáo chính trị tại Đại hội VI của Đảng NDCM Lào nhấn mạnh: "Thúc đẩy và khuyến khích toàn xã hội tham gia giữ gìn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc và các bộ tộc gắn với việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới; xây dựng nền văn hoá mang tính dân tộc, tính quần chúng và tiến bộ". 3.2. NHỮNG GIÁ TRỊ: ĐỘC LẬP VÀ TỰ CHỦ, TỰ LỰC VÀ TỰ CƯỜNG 3.2.1. Tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực và tự cường của nhân dân Lào trong thời kỳ Vương quốc Lào Lạn Xạng (đầu thế kỷ XVI - XVIII) Nhân dân Lào đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh sinh tử trong quá trình dựng nước và giữ nước. Trong lịch sử nhân loại, nhân dân các bộ tộc Lào thuộc về các dân tộc phải chịu dựng nhiều thử thách khốc liệt và hy sinh to lớn cho cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Từ đấy, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của con người Lào đã đư ợc tôi luyện và được khẳng định một cách thuyết phục. Tổng kết chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đ ạo của Đảng NDCM
- 14 Lào, có tác giả đã khẳng định, "từ trước đến nay, nhân dân các bộ tộc Lào đều cùng sống trong tinh thần cộng đồng, hiền hoà, thanh bình, cần cù lao động sáng tạo, yêu hoà bình, yêu đất nước, nhưng rất dũng cảm và không chịu đầu hàng". Nét nổi bật trong tư tưởng của người Lào là sự tự ý thức về vai trò và vị trí của mình trước tổ tiên và cộng đồng dân tộc về độc lập và chủ quyền quốc gia. Có thể thấy những thời kỳ lịch sử tiêu biểu như triều Chậu Phạ Ngừm từ thế kỷ XIV, triều Vi Sun Lạ Rạt (1502-1520); thời kỳ kháng chiến chống Ayu Thaya và quân AVạ (Myama), triều vua Pho Thi Xa Rát (1520-1550), triều vua Xệt Tha Thi Lát (1550-1598); thời kỳ toàn thịnh của Vương quốc Lào Lạn Xạng dưới triều Xu Li Nha Vông Xả (thế kỷ XVII ); thời chống quân xâm lược Xiêm thế kỷ XVIII, Phục hưng vương quốc Lào Lạn Xạng thế kỷ XIX dưới triều Chậu A Nu Vông (1804-1828); phong trào đấu tranh của nhân dân Lào chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; thời xây dựng và phát triển đất nước trong hoà bình và đổi mới hiện nay. Các giá trị VHCT truyền thống về độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của Lào cũng đư ợc thể hiện trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật - phản ánh một cách său sắc và sinh động tư tưởng và đời sống chính trị của dân tộc. Cũng do Phật giáo phát triển đến đỉnh cao nên văn học Lào thời kỳ này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo. Giá trị độc lập, tự lực, tự cường dân tộc thể hiện sâu sắc trong đời sống nghệ thuật Lào. Đó là sự phát triển mạnh mẽ của kiến trúc, điêu khắc và hội hoạ Lào. Về văn hóa dân gian, đến thế kỷ XVII những lễ hội (bun) dân gian và lễ hội Phật giáo ở Lào đã tr ở nên phổ biến và chịu ảnh hưởng của văn hóa cung đình. Lễ hội Lào cũng chủ yếu là những lễ hội nông nghiệp. Tuy nhiên, ở đó đều thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường dân tộc. Năm 1804 sau khi lên ngôi, Chậu A Nu Vông đã ra sức khuyến khích nhân dân Lào xây dựng Viêng Chăn thành một mường thịnh vượng. Cùng với việc xây dựng hoàng cung ở kinh đô Viêng Chăn, khắp nơi trong nước nhân dân xây dựng chùa chiền, cầu cống. Dưới sự trị vì của Chậu A Nu Vông, Viêng Chăn đã trở thành một nơi rất thịnh vượng, Ý tư ởng của Chậu A Nu Vông là Viêng Chăn có vững mạnh và hưng thịnh mới lật đổ được ách đô hộ của Xiêm, giành độc lập cho Lào Lạn Xạng. 3.2.2. Tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực và tự cường của nhân dân Lào trong thời kỳ đấu tranh chống thực dân xâm lược (1890-1975) Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường là những giá trị VHCT truyền thống. Chúng được thể hiện ngay từ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước xa xưa. Song tinh thần độc lập dân tộc, tự lục tự cường đất nước của nhân dân các bộ tộc Lào thể hiện đậm nét trong thời hiện đại. Trước hết, tinh thần độc lập dân tộc thể hiện trong công cuộc chống ngoại xâm. Phong trào đấu tranh của nhân dân Lào chống thực dân Pháp trước khi Đảng cộng sản Đông Dương ra đời (1930) đã di ễn ra trên khắp đất nước Lào. Nổi bật là Cuộc khởi nghĩa do s ự lãnh
- 15 đạo của Phò Cà Đuột (1901-1902), cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Ông Kẹo và Ông Kôm Ma Đăm (1901-1937), cuộc khởi nghĩa của Chậu Phạ Pát Chay (1918-1922), v.v…Với việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương và sau này là Đảng NDCM Lào, tổ chức tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Lào, cách mạng Lào bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn nhân dân và các dân tộc Lào đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, xây dựng một nước Lào hoà bình, đ ộc lập, thống nhất và phồn vinh. 3.2.3. Tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới hiện nay Trong thời kỳ đổi mới, nhận thức lại và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Lào, nắm bắt và hội nhập vào xu thế mới của thời đại. Đảng từng bước tìm tòi, thử nghiệm những giải pháp nhằm phát triển kinh tế-xã hội, khắc phục sự trì trệ lạc hậu của nền kinh tế truyền thống tự cung tự cấp, tình trạng bị cô lập của đất nước với thị trường thế giới. Với tinh thần "kiên quyết từ bỏ thói quen và phương pháp cũ mà thực tiễn chứng minh là không còn phù hợp và áp dụng những tư tưởng mới". Đại hội IV của Đảng NDCM Lào năm 1986 đã m ở đầu một giai đoạn mới của quá trình xây dựng chế độ xã hội mới - giai đoạn phát triển trong đổi mới, nhằm củng cố phát triển và hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân, từng bước quá độ lên CNXH. Trong những năm đổi mới từ 1986 đến nay, Lào đã trải qua các kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội 6 lần và đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 7 (2011-2015). Sau nhiều năm xây dựng chế độ mới theo định hướng XHCN, Đảng NDCM Lào đã xác đ ịnh vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội là phải đánh giá được khách quan, chính xác trình độ phát triển kinh tế và thực trạng xã hội. Với tinh thần đổi mới tư duy, Đảng đã từng bước tìm tòi thử nghiệm các biện pháp, bước đi thích hợp đưa công cuộc đổi mới ở Lào giành được những thắng lợi quan trọng và có ý nghĩa lịch sử. 3.3. NHỮNG GIÁ TRỊ: YÊU NƯỚC VÀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC 3.3.1. Nền chính trị yêu nước với những giá trị VHCT yêu nước Yêu nước, trước hết là tình cảm, từ đó hình thành nên tư tư ởng và ý chí yêu nước, nó có tính phổ quát của con người, của nhân dân mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Yêu nước của nhân dân Lào cũng thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, theo kịp trình độ các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Yêu nước đối với mục tiêu chính trị của nhân dân Lào, nhất là đối với đội ngũ lãnh đạo, quản lý cán bộ, đảng viên... cũng là sẵn sàng phấn đấu hy sinh cho lợi ích chung, việc gì có lợi cho dân, cho nước, cho tập thể thí quyết chí làm, việc gì có hại thì tránh. Làm việc gì trư ớc hết phải đặt lợi ích của tập thể, phải nêu cao trách nhiệm của người lãnh đ ạo,
- 16 không tham lam, vụ lợi, vun vén cá nhân, v.v... Yêu nước trong VHCT Lào từ xưa và cả ngày nay là chăm lo xây dựng và phát triển đất nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, con người, v.v... để tạo sức mạnh bên trong nhằm bảo vệ cho sự tồn tại và phát triển của đất nước, của dân tộc. Lịch sử chính trị của Lào đã ch ứng minh các triều đại ở nước Lào trước đây đều theo đuổi một chính sách chống ngoại xâm giành độc lập, phát huy cao độ truyền thống yêu nước, thương nòi. Trong thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tinh thần và ý chí yêu nư ớc của người Lào được thể hiện rõ rệt trong các sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc. Đó là phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân các bộ tộc Lào khoảng nửa thế kỷ và kết thúc trong ngày mùng 2-12-1975; là thắng lợi của công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước thời gian gần đây bởi tinh thần yêu nước nồng nàn, trong đó đặc biệt là tinh thần yêu nước của các lãnh tụ lãnh đạo như ông Xu Pha NuVông và ông Cay Xỏn PhômViHản. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Giá trị yêu nước thể hiện trong VHCT Lào dưới các khía cạnh cụ thể sau đây: + Yêu nước là gắn bó với nhà nước + Yêu nước là không ngừng lao động sáng tạo + Yêu nước là tôn vinh những người có công với dân, với nước, đồng thời nghiêm khắc lên án những kẻ phản dân hại nước. 3.3.2. Những giá trị về tinh thần đoàn kết dân tộc trong VHCT Lào Lịch sử dân tộc Lào cho thấy rằng, đứng trước các thế lực ngoại xâm mà không thực hiện đoàn kết toàn dân, để cho mầm chia rẽ làm suy yếu đất nước thì sự nghiệp giữ nước sẽ thất bại. Thất bại của Chậu A Nu Vông trong kháng chiến chống quân Xiêm đầu thế kỷ XVIII, nguyên nhân quan trọng dẫn đến thất bại là mất đoàn kết trong sự lãnh đạo, sự chia rẽ trong nội bộ Lào Lạn Xạng. Tinh thần đoàn kết trở thành lực lượng bách chiến bách thắng của dân tộc Lào cũng đã đư ợc chứng minh bằng sự phát triển của nó qua quá trình dựng và giữ nước của ông cha. Từ đời vua Phạ Ngừm nhân dân Lào đã biết đứng dậy cùng nhau đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Đặc biệt, trong lịch sử chính trị hiện đại, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một bức tranh đại đoàn kết dân tộc rất sinh động. Phát huy truyền thống quý báu được kết tinh trong hàng nghìn năm đấu tranh anh dũng c ủa cha ông, toàn thể dân tộc Lào đã k ết thành một khối vững chắc không gì có thể phá vỡ nổi, trong đó Đảng NDCM Lào, lực lượng vũ trang và toàn thể nhân dân Lào luôn đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhau. Để phát huy được sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng NDCM Lào đã sáng suốt thành lập Mặt trận yêu nước, lấy liên minh công nông làm nền tảng, dưới sự lãnh đ ạo của Đảng. Hiện nay, đất nước Lào đang sống trong hoà bình, thống nhất; cả nước đang tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, tiến hành thực hiện mục tiêu đúng đắn của Đại hội đại biểu toàn
- 17 quốc lần thứ IX của Đảng đề ra là: "Xây dựng Nước CHDCND Lào trở thành nước vững mạnh, nhân dân giàu có, xã hội đoàn kết hài hoà, dân chủ, công bằng và văn minh". 3.4. NHỮNG GIÁ TRỊ: ĐỀ CAO ĐẠO LÝ, TÔN TRỌNG CHÍNH NGHĨA VÀ BẢO VỆ CÔNG LÝ 3.4.1. Giá trị đề cao đạo lý Đề cao đạo lý là giá trị phổ quát của con người cũng như của các dân tộc trên toàn thế giới. Nhân dân các bộ tộc Lào đặc biệt đề cao yếu tố đạo lý bới nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quyết định nhất, đó là do một đất nước nghèo, sống trong các điều kiện khắc nghiệt cả về điều kiện tự nhiên, cả về điều kiện kinh tế, đặc biệt là điều kiện xã hội - một đất nước bị nhiều lần xâm chiếm, áp bức, bóc lột. Đạo lý đầu tiên của con người ở đây trước hết là giá trị sống, bởi người ta phải tôn trọng, quý mến nhau trên tinh thần thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. 3.4.2. Tôn trọng chính nghĩa và bảo vệ công lý Tôn trọng chính nghĩa, bảo vệ công lý với tính cách là giá trị của VHCT Lào truyền thống thể hiện ở quan niệm và biểu hiện của tinh thần về chính nghĩa, về công lý của người Lào và quá trình hình thành và phát triển của quan niệm chính nghĩa, công lý của người Lào cũng như ý nghĩa c ủa các quan niệm trên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào. Các quan niệm "chính nghĩa", "công lý" tuy rộng hẹp khác nhau, nhưng chúng đều có dấu hiệu nội hàm cơ bản đồng nhất với nhau. Đạo lý là lẽ phải, chính nghĩa cũng đi ều phải, nghĩa là đ ứng về lẽ phải, là tranh đấu cho lẽ phải phải thắng. Chính nghĩa cũng là l ẽ phải. Chính nghĩa cũng là đ ặt cái lợi ích chung lên trên cái lợi ích riêng, vì đại nghĩa là dám hy sinh cá nhân cho đ ất nước. Và như vậy mới là đạo lý làm người, đạo lý của dân tộc. Ở Lào, chính nghĩa, công lý bao giờ cũng là các giá trị lớn lao của người Lào, của nhân dân Lào; "vì nghĩa" là m ột đức tính lớn, một giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Từ khi lập nước, dân tộc Lào đã vì chính nghĩa, vì công lý, vì nghĩa khí dân tộc mà luôn luôn đứng lên đấu tranh anh dũng, chiến thắng oanh liệt, đánh bại tất cả các lực lượng ngoại xâm. 3.5. NHỮNG GIÁ TRỊ: HÒA BÌNH VÀ HỮU NGHỊ, HỢP TÁC VÀ PHÁT TRIỂN 3.5.1. Giá trị hòa bình và hữu nghị Hòa bình và hữu nghị của người Lào với tính cách là các giá trị của VHCT truyền thống Lào thể hiện ở quan niệm, tự tưởng và những biểu hiện trong chủ trương, đường lối chính trị hòa bình và hữu nghị của người Lào, đồng thời chúng cũng th ể hiện đậm nét trong quá trình hình thành và phát triển của quan niệm trên với những ý nghĩa của các quan niệm trên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào.
- 18 Người Lào cũng quan niệm khái niệm hòa bình theo nghĩa rộng, ở đó không chỉ thể hiện một xã hội không có chiến tranh mà còn là một xã hội không có sự xung đột. Xung đột chính trị gây mất ổn định chính trị và xã hội, thậm chí còn gây nên các cuộc chiến tranh tàn khốc. Người Lào cũng quan niệm hòa bình và hữu nghị liên quan chặt chẽ với vấn đề phát triển. Đây là một cơ sở nữa để củng cố, khuyến khích những nghiên cứu hòa bình là phát triển. Tư tưởng và các giá trị hòa bình và hữu nghị không chỉ là các điểm sáng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước trong quá khứ, nó cũng đư ợc thể hiện đậm nét và phổ quát trong tư tưởng và đường lối chính trị của Đảng NDCM Lào thời kỳ hiện nay. Đường lối đối ngoại của Đảng NDCM Lào lại tiếp tục được khẳng định lại tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: "Đảng ta tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại và tích cực mở rộng quan hệ quốc tế. Trước hết là kiên trì đường lối đối ngoại hòa bình, độc lập, hữu nghị và luôn luôn hợp tác, khuyến khích sự hợp tác hữu nghị, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với nước ngoài trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và hai bên cùng có lợi". 3.5.2. Giá trị hợp tác và phát triển Hợp tác và giúp đỡ nhau vì sự tồn vong và phát triển đất nước, từ xa xưa trong lịch sử các bộ tộc Lào đã tr ở thành những giá trị chính trị của nhân dân Lào. Tinh thần hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau với tính cách là giá trị của VHCT truyền thống Lào thể hiện ở quan niệm, quá trình hình thành và phát triển cũng như ý nghĩa c ủa tinh thần hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào. Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng đất nước, cũng như trong s ự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, Đảng NDCM Lào luôn luôn coi trọng Mặt trận yêu nước trước đây và Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc hiện nay, bởi vì trong hệ thống chính trị Lào, Mặt trận Lào là tổ chức có sức mạnh cao nhất trong việc tập hợp lực lượng nhân dân các bộ tộc để hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các bộ tộc làm nghĩa vụ giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đất nước mới được giải phóng Mặt trận tiếp tục củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, bao gồm cả các thành phần khác như nhân sĩ, trí thức, tù trưởng, tộc trưởng và các hội Phật giáo. Phát huy chiến lược hoà hợp dân tộc, đầy mạnh công tác tuyên truyền và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, chính quyền cách mạng và chủ quyền quốc gia được giữ vững từ cấp cơ sở. Ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước, mặt trận là một tổ chức đoàn kết thống nhất các tầng lớp nhân dân trong xã hội Lào; nó vừa là phương thức, vừa là môi trường để nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và phát huy vai trò quyền làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận là vấn đề có ý nghĩa chi ến lược để tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh có tổ chức, huy động tiềm lực to lớn, sáng tạo của nhân dân trong suốt tiến trình của cách mạng Lào và thực hiện quyền lực của nhân dân các bộ tộc Lào trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu mức độ biểu hiện và giá trị chẩn đoán, tiên lượng của một số microRNA ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết
27 p | 16 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt bằng phương pháp nút mạch
28 p | 21 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu hiệu quả điều trị và dự phòng tái phát nhồi máu não của aspirin kết hợp cilostazol
27 p | 15 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất bằng phương pháp xạ trị lập thể định vị thân
27 p | 21 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều trị tủy răng hàm thứ nhất, thứ hai hàm trên bằng kĩ thuật Thermafil có sử dụng phim cắt lớp vi tính chùm tia hình nón
27 p | 22 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu biến đổi các chỉ số khí máu động mạch và cơ học phổi khi áp dụng nghiệm pháp huy động phế nang trong gây mê phẫu thuật bụng ở người cao tuổi
14 p | 13 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh, giá trị của 18 F-FDG PET/CT trong lập kế hoạch xạ trị điều biến liều và tiên lượng ở bệnh nhân ung thư thực quản 1/3 trên
27 p | 18 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính đa dãy hệ tĩnh mạch cửa và vòng nối ở bệnh nhân xơ gan có chỉ định can thiệp TIPS
28 p | 18 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu hình ảnh động mạch xuyên ở vùng cẳng chân bằng chụp cắt lớp vi tính 320 dãy và ứng dụng trong điều trị khuyết hổng phần mềm
27 p | 15 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu hiệu quả kiểm soát hô hấp của phương pháp thông khí ngắt quãng và thông khí dạng tia trong phẫu thuật tạo hình khí quản
27 p | 16 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu biến đổi nồng độ và giá trị tiên lượng của hs-Troponin T, NT-proBNP, hs-CRP ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim không ST chênh lên được can thiệp động mạch vành qua da thì đầu
27 p | 19 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu độ dày nội trung mạc động mạch đùi và giãn mạch qua trung gian dòng chảy động mạch cánh tay ở phụ nữ mãn kinh bằng siêu âm Doppler
27 p | 13 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu cấy ghép implant tức thì và đánh giá kết quả sau cấy ghép
27 p | 18 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều trị tổn khuyết mũi bằng các vạt da vùng trán có cuống mạch nuôi
27 p | 30 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh và giá trị của SPECTCT 99mTc-MAA trong tắc mạch xạ trị bằng hạt vi cầu Resin gắn Yttrium-90 ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan
29 p | 11 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, Xquang và đánh giá hiệu quả điều trị hẹp chiều ngang xương hàm trên bằng hàm nong nhanh kết hợp với minivis
27 p | 21 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, Xquang và đánh giá kết quả điều trị lệch lạc khớp cắn Angle có cắn sâu bằng hệ thống máng chỉnh nha trong suốt
27 p | 18 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn