BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO<br />
<br />
BỘ TƯ PHÁP<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI<br />
<br />
NGUYỄN QUỲNH TRANG<br />
PHÁP LUẬT VỀ TRỢ CẤP ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN<br />
THEO QUY ĐỊNH CỦA WTO – BÀI HỌC VỚI VIỆT NAM<br />
Chuyên ngành: LUẬT QUỐC TẾ<br />
Mã số: 9 380108<br />
<br />
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC<br />
<br />
HÀ NỘI – 2018<br />
<br />
1<br />
<br />
MỞ ĐẦU<br />
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài<br />
Trong xu hướng thương mại tự do, thành viên WTO phải giảm dần và tiến tới xoá<br />
bỏ các biện pháp can thiệp của Chính phủ theo hướng hạn chế thương mại và công bằng.<br />
Theo đó, trợ cấp từ Chính phủ cho sản xuất trong nước phải được cắt giảm và tiến tới xoá<br />
bỏ. Tư tưởng này được thể hiện thống nhất trong nhiều Hiệp định của WTO và có giá trị<br />
bắt buộc với tất cả các thành viên của tổ chức. Tuy nhiên, đối với các thành viên đang phát<br />
triển, thương mại tự do có thể mang lại nhiều thách thức và khó khăn to lớn có thể gây ra<br />
thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước, nền kinh tế của quốc gia. Loại bỏ<br />
hoàn toàn trợ cấp, sản phẩm, doanh nghiệp của các nước đang phát triển sẽ rất khó khăn<br />
trong việc cạnh tranh với sản phẩm, doanh nghiệp của các nước phát triển. Chính các thành<br />
viên WTO cũng thừa nhận đối với các nước đang có một nền kinh tế chỉ đủ khả năng đảm<br />
bảo một mức sống thấp và đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển có thể cần có<br />
các biện pháp bảo hộ hay các biện pháp tác động đến nhập khẩu và chừng nào việc thực<br />
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế nhờ đó có thêm thuận lợi thì việc áp dụng các biện<br />
pháp như vậy còn là đúng đắn. Và trợ cấp cũng được các thành viên WTO thừa nhận đóng<br />
vai trò quan trọng trong sự phát triển của các nước đang phát triển.<br />
Đối với Việt Nam, tại Nghị quyết 08//NQ-TW ngày 05/02/2007 của Ban chấp hành<br />
Trung ương Đảng khoá X “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển<br />
nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”, bên<br />
cạnh những cơ hội “mở rộng thị trường xuất khẩu”, “thúc đẩy nền kinh tế phát triển”,<br />
“nâng cao vị thế quốc gia”. Nghị quyết đã chỉ ra nhiều thách thức “các sản phẩm và doanh<br />
nghiệp của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài không<br />
chỉ trên thị trường thế giới mà ngay trên thị trường trong nước”, “một bộ phận doanh<br />
nghiệp có thể bị phá sản, thất nghiệp có thể tăng lên”… Đứng trước những thách thức, khó<br />
khăn mà một nền kinh tế đang phát triển, một nền kinh tế dễ bị tổn thương, có thể phải đối<br />
mặt, Nghị quyết 22/NQ-TW ngày 10/4/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá<br />
XI về “Hội nhập quốc tế” đã đưa ra định hướng: “Chủ động xây dựng và thực hiện các<br />
biện pháp bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng trong<br />
nước”. Chính phủ có thể bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp bằng cách kết hợp nhiều biện<br />
<br />
2<br />
<br />
pháp khác nhau như áp dụng biện pháp thuế quan, biện pháp phi thuế quan và trợ cấp. Song<br />
bảo vệ lợi ích doanh nghiệp thông qua các chương trình trình trợ cấp là biện pháp hiệu quả<br />
hơn cả, có thể đạt được các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn. Chủ trương “loại bỏ các hình<br />
thức trợ cấp theo lộ trình cam kết; bổ sung những hình thức trợ cấp phù hợp với các quy<br />
định của Tổ chức Thương mại thế giới” cũng được đặt ra trong Nghị quyết 08//NQ-TW.<br />
Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đánh<br />
giá “chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững<br />
của sự phát triển kinh tế”. Chính sách pháp luật về trợ cấp của Việt Nam chưa thực sự hiệu<br />
quả, chưa tạo được động lực cho ngành sản xuất trong nước phát triển. Thậm chí nhiều<br />
doanh nghiệp không thể tiếp cận các biện pháp trợ cấp của Chính phủ. Trong khi đó, thực<br />
tiễn tranh chấp về chống trợ cấp trước WTO cho thấy, trợ cấp được áp dụng ở tất cả các<br />
nước thành viên, từ các nước đang phát triểnđến thành viên phát triển. Trong điều kiện<br />
cạnh tranh ngày càng gay gắt và phức tạp, nhu cầu được trợ cấp của các ngành sản xuất<br />
trong nước là rất lớn. Xây dựng chính sách pháp luật về trợ cấp quốc gia phù hợp nhằm<br />
mục đích bảo vệ, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngành công nghiệp non trẻ, ngành<br />
công nghiệp chiến lược mà vẫn đảm bảo mục tiêu thương mại tự do là một thách thức với<br />
Chính phủ Việt Nam.<br />
Gia nhập WTO vào ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ<br />
150 và có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của một thành viên đang phát triển. Việt Nam có nghĩa<br />
vụ tuân thủ các quy định của WTO về cắt giảm trợ cấp và cũng có quyền hưởng quy chế<br />
đối xử đặc biệt và khác biệt trong các quy định về trợ cấp dành cho các nước đang phát<br />
triển. Vì vậy, nghiên cứu pháp luật WTO về trợ cấp một cách toàn diện để thực hiện đúng<br />
các nghĩa vụ cũng như tận dụng tất cả các quyền lợi từ tổ chức thương mại tự do đông<br />
thành viên nhất nhằm xây dựng chính sách pháp luật trợ cấp quốc gia hiệu quả, tạo động<br />
lực cho phát triển kinh tế là nhu cầu tất yếu của tất cả các nước đang phát triểnnói chung<br />
và Việt Nam nói riêng.<br />
Trên cơ sở lý luận, thực hiện các chủ trương của Đảng đề ra và xuất phát từ nhu cầu<br />
thực tiễn về trợ cấp của ngành sản xuất trong nước cũng như thực trạng chính sách pháp<br />
luật về trợ cấp của Việt Nam cho thấy việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về trợ cấp đối với<br />
các nước đang phát triển theo quy định của WTO – Bài học với Việt Nam” có tính cấp thiết<br />
cao cả về lý luận và thực tiễn.<br />
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài<br />
<br />
3<br />
<br />
Đối tượng nghiên cứu của luận án bao gồm các vấn đề: quan điểm của WTO về trợ<br />
cấp và việc áp dụng pháp luật về trợ cấp đối với các thành viên đang phát triển; các quan<br />
điểm, tư tưởng về bản chất và tác động của trợ cấp đến thương mại quốc tế; các quy định<br />
hiện hành về trợ cấp của WTO đối với các thành viên đang phát triển; pháp luật về trợ cấp<br />
của Trung Quốc, Braxin và Hoa kỳ; cam kết và thực trạng pháp luật về trợ cấp của Việt<br />
Nam.<br />
Khi nghiên cứu về “pháp luật về trợ cấp”, nội dung nghiên cứu sẽ bao gồm hai vấn<br />
đề: pháp luật về trợ cấp của chính phủ cho ngành sản xuất trong nước và pháp luật về chống<br />
trợ cấp đối với hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp. Đây là nội dung nghiên cứu khá đồ sộ.<br />
Luận án tập trung vào nghiên cứu pháp luật về trợ cấp của chính phủ cho ngành sản xuất<br />
trong nước nhằm mục đích kiến nghị xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trợ cấp của Việt<br />
Nam trong xu hướng chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp, trợ cấp có mục tiêu cho<br />
những ngành công nghiệp mũi nhọn cũng như những doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh<br />
nghiệp nhỏ và vừa dễ tổn thương trong cạnh tranh thương mại quốc tế. Nghiên cứu pháp<br />
luật về chống trợ cấp cũng là nội dung quan trọng, song trong khuôn khổ một luận án,<br />
nghiên cứu sinh thực hiện nghiên cứu pháp luật về chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu<br />
có trợ cấp nhằm mục đích làm rõ hơn một khoản trợ cấp không phù hợp có thể bị đối<br />
kháng như thế nào trong WTO. Các nghiên cứu chuyên sâu hơn về pháp luật chống trợ cấp<br />
sẽ được dành vào những cứu sau luận án.<br />
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả có nêu các loại nguồn pháp luật<br />
WTO, song tác giả chỉ tập trung phân tích các quy định hiện hành của WTO về trợ cấp<br />
được thể hiện trong các Hiệp định và thoả thuận giữa các thành viên. Bởi đây là nguồn luật<br />
đầu tiên và quan trọng nhất của pháp luật WTO về trợ cấp được áp dụng để soi chiếu khi<br />
một biện pháp trợ cấp bị khởi kiện ra trước cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Luận<br />
án cũng sử dụng các án lệ nhằm mục đích làm rõ hơn các quy định hiện hành của WTO và<br />
không nghiên cứu sâu sắc từng án lệ. Các nguồn luật khác của WTO sẽ không được nghiên<br />
cứu tại luận án.<br />
Luận án cũng tập trung vào phân tích pháp luật về trợ cấp của Trung Quốc, Braxin<br />
và Hoa Kỳ. Lý do lựa chọn ba thành viên này bởi Trung Quốc và Braxin đều là nước đang<br />
phát triển ở khu vực Châu Á và Châu Mỹ Latinh. Trung Quốc đại diện cho các thành viên<br />
có nền kinh tế chuyển đổi, việc nghiên cứu cam kết, chính sách pháp luật về trợ cấp của<br />
Trung Quốc cho chúng ta những bài học về việc xoá bỏ hay vận dụng trợ cấp ở một nước<br />
mà các doanh nghiệp đã từng phụ thuộc lớn vào nhà nước. Braxin đại diện cho các nước<br />
<br />
4<br />
<br />
đang phát triển gia nhập WTO từ giai đoạn đầu và đạt được những thành tựu phát triển<br />
mạnh mẽ. Hoa Kỳ đại diện cho những nền kinh tế lớn, là nước nhập khẩu và áp dụng nhiều<br />
biện pháp đối kháng trợ cấp. Cả 03 nước được lựa chọn đều có thực tiễn tranh chấp về trợ<br />
cấp tại WTO khá đa dạng. Chính vì vậy việc lựa chọn Trung Quốc, Braxin và Hoa Kỳ sẽ<br />
giúp luận án tập trung vào phân tích cụ thể những kinh nghiệm cần học tập trong việc xây<br />
dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật về trợ cấp của Việt Nam hướng đến mục đích phát<br />
triển kinh tế.<br />
3. Phương pháp nghiên cứu<br />
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, luận án sử dụng kết hợp nhiều phương pháp<br />
nghiên cứu khoa học khác nhau như: (1) Phương pháp tổng hợp và phân tích là phương<br />
pháp chủ đạo được sử dụng trong nhiều nội dung nghiên cứu của luận án: được áp dụng<br />
khi đánh giá các công trình nghiên cứu nghiên cứu về trợ cấp, khi nghiên cứu các tranh<br />
chấp thực tiễn về trợ cấp trong WTO và tại một số nước thành viên, cam kết về trợ cấp của<br />
Việt Nam và nhiều nội dung khác; (2) Phương pháp thống kê được áp dụng khi nghiên cứu<br />
thực tiễn tham gia tranh chấp về trợ cấp của các thành viên được lựa chọn, nghiên cứu các<br />
số liệu thực tiễn về trợ cấp; (3) Phương pháp so sánh và đối chiếu được áp dụng khi nghiên<br />
cứu pháp luật về trợ cấp của các nước thành viên đặt trong mối quan hệ với các quy định<br />
về trợ cấp của WTO. Các phương pháp nghiên cứu được thực hiện trên nền tảng của<br />
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, trên cơ sở quan<br />
điểm, đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội.<br />
Trong đó, cách tiếp cận kết hợp lý luận và thực tiễn được sử dụng xuyên suốt trong luận<br />
án, nhất là với các nội dung nghiên cứu về quy định của WTO về khái niệm trợ cấp, khái<br />
niệm lợi ích, biên độ trợ cấp, thuế chống trợ cấp, các ưu đãi đặc biệt và khác biệt dành cho<br />
các nước đang phát triển. Luận án cũng sử dụng phương pháp case study để nghiên cứu<br />
thực tiễn tranh chấp về trợ cấp.<br />
4. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài<br />
Mục đích của luận án được xác định là sáng tỏ cơ sở lý luận và nội dung các quy<br />
định về trợ cấp của WTO áp dụng đối với các nước đang phát triểnmột cách hệ thống và<br />
toàn diện. Luận án cũng nhằm mục đích làm sáng tỏ nội dung pháp luật trợ cấp của Trung<br />
Quốc, Braxin và Hoa Kỳ dưới sự soi chiếu của các quy định về trợ cấp của WTO. Trên cơ<br />
sở đó, luận án hướng tới mục đích cao nhất là rút ra những bài học, đưa ra những khuyến<br />
nghị cho việc xây dựng và hoàn pháp luật về trợ cấp của Việt Nam.<br />
Để thực hiện mục đích trên, luận án đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:<br />
<br />
5<br />
<br />