Tổng lược và nhận xét Dân ca Thanh

Nghệ Tĩnh qua báo chí sau Tk XX

Trên tiêu chí Hát, Hò dân gian, chúng tôi đã tuyển chọn ra được 8/16 bài phù hợp

với mục đích của khảo cứu để tổng lược và nhận xét. Ở đây chúng tôi không làm

công việc “tóm tắt nội dung” của các bài chuyên khảo để tổng kết mà chỉ nêu dẫn,

nhận xét những vấn đề như quan điểm, thái độ của tác giả bài viết đối với dân ca,

những phát kiến, phương pháp nghiên cứu, tiếp cận trong điều kiện hoàn cảnh lịch

sử nửa sau thế kỷ XX... theo quan điểm riêng của mình.

Cả một "xứ Thanh", một vùng văn hóa, một vùng dân ca phong phú, đặc sắc đến

thế mà trong giai đoạn này, chúng tôi chỉ gặp có một bài nghiên cứu về Âm nhạc

hò sông Mã của nhạc sĩ Hoàng Sâm 1. Nhưng điều đáng nói, đây là một trong số

rất ít bài chịu đi thẳng vào vấn đề âm nhạc bằng việc phân tích, mổ xẻ cấu trúc nội

tại của làn điệu, biểu hiện trong các yếu tố giai điệu, tiết tấu, điệu thức...để nêu lên

những giá trị âm nhạc của hò Sông Mã. Tuy nhiên, vì lệ thuộc quá nhiều đến cơ sở

lý thuyết âm nhạc cổ điển châu Âu, nên cảm giác như đang nghe tác giả phân tích

tác phẩm âm nhạc cổ điển phương Tây! Hình như tác giả bài viết đang tìm cách

tiêu thụ các thuật ngữ âm nhạc thường dùng trong lý thuyết nhạc cổ điển như "chủ

đề I, chủ đề II", "âm hình chủ đạo", "canon đơn giản", "đối vị 2 bè đơn giản, đối

vị 3 bè"...Đôi chỗ, lạm dụng đến nghi ngờ và khó hiểu: "Giai điệu trong Hò Sông

Mã đã kết hợp nhuần nhuyễn các âm thanh có quãng đặc trưng (chủ yếu quãng 4,

quãng 5, quãng 7 và quãng 2 đúng (!)...kể cả hai chiều...đã hoàn thành được chức

năng biểu hiện mạnh mẽ nhất, toàn diện nhất của ngôn ngữ âm nhạc. Đặc biệt sử

dụng nhảy quãng giai điệu, kết hợp với quãng liền bậc và quãng đồng âm...tạo ra

những âm không ổn định để giải quyết về ổn định, một cách táo bạo", và "cuối

cùng là những bài hò mang điệu thức 5 âm hoàn chỉnh và đan xen các điệu thức 5

âm: Cung, Thương, Giốc, Chủy Vũ và Oán...Đặc biệt trong bài hò theo nhịp đơn

II gần với điệu thức cổ Hy Lạp MyXolidien đan xen với điệu thức Oán-Oán là điệu

thức tiêu biểu cho dân ca người Việt". Chưa kể những cách nói ngường ngược

kiểu như: "Hò Sông Mã là âm nhạc dân gian quan trọng nhất trong nền âm nhạc

dân ca Thanh Hoá" ! Hiện tượng nghiên cứu, phân tích âm nhạc cổ truyền như

trên, kể cả một số trường hợp chúng tôi đã nêu ở trước, là sự áp đặt, là kinh viện

hoá âm nhạc dân gian, nếu không muốn nói là đánh đồng truyền thống, đánh đồng

ngôn ngữ cấu trúc âm nhạc phương Tây cổ điển với dân ca dân gian Việt Nam.

Dân ca Nghệ - Tĩnh, mà tiêu biểu là Ví và Giặm là một hiện tượng sinh hoạt văn

hóa đặc sắc riêng của Xứ Nghệ, đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu trong các lĩnh

vực, đặc biệt, trong lĩnh vực văn học, văn hóa. Từ năm 1944, đã xuất bản sách Hát

Giặm Nghệ - Tĩnh của Nguyễn Đổng Chi; năm 1958 lại xuất bản cuốn Hát Ví

Nghệ - Tĩnh của Nguyễn Chung Anh; năm 1961 có Hát Phường Vải, dân ca Nghệ

- Tĩnh của Ninh Viết Giao... Trên các tạp chí ở miền Nam trước 1975 có Thú Hát

Ví ở Nghệ An - Hà Tĩnh của Hoàng Điệp - Thiết Mai năm 1962, nhưng đáng kể là

khảo cứu dân tộc học Vài nét về sinh hoạt của Hát Giặm và Hát Ví dân ca Nghệ -

Tĩnh của Lê Văn Hảo năm 1963...

Nghiên cứu Hát Giặm và Hát Ví trên lĩnh vực âm nhạc học tương đối ít, có thể kể:

Hát Ví Nghệ Tĩnh (1972) và Hát dặm Nghệ Tĩnh (1981) của nhạc sĩ Đào Việt

Hưng; Hát Giặm Nghệ Tĩnh (1984) của nhạc sĩ Vĩnh Long và chùm 3 bài của các

tác giả Vi Phong, Bích Lộc, Nguyễn Mỹ Hạnh cùng đăng trên tạp chí Nghiên cứu

Văn hóa Nghệ thuật số chuyên đề tháng 6/1992.

Một số vấn đề về Hát Giặm

Bài khảo cứu Vài nét về sinh hoạt của Hát Giặm và Hát Ví 2 của nhà nghiên cứu

văn hóa, dân tộc học Lê Văn Hảo đăng trên tạp chí Đại Học dài 35 trang nhưng chỉ

chú trọng về môi trường sinh hoạt, phong tục và phần văn học của hai thể loại này

mà chủ yếu là phân giải tư liệu từ các tác giả Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao,

Nguyễn Chung Anh...nên, phần nào đó có giá trị về mặt cô đọng tư liệu. Một vài

nhận xét về âm nhạc cũng được rút ra từ những sách này. Chẳng hạn như việc

nhận xét 2 câu láy trong Hát Giặm, được gọi là "vật cốt yếu của con nhà hát nam

nữ, có nghe hát rồi mới thấy được hết giá trị của nó về nhạc điệu, mới biết là bao

nhiêu cái hay chung đúc vào đó cả; ví như dòng nước đang cuồn cuộn chảy bổng

trút cả vào một cái thác". Nói chung, câu láy ở vần trắc này, "ảnh hưởng nhiều

đến nội dung lời ca, làm cho người nghe như có nhấn mạnh, nhắc nhở, quyến

luyến hơn".

Trong tài liệu của Lê Văn Hảo, dẫn theo ý kiến của Nguyễn Đổng Chi về ý nghĩa

của từ Giặm, là trong lúc hát đối đáp, câu của người trả lời phải chấp theo vần ở

cuối câu của người hỏi. Sự chắp vần hay hát chắp vào ấy tức là giặm. Nhưng theo

nhạc sĩ Đào Việt Hưng thì chính vì câu láy ở cuối mỗi khổ, tức là câu nhắc lại ấy

được gọi là câu dặm. Vì vậy mà nhân dân gọi thể loại này là hát dặm.

Bài viết của Đào Việt Hưng về Hát dặm Nghệ Tĩnh 3, mặc dù còn nặng về giới

thiệu sưu tầm, ít tính nghiên cứu nhưng đã nêu được vấn đề biến thái, phát triển

trong làn điệu Hát Giặm. Cụ thể là trong mô hình tiết tấu, sự mở rộng kết cấu hình

thức mà tác giả đã so sánh qua hai bài hát Giặm của 2 thời kỳ, được biết là cách

nhau trên 150 năm. Vấn đề ông đặt ra, về sau được triển khai đầy đủ và khoa học

hơn trong các bài nghiên cứu của Bích Lộc, Nguyễn Mỹ Hạnh.

Ngoài vấn đề nêu trên, mà tác giả Bích Lộc cho là đã làm nên một loại giặm mới,

được gọi là giặm nối trong bài nghiên cứu Âm nhạc của hát Giặm Nghệ Tĩnh 4,

chị đã nêu thêm những biến dạng (hay là phát triển) cao hơn. Đặc biệt trong những

bài vè hát dặm (giặm vè), đã dùng đến cả nhịp hỗn hợp: 7/4 (4/4 + 3/4) làm xáo

trộn chu kỳ của các phách mạnh nhẹ. Về giai điệu Hát Giặm, Bích Lộc nhận xét :

"có đặc điểm hay dùng luyến từ dưới đi lên và yếu tố "nói" có phần chiếm ưu thế

hơn là yếu tố "nhạc”.

Nguyễn Mỹ Hạnh trong Hò, Ví và Giặm Nghệ Tĩnh 5 đã quy các chu kỳ tiết tấu

cơ bản của hát dặm vào trong 2 mô hình tiết tấu gồm 5 điểm tựa, mỗi điểm tựa

ứng với một từ trong thể thơ 5 từ. Mô hình 1 ứng với khuôn nhịp 2/4, tính chất

bình ổn, nhịp nhàng; mô hình 2 ứng với khuôn nhịp 7/8, tính chất xáo động và một

sơ đồ dẫn giải 2 phương thức biến tấu chính trong Hát Giặm. Đấy cũng là sự tóm

lược bằng mô hình các nhóm tiết tấu của làn điệu Giặm gốc và các biến dạng của

nó như Đào Việt Hưng, Bích Lộc đã nêu. Bài viết của Nguyễn Mỹ Hạnh tận dụng

nhiều khả năng của phương pháp thống kê và mô hình hoá, nhưng nhiều khi lại vô

tình phức tạp hoá các vấn đề vốn đơn giản.

Một điều có thể tác giả nhầm khi nói: “Hát dặm Nghệ - Tĩnh cũng khác hẳn hát

giặm Quyền Sơn về nhiều mặt, trong đó có cả phần âm nhạc”. Loại hát ở Quyền

Sơn Hà Nam Ninh là Hát giậm chứ không phải giặm; là một loại hát lễ nghi phong

tục, hát cửa đền, gắn với nghi lễ thờ vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt.

Cũng tham khảo cùng một nguồn tư liệu như Lê văn Hảo, nhưng trong cách giải

thích ý nghĩa chữ giặm, nhạc sĩ Vĩnh Long trong bài Hát Giặm Nghệ Tĩnh 6 đã

nêu ra cả hai cách hiểu: Chữ Giặm là để chỉ hiện tượng láy lại câu cuối; và Giặm

là giặm lại vần của bài hỏi. Không sơ lược như bài viết của nhạc sĩ Đào Việt

Hưng, nhạc sĩ Vĩnh Long đã đi vào từng vấn đề một cách kĩ càng hơn. Đặc biệt về

âm nhạc, ông đã nêu lên mối quan hệ mật thiết giữa âm điệu Hát Giặm và thanh

điệu của giọng nói Nghệ - Tĩnh.

Một số vấn đề về Hát Ví.

Cũng như trong Hát Giặm, ở Hát Ví, Lê Văn Hảo 2 vẫn chú trọng khai thác về

truyền thống sinh hoạt, phong tục của thể hát này. Ông đã nêu ra những hình thái

văn hóa phong phú của Hát Ví, mà ở đó, đặc điểm sinh hoạt hình thành những

phường hát theo môi trường nghề nghiệp khác nhau, như Ví phường cấy, Ví

phường vải, Ví phường nón, Ví phường củi v.v...Trong đó, Ví phường vải có cách

thức tổ chức, lề lối phức tạp nhất trong các loại hát Ví, vì có sự tham gia của các

nhà Nho, các ông đồ Xứ Nghệ mà ngày nay tên tuổi nổi tiếng trong văn học sử

nước nhà như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Huy Tự, Phan Bội Châu...

Sự phức tạp của Ví phường vải được biểu hiện đầu tiên là ở thủ tục của một cuộc

hát, mà thường kéo dài trong nhiều đêm với đủ mọi chặng, mọi bước: "hát dạo,

hát chào, hát mừng, hát hỏi, hát đố, hát đối, hát mời, hát xe kết và hát tiễn".

Nhạc sĩ Đào Việt Hưng cho biết, mặc dù Hát Ví Nghệ-Tĩnh 7 được gọi theo nhiều

tên gọi vì kèm theo tên các phường nghề khác nhau nhưng thực chất về âm nhạc

chỉ có thể phân chia theo cách cổ truyền trong dân gian là lối Ví phường vải và lối

Ví đò đưa. Cả hai lối Ví đều xây dựng trên dạng điệu thức 5 âm không bán âm; lấy

tiết tấu thơ làm cơ sở cho tiết tấu nhạc, lấy âm điệu 4 làm cơ sở cho cơ cấu giai

điệu. Ở lối Ví đò đưa còn lấy quãng 3 thứ làm điểm tựa cho các bước nhẩy của

giai điệu. Vấn đề này, Nguyễn Mỹ Hạnh đã triển khai thêm đầy đủ hơn, chẳng

hạn, âm điệu quãng 4 dẫu vẫn quán xuyến trong các làn điệu ví, song sự xuất hiện

thường xuyên của những quãng 2 trưởng, 3 thứ xen giưã khung quãng 4, kết hợp

với tiết tấu chậm rãi, đều đặn đã đem lại cho âm điệu quãng 4 trong Hát ví tính

chất mềm dịu. Cũng theo Nguyễn Mỹ Hạnh 5, Hát Ví Nghệ-Tĩnh sử dụng nhiều

hơn cả là thang 4 âm theo dạng: a-c-d-e; e-a-c-d, một số bài hoàn toàn chỉ dùng 3

âm: e-a-c và a-d-e có vai trò nòng cốt ngay trong những bài đã xuất hiện 4, 5 âm.

"Điều này một mặt làm cho Ví khác với Hò, mặt khác lại làm nó có phần gần với

Hát dặm".

Nhạc sĩ Vi Phong không đồng tình với một số nhà nghiên cứu cho rằng Ví Nghệ -

Tĩnh là loại dân ca một làn điệu, và đã nêu lên sự khác biệt về âm nhạc giữa 2 điệu

Ví đò đưa sông La và Ví đò đưa sông Lam trong bài Đôi điều về hát Ví và sức mở

của dân ca Nghệ Tĩnh 8. Tuy vậy, tác giả bài viết chỉ dẫn chứng bằng 2 nét nhạc

mở đầu có cùng âm điệu chủ đạo của thang 4 âm dạng : e-a-c-d, thì chưa thể là

một dẫn chứng thuyết phục đối với loại hát đối đáp dân gian có đặc tính đối lời

này.

So với đa số bài nghiên cứu về dân ca khu vực Đồng bằng Bắc Bộ ở cuối chương

trước thì hầu hết các bài khảo cứu dân ca Thanh - Nghệ - Tĩnh đều trội hơn hẳn về

khuynh hướng nghiên cứu âm nhạc. Dù vẫn còn cảm tính, nhưng rõ ràng, qua

phương pháp nghiên cứu âm nhạc mới có thể nêu ra được những đặc điểm của mỗi

thể loại dân ca.

TÀI LIỆU DẪN

1. Hoàng Sâm. Về âm nhạc Hò Sông Mã.

T/c NCNT số 7/1989.

2. Lê Văn Hảo. Vài nét về sinh hoạt của hát Giặm và hát Ví.

Tạp chí Đại học số 34/1963.

3. Đào Việt Hưng. Hát Giặm Nghệ Tĩnh.

T/c Âm nhạc số 3,4/1981.

4. Bích Lộc. Âm nhạc của hát Giặm Nghệ Tĩnh

T/c Nghiên cứu VHNT số 6/1992.

5. Nguyễn Mỹ Hạnh. Hò, Ví và Giặm Nghệ Tĩnh.

T/c Nghiên cứu VHNT số 6/1992.

6. Vĩnh Long. Hát Giặm Nghệ Tĩnh.

Văn hóa dân gian số 4/1984.

7. Đào Việt Hưng. Hát Ví Nghệ Tĩnh.

Báo Văn hóa số 4/1972.

8. Vi Phong. Đôi điều về hát ví và sức mở của dân ca Nghệ Tĩnh.

T/c Nghiên cứu VHNT số 6/1992.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Màu sắc dân ca Thanh Hoá phục vụ cho sáng tác ÂN hiện nay. Xuân Liên.

VHNT số 15/76

2. Hò tiếp vận Thanh Hoá. Mã Giang Lân. VHNT số 12/76

3. Tản mạn về hát Giặm. Thái Kim. NCNT số 6/92

4. Bông hoa nghệ thuật mới: Kịch hát Nghệ Tĩnh. Từ Lương.

Sân khấu số 5,6/83

5. Dân ca Nghệ Tĩnh và nền âm nhạc chuyên nghiệp. Lê Hàm.

Sông Lam số 7. 1/12/95

6. Cội nguồn sâu xa từ dân ca Nghệ Tĩnh. Thái Cơ. ÂN số 3,4/81

7. Thú hát ví ở Nghệ An Hà Tĩnh. Hoàng Diệp và Thiết Mai.

VH nguyệt san 69/62

8. Hát ví Nghệ Tĩnh. Đào Văn Hồng.

Những vấn đề Âm nhạc & múa - tập 2/70