TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên đề tài:
TRỌNG TÀI – PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Ở VIỆT NAM
: HÀ THỊ HOÀN : TRUNG 2 : K41F – KTĐN : 0983 606 849 Họ và tên sinh viên Lớp Khoá Số điện thoại
Giáo viên hướng dẫn : GS., TS. NGUYỄN THỊ MƠ
HÀ NỘI, 11/ 2006
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi chúng ta thực hiện mở cửa nền kinh tế đến nay, Việt Nam đã
đạt đƣợc những thành tựu to lớn mang tính chất bƣớc ngoặt. Trong xu thế
toàn cầu hóa hiện nay, bất cứ một quốc gia nào đứng riêng lẻ cũng không thể
tồn tại đƣợc. Chính từ nhận định này mà Đảng và nƣớc ta đang hết sức nỗ lực
xây dựng nền kinh tế Việt Nam trở thành nền kinh tế mở, hội nhập với các
nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ
chức kinh tế khu vực, đã tham gia ký kết nhiều hiệp định hợp tác phát triển
kinh tế song phƣơng và đa phƣơng. Trong quá trình hội nhập, thành tích lớn
nhất mà Việt Nam đạt đƣợc là việc trở thành thành viên của WTO vào ngày
07/11/2006 vừa qua.
Trong quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại, tranh chấp là điều khó tránh
khỏi. Có thể dễ dàng giải thích điều này do các bên có sự khác biệt nhau về
ngôn ngữ, văn hóa, tập quán, trình độ, quyền và lợi ích; đó là còn chƣa nói
đến những gian lận trong quan hệ hợp tác. Giải quyết những tranh chấp này
một cách thỏa đáng là điều mong mỏi của các bên tham gia. Tuy nhiên, đạt
đƣợc sự thông cảm và hiểu biết lẫn nhau giữa hai bên không phải là đơn giản.
Việc giải quyết tranh chấp có thể đƣợc tiến hành thông qua thƣơng lƣợng, hòa
giải, trung gian, trọng tài, hay tòa án nhƣng cách giải quyết tranh chấp thông
qua trọng tài vẫn đƣợc ƣa thích nhất bởi nó có nhiều ƣu việt so với các
phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác.
Tuy nhiên doanh nghiệp Việt Nam vẫn chƣa hiểu biết tƣờng tận về
cách giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài, thậm chí có ngƣời không biết
đến cơ chế giải quyết tranh chấp này. Khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam không chú ý đến điều khoản về giải
quyết tranh chấp nói chung và giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nói riêng,
do đó, khi tranh chấp xảy ra thƣờng rơi vào thế bất lợi. Chính vì vậy tôi chọn
đề tài này nhằm làm rõ phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, là
một trong những phƣơng thức giải quyết tranh chấp đƣợc ƣa chuộng trong
kinh doanh quốc tế hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ các phƣơng thức giải quyết tranh chấp chủ yếu trong
kinh doanh quốc tế hiện nay, đề tài chú trọng phân tích phƣơng thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài với ý nghĩa là một phƣơng thức đƣợc ƣa
chuộng trong việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế, từ đó đề
xuất các kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của phƣơng thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài trong kinh doanh quốc tế đối với các doanh nghiệp Việt
Nam trong giai đoạn sắp tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là các quy định về giải quyết tranh
chấp giữa các thƣơng nhân trong kinh doanh quốc tế thông qua các phƣơng
thức, trong đó có phƣơng thức trọng tài.
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận giới hạn chỉ ở việc giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong kinh doanh quốc tế giữa các thƣơng nhân với nhau,
không nghiên cứu việc giải quyết tranh chấp giữa các nhà nƣớc. Thực tiễn
giải quyết tranh chấp ở Việt Nam bằng trọng tài chủ yếu là xem xét thực tiễn
giải quyết tranh chấp của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh
Phòng thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu của khóa luận chủ yếu là phƣơng pháp tổng
hợp, phân tích, diễn giải, quy nạp, thống kê, so sánh, kết hợp nghiên cứu tài
liệu với tình hình thực tế ở mức độ cho phép.
5. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết thúc, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan về trọng tài và giải quyết tranh chấp trong
kinh doanh quốc tế bằng trọng tài
Chƣơng 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam
Chƣơng 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lƣợng giải quyết
tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng trọng tài trong thời gian tới
Tôi xin chân thành cảm ơn các thày cô giáo Khoa Kinh tế ngoại thƣơng
đã tận tình chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học đại học và quá trình nghiên
cứu khóa luận vừa qua.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn của mình tới GS.,TS. Nguyễn Thị Mơ -
ngƣời đã định hƣớng và hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa
luận này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn VIAC đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình tìm kiếm tài liệu để viết khóa luận.
DANH MỤC NHỮNG TỬ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN
Hiệp hội trọng tài Mỹ AAA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN
Diễn đàn hợp tác Á - Âu ASEM
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dƣơng APEC
Hội đồng trọng tài Ngoại thƣơng FTAC
Phòng thƣơng mại Quốc tế ICC
Trung tâm Quốc tế giải quyết các tranh chấp đầu tƣ ICSID
Hội đồng trọng tài Hàng hải MAC
Pháp lệnh Pháp lệnh trọng tài Thƣơng mại 2003
Quy tắc 1993 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ
ngày 20/08/1993
Quy tắc 1996 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ
ngày 15/04/1996
Quy tắc 2004 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ
ngày 01/07/2004
UNCITRAL Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật thƣơng mại quốc tế
Đô-la Mỹ USD
Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh VIAC
Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam
Tổ chức Thƣơng mại Thế giới WTO
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRỌNG TÀI
VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH
QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ
1. Tranh chấp là gì ?
Trong nền kinh tế thị trƣờng, các nhà kinh doanh có quan hệ kinh tế
thƣơng mại rất chặt chẽ và khăng khít với nhau. Họ đều muốn xây dựng lòng
tin, duy trì các mối quan hệ kinh tế, thƣơng mại với các đối tác lâu dài nhằm
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, thƣơng mại của họ đƣợc ổn định và phát
triển. Tuy nhiên, đôi khi, vì nhiều lí do chủ quan và khách quan khác nhau,
các mối quan hệ kinh tế, thƣơng mại giữa các nhà kinh doanh cũng có những
bất đồng và mâu thuẫn, dẫn đến các tranh chấp kinh tế, thƣơng mại.
Để hiểu thế nào là tranh chấp kinh tế, thƣơng mại cần phải hiểu rõ khái
niệm tranh chấp. Tranh chấp là sự xung đột, mâu thuẫn, tranh giành quyền lợi
giữa hai hay nhiều chủ thể tham gia vào một quan hệ pháp luật mà trong quá
trình tranh giành đó, ai cũng cho rằng mình là đúng, lợi ích của mình cần
đƣợc bảo vệ.
Khi các chủ thể tham gia vào các quan hệ do pháp luật điều chỉnh,
những mâu thuẫn, bất đồng giữa họ thƣờng phát sinh từ, hoặc có liên quan
đến việc thực hiện nghĩa vụ của một bên, khi mà bên kia, hoặc cho rằng mình
có quyền yêu cầu bên này phải làm một nghĩa vụ để tạo ra một lợi ích cho
mình, hoặc cho rằng những thiệt hại mà mình phải gánh chịu là do lỗi của bên
này... trong khi bên này lại không cho là nhƣ vậy.
Tranh chấp xảy ra trong mọi mối quan hệ xã hội. Tranh chấp là một
hiện tƣợng khách quan, nó tồn tại ngoài ý thức của các chủ thể. Xã hội ngày
càng phát triển, mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, do đó, tranh chấp
phát sinh cũng ngày càng nhiều và phức tạp. Có thể nói, tranh chấp gắn với
hoạt động xã hội loài ngƣời và yêu cầu đặt ra là phải tìm ra cơ chế giải quyết
những tranh chấp ấy.
2. Tranh chấp thƣơng mại
Mặc dù tranh chấp xảy ra trong mọi mối quan hệ xã hội, có thể là tranh
chấp trong chính trị, ý thức hệ, nhân sinh quan, văn hóa, khoa học, kinh tế,
thƣơng mại... Nhƣng loại hình tranh chấp phổ biến nhất là tranh chấp về kinh
tế, tranh chấp xảy ra trong hoạt động thƣơng mại. Cũng có thể nói đa số các
tranh chấp phát sinh đều có mối liên quan chặt chẽ đến lợi ích kinh tế, đến lợi
nhuận trong các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động thƣơng mại nói
riêng.
Tranh chấp thƣơng mại có thể là tranh chấp giữa các quốc gia hoặc
tranh chấp giữa các chủ thể kinh doanh. Trong giới hạn của khóa luận này,
ngƣời viết chỉ nghiên cứu về tranh chấp thƣơng mại phát sinh giữa các chủ
thể kinh doanh. Đó là các tranh chấp thƣơng mại liên quan đến hoạt động của
các doanh nghiệp - là tranh chấp trong kinh doanh.
Tranh chấp thƣơng mại là tranh chấp phát sinh từ hoặc có liên quan đến
các hoạt động thƣơng mại. Vậy hoạt động thƣơng mại là gì? Khái niệm này
đƣợc hiểu khác nhau tùy từng nƣớc khác nhau, phụ thuộc vào nhận thức về
thƣơng mại cũng nhƣ về trình độ phát triển của nền kinh tế.
Trƣớc đây, hoạt động thƣơng mại đƣợc hiểu là hoạt động mua và bán
hàng hóa hữu hình nhằm mục đích thu lợi nhuận. Cho đến nay, khái niệm này
đã đƣợc mở rộng ra cả với khu vực dịch vụ - hàng hóa vô hình. Tổ chức
thƣơng mại thế giới (WTO) cho rằng hoạt động thƣơng mại là tất cả các hoạt
động nhằm mục đích thu lợi nhuận, bất kể đó là hàng hóa, dịch vụ hay sở hữu
công nghiệp, đầu tƣ... Chính vì vậy, WTO đã mở rộng phạm vi điều chỉnh của
mình sang các lĩnh vực dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tƣ với việc ban hành các
Hiệp định đa biên nhƣ GATT (thƣơng mại hàng hóa), GATS (thƣơng mại
dịch vụ), TRIPS (các khía cạnh thƣơng mại liên quan đến sở hữu trí tuệ),
TRIMS (các khía cạnh thƣơng mại liên quan đến đầu tƣ).
Ở Việt Nam, khái niệm hoạt động thƣơng mại cũng đƣợc hiểu khác
nhau theo từng thời kỳ. Nói cách khác, khái niệm này đƣợc xem xét ở trạng
thái động, đƣợc hiểu theo nghĩa ngày càng rộng hơn. Luật Thƣơng mại Việt
Nam năm 1997 quy định: “hoạt động thƣơng mại là việc thực hiện một hay
nhiều hành vi thƣơng mại của thƣơng nhân, bao gồm việc mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ thƣơng mại và các hoạt động xúc tiến thƣơng mại khác
nhằm mục đích thu lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế, xã
hội. Dịch vụ thƣơng mại gồm những dịch vụ gắn với việc mua bán hàng hóa.
Xúc tiến thƣơng mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán
hàng hóa và cung ứng dịch vụ thƣơng mại” (Điều 5 Khoản 2). Đây là một
khái niệm về hoạt động thƣơng mại hẹp. Nằm trong phạm vi đƣợc coi là hoạt
động thƣơng mại, đƣợc Luật Thƣơng mại năm 1997 điều chỉnh chỉ bao gồm
14 hành vi. Đến năm 2005, Luật Thƣơng mại của Việt Nam đã mở rộng hơn
nội hàm của khái niệm hoạt động thƣơng mại bằng quy định: “hoạt động
thƣơng mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, xúc tiến thƣơng mại và các hoạt động nhằm mục
địch sinh lợi khác” (Điều 3 Khoản 1). Đây là một sự đổi mới vƣợt bậc trong
cách hiểu về khái niệm hoạt động thƣơng mại, phù hợp với cách hiểu của
Luật mẫu UNCITRAL: “Khái niệm thƣơng mại cần phải đƣợc giải thích theo
nghĩa rộng, bao gồm các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất
thƣơng mại, dù có hợp đồng hay không có hợp đồng. Quan hệ có bản chất
thƣơng mại bao hàm nhƣng không chỉ giới hạn đối với các giao dịch sau đây:
bất kỳ giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hay dịch
vụ, hợp đồng phân phối đại diện thƣơng mại hay đại lý, các công việc sản
xuất, thuê máy móc thiết bị, xây dựng, tƣ vấn thiết kế cơ khí, li-xăng, đầu tƣ,
ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển nhƣợng,
liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh,
vận tải hàng hóa hoặc hành khách bằng đƣờng hàng không, đƣờng biển,
đƣờng sắt hoặc đƣờng bộ” (Điều 1 Luật mẫu UNCITRAL).
3. Tranh chấp trong kinh doanh quốc tế
Trong thực tế, ở phạm vi trong nƣớc ngƣời ta không phân biệt khái
niệm tranh chấp thƣơng mại với khái niệm tranh chấp trong kinh doanh.
Nguyên nhân chủ yếu là do không có sự phân biệt rõ giữa khái niệm kinh
doanh và thƣơng mại. Ở một số nƣớc, có sự đồng nhất cách hiểu về hai khái
niệm này.
Pháp luật Việt Nam hầu nhƣ đồng nhất hai khái niệm kinh doanh và
thƣơng mại: đó là các hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích thu lợi
nhuận. Tranh chấp thƣơng mại và tranh chấp trong kinh doanh là những tranh
chấp gắn liền với hoạt động kinh doanh - thƣơng mại của doanh nghiệp.
Do không có sự phân định hai khái niệm kinh doanh và thƣơng mại nên
khi đƣa ra những loại hình tranh chấp thuộc thẩm quyền xét xử của trọng tài
thƣơng mại, Pháp lệnh trọng tài Thƣơng mại Việt Nam 2003 cho rằng hoạt
động thƣơng mại là hoạt động của các cá nhân, tổ chức kinh doanh mà xét về
mặt bản chất, đó cũng là hoạt động của doanh nghiệp. Điều 2 Khoản 3 Pháp
lệnh trọng tài Thƣơng mại Việt Nam 2003 quy định: "hoạt động thƣơng mại
là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thƣơng mại của cá nhân, tổ chức kinh
doanh, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại
lý thƣơng mại, ký gửi, thuê, cho thuê, thê mua, xây dựng, tƣ vấn, kỹ thuật, li-
xăng, đầu tƣ, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò, khai thác, vận chuyển
hàng hóa, hành khách bằng đƣờng hàng không, đƣờng biển, đƣờng sắt, đƣờng
bộ và các hành vi thƣơng mại khác theo quy định của pháp luật".
Tuy nhiên, ở phạm vi quốc tế, các hoạt động thƣơng mại lại đƣợc tiếp
cận khác. Ở phạm vi quốc tế, các mối quan hệ xã hội phát sinh thƣờng và chủ
yếu đƣợc chia thành hai nhóm quan hệ: Nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa
các quốc gia với nhau và nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa các doanh
nghiệp với nhau. Tranh chấp thƣơng mại quốc tế là những tranh chấp phát
sinh giữa các quốc gia với nhau khi các quốc gia tiến hành hoạt động thƣơng
mại ở phạm vi quốc tế, còn tranh chấp trong kinh doanh quốc tế là những
tranh chấp phát sinh giữa các doanh nghiệp, các công ty ở các nƣớc khác nhau
với nhau khi các doanh nghiệp, công ty này thực hiện các hoạt động kinh
doanh, thƣơng mại.
4. Tranh chấp trong kinh doanh quốc tế là tranh chấp chủ yếu liên quan
đến hoạt động của các thƣơng nhân trong thƣơng mại quốc tế.
Thƣơng nhân là một khái niệm khá quen thuộc trong pháp luật thƣơng
mại của các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng nhƣng lại còn rất xa lạ đối với
những nƣớc có nền kinh tế kế hoạch hóa, bao cấp.
Ở các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển, đặc biệt là ở Mỹ, Pháp,
Đức... thƣơng nhân là một thuật ngữ, một từ dùng để chỉ những ngƣời mà
hoạt động của họ mang hai đặc điểm. Thứ nhất, ký kết các hợp đồng thƣơng
mại và tiến hành các hoạt động kinh doanh khác một cách thƣờng xuyên
nhằm mục đích thu lợi nhuận. Thứ hai, nhân danh bản thân mình để thực hiện
các hoạt động kinh doanh đó, nghĩa là, thƣơng nhân là những ngƣời hoạt động
kinh doanh độc lập.
Việc đƣa ra khái niệm thƣơng nhân là rất quan trọng bởi thƣơng nhân
sẽ chịu quy chế quản lý riêng. Quy chế quản lý thƣơng nhân đƣợc đƣa ra
nhằm tạo điều kiện cho thƣơng nhân hoạt động thuận lợi hơn, đồng thời cũng
đƣa ra những điều kiện ràng buộc thƣơng nhân, bảo vệ những ngƣời không
phải là thƣơng nhân.
Thƣơng nhân có thể là cá nhân hoặc tập thể. Trong một số trƣờng hợp
Nhà nƣớc cũng đƣợc coi là một thƣơng nhân đặc biệt.
Các thƣơng nhân là cá nhân chính là các tự nhiên nhân hay còn gọi là các
thể nhân mà với tƣ cách là chủ sở hữu một xí nghiệp, hoạt động nhƣ các nhà
kinh doanh, các nhà buôn riêng lẻ. Thông thƣờng họ tiến hành kinh doanh những
hoạt động không đòi hỏi phải có một số vốn lớn. Còn các pháp nhân là các
thƣơng nhân tập thể, thƣờng tồn tại dƣới hình thức là các hội, các công ty, các
hãng kinh doanh khác nhau và là chủ sở hữu của một hoặc một số doanh nghiệp.
Tuy nhiên, không phải bất kì cá nhân hay tập thể nào đều có thể trở
thành thƣơng nhân. Để đƣợc thừa nhận là thƣơng nhân, cần phải thỏa mãn
một số điều kiện nhất định do Pháp luật từng nƣớc đƣa ra. Theo các nƣớc
phƣơng Tây, có hai điều kiện: điều kiện liên quan đến con ngƣời và điều kiện
liên quan tới công việc, tới hoạt động, nghề nghiệp của ngƣời đó.
Về điều kiện liên quan tới con ngƣời, luật pháp của hầu hết các nƣớc
đều có quan điểm tƣơng đối thống nhất: thƣơng nhân phải là những ngƣời có
năng lực hành vi và năng lực pháp luật. Tuổi có năng lực hành vi do luật của
từng nƣớc quy định khác nhau.
Về điều kiện liên quan tới hoạt động của thƣơng nhân, luật pháp của
các nƣớc quy định không giống nhau.
Luật của Nhật quy định thƣơng nhân là “một ngƣời nhân danh bản
thân mình tham gia vào các giao dịch thƣơng mại nhƣ một nhà kinh doanh”.
Theo quy định này thì một thƣơng nhân tham gia vào việc mua bán với một
cửa hàng hoặc một hình thức tƣơng tự hoặc một ngƣời tiến hành kinh doanh
về hầm mỏ cũng đƣợc coi là thƣơng nhân.
Luật của Mỹ quy định thƣơng nhân là những ngƣời “thực hiện nghiệp
vụ với những hàng hóa thuộc chủng loại nhất định hoặc thực hiện những
nghiệp vụ bằng cách khác nhau nào đó và xét về tính chất nghiệp vụ của
mình, họ đƣợc coi nhƣ là những ngƣời có kiến thức hoặc có kinh nghiệm đặc
biệt trong những nghiệp vụ hoặc đối với những hàng hóa là đối tƣợng của các
hợp đồng thƣơng mại”.
Luật của Pháp quy định thƣơng nhân là tất cả những ngƣời ký hợp
đồng thƣơng mại, thực hiện các hợp đồng thƣơng mại và coi việc ký và thực
hiện các hợp đồng thƣơng mại đó là nghề nghiệp thƣờng xuyên của mình. Từ
khái niệm trên luật Thƣơng mại Pháp đƣa ra 3 tiêu chuẩn:
Thực hiện các hành vi, các hoạt động thƣơng mại
Nhân danh bản thân mình để thực hiện các hành vi thƣơng mại
đó, với tƣ cách là một ngƣời độc lập
Coi đó là nghề nghiệp thƣờng xuyên của mình
Từ 3 tiêu chuẩn này, Bộ luật Thƣơng mại Pháp liệt kê ra một danh mục
dài những hành vi đƣợc coi là hành vi thƣơng mại. Cũng từ 3 tiêu chuẩn trên,
luật Thƣơng mại Pháp không thừa nhận những ngƣời làm một số nghề nhất
định là thƣơng nhân.
Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005 quy định “thƣơng nhân bao gồm
tổ chức kinh tế đƣợc thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thƣơng mại một
cách độc lập, thƣờng xuyên và có đăng ký kinh doanh”, trong đó hoạt động
thƣơng mại đƣợc hiểu là “hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, xúc tiến thƣơng mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác”.
II. CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH
QUỐC TẾ
1. Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế
thƣờng gặp
Trong hoạt động kinh doanh quốc tế, khi tranh chấp xảy ra các bên
thƣờng sử dụng một hoặc kết hợp các phƣơng thức giải quyết sau: thƣơng
lƣợng trực tiếp giữa các bên, qua trung gian, thông qua hòa giải viên, thông
qua bộ máy tƣ pháp - kiện ra tòa án hoặc trọng tài.
1.1. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng trực tiếp giữa các bên
Thƣơng lƣợng là một phƣơng thức giải quyết tranh chấp theo đó các
bên đang tranh chấp với nhau sẽ trực tiếp thƣơng lƣợng để giải quyết tranh
chấp. Nếu thƣơng lƣợng thành công thì đồng nghĩa với việc giải quyết đƣợc
tranh chấp đã phát sinh.
Thƣơng lƣợng trực tiếp giữa các bên là phƣơng thức giải quyết tranh
chấp thƣờng đƣợc áp dụng. Ƣu điểm của phƣơng pháp này là: các bên có thể
giải quyết tranh chấp một cách nhanh gọn, ít tốn kém; các bên tranh chấp có
thể tập trung vào vấn đề chính của việc giải quyết tranh chấp, tránh đƣợc
những vấn đề mang tính thủ tục, hình thức; bảo vệ đƣợc uy tín, vị thế của các
nhà kinh doanh cũng nhƣ giữ đƣợc bí mật kinh doanh cho các bên; giữ đƣợc
hòa khí, mối quan hệ hữu hảo giữa các bên.
Thƣơng lƣợng trực tiếp có thể đƣợc tiến hành bằng cách hai bên trực
tiếp gặp nhau để thỏa thuận thƣơng lƣợng hoặc trao đổi thông qua thƣ từ, các
phƣơng tiện truyền thông dƣới hình thức khiếu nại và trả lời khiếu nại.
Thƣơng lƣợng bằng cách hai bên trực tiếp gặp gỡ nhau khi có tranh
chấp phát sinh. Khi gặp nhau hai bên đều có thể bộc lộ ý định của mình một
cách thẳng thắn, nêu hết đƣợc ý kiến của mình, nắm bắt và thấu hiểu đƣợc
nguyện vọng của bên kia và do đó các bên có thể giải quyết đƣợc tranh chấp.
Tuy nhiên, thƣơng lƣợng bằng cách gặp nhau trực tiếp thƣờng rất tốn kém chi
phí và thời gian. Vì vậy, các bên thƣờng lựa chọn cách này khi có điều kiện
thuận lợi và đối với những tranh chấp phức tạp, có giá trị lớn hoặc sau khi
thƣơng lƣợng bằng khiếu nại và trả lời khiếu nại chƣa đạt đƣợc kết quả.
Thƣơng lƣợng bằng cách khiếu nại và trả lời khiếu nại (đƣợc gọi ngắn
là khiếu nại). Thông thƣờng, bên bị vi phạm gửi đơn khiếu nại kèm theo các
chứng từ làm bằng chứng cho bên vi phạm và bên vi phạm trả lời đơn khiếu
nại đó. Khi tiến hành khiếu nại bên vi phạm, bên bị vi phạm cần chú ý đến hai
thủ tục pháp lý không thể thiếu là Đơn khiếu nại và thời hạn khiếu nại. Trong
thực tế các bên thƣờng tiến hành khiếu nại trƣớc khi đi kiện ra tòa hoặc trọng
tài và khiếu nại là bắt buộc khi trong hợp đồng có quy định. Khi đó khiếu nại
sẽ là cơ sở cho tòa án hoặc trọng tài chấp nhận đơn kiện để xét xử. Khiếu nại
có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động kinh doanh quốc tế, khiếu nại kịp thời bảo
vệ quyền lợi cho bên khiếu nại, góp phần đảm bảo cho quá trình kinh doanh
bình thƣờng của các nhà kinh doanh quốc tế. Mặt khác, thông qua khiếu nại
và giải quyết khiếu nại có thể đánh giá đƣợc sự thiện chí, uy tín của đối
phƣơng, từ đó đƣa ra quyết định về giao dịch sau này giữa hai bên.
1.2. Giải quyết tranh chấp qua khâu trung gian
Giải quyết tranh chấp qua khâu trung gian là việc các bên thống nhất
chọn ra một ngƣời thứ ba - ngƣời trung gian (thƣờng là các chuyên gia, những
ngƣời có kiến thức, am hiểu, cả hai bên đều biết) có chức năng nhƣ một nhà
ngoại giao con thoi với nhiệm vụ tìm ra điểm tới hạn mà hai bên tham gia
trong vụ tranh chấp đều có thể chấp nhận đƣợc. Ở đây không có sự gặp gỡ tay
ba giữa các bên và ngƣời trung gian - ngƣời thứ ba mà ngƣời thứ ba sẽ họp
với từng bên, lắng nghe và phân tích cho các bên để các bên có thể đi đến một
điểm nút chung mà các bên chấp nhận để giải quyết tranh chấp.
1.3. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng hòa giải
Hòa giải là phƣơng pháp giải quyết tranh chấp giữa các bên đƣơng sự
thông qua ngƣời thứ ba gọi là hòa giải viên.
Khi có tranh chấp phát sinh mà chƣa thƣơng lƣợng hoặc thƣơng lƣợng
không đƣợc thì bất kỳ bên nào cũng có quyền đề nghị giải quyết tranh chấp
bằng hòa giải và giới thiệu hòa giải viên. Nếu bên kia đồng ý thì hai bên cùng
chọn hòa giải viên. Hòa giải viên đƣợc các bên chọn ra sẽ điều khiển quá trình
hòa giải. Hòa giải có thể đƣợc tiến hành bằng hai cách: Một là, các bên tự
thỏa thuận với nhau về hòa giải, cùng nhau chỉ định hòa giải viên và tiến hành
hòa giải không bắt buộc phải tuân theo nguyên tắc hòa giải nào. Hai là, các
bên thỏa thuận hòa giải theo quy tắc hòa giải của tổ chức nghề nghiệp hoặc tổ
chức trọng tài nào đó, ví dụ, hai bên có thể thỏa thuận tranh chấp sẽ đƣợc hòa
giải theo quy tắc hòa giải của Phòng Thƣơng mại Quốc tế ICC.
Hòa giải là không bắt buộc và các bên có thể bỏ qua bƣớc hòa giải và
đƣa ngay tranh chấp ra tòa án hay trọng tài thƣơng mại giải quyết. Nhƣng nếu
hợp đồng có quy định tranh chấp trƣớc hết đƣợc giải quyết bằng thƣơng
lƣợng và hòa giải thì hòa giải cũng trở thành bắt buộc.
Hòa giải không phƣơng hại đến quyền kiện ra tòa án hay trọng tài
thƣơng mại. Nếu hòa giải không thành công thì bên có quyền lợi bị vi phạm
đƣơng nhiên vẫn có quyền đƣa tranh chấp ra giải quyết tại tòa án hay trọng
tài.
Chức năng của hòa giải viên là đọc kỹ vụ tranh chấp, nghiên cứu pháp
luật có liên quan từ đó soạn thảo ra một khuyến nghị về cách thức giải quyết
tranh chấp và chuyển nó thành thỏa thuận giải quyết tranh chấp rồi gửi cho
hai bên. Trong thỏa thuận không đƣợc kết luận bên nào đúng, bên nào sai.
Sau khi cả hai bên đồng ý, bản thỏa thuận này sẽ trở thành thỏa thuận giữa hai
bên.
Trong phƣơng thức giải quyết tranh chấp này, có sự gặp gỡ tay ba giữa
hòa giải viên và các bên tham gia tranh chấp. Trong buổi gặp gỡ này, ba bên
có thể thay đổi bản thỏa thuận đã đƣợc hòa giải viên thảo ra.
Hiện nay, ở Việt Nam chƣa áp dụng phƣơng thức này nhƣ là một
phƣơng thức giải quyết tranh chấp độc lập.
1.4. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng tòa án
Tòa án là cơ quan tƣ pháp của một nƣớc đƣợc lập ra để xét xử các tranh
chấp phát sinh giữa các thƣơng nhân của nƣớc đó. Tuy nhiên, tòa án cũng có
thể xét xử tranh chấp phát sinh trong kinh doanh quốc tế.
Tòa án bất kỳ nƣớc nào cũng không có thẩm quyền đƣơng nhiên đối
với tranh chấp phát sinh trong kinh doanh quốc tế. Tòa án chỉ có thẩm quyền xét
xử nếu các bên liên quan có thỏa thuận quy định tranh chấp phát sinh sẽ đƣợc
đƣa ra tòa án. Nếu hợp đồng không có thỏa thuận trọng tài, tranh chấp phát sinh
có thể đƣợc hai bên đƣa ra tòa án và tòa án sẽ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh
chấp.
Về mặt bản chất pháp lý, tòa án khác tất cả các cơ quan xét xử khác:
Tòa án là bộ máy tƣ pháp, là công cụ của Nhà nƣớc, là công cụ của cơ quan
công quyền. Vì vậy, đối với các tranh chấp liên quan đến thƣơng nhân của hai
nƣớc khác nhau, việc giải quyết tranh chấp bằng tòa án mang màu sắc chính
trị, tòa án nƣớc nào cũng sẽ bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, Nhà nƣớc,
công dân của nƣớc đó.
Tòa án của bất kỳ nƣớc nào cũng chỉ tuân thủ luật tố tụng của nƣớc
mình, nghĩa là nhận đơn kiện, chuẩn bị xét xử, tiến hành xét xử theo đúng luật
tố tụng của nƣớc tòa án. Còn khi giải quyết tranh chấp, tòa án phải áp dụng
luật thực chất điều chỉnh hợp đồng.
Tòa án xét xử theo nguyên tắc công khai và xét xử theo hai cấp: sơ
thẩm và phúc thẩm.
Tại phiên họp xét xử, bên nguyên và bên bị phải có mặt để bảo vệ
quyền lợi của mình. Bên bị có quyền nhờ luật sƣ bào chữa. Nếu bên thua kiện
không đồng ý với bản án của tòa án thì có quyền kháng cáo lên tòa án cấp trên
theo thủ tục phúc thẩm.
Theo nguyên tắc công khai, khi một vụ tranh chấp đƣợc đƣa ra xét xử,
không chỉ có các bên tranh chấp, các thành phần liên quan đƣợc mời mà bất
cứ ai muốn tham gia phiên xét xử cũng đƣợc, ngoại trừ những vụ liên quan
đến bí mật quốc gia, an ninh quốc phòng thì phải xét xử kín. Trong trƣờng
hợp này phải có ý kiến của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
Phán quyết của tòa án tại nƣớc sở tại có tính cƣỡng chế cao do tòa án
có cơ quan cƣỡng chế thi hành. Việc thi hành phán quyết của tòa án nƣớc
ngoài lại liên quan đến tính hiệu lực của phán quyết của toà án. Việc cƣỡng
chế thi hành án là rất khó khăn vì phán quyết của tòa án chỉ có hiệu lực trong
quốc gia. Nếu muốn có hiệu lực ở ngoài thì phải tuân theo trật tự thi hành án
của tòa án nƣớc sở tại.
Một số nƣớc nhƣ Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan... giao việc xét xử các tranh
chấp thƣơng mại cho tòa án thƣờng, còn lại đa số các nƣớc thành lập tòa án
thƣơng mại với tƣ cách là một tòa chuyên trách trong hệ thống các cơ qua tƣ
pháp để giải quyết các tranh chấp thƣơng mại. Nhƣng tòa án thƣơng mại này
chỉ xét xử các tranh chấp thƣơng mại theo trình tự sơ thẩm. Nếu bản án sơ
thẩm bị kháng cáo thì bản án đó sẽ đƣợc xét xử lại theo trình tự phúc thẩm ở
Tòa thƣợng thẩm (phúc thẩm) dân sự nhƣ các tranh chấp dân sự.
Một trong những tòa án thƣơng mại tiêu biểu ở các nƣớc kinh tế thị
trƣờng là Tòa án thƣơng mại Pháp. Tòa án thƣơng mại Pháp đƣợc thành lập
rất sớm, từ năm 1808. Đây là một tòa chuyên trách và chỉ xét xử theo trình tự
sơ thẩm. Sau khi xét xử sơ thẩm, nếu các bên tranh chấp kháng cáo thì vụ việc
có thể đƣợc xét xử theo trình tự phúc thẩm tại tòa án dân sự nhƣ một vụ tranh
chấp dân sự thông thƣờng. Mỗi tòa án thƣơng mại ở Pháp có ít nhất một
chánh án và hai thẩm phán. Chánh án và thẩm phán của các tòa án thƣơng mại
ở Pháp đều là các thƣơng gia và đƣợc bầu từ các thƣơng gia nổi tiếng trong
vùng theo một quy chế riêng, khác với trình tự bầu các thẩm phán ở các tòa án
thƣờng. Chánh án và các thẩm phán ở Tòa thƣơng mại có nhiệm kỳ 3 năm và
có thể đƣợc bầu hai nhiệm kỳ liên tiếp. Một đặc điểm rất đặc biệt là các thẩm
phán đều làm việc tự nguyện, không hƣởng lƣơng và bất kỳ một khoản thù
lao nào. Đây chính là một trong những yếu tố quan trọng làm cho việc xét xử
tranh chấp tại các tòa án thƣơng mại ở Pháp ít có tình trạng tiêu cực hoặc
thiên vị. Do vậy, phần lớn các vụ tranh chấp thƣơng mại trong nƣớc cũng nhƣ
quốc tế đƣợc xét xử khách quan, chính xác. Các bản án của tòa án thƣơng mại
ở Pháp cũng vì thế mà đƣợc thực hiện một cách tự nguyện, nhanh chóng hơn
so với nhiều nƣớc khác.
1.5. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng trọng tài thương mại
Xu hƣớng hiện nay các bên thƣờng giao tranh chấp cho trọng tài
thƣơng mại xét xử vì việc giải quyết bằng trọng tài thƣơng mại có rất nhiều
ƣu điểm, lợi thế so với phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án.
Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ đƣợc nghiên cứu kĩ trong
phần tiếp theo.
III. TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI – PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ ĐƢỢC ƢA CHUỘNG
1. Khái niệm về trọng tài thƣơng mại
Trọng tài là quyền quyết định của một ngƣời thứ ba đối với một tranh
chấp phát sinh. Trọng tài khác với trung gian và hoà giải ở chỗ trọng tài đƣa
ra phán quyết. Trọng tài là một định chế cử một tƣ nhân giải quyết sự bất hoà
cho hai bên nguyên bị trong một vụ tranh chấp.
Nhƣ vậy, đặc điểm của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là: trọng tài là
một cá nhân - ngƣời ngoài toà án, đƣợc các bên thoả thuận lựa chọn, có thẩm
quyền giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh giữa các bên đƣơng sự với nhau.
Nhƣ vậy, có thể hiểu trọng tài nhƣ sau: Trọng tài là một phƣơng thức
giải quyết tranh chấp mà theo đó hai hay nhiều bên tranh chấp giao cho một
bên thứ ba đứng ra phân xử vụ tranh chấp và phán quyết của bên thứ ba này
có giá trị chung thẩm đối với các bên đƣơng sự.
Trọng tài thƣơng mại là trọng tài có thẩm quyền xét xử các vụ tranh
chấp trong lĩnh vực thƣơng mại.
2. Thẩm quyền xét xử của trọng tài thƣơng mại
Trong nền kinh tế thị trƣờng, việc lựa chọn các phƣơng thức giải quyết
tranh chấp kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của các bên đƣơng sự. Trọng
tài là một trong các phƣơng thức giải quyết tranh chấp kinh tế trong nền kinh
tế thị trƣờng, vì vậy, bất cứ một tranh chấp nào cũng có thể đƣợc đƣa đến
trọng tài nếu nhƣ có thỏa thuận của các bên. Cũng giống nhƣ tòa án, trọng tài
không có thẩm quyền đƣơng nhiên đối với một vụ tranh chấp cụ thể trong
kinh doanh quốc tế. Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên
trong vụ tranh chấp có tồn tại một thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là
thỏa thuận theo đó các bên đƣơng sự nhất trí giao vụ tranh chấp đã hoặc sẽ
phát sinh có liên quan đến hợp đồng cho một loại trọng tài cụ thể nào đó giải
quyết.
Trọng tài là nội dung đầu tiên trong trình tự, thủ tục trọng tài. Nếu
không có thỏa thuận trọng tài thì sẽ không có những nội dung tiếp sau của
trình tự, thủ tục trọng tài. Điều đó có nghĩa là, tố tụng trọng tài chỉ đƣợc hình
thành trên cơ sở có một thỏa thuận trọng tài giữa các bên tranh chấp.
Thỏa thuận trọng tài phải đƣợc lập thành văn bản dƣới hình thức là một
điều khoản nằm trong hợp đồng hoặc có thể là một văn bản thỏa thuận riêng
(điều khoản bổ sung về thỏa thuận trọng tài). Khi nằm trong hợp đồng, thỏa
thuận trọng tài thƣờng có tên là Điều khoản trọng tài. Các bên hoàn tự do lựa
chọn một tổ chức trọng tài để xét xử tranh chấp, nhƣng sau khi đã đƣợc lựa
chọn trong thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài sẽ ràng buộc các bên và
trọng tài đƣợc lựa chọn trở thành cơ quan tài phán có thẩm quyền đối với vụ
tranh chấp đƣợc chỉ định, không phụ thuộc vào sự phản đối về thẩm quyền
của một trong các bên đã có thỏa thuận trọng tài. Trọng tài cũng có thẩm
quyền xét xử nếu có Điều ƣớc quốc tế ràng buộc các bên phải đƣa tranh chấp
ra giải quyết tại cơ quan trọng tài. Nhƣ vậy nếu không có thỏa thuận giữa các
bên giao tranh chấp cho trọng tài thƣơng mại giải quyết thì trọng tài không có
thẩm quyền đối với tranh chấp đó. Từ đó có thể nói thẩm quyền xét xử của
trọng tài là thẩm quyền đƣợc giao cho. Thỏa thuận trọng tài là cơ sở để tòa án
một nƣớc công nhận và cho thi hành ở nƣớc mình phán quyết của trọng tài
đƣợc tuyên ở nƣớc ngoài. Thỏa thuận trọng tài sẽ bác bỏ thẩm quyền xét xử
của tòa án với tranh chấp có liên quan. Thỏa thuận trọng tài sẽ giúp khẳng
định giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài: có giá trị chung thẩm đối với các
bên đƣơng sự.
Việc công nhận và đảm bảo hiệu lực của thỏa thuận trọng tài là hết sức
cần thiết bởi một thỏa thuận trọng tài không những là cơ sở cho việc phát sinh
một hoạt động trọng tài mà nó còn có ý nghĩa đối với hiệu lực của phán quyết
trọng tài. Nếu các bên đã thỏa thuận chọn phƣơng thức giải quyết bằng con
đƣờng trọng tài thì các bên phải có nghĩa vụ thực hiện thỏa thuận đó. Khi một
trong các bên không thực hiện nghĩa vụ này thì bên kia có quyền yêu cầu tòa
án giúp đỡ để buộc bên cùng thỏa thuận với mình phải chấp hành thỏa thuận
trọng tài. Trong mọi trƣờng hợp, các bên không thể đƣa ngay vụ việc ra tòa án
giải quyết nếu vẫn đang tồn tại một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Các bên
chỉ có thể đƣa vụ tranh chấp ra giải quyết tại tòa án khi không còn tồn tại một
thỏa thuận trọng tài bởi quyết định hủy bỏ của tòa án hoặc trong trƣờng hợp
cả hai bên cùng không chấp nhận thỏa thuận trọng tài.
Trên thực tế, nhiều quốc gia trên thế giới rất chú trọng đến việc công
nhận và có biện pháp bảo đảm hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài. Điều đó
cho phép đảm bảo trật tự và ổn định trong giải quyết tranh chấp, đảm bảo lợi
ích của các bên tham gia vào quan hệ kinh tế.
Nhƣ trên đã nói, thỏa thuận trọng tài thƣờng đƣợc thể hiện dƣới dạng
một điều khoản của hợp đồng. Tuy nhiên, không nên lẫn lộn giữa điều khoản
trọng tài và hợp đồng chính mà nó dẫn chiếu tới vì hai loại thỏa thuận này có
đối tƣợng pháp lý hoàn toàn khác nhau. Điều khoản trọng tài xác định thủ tục
tố tụng sẽ đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp có tranh chấp phát sinh giữa các
bên còn hợp đồng chính quy định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Quan
điểm chung của các nƣớc hiện nay là điều khoản trọng tài độc lập với hợp
đồng chính. Điều khoản trọng tài không bị tác động bởi những lý do vô hiệu
của hợp đồng chính. Tức là việc vô hiệu của hợp đồng chính không thể ảnh
hƣởng tới quá trình tố tụng của trọng tài. Quan điểm này đƣợc cụ thể hóa
trong nhiều văn bản luật về trọng tài, ví dụ nhƣ Khoản 1 Điều 16 Luật mẫu
của UNCITRAL quy định: “Quyết định của ủy ban trọng tài về hợp đồng vô
hiệu không làm cho điều khoản trọng tài bị vô hiệu một cách tƣơng ứng”.
Điều 11 Pháp lệnh trọng tài Thƣơng mại 2003 của Việt Nam quy định rằng:
“Điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn,
hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hƣởng tới hiệu lực của
điều khoản trọng tài”. Tuy nhiên, có những lý do tác động đến sự vô hiệu của
cả hai thỏa thuận này, ví dụ nhƣ chủ thể kí kết hợp đồng không đủ năng lực
hành vi dân sự hay vi phạm nguyên tắc tự nguyện khi ký kết.
Trọng tài còn có thể quyết định giải quyết tranh chấp hay không, tức là
trọng tài còn có thẩm quyền về thẩm quyền của mình. Ngoài việc chấp nhận
xét xử tranh chấp ra, trọng tài còn có thể từ chối không xét xử vụ tranh chấp
mặc dù hai bên có thỏa thuận đƣa tranh chấp ra xét xử tại cơ quan trọng tài.
Đây có thể là những trƣờng hợp trọng tài xét thấy rằng tranh chấp đó không
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu do
pháp luật của một trong hai bên tranh chấp mà họ không biết.
3. Các loại trọng tài thƣơng mại
Trên thế giới có rất nhiều tổ chức trọng tài với các phƣơng thức hoạt
động rất đa dạng, do vậy có rất nhiều cách phân chia. Có quan điểm phân chia
các trung tâm trọng tài có thẩm quyền chuyên trách mà ở đó trọng tài thẩm
quyền chuyên trách thƣờng đƣợc thành lập theo sáng kiến của các Hiệp hội
hay các Nghiệp đoàn để giải quyết tranh chấp thuộc chuyên môn của các Hiệp
hội hay Nghiệp đoàn đó, khác với các trung tâm trọng tài có thẩm quyền
chung mà hoạt động không giới hạn trong những tranh chấp có tính nghiệp
đoàn, có thể đảm nhận trọng tài về mọi loại tranh chấp.
Để giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại quốc tế, chủ yếu có hai loại
trọng tài: Trọng tài vụ việc (Ad-hoc) và trọng tài thƣờng trực hay còn gọi là
trọng tài quy chế.
3.1 Trọng tài Ad-hoc:
Là loại trọng tài do hai bên lựa chọn ra để giải quyết tranh chấp, giải
quyết xong thì tự động giải tán. Trọng tài Ad-hoc chỉ có nghĩa vụ giải quyết
một vụ tranh chấp nhất định. Trọng tài Ad-hoc không có địa điểm xét xử cụ
thể mà do hai bên đƣơng sự hoàn toàn quyết định sao cho thuận tiện nhất.
Trọng tài Ad-hoc không có quy chế trọng tài, không phụ thuộc vào nguyên
tắc xét xử của bất kỳ nƣớc nào, thủ tục giải quyết tranh chấp của trọng tài Ad-
hoc rất linh hoạt, do chính trọng tài viên đƣợc chọn ra quyết định căn cứ vào
thực tiễn vụ tranh chấp. Trọng tài Ad-hoc thƣờng hoàn toàn là một quá trình
tƣ nhân nên do đó rất kín đáo và linh hoạt trong việc vận dụng quy tắc xét xử.
Thông thƣờng các bên sẽ thống nhất chọn ra một trọng tài viên duy nhất cho
nên hai bên dễ đi đến thỏa thuận chung hơn và chi phí cho trọng tài sẽ đỡ tốn
kém hơn. Tuy nhiên, khó khăn của trọng tài Ad-hoc là nó hoàn toàn phụ thuộc
vào sự hợp tác của hai bên vì nếu một bên cố tình không chấp nhận bất cứ
trọng tài viên duy nhất nào do phía bên kia đƣa ra sẽ khiến quá trình xét xử
gặp khó khăn và kéo dài. Chính vì vậy trọng tài Ad-hoc trên thực tế thƣờng
chỉ phù hợp với những tranh chấp giữa các bên đƣơng sự có am hiểu về pháp
luật, dày dặn trên thƣơng trƣờng và có kinh nghiệm tranh tụng.
Trọng tài Ad-hoc là loại hình có thể thích hợp ở những nƣớc có nền sản
xuất nhỏ, nhất là ở nƣớc ta, khi mà các quan hệ sản xuất nhỏ còn phổ biến,
các tranh chấp xảy ra thƣờng có giá trị không quá lớn. Hơn nữa do sự trải dài
ở những vùng lãnh thổ khác nhau và chính sách của nhà nƣớc về thành lập và
hoạt động của các tổ chức trọng tài, hầu hết các tổ chức trọng tài thƣờng trực
đều nằm ở cá thành phố lớn. Do vậy, việc quan tâm đến loại hình trọng tài
Ad-hoc, khai thác những ƣu điểm của bản thân loại hình này trong giải quyết
tranh chấp kinh tế là cần thiết. Mặt khác, dƣới góc độ truyền thống, trọng tài
Ad-hoc là loại hình gần gũi với truyền thống sinh hoạt văn hóa của dân tộc ta.
Bởi trong thực tế, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thƣờng gặp những
trƣờng hợp "trọng tài tự nguyện" để dàn xếp những vụ tranh chấp dân sự, kinh
tế nhỏ trong dân. Đây chính là nền tảng xã hội khiến trọng tài Ad-hoc cần
đƣợc duy trì và tiếp tục phát triển. Pháp lệnh trọng tài Thƣơng mại Việt Nam
có hiệu lực thi hành từ ngày 10/07/2003 đã đƣa ra quy định về loại hình trọng
tài này ở Điều 26, chính thức công nhận loại hình này và đồng thời cũng đã
đƣa ra đƣợc giải pháp đối với hạn chế nêu trên của trọng tài Ad-hoc.
3.2 Trọng tài quy chế (hay còn gọi là trọng tài thƣờng trực):
3.2.1 Một số nét về trọng tài thƣờng trực
Khác với trọng tài Ad-hoc, trọng tài quy chế là loại trọng tài đƣợc
thành lập và hoạt động thƣờng xuyên, có trụ sở cố định và có cơ chế hoạt
động rõ ràng. Các nguyên tắc hoạt động của trọng tài quy chế dựa trên những
đặc trƣng nhất định của tổ chức và thể hiện tính riêng biệt của tổ chức. Để
giải quyết một vụ tranh chấp các bên có thể dựa vào danh sách trọng tài viên
của tổ chức để lựa chọn trọng tài viên cho mình.
Cơ cấu tổ chức của trọng tài thƣờng trực bao gồm:
Bộ phận thƣờng trực còn gọi là bộ máy giúp việc
Các hội đồng trọng tài (thƣờng đƣợc thành lập khi có vụ việc yêu
cầu giải quyết)
Bộ máy giúp việc của trọng tài thƣờng trực bao gồm: trụ sở, nhân viên
chuyên trách, các phƣơng tiện, cơ sở vật chất - kỹ thuật khác. Tùy thuộc vào
đặc điểm, tổ chức của mỗi tổ chức trọng tài thƣờng trực mà ở đó ngƣời ta sẽ
xây dựng bộ máy giúp việc lớn hay nhỏ. Bộ máy giúp việc này có thể rất lớn,
chẳng hạn nhƣ bộ máy giúp việc của Hiệp hội trọng tài Mỹ (American
Abitration Association) bao gồm: đoàn chủ tịch, ban điều hành, thƣ viện quốc
tế và các phòng hội họp, các chi nhánh ở 42 thành phố với 350 nhân viên giúp
việc. Trong cơ cấu trọng tài thƣờng trực, hạt nhân quan trọng nhất là các trọng
tài viên bởi lẽ uy tín của tổ chức chủ yếu là thông qua uy tín chất lƣợng công
tác của các trọng tài viên. Do vậy, điều đầu tiên là phải xây dựng cho đƣợc
đội ngũ trọng tài viên mạnh về chất lƣợng, đủ về số lƣợng. Thông thƣờng
trọng tài viên phải là những chuyên gia giỏi thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau vì
hội đồng trọng tài đƣợc thành lập trên cơ sở danh sách những trọng tài viên
này.
Trọng tài thƣờng trực có thể đƣợc tổ chức dƣới dạng các trung tâm
trọng tài nằm bên cạnh Phòng thƣơng mại, hoặc dƣới dạng công ty, chịu sự
điều chỉnh của luật công ty hay dƣới dạng hiệp hội theo luật điều chỉnh về
hiệp hội...
Về tên gọi, các tổ chức trọng tài thƣờng trực có thể có tên gọi khác
nhau và mỗi tên gọi thƣờng phản ánh đặc tính của tổ chức trọng tài đó. Chẳng
hạn "hiệp hội trọng tài", ví dụ "hiệp hội trọng tài Mỹ" phản ánh không chỉ tên
gọi mà còn mang ý nghĩa về tính chất tổ chức của hiệp hội khác với loại hình
công ty.
Các tổ chức trọng tài độc lập với nhau và không có quan hệ gì với nhau
trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, không phụ thuộc vào nhau và
chúng đều bình đẳng trƣớc sự lựa chọn của các bên tranh chấp. Việc lựa chọn
tổ chức trọng tài nào cũng nhƣ trọng tài viên nào hoàn toàn phụ thuộc vào sự
lựa chọn của các bên.
Điểm thuận lợi của trọng tài quy chế là trọng tài quy chế có quy tắc xét
xử công khai. Các quy tắc này thƣờng đƣợc soạn thảo và sửa đổi bởi những
chuyên gia giàu kinh nghiệm nên nó đảm bảo tính đúng đắn và hợp lý. Việc
tập hợp các quy chế của trọng tài thƣờng trực tạo điều kiện thuận lợi cho các
bên cân nhắc trƣớc các vấn đề nhƣ chọn, cử, thay đổi, bãi miễn trọng tài viên,
vấn đề lệ phí... Ngoài ra, điểm thuận lợi của trọng tài quy chế còn ở tính
chuyên nghiệp và không ngừng đƣợc đào tạo của các trọng tài viên của trung
tâm trọng tài.
Dƣới đây chúng ta tìm hiểu về một số tổ chức trọng tài thƣờng trực tiêu
biểu.
3.2.2 Một số tổ chức trọng tài tiêu biểu trên thế giới
3.2.2.1 Tòa án trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng Thƣơng mại Quốc tế ICC
Phòng Thƣơng mại Quốc tế - ICC là một tổ chức phi chính phủ phục vụ
hoạt động kinh doanh trên thế giới. ICC có tới 10.000 tổ chức kinh doanh
thành viên trên thế giới với quyền lợi quốc tế ở trên 100 nƣớc. Các ủy ban
Quốc tế hay Hội đồng quốc gia của ICC hoạt động ở 59 nƣớc. Các chức năng
của ICC có thể là:
Đại diện cho cộng đồng kinh doanh trên thế giới ở cấp độ quốc
gia và quốc tế
Khuyến khích hoạt động thƣơng mại và đầu tƣ trên thế giới
Đƣa ra những thuật ngữ, hƣớng dẫn và làm công tác tƣ vấn, cung
cấp các dịch vụ thiết thực cho kinh doanh
Tòa án Trọng tài Quốc tế đƣợc ICC thành lập năm 1923 và tính đến
năm 1994 đã giải quyết đƣợc 7.500 vụ việc. Nó đƣợc xác định là cơ quan
Trọng tài Quốc tế đặt bên cạnh Phòng Thƣơng mại Quốc tế. Các thành viên
của Tòa án Trọng tài do Hội đồng Phòng Thƣơng mại Quốc tế quyết định.
Chức năng của Tòa án là giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh có tính
chất quốc tế bằng phƣơng thức trọng tài. Tòa án tự quy định quy tắc hoạt
động của mình và có văn phòng trụ sở tại Phòng Thƣơng mại Quốc tế.
3.2.2.2 Trung tâm Quốc tế giải quyết các tranh chấp đầu tƣ (ICSID)
ICSID là một cơ quan phi tài chính của Ngân hàng thế giới, viết tắt của
Inter national Center for Settlement of Investment Disputes. ICSID đƣợc
thành lập trên cơ sở Công ƣớc Washington có hiệu lực ngày 14/10/1966.
ICSID hòa giải và xét xử bằng trọng tài tất cả các tranh chấp giữa các nhà đầu
tƣ và nhà nƣớc sở tại. Tổ chức này tự đặt ra quy chế riêng cho mình. Việc tiến
hành xét xử diễn ra tại Washington D.C., trừ trƣờng hợp có thỏa thuận khác.
Việc thành lập trung tâm trọng tài này là để khuyến khích tƣ nhân đầu tƣ vào
các nƣớc đang phát triển, gạt bỏ những e ngại về quốc hữu hóa của chính phủ
đối với các công trình đầu tƣ.
Trung tâm có một Hội đồng quản trị, một Ban thƣ ký và hai nhóm
chuyên gia. Hội đồng quản trị bao gồm đại diện của nhà nƣớc thành viên
tham gia Công ƣớc. Hội đồng có trách nhiệm soạn thảo quy chế và giám sát
sự hoạt động của công ty.
Khi đã tự nguyện giải quyết bằng trọng tài ICSID thì vụ tranh chấp
không thể giải quyết bằng Tòa án khác cũng nhƣ nhà đầu tƣ không thể yêu
cầu Nhà nƣớc họ bảo vệ bằng con đƣờng ngoại giao. Quyết định của Tòa án
Trọng tài ICSID có hiệu lực bắt buộc với các bên, song không phải là chung
thẩm. Quyết định này có thể bị xem xét phúc thẩm bằng hội đồng Ad-hoc, có
thẩn quyền tuyên bố một quyết định đã tuyên là vô hiệu và đƣa ra phán quyết
mới có hiệu lực thi hành.
3.2.2.3 Viện Trọng tài Thụy Điển (Viện Trọng tài Stockholm)
Tổ chức trọng tài thƣờng trực ở Thụy Điển do Phòng Thƣơng mại
thành lập. Tổ chức trọng tài thƣơng mại Stockholm do Phòng thƣơng mại
Stockholm thành lập là một tổ chức trọng tài thƣơng mại hàng đầu trên thế
giới đƣợc thành lập từ năm 1917. Đến năm 1949 Tổ chức này đƣợc xây dựng
thành cơ quan độc lập của Phòng thƣơng mại Stockholm. Hiện nay, Tổ chức
trọng tài này đƣợc sử dụng ngày càng nhiều cho việc giải quyết tranh chấp ở
những nƣớc thứ ba. Quyết định của hội đồng trọng tài có giá trị chung thẩm
và không bị Phòng thƣơng mại Thụy Điển xem xét lại. Ban trọng tài gồm 3
thành viên do ủy ban điều hành Phòng thƣơng mại Thụy Điển chọn, có nhiệm
kỳ 3 năm. Trƣởng ban là ngƣời có kinh nghiệm trong lĩnh vực thƣơng mại và
công nghiệp. Các thành viên khác là những luật sƣ có kinh nghiệm và đƣợc
giới kinh doanh tín nhiệm.
Quá trình trọng tài đƣợc tiến hành khi có đơn bằng văn bản đề nghị giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài trong đó có ghi rõ các bên có yêu cầu giải
quyết bằng trọng tài, nội dung tranh chấp và yêu cầu trọng tài đƣa ra phán
quyết. Trọng tài sẽ đƣa ra phán quyết trong vòng một năm.
3.2.2.4 Hiệp hội trọng tài Mỹ
Hiệp hội trọng tài Mỹ (American Abitration Association - AAA) giải
quyết các tranh chấp trong lĩnh vực thƣơng mại trên cơ sở Luật trọng tài Liên
bang năm 1987.
AAA có các trọng tài viên từ nhiều quốc tịch khác nhau và có kinh
nghiệm giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh quốc tế. Khi quyết định
trọng tài viên để giải quyết các vụ tranh chấp trong thƣơng mại quốc tế, AAA
yêu cầu các trọng tài viên phải có quốc tịch khác với quốc tịch của nguyên
đơn (bên yêu cầu giải quyết tranh chấp), trừ trƣờng hợp các bên tranh chấp có
thỏa thuận khác bằng văn bản. Trong trƣờng hợp các bên tranh chấp khƣớc từ
trọng tài viên hoặc khƣớc từ hội đồng trọng tài, AAA sẽ bổ nhiệm một hội
đồng đặc biệt để giải quyết gồm ba ngƣời, trong đó phần lớn các trọng tài
viên có quốc tịch khác với quốc tịch của các bên tranh chấp. Tiêu chuẩn đạo
đức của trọng tài viên do AAA quy định là một trong những căn cứ chủ yếu
để các bên tranh chấp xem xét trƣớc khi khƣớc từ trọng tài viên.
AAA không có biểu mẫu về phí trọng tài, do vậy, phí trọng tài thƣờng
đƣợc tính trên cơ sở trị giá của từng vụ việc cụ thể. Thông tin về quá trình
trọng tài sẽ đƣợc thực hiện thông qua ban điều hành trọng tài, trừ lúc xét xử.
3.2.2.5 Trọng tài thƣơng mại Đức
Ở Đức có 6 tổ chức trọng tài thƣờng xuyên, gồm Ban thƣ ký điều hành
và các trọng tài viên kiêm chức. Tố tụng trọng tài về cơ bản phải tuân theo
quy tắc tố tụng dân sự, tuy nhiên, có đơn giản, nhanh chóng và đỡ tốn phí
hơn. Quyết định của trọng tài đƣợc các bên tự nguyện thi hành. Nếu một bên
không tự nguyện thi hành, theo đề nghị của bên kia, trọng tài có thể ra quyết
định cƣỡng chế.
Trong trƣờng hợp trọng tài vi phạm luật tố tụng, các bên có quyền
khiếu nại lên tòa án để hủy quyết định trọng tài và tiến hành xét xử lại theo
trình tự tố tụng dân sự. Tòa án có thẩm quyền cƣỡng chế hoặc hủy quyết định
của trọng tài là Tòa án hoặc Tòa án thƣơng mại của Tòa án cấp tỉnh.
3.2.2.6 Trung tâm trọng tài Quốc tế Hồng Kông
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông đƣợc thành lập năm 1985 bởi
một nhóm nhà kinh doanh hàng đầu và các nhà chuyên môn ở Hồng Kông
nhằm tập trung giải quyết các tranh chấp thƣơng mại trong khu vực Châu Á.
Trung tâm trọng tài này đƣợc tài trợ bởi Hội đồng Kinh doanh và Chính phủ
Hồng Kông, là một tổ chức phi lợi nhuận.
Ngôn ngữ sử dụng trong giải quyết tranh chấp tại Trung tâm này
thƣờng là tiếng Anh và tiếng Trung. Mọi tranh chấp cũng có thể đƣợc giải
quyết bằng bất kỳ ngôn ngữ nào do hai bên lựa chọn. Quyết định của trọng tài
có thể đƣợc dịch ra bất kỳ thứ tiếng nào mà các bên đã chọn.
Mọi tranh chấp, tranh cãi hay khiếu nại phát sinh hoặc liên quan tới hợp
đồng sẽ đƣợc giải quyết bằng trọng tài theo luật trọng tài UNCITRAL. Nếu
các bên không muốn áp dụng luật của UNCITRAL thì có thể sử dụng Luật
Hồng Kông. Thể chế trọng tài nội địa của Hồng Kông dựa trên cơ sở của Luật
Anh.
4. Những ƣu việt của việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế
bằng trọng tài
4.1 Tính chung thẩm và hiệu lực của phán quyết trọng tài
Nếu nhƣ trong tố tụng tòa án, các bên có thể kháng cáo hoặc kháng
nghị thì trong tố tụng trọng tài, phán quyết của trọng tài bao giờ cũng là chung
thẩm. Đây là nguyên tắc đặc trƣng của tố tụng trọng tài so với tòa án. Các
quyết định của trọng tài luôn luôn có hiệu lực thi hành và các bên đƣơng sự
không có quyền kháng cáo. Nhìn trên phƣơng diện quốc tế, bản án của tòa án
khó đạt đƣợc sự công nhận quốc tế. Thông thƣờng, bản án của tòa án để đƣợc
công nhận tại một quốc gia khác phải thông qua một hiệp định song phƣơng
ký giữa hai quốc gia theo những quy tắc rất nghiêm ngặt. Ngƣợc lại, quyết
định của trọng tài dễ dàng đạt đƣợc sự công nhận quốc tế thông qua một số
công ƣớc mà đặc biệt là Công ƣớc New York năm 1958 về Công nhận và Thi
hành các phán quyết của trọng tài nƣớc ngoài. Hiện tại có khoảng 130 quốc
gia là thành viên của Công ƣớc New York và Việt Nam cũng đã tham gia
Công ƣớc này vào năm 1995.
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh
ý chí tối cao và quyền tự định đoạt của các bên đƣơng sự. Các bên đƣơng sự
đã tự do lựa chọn và tín nhiệm ngƣời phán xử cho mình thì đƣơng nhiên phải
phục tùng quyết định của ngƣời đó. Trong trƣờng hợp một bên không tự
nguyện thi hành phán quyết của trọng tài thì bên kia có quyền yêu cầu tòa án
ra quyết định cƣỡng chế thi hành. Trƣớc khi ra quyết định công nhận và
cƣỡng chế thi hành, tóa án chỉ kiểm tra tính hợp pháp của phán quyết trọng tài
và xem xét quá trình tố tụng có đúng theo nguyên tắc tố tụng trọng tài và tuân
theo luật hay không. Nếu đúng thì tòa án sẽ ra quyết định công nhận và cƣỡng
chế thi hành, còn nếu sai thì tòa án có quyền không công nhận phán quyết và
không cho thi hành phán quyết.
4.2 Tính bí mật trong giải quyết tranh chấp
Trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phi chính phủ, việc tiến hành
tố tụng trọng tài do các bên tự lựa chọn, có thể tiến hành công khai hoặc bí
mật. Nguyên tắc này xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động sản xuất kinh
doanh. Trong môi trƣờng tự do cạnh tranh, việc bảo vệ các bí mật trong sản
xuất kinh doanh và giữ uy tín của các doanh nghiệp trên thƣơng trƣờng là vấn
đề sống còn của các nhà kinh doanh, góp phần tạo sức mạnh cho các doanh
nghiệp có thể giành thắng lợi trong các cuộc cạnh tranh khốc liệt để tồn tại và
phát triển. Chính vì vậy, nếu trong quá trình tham gia vào các quan hệ kinh tế
mà phát sinh tranh chấp, các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh đều mong
muốn việc giải quyết tranh chấp đó đƣợc tiến hành một cách kín đáo, giải
quyết đƣợc tranh chấp mà không làm ảnh hƣởng tới uy tín.
Do vậy, việc giữ bí mật trong giải quyết tranh chấp của trọng tài trở
thành nguyên tắc đƣợc thể hiện trong hầu hết các quy tắc tố tụng của các tổ
chức trọng tài.
Theo nguyên tắc này, các buổi xét xử của trọng tài trên cơ sở tự nguyện
thỏa thuận của các bên có thể tiến hành ở địa điểm mà ngoài thành viên và các
bên đƣơng sự ra thì những ngƣời không có trách nhiệm hoặc không có liên
quan không đƣợc có mặt. Trọng tài viên phải có trách nhiệm đảm bảo bí mật
mọi vấn đề liên quan đến các bên mà mình biết đƣợc do tiến hành giải quyết
vụ việc, không đƣợc tiết lộ cho bất cứ ai. Quyết định của trọng tài cũng nhƣ
những căn cứ để trọng tài ra quyết định sẽ không đƣợc công bố công khai nếu
các bên không có yêu cầu khác. Quyết định của trọng tài chỉ đƣợc phép công
bố công khai nếu các bên đồng ý. Có thể nói, nguyên tắc này hoàn toàn đối
lập với nguyên tắc xét xử công khai trong tố tụng tòa án. Đây cũng chính là
ƣu điểm lớn của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
4.3 Tính linh hoạt trong giải quyết tranh chấp
Tự nguyện và bình đẳng giữa các bên tranh chấp là nguyên tắc cốt lõi
trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Sự hình thành trọng tài là do ý chí
tự nguyện của các bên đƣơng sự và trong quá trình giải quyết tranh chấp,
trọng tài đều nhân danh ý chí tối cao của các bên đƣơng sự. Nguyên tắc tự
nguyện và bình đẳng giữa các bên làm cho giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài có tính linh hoạt. Có thể thấy tính linh hoạt của phƣơng thức giải quyết
tranh chấp này thông qua những điểm sau: Các bên đƣơng sự hoàn toàn có thể
lựa chọn các hình thức trọng tài mà họ cho là phù hợp trên cơ sở tự nguyện
thỏa thuận giữa các bên mà không có sự áp đặt ý chí của bất cứ cơ quan, tổ
chức hay cá nhân nào. Cũng trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, các bên có thể
chọn tổ chức trọng tài, chọn trọng tài viên mình tín nhiệm, tin tƣởng có thể
giải quyết tốt những tranh chấp giữa họ. Hơn nữa, các bên có thể chọn địa
điểm tiến hành trọng tài mà thấy là thuận tiện, thậm chí các bên có thể thỏa
thuận với nhau lập ra quy tắc tố tụng áp dụng cho vụ kiện hay ngôn ngữ sử
dụng trong tố tụng trọng tài. Trong quá trình tham gia tranh tụng tại trọng tài,
các bên vẫn có thể tự thƣơng lƣợng để đạt đến thỏa thuận nhằm thu xếp
những bất đồng đã xảy ra và trọng tài luôn tôn trọng sự thỏa thuận của các
bên.
Trên cơ sở tự nguyện, các bên tham gia tố tụng luôn đƣợc bình đẳng
với nhau trong việc lựa chọn hoặc bãi miễn trọng tài viên, trong việc lựa chọn
địa điểm tiến hành tố tụng, trong việc đƣa đơn yêu cầu và đơn biện minh đối
với đơn yêu cầu của phía bên kia, cũng nhƣ mọi chứng cứ tài liệu khác mà
các bên cho là cần thiết để chứng minh hay bác bỏ đơn yêu cầu của phía bên
kia, trong việc nhận thông tin từ phía trọng tài và phía bên kia. Tất cả các tài
liệu, thông tin do một bên cung cấp cho trọng tài đều sẽ đƣợc trọng tài thông
báo cho bên kia. Mọi biện pháp, quyết định của trọng tài tiến hành trong quá
trình giải quyết vụ tranh chấp đều phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên
tranh chấp. Có nhƣ vậy việc giải quyết tranh chấp mới đạt đƣợc kết quả và
quyết định của trọng tài mới đƣợc các bên tự nguyện chấp hành.
Khi đƣa tranh chấp ra trọng tài xét xử thì một vấn đề đƣợc đặt ra là áp
dụng luật nào để giải quyết. Việc xác định luật áp dụng trong xét xử trọng tài
đƣợc xem xét ở hai vấn đề. Đó là việc xác định luật áp dụng để xét xử đối với
quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên tranh chấp - luật nội dung và việc xác
định luật áp dụng cho quá trình tố tụng trọng tài - luật tố tụng. Thực tế cho
thấy hiện tƣợng xung đột luật luôn xuất hiện. Trong đó, luật của rất nhiều
nƣớc liên quan tới quan hệ của các bên đƣơng sự cùng có khả năng điều chỉnh
nhƣ luật của nƣớc do các bên đƣơng sự mang quốc tịch hoặc cƣ trú, luật nơi
ký kết hợp đồng, luật nơi thực hiện hợp đồng. Vậy luật nào sẽ đƣợc lựa và
dựa trên cơ sở nào?
Luật tố tụng
Việc xác định luật trong tố tụng trọng tài bị chi phối bởi nguyên tắc tự
do thỏa thuận và nguyên tắc nơi xét xử của trọng tài.
Khi giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế tại tòa án thì tòa án
có quyền tiến hành mọi thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng
nƣớc mình. Việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài lại khác, trong nhiều
trƣờng hợp, trọng tài không nhất thiết phải tuân thủ theo các quy định về thủ
tục tố tụng trọng tài của nƣớc mà trọng tài tiến hành xét xử. Bởi nguyên tắc
thỏa thuận của hai bên chủ thể trong hợp đồng thƣơng mại quốc tế không
những chi phối việc chọn luật để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ các bên trong
quá trình thực hiện hợp đồng mà nó còn chi phối cả việc thành lập hoặc chọn
trọng tài, trong đó bao gồm cả việc đƣa ra những nguyên tắc xét xử hoặc chọn
luật tố tụng cho quá trình xét xử của trọng tài. Trên thực tế, khi thỏa thuận về
trọng tài để xét xử tranh chấp, các bên có thể chọn một tổ chức trọng tài
thƣờng trực (hay trọng tài quy chế) hoặc cũng có thể thỏa thuận thành lập
trọng tài Ad-hoc. Trong mỗi trƣờng hợp chọn hình thức trọng tài thì việc chọn
luật áp dụng cho tố tụng trọng tài cũng khác nhau, đó là:
- Nếu các bên thống nhất chọn một tổ chức trọng tài quy chế và chọn
một quy tắc trọng tài thì quy tắc trọng tài đó sẽ đƣợc áp dụng cho tố tụng
trọng tài.
- Trong trƣờng hợp các bên thỏa thuận chọn trọng tài quy chế cụ thể để
xét xử mà không quy định quy tắc tố tụng thì đồng nghĩa với việc các bên
thỏa thuận chọn quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài quy chế đó.
- Trong trƣờng hợp các bên thỏa thuận thành lập trọng tài Ad-hoc thì
việc xác định luật áp dụng cho tố tụng trọng tài sẽ do các bên tự quyết định.
Các bên có thể thỏa thuận xây dựng nên các nguyên tắc một cách độc lập và
cũng có thể chọn các quy định về tố tụng của một tổ chức trọng tài thƣờng
trực nào đó để áp dụng cho trọng tài mà các bên đã lập ra. Trong trƣờng hợp
các bên chọn các quy định của tổ chức trọng tài thƣờng trực nào đó thì các
quy định này có thể đƣợc các bên thỏa thuận giữ nguyên hoặc sửa đổi, bổ
sung trƣớc khi áp dụng. Nếu không có thỏa thuận chọn quy tắc tố tụng thì
trọng tài Ad-hoc sẽ áp dụng linh hoạt một thủ tục tố tụng nhƣng phải đảm bảo
sự bình đẳng giữa các bên.
Luật tố tụng trong trọng tài không chỉ phụ thuộc vào sự lựa chọn hình
thức trọng tài nhƣ đã đề cập ở trên mà còn phụ thuộc nơi xét xử của trọng tài,
tức là luật nơi trọng tài tiến hành xét xử tranh chấp sẽ chi phối hoạt động tố
tụng của trọng tài. Nói cách khác, trọng tài tiến hành xét xử ở đâu thì sẽ áp
dụng luật tố tụng trọng tài ở nơi đó. Nguyên tắc này đƣợc áp dụng để xác định
luật tố tụng của trọng tài trong trƣờng hợp nếu các bên không thỏa thuận chọn
luật tố tụng. Do đó, nhƣ đã trình bày ở trên, việc áp dụng nguyên tắc này để
xác định luật tố tụng thƣờng xảy ra trong trƣờng hợp các bên thành lập trọng
tài Ad-hoc.
Nhƣ vậy việc chọn luật tố tụng trọng tài trƣớc tiên phải tuân thủ theo
nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, nếu các bên không thỏa thuận
thì nguyên tắc luật nơi xét xử sẽ đƣợc áp dụng để xác định luật điều chỉnh tố
tụng trọng tài.
Luật nội dung
Luật áp dụng để xét xử nội dung tranh chấp là luật mà trọng tài dùng để
xem xét việc thực hiện nghĩa vụ của các bên tranh chấp trong quá trình thực
hiện hợp đồng. Luật này đƣợc gọi là luật áp dụng cho hợp đồng. Về mặt lý
luận cũng nhƣ thực tiễn, luật áp dụng cho hợp đồng đƣợc hình thành trên các
cơ sở pháp lý sau đây:
Thứ nhất là luật do các bên lựa chọn.
Về nguyên tắc, luật do các bên lựa chọn là luật do các bên thỏa thuận
ghi trong hợp đồng hoặc đƣợc quy định trong một văn bản riêng biệt do hai
bên ký.
Trong quá trình giao kết hợp đồng, ngoài những điều khoản chính của
hợp đồng nhƣ đối tƣợng của hợp đồng, giá cả, phƣơng thức thanh toán... các
bên thƣờng thỏa thuận thêm điều khoản về luật áp dụng. Luật đƣợc chọn là do
các bên tự do thỏa thuận. Điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng không chỉ
là cơ sở pháp lý ràng buộc quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên chủ thể của
hợp đồng đối với nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng mà nó còn là cơ sở
pháp lý để cơ quan xét xử áp dụng nhằm xác định trách nhiệm của các bên
nếu sau này hợp đồng bị vi phạm. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải
quyết tranh chấp (nếu có) xảy ra và làm tăng thêm trách nhiệm với nhau, đôi
khi trong quá trình giao kết hợp đồng các bên quy định thêm luật áp dụng cho
hợp đồng trong điều khoản trọng tài vì về mặt pháp lý, thỏa thuận trọng tài
đƣợc xem là giao kết độc lập với hợp đồng thƣơng mại của các bên. Do đó,
trong trƣờng hợp mặc dù hợp đồng đã đƣợc thực hiện hoặc bị vi phạm, thậm
chí bị vô hiệu thì điều khoản về trọng tài của hợp đồng vẫn còn nguyên giá trị
pháp lý. Nhƣ vậy, việc xây dựng thỏa thuận trọng tài mà trong đó bao gồm cả
việc chọn luật áp dụng sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc để bên vi phạm bảo vệ
đƣợc quyền lợi của mình trƣớc cơ quan xét xử.
Thứ hai là luật đƣợc quy định trong các Điều ƣớc Quốc tế có liên quan.
Trong trƣờng hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật áp dụng cho
hợp đồng và những điều khoản trong hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận
không đủ cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp thì luật áp dụng sẽ là luật
đƣợc quy định trong các Điều ƣớc quốc tế có liên quan. Công ƣớc La-Hay
năm 1955 về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại mục 1
Điều 3 quy định: “Nếu hợp đồng không quy định thì luật áp dụng cho hợp
đồng là luật của nƣớc ngƣời bán có trụ sở kinh doanh vào lúc ký kết hợp
đồng”. Tuy nhiên, theo mục 2 Điều 3 Công ƣớc này thì “luật áp dụng là luật
nƣớc ngƣời mua khi việc đàm phán và ký kết hợp đồng hoặc nghĩa vụ giao
hàng đƣợc thực hiện ở nƣớc ngƣời mua”. Khoản 1 Điều 4 Công ƣớc Rômma
1980 cũng quy định rằng: “Nếu các bên không lựa chọn luật áp dụng thì luật
có quan hệ gắn bó với hợp đồng sẽ đƣợc áp dụng”. Tuy nhiên, việc hiểu thế
nào là “luật có quan hệ gắn bó với hợp đồng” lại hoàn toàn do Hội đồng trọng
tài quyết định.
Thứ ba là luật do Hội đồng trọng tài xét xử tranh chấp quyết định.
Nếu trong hợp đồng không quy định luật áp dụng, giữa hai nƣớc của
hai bên tranh chấp cũng không có Điều ƣớc quốc tế có liên quan nào quy định
luật áp dụng cho hợp đồng thì luật áp dụng cho hợp đồng để giải quyết tranh
chấp sẽ do chính hội đồng trọng tài xét xử tranh chấp đó quyết định. Thẩm
quyền quyết định luật áp dụng để giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài
đƣợc ghi rõ trong Điều VII của Công ƣớc Giơnevơ về Trọng tài Thƣơng mại
quốc tế năm 1961, Điều 33 đoạn 1 và 3 Quy tắc trọng tài quốc tế
UNCITRAL. Hội đồng trọng tài có thể căn cứ vào tiền lệ xét xử để quyết định
luật áp dụng. Nhìn chung luật mà hội đồng trọng tài thƣờng quyết định dùng
để giải quyết tranh chấp là luật nƣớc ngƣời bán, hoặc luật nƣớc ngƣời mua
hoặc luật có quan hệ gắn bó với hợp đồng. Luật có quan hệ gắn bó với hợp
đồng có thể là luật của nƣớc mà các bên tranh chấp mang quốc tịch hoặc cƣ
trú, luật nơi ký kết hợp đồng, luật nơi có tài sản là đối tƣợng tranh chấp của
hợp đồng... Việc quyết định luật nào là luật có quan hệ gắn bó với hợp đồng
để làm cơ sở xét xử tranh chấp sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào lập luận của hội
đồng trọng tài. Cơ sở cho những lập luận này dựa vào những chứng cứ, tình
huống của từng vụ kiện cụ thể, trên nguyên tắc tôn trọng nguyện vọng của các
bên và bảo vệ các nguyên tắc thƣơng mại quốc tế, trong đó quyền lợi của các
bên, các điều khoản trong hợp đồng mà các bên thỏa thuận phải đƣợc bảo vệ,
nguyên tắc trung thực trong thƣơng mại, nguyên tắc tôn trọng giá trị đạo
đức... phải đƣợc tôn trọng.
Ngoài ra trọng tài phải căn cứ vào các quy tắc nêu trong bản dự thảo
nguyên tắc về luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế, một công trình nghiên
cứu của ủy ban Thƣơng mại quốc tế của ICC đƣa ra tại hội nghị Stockholm
ngày 09/10/1981.
Tóm lại, vấn đề chọn luật áp dụng trong xét xử của trọng tài là một
trong những vấn đề pháp lý quan trọng. Việc chọn luật để trọng tài áp dụng
cho việc xét xử tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên và luật tố tụng
trọng tài đều trƣớc hết tôn trọng quyền tự do thỏa thuận giữa các bên, mặc dù
trên thực tế việc lựa chọn luật tố tụng cho trọng tài thƣờng trực còn hạn chế.
Bên cạnh việc giống nhau trong việc cùng áp dụng nguyên tắc tự do thỏa
thuận chọn luật áp dụng, việc chọn luật cho xét xử nội dung tranh chấp và
chọn luật cho tố tụng trọng tài có sự khác nhau ở chỗ: nếu chọn luật áp dụng
cho xét xử nội dung vụ tranh chấp bị chi phối bởi nguyên tắc luật có quan hệ
gần gũi với hợp đồng thì việc chọn luật cho tố tụng trọng tài phụ thuộc vào
nơi xét xử của trọng tài. Việc tôn trọng những nguyên tắc chọn luật cho trọng
tài trên đây đã làm cho hoạt động của trọng tài thƣơng mại đảm bảo tính công
bằng và hợp lý trong việc xét xử tranh chấp trong kinh doanh quốc tế.
4.4 Tính liên tục của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Từ khi trọng tài nhận đƣợc đơn kiện của nguyên đơn thì hội đồng trọng
tài sẽ theo vụ kiện từ đầu đến cuối trừ khi các bên đƣơng sự có yêu cầu thay
đổi thành viên của Hội đồng trọng tài. Do đó, các trọng tài viên nắm rõ đƣợc
các tình tiết của vụ tranh chấp, việc giải quyết tranh chấp đƣợc tiến hành
thuận lợi hơn. Điều này khác hẳn với việc giải quyết tranh chấp tại tòa án. Do
vậy thời gian trung bình để giải quyết một vụ kiện bằng trọng tài bao giờ cũng
ngắn hơn nhiều so với giải quyết tranh chấp tại tòa án.
4.5 Tiết kiệm thời gian
Do xét xử bằng trọng tài chỉ qua một cấp và trọng tài theo vụ kiện liên
tục làm cho các bên tranh chấp tiết kiệm đƣợc thời gian. Một vụ tranh chấp
đƣợc đƣa ra giải quyết tại VIAC không bao giờ phải giải quyết kéo dài quá 6
tháng trong khi đó việc giải quyết tranh chấp tại tòa án kéo dài vài năm là một
chuyện bình thƣờng. Việc tiết kiệm thời gian trong thời đại ngày nay mang ý
nghĩa lớn trong việc giảm thiểu các rủi ro và tiết kiệm chi phí.
4.6 Giúp các bên duy trì được mối quan hệ
Tính ƣu việt này của xét xử tranh chấp bằng trọng tài xuất phát từ tính
bí mật trong xét xử và việc tôn trọng ý chí của các bên. Phán quyết đƣợc đƣa
ra phù hợp với nguyện vọng của các bên và đƣợc các bên tự nguyện thi hành
là điều kiện đảm bảo việc duy trì mối quan hệ hữu hảo của các bên.
4.7 Tận dụng được kinh nghiệm của các chuyên gia
Các trọng tài viên tham gia xét xử đƣợc các bên đƣơng sự lựa chọn
thƣờng là các chuyên gia giàu kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực, trong quá
trình xét xử các trọng tài viên sẽ sử dụng kinh nghiệm của mình để đƣa ra
những phán quyết đúng đắn và phù hợp với lợi ích của các bên.
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH
DOANH QUỐC TẾ THÔNG QUA CÁC TỔ CHỨC TRỌNG TÀI
1. Một số nét về hoạt động của các trung tâm trọng tài phi chính phủ
Trọng tài từ lâu đã trở thành phƣơng thức giải quyết tranh chấp trong
kinh doanh quốc tế đƣợc các thƣơng nhân sử dụng một cách phổ biến. Ở Việt
Nam, phƣơng thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế này chỉ
đƣợc biết đến từ đầu những năm 1960 khi hai tổ chức trọng tài thuộc Phòng
Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam đƣợc thành lập (Hội đồng Trọng tài
ngoại thƣơng - 1963 và Hội đồng Trọng tài hàng hải - 1964) ra đời. Mặc dù
vậy, từ thập kỉ 60 cho đến giữa thập kỉ 80, nền kinh tế Việt Nam phát triển
theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu do
sự sắp đặt giữa chính phủ Việt Nam và các nƣớc xã hội chủ nghĩa trong
khuôn khổ Hội đồng tƣơng trợ kinh tế, nên trọng tài càng nhận đƣợc ít sự
quan tâm từ phía các doanh nghiệp Việt Nam. Từ những năm 90, Việt Nam
phát triển nền kinh tế thị trƣờng, mở rộng giao lƣu thƣơng mại với nhiều quốc
gia trên thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội làm ăn với các
đối tác nƣớc ngoài nên đã biết đến và sử dụng trọng tài nhiều hơn. Nhƣng các
doanh nghiệp Việt Nam vẫn rất e ngại khi chọn trọng tài để giải quyết tranh
chấp phát sinh từ các hợp đồng mua bán quốc tế, một mặt do hiểu biết hạn
chế, mặt khác do hệ thống pháp luật về trọng tài của Việt Nam còn nhiều bất
cập, dẫn đến các quyết định của trọng tài không có tính cƣỡng chế thi hành
nhƣ bản án của tòa án.
Trƣớc những đòi hỏi khách quan về đa dạng hóa các hình thức và
phƣơng thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh phù hợp với đặc điểm
của cơ chế thị trƣờng cũng nhƣ góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc
tế, ngày 05/09/1994 Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 116-CP về tổ chức
và hoạt động của các trung tâm trọng tài kinh tế. Theo các quy định của Nghị
định này, trọng tài kinh tế thực sự đƣợc xác định là một tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tức là tổ chức phi chính phủ có thẩm quyền giải quyết một số tranh
chấp theo quy định, hoàn toàn tách rời với chức năng quản lý Nhà nƣớc nhƣ
trƣớc đây.
Sau gần 10 năm thực hiện Nghị định 116-CP, đã có 6 Trung tâm trọng
tài đƣợc thành lập với hơn 130 Trọng tài viên (35). Tuy nhiên, đánh giá một
cách khách quan và khái quát thì trọng tài chƣa thể hiện đƣợc vai trò của mình
với chức năng là một cơ quan tài phán hỗ trợ đắc lực cho tòa án trong việc
giải quyết tranh chấp.
Nhằm khắc phục những hạn chế, tăng cƣờng hiệu quả và năng lực của
các trung tâm trọng tài và đội ngũ trọng tài viên, ngày 25/02/2003, Ủy ban
Thƣờng vụ quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài thƣơng mại số
08/2003/PL-UBTVQH và ngày 15/01/2004, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 25/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh
Trọng tài Thƣơng mại. Có thể nói, Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại đã mở
rộng một cách đáng kể thẩm quyền của Trọng tài ở nƣớc ta so với thẩm quyền
của Trọng tài theo Nghị định 116-CP; quy định đầy đủ, rõ ràng về thỏa thận
trọng tài, góp phần chấm dứt tình trạng “lấn quyền của Tòa án đối với trọng
tài”; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc trở thành trọng tài viên; ghi nhận
hình thức trọng tài mới là trọng tài vụ việc; mở rộng thẩm quyền chọn trọng
tài viên cho các bên tranh chấp; ghi nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa Trọng tài
và Tòa án; nâng cao vị thế của Trọng tài bằng việc ghi nhận tính cƣỡng chế
thi hành của các phán quyết trọng tài; quy định nhiều cơ chế mới để đảm bảo
cho việc thành lập các trung tâm trọng tài đƣợc chặt chẽ hơn trên cơ sở đó mà
nâng cao chất lƣợng và uy tín của các Trung tâm Trọng tài.
Những quy định mới của Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại đã tạo ra khả
năng lớn cho sự phát triển của trọng tài thƣơng mại ở nƣớc ta, giúp giải quyết
nhanh chóng các tranh chấp thƣơng mại, giảm bớt gánh nặng của cơ quan Tòa
án... Đồng thời, cùng với các quy định pháp luật khác, pháp luật về trọng tài
đã góp phần tạo nên một hệ thống pháp luật trong sạch, phục vụ yêu cầu quản
lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nƣớc.
Sau khi Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại và Nghị định số 25/2004/NĐ-
CP ngày 15/01/2004 có hiệu lực thi hành, Bộ Tƣ pháp đã khẩn trƣơng ban
hành Quyết định số 125/QĐ-BTP ngày 27/02/2004 về việc ban hành Mẫu
Giấy đăng ký hoạt động của trung tâm Trọng tài. Trên cơ sở các mẫu đã đƣợc
ban hành, Bộ đã trực tiếp in ấn Giấy phép thành lập cũng nhƣ chỉ đạo của các
Sở Tƣ pháp tại các tỉnh, thành phố có Trung tâm Trọng tài khẩn trƣơng tổ
chức việc in ấn Giấy phép đăng ký hoạt động để phục vụ kịp thời cho việc cấp
giấy phép thành lập cũng nhƣ giấy phếp đăng ký kinh hoạt động cho trung
tâm Trọng tài. Trƣớc đó, ngày 16/02/2004 Bộ Tƣ pháp đã có công văn đề
nghị các trung tâm Trọng tài thành lập trƣớc ngày Pháp lệnh có hiệu lực khẩn
trƣơng hoàn thiện hồ sơ xin phê chuẩn điều lệ sửa đổi, bổ sung theo quy định
của Nghị định số 25/2005/NĐ-CP. Đồng thời trong khuôn khổ chƣơng trình
hợp tác với dự án STAR (Mỹ), Bộ Tƣ pháp đã phối hợp với dự án tổ chức ba
lớp tập huấn về Hiệp định Thƣơng mại Việt-Mỹ và Pháp lệnh Trọng tài
Thƣơng mại nhằm tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đến các doanh nghiệp, các
luật sƣ hành nghề những quy định mới của Pháp lệnh...
Cho đến tháng 09/2006, Bộ Tƣ pháp đã phê chuẩn Điều lệ sửa đổi, bổ
sung cho 5 Trung tâm Trọng tài là Trung tâm Trọng tài Thƣơng mại Hà Nội,
Trung tâm Trọng tài Thƣơng mại Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Trọng
tài Thƣơng mại Cần Thơ, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh
Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam và Trung tâm Trọng tài
Thƣơng mại Á Châu (39). Đồng thời, Bộ cũng đã hƣớng dẫn Trung tâm trọng
tài Kinh tế Bắc Giang hoàn tất các thủ tục chấm dứt hoạt động theo quy định
của Pháp lệnh và Nghị định số 25/2004/NĐ-CP. Nhƣ vậy, sau hơn ba năm
triển khai thực hiện Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại thì chƣa có một trung
tâm Trọng tài mới nào đƣợc thành lập, không những thế, số lƣợng trung tâm
vốn đã ít nay còn giảm đi. Hiện nay, cả nƣớc có 5 trung tâm Trọng tài với
tổng số trọng tài viên là 136, trong đó riêng Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt
Nam bên cạnh Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam có 74 trọng tài
viên (40).
Các trung tâm trọng tài hoạt động chƣa hiệu quả vì trọng tài tuy không
phải là một chế định quá mới mẻ, nhƣng các doanh nghiệp Việt Nam chƣa có
thói quen sử dụng trọng tài nhƣ là một trong những phƣơng thức cơ bản để giải
quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động. Với hầu hết các trung
tâm đang tồn tại, việc triển khai thi hành Pháp lệnh cũng hầu nhƣ mới chỉ dừng
lại ở việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ hoạt động và Quy tắc tố tụng.
Bên cạnh hoạt động chính là giải quyết tranh chấp thƣơng mại, một số
trung tâm đã chủ trì hoặc tham gia những hoạt động có tính chất hỗ trợ khác,
nhƣ tuyên truyền, đào tạo, xây dựng pháp luật, hỗ trợ pháp lý. Trong năm
2004, Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thƣơng mại và
Công nghiệp Việt Nam đã phối hợp với Cục Sở hữu trí tuệ và Cục Quản lý thị
trƣờng tổ chức thành công hai cuộc hội thảo “Bảo hộ và giải quyết tranh chấp
về sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập kinh tế quốc tế” tại
Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; tổ chức đóng góp ý kiến cũng
nhƣ giới thiệu nhiều chuyên gia là các trọng tài viên của Trung tâm tham gia
vào ban soạn thảo Luật Cạnh tranh, Luật Thƣơng mại (sửa đổi); tƣ vấn miễn
phí cho hàng trăm lƣợt doanh nghiệp về các vấn đề liên quan đến pháp luật
kinh doanh...
Có thể nói rằng, tuy kết quả hoạt động trong thời gian qua vẫn chƣa cao
nhƣng các Trung tâm hi vọng trong thời gian tới phƣơng thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài sẽ đƣợc các doanh nghiệp sử dụng nhiều hơn.
2. Tình hình giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế tại các tổ
chức trọng tài phi chính phủ ở Việt Nam
Cả nƣớc hiện nay có 5 trung tâm trọng tài với tổng số trọng tài viên là
136 ngƣời. Tuy nhiên các trung tâm trọng tài hầu nhƣ không có việc. Hàng
năm số vụ tranh chấp đƣợc đƣa ra trọng tài còn quá ít mặc dù hầu hết các hợp
đồng kinh tế đều có thỏa thuận trọng tài, trong đó Trung tâm Trọng tài Quốc
tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam (VIAC)
thuộc vào loại lớn nhất nhƣng mỗi năm cũng chỉ xử lý đƣợc 20-25 vụ (39).
Các trung tâm khác khoảng 5 đến 7 vụ, thậm chí có trung tâm có năm không
có vụ tranh chấp nào (39). Trong nhiệm kỳ 1998-2001, VIAC thụ lý 74 vụ
kiện, trong đó trên 67% vụ có giá trị tranh chấp dƣới 100.000 USD. Trong khi
đó, trung bình một năm Tòa án kinh tế cả nƣớc thụ lý khoảng 1.000 vụ, nhiều
vụ trị giá hàng chục triệu USD. Năm 2005, VIAC thụ lý 24 vụ kiện, giảm
25% so với năm 2004 (32 vụ), tăng so với 2003 là 71.43%, và so với 2002
tăng 50%. Trong 9 tháng đầu năm 2006, VIAC nhận thụ lý 28 vụ (Sổ theo dõi
các vụ kiện của VIAC). Hoạt động của các trung tâm khác còn ít hơn. Tính
đến hết năm 2000, trung tâm Trọng tài Kinh tế Hà Nội chỉ nhận hai vụ kiện,
không có vụ nào giải quyết thành công, con số này ở trung tâm Trọng tài Kinh
tế Bắc Giang (nay đã chấm dứt hoạt động) là 4 và số vụ giải quyết thành công
là 2. Số vụ tranh chấp đƣa ra Trọng tài Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đến
năm 2000 là 15 và số vụ giải quyết thành công là 13. Trong năm 2003 Trung
tâm Trọng tài Kinh tế Hà Nội (tiền thân của Trung tâm Trọng tài Thƣơng mại
Hà Nội) giải quyết đƣợc 2 vụ. Trung tâm Trọng tài Thƣơng mại Thành phố
Hồ Chí Minh trong nửa đầu năm 2004 không giải quyết một vụ nào, trong
nửa đầu năm 2006 trung tâm này chỉ giải quyết 6 hồ sơ tranh chấp của doanh
nghiệp và con số này bằng cả năm ngoái.
Nguyên nhân giải thích cho việc doanh nghiệp chƣa mặn mà lắm với
trọng tài là các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chƣa biết nhiều về phƣơng thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Họ chƣa thực sự nhận ra những ƣu việt
của phƣơng thức giải quyết tranh chấp này. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng
những bất cập trong các quy định của luật pháp hiện hành cũng là rào cản đối
với hoạt động của trọng tài. Hơn nữa, số lƣợng các trọng tài tinh thông về
ngoại ngữ và có trình độ tiếp cận các hợp đồng thƣơng mại quốc tế gần nhƣ
chỉ đếm đƣợc trên đầu ngón tay.
II. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC
TẾ TẠI TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM BÊN CẠNH PHÒNG
THƢƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM.
1. Sự hình thành và phát triển của VIAC
Ở Việt Nam, trong nền kinh tế kế hoạch tập trung, để có thể giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong quan hệ kinh tế quốc tế, bên cạnh mô hình tổ
chức trọng tài kinh tế nhà nƣớc, mô hình tổ chức trọng tài kinh tế có tính chất
xã hội - nghề nghiệp đã đƣợc hình thành và tồn tại nhiều năm. Trƣớc năm
1993, các tranh chấp trong kinh doanh quốc tế ở Việt Nam do Hội đồng
Trọng tài Ngoại thƣơng và Hội đồng Trọng tài Hàng hải giải quyết. Hai tổ
chức này tồn tại độc lập và là tiền thân của VIAC sau này.
Hội đồng Trọng tài Ngoại thương (FTAC)
Hội đồng trọng tài Ngoại thƣơng (FTAC) là một tổ chức phi chính phủ,
đƣợc thành lập bên cạnh Phòng Thƣơng mại Việt Nam theo Nghị quyết số
59/CP ra ngày 30/04/1963 của Hội đồng Chính phủ. FTAC gồm 15 ủy viên
đƣợc chỉ định cho một nhiệm kỳ là ba năm. Ủy viên của FTAC là công dân
Việt Nam có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực thƣơng mại, công
nghiệp, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải và pháp luật do Ban trị sự
Phòng Thƣơng mại lựa chọn.
FTAC có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp giữa các tổ chức kinh
tế Việt Nam và tổ chức kinh tế nƣớc ngoài trong khi giao dịch về ngoại
thƣơng trong phạm vi thi hành các Hiệp định hoặc các Hiệp nghị, hợp đồng
ký kết giữa các bên đƣơng sự. Đó là các tranh chấp liên quan đến thanh toán,
vận chuyển hàng hóa, bảo hiểm... khi có ít nhất một trong các bên đƣơng sự
cƣ trú ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Theo Điều 3 Quy tắc tố tụng của FTAC, FTAC có thẩm quyền giải
quyết các vụ việc khi:
- Thẩm quyền đó đƣợc quy định trong một Điều ƣớc Quốc tế hay trong
luật pháp nƣớc Việt Nam, mà các bên phải thi hành, hoặc
- Các bên đƣơng sự đã thỏa thuận thừa nhận thẩm quyền xét xử của
FTAC thông qua thỏa thuận trọng tài
(Nguồn:Quy tắc tố tụng Hội đồng trọng tài Ngoại thƣơng)
Thẩm quyền của FTAC chỉ hạn chế đối với các giao dịch ngoại thƣơng.
FTAC không có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hợp đồng dân sự và
kinh tế trong nƣớc.
Hội đồng Trọng tài Hàng hải
Hội đồng Trọng tài Hàng hải (MAC) đƣợc thành lập ngày 05/10/1964
theo Quyết định số 153-CP của Chính phủ Việt Nam. MAC là một tổ chức
phi chính phủ bên cạnh Phòng Thƣơng mại Việt Nam. Nhìn chung, MAC có
Điều lệ và Quy tắc trọng tài giống nhƣ là của FTAC.
MAC gồm có 15 ủy viên do Ban trị sự Phòng Thƣơng mại lựa chọn
trong số những ngƣời có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực vận tải biển
và ngoại thƣơng, cho một nhiệm kỳ ba năm.
Sự khác nhau giữa MAC và FTAC chỉ là ở thẩm quyền. Theo Điều 2
Điều lệ của MAC, MAC có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về các vấn
đề giao thông vận tải đƣờng biển sau:
- Việc thuê tàu, thuê lai dắt, vận chuyển hàng hóa bằng đƣờng biển
- Công tác đại lý tàu biển
- Thù lao về việc cứu giúp giữa các tàu biển, hoặc giữa tàu biển và tàu sông
- Tàu biển đâm nhau, tàu biển và tàu sông đâm nhau, tàu biển làm hƣ
hỏng công trình kiến trúc hoặc thiết bị phục vụ cho việc giao thông đƣờng
biển ở trong hay ngoài phạm vi cảng
- Bảo hiểm hàng hải
(Nguồn:Quy tắc tố tụng Hội đồng trọng tài Hàng hải)
MAC chấp nhận xét xử khi một trong các điều kiện sau đƣợc thỏa mãn:
- Một hoặc các bên là cá nhân hoặc tổ chức nƣớc ngoài
- Thẩm quyền đó đƣợc quy định trong một Điều ƣớc Quốc tế mà Việt
Nam tham gia và các bên phải thi hành
- Các bên đƣơng sự đã thỏa thuận thừa nhận thẩm quyền xét xử của MAC
(Nguồn:Quy tắc tố tụng Hội đồng trọng tài Hàng hải)
Nhƣ vậy, so với FTAC, MAC có thẩm quyền xét xử tƣơng tự: Thẩm
quyền do Điều ƣớc Quốc tế quy định và/ hoặc đƣợc các bên giao cho. Tuy
nhiên thẩm quyền đó bị hạn chế trong lĩnh vực vận tải đƣờng biển khi có ít
nhất một trong các bên là tổ chức nƣớc ngoài. MAC không có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp về hoạt động dân sự hoặc kinh tế do các cá nhân và
tổ chức Việt Nam ký kết, kể cả tranh chấp về đầu tƣ.
Là các tổ chức trọng tài thƣờng trực, FTAC và MAC có quy tắc tố tụng
riêng, quy định trình tự xét xử trọng tài. Các quy tắc tố tụng trọng tài do ban
trị sự Phòng Thƣơng mại nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua. Mỗi
bản quy tắc bao gồm 29 điều bao gồm các quy định về thẩm quyền, trình tự
thủ tục tiến hành trọng tài nhƣ đơn kiện, chọn và đình chỉ trọng tài viên, xét
xử, chấp hành quyết định của trọng tài, thỏa thuận trực tiếp giữa các bên
đƣơng sự...
Quy tắc tố tụng của FTAC và MAC đƣợc quy định trong hai văn bản
riêng biệt nhƣng nhìn chung các quy định về tố tụng của hai tổ chức này là
giống nhau. Các quy tắc tố tụng của FTAC và MAC mặc dù còn thiếu các quy
định chi tiết, cụ thể nhƣng về cơ bản đã đảm bảo đƣợc các nguyên tắc chung
của tố tụng trọng tài là: bảo đảm ý chí tự nguyện của các bên đƣơng sự trong
việc lựa chọn tổ chức trọng tài, quyền lựa chọn và khƣớc từ trọng tài viên,
quyền tự do bảo vệ và cử ngƣời thay mặt hợp pháp bênh vực quyền lợi cho
mình, quyền các bên đƣợc trực tiếp thƣơng lƣợng trƣớc và trong quá trình tố
tụng, quyền đƣợc chọn hình thức xét xử... Và một trong những quy định quan
trọng thể hiện tính chất cơ bản của tố tụng trọng tài kinh tế là tính chung thẩm
của phán quyết trọng tài "Quyết định trọng tài là quyết định chung thẩm,
không thể bị khiếu nại trƣớc bất cứ tòa án hay tổ chức nào khác". (Điều 24
Quy tắc tố tụng Hội đồng trọng tài Ngoại thƣơng và Hội đồng trọng tài Hàng
hải).
Các bên đƣơng sự có nghĩa vụ phải tự nguyện thực hiện quyết định của
trọng tài "trong thời hạn đã đƣợc ấn định trong quyết định trọng tài. Trƣờng
hợp quyết định của trọng tài không đƣợc thi hành trong thời hạn đã định thì
một trong các bên có quyền yêu cầu tòa án có thẩm quyền chiếu theo pháp
luật bắt buộc bên kia thi hành". (Điều 25 Quy tắc tố tụng Hội đồng trọng tài
Ngoại thƣơng và Hội đồng trọng tài Hàng hải).
Tuy ra đời khá lâu nhƣng hoạt động của FTAC và MAC rất ít. Trong
thời kì 1963-1986, FTAC và MAC giải quyết rất ít các vụ tranh chấp, trong
thời gian này, Việt Nam hầu nhƣ chỉ tập trung các mối quan hệ quốc tế của
mình với các nƣớc xã hội chủ nghĩa trƣớc đây, đặc biệt là trao đổi ngoại
thƣơng và viện trợ phát triển mà bản chất của việc viện trợ đó ít mang tính
chất thƣơng mại. Chính vì thế các tranh chấp ngoại thƣơng và hàng hải rất
hạn chế. Khi có tranh chấp, bên Việt Nam và đối tác thƣờng tìm cách giải
quyết bằng thƣơng lƣợng trực tiếp. Khi một vụ việc đƣợc đƣa ra FTAC hoặc
MAC, hai tổ chức trọng tài này thƣờng tìm mọi cách để giúp hai bên đạt đƣợc
thỏa thuận trên cơ sở nhân nhƣợng lẫn nhau. Điều này đã ảnh hƣởng cả tích
cực và tiêu cực đến hoạt động của trọng tài. Về mặt tích cực, nó thể hiện tinh
thần hợp tác giữa các bên đƣơng sự. Song về mặt tiêu cực, nó làm cho các bên
đƣơng sự hiểu sai về bản chất của trọng tài, coi việc đƣa ra trọng tài xét xử là
một việc căng thẳng, ảnh hƣởng đến sự tín nhiệm đối với nhau. Ngoài ra, nó
còn khiến cho các trọng tài viên ít có điều kiện thực hiện nghiệp vụ cho nên ít
có kinh nghiệm giải quyết tranh chấp, uy tín trên trƣờng quốc tế thấp.
Từ 1986-1993, khi chính sách đổi mới làm tăng đầu tƣ nƣớc ngoài ở
Việt Nam cũng nhƣ giao dịch thƣơng mại giữa Việt Nam và các nƣớc khác,
đặc biệt là những nƣớc ngoài khối xã hội chủ nghĩa, tranh chấp trong hoạt
động ngoại thƣơng xảy ra càng nhiều và càng phức tạp hơn. Đến lúc này thì
FTAC và MAC mới gặp nhiều khó khăn.
Theo thống kê của Phòng Thƣơng mại thì từ khi thành lập cho đến năm
1992, FTAC và MAC giải quyết 94 vụ tranh chấp, trong đó từ năm 1963 đến
1988 có 3 vụ, từ năm 1988 đến năm 1992 có 91 vụ. Trong số 94 vụ thì có 14
vụ tranh chấp liên quan đến hàng hải quốc tế còn 80 vụ liên quan đến hợp
đồng mua bán ngoại thƣơng, có 35 vụ đƣa ra phán quyết còn 59 vụ giải quyết
thông qua thƣơng lƣợng hoặc thông qua hòa giải của trọng tài (12).
Trƣớc tình hình này FTAC và MAC đã bộc lộ những nhƣợc điểm sau:
- FTAC và MAC ra đời nhằm mục đích giải quyết các tranh chấp giữa
Việt Nam và các nƣớc xã hội chủ nghĩa có hệ thống pháp luật tƣơng tự, do đó
ít có kinh nghiệm giải quyết tranh chấp với các bên đƣơng sự từ những nƣớc
không thuộc khối xã hội chủ nghĩa.
- Hai hội đồng trọng tài trên chƣa có quy định về việc các bên tranh
chấp có thể chọn chuyên gia quốc tế làm trọng tài viên và chƣa có quy định
về việc công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nƣớc ngoài. Do đó,
các bên tranh chấp từ các nƣớc không theo chế độ xã hội chủ nghĩa không
muốn đƣa tranh chấp của họ ra xét xử tại FTAC và MAC.
- Về mặt tổ chức, hai Hội đồng trọng tài trên đều là tổ chức phi chính
phủ, điều lệ và quy tắc tố tụng trọng tài gần giống nhau ngoại trừ quy định về
đối tƣợng tranh chấp. Hơn nữa, ngoại thƣơng có quan hệ gần gũi với vận tải
đƣờng biển cho nên việc giữ nguyên hai Hội đồng trên là không cần thiết.
- Quy tắc tố tụng của FTAC và MAC đều chƣa hoàn thiện, chƣa thống
nhất và có nhiều nhƣợc điểm cần khắc phục.
Chính vì vậy, Thủ tƣớng Chính phủ Việt Nam, căn cứ theo Luật tổ
chức Chính phủ ngày 30/09/1992 và theo đề nghị của Chủ tịch Phòng Thƣơng
mại và Công nghiệp Việt Nam, đã kí quyết định số 204/TTg hợp nhất hai cơ
quan trọng tài là Hội đồng Trọng tài ngoại thƣơng và Hội đồng Trọng tài hàng
hải thành một tổ chức trọng tài duy nhất là Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt
Nam bên cạnh Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam (VIAC) vào
ngày 28/04/1993.
Theo Quyết định số 204/TTg nêu trên, VIAC là tổ chức phi chính phủ,
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế
nhƣ hợp đồng ngoại thƣơng, đầu tƣ, du lịch, vận tải và bảo hiểm quốc tế,
chuyển giao công nghệ, tín dụng và thanh toán quốc tế... Bằng quyết định số
114/TTg ngày 16/02/1996, thủ tƣớng Chính phủ cho phép VIAC giải quyết
các tranh chấp quốc tế không có yếu tố nƣớc ngoài nếu các bên tranh chấp
thỏa thuận đƣa tranh chấp ra giải quyết tại Trung tâm này.
VIAC bao gồm các trọng tài viên là những ngƣời có kiến thức và kinh
nghiệm trong các lĩnh vực pháp luật, ngoại thƣơng, đầu tƣ, tài chính, ngân
hàng, vận tải, bảo hiểm... do Ban thƣờng trực Phòng Thƣơng mại và Công
nghiệp Việt Nam chọn. Trọng tài viên có nhiệm kỳ bốn năm và sau mỗi
nhiệm kỳ trọng tài viên có thể đƣợc chọn lại. Ngoài ra, VIAC còn có thể mời
các chuyên gia nƣớc ngoài làm trọng tài viên. VIAC có chủ tịch và hai phó
chủ tịch do các trọng tài viên bầu ra. Giống nhƣ trọng tài viên, chủ tịch và hai
phó chủ tịch có nhiệm kỳ bốn năm. Chủ tịch VIAC có quyền chỉ định một thƣ
ký thƣờng trực của VIAC.
Toàn bộ hoạt động xét xử của VIAC đƣợc quy định trong Quy tắc tố
tụng của VIAC. Quy tắc tố tụng là một văn bản pháp lý hết sức quan trọng,
trong đó quy định đầy đủ, chi tiết trình tự các bƣớc tố tụng kể từ khi các bên
lập hồ sơ đi kiện cho đến khi phán quyết đƣợc công bố. Quy tắc tố tụng là
khung pháp lý mà hội đồng trọng tài xét xử vụ kiện và các bên đƣơng sự phải
tuân thủ. Quy tắc tố tụng của VIAC đƣợc xây dựng trên cơ sở thực tiễn của
trọng tài Việt Nam đồng thời có tham khảo các quy tắc của các tổ chức trọng
tài khác trên thế giới.
Điều lệ của VIAC là cơ sở pháp lý để VIAC hoạt động và để các tổ
chức nhà nƣớc thực hiện vai trò giám sát sự tuân thủ của VIAC đối với quy
tắc tố tụng này.
Các hoạt động chính của VIAC
Hoạt động xét xử: là hoạt động chính của trung tâm, đƣợc đặt trong sự
quan tâm hàng đầu. Các vụ tranh chấp đƣợc đƣa ra giải quyết tại VIAC ngày
càng nhiều và phức tạp hơn.
Hoạt động góp ý xây dựng pháp luật: Mặc dù không phải là hoạt động
chính nhƣng với lợi thế có đội ngũ trọng tài viên có kiến thức sâu rộng về
pháp luật, VIAC tham gia vào hoạt động này khá hiệu quả. VIAC đã tham gia
góp ý, soạn thảo các luật, pháp lệnh, nghị định quan trọng... Một số trọng tài
viên của VIAC là thành viên của Ban soạn thảo nhiều dự luật quan trọng nhƣ
Luật Thƣơng mại, Luật hàng hải, Luật doanh nghiệp, Luật Sở hữu trí tuệ,
Luật giao dịch điện tử, Luật cạnh tranh, Pháp lệnh Thƣơng phiếu, Pháp lệnh
trọng tài thƣơng mại,...
Hoạt động đào tạo, tuyên truyền Pháp luật: thông qua tổ chức các buổi
giới thiệu về pháp luật kinh doanh, quá trình xét xử theo yêu cầu của các bên
đƣơng sự và hoạt động xuất bản, trung tâm đã tuyên truyền luật và chính sách
của nhà nƣớc tới cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân. VIAC đã tham gia
biên soạn hoặc trực tiếp biên soạn và phát hành nhiều ấn phẩm nhƣ CD Rom
Pháp luật thƣơng mại Việt Nam, 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc,
trọng tài và giải quyết các tranh chấp lựa chọn. Từ đầu 2004, VIAC còn phối
hợp với Báo Diễn đàn Doanh nghiệp triển khai chuyên mục: "Giới thiệu và
bình luận pháp luật" hàng tuần.
Hoạt động hợp tác quốc tế: Khác với FTAC và MAC, VIAC có quan
hệ rộng rãi với các hiệp hội, tổ chức kinh tế trên thế giới, đẩy mạnh từng bƣớc
trong hợp tác quốc tế. VIAC tham gia nhiều hội thảo quốc tế về trọng tài nhƣ
hội thảo thƣờng niên của đoàn luật sƣ Châu Á - Thái Bình Dƣơng ở
Singapore năm 1994, ở Mỹ năm 1995, hội thảo quốc tế của Trung tâm giải
quyết tranh chấp về đầu tƣ - thƣơng mại quốc tế, hội thảo của Hiệp hội trọng
tài Mỹ. Đặc biệt, VIAC còn thiết lập quan hệ đƣợc với một số luật sƣ hàng
đầu về lĩnh vực trọng tài trên thế giới.
Hoạt động hòa giải: Mặc dù VIAC chƣa có quy tắc hòa giải riêng, độc
lập với quy tắc tố tụng trọng tài nhƣng trong quy tắc tố tụng của VIAC vai trò
của hòa giải đƣợc đặt ở vị trí đúng mức. Ngay từ khi mới tiếp nhận đơn kiện,
VIAC đồng thời sẽ đóng vai trò của một tổ chức hòa giải với điều kiện đƣợc
các bên chấp nhận. Quá trình hòa giải đƣợc tiếp tục với sự trợ giúp của hội
đồng trọng tài cho đến trƣớc khi hội đồng trọng tài tiến hành xét xử. Trong
quá trình xem xét vụ kiện, thông qua việc trao đổi hồ sơ, tài liệu, cung cấp
thông tin, yêu cầu xuất trình các bằng chứng mới, hội đồng trọng tài đã giúp
các bên hiểu rõ lập trƣờng cũng nhƣ chỗ mạnh, chỗ yếu của nhau; từ đó, họ
có thể tự thƣơng thuyết, hòa giải với nhau mà không cần thiết phải đƣa vụ
kiện ra xét xử. Thực tiễn cho thấy mức độ tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ
đƣợc cam kết trong các văn bản hòa giải thông qua thƣơng lƣợng trực tiếp
giữa các bên đƣơng sự thƣờng cao hơn so với việc thi hành phán quyết của
trọng tài.
Từ năm 1993 đến nay, VIAC trở thành tổ chức trọng tài lớn nhất có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực ngoại thƣơng, hàng hải,
các tranh chấp khác trong kinh doanh quốc tế.
2. Tình hình giải quyết tranh chấp tại VIAC
Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại ra đời năm 2003 là một dấu mốc quan
trọng trong hoạt động của các trung tâm trọng tài trên cả nƣớc. Là một trung
tâm Trọng tài đƣợc nhắc đến nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay, VIAC cũng có
nhiều thay đổi trong hoạt động trọng tài của mình kể từ khi Pháp lệnh ra đời.
Chính vì thế khóa luận chia chặng đƣờng phát triển của VIAC ra làm hai giai
đoạn và lấy năm 2003 làm mốc để tìm hiều những khó khăn thuận lợi của
Trung tâm trong từng giai đoạn, kết quả Trung tâm đạt đƣợc trong từng giai
đoạn đó, từ đó đƣa ra những nhận xét về hoạt động của VIAC và rút ra những
bài học cho hoạt động của Trung tâm về sau.
2.1 Tình hình giải quyết tranh chấp tại VIAC từ 2002 trở về trước
Nhƣ trên có thể thấy, VIAC là trung tâm trọng tài lớn nhất ở Việt Nam
hiện nay và cũng là trung tâm thụ lý số vụ kiện hàng năm lớn nhất, điều này
đúng cho cả quá trình từ khi VIAC thành lập cho đến nay. Trƣớc năm 2003,
mặc dù hoạt động trọng tài ở nƣớc ta còn thƣa thớt nhƣng dù sao VIAC cũng
hoạt động có hiệu quả nhất. Có đƣợc kết quả nhƣ vậy là do VIAC có đƣợc
nhiều lợi thế. Có thể nhắc đến những thuận lợi đó là:
Thứ nhất, VIAC có sự độc lập trong việc hình thành quy tắc tố tụng,
biểu phí trọng tài, quy định về chọn các chuyên gia làm trọng tài viên. Khi
giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài, nguyên tắc tự do thỏa
thuận luôn đƣợc đặt lên hàng đầu. Nhƣng khi các bên đã đồng ý đƣa vụ kiện
ra VIAC thì nhất thiết phải theo quy tắc tố tụng của Trung tâm. Theo quy tắc
tố tụng của Trung tâm, ngày xét xử do Chủ tịch Ủy ban trọng tài quyết định,
ngôn ngữ xét xử là tiếng Việt; cùng với việc gửi đơn kiện, nguyên đơn phải
ứng trƣớc toàn bộ phí trọng tài. Nhƣ vậy, Trung tâm luôn giành thế chủ động
trong việc tiến hành xét xử.
Thứ hai, VIAC có đƣợc kinh nghiệm giải quyết Tranh chấp từ hai Hội
đồng trọng tài tiền thân. VIAC không chỉ đƣợc kế thừa từ hai Hội đồng trọng
tài tiền thân cơ sở vật chất, mà còn đƣợc kế thừa cả một hệ thông tƣ liệu,
thông tin và đội ngũ nguồn nhân lực giỏi về chuyên môn.
Thứ ba, xét về khía cạnh pháp lý của phán quyết trọng tài, VIAC có ƣu
thế hơn hẳn so với các trung tâm trọng tài kinh tế khác - cũng là tổ chức xã
hội - nghề nhiệp đƣợc thành lập theo Nghị định 116-CP (ngày 05/09/1994) ở
chỗ phán Quyết của trọng tài của VIAC có giá trị chung thẩm. Khi đƣa tranh
chấp ra xét xử ở các trung tâm trọng tài kinh tế khác, một bên đƣơng sự có
quyền yêu cầu Tòa án Nhân dân xét xử lại nếu bên này không đồng ý với phán
quyết của trọng tài đƣa ra. Chính điều này đã làm cho các trung tâm trọng tài
kinh tế khác không thu hút đƣợc đơn kiện cũng nhƣ các chuyên gia giỏi làm việc
cho họ. Ngƣợc lại, phán quyết trọng tài của VIAC có giá trị chung thẩm làm cho
bên nguyên yên tâm khi đƣa đơn kiện ra VIAC và cũng khích lệ các trọng tài
viên làm việc có hiệu quả vì kết quả lao động của họ sẽ đƣợc công nhận.
Một thuận lợi nữa phải kể đến là VIAC nhận đƣợc sự hỗ trợ của Phòng
Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam về cơ sở vật chất cũng nhƣ các mối
quan hệ quốc tế, một thuận lợi mà các trung tâm trọng tài khác ít có cơ hội
nhận đƣợc.
Bên cạnh những thuận lợi đã đƣợc đề cập đến ở trên, trong giai đoạn từ
năm 2002 trở về trƣớc, VIAC cũng gặp không ít khó khăn hạn chế trong việc
mở rộng hoạt động của trung tâm.
Khó khăn thứ nhất bắt nguồn từ bối cảnh kinh tế chung, Việt Nam đi
lên từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu cho nên mặc dù từ 1986 chúng ta thực
hiện đổi mới kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trƣờng nhƣng nền kinh tế nƣớc
ta còn nhiều yếu kém, chƣa bắt kịp ngay đƣợc với nền kinh tế thế giới. Điều
này tác động tới hai vấn đề trong hoạt động của VIAC. Thứ nhất, các doanh
nghiệp Việt Nam xƣa nay vốn làm ăn theo cung cách cũ, không có nhiều kinh
nghiệm trong kinh doanh trên thƣơng trƣờng quốc tế. Việc này không những
ảnh hƣởng tới quá trình thực hiện hợp đồng với đối tác nƣớc ngoài mà còn
ảnh hƣởng tới quá trình giải quyết tranh chấp khi mà thƣơng vụ làm ăn không
diễn ra nhƣ dự định ban đầu của các bên. Các bên còn chƣa có thói quen sử
dụng trọng tài nhƣ một phƣơng thức giải quyết tranh chấp hữu ích, thậm chí
có những doanh nhân còn không biết đến trọng tài thƣơng mại. Vì vậy các vụ
tranh chấp xảy ra ít đƣợc đƣa đến trọng tài giải quyết. Hơn nữa, có nhiều
trƣờng hợp doanh nghiệp đã biết đến phƣơng thức trọng tài nhƣng trong quá
trình sử dụng còn có nhiều sơ suất nhƣ: việc nêu tên không chính xác trung
tâm trọng tài và mình muốn đƣa tranh chấp ra xét xử, không tuân thủ đúng
quy tắc tố tụng trọng tài, chậm trễ trong việc cung cấp các tài liệu cần thiết
cho quá trình ra phán quyết của trọng tài. Thứ hai, các trọng tài viên của
chúng ta xuất phát từ thiếu va chạm thực tế dẫn đến có ít kinh nghiệm trong
giải quyết các tranh chấp quốc tế với những vụ mà một bên đƣơng sự là tổ
chức nƣớc ngoài không thuộc khối xã hội chủ nghĩa trƣớc đây đặc biệt là các
vụ tranh chấp trong các lĩnh vực còn mới mẻ ở Việt Nam.
Khó khăn thứ hai xuất phát từ hoàn cảnh khách quan là: pháp luật Việt
Nam nói chung và khung pháp lý về hoạt động của trọng tài nói riêng còn
nhiều bất cập. Có thể nói hệ thống pháp luật của chúng ta chuyển đổi khá
nhanh theo sự chuyển đổi của nền kinh tế, nhƣng lại không đề cập hết đƣợc
những vấn đề phát sinh trong thực tế và còn hiện tƣợng chồng chéo, không
thống nhất. Ví dụ, Luật Thƣơng mại năm 1997 không đƣa ra cách hiểu thống
nhất về hoạt động thƣơng mại mà chỉ liệt kê một số hành vi thƣơng mại. Khi
có hợp đồng lựa chọn luật điều chỉnh là Luật Thƣơng mại Việt Nam năm
1997 nhƣng hoạt động giao dịch thông qua hợp đồng lại không đƣợc liệt kê
trong Luật Thƣơng mại Việt Nam 1997. Điều này gây khó khăn lớn trong
hoạt động giải quyết tranh chấp của Trung tâm, đồng thời xác định luật nội
dung là một khó khăn đáng kể.
Một khó khăn nữa làm cản trở hoạt động của trung tâm và làm các
trọng tài viên phải trăn trở nhiều là Việt Nam đã tham gia Công ƣớc New
York năm 1958 về Công nhận và Thi hành các phán quyết của trọng tài nƣớc
ngoài năm 1995 nhƣng cho đến tận đầu năm 2003, quyết định của trọng tài
trong nƣớc thì không có sự cƣỡng chế thi hành nào cả. Khiến cho các doanh
nghiệp còn nhiều e ngại khi sử dụng phƣơng thức giải quyết tranh chấp thông
qua trọng tài.
Khó khăn cuối cùng xuất phát từ chính những quy định trong Điều lệ
và quy tắc tố tụng của Trung tâm. Nhƣ đã nói ở trên, những quy định mà
Trung tâm đề ra mang lại sự chủ động cho VIAC nhƣng đôi khi lại hạn chế
quyền tự do lựa chọn của các bên về ngôn ngữ sử dụng và thời gian xét xử...
Trong tình hình đó, trong vòng 10 năm hoạt động từ khi thành lập đến
hết năm 2002, trung bình mỗi năm VIAC giải quyết 18 vụ tranh chấp. Con số
thông kê đƣợc nhƣ sau
Bảng 1: Số vụ kiện ra VIAC và giá trị các vụ kiện trong giai đoạn
1993 - 2002
Năm Số vụ Tổng trị giá (USD)
Trị giá trung bình (USD) Trị giá tranh chấp quốc tế (USD) Trị giá TB tranh chấp quốc tế
479.000 1.250.000 3.250.000 3.894.000 7.530.000 2.099.000 3.870.000 2.639.000 79.800 89.286 191.176 155.760 313.750 116.611 193.500 114.739 479.000 1.250.000 3.250.000 3.894.000 7.465.000 2.040.000 3.329.000 2.538.000 79.800 89.286 191.176 155.760 324.565 127.500 195.823 133.579
- - - - - -
1993 6 1994 14 1995 17 1996 25 1997 24 1998 18 1999 20 2000 23 2001 16 2002 19 Tổng 182 - - 25.011.000 Số vụ tranh chấp quốc tế 6 14 17 25 23 16 17 19 16 14 167 156.828 24.245.000 152.227
(Nguồn: Sổ theo dõi các vụ kiện của VIAC)
Trong giai đoạn 1993-2002, số vụ tranh chấp đƣợc đƣa ra VIAC giải
quyết tăng giảm không đều, có lúc tăng lúc giảm, không thể hiện đƣợc xu thế
sử dụng phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài của các doanh
nghiệp Việt Nam. Năm 1993, VIAC nhận đƣợc 6 đơn kiện, đến năm 1994 là
14 vụ, tăng 133,33% so với năm 1993. Đây cũng là con số tăng lớn nhất của
giai đoạn này. Tiếp theo là năm 1996 so với năm 1995 tăng 8 vụ (tăng
47,06%), năm 1995 tăng so với năm 1994 là 7 vụ (tăng 21,42%), những năm
tăng khác có con số không cao:18,75% (2002 so với 2001), 15% (2000 so với
1999), 11,11%(1999 so với 1998). Những năm còn lại có số vụ đƣa ra giải
quyết thấp hơn năm trƣớc đó: năm 1997 giảm 1 vụ so với năm 1996 (giảm
4%), năm 1998 giảm 6 vụ so với năm 1997 (giảm 25%), năm 2001 giảm 7 vụ
so với năm 2000 (giảm 30,44%). Với những con số trên không thể đƣa ra
nhận định rằng xu hƣớng của các doanh nghiệp Việt Nam đang ngày càng sử
dụng phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mặc dù trên thực tế
điều này đang diễn ra. Lý do giải thích cho điều này là, mặc dù các doanh
nghiệp đã có ý thức hơn về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì số vụ
đƣa ra VIAC giải quyết hàng năm còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nữa
nhƣ: số vụ tranh chấp xảy ra hàng năm, việc giải quyết tranh chấp trƣớc khi
đƣa ra trọng tài xét xử, số vụ tranh chấp đƣa ra giải quyết tại các trung tâm
khác (mặc dù VIAC vẫn là trung tâm nhận nhiều đơn kiện nhất trong số các
trung tâm đang hoạt động), ...
Trong các năm, hầu hết các vụ kiện đều là các vụ tranh chấp quốc tế, số
vụ tranh chấp trong nƣớc chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các vụ. Trƣớc năm
1996, Trung tâm không có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong nƣớc,
vì vậy số vụ kiện đƣa ra giải quyết đều là các tranh chấp quốc tế. Từ năm
1997, Trung tâm mới bắt đầu nhận đƣợc đơn kiện của các tranh chấp trong
nƣớc, tuy nhiên số vụ cũng rất ít. Các tranh chấp trong nƣớc thƣờng có giá trị
không quá cao, hơn nữa các bên tƣơng đối hiểu nhau nên thƣờng tìm đến
phƣơng thức thƣơng lƣợng trực tiếp hoặc thông qua hòa giải để nhanh chóng
giải quyết tranh chấp, tiết kiệm đƣợc chi phí, đồng thời giữ gìn đƣợc mối
quan hệ hữu hảo giữa hai bên. Chỉ khi các vụ tranh chấp mang tính quốc tế,
giá trị của vụ tranh chấp tƣơng đối lớn, các bên không có điều kiện hiểu rõ về
nhau thì mới khó đi đến thoả thuận chung và cần tới một chế định trung gian
có uy tín để giải quyết vụ tranh chấp. Và khi đó, nếu ở các nƣớc có nền kinh
tế thị trƣờng phát triển, các bên thƣờng lựa chọn trọng tài hơn là tòa án. Tuy
nhiên ở Việt Nam điều này chƣa thực sự xảy ra, mới chỉ mang tính xu hƣớng.
Trị giá trung bình của các vụ tranh chấp thƣờng ổn định ở mức trên
100.000 USD, trong đó đa số các vụ tranh chấp có giá trị trong khoảng 10.000
USD đến 100.000 USD (giá trị vừa), chiếm khoảng 50% tổng số vụ hàng
năm. Nhóm có giá trị nhỏ (dƣới 10.000 USD), lớn (100.000 USD đến
200.000 USD), rất lớn (trên 200.000 USD) chiếm tỷ trọng ít hơn. Nhƣng cần
phải nói rằng, trong đó tỷ trọng của nhóm rất lớn cũng chiếm tỷ trọng khá,
điều này làm cho giá trị trung bình của các vụ hàng năm tăng lên trên 100.000
USD. Nhóm có giá trị vừa chiếm tỷ trọng lớn nhất là điều dễ hiểu đối với các
doanh nghiệp Việt Nam. Ở Việt Nam, các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn
chiếm một lƣợng lớn trong tổng số các doanh nghiệp. Hơn nữa, các doanh
nghiệp Việt Nam không phải lúc nào cũng tiếp cận đƣợc nguồn vốn tín dụng
lớn để đầu tƣ vào các thƣơng vụ, và nếu có nguồn vốn lớn thì các doanh
nghiệp cũng muốn phân tán rủi ro, thƣờng chỉ đầu tƣ vào các thƣơng vụ vừa
để có thể thu đƣợc một khoản lợi nhuận nhất định và không mất quá nhiều khi
rủi ro xảy ra.
Trong số các vụ tranh chấp đƣa ra giải quyết tại VIAC thì nguyên nhân cơ
bản dẫn đến tranh chấp giữa các bên thƣờng là việc một trong hai bên không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ cơ bản của mình: bên bán không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ giao hàng, bên mua không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thanh toán của mình. Số vụ tranh chấp
có một trong hai nguyên nhân này hoặc cả hai nguyên nhân chiếm khoảng 70%
đến 80% tổng số vụ tranh chấp tại VIAC. Ngoài ra còn có một số nguyên nhân
tranh chấp khác nhƣ: không thanh toán tiền vi phạm hợp đồng, không thực hiện
nghĩa vụ thuê tàu, không cung cấp dịch vụ nhƣ đã cam kết...
Vì là một trung tâm trọng tài của Việt Nam nên hầu hết các vụ tranh
chấp đều có một bên là bên Việt Nam, bên còn lại thƣờng là các doanh
nghiệp, tổ chức của các nƣớc: Hàn Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, Thái Lan,
Singapore, Trung Quốc, Malaixia, Anh, Áo, Pháp, Thụy Điển, Canada,
Bahama, Mỹ, Ukraina,...
Các vụ tranh chấp đƣợc đƣa ra giải quyết tại VIAC không phải đều
đƣợc đƣa ra phán quyết cuối cùng. Lý do có thể là do bên nguyên tự rút đơn
kiện, do hai bên hòa giải đƣợc trƣớc khi Hội đồng trọng tài đƣợc thành lập
hay đơn giản vì họ không nộp phí trọng tài nên không đƣợc Trung tâm thụ lý.
Có thể xem xét tình hình này qua bảng sau:
Bảng 2: Tình hình giải quyết các vụ án đƣa ra VIAC trong giai
đoạn 1996 - 2002
Hòa giải Rút đơn kiện Không đủ điều
Năm Tổng số vụ Xét xử ra phán quyết
kiện thụ lý hồ sơ Lƣợng Tỷ lệ Lƣợng Tỷ lệ Lƣợng Tỷ lệ Lƣợng Tỷ lệ
(%) (%)
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng 25 24 18 20 23 16 19 145 (%) 68,0 66,7 61,1 55,0 65,2 62,5 57,9 62,3 17 16 11 11 15 10 11 91 (%) 16,0 4,2 5,6 10,0 13,0 6,3 0,0 7,9 2 4 2 3 2 3 4 20 8,0 16,7 11,1 15,0 8,7 18,8 21,1 14,2 4 1 1 2 3 1 0 12 2 3 4 4 2 2 2 19 8,0 12,5 22,2 20,0 8,7 12,5 10,5 13,5
(Nguồn: Sổ theo dõi các vụ kiện của VIAC)
Nhƣ vậy, trong giai đoạn 1996-2002 số vụ đƣa ra phán quyết cuối cùng
chiếm trung bình 62,3% tổng số vụ, số vụ hòa giải chiếm trung bình 7,9%
tổng số vụ, số vụ rút đơn kiện chiếm trung bình 14,2% tổng số vụ. Số vụ kiện
đến VIAC nhƣng không đủ điều kiện thụ lý hồ sơ còn khá nhiều. Tỷ lệ trung
bình của số vụ loại này trong giai đoạn 1996-2002 là 13,5%. Năm thấp nhất
nhƣ năm 1996, tỷ lệ này là 8%. Năm cao nhất là năm 1998, lên tới 22,2%
tổng số vụ không đủ điều kiện thụ lý hồ sơ do đƣơng sự không nộp đủ phí
hoặc thỏa thuận trọng tài không hợp lệ vì thiếu sự thống nhất giữa các bên.
Do vậy số vụ giải quyết bao gồm cả tổ chức xét xử và hòa giải trƣớc xét xử
trung bình chỉ đạt 70,2%. Tỷ lệ hòa giải trƣớc xét xử đạt 7,9% là tỷ lệ đáng
khích lệ của Trung tâm, điều đó thể hiện Trung tâm luôn coi trọng lợi ích kinh
tế của đƣơng sự để nâng cao uy tín của Trung tâm, đồng thời phù hợp với cơ
chế mới. Tỷ lệ hòa giải không ổn định qua các năm phản ánh thực tế là bên
cạnh sự nỗ lực của ủy ban trọng tài, sự thành công của hòa giải đòi hỏi phụ
thuộc rất lớn vào thiện ý và tinh thần hợp tác của các bên đƣơng sự. Tỷ lệ hòa
giải cao còn thể hiện hiệu quả giải quyết tranh chấp cao, xét về khía cạnh
chuyên môn.
2.2 Tình hình giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế tại Trung
tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam từ 2003 đến nay
Sau khi Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại Việt Nam ra đời, nhiều điều
kiện thuận lợi cho hoạt động của trọng tài đã đƣợc thiết lập. Điều này ảnh
hƣởng tích cực đến hoạt động của các trung tâm trọng tài trên cả nƣớc, trong
đó có VIAC. Pháp lệnh trọng tài Thƣơng mại 2003 có nhiều điểm mới:
Thứ nhất, mở rộng thẩm quyền xét xử của trọng tài thƣơng mại. Điều
này thể hiện ở việc Pháp lệnh đã đƣa ra định nghĩa khái quát về hoạt động
thƣơng mại chứ không liệt kê các hoạt động thƣơng mại nhƣ trong Luật
Thƣơng mại Việt Nam năm 1997.
Thứ hai, Pháp lệnh công nhận hình thức trọng tài Ad-hoc của Việt
Nam. Trƣớc đây, chúng ta chỉ công nhận hình thức trọng tài Ad-hoc của các
quốc gia khác mà không có quy định nào nói về hình thức trọng tài Ad-hoc
của Việt Nam. Đây là một hạn chế lớn của chúng ta bởi trọng tài Ad-hoc rất
thuận tiện cho các vụ tranh chấp có giá trị nhỏ, cần xử lý nhanh gọn và ít tốn
kém. Nó đảm bảo quyền tự do lựa chọn các hình thức trọng tài của các bên
đƣơng sự. Cùng với việc công nhận hình thức trọng tài này, Pháp lệnh cũng
quy định về việc lƣu trữ hồ sơ trọng tài đối với trọng tài Ad-hoc.
Thứ ba, Pháp lệnh sửa đổi tiêu chuẩn trọng tài viên theo hƣớng đơn
giản hóa và ít thủ tục hơn theo đúng tinh thần cải cách thủ tục hành chính của
ta hiện nay.
Thứ tƣ, đơn giản hóa thủ tục xin phép thành lập trung tâm trọng tài.
Thứ năm, Pháp lệnh đã công nhận tính chung thẩm của phán quyết
trọng tài. Trƣớc đây, điều này đã đƣợc quy định tại Điều 31 Quy tắc tố tụng
của VIAC có hiệu lực từ ngày 20/08/1993 nhƣng cho đến thời điểm đó mới
đƣợc chính thức đƣa vào một văn bản luật có giá trị pháp lý cao nhƣ Pháp
lệnh Trọng tài. Theo đó, Tòa án không có quyền xét xử lại vụ án, không có
quyền đƣa ra quyết định phán quyết của trọng tài đã tuyên là đúng hay sai một
khi vụ tranh chấp đã có thỏa thuận đƣa ra giải quyết tại trung tâm trọng tài.
Tòa án chỉ có quyền xem xét lại thẩm quyền xét xử của trọng tài và quá trình
tố tụng có đúng theo quy định của pháp luật hay không, từ đó đƣa ra quyết
định bác bỏ phán quyết của trọng tài hoặc cho cƣỡng chế thi hành phán quyết
của trọng tài đã đƣợc tuyên. Điều này giúp các bên yên tâm khi đƣa tranh
chấp ra giải quyết tại các trung tâm trọng tài. Một điểm đáng ghi nhận nữa
của Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại là: tại Điều 33 đã quy định rõ sự hỗ trợ
của Tòa án đối với trọng tài bằng việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời. Những biện pháp khẩn cấp tạm thời đƣợc đƣa ra giúp cho quá trình xét
xử và thi hành phán quyết của trọng tài đƣợc thuận lợi hơn rất nhiều và các
bên cũng có thể đảm bảo đƣợc lợi ích trực tiếp của mình không bị xâm hại
hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài
cũng đƣợc quy định tại Điều 26 trong trƣờng hợp các bên tự thành lập Hội
đồng trọng tài (trọng tài Ad-hoc) Tòa án sẽ chỉ định trọng tài viên giúp cho
các bên nếu nhƣ các bên không thống nhất đƣợc việc chọn trọng tài viên hoặc
khi một bên cố tình không chọn trọng tài viên trong thời hạn quy định.
Nhƣ vậy, Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại 2003 đã khắc phục đƣợc hầu
hết các nhƣợc điểm và bất cập của các văn bản pháp lý trƣớc đó về trọng tài,
giúp cho việc xét xử của trọng tài từ đó về sau đƣợc thuận lợi hơn và tạo đƣợc
sự yên tâm của các bên khi chọn trọng tài làm cơ quan xét xử tranh chấp.
Tiếp đó, căn cứ theo quy định của Pháp lệnh, Trung tâm đã ban hành
Quy tắc tố tụng trọng tài có hiệu lực từ ngày 01/07/2004 (Quy tắc 2004). Bên
cạnh đó, Trung tâm vẫn đồng thời giữ lại Quy tắc 1993 và Quy tắc 1996 để
giải quyết các vụ tranh chấp có thỏa thuận trọng tài ký trƣớc ngày Pháp lệnh
có hiệu lực.
So với các bản Quy tắc 1993 và Quy tắc 1996 vốn đƣợc xây dựng trong
thời điểm hệ thống pháp luật về trọng tài của Việt Nam còn có nhiều bất cập
và thiếu đồng bộ. Quy tắc 2004 đã khắc phục đƣợc những thiếu sót, bất cập
cơ bản trong các Quy tắc 1993 và Quy tắc 1996. Bên cạnh những quy định
còn phù hợp trong Quy tắc 1993 và Quy tắc 1996, Quy tắc 2004 có những
điểm mới và ƣu điểm sau:
Thứ nhất, về tổng thể, Quy tắc 2004 đã đáp ứng và thể hiện đƣợc các
tiêu chí cơ bản của Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại, Pháp luật và tập quán
trọng tài quốc tế hiện đại.
Thứ hai, áp dụng thuận tiện, Quy tắc đƣợc áp dụng chung để giải quyết
cả các vụ tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài và tranh chấp trong nƣớc.
Thứ ba, các thủ tục tố tụng đƣợc quy định chi tiết nhƣng rõ ràng và
không phức tạp, đảm bảo tính đồng bộ, công khai và công bằng về quyền và
nghĩa vụ của các bên.
Thứ tƣ, tôn trọng tối đa ý chí tự do thỏa thuận của các bên. Các bên
đƣợc tự do thỏa thuận nhiều vấn đề liên quan tới tố tụng nhƣ thời gian, ngôn
ngữ, địa điểm, luật áp dụng...
Bên cạnh những điểm mới cơ bản trên, Quy tắc 2004 còn có một số quy
định cụ thể, chi tiết cho quá trình tố tụng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các bên.
Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại và Quy tắc 2004 đã tạo ra một khung
pháp lý thuận tiện cho hoạt động của Trung tâm. Bên cạnh đó, Trung tâm
cũng có thêm nhiều thuận lợi nhƣ các doanh nghiệp biết đến phƣơng thức giải
quyết tranh chấp này ngày càng nhiều, đặc biệt khi chúng ta tham gia sâu hơn
vào xu hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế, đội ngũ trọng tài viên sau một thời
gian làm việc và học hỏi đã tích lũy đƣợc nhiều kiến thức chuyên sâu và kinh
nghiệm thực tiễn, tiếp tục nhận đƣợc sự hỗ trợ của Phòng Thƣơng mại và
Công nghiệp Việt Nam...
Nhờ những điều kiện thuận lợi trên mà hoạt động của VIAC từ 2003
trở lại đây đã đạt đƣợc một số kết quả nhƣ sau:
Bảng 3: Số vụ tranh chấp đƣa ra VIAC trong giai đoạn 2003-2006
Năm chấp chấp
Số vụ tranh chấp
lệ lệ lệ
Tăng so với năm trƣớc Tỷ Số (%) vụ Tranh trong nƣớc Tỷ Số (%) vụ Tranh quốc tế Số vụ Tỷ (%)
2003 16 - - 2 12,50 14 87,50
2004 32 16 100 6 18,75 26 81,25
2005 24 - 8 25 2 8,33 22 91,67
28 - - - - - - 9 tháng đầu năm 2006
(Nguồn: Sổ theo dõi các vụ kiện của VIAC)
Từ 2003 đến nay, trung bình mỗi năm Trung tâm giải quyết 27 vụ. Đặc
biệt, năm 2004 số vụ kiện đến VIAC là 32, tăng 100% so với năm 2003. Chín
tháng đầu năm nay (2006), Trung tâm tiếp nhận 28 vụ, là một kết quả khá khả
quan. Đây là một điều đáng mừng đối với VIAC. Con số này đã thể hiện ngày
càng rõ ràng rằng vị trí của VIAC đối với các bên đƣơng sự khi chọn trọng tài
giải quyết tranh chấp ngày càng đƣợc nâng cao. Trong tổng số các vụ đƣa ra
giải quyết tại VIAC, số vụ tranh chấp quốc tế vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Việc giải quyết các vụ đƣợc đƣa ra VIAC nhƣ sau:
Bảng 4: Tình hình giải quyết các vụ án đƣa ra VIAC giai đoạn
2003-2006
Không đủ Xét xử ra Hòa giải Rút đơn kiện điều kiện thụ phán quyết Tổng lý hồ sơ Năm số vụ Lƣợng Tỷ lệ Lƣợng Tỷ lệ Lƣợng Tỷ lệ
(%) (%) (%)
Lƣợng Tỷ lệ (%)
68.75 16 11 6.25 2 12.50 2 12.50 2003 1
56.25 32 18 6.25 5 15.63 7 21.88 2004 2
66.67 24 16 4.17 1 4.17 6 25.00 2005 1
28 21 75.00 3.57 3 10.71 3 10.71 1
100 66 66.00 5.00 11 11.00 18 18.00 9 tháng đầu năm 2006 Tổng 5
(Nguồn: Sổ theo dõi các vụ kiện của VIAC)
Từ đầu năm 2003 đến hết 9 tháng đầu năm 2006 tổng số vụ tranh chấp
đƣa ra giải quyết tại Trung tâm là 100. Trong đó, số vụ đƣa ra phán quyết cuối
cùng đạt 66% (66 vụ), số vụ hòa giải chiếm 5% (5 vụ), số vụ rút đơn kiện
chiếm 11% (11 vụ) và số vụ không đủ điều kiện thụ lý chiếm 18% (18 vụ).
Nhìn chung, các phán quyết của trọng tài ở Trung tâm đƣợc đánh giá là
có chất lƣợng cao, bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các
bên không phân biệt quốc tịch, thành phần kinh tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số
vụ chƣa đƣợc xét xử kịp thời, một vài vụ khác phải đƣa ra phán quyết sửa đổi,
bổ sung.
Một thách thức lớn của Trung tâm hiện nay là sự cạnh tranh của các tổ
chức trọng tài nƣớc ngoài, hoạt động rộng khắp trên thế giới. Các nƣớc, lãnh
thổ trong khu vực nhƣ Đài Loan, Trung Quốc, Sigapore, Thái Lan, Mỹ, Anh
Thụy Điển, ... đều có các tổ chức trọng tài lớn về quy mô tổ chức cũng nhƣ cơ
sở vật chất với uy tín cao và kinh nghiệm đi trƣớc chúng ta hàng chục năm
luôn muốn mở rộng hoạt động đến các nƣớc khác. Họ đã tiến hành tiếp thị ở
Việt Nam dịch vụ của họ. Họ có thể xét xử bằng nhiều thứ tiếng và tiến hành
xét xử thông qua mạng Internet. VIAC luôn phải chuẩn bị để đƣơng đầu với
các đối thủ cạnh tranh trên thế giới để đến một lúc nào đó có thể xâm nhập
vào thị trƣờng "dịch vụ trọng tài quốc tế" chứ không chỉ là giải quyết các vụ
tranh chấp có ít nhất một bên đƣơng sự là Việt Nam.
Hơn nữa, dù đã nhận đƣợc sự giúp đỡ của Phòng Thƣơng mại và Công
nghiệp Việt Nam về cả nguồn nhân lực và cơ sở vật chất nhƣng những điều
kiện cần thiết để trở thành một Trung tâm trọng tài mang tầm quốc tế thì
Trung tâm còn thiếu rất nhiều. Những trọng tài viên có kiến thức sâu rộng, có
kinh nghiệm lâu năm đã nhiều tuổi, cần đào tạo thêm đội ngũ mới đảm bảo
chất lƣợng, đông đảo hơn nhằm tránh tụt hậu so với khu vực và thế giới.
CHƢƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH
QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI TRONG THỜI GIAN TỚI
I. DỰ BÁO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI
1. Các nhân tố ảnh hƣởng tới sự phát triển của trọng tài ở Việt Nam
1.1. Nhân tố truyền thống văn hóa
Văn hóa Châu Á nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng đều coi
trọng hòa giải khi xảy ra tranh chấp bởi ngƣời Việt Nam vốn có truyền thống
dĩ hòa vi quý, không bao giờ muốn làm mất lòng đối tác kinh doanh. Điều này
hoàn toàn khác với những ngƣời Châu Âu luôn coi trọng khía cạnh pháp luật
trong kinh doanh và ít coi trọng cái “tình” trong các mối quan hệ xã hội.
Chính vì vậy, ngƣời Châu Á rất hiếm khi kiện nhau ra tòa, thƣờng thì họ tìm
cách giải quyết các tranh chấp xảy ra thông qua các biện pháp nhƣ thƣơng
lƣợng, hòa giải hay trọng tài trong những năm gần đây.
Trọng tài thƣơng mại Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ trong
giai đoạn gần đây. Là một nƣớc Châu Á, Việt Nam có nhiều điểm tƣơng đồng
với các nƣớc Châu Á khác, đặc biệt các nƣớc ASEAN có truyền thống giải
quyết các tranh chấp bằng hòa giải. Từ trƣớc tới nay, ở các nƣớc Châu Á, việc
sử dụng phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thƣơng mại chƣa
phổ biến. Đối với tranh chấp trong nƣớc, biện pháp thông thƣờng mà các
thƣơng nhân tìm đến nhiều nhất là thƣơng lƣợng trực tiếp hoậc hòa giải hay
trung gian. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do thƣơng mại quốc tế phát
triển mạnh mẽ khiến nhu cầu sử dụng trọng tài ngày càng tăng. Do đó, dù
truyền thống hòa giải đã ăn sâu và tác động nhiều đến thói quen của các
thƣơng nhân, nhƣng, nhận thấy đƣợc những ƣu điểm của phƣơng thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài nên các doanh nghiệp sẽ sử dụng phƣơng thức
này ngày một nhiều hơn.
Truyền thống hòa giải của ngƣời Á Đông ít nhiều ảnh hƣởng tới quá
trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài. Hòa giải trƣớc khi xét xử hoặc trƣớc
khi đƣa ra phán quyết trong thủ tục trọng tài là điều các trung tâm trọng tài
Châu Á nói chung và các trung tâm trọng tài Việt Nam nói riêng rất chú
trọng. Việc hòa giải trong quá trình xét xử trọng tài giúp các bên tiết kiệm chi
phí, bảo mật đƣợc thông tin kinh doanh, giữ gìn mối quan hệ hữu hảo của các
bên, đồng thời tìm ra hƣớng để các bên tự nguyện thực hiện những nghĩa vụ
và trách nhiệm của mình.
1.2. Nhân tố lịch sử
Do Việt Nam có một thời gian dài thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung với đặc thù là Nhà nƣớc can thiệp vào hầu hết các hoạt động kinh tế
nên trọng tài ở Việt Nam cũng bị ảnh hƣởng bởi nhân tố lịch sử này.
Trƣớc kia trong thời bao cấp khi nghe thấy "trọng tài" là các doanh
nghiệp rất e ngại bởi trọng tài lúc đó là cơ quan của nhà nƣớc giám sát việc
thực hiện các hợp đồng kinh tế.
Xét về mặt lịch sử, trọng tài nhà nƣớc xuất hiện và phát triển cùng với
sự phát triển của chế độ hợp đồng kinh tế. Năm 1960, Thủ tƣớng Chính phủ
ban hành Nghị định số 04/TTg (04/01/1960) quy định điều lệ tạm thời về hợp
đồng kinh tế. Mƣời ngày sau đó, ngày 14/01/1960, trọng tài nhà nƣớc ra đời
trên cơ sở Nghị định số 20/TTg. Tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của trọng
tài nhà nƣớc đƣợc hoàn thiện dần. Đỉnh điểm của sự phát triển Trọng tài kinh
tế Nhà nƣớc ở Việt Nam là việc thành lập cơ quan Trọng tài kinh tế Nhà nƣớc
theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ban hành ngày 10/01/1990. Theo Điều 2 của
Pháp lệnh này thì Trọng tài kinh tế có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế
- Kiểm tra, kết luận và xử lý các hợp đồng kinh tế trái pháp luật
- Tuyên truyền, hƣớng dẫn thực hiện pháp luật hợp đồng kinh tế và
trọng tài kinh tế
- Bồi dƣỡng nghiệp vụ công tác hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế
- Trọng tài kinh tế có thể đƣợc giao nhiệm vụ và quyền hạn khác khi
cần thiết
Nhƣ vậy ta thấy rõ ràng là Trọng tài kinh tế Nhà nƣớc có thẩm quyền
đƣơng nhiên trong việc kiểm tra việc ký kết và thực hiện hợp đồng của các
doanh nghiệp. Chính xuất phát từ địa vị pháp lý đặc biệt nhƣ vậy mà trong thủ
tục xét xử tranh chấp hợp đồng kinh tế và thủ tục xử lý vi phạm pháp luật hợp
đồng kinh tế của trọng tài kinh tế nhà nƣớc là sự đan xen giữa tố tụng tƣ pháp
với thủ tục hành chính. Mặc dù trong Pháp lệnh trọng tài kinh tế ngày
10/01/1990 cũng quy định những nguyên tắc cơ bản của tố tụng trọng tài nhƣ:
khi giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật hoạt động
kinh tế, trọng tài viên độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; các bên tranh chấp
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng trọng tài kinh tế, có quyền tự
mình hoặc thông qua đại diện hoặc nhờ luật sƣ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bằng tranh luận và biện minh trƣớc trọng tài; ghi nhận quyền
thỏa thuận lựa chọn tổ chức trọng tài giải quyết của các bên đƣơng sự trong
phạm vi nhất định... Nhƣng hoạt động của trọng tài kinh tế nhà nƣớc trong
suốt thời gian tồn tại của mình vẫn mang tính hình thức, chƣa có bề rộng cũng
nhƣ chiều sâu, mang tính mệnh lệnh hành chính của cơ quan nhà nƣớc. Điều
này đã gây tâm lý e ngại cơ quan này trong suốt một thời gian dài. Chính vì
vậy mà kể cả khi Trọng tài kinh tế nhà nƣớc bị giải thể vào tháng 7 năm 1994
và chức năng của nó đƣợc chuyển giao cho Tòa án kinh tế và trọng tài phi
chính phủ thì rất nhiều doanh nghiệp vẫn chƣa hiểu rõ vai trò và lợi ích của
trọng tài phi chính phủ hiện nay. Họ vẫn còn bị ám ảnh bởi sự nhũng nhiễu và
phiền hà của Trọng tài kinh tế Nhà nƣớc trƣớc đây.
Hệ thống pháp luật của chúng ta một thời gian dài còn khá nhiều bất
cập, vừa thiếu lại không đồng bộ do chúng ta thiếu quan tâm đến việc xây
dựng hệ thống pháp luật trong những năm dài chiến tranh. Tƣ duy và cơ chế
tập trung bao cấp vẫn còn ảnh hƣởng rất nặng nề đến hoạt động của các cơ
quan công quyền và thực thi pháp luật. Chính vì vậy mà việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài phi chính phủ ở nƣớc ta chƣa phát huy đƣợc hiệu quả và
tạo lập đƣợc uy tín trong giới doanh nhân trong và ngoài nƣớc.
1.3. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và ảnh hưởng sau khi Việt Nam gia
nhập WTO
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, không một quốc gia
nào có thể đứng ngoài xu thế đó. Tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế sẽ giúp các nƣớc có điều kiện tốt nhất để phát triển nền kinh tế của
mình. Điều này càng đúng hơn với các nƣớc đang phát triển, trong đó có Việt
Nam. Đối với các nƣớc đang phát triển, hội nhập là con đƣờng ngắn nhất và
hiệu quả nhất để phát triển kinh tế đất nƣớc, phát huy những lợi thế so sánh
vốn có của mình, tránh tụt hậu so với những nƣớc khác có lịch sử phát triển
lâu đời.
Trong quá trình tích cực tham gia vào hội nhập kinh tế, chúng ta đã đạt
đƣợc nhiều thành tựu đáng mừng. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ thƣơng
mại với gần 200 quốc gia và vùng, lãnh thổ, trở thành thành viên của ASEAN,
APEC, ASEM, ... thu hút đƣợc nhiều vốn đầu tƣ nƣớc ngoài dƣới cả hình
thức trực tiếp và gián tiếp. Đặc biệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt Nam đã có những bƣớc chuyển đổi đáng khích lệ. Và những cố gắng của
Việt Nam đã đã đƣợc đền đáp, ngày 7/10/2006 vừa qua, Việt Nam đã chính
thức đƣợc kết nạp vào tổ chức kinh tế lớn nhất toàn cầu - WTO.
Thƣơng mại ngày càng phát triển, tranh chấp xảy ra trong kinh doanh
và hoạt động thƣơng mại càng nhiều hơn. Với mong muốn quá trình kinh
doanh thông suốt, thuận lợi, giải quyết nhanh chóng những vấn đề tranh chấp
xảy ra đồng thời nhận thức đƣợc những ƣu điểm của phƣơng thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài. Do đó, chắc chắn trong thời gian tời nhu cầu sử
dụng "dịch vụ trọng tài" của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ rất lớn. Đây là
một điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự phát triển của VIAC cũng nhƣ các
trung tâm trọng tài khác trong cả nƣớc.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI
1. Nhóm kiến nghị đối với các tổ chức trọng tài thƣơng mại
Nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp là vấn đề sống còn
đối với các trung tâm trọng tài. Thật vậy, mặc dù nhu cầu giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài ngày càng nhiều nhƣng cũng không thể tránh khỏi sẽ ngày
càng nhiều trung tâm trọng tài mới sẽ đƣợc ra đời, đó là còn chƣa kể đến sự
"xâm nhập thị trƣờng" của các trung tâm trọng tài nƣớc ngoài. Do đó, sự cạnh
tranh giữa các trung tâm sẽ ngày càng gay gắt để có thể tạo đƣợc niềm tin đối
với các doanh nghiệp, xây dựng đƣợc thƣơng hiệu của chính mình. Chỉ có
nhƣ vậy, các bên đƣơng sự với quyền tự do lựa chọn của mình mới tìm đến
một trung tâm cụ thể nào đó.
Là một trung tâm đã tạo dựng đƣợc hình ảnh trong giới doanh nhân,
đồng thời có nhiều lợi thế hơn hẳn so với các trung tâm khác, VIAC cũng
phải không ngừng nâng cao chất lƣợng giải quyết tranh chấp của mình để có
thế giữ vững và nâng cao hơn nữa vị thế hiện nay của mình.
Để đảm bảo không ngừng nâng cao năng lực và uy tín của mình, VIAC
và các trung tâm trọng tài khác cần tập trung chủ yếu vào những điểm sau:
1.1 Chú trọng hơn nữa tới số lượng và chất lượng trọng tài viên
Là tổ chức phi chính phủ, các trung tâm trọng tài không đƣợc nhà nƣớc
bao cấp, giám sát sự thành công hay thất bại của mỗi trung tâm, cả về lợi
nhuận và các lợi ích khác. Điều này vừa có mặt lợi, vừa có mặt hạn chế. Hạn
chế ở chỗ trung tâm sẽ thiếu đi một phần hỗ trợ vô cùng to lớn, nhƣng ngƣợc
lại, các trung tâm lại có đƣợc quyền chủ động trong hoạt động của mình. Các
trung tâm cần phát huy ƣu điểm này. Muốn vậy, các trung tâm cần có nội lực
mạnh mẽ, mà nhân tố quyết định đến nội lực của các trung tâm trọng tài chính
là đội ngũ trọng tài viên của mỗi trung tâm. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ
và tƣ cách đạo đức của các trọng tài viên có vai trò quyết định đến phán quyết
trọng tài và sự phục tùng của các bên với phán quyết trọng tài đƣợc tuyên.
Các trung tâm cần chú ý đến ý kiến và nhu cầu của khách hàng để chọn
đƣợc những trọng tài viên có uy tín, phù hợp với yêu cầu của các doanh
nghiệp về làm việc cho mình.
Mặc dù phải chú trọng vào cả chất lƣợng và số lƣợng trọng tài viên
nhƣng vấn đề đặt lên hàng đầu vẫn phải là chất lƣợng các trọng tài viên. Các
trọng tài cần tạo điều kiện thuận lợi cho các trọng tài viên hiện có tích lũy
kinh nghiệm, trao đổi thông tin, bồi dƣỡng nghiệp vụ bằng các hình thức thích
hợp; đồng thời tìm kiếm thêm những ngƣời đạt yêu cầu để mời làm trọng tài
viên cho trung tâm.
Các trung tâm cần phải chuẩn bị cả về điều kiện vật chất và trình độ
pháp lý để tiến hành mở rộng nguồn trọng tài viên trong tƣơng lai gần. Các
trung tâm nên lựa chọn cả những chuyên gia nƣớc ngoài làm trọng tài viên
hoặc tƣ vấn cho trung tâm. Đây là một trong những biện pháp hữu hiệu giúp
các trung tâm tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm của nƣớc ngoài trong hoạt
động giải quyết tranh chấp, nâng cao chất lƣợng đội ngũ trọng tài viên. Mặt
khác, có nhƣ vậy các trung tâm mới có thể vƣơn ra thị trƣờng trọng tài quốc
tế.
Đối với VIAC, đội ngũ trọng tài viên của trung tâm hiện nay đang ở vị
trí hàng đầu. Hơn nữa, Quy chế bốn năm tổ chức bầu lại trọng tài viên 1 lần là
hợp lý, tạo điều kiện cho trung tâm duy trì, củng cố và tăng cƣờng chất lƣợng
trọng tài viên. Tuy nhiên, để phát huy những gì đã có, trung tâm cũng không
đƣợc lơ là công tác nâng cao chất lƣợng đội ngũ trọng tài viên.
1.2 Nghiên cứu, xây dựng và kiện toàn bộ máy thường trực của các trung tâm
Các trung tâm nên xúc tiến việc nghiên cứu, xây dựng (đối với những
trung tâm chƣa có), kiện toàn (với những trung tâm đã có) Hội đồng nghiên
cứu khoa học pháp lý. Biến Hội đồng này trở thành bộ phận thƣờng trực, sẵn
sàng hỗ trợ, cung cấp thông tin tài liệu cho các Hội đồng trọng tài hoạt động
và các trọng tài viên... giúp họ có thể cho ra những phán quyết có chất lƣợng
cao.
Các trung tâm cần chuẩn bị nguồn nhân lực để mở rộng hoạt động của
mình trên khắp cả nƣớc. Đây không những là biện pháp mở rộng hoạt động
của các trung tâm mà nó còn giúp các trung tâm theo sát và hiểu rõ thực tế
kinh doanh tại địa bàn, nâng cao kiến thức thực tế của các trọng tài viên.
Các trung tâm cũng cần bố trí kinh phí hợp lý cho việc thiết lập trung
tâm thông tin, tủ sách trọng tài, chú trọng đầu tƣ cho việc cập nhật thông tin,
thiết lập mạng trao đổi thông tin nội bộ và với các cơ quan, tổ chức có liên
quan nhƣ Tòa án, Bộ Tƣ pháp, các trung tâm trọng tài khác... nhằm tăng
cƣờng hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tổ chức muốn tìm hiểu về các tổ chức
trọng tài và phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
1.3 Đẩy mạnh hợp tác trong nước và quốc tế trong lĩnh vực giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài
Lịch sử phát triển của trọng tài phi chính phủ ở Việt Nam chƣa dài,
trọng tài phi chính phủ của Việt Nam đang trong quá trình theo đuổi mặt bằng
chung của trọng tài trên thế giới. Chính vì vậy, việc tăng cƣờng hợp tác quốc
tế để học hỏi kinh nghiệm, trao đổi thông tin là hết sức cần thiết. Các trung
tâm nên tích cực tham gia và tổ chức các cuộc hội thảo với sự tham gia của
các nhà luật học, các nhà kinh tế học, các doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc.
Tích cực thiết lập quan hệ hợp tác trao đổi thông tin với các trung tâm trọng
tài trong và ngoài nƣớc. Tổ chức các cuộc tham quan lẫn nhau giữa các trung
tâm trọng tài trong và ngoài nƣớc. Thƣờng xuyên mời các chuyên gia, các luật
sƣ nổi tiếng trên thế giới tƣ vấn, hỗ trợ cho các trung tâm trong quá trình hoạt
động đặc biệt là trong công tác giải quyết tranh chấp.
1.4 Đa dạng hóa các dịch vụ tư vấn của các tổ chức trọng tài
Các trung tâm trọng tài trong quá trình giải quyết các tranh chấp trở
thành cầu nối giữa các quy định pháp luật và quá trình thực hiện pháp luật ở
các doanh nghiệp. Các trung tâm trọng tài giúp cho các doanh nghiệp hiểu
hơn về các quy định của nhà nƣớc. Các trung tâm cũng thực hiện vai trò đƣa
ra những quyết định phù hợp với thực tế cũng nhƣ tham gia vào các Hiệp
định, các Công ƣớc quốc tế phù hợp với điều kiện Việt Nam và tập quán quốc
tế ... góp phần hoàn thiện hơn môi trƣờng pháp lý của Việt Nam hiện nay.
Việc đa dạng hóa các dịch vụ tƣ vấn nên tận dụng trình độ chuyên môn
và kinh nghiệm của đội ngũ trọng tài viên trong tất cả các lĩnh vực thƣơng
mại, hàng hải, đầu tƣ, bảo hiểm... giúp doanh nghiệp tránh đƣợc những rủi ro
pháp lý khi ký kết hợp đồng nhất là trong điều kiện trình độ hiểu biết pháp
luật và tập quán kinh doanh của các cán bộ kinh doanh của ta còn nhiều hạn
chế. Dịch vụ tƣ vấn mặt khác giúp cho các trung tâm tiếp cận đƣợc thực tế
kinh doanh của các doanh nghiệp, lắng nghe những tâm tƣ nguyện vọng của
họ để có hƣớng đáp ứng kịp thời và đầy đủ.
Bên cạnh đó các trung tâm cần tăng cƣờng công tác tuyên truyền,
quảng cáo về trung tâm, kèm theo những hƣớng dẫn cụ thể để giúp doanh
nghiệp có thể chọn đƣợc cách giải quyết tranh chấp hiệu quả nhất và tránh
đƣợc sự không rõ ràng, không thống nhất về điều khoản trọng tài cũng nhƣ
điều khoản về tranh chấp nói chung trong hợp đồng.
2. Nhóm kiến nghị khác
2.1 Kiến nghị đối với nhà nước
2.1.1 Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động trọng tài
Các trung tâm trọng tài ở nƣớc ta hiện nay điều là các trung tâm trọng
tài phi chính phủ. Tuy nhiên, trọng tài phi chính phủ không có nghĩa là nhà
nƣớc sẽ không tiến hành quản lý hoạt động của những trung tâm này.
Sự can thiệp của nhà nƣớc trong quá trình trọng tài đƣợc tranh luận và
tiếp cận khác nhau ở những hệ thống pháp luật khác nhau. Nhìn chung, nhà
nƣớc cần phải đóng một vai trò nhất định trong quá trình trọng tài. Vấn đề là
nhà nƣớc tác động đến đâu, tác động đó cuối cùng ảnh hƣởng tốt hay xấu tới
quá trình trọng tài. Tác động đó là tích cực nếu nhà nƣớc quan tâm tới kết quả
và can thiệp khi cần thiết nhằm giúp các bên tham gia trọng tài đạt đƣợc mục
đích của mình trên cơ sở tôn trọng công lý, công bằng và khách quan. Ngƣợc
lại, sẽ là tác động không tốt nếu nhà nƣớc đƣa ra những quy định chỉ quan
tâm tới lợi ích chung mà không quan tâm tới lợi ích các bên, hay chỉ quan tâm
đến lợi ích của một bên nào đấy.
Trong một chừng mực nào đấy, sự giám sát của nhà nƣớc đối với hoạt
động trọng tài là cần thiết. Sự giám sát này nhằm mục đích hỗ trợ chứ không
phải để can thiệp, khống chế trọng tài. Vai trò của nhà nƣớc là đảm bảo hài
hòa giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa lợi ích của các bên.
Chức năng cơ bản của nhà nƣớc trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp là
tạo nên một hệ thống pháp luật thống nhất và năng động nhằm bảo vệ một
cách bình đẳng các quyền thƣơng mại của các bên tham gia trọng tài và
khuyến khích họ tự tìm giải pháp giải quyết tranh chấp của họ trên cơ sở thiện
chí và không vi phạm pháp luật, chính sách công cộng. Vấn đề đặt ra đối với
nƣớc ta hiện nay là làm thế nào để tăng cƣờng hiệu quả quản lý của nhà nƣớc,
nhà nƣớc nên quản lý trọng tài đến đâu và nhƣ thế nào.
Vai trò của nhà nƣớc càng trở nên quan trọng hơn trong trƣờng hợp có
đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài hoặc trƣờng hợp cho phép tiến hành thủ
tục thi hành cƣỡng chế quyết định trọng tài.
2.1.2 Bổ sung, sửa đổi một số quy định trong Pháp lệnh trọng tài Thƣơng mại
năm 2003
Nhà nƣớc thực hiện quản lý với các trung tâm trọng tài hiện nay thông
qua các quy định pháp luật hay thông qua các tác động khác nhƣ tham gia các
Công ƣớc Quốc tế, Điều ƣớc Quốc tế, đào tạo, hỗ trợ kinh phí và cơ sở vật chất
trong một chừng mực nào đấy... Các quy định của nhà nƣớc nói chung có thể tác
động theo hai hƣớng tích cực và tiêu cực đến hiệu quả giải quyết tranh chấp.
Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003 (ngoài ra VIAC còn có thêm Quy tắc
2004) đã bổ sung, hoàn thiện dần những bất cập, thiếu sót và chồng chéo trong
những quy định trƣớc kia về trọng tài. Tuy nhiên trong Pháp lệnh trọng tài
Thƣơng mại 2003 vẫn còn một số điểm phải đƣợc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện
hơn nữa:
Thứ nhất, Pháp lệnh cần có thêm quy định về những tranh chấp không
đƣợc xét xử bằng trọng tài. Không phải hầu hết các tranh chấp trong thƣơng
mại đều nên và/hoặc có thể giải quyết bằng trọng tài. Có thể thấy rằng, hầu
hết các nƣớc đều bảo lƣu một số loại tranh chấp liên quan đến quyền con
ngƣời, tình trạng cá nhân, phá sản, phát minh, nhãn hiệu hàng hóa... Không
đƣợc phép giải quyết bằng trọng tài. Nguyên nhân là các tranh chấp nói trên
không chỉ liên quan đến quyền lợi của các bên trong tranh chấp mà còn liên
quan đến lợi ích của bên thứ ba hoặc lợi ích công cộng. Việc xét xử bằng
trọng tài các tranh chấp nói trên dễ dẫn đến tình trạng vi phạm quyền lợi của
bên thứ ba hoặc lợi ích công cộng. Nhà nƣớc thƣờng dành cho mình độc
quyền giải quyết những tranh chấp trên.
Thứ hai, việc quy định tranh chấp giữa các bên Việt Nam phải giải
quyết bằng pháp luật Việt Nam là không hợp lý (Khoản 1 Điều 7). Chúng ta
đều biết rằng hệ thống pháp luật của chúng ta cho đến nay vẫn chƣa hoàn
thiện, có nhiều vấn đề còn chƣa đề cập đến. Vậy khi trong vụ tranh chấp xảy
ra có những vấn đề mà pháp luật chƣa đề cập đến thì phải giải quyết ra sao,
hay cả trong trƣờng hợp phải áp dụng tập quán quốc tế chứ không phải luật
pháp của bất cứ nƣớc nào.
Thứ tƣ, cần đƣa ra khái niệm rõ ràng về phán quyết của trọng tài nƣớc
ngoài. Căn cứ để xác định một phán quyết là phán quyết trọng tài nƣớc ngoài
là trụ sở của trọng tài hay nơi trọng tài ra phán quyết. Điều này là rất quan
trọng đối với việc công nhận và thi hành phán quyết.
Thứ năm, cần có quy định rõ ràng, cụ thể về công nhận và đảm bảo
hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Hiện nay, trong Pháp lệnh trọng tài Thƣơng
mại mới chỉ có quy định rằng Tòa án phải khƣớc từ việc thụ lý vụ tranh chấp
đã có thỏa thuận trọng tài. Nhƣ vậy là chƣa đầy đủ và chặt chẽ. Hơn nữa,
Pháp lệnh cũng chƣa quy định các bên buộc phải tham gia vào quá trình trọng
tài nếu nhƣ thỏa thuận hai bên là nhƣ vậy (đƣơng nhiên phải sau quá trình
thƣơng lƣợng trực tiếp và hòa giải nếu có thỏa thuận).
2.2 Kiến nghị đối với các doanh nghiệp - thương nhân
Hiện nay, phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng
đƣợc các doanh nghiệp Việt Nam ƣa chuộng bởi những đặc tính ƣu việt của
nó. Để doanh nghiệp Việt Nam bảo vệ đƣợc lợi ích chính đáng của mình đồng
thời nâng cao uy tín của các doanh nghiệp Việt Nam trên trƣờng quốc tế, các
doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý đến các vấn đề sau:
Thứ nhất, cần tìm hiểu kỹ về phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài để có cái nhìn đúng đắn nhất về phƣơng thức ƣu việt này chứ không
chỉ là nghe nói nó tốt, mọi ngƣời thƣờng dùng mà dùng theo xu thế. Từ đó các
doanh nghiệp vận dụng phƣơng thức để giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong quá trình hoạt động của mình: thảo ra thoả thuận trọng tài đầy đủ các
yếu tố để thuận lợi cho quá trình tố tụng sau này, tham gia tích cực vào quá
trình tố tụng trọng tài, tôn trọng và thi hành phán quyết trọng tài đã đƣợc
tuyên, rút kinh nghiệp cho những tranh chấp phát sinh sau này.
Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào một thoả thuận trọng
tài cần nắm rõ quy tắc tố tụng trọng tài đƣợc chọn. Khi đã nắm rõ quy tắc tố
tụng, doanh nghiệp Việt Nam sẽ tận dụng đƣợc các ƣu điểm của quá trình
trọng tài, hạn chế những nhƣợc điểm của quá trình này, đảm bảo tổ chức
trọng tài đƣợc chọn sẽ thụ lý vụ án, phán quyết của trọng tài đƣa ra có giá trị
thi hành... Điều này nhằm mục đích nếu tranh chấp xảy ra sẽ đƣợc giải quyết
một cách nhanh chóng, công bằng, bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp
Việt Nam.
Thứ ba, thực hiện nghiêm túc phán quyết của trọng tài đã đƣợc tuyên.
Thực tế cho thấy, khi ở vị trí nguyên đơn, các doanh nghiệp Việt Nam đón
nhận trọng tài một cách tích cực, họ tham gia đầy đủ các bƣớc tố tụng trọng
tài ngay cả khi trọng tài tiến hành ở nƣớc ngoài vì theo đuổi tố tụng trọng tài
là phù hợp với lợi ích của họ, có lợi cho họ. Còn trong trƣờng hợp họ ở vào vị
trí bị đơn thì họ thƣờng có các cách ứng xử sau:
- Nếu trọng tài tiến hành ở Việt Nam thì doanh nghịêp bị đơn còn theo
kiện do chi phí không quá cao.
- Nếu trọng tài tiến hành ở nƣớc ngoài, doanh nghiệp bị đơn Việt Nam
hầu nhƣ không có một động thái tích cực nào: họ không chỉ định trọng
tài viên, không đóng tạm ứng phí trọng tài, đôi khi chỉ gửi một vài văn
thƣ trả lời trọng tài còn nhìn chung không tham gia tố tụng, không gửi
luận cứ bào chữa cho mình, không đi dự phiên họp xét xử trọng tài và
khi phán quyết của trọng tài đƣợc đƣa ra thì họ không tự nguyện thi
hành.
Việc bị đơn không tham gia tố tụng trọng tài, không tự nguyện thực hiện
phán quyết của trọng tài cũng là điều dễ hiểu, điều này cũng xảy ra cả khi các
doanh nghiệp nƣớc ngoài là bị đơn. Đây là một tình huống hết sức tự nhiên và
bình thƣờng. Tuy nhiên, để thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các bên thì bản thân
bên nguyên cũng nhƣ bên bị phải nâng cao ý thức tự giác thực hiện các phán
quyết của trọng tài. Thực hiện tốt điều này sẽ giúp nâng cao hình ảnh tôn trọng
cam kết của các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời thể hiện tính nghiêm minh
của pháp luật Việt Nam, nhất là trong bối cảnh Việt Nam sắp ra nhập WTO.
KẾT LUẬN
Tranh chấp tồn tại một cách khách quan, nhu cầu về trọng tài thƣơng mại
là một tất yếu. Khi kinh tế ngày càng phát triển, trọng tài sẽ có nhiều cơ hội
hơn để phát triển. Trọng tài ở Việt Nam tuy còn non trẻ nhƣng đã có nhiều
bƣớc tiến đáng mừng. Các trung tâm cần phát huy hơn nữa những thuận lợi
đang có, vận dụng hết nội lực của mình để cung cấp cho các doanh nghiệp
dịch vụ trọng tài tốt nhất. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đem đến những thời cơ
và cả thách thức mới với tất cả các trung tâm trọng tài nói riêng, với tất cả các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam nói chung. Điều đó buộc các trung
tâm trọng tài phải có những bƣớc đi chiến lƣợc đúng đắn để có thể trụ vững
trong một môi trƣờng đầy tính cạnh tranh và năng động.
Với mong muốn tất cả các doanh nghiệp nhận thức đƣợc khái nệm cơ
bản nhất về phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, những đặc tính
ƣu việt của phƣơng thức giải quyết tranh chấp này so với đƣa ra giải quyết tại
Toà án. Đồng thời đƣa ra kiến nghị góp phần nâng cao chất lƣợng hoạt động
trọng tài đáp ứng kịp thời những nhu cầu mới đặt ra. Khoá luận đã cố gắng
đƣa vào những kiến thức cơ bản nhất về tranh chấp, các phƣơng thức giải
quyết tranh chấp thƣờng gặp, phƣơng thức tranh chấp đƣợc ƣa chuộng, đƣa ra
những nét khái quát nhất về hoạt động của các trung tâm trọng tài hiện nay
đặc biệt là tình hình hoạt động của VIAC và đƣa ra những kiến nghị từ góc độ
cá nhân.
Bản thân ngƣời viết mong muốn rằng khoá luận đã làm tốt nhiệm vụ và
mục đích ban đầu đã đặt ra. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một khóa luận,
bản thân ngƣời viết còn hạn chế về trình độ cũng nhƣ giới hạn về thời gian và
tài liệu nên khóa luận không thể tránh khỏi những sai sót và khía cạnh chƣa
đề cập đến... Bản thân ngƣời viết rất mong nhận đƣợc sự góp ý và phản hồi
của hội đồng và ngƣời đọc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Thông Anh, "Những điều cần biết về tố tụng trọng tài", Dân chủ
và pháp luật, số chuyên đề tháng 4/2005
2. Công ƣớc New York về công nhận và thi hành các phán quyết của
trọng tài nƣớc ngoài, Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
3. Công ƣớc Viên 1980 (Công ƣớc của Liên Hiệp Quốc về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế), Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
4. Phạm Liêm Chính, "Doanh nghiệp Việt Nam đón nhận trọng tài thƣơng
mại nhƣ thế nào trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới", Dân chủ và
pháp luật, số chuyên đề tháng 4/2005
5. Vũ Ánh Dƣơng, "Những điểm mới trong quy tắc tố tụng trọng tài năm
2004 của VIAC", Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 4/2005
6. Viên Thế Giang, "Giải quyết tranh chấp kinh doanh theo quy định của
Bộ luật tố tụng Dân sự 2004", Nhà nƣớc và Pháp luật, số 12/2005
7. Lê Thị Hồng Hạnh, "Khái niệm thƣơng mại trong pháp luật Việt Nam
và những bất cập dƣới góc độ thực tiễn áp dụng và chính sách hội
nhập", Tạp chí Luật học, số 11/2000
8. Dƣơng Văn Hậu, "Xu hƣớng phát triển văn hóa trọng tài thƣơng mại
quốc tế", Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 4/2005
9. Trần Hữu Huỳnh, "Một số điểm về phƣơng thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài", Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 4/2005
10. Trần Hữu Huỳnh, "Một số vấn đề về thỏa thuận trọng tài trong thƣơng
mại quốc tế", Tạp chí luật học, số 5/2000
11. Vũ Trần Khánh Linh, "Bàn về một vụ tranh chấp tại VIAC", Dân chủ
và pháp luật, số chuyên đề tháng 4/2005
12. Hoàng Thế Liên, "Giới thiệu khái quát về các phƣơng thức giải quyết
tranh chấp chủ yếu tại Việt Nam trong lĩnh vực thƣơng mại quốc tế và
đầu tƣ nƣớc ngoài", Kỷ yếu hội thảo Khoa học "Giải quyết tranh chấp
kinh tế có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam", NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2000
13. Đặng Thị Bích Liễu, Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đƣờng
trọng tài, NXB Chính trị Quốc gia, 1998
14. Luật thƣơng mại Việt Nam năm 1997, Pháp luật trong hoạt động kinh
tế đối ngoại, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
15. Luật thƣơng mại Việt Nam năm 2005, NXB Chính trị Quốc gia, 2006
16. Nguyễn Thị Hằng Nga, "Về thẩm quyền của trọng tài thƣơng mại và
những lƣu ý trong hoạt động thụ lý của các tranh chấp có trọng tài
thƣơng mại", Tạp chí luật học, số 7/2006
17. Nguyễn Khánh Ngọc, "Cơ chế của WTO về giải quyết tranh chấp
thƣơng mại", Dân chủ và Pháp Luật, số chuyên đề tháng 2/2005
18. GS.,TS. Nguyễn Thị Mơ, "Nhận dạng các loại hình tranh chấp trong
thƣơng mại quốc tế", Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 16/2006
19. Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài
nƣớc ngoài năm 1995, Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
20. Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại năm 2003, Pháp luật trong hoạt động
kinh tế đối ngoại, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
21. Nguyễn Thị Hoài Phƣơng, "Về các giải pháp thực hiện pháp luật điều
chỉnh quan hệ tố tụng trọng tài thƣơng mại", Nhà nƣớc và pháp luật, số
3/2006
22. Nguyễn Minh Quân, "Các quy định của WTO về thực thi pháp luật và
giải quyết khiếu kiện trong lĩnh vực thƣơng mại hàng hóa", Dân chủ và
pháp luật, số chuyên đề tháng 2/2005
23. Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ ngày 20 tháng 8 năm
1993 (Quy tắc 1993)
24. Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ ngày 15 tháng 4 năm
1996 (Quy tắc 1996)
25. Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm
2004 (Quy tắc 2004)
26. Bùi Ngọc Sơn, "Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh xuất nhập
khẩu ở các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển", Tạp chí Kinh tế
đối ngoại, số 3/2003
27. Hoàng Ngọc Thiết, Tranh chấp từ hợp đồng xuất nhập khẩu, án lệ trọng
tài và kinh nghiệm, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002
28. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam, 50 phán quyết Trọng tài Quốc
tế chọn lọc, Hà Nội, 2002
29. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam, Trọng tài và các phƣơng thức
giải quyết tranh chấp lựa chọn, Hà Nội, 2002
30. Nguyễn Thị Vân, "Tình hình hoạt động của trọng tài thƣơng mại ở Việt
Nam hơn một năm sau khi có Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại", Dân
chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 4/2005
31. Ngô Quang Vịnh, "Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại ngày 25/02/2003-
một bƣớc tiến xa so với Nghị định 116-CP năm 1994", Tạp chí Kinh tế
đối ngoại, số 5/2003
Các trang Web:
32. http://www.vnn.vn/kinhte/2003/6/15431/
33.http://www.kinhdoanh.com.vn/mtkd/So14/14_thaoluan03.htm12/2005
34. http://www.vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/2004/12/3B9D9478/
35.http://home.netnam.vn/live/FrontPage06/Doi-song/News-
page?contentId=9879
36.http://www.vietrade.gov.vn/news.asp?cate=81&article=11727&lang
=Viet Nam
37.http://www.ambhanoi.um.dk/vi/menu/Thongtinvechungtoi/tintuc/
BSPSArbitration.htm
38. http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=82&ItemID=25164
39.http://www.vietnamese-law-consultancy.com/vietnamese/content/
browse.php?action=shownews&category=&id=44&topicid=454
40. http://www.viac.org.vn/
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT ................................................................................ 4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRỌNG TÀI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI ............................................ 5
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH
QUỐC TẾ GIỮA CÁC THƢƠNG NHÂN ................................................. 5
1. KHÁI NIỆM VỀ THƢƠNG NHÂN ................................................. 5
2. TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI ....................................................... 6
3. TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC
TẾ...............................................8
4.TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ LÀ TRANH
CHẤP CHỦ YẾU LIÊN QUAN ĐẾN HỢT ĐỘNG CỦA CÁC
THƢƠNG NHÂN TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC
TẾ................................................................................................................
9
II. CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG
KINH DOANH QUỐC TẾ .................................................................. 11
1. CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG
KINH DOANH QUỐC TẾ THƢỜNG GẶP ...................................... 11
1.1. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG THƢƠNG LƢỢNG TRỰC
TIẾP GIỮA CÁC BÊN .................................................................... 12
1.2. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUA KHÂU TRUNG GIAN ....... 13
1.3. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ
BẰNG HÒA GIẢI ............................................................................ 13
1.4. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ
BẰNG TÒA ÁN ............................................................................... 15
1.5. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ
BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI .................................................. 17
III. TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI – PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ ĐƢỢC ƢA
CHUỘNG ................................................................................................. 17
1. KHÁI NIỆM VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI ........................... 17
2. THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI ... 18
3. CÁC LOẠI TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI .................................... 21
3.1 TRỌNG TÀI AD-
HOC...........................................................................20
3.2 TRỌNG TÀI QUY CHẾ (HAY TRỌNG TÀI THƢỜNG
TRỰC................................22
4. NHỮNG ƢU VIỆT CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI ............... 28
4.1. TÍNH CHUNG THẨM VÀ HIỆU LỰC CỦA PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI .................................................................................... 27
4.2. TÍNH BÍ MẬT TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP .............. 28
4.3 TÍNH LINH HOẠT TRONG GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP..................................29
4.4 TÍNH LIÊN TỤC CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG
TRỌNG TÀI.........35
4.5 TIẾT KIỆM THỜI
GIAN........................................................................35
4.6 GIÚP CÁC BÊN DUY TRÌ ĐƢỢC MỐI QUAN
HỆ........................................35
4.7 TẬN DỤNG ĐƢỢC KINH NGHIỆM CỦA CÁC CHUYÊN
GIA..........................35
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH
DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM ........................................... 38
I. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH
QUỐC TẾ THÔNG QUA CÁC TỔ CHỨC TRỌNG TÀI ....................... 38
1. MỘT SỐ NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TRUNG TÂM
TRỌNG TÀI PHI CHÍNH PHỦ ......................................................... 38
2. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH
DOANH QUỐC TẾ TẠI CÁC TRUNG TÂM TRỌNG TÀI PHI
CHÍNH PHỦ Ở VIỆT NAM ............................................................... 42
II. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH
DOANH QUỐC TẾ TẠI TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ BÊN
CẠNH PHÒNG THƢƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM. ....... 43
1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIAC....................... 43
2. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI VIAC ............... 51
2.1 TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI VIAC TỪ 2002
TRỞ VỀ TRƢỚC ............................................................................. 52
2.2 TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH
DOANH QUỐC TẾ TẠI TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT
NAM BÊN CẠNH PHÒNG THƢƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM TỪ 2003 ĐẾN NAY....................................................... 59
CHƢƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI
TRONG THỜI GIAN TỚI............................................................................................ 65
I. DỰ BÁO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ................................................ 65
1. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM ............................................................... 65
1.1. NHÂN TỐ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA .................................. 65
1.2. NHÂN TỐ LỊCH SỬ ................................................................. 66
1.3. XU THẾ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ ẢNH HƢỞNG
SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO ........................................... 68
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG
TRỌNG TÀI ............................................................................................. 69
1. NHÓM KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TRỌNG TÀI ... 69
1.1 CHÚ TRỌNG HƠN NỮA TỚI SỐ LƢỢNG VÀ CHẤT LƢỢNG
TRỌNG TÀI VIÊN .......................................................................... 70
1.2 NGHIÊN CỨU, XÂY DỰNG VÀ KIỆN TOÀN BỘ MÁY THƢỜNG
TRỰC CỦA CÁC TRUNG TÂM ....................................................... 71
1.3 ĐẨY MẠNH HỢP TÁC TRONG NƢỚC VÀ QUỐC TẾ TRONG
LĨNH VỰC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI ........ 72
1.4 ĐA DẠNG HÓA CÁC DỊCH VỤ TƢ VẤN CỦA CÁC TRUNG
TÂM TRỌNG TÀI ........................................................................... 72
2. NHÓM KIẾN NGHỊ KHÁC ........................................................... 73
2.1 KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƢỚC .......................................... 73
2.2 KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP - THƢƠNG
NHÂN ............................................................................................. 76